Truyện
thơ
DANH
NHÂN LỊCH SỬ VIỆT,
tập một
------
LỜI TÁC GIẢ
Tập thơ nhỏ này gồm những truyện thơ ngắn
tóm lược về cuộc đời và sự nghiệp những vị vua và những nhân vật nổi tiếng
trong lịch sử nước Việt.
Tác giả cố trình bày một cách ngắn gọn, dễ
hiểu và dễ nhớ theo lối diễn ca, nhằm giúp các cháu nhỏ bước đầu làm quen với
lịch sử nước nhà.
Nguồn được lấy chủ yếu từ Wikipedia, tạm
coi là chính sử, dù đôi khi chưa đầy đủ và còn có chỗ gây tranh cãi.
Vì viết lại sử bằng thơ, tác giả tôn trọng
các số liệu và sự thật, chủ trương không bình luận và nhận xét ngoài lề.
Chắc còn nhiều điều khiếm khuyết, mong được
lượng thứ.
Thái Bá Tân
__________
Phần
Một:
CÁC
VUA HÙNG (2879 - 258 trước Công Nguyên)
Hơn
bốn nghìn năm trước
Đế
Minh, cháu Thần Nông,
Đi
chơi vùng Ngũ Lĩnh,
Gặp
nàng Vũ tiên rồng.
Kết
quả mối tình ấy
Là
một người con trai,
Đặt
tên là Lộc Tục,
Quả
một đấng anh tài.
Lộc
Tục là con thứ,
Đế
Minh cho làm vương
Của
nước Nam, Xích Quỉ,
Được
ví như thiên đường.
Đế
Nghi, anh Lộc Tục,
Con
trưởng của Đế Minh
Được
làm vua phương Bắc,
Thuận
lý và thuận tình.
Khi
lên ngôi, Lộc Tục
Trở
thành Kinh Dương Vương,
Vị
Vua Hùng thứ nhất
Của
một nước hùng cường.
Một
lần, Ngài thăm thú
Sông
nước hồ Động Đình,
Gặp
và lấy Long Nữ,
Con
gái vua Thủy Tinh.
Lạc
Long Quân, con họ,
Thông
minh và có tài,
Về
sau nối ngôi bố
Thành
Vua Hùng thứ hai.
Tiếp
đến là câu chuyện
Lạc
Long Quân, Âu Cơ,
Chuyện
cái bọc trăm trứng
Truyền
tụng đến bây giờ.
Gần
ba thiên niên kỷ
Có
mười tám Vua Hùng
Kế
tiếp nhau trị nước,
Tước
hiệu và tên chung.
Theo
một tài liệu sử
Đời
vua Lê Đại Hành,
Con
số mười tám ấy
Không
phải “vua” mà “ngành”.
Mà
mỗi “ngành” có thể
Có
nhiều vua lên ngai.
Điều
ấy giúp giải thích
Quãng
thời gian quá dài.
Nước
Việt ta thời ấy
Có
tên là Văn Lang.
Dưới
vua có Lạc tướng,
Lạc
hầu và Lạc làng.
Nước
có mười lăm bộ,
Giống
như tỉnh bây giờ.
Đất
Phong Châu trù phú
Được
chọn làm kinh đô.
Theo
lịch sử ghi lại,
Nước
Văn Lang thời này
Đã
biết dùng đồ sắt,
Trồng
lúa nước, cấy cày.
Đã
có sự phân biệt
Nhiều
ngành nghề khác nhau.
Dân
nước ta lúc đó
Đã
có tục ăn trầu.
Xã
hội được cơ cấu
Và
tổ chức rõ ràng,
Có
kỷ cương, pháp luật,
Từ
châu xuống thôn làng.
Để
nhớ ơn tiên tổ,
Ngày
mồng Mười tháng Ba
Nhân
dân làm lễ cúng,
Gọi
là Ngày Giỗ Cha.
Các
Vua Hùng dựng nước,
Vậy
thì ta, cháu con,
Phải
lo mà giữ nước
Để
nước mãi trường tồn.
MỴ
CHÂU, TRỌNG THỦY
Xưa,
ở nước Âu Lạc,
Vua
là An Dương Vương
Muốn
xây thành giữ nước.
Một
việc rất bình thường.
Thành
ấy hình xoắn ốc
Ở
kinh đô Cổ Loa,
Phải
cao và phải rộng,
Cấu
trúc phải hài hòa.
Vua
và dân xây mãi,
Thế
mà không hiểu sao
Cứ
ngày xây, đêm đổ,
Chẳng
ai hiểu thế nào.
Vua
lập đàn cầu tế,
Thần
Kim Qui giúp ngài
Xây
xong thành lũy ấy,
Vững
chắc cả trong ngoài.
Xong,
Kim Qui còn lấy
Một
chiếc móng của mình
Đưa
cho vua và nói
Nó
sẽ giúp giữ thành.
“Dùng
nó làm lẫy nỏ,
Sẽ
là chiếc nỏ thần,
Bắn
trăm phát trăm trúng,
Một
lúc giết nghìn quân.”
Vua
liền sai Cao Lỗ,
Một
người thợ thông minh,
Làm
cho vua nỏ ấy,
Rồi
luôn giữ bên mình.
Đó
là chiếc nỏ đẹp
Và
rất cứng, muốn dương,
Phải
là tay lực sĩ
Có
sức mạnh phi thường.
Nước
Nam Hải phía Bắc,
Đánh
Âu Lạc nhiều lần,
Nhưng
luôn chịu thất bại
Vì
gặp phải nỏ thần.
Nên
ông vua nước ấy,
Có
tên là Triệu Đà,
Bèn
phải tính kế khác -
Cho
con sang giảng hòa.
Đó
là chàng Trọng Thủy,
Đúng
một đấng mày râu,
Cha
bắt sang Âu Lạc
Để
cầu hôn Mỵ Châu.
Mỵ
Châu là con gái
Của
vua An Dương Vương,
Một
công chúa trong trắng
Và
xinh đẹp khác thường.
Vì
thơ ngây, trong trắng,
Và
cả tin, nên nàng
Đem
lòng yêu Trọng Thủy,
Không
biết mưu cha chàng.
Về
phần mình, Trọng Thủy
Cũng
yêu nàng thiết tha,
Tình
yêu cũng trong trắng,
Bất
chấp ý đồ cha.
Thấy
Mỵ Châu, Trọng Thủy
Yêu
thương nhau thực lòng,
An
Dương Vương đồng ý,
Và
họ thành vợ chồng.
Một
đêm trăng tuyệt đẹp,
Hai
người ngồi trước thềm.
Nước
dưới hồ lấp lánh
Nghìn
vạn ánh sao đêm.
Rồi
như thể nhân tiện,
Trọng
Thủy hỏi vợ mình
Bí
quyết nước Âu Lạc
Giữ
vững được Loa Thành.
Nghĩ
đã là chồng vợ,
Không
giấu giếm điều gì
Mỵ
Châu liền kể chuyện
Chiếc
nỏ thần Kim Qui.
Hơn
thế, còn lấy trộm
Chiếc
nỏ từ phòng cha,
Hướng
dẫn cách sử dụng,
Tỉ
mỉ và thật thà.
Hôm
sau chàng Trọng Thủy
Xin
phép được lên đường
Quay
trở về Nam
Hải
Tham
dự lễ Trùng Dương.
Trước
khi đi, lưu luyến,
Chàng
nói với Mỵ Châu:
“Sự
đời khó biết trước,
Lần
này ta xa nhau,
Nhỡ
can qua, ly biệt,
Khó
biết đâu mà tìm.”
Mỵ
Châu nói: “Nhà thiếp
Có
chiếc áo lông chim.
Nếu
không may loạn lạc,
Phải
chịu cảnh tha hương,
Thiếp
nhổ lông chiếc áo
Rồi
bỏ lại dọc đường.
Theo
đó mà tìm thiếp
Một
khi chàng quay về.
Nói
đoạn, nàng liền khóc,
Nước
mắt chảy dầm dề.
Lại
nói chàng Trọng Thủy
Về
nước gặp Triệu Đà,
Kể
hết về chiếc nỏ
Rồi
đưa cho vua cha
Chiếc
lẫy thần, chiếc móng
Của
thần Rùa Kim Qui
Chàng
đã lấy trộm được
Mà
không ai biết gì.
Mấy
tháng sau, Nam
Hải
Với
chiếc lẫy trong tay,
Cho
quân đánh Âu Lạc,
Chắc
thắng lợi lần này.
Được
tin giặc lại đến
Vua
Việt, An Dương Vương,
Cậy
nỏ thần vô địch,
Vẫn
bình tâm như thường.
Nhưng
khi đem nỏ bắn
Thì
thấy mất lẫy thần,
Thành
Cổ Loa thất thủ,
Vua
phải trốn, thoát thân.
Chỉ
một mình một ngựa,.
Người
ngựa phóng như bay,
Sau
lưng là con gái,
Liên
tục suốt mấy ngày.
Nàng
Mỵ Châu lấy áo,
Nhổ
lông rắc dọc đường.
Cuối
cùng đến dãy núi,
Đêm
vừa buông, mù sương.
Ngọn
núi ấy gần biển,
Phía
trước không đường đi.
Sau
lưng giặc đang đuổi.
Vua
không biết làm gì.
Ngài
xuống ngựa, cầu khấn
Thần
Kim Qui giúp mình.
Khấn
xong, trời nổi gió,
Mặt
biển chợt rùng mình.
Thần
Kim Qui xuất hiện:
“Giặc
đang ngồi phía sau!”
Vua
Âu Lạc chợt hiểu,
Liền
chém con đứt đầu.
Rồi
ngài ôm con khóc,
Leo
lên tảng đá cao,
Nhảy
xuống biển tự tử.
Biển
nổi sóng dâng trào.
Nhớ
lời vợ, Trọng Thủy
Liền
lên đường đi tìm.
Chàng
cứ đi, đi mãi,
Lần
theo vết lông chim.
Khi
đến núi Mộ Dạ,
Chàng
tìm thấy Mỵ Châu,
Người
vợ chàng yêu quí,
Chết,
mà không có đầu.
Chàng
ôm vợ than khóc,
Day
dứt và chân thành.
Rồi
vội vàng lên ngựa
Đem
vợ về kinh thành.
Chàng
làm lễ mai táng
Theo
nghi thức vương gia,
Rồi
gieo đầu xuống giếng
Chết
trong thành Cổ Loa.
Chiếc
giếng ấy, được biết,
Đã
trải qua nhiều đời.
Nghe
nói lấy nước giếng
Rửa
ngọc, ngọc sáng ngời.
Một
chuyện tình thật đẹp,
Chân
thành và trắng trong.
Mỵ
Châu và Trọng Thủy
Đã
yêu nhau thật lòng.
Hai
người không có lỗi
Với
những gì xẩy ra.
Người
có lỗi duy nhất
Là
ông vua Triệu Đà.
Vì
mưu toan chính trị,
Ông
giết con trai mình,
Giết
luôn cả hạnh phúc
Trong
trắng một mối tình.
Nàng
Mỵ Châu tội nghiệp
Và
cả An Dương Vương
Đều
chết vì mắc bẫy
Một
mưu mô tầm thường.
Âu
chỉ còn biết tiếc
Xót
thương cho ba người.
Âu
cũng là bài học
Về
cảnh giác ở đời.
Ngọn
núi ấy, Mộ Dạ,
Nơi
đức vua quyên sinh,
Cách
chưa đầy cây số
Là
làng tôi, Xuân Tình.
Ngày
nhỏ cùng lũ trẻ
Đi
chăn trâu hàng ngày,
Tôi
leo trèo, nghịch ngợm
Trong
đền thờ ở đây.
Đền
thờ trên mõm núi,
Giữa
rừng thông xanh rì.
Tất
nhiên có Giếng Ngọc,
Có
cả thần Kim Qui.
Giờ
đầu hai thứ tóc,
Nhưng
mỗi lần về quê,
Tôi
vẫn leo lên viếng,
Dẫu
khó nhọc, nặng nề.
Còn
người thợ Cao Lỗ
Sau
cũng chạy về đây
Mang
theo nghề rèn đúc
Cho
người dân nơi này.
Giờ
ngài được thờ cúng
Như
thành hoàng Nho Lâm,
Người
đã mang cơm áo
Cho
làng nhiều, nhiều năm.
Thắp
hương vái các vị,
Tự
nhiên thấy buồn rầu,
Như
chạm vào quá khứ,
Một
quá khứ buồn đau.
HAI
BÀ TRƯNG (Mất năm 43 sau Công nguyên)
Gần
hai nghìn năm trước,
Hai
chị em Bà Trưng
Nổi
lên chống quân Hán,
Hai
vị nữ anh hùng.
Trưng
Trắc là bà chị,
Trưng
Nhị là bà em,
Làm
rạng danh đất nước
Lúc
ấy chìm trong đêm.
Họ
lập đất nước mới,
Kinh
đô ở Mê Linh,
Đuổi
Thái thú phương Bắc,
Cai
trị theo cách mình.
Đứng
đầu đất nước ấy
Là
hai vị nữ vương.
Xưa
nay trong lịch sử,
Một
sự kiện phi thường.
Quan
Thái thú Tô Định
Khiến
lòng dân bất yên.
Hắn
giết chết Thi Sách,
Quan
huyện lệnh Châu Diên.
Ông
là chồng Trưng Trắc,
Trước
đó từng bất bình
Với
cách quan nhà Hán
Cai
trị dân nước mình.
Vào
đầu năm Canh Tý,
Tức
là năm bốn mươi,
Hai
chị em khởi nghĩa
Thu
hút rất nhiều người.
Trước
hết đền nợ nước
Sau
để trả thù nhà.
Nghĩa
quân thắng dòn dã,
Nức
lòng dân gần xa.
Nhiều
châu quận hưởng ứng.
Sáu
lăm thành đầu hàng.
Tô
Định trốn về nước,
Nhục
nhã và vội vàng.
Năm
sau, triều đình Hán
Sai
Mã Viện Phục Ba,
Lưu
Long làm phó tướng,
Sang
chiếm lại nước ta.
Mã
Viện đi đường thủy,
Lưu
Long đi đường rừng,
Gặp
phải sự chống cự
Nghĩa
quân Hai Bà Trưng.
Quân
Mã Viện thế mạnh,
Áp
tới tận La Thành
Nghĩa
quân không chống nổi,
Rút
lui bảo vệ mình.
Sau
một năm cầm cự,
Dũng
cảm và kiên cường,
Quân
Hai Bà đành rút,
Binh
sĩ chết đầy đường.
Cuối
cùng đến Phúc Thọ,
Giặc
dụ dỗ ra hàng,
Nhưng
Hai Bà tuẫn tiết,
Nhảy
xuống dòng Hát Giang.
Ở
đấy giờ đang có
Ngôi
đền thờ Hai Bà,
Một
tấm gương trung liệt,
Trả
nợ nước, thù nhà.
Lại
nói tướng Mã Viện,
Khi
việc bình định xong,
Hắn
ngạo nghễ cho đúc
Chiếc
cột lớn bằng đồng.
Trên
cột đồng hắn khắc
Hai
dòng chữ sơn son:
“Khi
cột đồng này gãy,
Đất
Giao Chỉ không còn.”
Thật
láo và hợm hĩnh
Viên
tướng người Tàu này.
Cột
đồng giờ chẳng thấy,
Nước
Việt vẫn còn đây.
Hơn
thế, còn hùng mạnh,
Đã
đánh đuổi nhiều lần
Quân
xâm lược phương Bắc,
Sợ
không dám đến gần.
BÀ
TRIỆU (225 - 248)
Nghe
người ta kể lại,
Xưa
ở quận Cửu Chân
Có
một con voi trắng
To
đẹp như voi thần.
Nó
xuống núi phá phách,
Dẫm
đạp hết mùa màng.
Nhiều
khi còn táo tợn
Xông
cả vào xóm làng.
Con
voi thật to lớn,
Duy
nhất chỉ một ngà.
Ai
nhìn thấy cũng sợ,
Phải
né tránh từ xa.
Thế
mà một cô gái,
Xinh
đẹp, để vai trần,
Quyết
tay không bắt nó
Để
trừ hại cho dân.
Cô
đi trước, khiêu khích,
Nhử
nó ra đầm sình,
Rồi
nhảy lên đầu nó
Đưa
về nuôi nhà mình.
Về
sau, cô gái ấy
Chiêu
quân chống giặc Ngô,
Luôn
cưỡi nó ra trận,
Voi
một ngà, khổng lồ.
Truyền
thuyết còn kể lại
Rằng
ngực cô rất dài,
“Dài
tới hơn ba thước”,
Thường
phải vắt lên vai.
Quân
giặc nhìn, cả sợ,
Liền
bỏ chạy thoát thân.
Cô
gái ấy xinh đẹp,
Oai
nghiêm như vị thần.
Cô
gái trong huyền thoại,
Tên
là Triệu Thị Trinh,
Một
anh hùng dân tộc,
Dám
vì dân quên mình.
Bà
người huyện Yên Định,
Tỉnh
Thanh Hóa bây giờ,
Không
may bố mẹ chết
Khi
đang còn trẻ thơ.
Anh
bà, Triệu Quốc Đạt,
Nuôi
em như mẹ hiền.
Ông
là một hào trưởng,
Làm
huyện lệnh Quan Yên.
Lớn
lên, bà giỏi võ,
Có
sức khỏe hơn người,
Lại
nung nấu chí lớn
Muốn
ra tay giúp đời.
Gặp
người chị dâu ác,
Bà
giết rồi trốn xa,
Lên
rừng chiêu binh mã,
Hơn
nghìn người theo bà.
Thấy
giặc Ngô tàn ác,
Bà
về bàn với anh
Cùng
khởi binh chống lại,
Và
được anh đồng tình.
Từ
căn cứ Yên Định,
Nghĩa
quân lấn đánh dần,
Chiếm
quận lỵ Tư Phố,
Rồi
cả vùng Cửu Chân.
Quốc
Đạt lâm bệnh chết,
Bà
cầm quân thay anh.
Ra
trận mặc giáp bạc,
Cưỡi
voi, cài trâm anh.
Trông
bà thật lẫm liệt,
Xinh
đẹp như nữ thần,
Nên
người ta thường gọi
Là
“Nhụy Kiều Tướng quân.”
Nghe
tin có bạo loạn,
Vua
Ngô rất lo âu,
Liền
cử tướng Lục Dận
Làm
thứ sử Giao Châu.
Cùng
tám nghìn binh mã,
Theo
đường bộ tới đây,
Hắn
quyết tâm đàn áp
Cuộc
khởi nghĩa lần này.
Hắn
dùng tiền mua chuộc
Nhiều
hào trưởng địa phương,
Hứa
phong cho Bà Triệu
Chức
Lệ Hải Bà Vương.
Tất
nhiên Bà từ chối,
Nhất
quyết không đầu hàng.
Nghĩa
binh được khích lệ,
Tinh
thần càng vững vàng.
Nhiều
trận đánh ác liệt
Ở
căn cứ Bồ Điền.
Nhưng
do lực quá yếu,
Thiếu
lương thực và tiền,
Nên
chỉ sau hai tháng
Cầm
cự rất kiên cường,
Thành
Bồ Điền thất thủ,
Rơi
vào tay đối phương.
Bà
Triệu đã tuẫn tiết
Trên
núi Tùng đầy mây.
Nó
ở xã Triệu Lộc,
Huyện
Hậu Lộc ngày nay.
Bà
mới hăm ba tuổi,
Chết,
để lại tấm lòng
Và
chiến công hiển hách,
Sống
mãi với non sông.
LÝ
NAM
ĐẾ (503 - 548)
Có
một ông vua Việt
Hậu
duệ người Trung Hoa,
Đó
là Lý Nam Đế,
Chính
trực và tài ba.
Vào
cuối đời Tây Hán,
Để
tránh nạn đao binh,
Tổ
tiên ông phiêu dạt
Sang
nước Nam
yên bình.
Đến
đời thứ mười một
Lý
Nam
Đế mới sinh.
Cụ
bà ông người Việt,
Đa
tài và rất xinh.
Ông
lập nhà Tiền Lý,
Khai
sinh nước Vạn Xuân,
Một
anh hùng dân tộc,
Sống
mãi cùng nhân dân.
Ông
tên là Lý Bí,
Sinh
ở nơi ngày nay
Là
vùng đất Thạch Thất
Và
thị xã Sơn Tây.
Năm
tuổi, ông mất bố.
Bảy
tuổi, mẹ qua đời,
Ông
sống với người chú.
Đến
khi ông lên mười,
Một
nhà sư đức độ
Cho
vào chùa nhập thiền.
Sau
mười năm đèn sách,
Ông
thành người thâm uyên.
Nước
Việt ta lúc ấy
Có
tên là Giao Châu
Bao
gồm cả miền Bắc
Và
một phần nước Tàu.
Tiêu
Tư là Thứ sử,
Được
nhà Lương cử sang.
Hắn
nổi tiếng tàn bạo,
Thích
vơ vét bạc vàng.
Hắn
bổ nhiệm Lý Bí
Làm
Giám quân Đức Châu,
Nay
thuộc huyện Đức Thọ,
Nhưng
một thời gian sau,
Thấy
dân tình quá khổ
Vì
sưu thuế nặng nề,
Vì
chế độ lao dịch,
Ông
từ quan về quê.
Ông
chiêu binh, mãi mã,
Quyết
chống lại người Tàu.
Trong
số người hưởng ứng
Có
thủ lĩnh nhiều châu.
Năm
năm trăm bốn mốt,
Ông
phất cờ dấy binh,
Thế
mạnh như thác đổ,
Háo
hức lòng dân tình.
Tiêu
Tư không chống nổi,
Phải
bỏ chạy về Tàu,
Đút
tiền cho Lý Bí
Để
trốn về Quảng Châu.
Toàn
bộ vùng Bắc Bộ
Nằm
trong tay nghĩa quân.
Rồi
châu Hoan, châu Ái
Cũng
được giải phóng dần.
Vua
nhà Lương, Vũ Đế,
Vào
cuối năm bốn hai
Cho
quân sang trấn áp,
Cử
toàn những tướng tài.
Nghe
tin này, Lý Bí
Liền
chủ động đưa quân
Sang
bán đảo Hợp Phố
Mai
phục sẵn một phần.
Thành
Hợp Phố lúc ấy
Còn
thuộc về Giao Châu.
Khi
quân Lương kéo đến
Liền
bị đánh phủ đầu.
Quân
của tướng Tôn Quýnh
Mười
phần chết bảy phần.
Thế
là thành đại bại,
Hắn
phải đành rút quân.
Cả
nước được giải phóng
Sau
trận chiến thắng này,
Kể
cả quận Hợp Phố
Thuộc
Quảng Đông ngày nay.
Ngày
ấy ở vùng đất
Quảng
Bình đến Quảng Nam
Là
vương quốc Lâm Ấp,
Ở
phía bắc nước Chàm.
Lâm
Ấp thấy Lý Bí
Đang
bận đánh quân Lương,
Định
xâm lấn bờ cõi,
Thái
độ rất khinh thường.
Chúng
đem quân đánh chiếm
Phần
phía Nam Giao Châu,
Quận
Nhật Nam,
Cửu Đức.
Bằng
đường bộ, bằng tàu.
Lý
Bí sai tướng giỏi
Vào
đánh dẹp, rất nhanh
Đội
quân của Lâm Ấp
Đã
bị đánh tan tành.
Năm
năm trăm bốn bốn,
Lý
Bí tự xưng vương,
Gọi
là Lý Nam Đế,
Một
việc cũng bình thường.
Niên
hiệu là Thiên Đức,
Quốc
hiệu là Vạn Xuân.
Lập
trăm quan văn võ,
Xuống
chiếu để yên dân.
Lập
đô ở Đan Phượng,
Thuộc
Hà Nội ngày nay,
Cho
xây điện Vạn Thọ
Để
triều kiến hàng ngày.
Tướng
Tinh Thiều giỏi chữ,
Được
đứng đầu ban văn.
Còn
đứng đầu ban võ
Là
Phạm Tu phong trần.
Năm
sau, vào tháng Sáu,
Tướng
Bá Thiên dẫn đầu
Một
đoàn quân hùng mạnh
Sang
chiếm lại Giao Châu.
Lý
Nam
Đế lập tức
Điều
ba vạn nghĩa quân
Quyết
một lòng bảo vệ
Đất
nước mới Vạn Xuân.
Ở
cửa sông Tô Lịch
Quân
của ông bị thua.
Tướng
Tinh Thiều tử trận
Khi
phá vây cứu vua.
Thế
yếu, Lý Nam
Đế
Rút
về thành Gia Ninh,
Nay
ở tỉnh Phú Thọ,
Để
chấn chỉnh lương, binh.
Tháng
Giêng năm bốn sáu
Bá
Tiên chiếm thành này.
Tướng
Phạm Tu tử trận,
Vua
phải bỏ nơi đây
Để
đến hồ Điển Triệt,
Huyện
Lập Thạch bây giờ.
Ông
đóng nhiều thuyền lớn,
Đậu
kín cả mặt hồ.
Quân
Lương không dám tiến,
Chờ
nước lụt dâng cao.
Bất
ngờ nước dâng thật,
Thuyền
quân giặc kéo vào.
Do
không phòng ngự trước
Quân
của vua thua to,
Rút
về động Khuất Lão,
Dai
dẳng thế dằng co.
Năm
năm trăm bốn tám,
Ở
trong hang quá lâu,
Ông
nhiễm bệnh, mù mắt,
Qua
đời mấy tháng sau.
Hưởng
thọ bốn sáu tuổi,
Trị
vì được năm năm,
Vua
băng hà, để lại
Lừng
lẫy một tiếng tăm.
Người
vợ vua yêu quí,
Hoàng
hậu Bùi Thị Quyền,
Cũng
là một dũng tướng,
Hy
sinh cùng chiến thuyền.
TRIỆU
VIỆT VƯƠNG (?- 571)
Lý
Nam Đế khi mất,
Có
dặn dò ân cần
Và
trao lại quyền bính
Cho
một người rất thân.
Đó
là Triệu Quang Phục,
Người
cùng bố giúp ông
Đánh
giặc Lương đô hộ
Và
gây dựng non sông.
Dưới
triều đại nhà Lý
Ông
là Tả tướng quân,
Người
nắm quyền quân sự
Đất
nước trẻ Vạn Xuân.
Vâng
mệnh, Triệu Quang Phục,
Sau
thành Triệu Việt Vương,
Đã
giữ vững bờ cõi,
Chống
xâm lược nhà Lương.
Ông
là con Triệu Túc,
Người
ở huyện Chu Diên,
Nay
nằm ở vùng đất
Thuộc
phía Đông Long Biên.
Hai
cha con họ Triệu
Theo
Lý Bí từ đầu,
Lập
được nhiều công lớn
Truyền
tụng mãi về sau.
Năm
năm trăm bốn bảy,
Ông
đến một đầm lầy
Có
tên là Dạ Trạch,
Huyện
Khoái Châu ngày nay.
Đó
là một đầm lớn,
Ở
giữa có gò cao,
Cây
cối rất rậm rạp,
Khó
ra và khó vào.
Ông
tập trung ở đấy
Những
hơn hai vạn người.
Dùng
chiến thuật du kích,
Dấu
khói và dấu người.
Trần
Bá Tiên, tướng giặc,
Muốn
đánh nhanh thắng nhanh,
Nhưng
bị ông giữ lại,
Ngập
chân trong bùn sình.
Đêm,
các thuyền độc mộc
Đi
từ bãi Tự Nhiên
Đến
đánh úp lương thảo
Doanh
trại Trần Bá Tiên.
Quân
giặc bị bắt sống
Hoặc
bị giết hàng nghìn.
Quân
Lương rất mệt mỏi,
Nhưng
chỉ biết đứng nhìn.
Năm
năm trăm bốn tám,
Lý
Nam
Đế qua đời.
Ông
xưng vương, điều ấy
Hợp
lẽ người, lẽ trời.
Tên
nước vẫn như cũ,
Ông
thành Triệu Việt Vương,
Vẫn
ở đầm Dạ Trạch,
Vẫn
chiến đấu như thường.
Một
thời gian sau đó
Trần
Bá Tiên về Tàu,
Giao
Dương Sàn, tỳ tướng,
Phải
mai phục dài lâu.
Vua
Vạn Xuân lập tức
Tung
quân đánh họ Dương.
Quân
Lương thua, tan vỡ
Phải
trốn về Bắc phương.
Đất
nước hết bóng giặc,
Hết
chiến tranh triền miên.
Vua
và tôi nhà Triệu
Dọn
về thành Long Biên.
Lại
nói Lý Nam
Đế
Trước
có người anh trai
Tên
là Lý Thiên Bảo,
Một
dũng tướng có tài.
Khi
vua Lý gặp khốn,
Bị
bệnh, nằm trong hang,
Ông
và Lý Phật Tử,
Một
người cùng họ hàng,
Đem
ba vạn binh mã
Đánh
vào vùng Đức Châu,
Nay
thuộc đất xứ Nghệ,
Định
tính kế dài lâu.
Họ
giết Trần Văn Giới,
Một
viên tướng người Tàu,
Rồi
đem quân ra Bắc,
Tiến
đánh vùng Ái Châu.
Trần
Bá Tiên đánh trả,
Họ
thua, sang Ai Lao,
Đến
đất người Di Lạo,
Nay
thuộc về nước Lào.
Binh
lính chết già nửa,
Chỉ
còn hơn vạn người.
Họ
chọn vùng đất rộng,
Màu
mỡ và xanh tươi
Rồi
lập nên nước mới
Đặt
tên là Dã Tăng,
Còn
tướng Lý Thiên Bảo
Tự
xưng vương, Đào Lang.
Khi
vua Đào Lang chết,
Chỉ
mấy năm sau này,
Không
có con nối dõi,
Lý
Phật Tử lên thay.
Năm
năm trăm năm bảy
Lý
Phật Tử lên đường
Đem
quân xuống giao chiến
Với
quân Triệu Việt vương.
Hai
bên đánh năm trận
Ở
vùng đất Thái Bình.
Phật
Tử biết mình yêu,
Bèn
chủ động hoãn binh.
Ông
đề nghị vua Triệu
Cùng
thôi binh, giảng hòa.
Hơn
thế, còn mong muốn
Được
trở thành thông gia.
Con
trai Lý Phật Tử,
Có
tên là Nhã Lang,
Muốn
lấy con vua Triệu
Là
công chúa Cảo Nương.
Còn
nặng tình họ Lý,
Triệu
Việt Vương gật đầu,
Chia
đất nước ông có
Thanh
hai phần đều nhau.
Phía
Tây thuộc Phật Tử,
Phía
Đông của Việt Vương.
Đất
ai người ấy giữ,
Đúng
như lẽ đạo thượng (thường?)
Đường
ranh địa giới ấy
Là
bãi sậy lơ thơ
Giữa
làng Thượng, Hạ Cát
Huyện
Từ Liêm bây giờ.
Sau
đó Lý Phật Tử
Dọn
đến thành Ô Diên
Nay
là xã Hạ Mỗ,
Cũng
thuộc huyện Từ Liêm.
Hai
bên cựu thù địch
Giờ
giảng hòa với nhau,
Thề
thân ái, đoàn kết
Tới
răng long, bạc đầu.
Theo
truyền thuyết kể lại,
Khi
lấy nàng Cảo Nương,
Nhã
Lang muốn tìm hiểu
Binh
tình nhà Việt Vương.
Năm
năm trăm bảy mốt
Lý
Phật Tử bội thề,
Đánh
úp Triệu Quang Phục,
Bao
vây khắp tứ bề.
Thế
yếu không địch nổi,
Cùng
con gái của mình
Vua
bỏ chạy, chạy mãi
Rồi
hai người quyên sinh.
Thế
là nhà Triệu mất,
Trị
vì hăm ba năm.
Nhà
Lý được khôi phục
Sau
bao nỗi thăng trầm.
Lên
ngôi, Lý Phật Tử
Đóng
đô ở Phong Châu,
Cũng
xưng Lý Nam Đế,
Các
sử gia đời sau
Gọi
là nhà Hậu Lý
Để
phân biệt gian, ngay
Giữa
Lý Bí vua trước
Và
Phật Tử vua này.
Nhà
Tùy bên Trung Quốc,
Hơn
ba mươi năm sau
Cho
quân sang đánh chiếm,
Tướng
Lưu Phương cầm đầu.
Hay
tin, Lý Phật Tử
Rút
về thành Cổ Loa.
Bị
bao vây, dụ dỗ,
Ông
nộp mình xin hòa.
Cả
hoàng tộc bị giết,
Một
cảnh tượng đáng thương.
Vua
bị đưa về Bắc
Rồi
cũng chết dọc đường.
MAI
HẮC ĐẾ (? - 722)
Cuối
thế kỷ thứ bảy,
Ở
Ngọc Trừng, Châu Hoan,
Một
vùng đất linh kiệt,
Nay
là huyện Nam
Đàn,
Có
cậu bé mười tuổi
Theo
mẹ đi vào rừng.
Mẹ
bị hổ vồ chết.
Hai
mắt lệ rưng rưng,
Cậu
thề sau khôn lớn
Giết
hổ trả thù này.
Rồi
cậu luyện tập võ
Rất
chăm chỉ hàng ngày.
Cậu
đã giết được hổ,
Có
sức mạnh hơn người,
Lại
nuôi hoài bão lớn
Sau
hành đạo cứu đời.
Đó
là Mai Hắc Đế,
Tên
thật Mai Thúc Loan,
Một
anh hùng dân tộc,
Sinh
ở huyện Nam
Đàn.
Ông
mở nhiều lò vật,
Thành
lập các phường săn,
Luôn
chiêu mộ trai tráng,
Chuẩn
bị sẵn khi cần.
Ông
quen nhiều hào kiệt,
Cả
đằng trong, đằng ngoài.
Sau
trở thành chiến hữu,
Nhiều
người thành tướng tài.
Và
rồi thời cơ đến,
Năm
bảy trăm mười ba,
Ông
dấy binh khởi nghĩa
Ở
ngay tại quê nhà.
Đó
là cuộc khởi nghĩa
Chống
lại ách nhà Đường,
Nên
nhanh chóng thu hút
Người
của khắp bốn phương.
Nghĩa
quân đang háo hức,
Thế
mạnh như chẻ tre,
Nông
dân đến tụ nghĩa
Từ
khắp mọi vùng quê.
Mai
Thúc Loan nhanh chóng
Hạ
được rất nhiều thành,
Giải
phóng một vùng lớn
Gồm
cả đất xứ Thanh.
Ông
lên ngôi, xưng đế,
Đóng
đô ở Vạn An,
Nay
là một vùng đất
Của
thị trấn Nam
Đàn.
Vua
biết mình mệnh thủy,
Thủy
tượng trưng màu đen,
Nên
lấy hiệu Hắc Đế,
Chứ
da ông không đen.
Ông
cho xây thành lũy,
Rèn
luyện lính đêm ngày
Để
chuẩn bị Bắc tiến,
Kho
lương thảo chất đầy.
Nghe
nói cả hai nước
Khmer
và Chiêm Thành
Cũng
giúp ông khởi nghĩa
Càng
đánh nhanh, thắng nhanh.
Năm
bảy trăm mười bốn
Mai
Hắc Đế tiến binh,
Nhằm
thẳng hướng Hà Nội,
Lúc
ấy gọi Tống Bình.
Thanh
thế ông lớn lắm,
Có
tới mười vạn quân.
Dọc
đường đi, dân chúng
Còn
gia nhập thêm dần.
Viên
tướng Quách Sở Khách,
Thái
thú của nhà Đường,
Thế
yếu, không địch nổi,
Phải
trốn về Bắc phương.
Cả
nước được giải phóng,
Độc
lập mười năm trời.
Mười
năm không nô lệ,
Mười
năm được làm người.
Rồi
tướng Dương Thừa Húc
Đem
mười vạn tinh binh
Theo
đường thủy Đông Bắc
Tấn
công thành Tống Bình.
Nhiều
trận đánh khốc liệt
Ở
sông Lam, sông Hồng,
Dằng
co hai thế trận
Phòng
ngự và tấn công.
Cuối
cùng Mai Hắc Đế
Phải
rút vào rừng sâu.
Ông
bị bệnh rồi mất,
Để
lại một mối sầu.
NGÔ
QUYỀN (898 – 944)
Người
anh hùng dân tộc,
Tiền
Ngô vương Ngô Quyền,
Trong
lòng người dân Việt
Là
một vị vua hiền.
Bằng
chiến thắng lịch sử
Trong
trận Bạch Đằng giang,
Ông
đặt dấu chấm hết
Nghìn
năm ách ngoại bang.
Từ
đấy nền độc lập
Và
tự chủ nước nhà
Được
khẳng định thêm nữa
Trong
hơn nghìn năm qua.
Ông
con một hào trưởng
Thế
lực lớn, công dày
Ở
châu Đường Lâm cũ,
Nay
là đất Hà Tây.
Mới
lọt lòng, thầy tướng
Thấy
ba chấm sau lưng,
Liền
sụp lạy mà phán
Sau
danh tiếng lẫy lừng.
Nước
Việt ta ngày ấy
Gọi
là Tĩnh Hải Quân,
Do
nhà Đường cai trị,
Dân
khổ sở muôn phần.
Mà
triều chính lúc đó
Cũng
rối ren nhiều bề.
Nhà
Đường đang suy sụp,
Quan
lại thì nhiêu khê.
Hào
trưởng Dương Đình Nghệ
Thâu
tóm quyền dần dần
Rồi
thành Tiết độ sứ
Cả
vùng Tĩnh Hải Quân.
Họ
Dương lắm kẻ mạnh,
Họ
Ngô nhiều người hiền,
Liên
kết, gả con gái
Cho
chàng trai Ngô Quyền.
Rồi
Ngô Quyền được cử
Cai
trị đất Ái Châu,
Một
vùng đất rộng lớn,
Đông
dân và khá giàu.
Năm
chín trăm ba bảy,
Kiều
Công Tiễn đê hèn
Sát
hại Dương Đình Nghệ
Rồi
thâu tóm toàn quyền.
Bị
nhiều người phản đối,
Tiết
độ sứ họ Kiều
Sang
cầu quân Nam
Hán.
Lợi
ít, nhục thì nhiều.
Ngô
Quyền đem binh lính
Từ
Châu Ái đánh ra,
Giết
chết Kiều Công Tiễn,
Nhanh
chóng rửa thù nhà.
Rồi
ông lo chuẩn bị,
Quân
và dân một lòng,
Đợi
quân Hán xâm lược,
Đóng
cọc các dòng sông.
Năm
chín trăm ba tám,
Ở
cửa sông Bạch Đằng
Thuyền
của quân Nam
Hán
Sa
bẫy cọc đang giăng.
Phần
bị cọc đâm thủng,
Phần
bị thuyền Ngô Quyền
Đánh
đắm hơn một nửa.
Rồi
sông nước lại yên.
Tướng
giặc Lưu Hoằng Tháo
Bỏ
mạng nơi chiến trường.
Từ
đó giặc phương Bắc
Bỏ
mộng chiếm Nam
phương.
Ngô
Quyền xưng vương đế,
Đóng
đô ở Cổ Loa,
Lập
nên triều đại mới,
Làm
vẻ vang nước nhà.
Trong
những năm sau đó
Ông
làm rất nhiều điều
Để
chấn hưng kinh tế,
Được
mọi người thương yêu.
Bốn
sáu tuổi, ông mất,
Trị
vì được sáu năm,
Rồi
nhà Ngô sụp đổ
Năm
chín trăm sáu lăm.
CHIẾN
THẮNG BẠCH ĐẰNG
Có
một trận đánh lớn,
Một
chiến thắng vẻ vang
Trong
lịch sử dân tộc,
Là
chiến thắng Bạch Đằng.
Chiến
thắng ấy oanh liệt
Chấm
dứt hơn nghìn năm
Phải
lệ thuộc phương Bắc,
Đau
khổ và tối tăm.
Nó
lật sang trang mới
Trong
lịch sử nước nhà.
Một
kỷ nguyên độc lập,
Cho
vua và dân ta.
Kỷ
nguyên xây dựng nước,
Của
văn hóa Thăng Long,
Của
văn minh Đại Việt,
Thắng
Minh, Tống, Nguyên Mông...
Đất
nước ta thời ấy
Gọi
là Tĩnh Hải Quân,
Còn
chưa có quốc hiệu,
Chưa
có vua và thần.
Năm
chín trăm ba mốt,
Dương
Đình Nghệ dấy binh
Đánh
đuổi quân Nam Hán,
Tự
phong vua cho mình,
Gọi
là Tiết Độ Sứ.
Được
sáu năm, và rồi
Nha
tướng Kiều Công Tiễn
Giết
Nghệ để lên ngôi.
Con
rể Dương Đình Nghệ
Là
danh tướng Ngô Quyền,
Chiêu
binh đánh Công Tiễn,
Trừng
trị tội đê hèn.
Công
Tiễn sợ, vội vã
Cầu
Nam
Hán cứu nguy.
Vua
Nam
Hán, Lưu Nghiễm,
Liền
hưởng ứng tức thì.
Hắn
sai con, Hoằng Tháo,
Đắc
thắng và hung hăng,
Dẫn
hai vạn quân thủy
Tiến
vào sông Bạch Đằng.
Ngô
Quyền, trong khi đó,
Từ
châu Ái đánh ra
Giết
chết Kiều Công Tiễn,
Chiếm
được thành Đại La.
Ông
liền cho binh sĩ
Đóng
cọc xuống dòng sông,
Những
chiếc cọc to, nhọn,
Mũi
bịt sắt, bịt đồng.
Cuối
đông năm ba tám,
Hoằng
Tháo cho chiến thuyền
Từ
cửa sông hùng hổ
Cứ
rẽ nước tiến lên.
Quân
Việt nhử phía trước,
Thuyền
chúng tiến sâu vào.
Bất
chợt thủy triều rút,
Các
cọc nhọn nhô cao.
Phần
lớn thuyền bị thủng,
Phần
khác kẹt giữa dòng.
Quân
Ngô Quyền lúc ấy
Mới
được lệnh tấn công.
Hơn
nửa quân giặc chết.
Hoằng
Tháo, vốn hung hăng,
Giờ
bỏ mạng nhục nhã,
Vùi
dưới sông Bạch Đằng.
Nghe
tin con tử trận,
Vua
Nam Hán thất kinh,
Đang
phục ở biên giới,
Đành
ra lệnh thoái binh.
Thế
là từ trận ấy,
Cứ
tắt dần, tắt dần
Giấc
mộng của Nam
Hán
Đánh
chiếm Tĩnh Hải Quân.
Về
sau, Trần Hưng Đạo
Cũng
dùng cách đánh này
Mà
thắng quân Mông Cổ.
Một
cách đánh cực hay.
Năm
chín trăm ba chín
Ngô
Quyền lập triều Ngô
Của
một nước độc lập,
Cổ
Loa là kinh đô.
Theo
các nhà lịch sử,
Ông
là vua của vua.
Ông
đánh thắng Đại Hán.
Chuyện
ấy không phải đùa.
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG (? - 791)
1
Đường Lâm, đất long mạch,
Gần thị xã Sơn Tây
Vốn xưa rất tươi tốt,
Nhiều gò và rừng cây.
Đất địa linh, nhân kiệt,
Sản sinh nhiều người hiền
Kể cả hai vua lớn -
Phùng Hưng và Ngô Quyền.
Phùng Hưng thuộc dòng dõi
Cự tộc và lâu đời.
Phùng Hạp Khanh là bố,
Tài đức quả hơn người.
Cụ tổ Phùng Tôi Cái
Từng phục vụ trong cung
Của vua Đường Cao Tổ,
Cũng là đấng anh hùng.
Sau khi giúp Hắc Đế
Nổi dậy chống nhà Đường,
Phùng Hợp Khanh trở lại
Với cuộc sống đời thường.
Ông chăm lo công việc,
Sớm trở thành rất giàu.
Ba con trai sinh hạ.
Phùng Hưng là con đầu.
Tiếp đến là Phùng Hải.
Phùng Dĩnh - em thứ ba.
Đến năm mười tám tuổi,
Mà côi cả mẹ cha.
Phùng Hưng được nối nghiệp
Thành hào trưởng Đường Lâm.
Ông cao to, khỏe mạnh,
Chính trực và công tâm.
An Nam
đô hộ phủ,
Là tên nước bấy giờ,
Do nhà Đường cai trị,
Quan thì lo vét vơ,
Dân quanh năm lao dịch,
Lại sưu thuế nặng nề,
Đâu cũng nghe lời oán,
Khốn khổ đủ trăm bề.
2
Cuối thế kỷ thứ tám,
Nhân lính ở Tống Bình,
Nay là thành Hà Nội,
Nổi loạn trong trại binh,
Phùng Hưng đã phát động
Khởi nghĩa chống nhà Đường,
Nhận được sự hưởng ứng
Của người khắp bốn phương.
Thành Đường Lâm thất thủ.
Được Phùng Hưng dẫn đầu,
Nghĩa quân chiếm phần lớn
Vùng đất quanh Phong Châu.
Lo xây thành, đắp lũy,
Ông và hai em trai
Chốt các nơi xung yếu
Để chiến đấu lâu dài.
Quan thứ sử Trung Quốc,
Tức là Cao Chính Bình,
Nhiều lần đem quân dẹp,
Thế trận cứ lình xình,
Hết đánh lại phòng ngự,
Vừa đánh vừa nghỉ ngơi,
Không thua cũng không thắng
Suốt hai mươi năm trời.
Năm bảy trăm chín mốt,
Được Anh Hàn tiên sinh
Làm quân sư chiến lược,
Phùng Hưng đánh Tống Bình.
Ông chia quân năm đạo,
Từ năm hướng vây thành.
Vừa đánh vừa chiêu mộ
Thêm tướng và tân binh.
Cao Chính Bình cố thủ,
Nhưng thân cô, thế cô,
Cuối cùng đổ bệnh chết
Vì sợ hãi, buồn lo.
Phùng Hưng lên thay hắn
Cai trị đất An Nam.
Tiếc rằng ông chết sớm,
Nhiều việc chưa kịp làm.
Phùng An, con trai cả,
Nối ngôi, hai năm sau
Đất nước ta lần nữa
Rơi vào tay người Tàu.
Chúng truy lùng gay gắt
Cả gia tộc họ Phùng,
Nên người gia tộc ấy
Phải tỏa đi các vùng.
Người anh hùng dân tộc
Phùng Hưng chống nhà Đường
Được nhân dân tôn tặng
Là Bố Cái Đại Vương.
ĐINH
BỘ LĨNH (924 – 979)
Hoàng
đế Đinh Bộ Lĩnh,
Còn
gọi Đinh Tiên Hoàng,
Người
đầu tiên xưng đế
Trong
lịch sử Nam
Bang.
Sau
nghìn năm Bắc thuộc,
Dẹp
mười hai sứ quân,
Lập
nước Đại Cồ Việt,
Lo
vỗ về muôn dân,
Ông
là người khẳng định
Chủ
quyền nước Nam ta,
Mở
đầu các triều đại
Phong
kiến của nước nhà.
Ông
chấn hưng kinh tế
Bằng
cách cho đúc tiền,
Đồng
Thái Bình Hưng Bảo,
Loại
tiền đồng đầu tiên.
Bảy
mươi triều sau đó
Theo
ông đúc tiền đồng,
Giúp
kinh tế phát triển,
Hàng
hóa được lưu thông.
Ông
người làng Đại Hữu
Nay
thuộc tỉnh Ninh Bình.
Bố
là Đinh Công Trứ,
Suốt
đời theo nghiệp binh.
Không
may bố mất sớm,
Ông
theo mẹ về quê,
Phải
nương nhờ ông chú,
Cũng
vất vả đủ bề.
Ngày
nhỏ Đinh Bộ Lĩnh
Cùng
lũ trẻ chăn trâu
Thường
chơi trò chiến trận,
Phất
cao cờ hoa lau.
Về
sau, lũ trẻ ấy
Một
số thành bạn hiền,
Theo
ông dựng cơ nghiệp
Như
Nguyễn Bặc, Đinh Điền.
Dẫu
nhà nghèo, còn nhỏ,
Ông
thường xưng là vua,
Bắt
lũ trẻ phục dịch
Trong
các trò chơi đùa.
Nghe
người ta kể lại,
Một
lần, để “khao quân”,
Ông
giết bò của chú,
Rồi
cả bọn cùng ăn.
“Bò
đâu?” ông chú hỏi.
Ông
bèn chỉ chiếc đuôi
Cắm
xuống bùn, và nói:
“Bò
chui xuống đất rồi!”
Sau
khi Ngô Quyền mất,
Đất
nước suy yếu dần,
Rồi
xảy ra loạn lạc,
Loạn
mười hai sứ quân.
Tức
là loạn cát cứ,
Mỗi
người chiếm một phương.
Lại
mất mùa, đói kém,
Người
dân khổ trăm đường.
Lớn
lên, Đinh Bộ Lĩnh
Tự
dấy quân, chiêu binh,
Sau
nhập với Trần Lãm
Cát
cứ ở Thái Bình.
Khi
tướng Trần Lãm chết,
Ông
được tôn lên thay,
Lại
chiêu binh thêm nữa,
Thế
lực lớn từng ngày.
Từ
Hoa Lư hiểm trở,
Ông
xuất quân, lên đường,
Rồi
đánh đâu thắng đó,
Tự
xưng Vạn Thắng Vương.
Cuối
cùng, ông lần lượt
Dẹp
hết các sứ quân,
Thống
nhất cả đất nước,
Hợp
ý trời, lòng dân.
Ông
lên ngôi Hoàng Đế,
Năm
Mậu Thìn, tháng Tư,
Lập
nước Đại Cồ Việt,
Lập
đô ở Hoa Lư,
Rồi
cho xây cung điện,
Thiết
lập các chế triều,
Ban
sắc các hàm phẩm,
Chỉnh
lý rất nhiều điều.
Hoàng
Đế Đinh Bộ Lĩnh
Mười
hai năm trên ngôi,
Chỉ
thọ năm lăm tuổi
Vì
chết thảm, than ôi.
Số
là do yêu quí
Con
út là Hạng Lang,
Lúc
ấy mới bốn tuổi,
Ngài
cho kế ngai vàng.
Trong
khi đó, Đinh Liễn
Là
con trưởng của Ngài,
Người
lập nhiều công trạng,
Lại
bị gạt ra ngoài.
Vậy
là xẩy ra họa,
Cái
họa của bao người
Khi
bỏ trưởng lập thứ,
Thêm
bài học cho đời.
Đinh
Liễn, lúc tức giận,
Xuống
tay giết Hạng Lang,
Còn
vua thì bị giết
Bởi
tên quan hạng xoàng.
Tên
hắn là Đỗ Thích,
Do
một đêm nằm mơ
Thấy
sao rơi vào miệng,
Nghĩ
mình sẽ làm vua,
Hắn
giết Đinh Bộ Lĩnh,
Đinh
Liễn Nam
Việt vương.
Một
âm mưu quen thuộc,
Nhơ
bẩn và tầm thường.
Tuy
nhiên, hai người chết
Có
thể có bàn tay
Của
một số người khác.
Mà
thôi, chuyện sau này.
CON
NGỰA ĐÁ
Ngày
xưa, ở làng nọ
Có
một người đàn bà
Tên
gọi là Đàm Thị,
Sống
bằng nghề nông gia.
Một
hôm ra suối tắm,
Khi
cởi hết áo quần,
Thấy
có con rái cá
Đang
lừng lững đến gần,
Bà
sợ quá, ngất xỉu,
Khi
tỉnh lại, thấy mình
Nằm
cạnh con rái cá,
Người
trần truồng, thất kinh,
Bà
vội mặc quần áo,
Cuống
quít chạy về nhà,
Giấu
chồng, không dám kể
Câu
chuyện vừa xẩy ra.
Hơn
chín tháng sau đó,
Theo
lẽ rất bình thường,
Bà
sinh một đứa bé
Khôi
ngô và dễ thương.
Mấy
năm sau, chồng chết,
Bà
thấy con trai mình,
Tên
là Đinh Bộ Lĩnh,
Khỏe
mạnh và thông minh.
Đặc
biệt về bơi lội,
Nó
có thể hàng giờ
Lặn
sâu, không cần thở,
Mãi
không chịu lên bờ.
Còn
con rái cá nọ,
Dẫu
trốn sâu trong hang,
Có
người bắt, làm thịt,
Đem
chia cho cả làng.
Đàm
Thị không ăn thịt,
Chỉ
lấy một ít xương,
Đem
phơi khô, hong bếp
Rồi
giấu dưới gậm giường.
Một
ông thầy địa lý,
Người
Tàu, từ Bắc Kinh,
Đến
đây tìm long mạch
Để
táng cốt cha mình.
Khi
đến dòng suối nọ,
Thấy
có ánh hào quang
Chiếu
lên sao Thiên Mã,
Ông
ta liền vội vàng
Cho
tiền Đinh Bộ Lĩnh,
Bảo
lặn xuống xem sao.
Lặn
ở chỗ sâu nhất,
Nơi
nước réo ào ào.
Chàng
lặn xuống, chợt thấy
Con
ngựa đá khổng lồ.
Nó
nhìn chàng giận giữ,
Chiếc
miệng há rất to.
Chàng
sợ quá, quay lại
Nói
với ông người Tàu.
Ông
đưa một bó cỏ,
Bảo
đem xuống thật mau.
Sau
khi nghe chàng nói
Ngựa
ăn cỏ, ông này
Liền
kêu lên sung sướng:
“Long
mạch chính là đây!
Ai
táng cốt bố mẹ
Vào
nơi này khác thường,
Nhờ
long mạch nhất định
Sẽ
được phát đế vương!”
Rồi
lão đưa hài cốt
Của
cha lão cho chàng,
Bảo
mang cho ngựa đá,
Hứa
thưởng một đồng vàng.
Chàng
lặn xuống lần nữa,
Nhét
xương bố lão này
Vào
một ngách đá hẻm
Mà
lão chẳng hề hay.
Hôm
ấy về gặp mẹ,
Kể
chuyện này lạ kỳ.
Chàng
hỏi hài cốt bố,
Bà
im, chẳng nói gì.
Rồi
bà đưa cái gói
Xương
rái cá ngày nào,
Bảo
đấy là xương bố,
Đem
cho ngựa xem sao.
Đinh
Bộ Lĩnh lập tức
Làm
theo lời mẹ chàng,
Và
rồi, nhờ long mạch,
Sau
thành Đinh Tiên Hoàng.
Lại
nói thầy địa lý,
Nghe
tin chàng xưng vương,
Biết
là mình bị lỡm,
Liền
khăn gói lên đường
Đến
nước Đại Cồ Việt,
Xin
được vào gặp vua,
Bảo
tình xưa, bạn cũ.
Lão
được gặp, và thưa:
“Dạ,
muôn tâu hoàng thượng,
Cũng
nhờ bởi phúc trời
Mà
Ngài dựng nên nghiệp,
Thu
phục được muôn người.
Nhưng
thiết nghĩ ngựa đá
Cần
thêm thanh gươm này
Để
giúp Ngài trị nước
Và
hưng thịnh từ nay.”
Nói
đoạn, lão cung kính
Dâng
chiếc gươm sáng ngời,
Hai
lưỡi đều rất sắc.
Bản
tính vốn tin người,
Vua
nhận gươm, sai lính
Lặn
xuống suối, và rồi
Đeo
nó lên cổ ngựa,
Không
biết rằng, than ôi,
Ngài
đã mắc mưu lão,
Rơi
vào thế hiểm nghèo:
Gươm
cứa đứt cổ ngựa,
Long
mạch cũng đứt theo.
Vậy
là vua sơ ý
Giết
quí nhân của mình.
Cũng
nhanh chóng chấm dứt
Triều
đại của nhà Đinh.
LÊ
ĐẠI HÀNH (941 – 1005)
Sau
vua Đinh Bộ Lĩnh
Là
vua Lê Đại Hành,
Một
ông vua kiệt xuất
Được
sử sách lưu danh.
Khởi
dựng triều đại mới,
Lo
chấn hưng nước nhà,
Bình
Chiêm và phá Tống,
Nâng
vị thế quốc gia,
Ông
là vị tướng giỏi,
Công
tâm khi dùng người,
Khôn
ngoan trong giao tế,
Để
tiếng tốt cho đời.
Theo
sử sách ghi lại,
Ông
xuất thân nghèo hèn,
Có
cha là Lê Mịch,
Mẹ
là Đặng Thị Sen.
Trường
Châu là bản quán,
Nay
thuộc tỉnh Ninh Bình.
(Cũng
có người nói khác
Về
quê gốc, nơi sinh).
Cha
mẹ qua đời sớm,
Được
chú nuôi, và ông
Lớn
lên, theo Đinh Liễn,
Lập
được nhiều chiến công.
Ông
giúp Đinh Bộ Lĩnh
Dẹp
loạn sứ, yên dân,
Được
phong Đại Nguyên Soái,
Chức
Thập Đạo Tướng Quân.
Lúc
ấy ông còn trẻ,
Mới
hăm bảy tuổi đời,
Nhưng
có tài thao lược,
Biết
thu dụng lòng người.
Đinh
Tiên Hoàng bị giết,
Triều
đình đang bất an,
Ông
trở thành nhiếp chính
Cho
ấu chúa Đinh Toàn.
Các
đại thần nổi loạn,
Phía
Nam họa Chiêm Thành,
Phía
Bắc có giặc Tống,
Để
mất nước sao đành?
Nên
tướng Phạm Cự Lạng,
Thái
hậu Dương Vân Nga
Tôn
ông lên ngôi báu
Để
cứu nguy nước nhà.
Ông
lên ngôi Hoàng Đế,
Xưng
là Lê Đại Hành,
Đặt
niên hiệu Thiên Phúc,
Hoa
Lư là kinh thành.
Ông
khuyến khích nông nghiệp,
Là
vị vua đầu tiên
Hàng
năm cho mở lễ
Gọi
là lễ Tịch Điền.
Ông
cho dân đào đắp
Rất
nhiều kênh và sông
Để
lấy nước tưới ruộng
Và
tiện bề lưu thông.
Đầu
năm tám chín một
Quân
Tống đánh Đại Cồ,
Chia
hai đường thủy bộ,
Thanh
thế đang rất to.
Đường
bộ qua xứ Lạng,
Đường
thủy theo Bạch Đằng,
Nơi
quân ta đóng cọc
Thành
thế trận đang giăng.
Ở
bến sông Tây Kết,
Chúng
thất bại ê chề,
Nhiều
dũng tướng bị giết,
Quân
bộ đành rút về.
Công
đầu của đại thắng
Thuộc
về Lê Đại Hành,
Một
nhà quân sự lớn,
Còn
lưu mãi sử xanh.
Vua
đích thân ra trận,
Nhờ
thao lược của ông
Mà
xác quân Tống chết
Ngập
núi và đầy sông.
Chỉ
một năm sau đó
Vua
cử Ngô Tử Canh
Và
Từ Mục đi sứ
Sang
đất nước Chiêm Thành.
Họ
bị Chiêm giữ lại.
Vua
tức giận, ngày đêm
Sai
chuẩn bị thuyền chiến,
Tự
mình đi bình Chiêm.
Trong
một thời gian ngắn
Lê
Đại Hành thắng to,
Chém
vua Chiêm tại trận,
Thành
quách đốt thành tro.
Tù
binh nhiều vô kể,
Có
cả sư, nữ tỳ,
Vàng
bạc thu ức vạn,
Không
thiếu một thứ gì.
Hăm
sáu năm trị quốc,
Vua
sáu lần dấy binh
Đánh
quân Chiêm quấy phá,
Giữ
biên giới yên bình.
Vua
Lê Đại Hành chết,
Để
lại một giang sơn
Hùng
cường và thống nhất,
Nhưng
thật tiếc, các con
Lại
tranh nhau ngôi báu,
Lại
huynh đệ tương tàn,
Khiến
bỏ bê chính trị
Và
dân chúng lầm than.
Rồi
đời Lê chấm dứt
Bằng
ông vua xấu xa
Là
Ngọa Triều Long Đĩnh,
Gian
ác và dâm tà.
THÁI
HẬU DƯƠNG VÂN NGA (952 – 1000)
Ngày
xưa có cô bé
Mắc
cái tật lạ kỳ,
Là
đêm thường hay khóc,
Không
hiểu lý do gì.
Một
hôm có đạo sĩ
Đi
ngang qua tình cờ,
Thấy
thế liền dừng lại
Rồi
đọc mấy câu thơ:
“Nào
nín đi, cháu bé.
Việc
gì phải khóc hoài.
Mai
kia còn gánh vác
Đôi
sơn hà trên vai.”
Đứa
bé nghe, im bặt.
Từ
ngày ấy, lạ ghê,
Ngủ
yên không cần dỗ,
Không
bao giờ khóc nhè.
Sau
này bé gái ấy
Rất
nổi tiếng, vì bà
Là
vợ hai vua lớn -
Thái
hậu Dương Vân Nga.
Bà
sinh ở vùng đất
Nay
thuộc tỉnh Ninh Bình,
Bố
là Dương Thế Hiển,
Thuộc
dòng dõi hiển vinh.
Dương
là họ của bố.
Còn
Vân Nga là gì?
Tên
hai làng ghép lại:
Vân
Long và Nga My.
Bà
nổi tiếng xinh đẹp,
Loại
tài sắc vẹn toàn,
Đến
mức nhiều giai thoại
Loan
truyền trong dân gian.
Bà
là hoàng thái hậu
Hai
triều vua khác nhau,
Vợ
của Đinh Bộ Lĩnh
Và
Lê Hoàn về sau.
Đinh
Toàn, vị vua cuối
Của
triều đại nhà Đinh,
Là
con trai thái hậu
Với
Tiên Hoàng, chồng mình.
Còn
khi bà là vợ
Của
vua Lê Đại Hành,
Bà
sinh cô công chúa
Là
Lê Thị Phất Ngân.
Sau
nàng thành hoàng hậu
Vị
vua Lý đầu tiên,
Tức
vua Lý Thái Tổ,
Nổi
tiếng một vua hiền.
Hơn
thế, nàng là mẹ
Của
vua Lý Thánh Tông,
Một
ông vua nhân đức
Từng
lập nhiều chiến công.
Ông
lập nước Đại Việt,
Lấy
ba châu Chiêm Thành,
Phá
Tống, xây Văn Miếu
Chấn
hưng việc học hành.
Khi
Đinh Tiên Hoàng chết,
Thái
hậu Dương Vân Nga
Biết
đặt lợi ích Nước
Cao
hơn lợi ích Nhà.
Vua
Đinh Toàn còn nhỏ,
Mà
thù trong giặc ngoài.
Bà
gạt qua nghi kỵ,
Bắt
con mình nhường ngai,
Để
một vị tướng giỏi,
Mà
sau là chồng bà,
Bình
Chiêm và phá Tống,
Chấn
hưng lại nước nhà.
Làm
xong sứ mệnh lớn,
Cuối
đời bà tu hành
Ở
chùa Am Tiên Động
Phía
đông Hoa Lư thành.
Nghe
người ta kể lại,
Bà
và Lê Đại Hành
Ngày
trẻ có duyên thắm,
Tiếc
trời không cho thành.
Nên
đôi uyên ương ấy
Phải
chờ mãi về sau,
Khi
công thành danh toại,
Mới
lần nữa gặp nhau.
Âu
cũng là trời định,
Nhưng
cuối cùng hai người
Đã
đi vào lịch sử
Như
tấm gương cho đời.
Ở
Ninh Bình thành phố
Hiện
có hai con đường
Chạy
song song thật đẹp,
Mang
tên đôi uyên ương.
LÝ
THÁI TỔ (974 – 1028)
Một
trong những vua lớn
Của
nước Việt Nam ta
Là
vua Lý Thái Tổ,
Vẻ
vang sử nước nhà.
Ông
lập nên triều Lý
Kéo
dài những chín đời,
Mở
đầu nước Đại Việt,
Được
lòng dân, lòng trời.
Ông
sửa sang việc nước,
Dùng
chính sách “thân dân”,
Sưu
thuế nhẹ và ít,
Còn
miễn thuế nhiều lần.
Ông
đề cao đạo Phật,
Xây
chùa chiền, đắp đê,
Còn
cho quan sang Tống
Thỉnh
kinh Tam Tạng về.
Ông
là người viết chiếu
Dời
đô về Thăng Long,
Giúp
đất nước phát triển
Theo
thế của con rồng.
Ông
người châu Cổ Pháp
Nay
thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Mẹ
họ Phạm, ba tuổi,
Kháu
khỉnh và thông minh,
Trụ
trì chùa Cổ Pháp
Nhận
ông làm con nuôi,
Đưa
vào chùa dạy dỗ,
Học
Phật, học làm người.
Năm
ông lên bảy tuổi,
Một
thiền sư lừng danh
Có
tên là Vạn Hạnh
Nhận
làm học trò mình.
Ông
được sư Vạn Hạnh
Cho
vào hầu vua Lê.
Vua
Lê rất yêu quí,
Luôn
chăm sóc, vỗ về.
Lớn
lên, ông phục vụ
Trong
cung Lê Đại Hành,
Làm
đến Chỉ Huy Sứ
Bảo
vệ Hoa Lư thành.
Vua
còn gả công chúa
Là
Lê thị cho ông,
Sinh
ra Lý Phật Mã,
Rất
được vua hài lòng.
Khi
vua Đại Hành chết,
Triều
đình thật rối ren.
Tiếm
ngôi, Lê Long Đĩnh
Thành
ông vua yếu hèn.
Rồi
Lê Long Đĩnh chết,
Ông
được tôn lên thay
Nhờ
tướng Đào Cam Mộc
Và
Vạn Hạnh, sư thầy.
Triều
Lý được thiết lập.
Cung
đình lại bình yên,
Quyền
lực được củng cố,
Yên
vui khắp mọi miền.
Vậy
là Lý Công Uẩn,
Ở
tuổi ba mươi lăm,
Thành
vua Lý Thái Tổ,
Trị
vì mười chín năm.
Ông
chấn chỉnh chế sắc,
Đặt
niên hiệu Thuận Thiên,
Cất
nhắc các quan lại,
Toàn
xứng đáng, người hiền.
Thấy
đất Hoa Lư hẹp,
Toàn
núi cao, khe sâu,
Không
tiện làm đô hội,
Khó
phát triển dài lâu,
Ông
xuống chiếu di chuyển
Kinh
đô về Đại La,
Mở
đầu kỷ nguyên mới
Cho
lịch sử nước nhà.
Năm
Thuận Thiên thứ nhất,
Một
nghìn không trăm mười,
Đến
đất kinh đô mới,
Vua
ngước nhìn lên trời
Liền
giật mình, chợt thấy
Thấp
thoáng bóng con rồng
Đang
bay lên, tuyệt đẹp,
Nên
đổi thành Thăng Long.
Quan
hệ với nước Tống,
Ông
khôn khéo nhún nhường,
Vua
Tống không sinh sự,
Lại
còn phong sắc vương.
Năm
Thuận Thiên mười một,
Ông
chinh phạt Chiêm Thành,
Giành
được thắng lợi lớn,
Thanh
thế cũng tăng nhanh.
Vua
Chiêm và Chân Lạp
Sang
triều cống hàng năm.
Việc
bang giao yên trị,
Dân
yên ổn làm ăn.
Năm
một không hai tám
Lý
Thái Tổ băng hà,
Hưởng
thọ năm lăm tuổi,
Phật
Mã lên thay cha.
Ông
là vị vua tốt,
Hiệu
là Lý Thái Tông,
Một
vị tướng tài giỏi,
Chuyên
đánh Tây dẹp Đông.
Ông
xây Chùa Một Cột,
Đào
Kênh Lẫm, Thần Phù,
Đối
xử rất nhân đạo
Với
những người bị tù.
Ông
cải cách pháp luật,
Theo
hướng nhẹ thì tha,
Soạn
Bộ luật Hình sự
Đầu
tiên của nước nhà.
Khi
Lý Thái Tông chết,
Lý
Thánh Tông lên thay.
Lịch
sử luôn ghi nhớ
Công
lao vị vua này.
Vua
thứ ba nhà Lý,
Ông
là vị minh quân,
Đặt
quốc hiệu Đại Việt,
Yêu
nước và thương dân.
Ông
cho xây Văn Miếu,
Chăm
lo việc học hành,
Dám
đem quân đánh Tống,
Lấy
ba châu Chiêm Thành.
Ba
châu ấy rất lớn,
Thuộc
vùng đất bây giờ
Là
Quảng Bình, Quảng Trị,
Mầu
mỡ và nên thơ.
Xã
hội luôn ổn định
Dưới
triều Lý Thánh Tông.
Quả
không phải hổ thẹn
Với
hương hồn cha, ông.
TRẦN
THÁNH TÔNG (1240 – 1290)
Thái
sư Trần Thủ Độ,
Vốn
là một quyền thần,
Thu
xếp sự chuyển tiếp
Từ
triều Lý sang Trần.
Năm
một hai hai bốn
Ông
ép Lý Huệ Tông
Nhường
ngôi cho con gái,
Rồi
ép nàng lấy chồng.
Lấy
cháu ông, Trần Cảnh.
Lý
Chiêu Hoàng bấy giờ
Vừa
mới lên bảy tuổi,
Trẻ
con và ngây thơ.
Sau
đấy ông lại ép
Nàng
nhường ngôi cho chồng,
Cũng
trẻ con, bảy tuổi,
Sau
thành Trần Thái Tông.
Lớn
lên, ông vua ấy
Là
một vị vua hiền,
Người
có công lãnh đạo
Cuộc
chiến chống quân Nguyên.
Thái
Tông và hoàng hậu
Mãi
vẫn không có con.
Sợ
không người nối dõi
Để
ngôi báu trường tồn,
Thái
sư Trần Thủ Độ
Ép
vua lấy chị dâu,
Tức
là vợ Trần Liễu,
Lúc
ấy đang có bầu.
Rồi
họ sinh Trần Hoảng,
Sau
thành Trần Thánh Tông,
Một
anh hùng dân tộc,
Chiến
thắng giặc Nguyên Mông.
Trần
Thánh Tông trị quốc
Trong
vòng hai mươi năm.
Đất
nước luôn thịnh trị,
Không
có giặc ngoại xâm.
Ông
đặc biệt chú ý
Lo
cuộc sống cho dân,
Giảm
phu phen, lao dịch,
Tạo
điều kiện làm ăn.
Lê
Văn Hưu viết sử
Theo
chiếu lệnh của ông.
Cuốn
Đại Việt sử ký
Cuối
cùng đã viết xong.
Bộ
sử ba mươi cuốn
Từ
xưa đến Chiêu Hoàng.
Tiếc
bây giờ thất lạc,
Nhưng
là cuốn sử vàng.
Ông
mở nhiều trường học,
Đúc
chuông, xây chùa chiền,
Lập
xưởng đúc vũ khí
Đóng
sẵn các chiến thuyền.
Khi
còn nhỏ, Thái tử
Từng
theo cha Thái Tông
Nhiều
lần ngự thuyền chiến
Tham
gia đánh Nguyên Mông.
Ông
cho phép vương thất
Cùng
dân nghèo khai hoang.
Các
vương hầu từ đó
Nhiều
người có điền trang.
Ông
đều đặn xuống chiếu
Kén
chọn các hiền tài
Sung
vào nơi Quán, Các,
Không
phân biệt trong ngoài.
Năm
một hai bảy tám
Thánh
Tông nhường ngôi vàng
Cho
Thái tử Trần Khảm
Để
thành Thái thượng hoàng.
Ông
lui về Cung Bắc
Rồi
xuống tóc, nhập thiền,
Nghiên
cứu về Phật Giáo,
Xây
dựng nhiều chùa chiền.
Năm
một hai tám bốn
Quân
Nguyên lại tấn công.
Hưng
Đạo Vương Quốc Tuấn
Được
phụ trách quốc phòng.
Quân
Nguyên bị đánh bại
Lần
thứ hai, thứ ba,
Đều
có công đóng góp
Của
Thánh Tông vua cha.
Năm
một hai tám chín,
Khi
kết thúc chiến tranh,
Thánh
Tông về ở ẩn,
Làm
thơ và du hành.
THƠ
TRẦN THÁNH TÔNG
Chơi phủ An Bang
Sáng
chơi cùng mây núi.
Tối
eo biển đầy sao,
Đang
nghỉ, chợt cao hứng,
Đầu
bút, chữ tuôn trào.
Đề động Huyền Thiên
Hương
khói đền Ngọc Đế.
Huyền
Thiên chìm trong mây.
Tiếng
cầu kinh khe khẽ.
Hoa
rụng vì chim bay.
Tặng Trần Quang Khải
Suốt
một đời tận tụy,
Trọn
cả danh lẫn công.
Với
hai triều trung hiếu,
Quả
không ai bằng ông.
Ngày xuân trong vườn ngự, nhớ người xưa
Vắng
người, lối nhỏ phủ rêu xanh.
Cửa
cung hờ khép, liễu buông mành.
Trong
vườn rực rỡ hoa muôn sắc.
Cho
ai hoa đẹp thế trên cành?
Cảnh mùa hè
Vệt
rừng mưa tạnh, biếc xa xa.
Ngày
rụng bóng dài lên gác hoa.
Dìu
dịu hương sen thơm sát cửa.
Đôi
tiếng ve kêu rộn bóng tà.
Tự nói về mình
Nhàn
rỗi, vô công sáng lại chiều,
Gẩy
đàn không điệu, lắng thông reo.
Bất
chợt trong lòng ngân tiếng nhạc.
Chỉ
gió trên cành, nghe, họa theo.
Tự nói về mình
Lòng
ta không cạn, cũng không đầy.
Phật
không, người không, gió hây hây.
Cảnh
thu sâu thẳm, trời sâu thẳm.
Mây
vờn quanh núi, núi vờn mây.
Cảm xúc khi đọc Phật sự Đại minh lục
Tu
bốn mươi năm một tấm lòng.
Vượt
ngàn ải ngục, tựa như không.
Động
như tiếng gió vang trong núi.
Tĩnh
giống vầng trăng sáng giữa đồng.
Đường
đời bốn ngả tha hồ bước.
Ngũ
huyền đạo lý đã tinh thông.
Đừng
hỏi thế nào là sinh, diệt.
Hãy
nhìn trời nước rất xanh trong.
Chơi hành cung Thiên Trường
Thật
thanh, thật nhã cảnh nơi này.
Như
chốn thần tiên mây trắng bay.
Như
đàn réo rắt - trăm chim hót.
Như
nghìn đầy tớ - cả rừng cây.
Hồ
thu in bóng trời thu lạnh.
Người
nhàn, trăng sáng cũng nhàn lây.
Cuộc
đi này hẳn vui hơn trước.
Biển
lặng, trời trong rộng tháng ngày.
TRẦN
NHÂN TÔNG (1258 – 1308)
Anh
minh và nhân ái,
Đức
vua Trần Nhân Tông,
Một
ông vua vĩ đại,
Sống
mãi cùng non sông.
Không
chỉ vua, hơn thế,
Ngài
còn là Phật Hoàng,
Lập
Trúc Lâm Yên Tử,
Mở
một kỷ nguyên vàng.
Ngài
là con trai trưởng
Đức
vua Trần Thánh Tông.
Trần
Khâm là tên húy,
Anh
hùng chống Nguyên Mông.
Năm
một hai bảy tám,
Nhận
ngôi từ vua cha,
Đúng
lúc giặc Mông Cổ
Lại
đe dọa nước nhà.
Thế
lực giặc rất lớn,
Không
ít người nản lòng,
Nhưng
Ngài quyết chủ chiến,
Mở
Hội nghị Diên Hồng.
Ngài
là người đoàn kết
Sức
mạnh toàn quốc gia.
Lòng
tự hào dân tộc
Nhờ
đó mà thăng hoa.
Được
Thánh Tông giúp sức,
Ngài
lãnh đạo nhân dân
Đánh
thắng quân xâm lược
Liên
tục cả hai lần.
Tháng
Tư năm Ất Dậu,
Tức
một hai tám năm,
Ngài
sai Trần Nhật Duật,
Trần
Quốc Toản mang quân
Đánh
giặc ở Tây Kết,
Suýt
bắt sống Thoát Hoan,
Rồi
sau đó thắng lớn
Ở
cửa Hàm Tử Quan.
Năm
một hai hai tám,
Sau
trận thắng Bạch Đằng,
Mở
Thái Bình Diên Yến,
Ba
ngày ba đêm trăng.
Quân
Ai Lao lúc đó
Cũng
thường quấy nước ta.
Đích
thân Ngài gươm giáo
Lên
đường chinh phạt xa.
Cương
quyết không để mất
Một
tấc đất tiền nhân.
Bằng
mọi giá phải giữ.
Ngài
nói thế nhiều lần.
Để
kết tình hòa hiếu,
Ngài
gả con Huyền Trân,
Công
chúa Ngài yêu quí,
Cho
vua Chiêm Chế Mân.
Nước
Đại Việt từ đó
Có
thêm được mấy châu,
Đất
rộng, người thưa thớt
Nhưng
tài nguyên rất giàu.
Xong
việc, năm Quý Tỵ,
Tức
một hai chín ba,
Ngài
nhường con ngôi báu,
Cùng
gánh vác sơn hà.
Năm
một hai chín chín,
Ngài
xuất gia tu hành
Ở
Vũ Lâm cung cấm,
Nay
thuộc tỉnh Ninh Bình.
Rồi
Ngài đến Yên Tử,
Niệm
kinh và tưới hoa,
Lập
dòng thiền đất Việt,
Hiệu
Trúc Lâm Đầu Đà.
Trong
Trúc Lâm Tam Tổ,
Ngài
là vị tổ đầu,
Pháp
Loa là tổ tiếp,
Huyền
Quang tổ về sau.
Năm
một ba không tám,
Tức
là năm Mậu Thân,
Ở
Ngọa Vân, Yên Tử
Ngài
từ giã cõi trần.
Ngài
từ người thành Phật
Sau
tám năm xuất gia.
Chết,
xá lị được giữ
Như
báu vật nước nhà.
Tro
Ngài được an táng
Và
hậu thế tôn thờ
Trong
tháp lăng Quí Đức,
Tỉnh
Thái Bình bây giờ.
Theo
sử sách kể lại,
Một
lần về Thăng Long,
Ngài
rất buồn khi thấy
Con
mình, Trần Anh Tông,
Trình
Ngài bản danh sách
Hàng
trăm quan nhỏ to
Mới
được vua cất nhắc,
Tưởng
Ngài vui, ai ngờ,
Ngài
vứt tờ giấy ấy,
Vỗ
vai con, và rồi
Nói:
Nước mình bé nhỏ,
Nhiều
quan, lấy ai nuôi?
Đó
là bài học lớn
Về
trị nước, yên dân.
Quan
nhiều là gánh nặng,
Khiến
đất nước nghèo dần.
Ngài
là vua, là Phật,
Lại
còn là nhà thơ.
Ba
lăm bài tuyệt tác
Còn
lưu đến bây giờ.
Đó
là thơ tứ tuyệt
Và
một số thơ Đường,
Về
thiên nhiên, thiền phật,
Về
lẽ sống đời thường.
Theo
sử sách kể lại,
Lên
Yên Tử, dọc đường
Ngài
bị ba tên cướp
Cầm
giáo ra chặn đường.
Ngài
ôn tồn hỏi chúng,
Mới
biết nghèo, làm liều,
Rồi
lấy, đem cho chúng
Suất
cơm Ngài mang theo.
Khi
đến một quả núi
Có
hình như mâm xôi,
Định
ăn thì sực nhớ
Suất
cơm cho mất rồi.
Ngài
đành bảo Bảo Sái,
Người
hầu luôn theo Ngài,
Xuống
suối lấy nước uống
Thay
cơm cho cả hai.
Về
sau ở núi ấy,
Có
ngôi chùa, trước sân
Ghi
hai chữ “Cấm Thực”,
Tức
là chùa không ăn.
Khi
Ngài lên Yên Tử,
Một
mình giữa rừng sâu,
Triều
đình sợ Ngài khổ,
Cho
cung nữ theo hầu.
Ngài
không chịu, bảo họ
Nếu
muốn, trở về quê.
Nhưng
tất cả cung nữ
Nhảy
xuống suối Hổ Khê
Để
tỏ lòng thương mến
Và
trung thành với Ngài.
Con
suối ấy sau đó
Đổi
thành Giải Oan Đài.
Khi
tu ở Yên Tử,
Ngài
thường leo hàng ngày
Lên
đỉnh núi cao nhất,
Bốn
mùa chìm trong mây.
Ngài
cho xây ở đấy
Chiếc
am nhỏ Ngọa Vân,
Nơi
Ngài thiền, đọc sách,
Hưởng
cái thú thanh bần.
Khi
Ngài sắp viên tịch,
Trời
mưa gió dầm dề.
Mồng
ba, tháng Mười Một,
Bỗng
gió lặng, trời se.
Ngài
liền hỏi Bảo Sái:
“Giờ
này là giờ gì?”
“Bạch
thầy, là giờ Tý”.
“Đã
đến giờ ta đi”.
Nói
xong, Ngài viên tịch,
Nằm
nghiêng như Phật nằm,
Ở
ngay trong am núi,
Nơi
Ngài tu tám năm.
Pháp
Loa, theo di chúc,
Thiêu
xác Ngài, lát sau
Thấy
nghìn viên xá lị
Lung
linh đủ các màu.
THƠ
TRẦN NHÂN TÔNG
Xuân sớm
Sáng
dậy vén rèm cửa.
Xuân
đã đứng cạnh nhà.
Đôi
bướm nhỏ cánh trắng
Chấp
chới bay tìm hoa.
Trên hồ Động Thiên
Động
Thiên cảnh tiêu điều:
Hoa
héo, cỏ cây xiêu.
May
trời thương, thỉnh thoảng
Ban
cho tiếng chuông chiều.
Tiễn sứ bắc Lý Trọng Tân và Tiêu Phương
Nhai
Tiễn
đưa quyến luyến cạnh Linh Trì.
Gió
xuân không giữ được người đi.
Không
biết sao lành hai sứ bắc
Thêm
được mấy ngày chiếu Nam
di?
Cảnh xuân
Chim
kêu trong khóm liễu sau nhà.
Bóng
chiều rụng nhẹ xuống thềm hoa.
Khách
quý đến chơi không hỏi chuyện,
Chỉ
cùng chủ đứng, ngắm mây xa.
Đêm mười một tháng Hai
Rượu
quý rửa hồn, hương ngất ngây.
Giường
rồng, chiếu trúc, giấc xuân say.
Bên
song hoa nở, trời như nước.
Ngoài
hiên trăng sáng tựa ban ngày.
Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường
Xóm
nhỏ chìm trong khói ráng hồng.
Cảnh
chiều nửa có, nửa như không.
Trẻ
giục trâu về, vui thổi sáo.
Cò
trắng từng đôi đậu xuống đồng.
Trăng
Đèn
soi song cửa, sách đầy giường.
Đêm
lạnh, bên ngoài sân ướt sương.
Tiếng
chày đập vải làm thức giấc.
Trăng
vướng cành hoa, mù vấn vương.
Cảnh chiều ở Châu Lạng
Chùa
cổ mờ mờ trong khói mây.
Chuông
điểm, dây thuyền buộc gốc cây.
Núi
lặng, nước trong, nghiêng cánh nhạn.
Lá
đỏ, mây buồn lưu luyến bay.
Thơ đề ở nhà thủy tạ Phổ Minh
Nhà
trên mặt nước, thoảng mùi hương.
Chùa
đóng, cây đa đứng vệ đường.
Hồ
nước mới dâng, không lạnh lắm.
Theo
tiếng ve sầu, thu vấn vương.
Mạn hứng khi ở trên núi
Đúng
sai rốt cuộc như hoa rụng.
Hết
mưa, hết muốn lợi và danh.
Sau
tiếng chim kêu, xuân lại úa.
Hoa
tàn, mây tạnh, núi xanh xanh.
Thanh nhàn
Sống
nơi yên tĩnh, thảnh thơi lòng.
Xạc
xào gió thổi giữa cành thông.
Chiếu
trải dưới cây, kinh một quyển.
Thanh
nhàn hai chữ có hơn không?
Lên núi Bảo Đài
Đất
vắng, đài thêm cổ.
Trời
đẹp, mới chớm xuân.
Ngõ,
nửa râm, nửa nắng,
Mây
nửa xa, nửa gần.
Việc
trôi như nước cuốn.
Lòng
nhủ lòng bao lần.
Tựa
hiên, nâng sáo ngọc.
Trăng
bàng bạc ngoài sân.
Phủ Thiên Trường
Quạnh
hiu lá đỏ, núi xanh, vàng.
Sau
mưa đường sạch, trời mây quang.
Các
sư về viện, trai đường vắng.
Nửa
đêm, trăng đã xế trên làng.
Ba
chục cung tiên, giường xếp dọc.
Tám
nghìn ngọn tháp, nước âm vang.
Phổ
Minh chùa cổ không thay đổi.
Trong
mơ bất chợt nhớ tiên hoàng.
Chùa Thần Quang trên núi Đại Lâm
U
nhã Thần Quang, vắng suốt ngày.
Giữa
vùng rừng núi phủ đầy mây.
Ba
nghìn thế giới thu vào mắt.
Mười
hai tòa tháp tựa trên tay.
Cây
thông trăm tuổi, sư đầu bạc.
Bèo
bọt thói đời cứ đổi thay.
Ngoài
việc thắp hương và cúng Phật,
Hết
thảy mọi điều sư chẳng hay.
HỒ
QUÝ LY (1336 – 1407)
Cuối
thế kỷ mười bốn
Các
vương triều nhà Trần
Đã
trở nên ruỗng mục,
Thối
nát, mất lòng dân.
Có
Khu Mật Đại Sứ
Tên
là Hồ Quý Ly,
Nắm
hết mọi quyền lực,
Chẳng
coi vua ra gì.
Cái
phải đến đã đến,
Năm
một nghìn bốn trăm,
Ông
phế Trần Thiếu Đế,
Rồi
lên ngôi âm thầm.
Như
vua Lý Nam Đế,
Tổ
tiên ông một thời
Người
Triết Giang, Trung Quốc,
Sang
ta đã nhiều đời.
Hồ
Quý Ly quê gốc
Ở
Quỳnh Lưu, Nghệ An,
Sau
chuyển ra Thanh Hóa,
Rồi
vào triều làm quan.
Ông
có hai cô ruột
Là
hoàng hậu, ân nhân.
Sau
hai con của họ
Cũng
trở thành vua Trần.
Khi
lên ngôi, tên nước
Ông
đổi thành Đại Ngu,
Dời
đô vào Thanh Hóa,
Huyện
Vĩnh Lộc bây giờ.
Sau
một năm tại vị,
Ông
nhường lại ngai vàng
Cho
con trai trị quốc
Để
làm Thái thượng hàng.
Theo
các tài liệu sử,
Ông
là người nhẫn tâm,
Để
lo trừ hậu họa,
Chỉ
trong vòng một năm,
Tổng
cộng ông đã giết
Ba
trăm bảy mươi người,
Chủ
yếu người hoàng tộc.
Một
tội ác để đời.
Dẫu
mưu mô, ác độc,
Nhưng
vua Hồ Quý Ly
Có
rất nhiều cải cách
Mà
sử sách còn ghi.
Những
cải cách tiến bộ,
Tầm
nhìn rộng và xa,
Nếu
đem thực hiện hết
Sẽ
chấn hưng nước nhà.
Về
lĩnh vực hành chính,
Ông
đặt nhiều chức quan
Để
giám sát các lộ,
Phòng
ngừa những việc gian.
Ông
thêm chức Liêm phóng
Ở
châu, lộ xa gần,
Để
báo triều đình biết
Thực
tình của người dân.
Về
lĩnh vực kinh tế,
Ông
cải cách hạn điền.
Giới
hạn số ruộng đất
Của
tầng lớp có quyền.
Trừ
vương hầu, gia tộc,
Ông
qui định mỗi nhà
Có
không quá mười mẫu,
Cả
ruộng gần, ruộng xa.
Về
số lượng người ở,
Cũng
không được quá nhiều.
Tùy
gia sản, thứ bậc
Mà
được nuôi bao nhiêu.
Ông
phát hành tiền giấy,
Nhằm
đẩy mạnh công thương,
Thay
đổi chế độ thuế,
Quy
định cách đo lường.
Rồi
mở thêm trường học,
Bắt
sĩ tử đi thi
Phải
thi môn toán pháp,
Mới
được lên kinh kỳ.
Ông
đặc biệt coi trọng
Chữ
Nôm của nước nhà,
Sai
dịch ra chữ ấy
Các
sách cổ Trung Hoa.
Lại
còn mở kho thóc
Giá
rẻ cho người nghèo.
Chăm
lo việc thủy lợi,
Đào
sông, đắp đê điều.
Ông
đặt sở Quản Tế,
Sở
y tế bây giờ,
Rồi
cất quan coi sóc
Không
chểnh mảng, thờ ơ.
“Quản
Tế Thư” được lập,
Kiểu
bệnh viện tế bần,
Chữa
bệnh bằng châm cứu
Và
thuốc Nam
cho dân.
Là
tài năng kiệt xuất,
Với
nghị lực phi thường,
Ông
đeo đuổi cải cách,
Tiếc
đứt gánh giữa đường.
Hồ
Quý Ly biết trước
Dã
tâm của nhà Minh,
Nên
chuyên tâm chấn chỉnh
Việc
công và việc binh.
Ông
cải cách quân đội,
Xây
thành, lo quốc phòng,
Lập
hộ tịch bắt lính,
Đóng
cọc các cửa sông.
Ông
là người tài giỏi,
Nhưng
chỉ là quan văn,
Rất
tiếc đã thất bại,
Vì
không được lòng dân.
Năm
một bốn không sáu,
Lấy
cớ giúp nhà Trần,
Nhà
Minh sang xâm lược,
Điều
hai mươi vạn quân.
Tướng
giặc là Trương Phụ,
Chia
nhiều mũi tấn công.
Thế
yếu, quân Việt rút
Sang
phía Nam
sông Hồng.
Thành
Thăng Long thất thủ
Trong
vòng mấy tháng sau.
Vua
rút về Thanh Hóa
Định
tính kế dài lâu.
Bị
quân địch truy đuổi,
Ông
chạy vào Kỳ La,
Bây
giờ thuộc Hà Tĩnh,
Rồi
cha con ông ta
Bị
quân Minh bắt sống
Đưa
về nộp Bắc Kinh,
Dọc
đường bị sát hại.
Không
rõ lắm sự tình.
Cũng
có tài liệu nói
Chúng
đưa về Quảng Tây,
Bắt
lao dịch ở đấy
Rồi
chết mòn sau này.
Vậy
là triều Hồ mất,
Chỉ
tồn tại bảy năm
Nhưng
cũng kịp làm được
Một
số việc cần làm.
Nước
Đại Việt lần nữa
Rơi
vào ách ngoại bang,
Phải
chờ đến Lê Lợi
Mới
độc lập huy hoàng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét