Thứ Ba, 14 tháng 4, 2020

Truyện Thơ Danh Nhân Việt


 
Truyện thơ
DANH NHÂN LỊCH SỬ VIỆT,
                   tập một
                     ------

 LỜI TÁC GIẢ

Tập thơ nhỏ này gồm những truyện thơ ngắn tóm lược về cuộc đời và sự nghiệp những vị vua và những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước Việt.

Tác giả cố trình bày một cách ngắn gọn, dễ hiểu và dễ nhớ theo lối diễn ca, nhằm giúp các cháu nhỏ bước đầu làm quen với lịch sử nước nhà.

Nguồn được lấy chủ yếu từ Wikipedia, tạm coi là chính sử, dù đôi khi chưa đầy đủ và còn có chỗ gây tranh cãi.

Vì viết lại sử bằng thơ, tác giả tôn trọng các số liệu và sự thật, chủ trương không bình luận và nhận xét ngoài lề.

Chắc còn nhiều điều khiếm khuyết, mong được lượng thứ.
Thái Bá Tân         
__________


Phần Một: 
CÁC VUA HÙNG (2879 - 258 trước Công Nguyên)

Hơn bốn nghìn năm trước
Đế Minh, cháu Thần Nông,   
Đi chơi vùng Ngũ Lĩnh,
Gặp nàng Vũ tiên rồng.

Kết quả mối tình ấy
Là một người con trai,
Đặt tên là Lộc Tục,
Quả một đấng anh tài.

Lộc Tục là con thứ,
Đế Minh cho làm vương
Của nước Nam, Xích Quỉ,
Được ví như thiên đường.

Đế Nghi, anh Lộc Tục,
Con trưởng của Đế Minh
Được làm vua phương Bắc,
Thuận lý và thuận tình.

Khi lên ngôi, Lộc Tục
Trở thành Kinh Dương Vương,
Vị Vua Hùng thứ nhất
Của một nước hùng cường.

Một lần, Ngài thăm thú
Sông nước hồ Động Đình,
Gặp và lấy Long Nữ,
Con gái vua Thủy Tinh.

Lạc Long Quân, con họ,
Thông minh và có tài,
Về sau nối ngôi bố
Thành Vua Hùng thứ hai.

Tiếp đến là câu chuyện
Lạc Long Quân, Âu Cơ,
Chuyện cái bọc trăm trứng
Truyền tụng đến bây giờ.       

Gần ba thiên niên kỷ
Có mười tám Vua Hùng
Kế tiếp nhau trị nước,
Tước hiệu và tên chung.

Theo một tài liệu sử
Đời vua Lê Đại Hành,
Con số mười tám ấy
Không phải “vua” mà “ngành”.

Mà mỗi “ngành” có thể
Có nhiều vua lên ngai.
Điều ấy giúp giải thích
Quãng thời gian quá dài.

Nước Việt ta thời ấy
Có tên là Văn Lang.
Dưới vua có Lạc tướng,
Lạc hầu và Lạc làng.

Nước có mười lăm bộ,
Giống như tỉnh bây giờ.
Đất Phong Châu trù phú
Được chọn làm kinh đô.

Theo lịch sử ghi lại,
Nước Văn Lang thời này
Đã biết dùng đồ sắt,
Trồng lúa nước, cấy cày.

Đã có sự phân biệt
Nhiều ngành nghề khác nhau.
Dân nước ta lúc đó
Đã có tục ăn trầu.

Xã hội được cơ cấu
Và tổ chức rõ ràng,
Có kỷ cương, pháp luật,
Từ châu xuống thôn làng.

Để nhớ ơn tiên tổ,
Ngày mồng Mười tháng Ba
Nhân dân làm lễ cúng,
Gọi là Ngày Giỗ Cha.

Các Vua Hùng dựng nước,
Vậy thì ta, cháu con,
Phải lo mà giữ nước
Để nước mãi trường tồn.


MỴ CHÂU, TRỌNG THỦY

Xưa, ở nước Âu Lạc,
Vua là An Dương Vương
Muốn xây thành giữ nước.
Một việc rất bình thường.

Thành ấy hình xoắn ốc
Ở kinh đô Cổ Loa,
Phải cao và phải rộng,
Cấu trúc phải hài hòa.

Vua và dân xây mãi,
Thế mà không hiểu sao
Cứ ngày xây, đêm đổ,
Chẳng ai hiểu thế nào.

Vua lập đàn cầu tế,
Thần Kim Qui giúp ngài
Xây xong thành lũy ấy,
Vững chắc cả trong ngoài.

Xong, Kim Qui còn lấy
Một chiếc móng của mình
Đưa cho vua và nói
Nó sẽ giúp giữ thành.    

“Dùng nó làm lẫy nỏ,
Sẽ là chiếc nỏ thần,
Bắn trăm phát trăm trúng,
Một lúc giết nghìn quân.”

Vua liền sai Cao Lỗ,
Một người thợ thông minh,
Làm cho vua nỏ ấy,
Rồi luôn giữ bên mình.

Đó là chiếc nỏ đẹp
Và rất cứng, muốn dương,
Phải là tay lực sĩ
Có sức mạnh phi thường.                 

Nước Nam Hải phía Bắc,
Đánh Âu Lạc nhiều lần,
Nhưng luôn chịu thất bại
Vì gặp phải nỏ thần.

Nên ông vua nước ấy,
Có tên là Triệu Đà,
Bèn phải tính kế khác -
Cho con sang giảng hòa.        

Đó là chàng Trọng Thủy,
Đúng một đấng mày râu,
Cha bắt sang Âu Lạc
Để cầu hôn Mỵ Châu.

Mỵ Châu là con gái
Của vua An Dương Vương,
Một công chúa trong trắng
Và xinh đẹp khác thường.

Vì thơ ngây, trong trắng,
Và cả tin, nên nàng
Đem lòng yêu Trọng Thủy,
Không biết mưu cha chàng.

Về phần mình, Trọng Thủy
Cũng yêu nàng thiết tha,
Tình yêu cũng trong trắng,
Bất chấp ý đồ cha.

Thấy Mỵ Châu, Trọng Thủy
Yêu thương nhau thực lòng,
An Dương Vương đồng ý,
Và họ thành vợ chồng.

Một đêm trăng tuyệt đẹp,
Hai người ngồi trước thềm.
Nước dưới hồ lấp lánh
Nghìn vạn ánh sao đêm.         

Rồi như thể nhân tiện,
Trọng Thủy hỏi vợ mình
Bí quyết nước Âu Lạc
Giữ vững được Loa Thành.

Nghĩ đã là chồng vợ,
Không giấu giếm điều gì
Mỵ Châu liền kể chuyện
Chiếc nỏ thần Kim Qui.

Hơn thế, còn lấy trộm
Chiếc nỏ từ phòng cha,
Hướng dẫn cách sử dụng,
Tỉ mỉ và thật thà.

Hôm sau chàng Trọng Thủy
Xin phép được lên đường
Quay trở về Nam Hải
Tham dự lễ Trùng Dương.

Trước khi đi, lưu luyến,
Chàng nói với Mỵ Châu:
“Sự đời khó biết trước,
Lần này ta xa nhau,      

Nhỡ can qua, ly biệt,
Khó biết đâu mà tìm.”
Mỵ Châu nói: “Nhà thiếp
Có chiếc áo lông chim.

Nếu không may loạn lạc,
Phải chịu cảnh tha hương,
Thiếp nhổ lông chiếc áo
Rồi bỏ lại dọc đường.

Theo đó mà tìm thiếp
Một khi chàng quay về.
Nói đoạn, nàng liền khóc,
Nước mắt chảy dầm dề.

Lại nói chàng Trọng Thủy
Về nước gặp Triệu Đà,
Kể hết về chiếc nỏ
Rồi đưa cho vua cha

Chiếc lẫy thần, chiếc móng
Của thần Rùa Kim Qui
Chàng đã lấy trộm được
Mà không ai biết gì.

Mấy tháng sau, Nam Hải
Với chiếc lẫy trong tay,
Cho quân đánh Âu Lạc,
Chắc thắng lợi lần này.           

Được tin giặc lại đến
Vua Việt, An Dương Vương,
Cậy nỏ thần vô địch,
Vẫn bình tâm như thường.

Nhưng khi đem nỏ bắn
Thì thấy mất lẫy thần,
Thành Cổ Loa thất thủ,
Vua phải trốn, thoát thân.

Chỉ một mình một ngựa,.
Người ngựa phóng như bay,
Sau lưng là con gái,
Liên tục suốt mấy ngày.          

Nàng Mỵ Châu lấy áo,
Nhổ lông rắc dọc đường.
Cuối cùng đến dãy núi,
Đêm vừa buông, mù sương.

Ngọn núi ấy gần biển,
Phía trước không đường đi.
Sau lưng giặc đang đuổi.
Vua không biết làm gì.

Ngài xuống ngựa, cầu khấn
Thần Kim Qui giúp mình.
Khấn xong, trời nổi gió,
Mặt biển chợt rùng mình.

Thần Kim Qui xuất hiện:
“Giặc đang ngồi phía sau!”
Vua Âu Lạc chợt hiểu,
Liền chém con đứt đầu.

Rồi ngài ôm con khóc,
Leo lên tảng đá cao,
Nhảy xuống biển tự tử.
Biển nổi sóng dâng trào.

Nhớ lời vợ, Trọng Thủy
Liền lên đường đi tìm.
Chàng cứ đi, đi mãi,
Lần theo vết lông chim.

Khi đến núi Mộ Dạ,
Chàng tìm thấy Mỵ Châu,
Người vợ chàng yêu quí,
Chết, mà không có đầu.

Chàng ôm vợ than khóc,
Day dứt và chân thành.
Rồi vội vàng lên ngựa
Đem vợ về kinh thành.

Chàng làm lễ mai táng
Theo nghi thức vương gia,
Rồi gieo đầu xuống giếng
Chết trong thành Cổ Loa.

Chiếc giếng ấy, được biết,
Đã trải qua nhiều đời.
Nghe nói lấy nước giếng
Rửa ngọc, ngọc sáng ngời.

Một chuyện tình thật đẹp,
Chân thành và trắng trong.
Mỵ Châu và Trọng Thủy
Đã yêu nhau thật lòng.

Hai người không có lỗi
Với những gì xẩy ra.
Người có lỗi duy nhất
Là ông vua Triệu Đà.

Vì mưu toan chính trị,
Ông giết con trai mình,
Giết luôn cả hạnh phúc
Trong trắng một mối tình.

Nàng Mỵ Châu tội nghiệp
Và cả An Dương Vương
Đều chết vì mắc bẫy
Một mưu mô tầm thường.

Âu chỉ còn biết tiếc
Xót thương cho ba người.
Âu cũng là bài học
Về cảnh giác ở đời.

Ngọn núi ấy, Mộ Dạ,
Nơi đức vua quyên sinh,
Cách chưa đầy cây số
Là làng tôi, Xuân Tình.

Ngày nhỏ cùng lũ trẻ
Đi chăn trâu hàng ngày,
Tôi leo trèo, nghịch ngợm
Trong đền thờ ở đây.

Đền thờ trên mõm núi,
Giữa rừng thông xanh rì.
Tất nhiên có Giếng Ngọc,
Có cả thần Kim Qui.

Giờ đầu hai thứ tóc,
Nhưng mỗi lần về quê,
Tôi vẫn leo lên viếng,
Dẫu khó nhọc, nặng nề.

Còn người thợ Cao Lỗ
Sau cũng chạy về đây
Mang theo nghề rèn đúc
Cho người dân nơi này.

Giờ ngài được thờ cúng
Như thành hoàng Nho Lâm,
Người đã mang cơm áo
Cho làng nhiều, nhiều năm.

Thắp hương vái các vị,
Tự nhiên thấy buồn rầu,
Như chạm vào quá khứ,
Một quá khứ buồn đau.




HAI BÀ TRƯNG (Mất năm 43 sau Công nguyên)

Gần hai nghìn năm trước,
Hai chị em Bà Trưng
Nổi lên chống quân Hán,
Hai vị nữ anh hùng.

Trưng Trắc là bà chị,
Trưng Nhị là bà em,
Làm rạng danh đất nước
Lúc ấy chìm trong đêm.

Họ lập đất nước mới,
Kinh đô ở Mê Linh,
Đuổi Thái thú phương Bắc,
Cai trị theo cách mình.

Đứng đầu đất nước ấy
Là hai vị nữ vương.
Xưa nay trong lịch sử,
Một sự kiện phi thường.

Quan Thái thú Tô Định
Khiến lòng dân bất yên.
Hắn giết chết Thi Sách,
Quan huyện lệnh Châu Diên.

Ông là chồng Trưng Trắc,
Trước đó từng bất bình
Với cách quan nhà Hán
Cai trị dân nước mình.

Vào đầu năm Canh Tý,
Tức là năm bốn mươi,
Hai chị em khởi nghĩa   
Thu hút rất nhiều người.

Trước hết đền nợ nước
Sau để trả thù nhà.
Nghĩa quân thắng dòn dã,
Nức lòng dân gần xa.

Nhiều châu quận hưởng ứng.
Sáu lăm thành đầu hàng.
Tô Định trốn về nước,
Nhục nhã và vội vàng.

Năm sau, triều đình Hán
Sai Mã Viện Phục Ba,
Lưu Long làm phó tướng,
Sang chiếm lại nước ta.

Mã Viện đi đường thủy,
Lưu Long đi đường rừng,
Gặp phải sự chống cự
Nghĩa quân Hai Bà Trưng.

Quân Mã Viện thế mạnh,
Áp tới tận La Thành
Nghĩa quân không chống nổi,
Rút lui bảo vệ mình.

Sau một năm cầm cự,
Dũng cảm và kiên cường,
Quân Hai Bà đành rút,
Binh sĩ chết đầy đường.

Cuối cùng đến Phúc Thọ,
Giặc dụ dỗ ra hàng,
Nhưng Hai Bà tuẫn tiết,
Nhảy xuống dòng Hát Giang.

Ở đấy giờ đang có
Ngôi đền thờ Hai Bà,
Một tấm gương trung liệt,
Trả nợ nước, thù nhà.

Lại nói tướng Mã Viện,
Khi việc bình định xong,
Hắn ngạo nghễ cho đúc
Chiếc cột lớn bằng đồng.

Trên cột đồng hắn khắc
Hai dòng chữ sơn son:
“Khi cột đồng này gãy,
Đất Giao Chỉ không còn.”

Thật láo và hợm hĩnh
Viên tướng người Tàu này.
Cột đồng giờ chẳng thấy,
Nước Việt vẫn còn đây.

Hơn thế, còn hùng mạnh,
Đã đánh đuổi nhiều lần
Quân xâm lược phương Bắc,
Sợ không dám đến gần.


BÀ TRIỆU (225 - 248)

Nghe người ta kể lại,
Xưa ở quận Cửu Chân
Có một con voi trắng
To đẹp như voi thần.

Nó xuống núi phá phách,
Dẫm đạp hết mùa màng.
Nhiều khi còn táo tợn
Xông cả vào xóm làng.

Con voi thật to lớn,
Duy nhất chỉ một ngà.
Ai nhìn thấy cũng sợ,
Phải né tránh từ xa.

Thế mà một cô gái,
Xinh đẹp, để vai trần,
Quyết tay không bắt nó
Để trừ hại cho dân.

Cô đi trước, khiêu khích,
Nhử nó ra đầm sình,
Rồi nhảy lên đầu nó
Đưa về nuôi nhà mình. 

Về sau, cô gái ấy
Chiêu quân chống giặc Ngô,
Luôn cưỡi nó ra trận,
Voi một ngà, khổng lồ.

Truyền thuyết còn kể lại
Rằng ngực cô rất dài,
“Dài tới hơn ba thước”,
Thường phải vắt lên vai.

Quân giặc nhìn, cả sợ,
Liền bỏ chạy thoát thân.
Cô gái ấy xinh đẹp,
Oai nghiêm như vị thần.

Cô gái trong huyền thoại,
Tên là Triệu Thị Trinh,
Một anh hùng dân tộc,
Dám vì dân quên mình.

Bà người huyện Yên Định,
Tỉnh Thanh Hóa bây giờ,
Không may bố mẹ chết
Khi đang còn trẻ thơ.

Anh bà, Triệu Quốc Đạt,
Nuôi em như mẹ hiền.
Ông là một hào trưởng,
Làm huyện lệnh Quan Yên.

Lớn lên, bà giỏi võ,
Có sức khỏe hơn người,
Lại nung nấu chí lớn
Muốn ra tay giúp đời.

Gặp người chị dâu ác,
Bà giết rồi trốn xa,
Lên rừng chiêu binh mã,
Hơn nghìn người theo bà.

Thấy giặc Ngô tàn ác,
Bà về bàn với anh
Cùng khởi binh chống lại,
Và được anh đồng tình.

Từ căn cứ Yên Định,
Nghĩa quân lấn đánh dần,
Chiếm quận lỵ Tư Phố,
Rồi cả vùng Cửu Chân.

Quốc Đạt lâm bệnh chết,
Bà cầm quân thay anh.
Ra trận mặc giáp bạc,
Cưỡi voi, cài trâm anh.

Trông bà thật lẫm liệt,
Xinh đẹp như nữ thần,
Nên người ta thường gọi
Là “Nhụy Kiều Tướng quân.”

Nghe tin có bạo loạn,
Vua Ngô rất lo âu,
Liền cử tướng Lục Dận
Làm thứ sử Giao Châu.

Cùng tám nghìn binh mã,
Theo đường bộ tới đây,
Hắn quyết tâm đàn áp
Cuộc khởi nghĩa lần này.

Hắn dùng tiền mua chuộc
Nhiều hào trưởng địa phương,
Hứa phong cho Bà Triệu
Chức Lệ Hải Bà Vương.

Tất nhiên Bà từ chối,
Nhất quyết không đầu hàng.
Nghĩa binh được khích lệ,
Tinh thần càng vững vàng.

Nhiều trận đánh ác liệt
Ở căn cứ Bồ Điền.
Nhưng do lực quá yếu,
Thiếu lương thực và tiền,

Nên chỉ sau hai tháng
Cầm cự rất kiên cường,
Thành Bồ Điền thất thủ,
Rơi vào tay đối phương.

Bà Triệu đã tuẫn tiết
Trên núi Tùng đầy mây.
Nó ở xã Triệu Lộc,
Huyện Hậu Lộc ngày nay.

Bà mới hăm ba tuổi,
Chết, để lại tấm lòng
Và chiến công hiển hách,
Sống mãi với non sông.


LÝ NAM ĐẾ (503 - 548)

Có một ông vua Việt
Hậu duệ người Trung Hoa,
Đó là Lý Nam Đế,
Chính trực và tài ba.

Vào cuối đời Tây Hán,
Để tránh nạn đao binh,
Tổ tiên ông phiêu dạt
Sang nước Nam yên bình.

Đến đời thứ mười một
Lý Nam Đế mới sinh.
Cụ bà ông người Việt,
Đa tài và rất xinh.

Ông lập nhà Tiền Lý,
Khai sinh nước Vạn Xuân,
Một anh hùng dân tộc,
Sống mãi cùng nhân dân.

Ông tên là Lý Bí,
Sinh ở nơi ngày nay
Là vùng đất Thạch Thất
Và thị xã Sơn Tây.

Năm tuổi, ông mất bố.
Bảy tuổi, mẹ qua đời,
Ông sống với người chú.
Đến khi ông lên mười,

Một nhà sư đức độ
Cho vào chùa nhập thiền.
Sau mười năm đèn sách,
Ông thành người thâm uyên.

Nước Việt ta lúc ấy
Có tên là Giao Châu
Bao gồm cả miền Bắc
Và một phần nước Tàu.

Tiêu Tư là Thứ sử,
Được nhà Lương cử sang.
Hắn nổi tiếng tàn bạo,
Thích vơ vét bạc vàng.

Hắn bổ nhiệm Lý Bí
Làm Giám quân Đức Châu,
Nay thuộc huyện Đức Thọ,
Nhưng một thời gian sau,

Thấy dân tình quá khổ
Vì sưu thuế nặng nề,
Vì chế độ lao dịch,
Ông từ quan về quê.

Ông chiêu binh, mãi mã,
Quyết chống lại người Tàu.
Trong số người hưởng ứng
Có thủ lĩnh nhiều châu.

Năm năm trăm bốn mốt,
Ông phất cờ dấy binh,
Thế mạnh như thác đổ,
Háo hức lòng dân tình.

Tiêu Tư không chống nổi,
Phải bỏ chạy về Tàu,
Đút tiền cho Lý Bí
Để trốn về Quảng Châu.

Toàn bộ vùng Bắc Bộ
Nằm trong tay nghĩa quân.
Rồi châu Hoan, châu Ái
Cũng được giải phóng dần.

Vua nhà Lương, Vũ Đế,
Vào cuối năm bốn hai
Cho quân sang trấn áp,
Cử toàn những tướng tài.

Nghe tin này, Lý Bí       
Liền chủ động đưa quân
Sang bán đảo Hợp Phố
Mai phục sẵn một phần.

Thành Hợp Phố lúc ấy
Còn thuộc về Giao Châu.       
Khi quân Lương kéo đến
Liền bị đánh phủ đầu.

Quân của tướng Tôn Quýnh
Mười phần chết bảy phần.
Thế là thành đại bại,
Hắn phải đành rút quân.

Cả nước được giải phóng
Sau trận chiến thắng này,
Kể cả quận Hợp Phố
Thuộc Quảng Đông ngày nay.

Ngày ấy ở vùng đất
Quảng Bình đến Quảng Nam
Là vương quốc Lâm Ấp,
Ở phía bắc nước Chàm.

Lâm Ấp thấy Lý Bí
Đang bận đánh quân Lương,
Định xâm lấn bờ cõi,
Thái độ rất khinh thường.

Chúng đem quân đánh chiếm
Phần phía Nam Giao Châu,
Quận Nhật Nam, Cửu Đức.
Bằng đường bộ, bằng tàu.

Lý Bí sai tướng giỏi
Vào đánh dẹp, rất nhanh
Đội quân của Lâm Ấp
Đã bị đánh tan tành.

Năm năm trăm bốn bốn,
Lý Bí tự xưng vương,
Gọi là Lý Nam Đế,
Một việc cũng bình thường.   

Niên hiệu là Thiên Đức,
Quốc hiệu là Vạn Xuân.
Lập trăm quan văn võ,
Xuống chiếu để yên dân.

Lập đô ở Đan Phượng,
Thuộc Hà Nội ngày nay,
Cho xây điện Vạn Thọ
Để triều kiến hàng ngày.

Tướng Tinh Thiều giỏi chữ,
Được đứng đầu ban văn.
Còn đứng đầu ban võ
Là Phạm Tu phong trần.

Năm sau, vào tháng Sáu,
Tướng Bá Thiên dẫn đầu
Một đoàn quân hùng mạnh
Sang chiếm lại Giao Châu.

Lý Nam Đế lập tức
Điều ba vạn nghĩa quân
Quyết một lòng bảo vệ
Đất nước mới Vạn Xuân.

Ở cửa sông Tô Lịch
Quân của ông bị thua.
Tướng Tinh Thiều tử trận
Khi phá vây cứu vua.

Thế yếu, Lý Nam Đế
Rút về thành Gia Ninh,
Nay ở tỉnh Phú Thọ,
Để chấn chỉnh lương, binh.

Tháng Giêng năm bốn sáu
Bá Tiên chiếm thành này.       
Tướng Phạm Tu tử trận,
Vua phải bỏ nơi đây

Để đến hồ Điển Triệt,
Huyện Lập Thạch bây giờ.
Ông đóng nhiều thuyền lớn,
Đậu kín cả mặt hồ.

Quân Lương không dám tiến,
Chờ nước lụt dâng cao.
Bất ngờ nước dâng thật,
Thuyền quân giặc kéo vào.

Do không phòng ngự trước
Quân của vua thua to,
Rút về động Khuất Lão,
Dai dẳng thế dằng co.

Năm năm trăm bốn tám,
Ở trong hang quá lâu,
Ông nhiễm bệnh, mù mắt,
Qua đời mấy tháng sau.

Hưởng thọ bốn sáu tuổi,
Trị vì được năm năm,
Vua băng hà, để lại
Lừng lẫy một tiếng tăm.

Người vợ vua yêu quí,
Hoàng hậu Bùi Thị Quyền,
Cũng là một dũng tướng,
Hy sinh cùng chiến thuyền.


TRIỆU VIỆT VƯƠNG (?- 571)

Lý Nam Đế khi mất,
Có dặn dò ân cần
Và trao lại quyền bính
Cho một người rất thân.

Đó là Triệu Quang Phục,
Người cùng bố giúp ông
Đánh giặc Lương đô hộ
Và gây dựng non sông.

Dưới triều đại nhà Lý
Ông là Tả tướng quân,
Người nắm quyền quân sự
Đất nước trẻ Vạn Xuân.

Vâng mệnh, Triệu Quang Phục,
Sau thành Triệu Việt Vương,
Đã giữ vững bờ cõi,
Chống xâm lược nhà Lương.

Ông là con Triệu Túc,
Người ở huyện Chu Diên,
Nay nằm ở vùng đất
Thuộc phía Đông Long Biên.

Hai cha con họ Triệu
Theo Lý Bí từ đầu,
Lập được nhiều công lớn
Truyền tụng mãi về sau.

Năm năm trăm bốn bảy,
Ông đến một đầm lầy
Có tên là Dạ Trạch,
Huyện Khoái Châu ngày nay.

Đó là một đầm lớn,
Ở giữa có gò cao,
Cây cối rất rậm rạp,
Khó ra và khó vào.

Ông tập trung ở đấy
Những hơn hai vạn người.
Dùng chiến thuật du kích,
Dấu khói và dấu người.

Trần Bá Tiên, tướng giặc,
Muốn đánh nhanh thắng nhanh,
Nhưng bị ông giữ lại,
Ngập chân trong bùn sình.

Đêm, các thuyền độc mộc
Đi từ bãi Tự Nhiên
Đến đánh úp lương thảo
Doanh trại Trần Bá Tiên.       

Quân giặc bị bắt sống
Hoặc bị giết hàng nghìn.
Quân Lương rất mệt mỏi,
Nhưng chỉ biết đứng nhìn.

Năm năm trăm bốn tám,
Lý Nam Đế qua đời.
Ông xưng vương, điều ấy
Hợp lẽ người, lẽ trời.

Tên nước vẫn như cũ,
Ông thành Triệu Việt Vương,
Vẫn ở đầm Dạ Trạch,
Vẫn chiến đấu như thường.

Một thời gian sau đó
Trần Bá Tiên về Tàu,
Giao Dương Sàn, tỳ tướng,
Phải mai phục dài lâu.

Vua Vạn Xuân lập tức
Tung quân đánh họ Dương.
Quân Lương thua, tan vỡ
Phải trốn về Bắc phương.

Đất nước hết bóng giặc,
Hết chiến tranh triền miên.
Vua và tôi nhà Triệu
Dọn về thành Long Biên.

Lại nói Lý Nam Đế
Trước có người anh trai
Tên là Lý Thiên Bảo,
Một dũng tướng có tài.

Khi vua Lý gặp khốn,
Bị bệnh, nằm trong hang,
Ông và Lý Phật Tử,
Một người cùng họ hàng,       

Đem ba vạn binh mã
Đánh vào vùng Đức Châu,
Nay thuộc đất xứ Nghệ,
Định tính kế dài lâu.

Họ giết Trần Văn Giới,
Một viên tướng người Tàu,
Rồi đem quân ra Bắc,
Tiến đánh vùng Ái Châu.

Trần Bá Tiên đánh trả,
Họ thua, sang Ai Lao,
Đến đất người Di Lạo,
Nay thuộc về nước Lào.

Binh lính chết già nửa,
Chỉ còn hơn vạn người.
Họ chọn vùng đất rộng,
Màu mỡ và xanh tươi

Rồi lập nên nước mới
Đặt tên là Dã Tăng,
Còn tướng Lý Thiên Bảo
Tự xưng vương, Đào Lang.

Khi vua Đào Lang chết,
Chỉ mấy năm sau này,
Không có con nối dõi,
Lý Phật Tử lên thay.     

Năm năm trăm năm bảy        
Lý Phật Tử lên đường
Đem quân xuống giao chiến
Với quân Triệu Việt vương.    

Hai bên đánh năm trận
Ở vùng đất Thái Bình.
Phật Tử biết mình yêu,
Bèn chủ động hoãn binh.

Ông đề nghị vua Triệu
Cùng thôi binh, giảng hòa.
Hơn thế, còn mong muốn
Được trở thành thông gia.

Con trai Lý Phật Tử,
Có tên là Nhã Lang,
Muốn lấy con vua Triệu
Là công chúa Cảo Nương.

Còn nặng tình họ Lý,
Triệu Việt Vương gật đầu,
Chia đất nước ông có
Thanh hai phần đều nhau.

Phía Tây thuộc Phật Tử,
Phía Đông của Việt Vương.
Đất ai người ấy giữ,
Đúng như lẽ đạo thượng (thường?)

Đường ranh địa giới ấy
Là bãi sậy lơ thơ
Giữa làng Thượng, Hạ Cát
Huyện Từ Liêm bây giờ.

Sau đó Lý Phật Tử
Dọn đến thành Ô Diên
Nay là xã Hạ Mỗ,
Cũng thuộc huyện Từ Liêm.

Hai bên cựu thù địch
Giờ giảng hòa với nhau,
Thề thân ái, đoàn kết
Tới răng long, bạc đầu.

Theo truyền thuyết kể lại,
Khi lấy nàng Cảo Nương,
Nhã Lang muốn tìm hiểu
Binh tình nhà Việt Vương.

Năm năm trăm bảy mốt
Lý Phật Tử bội thề,
Đánh úp Triệu Quang Phục,
Bao vây khắp tứ bề.

Thế yếu không địch nổi,
Cùng con gái của mình
Vua bỏ chạy, chạy mãi
Rồi hai người quyên sinh.

Thế là nhà Triệu mất,
Trị vì hăm ba năm.
Nhà Lý được khôi phục
Sau bao nỗi thăng trầm.

Lên ngôi, Lý Phật Tử
Đóng đô ở Phong Châu,
Cũng xưng Lý Nam Đế,
Các sử gia đời sau

Gọi là nhà Hậu Lý
Để phân biệt gian, ngay
Giữa Lý Bí vua trước
Và Phật Tử vua này.

Nhà Tùy bên Trung Quốc,
Hơn ba mươi năm sau
Cho quân sang đánh chiếm,
Tướng Lưu Phương cầm đầu.

Hay tin, Lý Phật Tử
Rút về thành Cổ Loa.
Bị bao vây, dụ dỗ,
Ông nộp mình xin hòa.

Cả hoàng tộc bị giết,
Một cảnh tượng đáng thương.
Vua bị đưa về Bắc
Rồi cũng chết dọc đường.


MAI HẮC ĐẾ (? -  722)

Cuối thế kỷ thứ bảy,
Ở Ngọc Trừng, Châu Hoan,
Một vùng đất linh kiệt,
Nay là huyện Nam Đàn,

Có cậu bé mười tuổi
Theo mẹ đi vào rừng.
Mẹ bị hổ vồ chết.
Hai mắt lệ rưng rưng,

Cậu thề sau khôn lớn
Giết hổ trả thù này.
Rồi cậu luyện tập võ
Rất chăm chỉ hàng ngày.

Cậu đã giết được hổ,
Có sức mạnh hơn người,
Lại nuôi hoài bão lớn
Sau hành đạo cứu đời.

Đó là Mai Hắc Đế,
Tên thật Mai Thúc Loan,
Một anh hùng dân tộc,
Sinh ở huyện Nam Đàn.

Ông mở nhiều lò vật,
Thành lập các phường săn,
Luôn chiêu mộ trai tráng,
Chuẩn bị sẵn khi cần.

Ông quen nhiều hào kiệt,
Cả đằng trong, đằng ngoài.
Sau trở thành chiến hữu,
Nhiều người thành tướng tài.

Và rồi thời cơ đến,
Năm bảy trăm mười ba,
Ông dấy binh khởi nghĩa
Ở ngay tại quê nhà.

Đó là cuộc khởi nghĩa
Chống lại ách nhà Đường,
Nên nhanh chóng thu hút
Người của khắp bốn phương.

Nghĩa quân đang háo hức,
Thế mạnh như chẻ tre,
Nông dân đến tụ nghĩa
Từ khắp mọi vùng quê.

Mai Thúc Loan nhanh chóng
Hạ được rất nhiều thành,
Giải phóng một vùng lớn
Gồm cả đất xứ Thanh.

Ông lên ngôi, xưng đế,
Đóng đô ở Vạn An,
Nay là một vùng đất
Của thị trấn Nam Đàn.

Vua biết mình mệnh thủy,
Thủy tượng trưng màu đen,
Nên lấy hiệu Hắc Đế,
Chứ da ông không đen.

Ông cho xây thành lũy,
Rèn luyện lính đêm ngày
Để chuẩn bị Bắc tiến,
Kho lương thảo chất đầy.

Nghe nói cả hai nước
Khmer và Chiêm Thành
Cũng giúp ông khởi nghĩa
Càng đánh nhanh, thắng nhanh.

Năm bảy trăm mười bốn
Mai Hắc Đế tiến binh,
Nhằm thẳng hướng Hà Nội,
Lúc ấy gọi Tống Bình.

Thanh thế ông lớn lắm,
Có tới mười vạn quân.
Dọc đường đi, dân chúng
Còn gia nhập thêm dần.

Viên tướng Quách Sở Khách,
Thái thú của nhà Đường,
Thế yếu, không địch nổi,
Phải trốn về Bắc phương.

Cả nước được giải phóng,
Độc lập mười năm trời.
Mười năm không nô lệ,
Mười năm được làm người.

Rồi tướng Dương Thừa Húc
Đem mười vạn tinh binh
Theo đường thủy Đông Bắc
Tấn công thành Tống Bình.

Nhiều trận đánh khốc liệt
Ở sông Lam, sông Hồng,
Dằng co hai thế trận
Phòng ngự và tấn công.

Cuối cùng Mai Hắc Đế
Phải rút vào rừng sâu.
Ông bị bệnh rồi mất,
Để lại một mối sầu.


NGÔ QUYỀN (898 – 944)      

Người anh hùng dân tộc,
Tiền Ngô vương Ngô Quyền,
Trong lòng người dân Việt
Là một vị vua hiền.

Bằng chiến thắng lịch sử
Trong trận Bạch Đằng giang,
Ông đặt dấu chấm hết
Nghìn năm ách ngoại bang.

Từ đấy nền độc lập
Và tự chủ nước nhà
Được khẳng định thêm nữa
Trong hơn nghìn năm qua.

Ông con một hào trưởng
Thế lực lớn, công dày
Ở châu Đường Lâm cũ,
Nay là đất Hà Tây.

Mới lọt lòng, thầy tướng
Thấy ba chấm sau lưng,
Liền sụp lạy mà phán
Sau danh tiếng lẫy lừng.

Nước Việt ta ngày ấy
Gọi là Tĩnh Hải Quân,
Do nhà Đường cai trị,
Dân khổ sở muôn phần.

Mà triều chính lúc đó
Cũng rối ren nhiều bề.
Nhà Đường đang suy sụp,
Quan lại thì nhiêu khê.

Hào trưởng Dương Đình Nghệ
Thâu tóm quyền dần dần
Rồi thành Tiết độ sứ
Cả vùng Tĩnh Hải Quân.

Họ Dương lắm kẻ mạnh,
Họ Ngô nhiều người hiền,
Liên kết, gả con gái
Cho chàng trai Ngô Quyền.

Rồi Ngô Quyền được cử
Cai trị đất Ái Châu,
Một vùng đất rộng lớn,
Đông dân và khá giàu.

Năm chín trăm ba bảy,
Kiều Công Tiễn đê hèn
Sát hại Dương Đình Nghệ
Rồi thâu tóm toàn quyền.

Bị nhiều người phản đối,
Tiết độ sứ họ Kiều
Sang cầu quân Nam Hán.
Lợi ít, nhục thì nhiều.

Ngô Quyền đem binh lính
Từ Châu Ái đánh ra,
Giết chết Kiều Công Tiễn,
Nhanh chóng rửa thù nhà.

Rồi ông lo chuẩn bị,
Quân và dân một lòng,
Đợi quân Hán xâm lược,
Đóng cọc các dòng sông.

Năm chín trăm ba tám,
Ở cửa sông Bạch Đằng
Thuyền của quân Nam Hán
Sa bẫy cọc đang giăng.

Phần bị cọc đâm thủng,
Phần bị thuyền Ngô Quyền
Đánh đắm hơn một nửa.
Rồi sông nước lại yên.

Tướng giặc Lưu Hoằng Tháo
Bỏ mạng nơi chiến trường.
Từ đó giặc phương Bắc
Bỏ mộng chiếm Nam phương.

Ngô Quyền xưng vương đế,
Đóng đô ở Cổ Loa,
Lập nên triều đại mới,
Làm vẻ vang nước nhà.

Trong những năm sau đó
Ông làm rất nhiều điều
Để chấn hưng kinh tế,
Được mọi người thương yêu.

Bốn sáu tuổi, ông mất,
Trị vì được sáu năm,
Rồi nhà Ngô sụp đổ
Năm chín trăm sáu lăm.


CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG

Có một trận đánh lớn,
Một chiến thắng vẻ vang
Trong lịch sử dân tộc,
Là chiến thắng Bạch Đằng.

Chiến thắng ấy oanh liệt
Chấm dứt hơn nghìn năm
Phải lệ thuộc phương Bắc,
Đau khổ và tối tăm.

Nó lật sang trang mới
Trong lịch sử nước nhà.
Một kỷ nguyên độc lập,
Cho vua và dân ta.

Kỷ nguyên xây dựng nước,
Của văn hóa Thăng Long,
Của văn minh Đại Việt,
Thắng Minh, Tống, Nguyên Mông...

Đất nước ta thời ấy
Gọi là Tĩnh Hải Quân,
Còn chưa có quốc hiệu,
Chưa có vua và thần.

Năm chín trăm ba mốt,
Dương Đình Nghệ dấy binh
Đánh đuổi quân Nam Hán,
Tự phong vua cho mình,

Gọi là Tiết Độ Sứ.
Được sáu năm, và rồi
Nha tướng Kiều Công Tiễn
Giết Nghệ để lên ngôi.

Con rể Dương Đình Nghệ
Là danh tướng Ngô Quyền,
Chiêu binh đánh Công Tiễn,
Trừng trị tội đê hèn.

Công Tiễn sợ, vội vã
Cầu Nam Hán cứu nguy.
Vua Nam Hán, Lưu Nghiễm,
Liền hưởng ứng tức thì.

Hắn sai con, Hoằng Tháo,
Đắc thắng và hung hăng,
Dẫn hai vạn quân thủy
Tiến vào sông Bạch Đằng.

Ngô Quyền, trong khi đó,
Từ châu Ái đánh ra
Giết chết Kiều Công Tiễn,
Chiếm được thành Đại La.

Ông liền cho binh sĩ
Đóng cọc xuống dòng sông,
Những chiếc cọc to, nhọn,
Mũi bịt sắt, bịt đồng.

Cuối đông năm ba tám,
Hoằng Tháo cho chiến thuyền
Từ cửa sông hùng hổ
Cứ rẽ nước tiến lên.

Quân Việt nhử phía trước,
Thuyền chúng tiến sâu vào.
Bất chợt thủy triều rút,
Các cọc nhọn nhô cao.

Phần lớn thuyền bị thủng,
Phần khác kẹt giữa dòng.
Quân Ngô Quyền lúc ấy
Mới được lệnh tấn công.

Hơn nửa quân giặc chết.
Hoằng Tháo, vốn hung hăng,
Giờ bỏ mạng nhục nhã,
Vùi dưới sông Bạch Đằng.

Nghe tin con tử trận,
Vua Nam Hán thất kinh,
Đang phục ở biên giới,
Đành ra lệnh thoái binh.

Thế là từ trận ấy,
Cứ tắt dần, tắt dần
Giấc mộng của Nam Hán
Đánh chiếm Tĩnh Hải Quân.

Về sau, Trần Hưng Đạo
Cũng dùng cách đánh này
Mà thắng quân Mông Cổ.
Một cách đánh cực hay.

Năm chín trăm ba chín
Ngô Quyền lập triều Ngô
Của một nước độc lập,
Cổ Loa là kinh đô.

Theo các nhà lịch sử,
Ông là vua của vua.
Ông đánh thắng Đại Hán.
Chuyện ấy không phải đùa.   



BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG (? - 791)

1
Đường Lâm, đất long mạch,
Gần thị xã Sơn Tây
Vốn xưa rất tươi tốt,
Nhiều gò và rừng cây.

Đất địa linh, nhân kiệt,
Sản sinh nhiều người hiền
Kể cả hai vua lớn -
Phùng Hưng và Ngô Quyền.

Phùng Hưng thuộc dòng dõi
Cự tộc và lâu đời.
Phùng Hạp Khanh là bố,
Tài đức quả hơn người.

Cụ tổ Phùng Tôi Cái
Từng phục vụ trong cung
Của vua Đường Cao Tổ,
Cũng là đấng anh hùng.

Sau khi giúp Hắc Đế
Nổi dậy chống nhà Đường,
Phùng Hợp Khanh trở lại
Với cuộc sống đời thường.

Ông chăm lo công việc,
Sớm trở thành rất giàu.
Ba con trai sinh hạ.
Phùng Hưng là con đầu.

Tiếp đến là Phùng Hải.
Phùng Dĩnh - em thứ ba.
Đến năm mười tám tuổi,
Mà côi cả mẹ cha.

Phùng Hưng được nối nghiệp
Thành hào trưởng Đường Lâm.
Ông cao to, khỏe mạnh,
Chính trực và công tâm.

An Nam đô hộ phủ,
Là tên nước bấy giờ,
Do nhà Đường cai trị,
Quan thì lo vét vơ,

Dân quanh năm lao dịch,
Lại sưu thuế nặng nề,
Đâu cũng nghe lời oán,
Khốn khổ đủ trăm bề.

2
Cuối thế kỷ thứ tám,
Nhân lính ở Tống Bình,
Nay là thành Hà Nội,
Nổi loạn trong trại binh,

Phùng Hưng đã phát động
Khởi nghĩa chống nhà Đường,
Nhận được sự hưởng ứng
Của người khắp bốn phương.

Thành Đường Lâm thất thủ.
Được Phùng Hưng dẫn đầu,
Nghĩa quân chiếm phần lớn
Vùng đất quanh Phong Châu.

Lo xây thành, đắp lũy,
Ông và hai em trai
Chốt các nơi xung yếu
Để chiến đấu lâu dài.

Quan thứ sử Trung Quốc,
Tức là Cao Chính Bình,
Nhiều lần đem quân dẹp,
Thế trận cứ lình xình,

Hết đánh lại phòng ngự,
Vừa đánh vừa nghỉ ngơi,
Không thua cũng không thắng
Suốt hai mươi năm trời.

Năm bảy trăm chín mốt,
Được Anh Hàn tiên sinh
Làm quân sư chiến lược,
Phùng Hưng đánh Tống Bình.

Ông chia quân năm đạo,
Từ năm hướng vây thành.
Vừa đánh vừa chiêu mộ
Thêm tướng và tân binh.

Cao Chính Bình cố thủ,
Nhưng thân cô, thế cô,
Cuối cùng đổ bệnh chết
Vì sợ hãi, buồn lo.

Phùng Hưng lên thay hắn
Cai trị đất An Nam.
Tiếc rằng ông chết sớm,
Nhiều việc chưa kịp làm.

Phùng An, con trai cả,
Nối ngôi, hai năm sau
Đất nước ta lần nữa
Rơi vào tay người Tàu.

Chúng truy lùng gay gắt
Cả gia tộc họ Phùng,
Nên người gia tộc ấy
Phải tỏa đi các vùng.

Người anh hùng dân tộc
Phùng Hưng chống nhà Đường
Được nhân dân tôn tặng
Là Bố Cái Đại Vương.


ĐINH BỘ LĨNH (924 – 979)

Hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh,
Còn gọi Đinh Tiên Hoàng,
Người đầu tiên xưng đế
Trong lịch sử Nam Bang.

Sau nghìn năm Bắc thuộc,
Dẹp mười hai sứ quân,
Lập nước Đại Cồ Việt,
Lo vỗ về muôn dân,

Ông là người khẳng định
Chủ quyền nước Nam ta,
Mở đầu các triều đại
Phong kiến của nước nhà.

Ông chấn hưng kinh tế
Bằng cách cho đúc tiền,
Đồng Thái Bình Hưng Bảo,
Loại tiền đồng đầu tiên.

Bảy mươi triều sau đó
Theo ông đúc tiền đồng,
Giúp kinh tế phát triển,
Hàng hóa được lưu thông.     

Ông người làng Đại Hữu
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
Bố là Đinh Công Trứ,
Suốt đời theo nghiệp binh.

Không may bố mất sớm,
Ông theo mẹ về quê,
Phải nương nhờ ông chú,
Cũng vất vả đủ bề.

Ngày nhỏ Đinh Bộ Lĩnh
Cùng lũ trẻ chăn trâu
Thường chơi trò chiến trận,
Phất cao cờ hoa lau.

Về sau, lũ trẻ ấy
Một số thành bạn hiền,
Theo ông dựng cơ nghiệp
Như Nguyễn Bặc, Đinh Điền. 

Dẫu nhà nghèo, còn nhỏ,
Ông thường xưng là vua,
Bắt lũ trẻ phục dịch
Trong các trò chơi đùa.

Nghe người ta kể lại,
Một lần, để “khao quân”,
Ông giết bò của chú,
Rồi cả bọn cùng ăn.

“Bò đâu?” ông chú hỏi.
Ông bèn chỉ chiếc đuôi
Cắm xuống bùn, và nói:
“Bò chui xuống đất rồi!”        

Sau khi Ngô Quyền mất,
Đất nước suy yếu dần,
Rồi xảy ra loạn lạc,
Loạn mười hai sứ quân.

Tức là loạn cát cứ,
Mỗi người chiếm một phương.
Lại mất mùa, đói kém,
Người dân khổ trăm đường.

Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh
Tự dấy quân, chiêu binh,
Sau nhập với Trần Lãm
Cát cứ ở Thái Bình.

Khi tướng Trần Lãm chết,
Ông được tôn lên thay,
Lại chiêu binh thêm nữa,
Thế lực lớn từng ngày.  

Từ Hoa Lư hiểm trở,
Ông xuất quân, lên đường,
Rồi đánh đâu thắng đó,
Tự xưng Vạn Thắng Vương.

Cuối cùng, ông lần lượt
Dẹp hết các sứ quân,
Thống nhất cả đất nước,
Hợp ý trời, lòng dân.

Ông lên ngôi Hoàng Đế,
Năm Mậu Thìn, tháng Tư,
Lập nước Đại Cồ Việt,
Lập đô ở Hoa Lư,

Rồi cho xây cung điện,
Thiết lập các chế triều,
Ban sắc các hàm phẩm,
Chỉnh lý rất nhiều điều.

Hoàng Đế Đinh Bộ Lĩnh
Mười hai năm trên ngôi,
Chỉ thọ năm lăm tuổi
Vì chết thảm, than ôi.   

Số là do yêu quí
Con út là Hạng Lang,
Lúc ấy mới bốn tuổi,
Ngài cho kế ngai vàng.

Trong khi đó, Đinh Liễn
Là con trưởng của Ngài,
Người lập nhiều công trạng,
Lại bị gạt ra ngoài.

Vậy là xẩy ra họa,
Cái họa của bao người
Khi bỏ trưởng lập thứ,
Thêm bài học cho đời.

Đinh Liễn, lúc tức giận,
Xuống tay giết Hạng Lang,
Còn vua thì bị giết
Bởi tên quan hạng xoàng.

Tên hắn là Đỗ Thích,
Do một đêm nằm mơ
Thấy sao rơi vào miệng,
Nghĩ mình sẽ làm vua,

Hắn giết Đinh Bộ Lĩnh,
Đinh Liễn Nam Việt vương.
Một âm mưu quen thuộc,
Nhơ bẩn và tầm thường.

Tuy nhiên, hai người chết
Có thể có bàn tay
Của một số người khác.
Mà thôi, chuyện sau này.


CON NGỰA ĐÁ

Ngày xưa, ở làng nọ
Có một người đàn bà
Tên gọi là Đàm Thị,
Sống bằng nghề nông gia.

Một hôm ra suối tắm,
Khi cởi hết áo quần,
Thấy có con rái cá
Đang lừng lững đến gần,

Bà sợ quá, ngất xỉu,
Khi tỉnh lại, thấy mình
Nằm cạnh con rái cá,
Người trần truồng, thất kinh,

Bà vội mặc quần áo,
Cuống quít chạy về nhà,
Giấu chồng, không dám kể
Câu chuyện vừa xẩy ra.

Hơn chín tháng sau đó,
Theo lẽ rất bình thường,
Bà sinh một đứa bé
Khôi ngô và dễ thương.

Mấy năm sau, chồng chết,
Bà thấy con trai mình,
Tên là Đinh Bộ Lĩnh,
Khỏe mạnh và thông minh.

Đặc biệt về bơi lội,
Nó có thể hàng giờ
Lặn sâu, không cần thở,
Mãi không chịu lên bờ.

Còn con rái cá nọ,
Dẫu trốn sâu trong hang,
Có người bắt, làm thịt,
Đem chia cho cả làng.

Đàm Thị không ăn thịt,
Chỉ lấy một ít xương,
Đem phơi khô, hong bếp
Rồi giấu dưới gậm giường.

Một ông thầy địa lý,
Người Tàu, từ Bắc Kinh,
Đến đây tìm long mạch
Để táng cốt cha mình.

Khi đến dòng suối nọ,
Thấy có ánh hào quang
Chiếu lên sao Thiên Mã,
Ông ta liền vội vàng

Cho tiền Đinh Bộ Lĩnh,
Bảo lặn xuống xem sao.
Lặn ở chỗ sâu nhất,
Nơi nước réo ào ào.

Chàng lặn xuống, chợt thấy
Con ngựa đá khổng lồ.
Nó nhìn chàng giận giữ,
Chiếc miệng há rất to.

Chàng sợ quá, quay lại
Nói với ông người Tàu.
Ông đưa một bó cỏ,
Bảo đem xuống thật mau.

Sau khi nghe chàng nói
Ngựa ăn cỏ, ông này
Liền kêu lên sung sướng:
“Long mạch chính là đây!

Ai táng cốt bố mẹ
Vào nơi này khác thường,
Nhờ long mạch nhất định
Sẽ được phát đế vương!”

Rồi lão đưa hài cốt
Của cha lão cho chàng,
Bảo mang cho ngựa đá,
Hứa thưởng một đồng vàng.

Chàng lặn xuống lần nữa,
Nhét xương bố lão này  
Vào một ngách đá hẻm
Mà lão chẳng hề hay.

Hôm ấy về gặp mẹ,
Kể chuyện này lạ kỳ.
Chàng hỏi hài cốt bố,
Bà im, chẳng nói gì.      

Rồi bà đưa cái gói
Xương rái cá ngày nào,
Bảo đấy là xương bố,
Đem cho ngựa xem sao.

Đinh Bộ Lĩnh lập tức
Làm theo lời mẹ chàng,
Và rồi, nhờ long mạch,
Sau thành Đinh Tiên Hoàng.

Lại nói thầy địa lý,
Nghe tin chàng xưng vương,
Biết là mình bị lỡm,
Liền khăn gói lên đường

Đến nước Đại Cồ Việt,
Xin được vào gặp vua,
Bảo tình xưa, bạn cũ.
Lão được gặp, và thưa:

“Dạ, muôn tâu hoàng thượng,
Cũng nhờ bởi phúc trời
Mà Ngài dựng nên nghiệp,
Thu phục được muôn người.

Nhưng thiết nghĩ ngựa đá
Cần thêm thanh gươm này
Để giúp Ngài trị nước
Và hưng thịnh từ nay.”

Nói đoạn, lão cung kính
Dâng chiếc gươm sáng ngời,
Hai lưỡi đều rất sắc.
Bản tính vốn tin người,

Vua nhận gươm, sai lính
Lặn xuống suối, và rồi
Đeo nó lên cổ ngựa,
Không biết rằng, than ôi,

Ngài đã mắc mưu lão,
Rơi vào thế hiểm nghèo:
Gươm cứa đứt cổ ngựa,
Long mạch cũng đứt theo.

Vậy là vua sơ ý
Giết quí nhân của mình.
Cũng nhanh chóng chấm dứt
Triều đại của nhà Đinh.


LÊ ĐẠI HÀNH (941 – 1005)

Sau vua Đinh Bộ Lĩnh
Là vua Lê Đại Hành,
Một ông vua kiệt xuất
Được sử sách lưu danh.

Khởi dựng triều đại mới,
Lo chấn hưng nước nhà,
Bình Chiêm và phá Tống,
Nâng vị thế quốc gia,

Ông là vị tướng giỏi,
Công tâm khi dùng người,
Khôn ngoan trong giao tế,
Để tiếng tốt cho đời.

Theo sử sách ghi lại,
Ông xuất thân nghèo hèn,
Có cha là Lê Mịch,
Mẹ là Đặng Thị Sen.

Trường Châu là bản quán,
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
(Cũng có người nói khác
Về quê gốc, nơi sinh).

Cha mẹ qua đời sớm,
Được chú nuôi, và ông
Lớn lên, theo Đinh Liễn,
Lập được nhiều chiến công.

Ông giúp Đinh Bộ Lĩnh
Dẹp loạn sứ, yên dân,
Được phong Đại Nguyên Soái,
Chức Thập Đạo Tướng Quân.

Lúc ấy ông còn trẻ,
Mới hăm bảy tuổi đời,
Nhưng có tài thao lược,
Biết thu dụng lòng người.

Đinh Tiên Hoàng bị giết,
Triều đình đang bất an,
Ông trở thành nhiếp chính
Cho ấu chúa Đinh Toàn.

Các đại thần nổi loạn,
Phía Nam họa Chiêm Thành,
Phía Bắc có giặc Tống,
Để mất nước sao đành?

Nên tướng Phạm Cự Lạng,
Thái hậu Dương Vân Nga
Tôn ông lên ngôi báu
Để cứu nguy nước nhà.

Ông lên ngôi Hoàng Đế,
Xưng là Lê Đại Hành,
Đặt niên hiệu Thiên Phúc,
Hoa Lư là kinh thành.

Ông khuyến khích nông nghiệp,
Là vị vua đầu tiên
Hàng năm cho mở lễ
Gọi là lễ Tịch Điền.

Ông cho dân đào đắp
Rất nhiều kênh và sông
Để lấy nước tưới ruộng
Và tiện bề lưu thông.

Đầu năm tám chín một
Quân Tống đánh Đại Cồ,
Chia hai đường thủy bộ,
Thanh thế đang rất to.

Đường bộ qua xứ Lạng,
Đường thủy theo Bạch Đằng,
Nơi quân ta đóng cọc
Thành thế trận đang giăng.

Ở bến sông Tây Kết,
Chúng thất bại ê chề,
Nhiều dũng tướng bị giết,
Quân bộ đành rút về.

Công đầu của đại thắng
Thuộc về Lê Đại Hành,
Một nhà quân sự lớn,
Còn lưu mãi sử xanh.

Vua đích thân ra trận,
Nhờ thao lược của ông
Mà xác quân Tống chết
Ngập núi và đầy sông.

Chỉ một năm sau đó
Vua cử Ngô Tử Canh
Và Từ Mục đi sứ
Sang đất nước Chiêm Thành.

Họ bị Chiêm giữ lại.
Vua tức giận, ngày đêm
Sai chuẩn bị thuyền chiến,
Tự mình đi bình Chiêm.

Trong một thời gian ngắn
Lê Đại Hành thắng to,
Chém vua Chiêm tại trận,
Thành quách đốt thành tro.

Tù binh nhiều vô kể,
Có cả sư, nữ tỳ,
Vàng bạc thu ức vạn,
Không thiếu một thứ gì.

Hăm sáu năm trị quốc,
Vua sáu lần dấy binh
Đánh quân Chiêm quấy phá,
Giữ biên giới yên bình.

Vua Lê Đại Hành chết,
Để lại một giang sơn
Hùng cường và thống nhất,
Nhưng thật tiếc, các con

Lại tranh nhau ngôi báu,
Lại huynh đệ tương tàn,
Khiến bỏ bê chính trị
Và dân chúng lầm than.

Rồi đời Lê chấm dứt
Bằng ông vua xấu xa
Là Ngọa Triều Long Đĩnh,
Gian ác và dâm tà.


THÁI HẬU DƯƠNG VÂN NGA (952 – 1000)

Ngày xưa có cô bé
Mắc cái tật lạ kỳ,
Là đêm thường hay khóc,
Không hiểu lý do gì.

Một hôm có đạo sĩ
Đi ngang qua tình cờ,
Thấy thế liền dừng lại
Rồi đọc mấy câu thơ:

“Nào nín đi, cháu bé.
Việc gì phải khóc hoài.
Mai kia còn gánh vác
Đôi sơn hà trên vai.”

Đứa bé nghe, im bặt.
Từ ngày ấy, lạ ghê,
Ngủ yên không cần dỗ,
Không bao giờ khóc nhè.

Sau này bé gái ấy
Rất nổi tiếng, vì bà
Là vợ hai vua lớn -
Thái hậu Dương Vân Nga.

Bà sinh ở vùng đất
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình,
Bố là Dương Thế Hiển,
Thuộc dòng dõi hiển vinh.

Dương là họ của bố.
Còn Vân Nga là gì?
Tên hai làng ghép lại:
Vân Long và Nga My.

Bà nổi tiếng xinh đẹp,
Loại tài sắc vẹn toàn,
Đến mức nhiều giai thoại
Loan truyền trong dân gian.

Bà là hoàng thái hậu
Hai triều vua khác nhau,
Vợ của Đinh Bộ Lĩnh
Và Lê Hoàn về sau.

Đinh Toàn, vị vua cuối
Của triều đại nhà Đinh,
Là con trai thái hậu
Với Tiên Hoàng, chồng mình.

Còn khi bà là vợ
Của vua Lê Đại Hành,
Bà sinh cô công chúa
Là Lê Thị Phất Ngân.

Sau nàng thành hoàng hậu
Vị vua Lý đầu tiên,
Tức vua Lý Thái Tổ,
Nổi tiếng một vua hiền.

Hơn thế, nàng là mẹ
Của vua Lý Thánh Tông,
Một ông vua nhân đức
Từng lập nhiều chiến công.

Ông lập nước Đại Việt,
Lấy ba châu Chiêm Thành,
Phá Tống, xây Văn Miếu
Chấn hưng việc học hành.

Khi Đinh Tiên Hoàng chết,
Thái hậu Dương Vân Nga
Biết đặt lợi ích Nước
Cao hơn lợi ích Nhà.

Vua Đinh Toàn còn nhỏ,
Mà thù trong giặc ngoài.
Bà gạt qua nghi kỵ,
Bắt con mình nhường ngai,

Để một vị tướng giỏi,
Mà sau là chồng bà,
Bình Chiêm và phá Tống,
Chấn hưng lại nước nhà.

Làm xong sứ mệnh lớn,
Cuối đời bà tu hành
Ở chùa Am Tiên Động
Phía đông Hoa Lư thành.      

Nghe người ta kể lại,
Bà và Lê Đại Hành
Ngày trẻ có duyên thắm,
Tiếc trời không cho thành.

Nên đôi uyên ương ấy
Phải chờ mãi về sau,
Khi công thành danh toại,
Mới lần nữa gặp nhau. 

Âu cũng là trời định,
Nhưng cuối cùng hai người
Đã đi vào lịch sử
Như tấm gương cho đời.

Ở Ninh Bình thành phố
Hiện có hai con đường
Chạy song song thật đẹp,
Mang tên đôi uyên ương.       


LÝ THÁI TỔ (974 – 1028)

Một trong những vua lớn
Của nước Việt Nam ta
Là vua Lý Thái Tổ,
Vẻ vang sử nước nhà.

Ông lập nên triều Lý
Kéo dài những chín đời,
Mở đầu nước Đại Việt,
Được lòng dân, lòng trời.

Ông sửa sang việc nước,
Dùng chính sách “thân dân”,
Sưu thuế nhẹ và ít,
Còn miễn thuế nhiều lần.

Ông đề cao đạo Phật,
Xây chùa chiền, đắp đê,
Còn cho quan sang Tống
Thỉnh kinh Tam Tạng về.

Ông là người viết chiếu
Dời đô về Thăng Long,
Giúp đất nước phát triển
Theo thế của con rồng.

Ông người châu Cổ Pháp
Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Mẹ họ Phạm, ba tuổi,
Kháu khỉnh và thông minh,

Trụ trì chùa Cổ Pháp
Nhận ông làm con nuôi,
Đưa vào chùa dạy dỗ,
Học Phật, học làm người.

Năm ông lên bảy tuổi,
Một thiền sư lừng danh
Có tên là Vạn Hạnh
Nhận làm học trò mình.

Ông được sư Vạn Hạnh
Cho vào hầu vua Lê.
Vua Lê rất yêu quí,
Luôn chăm sóc, vỗ về.

Lớn lên, ông phục vụ
Trong cung Lê Đại Hành,
Làm đến Chỉ Huy Sứ
Bảo vệ Hoa Lư thành.

Vua còn gả công chúa
Là Lê thị cho ông,
Sinh ra Lý Phật Mã,
Rất được vua hài lòng.

Khi vua Đại Hành chết,
Triều đình thật rối ren.
Tiếm ngôi, Lê Long Đĩnh
Thành ông vua yếu hèn.

Rồi Lê Long Đĩnh chết,
Ông được tôn lên thay
Nhờ tướng Đào Cam Mộc
Và Vạn Hạnh, sư thầy.

Triều Lý được thiết lập.
Cung đình lại bình yên,
Quyền lực được củng cố,
Yên vui khắp mọi miền.

Vậy là Lý Công Uẩn,
Ở tuổi ba mươi lăm,
Thành vua Lý Thái Tổ,
Trị vì mười chín năm.

Ông chấn chỉnh chế sắc,
Đặt niên hiệu Thuận Thiên,
Cất nhắc các quan lại,
Toàn xứng đáng, người hiền.

Thấy đất Hoa Lư hẹp,
Toàn núi cao, khe sâu,
Không tiện làm đô hội,
Khó phát triển dài lâu,

Ông xuống chiếu di chuyển
Kinh đô về Đại La,
Mở đầu kỷ nguyên mới
Cho lịch sử nước nhà.

Năm Thuận Thiên thứ nhất,
Một nghìn không trăm mười,
Đến đất kinh đô mới,
Vua ngước nhìn lên trời

Liền giật mình, chợt thấy
Thấp thoáng bóng con rồng
Đang bay lên, tuyệt đẹp,
Nên đổi thành Thăng Long.

Quan hệ với nước Tống,
Ông khôn khéo nhún nhường,
Vua Tống không sinh sự,
Lại còn phong sắc vương.

Năm Thuận Thiên mười một,
Ông chinh phạt Chiêm Thành,
Giành được thắng lợi lớn,
Thanh thế cũng tăng nhanh.

Vua Chiêm và Chân Lạp
Sang triều cống hàng năm.
Việc bang giao yên trị,
Dân yên ổn làm ăn.       

Năm một không hai tám
Lý Thái Tổ băng hà,
Hưởng thọ năm lăm tuổi,
Phật Mã lên thay cha.

Ông là vị vua tốt,
Hiệu là Lý Thái Tông,
Một vị tướng tài giỏi,
Chuyên đánh Tây dẹp Đông.

Ông xây Chùa Một Cột,
Đào Kênh Lẫm, Thần Phù,
Đối xử rất nhân đạo
Với những người bị tù.

Ông cải cách pháp luật,
Theo hướng nhẹ thì tha,
Soạn Bộ luật Hình sự
Đầu tiên của nước nhà.

Khi Lý Thái Tông chết,
Lý Thánh Tông lên thay.
Lịch sử luôn ghi nhớ
Công lao vị vua này.

Vua thứ ba nhà Lý,
Ông là vị minh quân,
Đặt quốc hiệu Đại Việt,
Yêu nước và thương dân.

Ông cho xây Văn Miếu,
Chăm lo việc học hành,
Dám đem quân đánh Tống,
Lấy ba châu Chiêm Thành.

Ba châu ấy rất lớn,
Thuộc vùng đất bây giờ
Là Quảng Bình, Quảng Trị,
Mầu mỡ và nên thơ.

Xã hội luôn ổn định
Dưới triều Lý Thánh Tông.
Quả không phải hổ thẹn
Với hương hồn cha, ông.


TRẦN THÁNH TÔNG (1240 – 1290)

Thái sư Trần Thủ Độ,
Vốn là một quyền thần,
Thu xếp sự chuyển tiếp
Từ triều Lý sang Trần.

Năm một hai hai bốn
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con gái,
Rồi ép nàng lấy chồng.

Lấy cháu ông, Trần Cảnh.
Lý Chiêu Hoàng bấy giờ
Vừa mới lên bảy tuổi,
Trẻ con và ngây thơ.

Sau đấy ông lại ép
Nàng nhường ngôi cho chồng,
Cũng trẻ con, bảy tuổi,
Sau thành Trần Thái Tông.

Lớn lên, ông vua ấy
Là một vị vua hiền,
Người có công lãnh đạo
Cuộc chiến chống quân Nguyên.

Thái Tông và hoàng hậu
Mãi vẫn không có con.
Sợ không người nối dõi
Để ngôi báu trường tồn,

Thái sư Trần Thủ Độ
Ép vua lấy chị dâu,
Tức là vợ Trần Liễu,
Lúc ấy đang có bầu.

Rồi họ sinh Trần Hoảng,
Sau thành Trần Thánh Tông,
Một anh hùng dân tộc,
Chiến thắng giặc Nguyên Mông.

Trần Thánh Tông trị quốc
Trong vòng hai mươi năm.
Đất nước luôn thịnh trị,
Không có giặc ngoại xâm.

Ông đặc biệt chú ý
Lo cuộc sống cho dân,
Giảm phu phen, lao dịch,
Tạo điều kiện làm ăn.

Lê Văn Hưu viết sử
Theo chiếu lệnh của ông.
Cuốn Đại Việt sử ký
Cuối cùng đã viết xong.

Bộ sử ba mươi cuốn
Từ xưa đến Chiêu Hoàng.
Tiếc bây giờ thất lạc,
Nhưng là cuốn sử vàng.

Ông mở nhiều trường học,
Đúc chuông, xây chùa chiền,
Lập xưởng đúc vũ khí
Đóng sẵn các chiến thuyền.

Khi còn nhỏ, Thái tử
Từng theo cha Thái Tông
Nhiều lần ngự thuyền chiến
Tham gia đánh Nguyên Mông.

Ông cho phép vương thất
Cùng dân nghèo khai hoang.
Các vương hầu từ đó
Nhiều người có điền trang.

Ông đều đặn xuống chiếu
Kén chọn các hiền tài
Sung vào nơi Quán, Các,
Không phân biệt trong ngoài.

Năm một hai bảy tám
Thánh Tông nhường ngôi vàng
Cho Thái tử Trần Khảm
Để thành Thái thượng hoàng.

Ông lui về Cung Bắc
Rồi xuống tóc, nhập thiền,
Nghiên cứu về Phật Giáo,
Xây dựng nhiều chùa chiền.

Năm một hai tám bốn
Quân Nguyên lại tấn công.
Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn
Được phụ trách quốc phòng.

Quân Nguyên bị đánh bại
Lần thứ hai, thứ ba,
Đều có công đóng góp
Của Thánh Tông vua cha.     

Năm một hai tám chín,
Khi kết thúc chiến tranh,
Thánh Tông về ở ẩn,
Làm thơ và du hành.    


THƠ TRẦN THÁNH TÔNG

Chơi phủ An Bang

Sáng chơi cùng mây núi.
Tối eo biển đầy sao,
Đang nghỉ, chợt cao hứng,
Đầu bút, chữ tuôn trào.

Đề động Huyền Thiên

Hương khói đền Ngọc Đế.
Huyền Thiên chìm trong mây.
Tiếng cầu kinh khe khẽ.
Hoa rụng vì chim bay.

Tặng Trần Quang Khải

Suốt một đời tận tụy,
Trọn cả danh lẫn công.
Với hai triều trung hiếu,
Quả không ai bằng ông.

Ngày xuân trong vườn ngự, nhớ người xưa

Vắng người, lối nhỏ phủ rêu xanh.
Cửa cung hờ khép, liễu buông mành.
Trong vườn rực rỡ hoa muôn sắc.
Cho ai hoa đẹp thế trên cành?         

Cảnh mùa hè

Vệt rừng mưa tạnh, biếc xa xa.
Ngày rụng bóng dài lên gác hoa.
Dìu dịu hương sen thơm sát cửa.
Đôi tiếng ve kêu rộn bóng tà.

Tự nói về mình     

Nhàn rỗi, vô công sáng lại chiều,
Gẩy đàn không điệu, lắng thông reo.
Bất chợt trong lòng ngân tiếng nhạc.
Chỉ gió trên cành, nghe, họa theo.

Tự nói về mình

Lòng ta không cạn, cũng không đầy.
Phật không, người không, gió hây hây.
Cảnh thu sâu thẳm, trời sâu thẳm.
Mây vờn quanh núi, núi vờn mây.

Cảm xúc khi đọc Phật sự Đại minh lục

Tu bốn mươi năm một tấm lòng.
Vượt ngàn ải ngục, tựa như không.
Động như tiếng gió vang trong núi.
Tĩnh giống vầng trăng sáng giữa đồng.
Đường đời bốn ngả tha hồ bước.
Ngũ huyền đạo lý đã tinh thông.
Đừng hỏi thế nào là sinh, diệt.
Hãy nhìn trời nước rất xanh trong.

Chơi hành cung Thiên Trường

Thật thanh, thật nhã cảnh nơi này.
Như chốn thần tiên mây trắng bay.
Như đàn réo rắt - trăm chim hót.
Như nghìn đầy tớ - cả rừng cây.
Hồ thu in bóng trời thu lạnh.
Người nhàn, trăng sáng cũng nhàn lây.
Cuộc đi này hẳn vui hơn trước.
Biển lặng, trời trong rộng tháng ngày.      


TRẦN NHÂN TÔNG (1258 – 1308)

Anh minh và nhân ái,
Đức vua Trần Nhân Tông,
Một ông vua vĩ đại,
Sống mãi cùng non sông.        

Không chỉ vua, hơn thế,
Ngài còn là Phật Hoàng,
Lập Trúc Lâm Yên Tử,
Mở một kỷ nguyên vàng.

Ngài là con trai trưởng
Đức vua Trần Thánh Tông.
Trần Khâm là tên húy,
Anh hùng chống Nguyên Mông.

Năm một hai bảy tám,
Nhận ngôi từ vua cha,
Đúng lúc giặc Mông Cổ
Lại đe dọa nước nhà.

Thế lực giặc rất lớn,
Không ít người nản lòng,
Nhưng Ngài quyết chủ chiến,
Mở Hội nghị Diên Hồng.                  

Ngài là người đoàn kết
Sức mạnh toàn quốc gia.
Lòng tự hào dân tộc
Nhờ đó mà thăng hoa.

Được Thánh Tông giúp sức,
Ngài lãnh đạo nhân dân
Đánh thắng quân xâm lược
Liên tục cả hai lần.        
                                       
Tháng Tư năm Ất Dậu,
Tức một hai tám năm,
Ngài sai Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Toản mang quân

Đánh giặc ở Tây Kết,
Suýt bắt sống Thoát Hoan,
Rồi sau đó thắng lớn
Ở cửa Hàm Tử Quan.

Năm một hai hai tám,
Sau trận thắng Bạch Đằng,
Mở Thái Bình Diên Yến,
Ba ngày ba đêm trăng. 

Quân Ai Lao lúc đó
Cũng thường quấy nước ta.
Đích thân Ngài gươm giáo
Lên đường chinh phạt xa.

Cương quyết không để mất
Một tấc đất tiền nhân.
Bằng mọi giá phải giữ.
Ngài nói thế nhiều lần.  

Để kết tình hòa hiếu,
Ngài gả con Huyền Trân,
Công chúa Ngài yêu quí,
Cho vua Chiêm Chế Mân.

Nước Đại Việt từ đó
Có thêm được mấy châu,
Đất rộng, người thưa thớt
Nhưng tài nguyên rất giàu.

Xong việc, năm Quý Tỵ,
Tức một hai chín ba,
Ngài nhường con ngôi báu,
Cùng gánh vác sơn hà.

Năm một hai chín chín,
Ngài xuất gia tu hành
Ở Vũ Lâm cung cấm,
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.

Rồi Ngài đến Yên Tử,
Niệm kinh và tưới hoa,
Lập dòng thiền đất Việt,
Hiệu Trúc Lâm Đầu Đà.

Trong Trúc Lâm Tam Tổ,
Ngài là vị tổ đầu,
Pháp Loa là tổ tiếp,
Huyền Quang tổ về sau.         

Năm một ba không tám,
Tức là năm Mậu Thân,
Ở Ngọa Vân, Yên Tử
Ngài từ giã cõi trần.

Ngài từ người thành Phật
Sau tám năm xuất gia.
Chết, xá lị được giữ
Như báu vật nước nhà.

Tro Ngài được an táng
Và hậu thế tôn thờ
Trong tháp lăng Quí Đức,
Tỉnh Thái Bình bây giờ.

Theo sử sách kể lại,
Một lần về Thăng Long,
Ngài rất buồn khi thấy
Con mình, Trần Anh Tông,

Trình Ngài bản danh sách
Hàng trăm quan nhỏ to
Mới được vua cất nhắc,
Tưởng Ngài vui, ai ngờ,

Ngài vứt tờ giấy ấy,
Vỗ vai con, và rồi
Nói: Nước mình bé nhỏ,
Nhiều quan, lấy ai nuôi?

Đó là bài học lớn
Về trị nước, yên dân.
Quan nhiều là gánh nặng,
Khiến đất nước nghèo dần.

Ngài là vua, là Phật,
Lại còn là nhà thơ.
Ba lăm bài tuyệt tác
Còn lưu đến bây giờ.     

Đó là thơ tứ tuyệt
Và một số thơ Đường,
Về thiên nhiên, thiền phật,
Về lẽ sống đời thường.

Theo sử sách kể lại,
Lên Yên Tử, dọc đường
Ngài bị ba tên cướp
Cầm giáo ra chặn đường.

Ngài ôn tồn hỏi chúng,
Mới biết nghèo, làm liều,
Rồi lấy, đem cho chúng
Suất cơm Ngài mang theo.

Khi đến một quả núi
Có hình như mâm xôi,
Định ăn thì sực nhớ
Suất cơm cho mất rồi.

Ngài đành bảo Bảo Sái,
Người hầu luôn theo Ngài,
Xuống suối lấy nước uống
Thay cơm cho cả hai.

Về sau ở núi ấy,
Có ngôi chùa, trước sân
Ghi hai chữ “Cấm Thực”,
Tức là chùa không ăn.

Khi Ngài lên Yên Tử,
Một mình giữa rừng sâu,
Triều đình sợ Ngài khổ,
Cho cung nữ theo hầu.

Ngài không chịu, bảo họ
Nếu muốn, trở về quê.
Nhưng tất cả cung nữ
Nhảy xuống suối Hổ Khê        

Để tỏ lòng thương mến
Và trung thành với Ngài.
Con suối ấy sau đó
Đổi thành Giải Oan Đài.

Khi tu ở Yên Tử,
Ngài thường leo hàng ngày
Lên đỉnh núi cao nhất,
Bốn mùa chìm trong mây.

Ngài cho xây ở đấy
Chiếc am nhỏ Ngọa Vân,
Nơi Ngài thiền, đọc sách,
Hưởng cái thú thanh bần.

Khi Ngài sắp viên tịch,
Trời mưa gió dầm dề.
Mồng ba, tháng Mười Một,
Bỗng gió lặng, trời se.   

Ngài liền hỏi Bảo Sái:
“Giờ này là giờ gì?”
“Bạch thầy, là giờ Tý”.
“Đã đến giờ ta đi”.

Nói xong, Ngài viên tịch,
Nằm nghiêng như Phật nằm,
Ở ngay trong am núi,
Nơi Ngài tu tám năm.

Pháp Loa, theo di chúc,
Thiêu xác Ngài, lát sau
Thấy nghìn viên xá lị
Lung linh đủ các màu.        


THƠ TRẦN NHÂN TÔNG

Xuân sớm

Sáng dậy vén rèm cửa.
Xuân đã đứng cạnh nhà.
Đôi bướm nhỏ cánh trắng
Chấp chới bay tìm hoa.

Trên hồ Động Thiên

Động Thiên cảnh tiêu điều:
Hoa héo, cỏ cây xiêu.
May trời thương, thỉnh thoảng
Ban cho tiếng chuông chiều.

Tiễn sứ bắc Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai

Tiễn đưa quyến luyến cạnh Linh Trì.
Gió xuân không giữ được người đi.
Không biết sao lành hai sứ bắc
Thêm được mấy ngày chiếu Nam di?

Cảnh xuân

Chim kêu trong khóm liễu sau nhà.
Bóng chiều rụng nhẹ xuống thềm hoa.
Khách quý đến chơi không hỏi chuyện,
Chỉ cùng chủ đứng, ngắm mây xa.

Đêm mười một tháng Hai

Rượu quý rửa hồn, hương ngất ngây.
Giường rồng, chiếu trúc, giấc xuân say.
Bên song hoa nở, trời như nước.
Ngoài hiên trăng sáng tựa ban ngày.         

Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường

Xóm nhỏ chìm trong khói ráng hồng.
Cảnh chiều nửa có, nửa như không.
Trẻ giục trâu về, vui thổi sáo.
Cò trắng từng đôi đậu xuống đồng.

Trăng

Đèn soi song cửa, sách đầy giường.
Đêm lạnh, bên ngoài sân ướt sương.
Tiếng chày đập vải làm thức giấc.
Trăng vướng cành hoa, mù vấn vương.

Cảnh chiều ở Châu Lạng

Chùa cổ mờ mờ trong khói mây.
Chuông điểm, dây thuyền buộc gốc cây.
Núi lặng, nước trong, nghiêng cánh nhạn.
Lá đỏ, mây buồn lưu luyến bay.

Thơ đề ở nhà thủy tạ Phổ Minh

Nhà trên mặt nước, thoảng mùi hương.
Chùa đóng, cây đa đứng vệ đường.
Hồ nước mới dâng, không lạnh lắm.
Theo tiếng ve sầu, thu vấn vương.

Mạn hứng khi ở trên núi

Đúng sai rốt cuộc như hoa rụng.
Hết mưa, hết muốn lợi và danh.
Sau tiếng chim kêu, xuân lại úa.
Hoa tàn, mây tạnh, núi xanh xanh.

Thanh nhàn

Sống nơi yên tĩnh, thảnh thơi lòng.
Xạc xào gió thổi giữa cành thông.
Chiếu trải dưới cây, kinh một quyển.
Thanh nhàn hai chữ có hơn không?

Lên núi Bảo Đài

Đất vắng, đài thêm cổ.
Trời đẹp, mới chớm xuân.
Ngõ, nửa râm, nửa nắng,
Mây nửa xa, nửa gần.
Việc trôi như nước cuốn.
Lòng nhủ lòng bao lần.
Tựa hiên, nâng sáo ngọc.
Trăng bàng bạc ngoài sân.

Phủ Thiên Trường

Quạnh hiu lá đỏ, núi xanh, vàng.
Sau mưa đường sạch, trời mây quang.
Các sư về viện, trai đường vắng.
Nửa đêm, trăng đã xế trên làng.
Ba chục cung tiên, giường xếp dọc.
Tám nghìn ngọn tháp, nước âm vang.
Phổ Minh chùa cổ không thay đổi.
Trong mơ bất chợt nhớ tiên hoàng.

Chùa Thần Quang trên núi Đại Lâm

U nhã Thần Quang, vắng suốt ngày.
Giữa vùng rừng núi phủ đầy mây.
Ba nghìn thế giới thu vào mắt.
Mười hai tòa tháp tựa trên tay.
Cây thông trăm tuổi, sư đầu bạc.
Bèo bọt thói đời cứ đổi thay.
Ngoài việc thắp hương và cúng Phật,
Hết thảy mọi điều sư chẳng hay.


HỒ QUÝ LY (1336 – 1407)

Cuối thế kỷ mười bốn
Các vương triều nhà Trần
Đã trở nên ruỗng mục,
Thối nát, mất lòng dân.

Có Khu Mật Đại Sứ
Tên là Hồ Quý Ly,
Nắm hết mọi quyền lực,
Chẳng coi vua ra gì.

Cái phải đến đã đến,
Năm một nghìn bốn trăm,
Ông phế Trần Thiếu Đế,
Rồi lên ngôi âm thầm.

Như vua Lý Nam Đế,
Tổ tiên ông một thời
Người Triết Giang, Trung Quốc,
Sang ta đã nhiều đời.

Hồ Quý Ly quê gốc
Ở Quỳnh Lưu, Nghệ An,
Sau chuyển ra Thanh Hóa,
Rồi vào triều làm quan.

Ông có hai cô ruột
Là hoàng hậu, ân nhân.
Sau hai con của họ
Cũng trở thành vua Trần.

Khi lên ngôi, tên nước
Ông đổi thành Đại Ngu,
Dời đô vào Thanh Hóa,
Huyện Vĩnh Lộc bây giờ.        

Sau một năm tại vị,
Ông nhường lại ngai vàng
Cho con trai trị quốc
Để làm Thái thượng hàng.

Theo các tài liệu sử,
Ông là người nhẫn tâm,
Để lo trừ hậu họa,
Chỉ trong vòng một năm,

Tổng cộng ông đã giết
Ba trăm bảy mươi người,
Chủ yếu người hoàng tộc.
Một tội ác để đời.

Dẫu mưu mô, ác độc,
Nhưng vua Hồ Quý Ly
Có rất nhiều cải cách
Mà sử sách còn ghi.

Những cải cách tiến bộ,
Tầm nhìn rộng và xa,
Nếu đem thực hiện hết
Sẽ chấn hưng nước nhà.

Về lĩnh vực hành chính,
Ông đặt nhiều chức quan
Để giám sát các lộ,        
Phòng ngừa những việc gian.

Ông thêm chức Liêm phóng
Ở châu, lộ xa gần,
Để báo triều đình biết
Thực tình của người dân.

Về lĩnh vực kinh tế,
Ông cải cách hạn điền.
Giới hạn số ruộng đất
Của tầng lớp có quyền.

Trừ vương hầu, gia tộc,
Ông qui định mỗi nhà
Có không quá mười mẫu,
Cả ruộng gần, ruộng xa.

Về số lượng người ở,
Cũng không được quá nhiều.
Tùy gia sản, thứ bậc
Mà được nuôi bao nhiêu.

Ông phát hành tiền giấy,
Nhằm đẩy mạnh công thương,
Thay đổi chế độ thuế,
Quy định cách đo lường.

Rồi mở thêm trường học,
Bắt sĩ tử đi thi
Phải thi môn toán pháp,
Mới được lên kinh kỳ.

Ông đặc biệt coi trọng
Chữ Nôm của nước nhà,
Sai dịch ra chữ ấy
Các sách cổ Trung Hoa.

Lại còn mở kho thóc
Giá rẻ cho người nghèo.
Chăm lo việc thủy lợi,
Đào sông, đắp đê điều.

Ông đặt sở Quản Tế,
Sở y tế bây giờ,
Rồi cất quan coi sóc
Không chểnh mảng, thờ ơ.

“Quản Tế Thư” được lập,
Kiểu bệnh viện tế bần,
Chữa bệnh bằng châm cứu
Và thuốc Nam cho dân.

Là tài năng kiệt xuất,
Với nghị lực phi thường,
Ông đeo đuổi cải cách,
Tiếc đứt gánh giữa đường.

Hồ Quý Ly biết trước
Dã tâm của nhà Minh,
Nên chuyên tâm chấn chỉnh
Việc công và việc binh.

Ông cải cách quân đội,
Xây thành, lo quốc phòng,
Lập hộ tịch bắt lính,
Đóng cọc các cửa sông.

Ông là người tài giỏi,
Nhưng chỉ là quan văn,
Rất tiếc đã thất bại,
Vì không được lòng dân.

Năm một bốn không sáu,
Lấy cớ giúp nhà Trần,
Nhà Minh sang xâm lược,
Điều hai mươi vạn quân.

Tướng giặc là Trương Phụ,
Chia nhiều mũi tấn công.
Thế yếu, quân Việt rút
Sang phía Nam sông Hồng.

Thành Thăng Long thất thủ
Trong vòng mấy tháng sau.
Vua rút về Thanh Hóa
Định tính kế dài lâu.

Bị quân địch truy đuổi,
Ông chạy vào Kỳ La,
Bây giờ thuộc Hà Tĩnh,
Rồi cha con ông ta

Bị quân Minh bắt sống
Đưa về nộp Bắc Kinh,
Dọc đường bị sát hại.
Không rõ lắm sự tình.

Cũng có tài liệu nói
Chúng đưa về Quảng Tây,
Bắt lao dịch ở đấy
Rồi chết mòn sau này.

Vậy là triều Hồ mất,
Chỉ tồn tại bảy năm
Nhưng cũng kịp làm được
Một số việc cần làm.

Nước Đại Việt lần nữa
Rơi vào ách ngoại bang,
Phải chờ đến Lê Lợi
Mới độc lập huy hoàng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét