Truyện Thơ Danh Nhân Việt - 2
LÊ
LỢI (1385 – 1433)
Giặc
nhà Minh phương Bắc
Diệt
xong Hồ Quý Ly,
Quyết
xóa văn minh Việt,
Không
để lại chút gì.
Chúng
đốt hết sách vở,
Hoặc
chở về Yên Kinh.
Hoạn
đàn ông Đại Việt,
Làm
điêu đứng dân tình.
Chúng
bắt, đưa về nước
Những
người giỏi, người tài.
Tịch
thu các thư tịch,
Các
bia đá, tượng đài.
Lòng
muôn dân ta thán,
Đâu
cũng thấy bất bình.
Đúng
lúc ấy xuất hiện
Vị
anh hùng cứu tinh.
Người
ấy là Lê Lợi,
Một
chúa trại Lam Sơn.
Ông
dấy binh khởi nghĩa,
Rửa
mối nhục căm hờn.
Năm
một bốn một sáu,
Cùng
mười tám hiền tài,
Ông
thề quyết đánh giặc
Trong
hội thề Lũng Nhai.
Nhiều
anh hùng, hào kiệt
Giúp
ông dựng cơ đồ:
Nguyễn
Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Đinh
Lễ, Lê Đa Bồ...
Năm
một bốn một tám,
Ông
phong vương cho mình,
Hịch
kêu gọi dân chúng
Chống
lại ách nhà Minh.
Nghĩa
quân ông lãnh đạo
Tạm
thất bại ban đầu,
Nhưng
giành nhiều thắng lợi
Trong
giai đoạn về sau.
Năm
một bốn hai bảy
Cuộc
kháng chiến thành công,
Khôi
phục nền độc lập,
Vua
và dân nức lòng.
Trong
năm năm trị nước,
Ông
làm được nhiều điều:
Lấy
đất người giàu có
Đem
chia cho người nghèo.
Soạn
lại luật hình sự
Theo
mô hình nhà Đường.
Lo
chấn hưng văn hóa
Bằng
cách xây thêm trường.
Các
cơ cấu hành chính
Và
bộ máy công quyền
Cũng
được điều chỉnh lại
Theo
hướng trọng người hiền.
Là
anh hùng dân tộc,
Nhà
quân sự đại tài,
Cuối
đời, vua Lê Lợi
Cũng
có nhiều điểm sai.
Ông
thay ngôi thái tử,
Quá
tin lời người thân,
Mà
đang tâm bức hại
Cả
những bậc trung thần.
Nguyễn
Trãi bị tù tội,
Trần
Nguyên Hãn quyên sinh.
Đó
không phải là việc
Của
đấng vua anh minh.
Năm
năm trên ngôi báu,
Năm
một bốn ba ba,
Hưởng
thọ bốn tám tuổi
Vua
Lê Lợi băng hà.
TRUYỀN
THUYẾT VỀ LÊ LỢI
Xung
quanh vua Lê Lợi
Và
cuộc khởi nghĩa này
Có
khá nhiều truyền thuyết
Được
lưu truyền xưa nay.
Truyện
kể rằng Lê Lợi,
Khi
chưa dựng sơn hà,
Có
bạn tên là Thận,
Như
anh em một nhà.
Thận
làm nghề chài lưới,
Một
hôm đi ra sông,
Thấy
đáy nước phát sáng,
Rất
nghi hoặc trong lòng.
Ông
quăng lưới bắt cá,
Mãi
không thấy cá đâu,
Chỉ
vớt được thanh sắt
Dài
một thước, sỉn màu.
Định
vứt đi, nhưng tiếc,
Ông
đem nó về nhà,
Vứt
vào trong góc tối,
Đêm
phát sáng chói lòa.
Một
hôm Lê Lợi đến,
Thấy
lạ, hỏi sự tình.
Rồi
xin thanh sắt ấy
Đem
về nhà cho mình.
Ông
cho người rửa sạch,
Đánh
bóng lớp gỉ đen,
Thấy
trên đó chữ “Lợi”
Và
hai chữ “Thuận Thiên”.
Hôm
sau, bước ra cửa,
Thấy
vỏ gươm bằng vàng,
Ông
sụp lạy xuống đất
Rất
cung kính, mà rằng:
“Nếu
đây là gươm báu
Trời
ban cho Lợi này,
Thì
hãy làm phép lạ,
Cho
nhập làm một ngay!”
Ông
giơ thanh sắt nhỏ
Trước
mặt mình, bất ngờ
Thanh
sắt thành gươm sáng
Cho
vào vỏ rất vừa.
Đêm
hôm ấy bất chợt
Mưa
gió to rất lâu.
Sáng
dậy, vợ Lê Lợi
Khi
đi ra vườn rau
Thấy
bốn vết chân lớn,
Rất
rộng và rất dài
Bà
gọi chồng, muốn hỏi
Dấu
chân này của ai.
Rồi
hai người lại thấy
Chiếc
ấn ngọc đắt tiền,
Trên
mặt có chữ “Lợi”
Và
hai chữ “Thuận Thiên”.
Về
sau, lên ngôi báu,
Vua
dùng hai chữ này
Làm
niên hiệu Đại Việt.
“Thuận
ý trời” là đây.
Lê
Lợi liền vội vã
Đem
nó giấu trong nhà,
Mừng
được trời giao ấn,
Lo
đại sự quốc gia.
Theo
truyền thuyết, Lê Lợi
Luôn
mang gươm theo mình,
Dùng
nó chém đầu địch,
Đuổi
hết giặc nhà Minh.
Khi
công thành danh toại,
Vua
Lê Lợi một lần
Đi
thuyền rồng du ngoạn
Trên
mặt hồ Thủy Quân.
Bỗng
Rùa Vàng xuất hiện,
Đòi
gươm báu, và hồ
Đổi
tên thành Hoàn Kiếm,
Ngay
trong lòng thủ đô.
Truyền
thuyết cũng kể lại,
Lê
Lợi thời kỳ đầu,
Một
lần bị giặc đuổi,
Phải
chạy vào rừng sâu.
Ở
đấy ông bất chợt
Thấy
có một xác người,
Một
cô gái, trên cỏ,
Khuôn
mặt vẫn còn tươi.
Ông
dùng gươm đào huyệt,
Đắp
cho nàng nấm mồ,
Khấn,
mong nàng phù hộ
Giúp
ông dựng cơ đồ.
Khi
quân Minh đuổi đến,
Ông
trốn vào hốc cây.
Bầy
chó cứ sục sạo
Rất
lâu bên cây này.
Giặc
sinh nghi, dùng kiếm
Đâm
xuyên cây, trúng người.
Lê
Lợi phải lấy áo
Lau
kiếm sạch máu tươi.
Rồi
chúng lấy lửa đốt.
Và
từ thân cây già
Bất
chợt một con cáo
Lông
màu trắng chạy ra.
Bầy
chó ùa theo đuổi.
Giặc
bỏ đi vội vàng.
Lê
Lợi may thoát chết,
Sụp
lạy trước mộ nàng.
Nàng
đã hóa thành cáo,
Chạy
trước mặt đám đông,
Để
thu hút bầy chó
Và
giải cứu cho ông.
Về
sau ông lập miếu
Thờ
nàng như thờ thần,
Còn
truy tặng danh hiệu
Là
Hồ Ly Phu Nhân.
Nơi
Lê Lợi thoát chết
Bây
giờ là cánh đồng,
Có
tên là Đồng Chó
Bên
cạnh một dòng sông.
Ngày
nay con sông ấy
Được
gọi là sông Chu,
Nằm
không xa Bái Thượng,
Nơi
thường nhiều sương mù.
Khi
hay tin Lê Lợi
Đang
chiêu quân đánh Tàu,
Trần
Nguyên Hãn cải dạng
Thành
một anh bán dầu
Vào
Đông Đô tìm cách
Gặp
Nguyễn Trãi tiên sinh,
Người
đang bị giam lõng,
Kiểm
soát bởi quân Minh.
Rồi
sau khi bàn luận,
Hai
người trốn khỏi thành,
Lặn
lội tìm minh chúa
Trong
núi rừng xứ Thanh.
Được
Nguyễn Trãi hiến kế
Với
kế hoạch “Bình Ngô”,
Lê
Lợi mời hai vị
Tham
gia dựng cơ đồ.
Nguyễn
Trãi sai lấy mật
Viết
lên nhiều lá cây
Mọc
bên sông gần đấy
Tám
chữ nho thế này:
Lê
Lợi là hoàng đế
Chữ
“Lê Lợi vi quân”,
Bầy
tôi là Nguyễn Trãi,
Chữ
“Nguyễn Trãi vi thần”.
Tất
nhiên kiến thấy mật
Liền
bu đến rất đông.
Chúng
ăn, đục xuyên lá,
Lá
rơi xuống dòng sông.
Những
chiếc lá có chữ
Nước
cuốn đi khắp nơi,
Dân
chúng nhặt lên đọc,
Nghĩ
đó là ý trời.
Nhờ
những chiếc lá ấy,
Người
tìm đến đông dần,
Cùng
tham gia khởi nghĩa,
Vì
“Lê Lợi vi quân”.
Lại
nữa, một lần nọ,
Giặc
đuổi gấp phía sau,
Lê
Lợi thấy hai cụ
Đang
tát nước ruộng sâu,
Liền
nhảy ào xuống ruộng,
Cởi
áo, để ngực trần,
Giả
làm người mò cá
Như
con nhà nông dân.
Giặc
kéo đến liền hỏi:
Thấy
ai chạy qua không?
Hai
cụ đáp: Không biết.
Chúng
tôi mải làm đồng.
Thấy
Lê Lợi có vẻ
Muốn
nghe chuyện, bà già
Quát:
Mày lo mò cá
Rồi
còn sớm về nhà!
Giặc
nghe thế, tưởng thật,
Liền
bỏ đi, hai người
Mời
về nhà nghỉ tạm,
Lúc
ấy đã tối trời.
Trước
bữa cơm giản dị,
Hai
cụ lạy rồi thưa:
Chúng
tôi, lúc nguy khốn,
Có
thất lễ với vua...
Lê
Lợi lạy rất thấp,
Cảm
ơn hai cụ già.
Lúc
thành vương, quay lại,
Vất
vả tìm đến nhà
Thì
hai cụ đã chết.
Để
ghi nhớ ân sâu,
Ông
cho lập miếu cúng,
Còn
thụy phong tước hầu.
LÊ
LAI CỨU CHÚA
Theo
Đại Việt thông sử,
Quan
Nội hầu Lê Lai
Là
người tính cương trực,
Có
chí và có tài.
Năm
một bốn một tám,
Mới
phất ngọn cờ đào,
Bị
thua ở Mường Một,
Vua
chạy về Trịnh Cao.
Đó
là nơi hẻo lánh,
Nhiều
thú dữ, ít dân.
Giặc
bao vây tứ phía,
Tình
thế hiểm nguy dần.
Nghĩa
quân thì lính ít,
Lương
thực thiếu bất ngờ.
Ở
lại sẽ chết hết.
Làm
thế nào bây giờ?
Đó
là điều day dứt,
Làm
phiền lòng Lê Lai,
Khiến
bồi hồi nhớ lại
Ngày
Hội thề Lũng Nhai.
Cuối
cùng ông đề nghị
Đức
vua cởi áo bào
Để
ông mặc, ra trận,
Mở
đường huyết xem sao.
Và
rồi, đóng giả chúa,
Cưỡi
voi phủ lụa vàng,
Ông
cùng năm trăm lính,
Xông
vào giặc, thét vang:
“Ta
là vua Lê Lợi,
Quyết
chiến cùng chúng mày!
Đứa
nào không muốn sống,
Hãy
nhanh chóng ra đây!”
Rồi
tả xung, hữu đột,
Ông
chém giết hồi lâu,
Cho
đến khi đuối sức,
Bị
giặc bắt, chém đầu.
Trong
khi đó, Lê Lợi
Và
binh tướng của ông
Thoát
vây, sau lãnh đạo
Cuộc
khởi nghĩa thành công.
Cảm
vì lòng trung nghĩa,
Vua
Lê Lợi cho người
Tìm
xác ông chôn cất,
Lập
miếu thờ suốt đời.
HỘI
THỀ LŨNG NHAI
Năm
một bốn một sáu,
Một
buổi sáng ban mai,
Lê
Lợi và các tướng
Mở
Hội Thề Lũng Nhai.
Cùng
mười tám vị khác
Chung
chí hướng như mình,
Lê
Lợi tế trời đất,
Thề
chống lại giặc Minh.
Thề
có trời chứng dám,
Mười
chín người khác nhau,
Nay
qui tụ làm một,
Đặt
vận nước lên đầu.
Mười
chín vị hào kiệt,
Từ
gần và từ xa,
Thề
thương yêu, đoàn kết
Như
anh em một nhà.
Rằng
chúng tôi, Lê Lợi,
Cùng
Nguyễn Trãi, Lê Ninh,
Đinh
Lễ, Lê Nhân Chú,
Trịnh
Khả, Lê Văn Ninh...
Thề
một lòng giết giặc,
Thề
cứu giúp dân lành.
Ai
có lòng dạ khác
Sẽ
chết bởi thần linh.
Hội
thề ấy lịch sử
Đã
thu hút nhều người
Về
Lam Sơn tụ nghĩa
Để
hành đạo thay trời.
Nó
cũng là cơ sở,
Bước
quan trọng ban đầu
Để
Lam Sơn khởi nghĩa
Khoảng
gần hai năm sau.
HỘI
THỀ ĐÔNG QUAN
Sau
mười năm kháng chiến,
Lê
Lợi và nghĩa binh
Đã
dồn vào thế bí,
Quân
xâm lược nhà Minh.
Quân
giặc bị vây hãm
Suốt
từ Bắc chí Nam.
Vương
Thông, chủ tướng giặc,
Nằm
bẹp ở Đông Quan.
Sau
thất bại của tướng
Mộc
Thạnh và Liễu Thăng,
Vua
Minh phải tuyên bố
Bãi
binh - tức đầu hàng.
Theo
tinh thần dân tộc:
Quyết
chiến nhưng thân hòa.
Thắng
giặc vẫn trải chiếu
Cho
chúng rút về nhà,
Năm
một bốn hai bảy,
Lê
Lợi và Vương Thông
Cùng
nhất trí gặp mặt
Ở
Đông Quan, sông Hồng.
Cuộc
gặp ấy được gọi
Là
Hội thề Đông Quan,
Tức
là một thỏa thuận
Để
giặc rút an toàn
Trong
thời gian năm tháng,
Không
cướp bóc của dân,
Không
tiến hành chiến sự
Dọc
đường chúng rút quân.
Về
phần mình, Đại Việt,
Để
cho chúng được yên,
Cung
cấp đủ lương thực,
Xe
ngựa và tàu thuyền.
Các
tướng giặc kéo đến
Đứng
trước dinh Bồ Đề,
Lạy
tạ tướng Đại Việt
Rồi
lủi thủi ra về.
Hội
thề - Hiệp định ấy
Cho
phép mười nghìn quân
Của
giặc Minh sót lại
Rút
về nước dần dần.
Một
trang sử chói lọi.
Một
“Hội thề” vinh quang.
Ta,
cháu con, phải nhớ,
Để
sống cho đàng hoàng.
LÊ
THÁNH TÔNG (1442 – 1497)
Lê
Thánh Tông hoàng đế,
Tên
thật Lê Tư Thành,
Một
nhà văn hóa lớn,
Một
ông vua anh minh.
Ngài
đã đưa dân tộc
Lên
một kỷ nguyên vàng
Của
thời đại phong kiến,
Một
trang sử vẻ vang.
Ngài
tiến hành cải cách
Nhiều
lĩnh vực, nhiều ngành,
Còn
mở mang bờ cõi,
Chiếm
kinh đô Chiêm Thành.
Mẹ
Ngài suýt bị hại
Vì
chỉ là tiệp dư,
Nếu
không có Nguyễn Trãi
Và
Thị Lộ nhân từ.
Hai
mẹ con được họ
Đưa
đến chùa Huy Văn,
Nay
Đống Đa, Hà Nội,
Lánh
nạn, sống thanh bần.
Ngẫu
nhiên do phe cánh,
Mà
Ngài được lên ngôi,
Niên
hiệu là Quang Thuận,
Năm
một bốn sáu mươi.
Vua
liền cho xét lại
Vụ
án Lệ Chi Viên.
Minh
oan cho Thị Lộ,
Phục
danh người đức hiền.
Ngài
phục danh, lập miếu
Thờ
Nguyễn Trãi ân nhân.
Con
cái Trần Nguyên Hãn
Và
các vị công thần
Trước
từng theo Lê Lợi,
Bị
kẻ xấu giết oan,
Giờ
được cấp ruộng đất
Và
mời ra làm quan.
Những
ai trước đổi họ
Thành
họ Lê, bây giờ
Có
thể dùng họ cũ
Mà
không bị nghi ngờ.
Ngài
cho sắp xếp lại
Các
chức quan trong triều.
Ai
đến sáu lăm tuổi
Đều
thôi chức, về hưu.
Lệ
cha truyền con nối
Các
chức tước xưa nay
Cũng
bị Ngài hủy bỏ.
Nhiều
người ghét việc này.
Quan
phải là người giỏi.
Mở
thi chọn nhân tài.
Giỏi
mới làm được việc -
Đó
là lệnh của Ngài.
Vua
đặc biệt chú trọng
Làm
ruộng và chăn tằm,
Bắt
khai hoang, thêm vụ,
Để
có ăn quanh năm.
Ngài
còn ra chỉ dụ
Tổ
chức lễ hạ điền,
Tức
xuống ruộng cày cấy.
Quan
phải làm đầu tiên.
Ở
mỗi đạo, tức tỉnh,
Vua
lập nhà Tế Sinh
Nuôi
người già đơn độc,
Cấp
thuốc lúc bệnh tình.
Ở
nơi nào có dịch,
Quan
phải đến tận nơi
Bốc
thuốc và châm cứu
Cho
từng nhà, từng người.
Thời
ấy dân mộ Phật,
Thường
có lệ quyên tiền
Xây
thêm chùa, vua nói
Đó
là điều không nên.
Rằng
mộ Phật là tốt,
Nhưng
nên mộ trong lòng,
Để
tiền làm việc khác,
Nhất
là những việc công.
Ngài
còn cấm người sống
Khi
tổ chức ma chay
Không
bày trò đàn sáo
Và
ăn uống suốt ngày.
Ngài
nói, đã nhận lễ
Thì
phải cho rước dâu,
Không
bắt người ta đợi
Đến
ba bốn năm sau.
Để
cư xử đúng mực,
Ngài
đặt hăm bốn điều,
Các
quan phải giảng giải,
Làm
trước để dân theo.
Vua
bắt mười hai đạo
Vẽ
bản đồ đạo nhà,
Có
ghi rõ sông núi,
Thành
bản đồ quốc gia.
Ngài
đích thân xuống chiếu
Yêu
cầu Ngô Sĩ Liên
Viết
Đại Việt Sử Ký
Mười
lăm quyển, nhiều thiên.
Năm
quyển thời Bắc Thuộc.
Mười
quyển từ Ngô Quyền
Đến
vua Lê Thái Tổ,
Viết
theo dạng biên niên.
Vua
rất trọng giáo dục,
Khuyến
khích học Ngũ Kinh,
Thường
đứng làm chủ khảo
Trong
các kỳ thi Đình.
Ngài
lập lệ danh xướng,
Đọc
tên các ông Nghè.
Ai
đậu thì ở lại,
Ai
trượt phải ra về.
Các
ông Nghè, Tiến sĩ
Được
Ngài mời vào cung,
Ban
áo mũ, dự tiệc,
Thật
vinh dự vô cùng.
Rồi
vinh qui, mũ lọng,
Họ
trở về quê nhà,
Cảm
ơn thầy dạy dỗ,
Bái
tổ tiên, mẹ cha.
Lê
Thánh Tông cổ xúy
Việc
thi cử, học hành.
Rất
nhiều người đỗ đạt
Rồi
thành công, thành danh.
Ông
là người khởi xướng
Việc
dựng bia ghi tên
Các
tiến sĩ Văn Miếu,
Để
khích lệ người hiền.
Vua
cho xây thư viện
Ở
khu Thái Học đường,
Ngay
phía sau Văn Miếu,
Vốn
xưa là ngôi trường.
Ngài
còn xây ký túc
Cho
người xa tới đây.
Việc
ăn ở và học
Ở
ngay trong khu này.
Lê
Thánh Tông hoàng đế
Còn
là một nhà thơ.
Hơn
thế, nhà thơ lớn,
Được
yêu đến bây giờ.
Thơ
Ngài đẹp, ý nhị,
Uyên
thâm mà trữ tình,
Như
bức tranh thủy mặc,
Ý
và lời lung linh.
Cùng
hăm bảy vị khác,
Ngài
lập Hội Tao Đàn
Gồm
nhị thập bát tú,
Câu
lạc bộ thơ quan.
Vua
tôi thường xướng họa.
Quan
có Thân Nhân Trung,
Đỗ
Nhuận và Thái Thuận...
Thật
tao nhã vô cùng.
Rất
ham mê văn học,
Nhưng
không quên việc binh,
Vua
nhắc phải luyện võ
Ngay
cả trong thời bình.
Ngài
mở hội thi võ,
Cứ
ba năm một lần.
Ai
trượt bị giáng chức,
Ai
đỗ được thăng quan.
Nhờ
thế mà tướng sĩ
Rất
ham mê tập tành,
Vừa
khỏe, vừa đắc dụng
Khi
đất nước chiến tranh.
Gây
sự với Đại Việt,
Năm
một bốn bảy không,
Cùng
mười vạn quân thủy,
Vua
Chiêm Thành tấn công.
Hắn
còn lén sai sứ
Sang
cầu cứu nhà Minh.
Cùng
hai mươi vạn lính,
Ngài
quyết đánh Chiêm Thành.
Tháng
Ba năm bảy mốt
Ngài
chiếm được Đồ Bàn.
Kinh
đô Chiêm thất thủ,
Lính
chết hàng chục ngàn.
Ngài
nhập vào Đại Việt
Cả
miền Bắc nước Chiêm,
Mãi
đến tận vùng đất
Nay
là tỉnh Phú Yên.
Năm
một bốn bảy chín,
Lại
có loạn Ai Lao.
Ngài
sai Lê Thọ Vực
Năm
hướng đánh sang Lào.
Quân
Đại Việt đại thắng.
Ai
Lao và Chiêm Thành
Đều
chấp nhận cống nạp.
Đất
nước được hòa bình.
Một
đóng góp quan trọng
Của
vua Lê Thánh Tông
Là
Bộ luật Hồng Đức,
Biên
soạn rất dày công.
So
với các luật trước,
Luật
này tốt hơn nhiều,
Gồm
mười ba chương lớn
Và
hơn bảy trăm điều.
Nền
tảng của bộ luật
Là
tư tưởng Đạo Nho,
Luôn
lấy dân làm gốc
Để
xây dựng cơ đồ.
Một,
giữ nghiêm phép nước.
Hai,
chống giặc ngoại xâm.
Ba,
chấn hưng nông nghiệp.
Bốn,
lo công, thương, lâm.
Năm,
bài trừ tham nhũng.
Sáu,
bảo vệ thuần phong.
Bảy,
bênh vực phụ nữ.
Tám,
xét xử khoan hồng.
Ngài
nói: “Luật bình đẳng
Với
tất cả mọi người,
Với
dân chúng cả nước,
Cả
ta và các ngươi”.
Có
lần Ngài cách chức
Một
đô đốc, quan to,
Chỉ
vì con người ấy
Có
hành vi côn đồ.
Năm
một bốn chín bảy
Lê
Thánh Tông qua đời,
Hưởng
thọ năm lăm tuổi,
Sự
nghiệp vẫn sáng ngời.
Là
anh hùng dân tộc,
Là
một vị anh quân,
Một
nhà chiến lược lớn
Với
tâm hồn thi nhân,
Vua
chấn hưng văn hóa,
Mở
mang đất nước mình.
Trong
nhị thập bát tú,
Là
vì sao lung linh.
THƠ
LÊ THÁNH TÔNG
Đạo trung thần
Đức
của người phò tá
Là
giữ đạo trung thần.
Cái
điều cao đẹp ấy
Xa
lạ với tiểu nhân.
Bài thơ mừng lúa tốt
Một
màu xanh biếc trải mênh mông.
Nuôi
dân phải nhớ trọng nghề nông.
"Năm
nay lúa tốt hơn năm ngoái!"
Mấy
lão nông phu đứng ngắm đồng.
Dừng chân ở núi Cổ Quý
Gió
thổi, cờ bay giữa nắng tà.
Lá
đỏ còn hơn hoa tháng Ba.
Đời
người nhìn lại, không như trước.
Vui
buồn trăm mối, rối lòng ta.
Qua bến Phù Tang
Trên
bến Phù Tang mưa lắt lay.
Tiết
xuân, trời đất ấm từng ngày.
Chỉ
thương những kẻ ham danh lợi,
Quên
đời trôi thoáng tựa làn mây.
Qua đền Hưng Đạo vương
Lá
đỏ trên cây khẽ xạc xào.
Trời
đầy mây trắng, nắng xôn xao.
Tượng
đá, chùa đây, người chẳng thấy,
Chỉ
thấy bên ngoài rặng núi cao.
Dừng lại ở Xương Giang
Nắng
chiều, nửa núi xạm dần đen.
Hai
bờ như có khói bay lên.
Sách
xưa đọc mãi mà không hết,
Dù
đã mười năm đọc trước đèn.
Bến cảng Vân Đồn
Nắng
chiều óng ả, bến bình yên.
Con
thuyền lướt nhẹ, nước đang lên.
Gái
trai bên biển cười vui vẻ,
Át
cả gió reo trước mũi thuyền.
Bãi Đông Ngạc
Thơ
làm xong, đi ngủ.
Trăng
nhú nơi chân trời.
Hoa
rụng bao tình ý,
Khẽ
chạm vào áo người.
Đêm cắm thuyền ở bãi Trung Giang
Không
gió, không sương, đêm tĩnh yên.
Ngồi
đợi bình minh trước mũi thuyền.
Sắp
sáng, hé nhìn qua cửa sổ,
Dòng
sông phẳng lặng, nước triều lên.
Qua núi Điệp Sơn
Triều
dâng, sông đỏ gặp sông vàng.
Liễu
thêm xanh biếc lúc xuân sang.
Thuyền
ghé, khách thơ bèn ướm hỏi
Chuyện
xưa, tên núi lẫn tên làng.
Con trai, con gái ở Lỵ Nhân
Trên
đê trời lạnh, sắp sang xuân.
Đẹp
như mỹ nữ nước Yên, Tần,
Ở
đây con gái xinh, hiền dịu.
Xấu
hổ con trai, chẳng dám gần.
Ốm dậy, cảm hoài
Hôm
nay có lẽ bệnh thuyên dần.
Suốt
ngày thư thái dạo quanh sân.
Nhờ
thuốc, nên vui vì khỏi bệnh,
Tiếc
chẳng có gì níu tuổi xuân.
Thơ đề trên quạt
Nam
Huân gác tía giữa ban ngày,
Nhẹ
nhàng quạt lụa phẩy trên tay.
Gió
mát hiu hiu, trưa ngủ thiếp,
Không
biết mồ hôi của dân cày.
Thơ đề trên núi Dục Thúy
Năm Quang Thuận thứ 8 (1464)
Dục
Thúy nằm kề ba khúc sông.
Đỉnh
cao lạnh lẽo vút lên không.
Leo
lên theo gió, bên chùa cổ,
Bia
đá xế chiều mới đọc xong.
Xuống
hang, cứ tưởng trời không rộng.
Lên
cao mới biết đất mênh mông.
Núi
sông vẫn thế, không thay đổi.
Như
mơ, ngoái lại, thấy anh hùng.
Lên núi Long Đọi đề sau tấm bia
Bảo tháp Sùng Thiện Diêu Linh
Núi
cao, chùa cổ đứng chơi vơi.
Đường
dốc, leo hoài mới tới nơi.
Giặc
Minh phá hết, còn bia đá.
Vua
Lý ghi bao chuyện lạ đời.
Đường
ít vết chân, rêu phủ kín.
Núi
nhiều mưa ẩm, cảnh xinh tươi.
Lên
cao, tầm mắt nhìn, vô tận
Cây
cỏ xanh xanh đến cuối trời.
Thơ khắc ở cột chùa Tu Mộng
Chùa
cổ nghiêng xiêu đã nửa phần.
Sư
dắt thăm chùa, nhẹ bước chân.
Chân
sư dễ vượt vòng đai giác.
Ta
bước đường đời thật khó khăn.
Ngũ
viên mạnh mẽ mà không sắc.
Lục
độ sáng ngời vẫn có nhân.
Thấy
khách cúi đầu như giác ngộ,
Sư
thôi không giảng, lặng im dần.
Thơ đề ở chùa Sài Sơn
Đứng
bên vách núi, xốn xang lòng.
Theo
mây, chân nhẹ bước lên không.
Hoa
nở lặng im bên cửa động,
Chào
người, chim hót dưới rừng thông.
Tay ngắt vì sao trời thứ nhất.
Ba
nghìn thế giới cõi mênh mông,
Quét
rêu, nguệch ngoạc thơ lên đá,
Ngọn
bút làm rung cả núi sông.
Đi trên sông
Bến
sông tiếng trống giục vang xa.
Thuyền
rồng lướt sóng chạy ngang qua.
Bát
ngát ruộng nương xanh nghìn khoảnh.
Lác
đác kề sông mấy nóc nhà.
Như
thể sắp mưa, trời rất thấp,
Dẫu
phía biển Đông nắng chói lòa.
Buổi
sớm, núi xanh như trịnh trọng
Tiễn
vua qua cửa biển Hà Hoa.
Hồng Đức năm thứ nhất, ngày 11 tháng 12.
Đóng quân tại cửa bể Hà Hoa, đêm khuya
ngồi nghe tiếng mưa, sinh lòng thương cảm
Tựa
mui thuyền vắng, nghĩ lan man.
Đêm
mưa, hơi lạnh thấm qua màn.
Như
cánh ve sầu, màn rất mỏng.
Đầy
trời mưa gió, ngủ không an.
Sông
nước mênh mang nhìn hút mắt.
Lặng
trôi ngày tháng, tiếc thời gian.
Nghĩ
thương binh sĩ chân dầm đất,
Ngã
chết, không tiền mua áo quan.
Ngồi ngắm trăng, bày tỏ nỗi lòng
Quan
sơn nghìn dặm, lộ trình xa.
Mây
trôi, biển sóng, ánh trăng tà.
Trăng
sát bên thuyền, không ngủ được,
Như
vành ngọc sáng giữa bao la.
Muốn
hiểu biết thêm, cần học hỏi,
Trau
dồi kiến thức của ông cha.
Kéo
lại mặt trời, trai chí lớn,
Không
buồn năm tháng vụt trôi qua.
Đạo làm vua
Nhớ
lời các bậc đế vương răn:
Trên
chăm thần thánh, dưới chăm dân,
Lo
xây dựng nước, lo đời thịnh,
Với
mình luôn nhớ phải tu thân.
Chiêu
hiền đãi sĩ, lo văn đức,
Trọng
tài tướng lĩnh, giỏi nuôi quân.
Đạo
lớn làm vua là sáng suốt,
Mọi
người Kinh, Thượng được ban ân.
Đi tuần phía đông, qua An Lão
Con
đường nghìn dặm chạy quanh quanh.
Gió
thổi, nâng thuyền khẽ lướt nhanh.
Chiều
xế, mặt trời soi bóng nước.
Theo
áng mây hồng, lòng nhẹ tênh.
Sương
muối rơi nhiều, cây úa lá.
Bãi
dâu khói nhạt, cảnh yên lành.
Núi
biển mờ mờ như nhập một,
Kéo
dài thành vệt biếc màu xanh.
Qua bến Phù Thạch
Triều
dâng, nước lạnh chảy về đông.
Mấy
mỏm đá nhô chính giữa dòng.
Mây
như mũ trắng treo đầu núi.
Ráng
in trên nước giống tơ hồng.
Rồng
không ẩn mãi nơi sâu thẳm,
Khi
lửa mặt trời bốc lên không.
Nay
lúc việc văn hơn việc võ,
Ân
vua phải tưới khắp non sông.
Đừng lại ở núi Cổ Quý
Tâm
hồn như ngọc sáng bao la.
Ngoài
sông mờ ảo ánh trăng nhòa.
Xưa
nay đời tục thành hay bại,
Vui
buồn cũng chỉ giấc mơ qua.
Là
vua, đọc hết năm xe sách,
Làm
ba việc lớn giống ông cha.
Dẫu
đời bèo bọt, đừng lo nghĩ,
Vì
đời tất cả ở lòng ta.
Qua sông Bạch Đằng
Thuyền
như tranh vẽ lướt trên sông.
Bạch
Đằng con nước cứ mênh mông.
Chợt
nhớ cái ngày Toa Đô chết,
Nhớ
thời Hưng Đạo lập chiến công.
Xã
tắc nhà Trần ngày ấy mạnh,
Giang
sơn đất Việt vững như đồng.
Hư
danh, ảo mộng ngày xưa ấy,
Nay
giống làn mây trắng bập bồng.
Đêm đậu thuyền ở bến Bình Than
Như
ngọc, trăng lên sáng một vành.
Bãi
bồi tít tắp một màu xanh.
Rau
tần trắng bãi, heo may lạnh.
Sau
mưa lá đỏ kín trên cành.
Trên
thuyền khách thấy như lơ lửng.
Bên
trời, bên nước sáng long lanh.
Lòng
đạo tuy già còn cứng cỏi,
Hơn
cả đàn tiêu cung Thái Thành.
Cảm xúc ở Xương Giang
Dừng
chân bên bến, ngắm dòng sông.
Chớm
mọc xa xa vệt ráng hồng.
Cảnh
đẹp gợi nên tâm ý cũ,
Xua
tan bao thói dục trong lòng.
Xao
xuyến tai nghe chày đập vải.
Mắt
nhìn trăng sáng giữa tầng không.
Vạn
vật như xưa không đổi khác.
Cái
buồn như nước, vẫn mênh mông.
Uống rượu với khách
Khách
mới ngồi dự tiệc,
Mà
như say nửa phần.
Thơ
cứ ra lai láng,
Cười
nói giống cổ nhân.
Hết
ngâm rồi bình luận,
Kẻ
xướng, người họa vần.
Khi
khách chào tạm biệt,
Trăng
chỉ còn góc sân.
Tiễn thượng thư bộ lễ
Lê Hạo Nhiên đi sứ phương bắc
Cái
chí làm trai đi bốn phương.
Làm
thơ tiễn sứ lúc lên đường.
Bên
đình bẻ liễu, xuân đang rộ.
Hoa
nhiều trong trạm, ngát mùi hương.
Non
sông quan sứ từng đi hết,
Việc
nước, việc nhà giỏi đảm đương.
Khi
về mạnh khỏe, thơ đầy túi,
Đầy
thuyền trăng sáng lẫn hơi sương.
MẠC ĐĂNG
DUNG (1483 – 1541)
1
Theo truyền thuyết kể lại,
Thì xưa Mạc Đăng Dung
Vốn dòng dõi quyền quí
Nhưng sau thành bần cùng.
Ông làm nghề đánh cá,
Bố mẹ nghề chèo đò.
Bến sông ấy rất rộng,
Thường sóng lớn, gió to.
Có một thầy địa lý,
Nghe đâu là người Tàu,
Được hai người cứu sống,
Nên mang nặng ân sâu.
Để trả ơn, họ mách
Phải táng mộ ông bà
Vào chỗ có long mạch,
Sau sẽ thành vương gia.
Mạc Đăng Dung lập tức
Đem cốt tổ tiên mình
Táng vào nơi được chỉ,
Mong có ngày hiển vinh.
Năm sau, thầy địa lý
Quay lại và bảo ông
Đem một quan tiền mới,
Tức đúng một trăm đồng
Ra ngồi trên con dốc
Cách không xa bến đò,
Thấy ai vác chữ “khẩu”
Trên lưng mình, thì cho.
Ông chờ mãi, chỉ thấy
Một ông lão ra sông,
Đeo trên vai chiếc dặm.
Ông cho ba mươi đồng.
Chiều tối, ông lão ấy
Quay về, ông lại cho
Thêm ba lăm đồng nữa,
Rồi đi xuống chèo đò.
Tối về, nghe kể lại,
Thầy địa lý lầm bầm:
“Vậy nhà ông chỉ được
Làm vua sáu lăm năm.”
2
Đức vua Mạc
Thái Tổ
Tên húy Mạc
Đăng Dung,
Quê nơi nay
là đất
Huyện Kiến
Thụy, Hải Phòng.
Theo các
tài liệu sử,
Ông là cháu
bảy đời
Một trạng
nguyên nổi tiếng -
Mạc Đỉnh
Chi hơn người.
Ông thời bé
nghèo khổ,
Chuyên chài
lưới kiếm ăn,
Sau lớn
lên, khỏe mạnh,
Đỗ “Lực sĩ
xuất thân.”
Rồi thành
quân túc vệ
Vào thời
nhà Hậu Lê,
Đời vua Lê
Uy Mục,
Đang rối
ren trăm bề.
Nhờ thông
minh, tài giỏi,
Được hoàng
gia tin yêu,
Ông nhanh
chóng thăng chức
Thành quan
lớn trong triều.
Nhà Hậu Lê
thời ấy
Yếu hèn và
rối tung,
Và dần dần
quyền lực
Vào tay Mạc
Đăng Dung.
Năm một năm
hai bảy,
Ông tiếm
ngôi nhà Lê,
Lấy hiệu
Mạc Thái Tổ,
Lúc thọ
địch bốn bề.
Ông đúc
tiền Thông Bảo,
Lo chấn
chỉnh triều đình.
Thành Hải
Dương được chọn
Làm kinh đô
- Dương Kinh.
Năm một năm
hai bảy
Ông nhường
con ngai vàng.
Mạc Thái
Tông kế vị,
Ông thành
Thái thượng hoàng.
Năm một năm
bốn mốt
Mạc Đăng
Dung băng hà,
Hưởng thọ
năm chín tuổi,
Và trước
lúc đi xa
Ông dặn Mạc
Phúc Hải
Không lập
đàn ma chay,
Mà lo việc
xã tắc,
Xây dựng
nước sau này.
Như thầy
địa lý nọ
Có lần đã
lầm bầm,
Các vua Mạc
cai trị
Tất cả sáu
lăm năm.
3
“Toàn thư”
nói nhà Mạc
Đem đất đai
nước mình,
Gồm hai
châu Quy, Thuận,
Nhục nhã
dâng nhà Minh.
Thực ra hai
châu ấy
Thủ lĩnh
Nùng Trí Cao
Và anh,
Nùng Trí Hội,
Dâng Tống
từ đời nào.
Người đời
sau xác nhận
Ông chỉ
nhường ngoại bang
Năm hang
động không lớn
Thuộc vùng
đất Cao Bằng.
Mà rồi năm
hang ấy
Vốn không
phải đất mình,
Mà do Đại
Việt lấn,
Giờ trả lại
nhà Minh.
Ông còn bị
chê trách
Vì tự trói,
đầu hàng,
Dâng cho
giặc đồ cống
Cùng hai
bức tượng vàng.
Vì sao ông
làm vậy?
Vì nhà Lê,
hai lần,
Cầu nhà
Minh đánh Mạc,
Mất nước và
khổ dân.
Thấy lực
mình đang yếu,
Muốn tránh
cảnh can qua,
Vua Mạc
đành nén nhục,
Quì gối xin
giảng hòa.
Nhục, một
mình vua chịu,
Mang tiếng
xấu với đời,
Nhưng dân
tình thoát khỏi
Cảnh máu chảy, đầu rơi.
Sau cái nhục lần ấy,
Tự trói mình xin hòa,
Ông xấu hổ, lâm bệnh
Một năm rồi băng hà.
Giống như Trần Thủ Độ
Và cả Hồ Quý Ly,
Ông tiếm ngôi người khác,
Hoàn toàn không khác gì.
Vua các triều đại trước
Đã mục ruỗng, yếu hèn.
Theo qui luật lịch sử
Thì triều khác sẽ lên.
Tuy nhiên, có điều khác:
Truất ngôi Lê Cung Hoàng,
Mạc Đăng Dung không giết
Các đại thần quy hàng.
Ông cũng không hề giết
Một ai trong hoàng gia.
Một sự kiện hiếm có
Trong lịch sử nước nhà.
Những di sản kiến trúc
Và văn hóa Lê Sơ
Ông không hề phá hủy,
Nên còn mãi đến giờ.
5
Đức vua Mạc Thái Tổ
Có một thanh Long Đao
Bây giờ còn giữ được,
Thật quí giá nhường nào.
Cháu con ông giữ nó
Suốt năm trăm năm qua,
Nay thờ ở Kiến Thụy
Như vật báu quốc gia.
Đao dài hai mét rưỡi,
Nặng gần ba mươi cân,
Cán làm bằng sắt rỗng
Có chạm hình long vân.
Thanh đao của Quan Vũ
Được nói đến nhiều lần,
Tức Long Đao Yển Nguyệt,
Cũng chỉ ba bảy cân.
Châu Á giờ chỉ có
Hai long đao thế này.
Đao kia thuộc nước Tống,
Ở Trung Quốc ngày nay.
QUANG
TRUNG HOÀNG ĐẾ (1753 – 1792)
Ba
anh em Nguyễn Huệ,
Như
sử sách đã ghi,
Quê
gốc ở xứ Nghệ,
Dòng
dõi Hồ Quý Ly.
Họ
đi theo Chúa Nguyễn
Vào
lập nghiệp Đằng Trong.
Thời
kỳ đầu, nghe nói,
Cũng
vất vả, long đong.
Ít
ra bố mẹ họ
Phải
làm nghề buôn trầu.
Ba
trai và năm gái,
Nguyễn
Nhạc là anh đầu.
Anh
thứ hai - Nguyễn Lữ,
Nguyễn
Huệ là thứ ba.
Cả
ba đều giỏi võ,
Mở
lò ở quê nhà.
Mỗi
người là sư tổ
Của
một môn quyền hay,
Thành
Tây Sơn võ phái,
Thuộc
Bình Định ngày nay.
Năm
một bảy bảy mốt,
Lấy
cớ chống cường quyền,
Nguyễn
Nhạc làm khởi nghĩa.
Lòng
dân đang không yên,
Nên
lập tức hào sĩ
Và
nhiều người đi theo.
Lấy
của kẻ giàu có
Đem
chia cho dân nghèo.
Quân
Tây Sơn giỏi võ,
Nguyễn
Huệ là tướng tài
Nên
đánh đâu thắng đấy,
Quân
Chúa Nguyễn chạy dài.
Hai
năm sau khởi nghĩa,
Anh
em nhà Tây Sơn
Đánh
đến tận Bình Thuận,
Chiếm
được thành Quy Nhơn.
Nhưng
giữa năm bảy bốn
Từ
Gia Định đánh ra,
Chúa
Nguyễn chiếm Bình Thuận
Và
Gia Khánh, vậy là
Ba
anh em Nguyễn Nhạc
Còn
vùng đất Phú Yên
Đến
vùng đất Quảng Ngãi,
Nhưng
một vệt nối liền.
Cũng
năm ấy, Chúa Trịnh
Cho
đưa ba vạn quân
Vượt
sông Gianh, nhanh chóng
Chiếm
được thành Phú Xuân.
Chúa
Nguyễn nhân dịp ấy
Tiến
đánh quân Tây Sơn.
Ba
anh em co cụm,
Phải
rút về Quy Nhơn.
Tình
thế rất nguy ngập.
Cả
Đằng Trong, Đằng Ngoài
Đều
o ép - phải chọn
Nên
hòa, nên đánh ai?
Và
Nguyễn Nhạc quyết định
Xin
Chúa Trịnh cầu hòa,
Rảnh
tay đánh chúa Nguyễn,
Sau
thắng, sẽ đánh ra.
Muốn
mượn tay Nguyễn Nhạc
Làm
kẻ thù yếu dần,
Chúa
Trịnh liền đồng ý,
Nhưng
không chịu rút quân.
Tạm
yên ở phía Bắc,
Quyết
đánh bại Đằng Trong,
Nguyễn
Nhạc sai Nguyễn Huệ
Cầm
quân đi tiên phong.
Tướng
Nguyễn Huệ lúc ấy
Còn
là chàng thanh niên,
Hăm
ba tuổi, quyết định
Phải
chiếm lại Phú Yên.
Ông
nhanh chóng bắt sống
Tướng
giặc Nguyễn Khoa Kiên,
Giết
chết nhiều tướng khác,
Có
cả Nguyễn Văn Hiền.
Tướng
Trịnh, Hoàng Ngũ Phúc
Thấy
Nguyễn Huệ thắng nhanh,
Bèn
rút về bám trụ,
Chốt
giữ Phú Xuân thành.
Thiên
tài của Nguyễn Huệ
Sau
trận thắng Phú Yên
Liên
tiếp được khẳng định,
Thanh
thế ngày càng lên.
Đặc
biệt qua các trận
Tiến
sâu vào phía trong,
Đánh
chiếm thành Gia Định,
Thần
tốc và tấn công.
Chỉ
trong vòng bảy tháng,
Từ
chỗ bị bao vây,
Nguyễn
Huệ đảo thế trận,
Luôn
đánh Đông dẹp Tây.
Hai
Chúa Nguyễn bị giết,
Giải
phóng cả toàn miền.
Nguyễn
Ánh phải bỏ chạy
Ra
Phú Quốc nằm yên.
Năm
một bảy bảy tám
Nguyễn
Nhạc tự xưng vương,
Lập
niên hiệu Thái Đức
Nguyễn
Huệ làm Long Nhương.
Năm
một bảy tám sáu
Nguyễn
Huệ đánh Phú Xuân.
Thành
Phú Xuân thất thủ,
Càng
nức lòng nghĩa quân.
Rồi
cũng liền sau đó
Ông
đánh ra Thăng Long,
Cử
tướng Nguyễn Hữu Chỉnh
Đi
trước làm tiên phong.
Tinh
thần đang rệu rã,
Các
tướng Trịnh bàng hoàng,
Nên
chưa đánh đã chạy
Hoặc
hạ giáo đầu hàng.
Chúa
Trịnh Tông bỏ trốn,
Dân
bắt, giải về kinh.
Dọc
đường, quá hoảng sợ,
Ông
đã tự quyên sinh.
Thần
tốc, như vũ bão,
Nguyễn
Huệ vào Thăng Long
Như
đi vào chỗ trống,
Gặp
vua Lê Hiển Tông.
Về
danh nghĩa, Nguyễn Huệ
Bầy
tôi vua Hiển Tông,
Nhưng
thực chất quyền lực
Đều
nằm trong tay ông.
Rồi
qua Nguyễn Hữu Chỉnh,
Trước
là một đại thần,
Ông
trở thành phò mã,
Lấy
công chúa Ngọc Hân.
Chỉ
mấy ngày sau đó
Lê
Hiển Tông qua đời.,
Thông
qua nhiều dàn xếp,
Lê
Chiêu Thống lên ngôi.
Tướng
Nguyễn Huệ quyết định
Đem
công chúa Ngọc Hân
Cùng
đại quân trở lại
Đóng
ở thành Phú Xuân.
Như
ta biết, Nguyễn Nhạc
Chia
đất nước làm ba,
Nguyễn
Lữ vùng Gia Định,
Nguyễn
Huệ xứ Bắc Hà.
Việc
Nguyễn Huệ tự ý
Đánh
chiếm thành Thăng Long
Khi
ông chưa cho phép
Khiến
ông không hài lòng.
Mâu
thuẫn ngày một lớn,
Nghi
kỵ và đối đầu,
Và
rồi năm tám bảy
Hai
anh em đánh nhau.
Mà
đánh nhau dữ dội,
Tây
Sơn đánh Tây Sơn.
Nguyễn
Huệ cho đại bác
Nã
vào thành Qui Nhơn.
Nguyễn
Nhạc thấy yếu thế
Phải
nén nhục cầu hòa.
Nghĩ
tình anh em ruột,
Nguyễn
Huệ trách, rồi tha.
Nhân
Tây Sơn lục đục,
Cả
Đằng Ngoài, Đằng Trong
Liền
tập hợp lực lượng
Nhất
tề chống lại ông.
Quân
Trịnh ở Miền Bắc
Đưa
Trịnh Bồng lên ngôi.
Ở
Gia Định, Nguyễn Ánh
Cũng
chiếm được nhiều nơi.
Nguyễn
Huệ lại Bắc tiến,
Lại
đánh nhanh, tốc thần.
Sau
khi giành thắng lợi,
Đưa
quân về Phú Xuân.
Trong
khi đó Nguyễn Ánh
Chiếm
được vùng Đằng Trong.
Nguyễn
Nhạc già, thoái vị,
Nhường
ngai vàng cho ông.
Năm
một bảy tám tám
Lê
Chiêu Thống thỉnh cầu
Vua
Càn Long giúp đỡ,
Và
một thời gian sau
Tướng
Thanh, Tôn Sĩ Nghị,
Dẫn
hăm chín vạn quân
Ào
ào như thác chảy,
Tiến
qua Ải Nam
Quan.
Vừa
lên ngôi hoàng đế,
Lấy
niên hiệu Quang Trung,
Nguyễn
Huệ lại Bắc tiến,
Đoàn
quân đi trùng trùng.
Để
tuyển thêm binh lính,
Ông
dừng ở Nghệ An,
Cho
diễu binh rầm rộ,
Quân
số lên trăm ngàn.
Đoàn
quân diễu binh ấy
Tiến
thẳng ra Bắc Kỳ,
Thế
mạnh như vũ bão,
Rầm
rập tiếng người đi.
Ngày
hai mươi tháng Chạp
Tới
Tam Điệp, Quang Trung
Hẹn
đến ngày mồng bảy
Ăn
Tết ở Thăng Long.
Đến
ngày mồng năm Tết,
Với
chiến thắng Đống Đa,
Tây
Sơn đã đại thắng,
Giải
phóng cả Bắc Hà.
Chủ
tướng Sầm Nghi Đống
Tự
vẫn vì buồn lo.
Tôn
Sĩ Nghị bỏ chạy,
Xác
giặc chết thành gò.
Dẫu
chiến thắng oanh liệt,
Để
gìn giữ hòa bình,
Nguyễn
Huệ vẫn quyết định
Giảng
hòa với nhà Thanh.
Nhà
Thanh sai sứ giả
Sang
phong vương cho ông,
Còn
mời sang Trung Quốc
Mừng
thọ vua Càn Long.
Theo
kế Ngô Thì Nhậm,
Năm
một bảy chín mươi,
Ông
cử đoàn sứ giả
Một
trăm năm mươi người.
Cháu
ông, Phạm Công Trị,
Thay
ông, giả làm vua,
Dẫn
đầu đoàn sứ ấy,
Giặc
biết, đành làm ngơ.
Ông
còn có ý định
Cầu
hôn con vua Thanh,
Đòi
lại đất Lưỡng Quảng,
Tiếc
là việc không thành.
Ông
bị bệnh, chết sớm,
Tháng
Chín năm bảy hai,
Hưởng
thọ bốn mươi tuổi,
Một
con người toàn tài.
Bốn
năm trên ngôi báu,
Ông
làm được nhiều điều,
Đánh
đuổi giặc xâm lược,
Thiết
lập một vương triều.
Ông
chấn hưng nông nghiệp,
Khuyến
khích ngành công thương,
Cho
tự do tôn giáo,
Xây
thêm nhiều tuyến đường.
Ông
sửa đổi hành chính,
Sắp
xếp lại chức quan,
Chữ
Nôm thay chữ Hán
Khi
soạn thảo công văn.
Vua
Quang Trung Hoàng Đế,
Nhà
quân sự tuyệt vời,
Người
anh hùng dân tộc
Sống
mãi trong lòng người.
Theo
sử sách chép lại,
Trước
khi đánh Thăng Long,
Ông
bày ra một cách
Làm
quân sĩ nức lòng.
Ông
nói với quân sĩ
Sẽ
tung trăm đồng tiền,
Nếu
tất cả đều sấp,
Ta
sẽ thắng, tiến lên!
Trăm
đồng tiền, quả thật,
Đều
sấp hết, việc này
Làm
nức lòng binh sĩ,
Nghĩ
trời cho vận may.
Thực
ra, vua trước đó
Cho
đúc chúng, có điều
Cả
hai mặt đều sấp.
Một
cú lừa đáng yêu.
Phần
Hai
TUỆ
TĨNH (? – 1330)
Tuệ
Tĩnh là pháp hiệu.
Ông
là một thiền sư,
Tên
thật Nguyễn Bá Tĩnh,
Tài
giỏi và nhân từ.
Ông
được tôn ông tổ
Ngành
Nam dược nước ta.
Tiếc
ông bị giặc bắt,
Sớm
đưa về Trung Hoa.
Ông
là thầy thuốc giỏi,
Lại
vừa một nhà sư,
Viết
“Nam dược thần hiệu”
Và
“Hồng nghĩa giác tư”.
Ông
xuất thân nghèo khổ,
Gia
cảnh rất bình thường,
Quê
ở xã Cẩm Vũ,
Huyện
Cẩm Giàng, Hải Dương.
Khi
mới lên sáu tuổi,
Bố
mẹ ông qua đời,
Chùa
Hải Triều, Giao Thủy
Nuôi
ông lớn thành người.
Năm
tròn hăm hai tuổi,
Ông
đậu Thái học sinh,
Vẫn
ở chùa nghiên cứu,
Bốc
thuốc giúp dân lành.
Đến
năm ba mươi tuổi,
Ông
về chùa Yên Trang,
Làm
trụ trì ở đấy,
Nay
thuộc huyện Cẩm Giàng.
Tuệ
Tĩnh đỗ Hoàng giáp
Năm
một ba tám năm,
Bị
đem cống Trung Quốc
Khi
tuổi đời năm lăm.
Ông
tiếp tục bốc thuốc,
Nổi
tiếng, dù ẩn cư.
Vua
Minh yêu tài đức,
Phong
“Đại y Thiền sư”.
Ông
qua đời ở đấy,
Hàng
nghìn dặm xa nhà.
Tài,
không được cống hiến,
Ngẫm,
chạnh lòng xót xa.
Tuệ
Tĩnh đặt nền móng
Ngành
y dược nước nhà,
Xây
dựng thành nếp nghĩ -
Người
ta dùng thuốc ta.
Nhờ
ông mà cả nước,
Mỗi
gia đình, đền chùa,
Có
một vườn thuốc nhỏ
Cung
cấp thuốc bốn mùa.
Nhiều
lương y nổi tiếng
Làm
tiếp việc của ông
Hoàng
Đôn Hòa là một,
Dưới
triều Lê Thế Tông.
Ông
dùng các toa thuốc
Của
Tuệ Tĩnh sư thiền
Chữa
sốt rét cho lính,
Dập
dịch vùng Thái Nguyên.
Có
một đồ đệ khác,
Là
Hải Thượng Lãn Ông,
Viết
“Lĩnh Nam Bản Thảo”
Về
thuốc Nam, thuốc Đông,
Đã
trích nhiều toa thuốc
Của
Tuệ Tĩnh Thiền sư,
Cả
phần dưỡng sinh khí
Bằng
hít thở từ từ.
Ở
quê hương Tuệ Tĩnh,
Để
ghi nhớ công ơn,
Có
đền Thuốc Nam Thánh,
Và
đền ở Tân Sơn.
Ông
cũng được thờ cúng
Ở
Thủy Nguyên, Hải Phòng,
Làm
Thành hoàng một xã,
Có
cả miếu thờ ông.
Đại
danh y dân tộc,
Chết
từ lâu, xa nhà,
Triết
lý ông vẫn sống:
Người
ta dùng thuốc ta!
LÝ
THƯỜNG KIỆT (1019 – 1105)
Ông
là tướng nhà Lý,
Đồng
thời một hoạn quan,
Có
công đánh quân Tống,
Giữ
đất nước bình an.
Tên
thật là Ngô Tuấn,
Hậu
duệ Ngô Quyền xưa,
Ông
quê huyện Quảng Đức,
Thuộc
Gia Lâm bây giờ.
Bố
ông làm Thái úy
Đời
vua Lý Thái Tông,
Được
vua ban quốc tính,
Do
đức và do công.
Năm
một không bốn mốt,
Nhờ
khôi ngô, thông minh,
Ông
được làm thái giám,
Vua
cho theo bên mình.
Sau
ông được thăng chức
Nội
thị Sảnh đô tri
Lúc
mới ba lăm tuổi,
Vinh
hiển và quyền uy.
Rồi
sau, tiến hơn nữa,
Dưới
triều Lý Thánh Tông,
Làm
Kiểm hiệu Thái bảo,
Chức
quan hàng tam công.
Năm
một không sáu một,
Ở
Thanh Hóa, Nghệ An
Các
tộc Mường quấy rối,
Vua
sai ông trấn an.
Nhờ
ông biết thuyết giảng,
Có
lý lại có tình,
Cả
năm châu, sáu huyện
Đã
quy phục triều đình.
Năm
một không sáu chín,
Ông
đi đánh Chiêm Thành,
Bắt
được vua Chế Củ,
Mở
rộng đất nước mình.
Khi
Càn Đức, bảy tuổi,
Lên
ngôi báu, triều đình
Lục
đục các phe cánh,
Đất
nước chẳng an bình.
Lý
Thường Kiệt ủng hộ
Phe
Ỷ Lan phu nhân,
Nhờ
thế rồi mọi chuyện
May
cũng ổn định dần.
Tể
tướng Vương An Thạch,
Năm
một không bảy năm,
Xui
vua đánh Đại Việt,
Một
quyết định sai lầm.
Thấy
trước âm mưu giặc,
Không
đợi giặc tấn công,
Lý
Thường Kiệt chủ động
Cả
đường bộ, đường sông
Tiến
quân vào đất giặc,
Cùng
Tôn Đản tướng quân,
Vượt
qua các thành ải,
Chiếm
châu Liêm, châu Khâm.
Năm
một không bảy sáu,
Hai
cánh quân gặp nhau,
Cùng
bắt đầu vây hãm,
Quyết
hạ thành Ung Châu.
Đó
là một thành lớn,
Ngày
nay là Nam Ninh,
Tướng
Tô Giám cố thủ
Cùng
ba vạn tinh binh.
Tướng
giặc Trương Thủ Tiết
Đem
quân đến giải vây,
Bị
ông chém tại trận.
Sử
Tàu chép trận này.
Cuối
cùng Lý Thường Kiệt
Phải
dùng kế hỏa công,
Bắn
các chất dễ cháy
Như
bùi nhùi, nhựa thông.
Ông
còn bắt dân Tống
Chồng
bao cát thật cao
Để
quân lính Đại Việt
Vượt
tường thành xông vào.
Thành
Ung Châu thất thủ
Vào
ngày thứ bốn hai.
Tướng
Tô Giám tự tử,
Lửa
ngùn ngụt trong, ngoài.
Sáu
vạn người bị giết.
Cả
Khâm châu, Liêm châu,
Con
số là mười vạn.
Một
thất bại thật đau.
Làm
cỏ ba châu ấy,
Nhiều
cảnh cũng đau lòng,
Lý
Thường Kiệt ra lệnh
Quay
trở về Thăng Long.
Ông
bắt nhiều dân Tống
Cùng
đi theo với mình
Rồi
cho vào khai khẩn
Vùng
Nghệ Tĩnh, Quảng Bình.
Tháng
Ba năm bảy sáu,
Quân
Tống lại đánh ta,
Xui
Chiêm Thành, Chân Lạp
Từ
phía Nam đánh ra.
Nhưng
rồi hai nước ấy
Sợ,
không dám xuất quân.
Quân
Tống gồm mười vạn,
Hai
mươi vạn phu dân.
Hay
tin, Lý Thường Kiệt
Liền
cấp tốc đề phòng,
Lập
các chốt phòng ngự
Cả
đường bộ, đường sông.
Ông
cho xây chiến lũy
Bên
cửa ải Chi Lăng
Ngăn
quân Tống tràn xuống
Từ
phía Bắc Cao Bằng.
Tuyến
phòng thủ đường thủy
Ông
lập ở sông Cầu,
Xưa
là sông Như Nguyệt,
Chỗ
sông hẹp, nước sâu.
Nhờ
hai phòng tuyến ấy,
Giặc
Tống bị kìm chân,
Quân
mười phần chết bảy,
Ý
chí cũng nguội dần.
Biết
giặc đang thế bí,
Ông
sai sứ “nghị hòa”.
Quân
Tống liền đồng ý.
Thoát
được nạn can qua.
Năm
một một không bốn
Và
một không bảy năm,
Hai
lần Lý Thường Kiệt
Phải
đem quân bình Nam.
Cả
hai lần đều thắng,
Chưa
nói đến lần đầu
Khi
bắt được Chế Củ,
Đổi
vua lấy ba châu.
Ông
được phong Thái úy,
Bậc
khai quốc công thần,
Một
anh hùng dân tộc,
Sống
mãi cùng nhân dân.
Tháng
Sáu năm Ất Dậu,
Tức
một một không năm,
Ở
tuổi tám mươi bảy,
Lý
Thường Kiệt từ trần.
Ông
là vị thái giám
Đầu
tiên ở nước ta
Có
công với dân tộc,
Giúp
bảo vệ sơn hà.
HOẠN
QUAN LÝ THƯỜNG KIỆT
Theo
sử, Lý Thường Kiệt
Vốn
là một hoạn quan.
Một
từ không đẹp lắm,
Khiến
thiên hạ luận bàn.
Nhiều
nhà nho khinh bỉ
Khi
nhắc đến tên ông,
Thậm
chí có đánh giá
Sai
lệch và bất công.
Với
ta, Lý Thường Kiệt
Là
khai quốc công thần,
Người
anh hùng dân tộc,
Sống
vì nước, vì dân,
Cho
nên không quan trọng
Ông
là người thế nào.
Dẫu
vậy, thử tìm hiểu
Vấn
đề này xem sao.
Xưa
nay trong lịch sử
Từng
có nhiều hoạn quan
Làm
khuynh đảo chính sự,
Tàn
bạo và mưu gian.
Xưa
nhất phải kể đến
Tên
hoạn quan Triệu Cao,
Từng
giữ chức tể tướng
Thời
nhà Tần năm nào.
Khi
Tần Thủy Hoàng chết,
Hắn
giả di chiếu vua,
Lập
con thứ Nhị Thế
Thay
con trưởng Phù Tô.
Hai
anh em tranh chấp,
Nên
cơ đồ nước Tần
Lọt
vào tay nhà Hán,
Làm
ly tán lòng dân.
Về
phần mình, nhà Hán
Có
họa mười hoạn quan
Thao
túng cả triều chính,
Nên
vận nhà Hán tàn,
Để
gian thần Đổng Trác
Nắm
hết mọi quyền hành,
Mở
đường cho Tam Quốc
Dùng
dằng thế phân tranh.
Trường
hợp Lý Thường Kiệt
Của
Đại Việt chúng ta,
Dẫu
hoạn quan, tuy vậy,
Là
hiền tài, khác xa.
Vì
sao Lý Thường Kiệt
Lại
trở thành hoạn quan?
Có
khá nhiều giả thuyết
Được
đưa ra luận bàn.
Một
- sinh ra đã thế.
Điều
này rất khó tin,
Vì
ông, như ta biết
Từng
có một mối tình
Với
nàng Dương Hồng Hạc,
Sau
là vợ Thái Tông.
Khi
biết ông bị hoạn,
Nàng
dứt tình với ông.
Hai
- Hay Lý Thường Kiệt
Tự
hoạn để lấy tiền?
Lý
Thái Tông, nghe nói,
Thấy
mặt ông xinh, hiền,
Nên
hứa nếu tự hoạn
Để
trở thành hoạn quan
Theo
hầu vua sớm tối,
Vua
thưởng ba vạn quan.
Điều
này khó có thật.
Là
con một công hầu,
Tuy
bố mẹ mất sớm,
Nhưng
nhà ông khá giàu.
Nên
không thể có chuyện
Ông
bán mình vì tiền.
Với
một nhân cách lớn,
Việc
ấy là đê hèn.
Lại
có người còn nói
Tự
hoạn để tiến thân,
Hoặc
do vua trừng phạt
Vì
tội dám khi quân.
Còn
một số thuyết nữa,
Nhưng
tất cả xem ra
Không
hoàn toàn thuyết phục,
Trừ
một thuyết, đó là
Khi
vua tuyển thái giám,
Người
ta đánh thuốc mê,
Hoạn
ông ngoài ý muốn,
Một
nỗi đau ê chề.
Chắc
kẻ làm việc ấy
Có
liên quan ít nhiều
Đến
nàng Dương Hồng Hạc,
Một
người ông từng yêu.
Không
ngẫu nhiên sau đó,
Đúng
vào lúc gian nguy,
Lý
Thường Kiệt ủng hộ
Phe
Ỷ Lan Nguyên phi.
Giả
thuyết là giả thuyết,
Còn
chưa rõ thế nào.
Dẫu
ông là quan hoạn,
Việc
ấy cũng chẳng sao.
Nó
không thể che lấp
Tài
đức và công danh.
Ông,
vị tướng lỗi lạc
Phá
Tống, bình Chiêm thành.
NAM
QUỐC SƠN HÀ
Bài
thơ tứ tuyệt ấy
Vang
vọng mãi lòng người.
Bốn
câu thơ ngắn gọn
Xuyên
suốt đã bao đời.
Nước
Nam người Nam ở.
Trời
định thế từ lâu.
Đừng
tìm cách xâm phạm,
Kẻo
lại bị đánh đau.
Không
gì đúng hơn thế.
Cũng
không gì hay hơn.
Đó
là lời cảnh cáo
Nhằm
bảo vệ giang sơn.
Đến
nay vẫn chưa biết
Ai
viết bài thơ này.
Điều
ấy không quan trọng.
Quan
trọng là nó hay.
Nó
nói đúng khí phách
Của
con cháu Lạc Rồng,
Bản
Tuyên ngôn Độc lập,
Lời
thề với non song.
Thái
úy Lý Thường Kiệt
Đã
đọc vang bài thơ
Trong
đền thờ Trương Hống,
Huyện
Yên Phong bây giờ.
Tuyến
phòng thủ Như Nguyệt
Đứng
sừng sững bên sông.
Binh
sĩ nghe tướng đọc
Mà
thấy náo nức lòng.
Rồi
vạn người như một
Tiến
lên theo tiếng thơ.
Khiến
quân Tống bỏ chạy,
Ô
nhục tận bây giờ.
Nhà
thơ không xung trận
Trong
trận ấy bên sông,
Nhưng
với bài tứ tuyệt
Đã
góp phần lập công.
NGUYÊN
PHI Ỷ LAN (1044 – 1117)
Có
một truyền thuyết đẹp,
Đúng
hay không, bàn sau.
Và
theo truyền thuyết ấy,
Có
một nàng hái dâu.
Nàng,
cô thôn nữ ấy,
Rất
xinh đẹp, tất nhiên.
Nết
na và chăm chỉ,
Không
thể không dịu hiền.
Một
hôm, đang dưới bãi
Thì
xe vua đi qua.
Ấy
là vua tìm vợ,
Vì
vua đã, đang già.
Khỏi
nói, các cô gái
Tranh
nhau đứng trước ngài.
Họ
thích làm hoàng hậu
Và
quyết không nhường ai.
Thế
mà thôn nữ ấy,
Cô
gái đang hái dâu,
Vẫn
luôn tay, cứ hái,
Thậm
chí không ngửng đầu.
Vừa
hái dâu vừa hát,
Mà
cô hát rất hay,
Đến
mức vua dừng lại,
Nghe,
và lòng say say.
Từ
tò mò, rồi thích,
Rồi
yêu cô gái nghèo,
Vua
cho người cung kính
Rước
kiệu cô về triều.
Rồi
lấy nàng làm vợ,
Rồi
gì gì, gì gì,
Cuối
cùng cô gái ấy
Thành
Ỷ Lan chính phi.
Ỷ
Lan, vì hôm đó
Cô
đứng tựa cây lan.
Vừa
hồn nhiên, vừa đẹp.
Cũng
có người bảo gian.
Có
một nhà viết sử
Vừa
viết sách về cô,
Nói
bố cô lúc ấy
Làm
quan ở kinh đô.
Có
thể ông biết trước
Việc
vua về vùng ông
Nên
sai con phục sẵn,
Như
phục chim vào lồng.
Nên
cô mới ra bãi
Vờ
chăm chú hái dâu,
Cố
tình không chú ý,
Cố
tình không ngửng đầu.
Vì
biết có chú ý
Cũng
chẳng ăn thua gì.
Vậy
phải làm gì đấy
Thật
lãng mạn, ly kỳ.
Ngoài
đời, bà quả thật
Chuyên
trồng dâu nuôi tằm.
Tên
là Lê Thị Yến,
Quê
ở huyện Gia Lâm.
Vua
đã bốn mươi tuổi
Mà
chưa có con trai,
Nên
gặp được Thị Yến
Vừa
xinh vừa có tài
Liền
lấy bà làm vợ,
Xây
riêng một cung to,
Nay
là đình Yên Thái,
Cách
không xa Bờ Hồ.
Bà
sinh hai hoàng tử
Cho
vua Lý Thánh Tông.
Con
đầu là Càn Đức,
Sau
thành Lý Nhân Tông.
Thế
là vua mãn nguyện,
Được
như ước, còn gì?
Nên
bà được cất nhắc
Thần
phi, rồi Nguyên phi.
Năm
một không sáu chín
Vua
đi đánh Chiêm Thành.
Đem
mọi việc quốc sự
Giao
cho bà điều hành.
Vua
đánh mãi không thắng,
Đang
có ý lui quân,
Thì
biết tin hoàng hậu
Ở
Thăng Long được dân
Và
các quan kính trọng
Vì
các việc triều đình
Đều
được bà làm tốt.
Vua
xấu hổ, giật mình.
Đàn
bà mà giỏi thế,
Vậy
đàn ông thì sao?
Thế
là vua quyết định
Lại
tung quân đánh vào.
Lần
ấy vua thắng lớn,
Lấy
thêm được ba châu,
Bắt
vua Chiêm, Chế Củ,
Phải
uốn gối, cúi đầu.
Tháng
Giêng năm Nhâm Tý,
Tức
một không bảy hai,
Thánh
Tông lâm bệnh chết,
Lý
Nhân Tông lên ngai.
Càn
Đức mới sáu tuổi,
Còn
nhỏ, chẳng biết gì,
Nên
xẩy ra cuộc chiến
Giữa
hai bà Hoàng phi.
Một
bên là Thái hậu
Đang
thực nắm quyền hành,
Nhờ
có sự ủng hộ
Của
Thái sư Đạo Thành.
Còn
bên kia, yếu thế,
Là
Ỷ Lan Thái phi.
Làm
mẹ vua còn nhỏ,
Không
có quyền hành gì.
Sau
được Lý Thường Kiệt
Đứng
hẳn về phe mình,
Ỷ
Lan giành thế thắng.
Quên
hết cả nghĩa tình,
Bà
bắt con, Càn Đức,
Chôn
Thái hậu họ Dương,
Bảy
mươi sáu thị nữ
Cùng
Thánh Tông, thật thương.
Còn
Thái sư họ Lý
May
không bị giết oan,
Giáng
chức thành Tả gián,
Đi
coi châu Nghệ An.
Vậy
là một thôn nữ,
Hiền
dịu và xinh tươi,
Vì
quyền lực, đã giết
Bảy
mươi bảy con người.
Nắm
toàn quyền triều chính,
Từ
Ỷ Lan Thái phi,
Thành
Ỷ Lan Thái Hậu.
Sắp
tới bà làm gì?
Lần
thứ hai nhiếp chính
Năm
một không bảy tư,
Bà
lại mời ra Bắc
Lý
Đạo Thành Thái sư.
Bà
quên thù hận cũ,
Giao
trọng trách cho ông,
Để
cùng Lý Thường Kiệt
Lo
gánh vác việc công.
Nhờ
thế mà đất nước
Được
ổn định dài lâu,
Bình
Chiêm rồi phá Tống -
Việc
này bà công đầu.
Sử
cũ còn ghi lại,
Năm
một một không ba,
Bà
lấy tiền công quĩ
Và
một phần tiền bà
Để
chuộc các cô gái
Bị
bán cho nhà giàu,
Tìm
đàn ông góa vợ
Để
họ thành cô dâu.
Vốn
là người mộ Phật,
Là
người tu tại gia,
Bà
xây nhiều chùa, miếu,
Nhất
là khi về già.
Có
người nói, bởi lẽ
Lòng
bà không thảnh thơi,
Hối
hận vì đã giết
Bảy
mươi bảy con người.
Rất
có thể như thế,
Cũng
có thể là không.
Lịch
sử rất sòng phẳng:
Khen
khi bà có công.
Ngược
lại, khi có tội,
Phải
mang tiếng với đời.
Không
ai có thể thoát
Luật
trời và luật người.
Bảy
mươi tuổi, bà chết,
Ba
hầu gái chôn theo,
Những
người bà yêu mến,
Tức
là những người nghèo.
CHU
VĂN AN (1292 – 1370)
Chu
Văn An tên thật
Đơn
giản chỉ Chu An,
Tên
chữ là Linh Triệt.
Khi
về ẩn, an nhàn
Ông
lấy hiệu Tiều Ẩn,
Ông
tiều thích ngủ khì,
Quê
ở xã Thanh Liệt,
Nay
thuộc huyện Thanh Trì.
Ông
là người chính trực,
Từng
đỗ Thái học sinh,
Nhưng
ở nhà dạy học,
Chọn
hai chữ yên bình.
Trường
mở, đông người học,
Bên
kia bờ sông Tô.
Ông
có công truyền bá
Các
tư tưởng Đạo Nho.
Không
ít các trò học
Thành
nổi tiếng sau này.
Phạm
Sư Mạnh, Lê Quát
Vẫn
cung kính thăm thầy.
Nhờ
có tài, có đức,
Ông
được Trần Minh Tông
Mời
làm quan tư nghiệp
Quốc
Tử Giám, trường công.
Ông
thành thầy dạy học,
Của
vị vua tương lai
Là
Thái tử Trần Vượng,
Dạy
cả đức lẫn tài.
Sau
khi Minh Tông mất,
Vua
Dụ Tông lên thay,
Một
ông vua hèn yếu,
Thích
đàn hát suốt ngày.
Vua
ham chơi như thế
Nên
quan nịnh lộng quyền,
Triều
chính không ổn định,
Lòng
dân cũng không yên.
Ông
dâng “thất trảm sớ”,
Tức
sớ chém bảy người.
Vua
không nghe, thất vọng,
Ông
về nhà ngồi chơi.
Ông
lui về ở ẩn
Ở
vùng núi Phượng Hoàng,
Viết
sách và dạy học
Cho
lũ trẻ trong làng.
Cuộc
đời ông thanh bạch,
Liêm
khiết và chí công
Được
xem là gương sáng
Vào
thời đại của ông.
Ông
còn viết nhiều sách:
Thơ
gồm hai tập dày,
Chữ
Nôm và chữ Hán,
Tinh
tế và rất hay.
Cả
Tứ “Thư thuyết ước”
Cũng
là sách của ông,
Ngoài
ra còn mấy cuốn
Thuốc
Bắc và thuốc Đông.
Ông
là một trong ít
Các
học giả, hiền nho
Được
thờ ở Văn Miếu
Mãi
cho đến bây giờ.
Hiện
còn có lăng mộ
Và
ngôi đền thờ ông
Nằm
lưng chừng Núi Phượng,
Người
đến viếng rất đông.
NGƯỜI
HỌC TRÒ CỦA CHU VĂN AN
Chu
Văn An mở lớp
Ngay
bên bờ sông Tô.
Lớp,
nghe nói, không lớn,
Nhưng
rất đông học trò.
Trong
số học trò ấy,
Ông
để ý một người,
Sáng
nào cũng đến sớm,
Ghi
chép kỹ từng lời.
Ông
khen, hài lòng lắm,
Nhưng
không biết người này,
Con
nhà ai, giàu, đói
Và
từ đâu đến đây.
Bèn
cho người lặng lẽ
Theo
anh kia về nhà,
Nhưng
khi đến Đầm Đại
Thì
biến mất bất ngờ.
Cái
Đầm Đại ngày ấy
Nhiều
sen và vân sam,
Bây
giờ vẫn chưa lấp.
Đó
là hồ Linh Đàm.
Mọi
người lấy làm lạ,
Nhưng
sáng ngày hôm sau,
Người
học trò vẫn đến,
Kinh
sử thuộc làu làu.
Một
lần, trời hạn lớn,
Lúa
ngoài đồng cháy khô.
Chu
Văn An buồn bã
Nói
với các học trò,
Rằng
nếu ai có thể
Thì
làm mưa giúp dân.
Người
học trò lạ ấy
Đứng
trước thầy, phân vân:
“Thưa
thầy, con làm được,
Tuy
trái với lệnh trời.
Nhưng
con nghĩ thà chết,
Không
thể không giúp người.”
Rồi
người ấy thong thả
Bước
ra giữa sân trường,
Sau
khi đọc thần chú,
Vung
mực khắp bốn phương.
Khi
nghiên mực đã cạn,
Anh
tung nó lên cao.
Lập
tức trời nổi gió
Rồi
mưa xối ào ào.
Trời
mưa suốt đêm đó.
Phía
Đầm Đại chớp lòa
Rồi
sấm nổ liên tục.
Sáng
tỉnh dậy, người ta
Thấy
giữa hồ trôi nổi
Xác
con thuồng luồng to.
Chu
Văn An vội vã
Cho
gọi đám học trò
Vớt
nó lên chôn cất.
Rồi
dân lập miếu thờ.
Cái
mộ ấy, nghe nói,
Còn
tận đến bây giờ.
Theo
truyền thuyết kể lại,
Chỗ
rơi xuống chiếc nghiên
Sau
gọi là Đầm Mực,
Vì
nước nó màu đen.
Còn
quản bút rơi trúng
Đất
làng Tả Thanh Oai,
Nên
về sau đất ấy
Sinh
ra lắm hiền tài.
THƠ
CHU VĂN AN
Tạp hứng ở Linh Sơn
Núi
rừng như cảnh vẽ bình phong.
Bờ
khe lơ lửng mặt trời hồng.
Lối
đi cỏ mọc, người thưa thớt.
Thỉnh
thoảng chim kêu trong tán thông.
Tạm nghỉ ở núi thôn Nam
Như
áng mây chiều, lòng thảnh thơi.
Gió
mát xua tan hết sự đời.
Cõi
trần, cõi Phật xa vời vợi.
Ngoài
thềm chim hót, cánh hoa rơi.
Kính họa thơ vua
Hạc
múa ngoài sân, mây sát thềm.
Cầm
hoa như chén, uống sương đêm.
Gió
xuân thổi nhẹ rung đàn đá.
Dạo
dưới hoa đào, lòng tĩnh êm.
Sông Thanh Lương
Hoàng
hôn, vệt nắng vắt qua đồi.
Thuyền
chài trên bến đứng từng đôi.
Ngắm
mãi Thanh Lương không biết chán,
Triều
dâng, ráng lạnh, áng mây trôi.
Đêm trăng, đi dạo trên con đường
có thông mọc ở núi Tiên Du
Con
đường rợp bóng cây.
Xóm
vắng, khói mờ bay.
Chiều
buông, ai thổi sáo.
Trời
thấp và nhiều mây.
Dưới
khe lạnh cá nhảy.
Chim
ngủ trong sương dày.
Người
thổi sênh đâu vắng,
Để
núi lạnh thế này?
Ao Miết Trì
Hoàng
hôn, bóng nguyệt giỡn bóng tà.
Dưới
ao sen nở, lá xen hoa.
Chỉ
thấy cá bơi, rồng không thấy.
Trời
chiều vắng bóng hạc bay qua.
Rêu
non đẫm nước che lấp cửa.
Thoang
thoảng đường đi mùi quế già.
Lòng
này chưa nguội như tro lạnh.
Nhắc
đến Tiên hoàng, giọt lệ sa.
Thơ làm ở Giang Đình
Một
mình buồn đứng, ngắm thuyền câu.
Nước
dâng, sáo thổi gợi thêm sầu.
Xế
bóng hoàng hôn, thi hứng cạn.
Hiu
hắt trời thu biếc một mầu.
Sự
nghiệp công danh thành cõi mộng.
Giang
hồ du ngoạn đỡ buồn đau.
Đi,
ở tự mình, không trói buộc,
Khác
nào ngang dọc cánh chim âu.
Sáng xuân
Thảnh
thơi, nhà nhỏ giữa rừng cây.
Màu
xanh của lá át màu mây.
Liếp
mỏng nghiêng nghiêng che rét nhẹ.
Cánh
hoa sương ướt, trời như say.
Lòng
như mặt giếng, luôn thanh thản.
Bên
rừng lưu luyến cánh mây bay.
Khói
thông sắp hết, trà đang nguội.
Một
tiếng chim kêu, tỉnh mộng ngày.
Đầu hè
Nhà
tranh, núi vắng, giấc mơ màng.
Gió
thổi hàng cây, nắng nhạt vàng.
Chim
én rủ nhau tìm tổ cũ.
Ve
sầu đầu hạ hát âm vang.
Sen
nở dưới khe không gợn bẩn.
Trúc
mọc xanh tươi phía cuối làng.
Cành
ngô phượng đậu, lâu thành biếng.
Tập
sách trên bàn, gió lật trang.
Trông về Thái Lăng
Xế
chiều, rừng bách ngát màu xanh.
Hòn
đá to nghiêng cỏ bám quanh.
Gió
thổi, núi buồn thêm ảm đạm.
Trên
trời mây rách dạt trôi nhanh.
Hoa
rụng bờ khe, mưa lất phất.
Ngoài
đồng im bặt tiếng chim oanh.
Bát
ngát cỏ xuân, xanh đến lạ.
Dùng
dằng định bước, bước không đành.
MẠC
ĐỈNH CHI (1280 – 1346)
Tương
truyền có bà nọ,
Bị
khỉ hiếp, sau này
Đẻ
đứa con xấu xí,
Ngắn
chân và dài tay.
Nhưng
đứa bé, bù lại,
Lại
thông minh cực kỳ,
Rất
có tài ứng đối.
Đó
là Mạc Đỉnh Chi.
Chồng
bà giết con khỉ,
Chôn,
rồi mối đùn to,
Biết
là đất phát tướng,
Nên
khi chết dặn dò
Các
con cháu từ đó
Chôn
xác người thân mình
Ngay
trên khu đất ấy,
Sẽ
có ngày hiển vinh.
Cuốn
“Công dư tiệp ký”
Nói
rằng vua nhà Nguyên
Thấy
Chi tài mà xấu,
Chắc
phải có nhân duyên,
Bèn
cho thầy địa lý
Sang
dò hiểu xem sao,
Và
quả thầy tìm đến
Mộ
con khỉ năm nào.
Có
thể chuyện ấy đúng,
Cũng
có thể là sai,
Nhưng
người này quả thật
Đúng
là bậc hiền tài.
Dòng
họ ông sau đó
Cũng
vinh hiển vô cùng.
Có
vị vua nổi tiếng,
Là
vua Mạc Đăng Dung.
Ông
người làng Lũng Động,
Huyện
Nam Sách, Hải Dương,
Tướng
mạo không đẹp lắm,
Nhưng
trí tuệ phi thường.
Năm
một ba không bốn,
Ông
đỗ đầu, tuy nhiên,
Vua
phải duyệt tướng mạo,
Mới
cho làm Trạng nguyên.
Thấy
ông thấp và bé,
Đức
vua Trần Anh Tông,
Không
muốn cho đỗ Trạng,
Nhưng
đọc thơ của ông,
Cuối
cùng vua đồng ý,
Lại
còn ban lời khen
Bài
“Sen trong giếng ngọc”,
Tức
là “Ngọc tỉnh liên”.
Ông
được giữ thư khố,
Có
tài và nhân từ,
Được
triều đình yêu mến
Rồi
thăng chức Thượng thư.
Hai
ông tổ, đời Lý,
Làm
thượng thư như ông:
Mạc
Hiển Tích - bộ Lại,
Mạc
Kiến Quan - bộ Công.
Ông
hai lần đi sứ
Sang
triều đình Bắc phương,
Áp
đảo về hùng biện,
Nổi
bật tài văn chương,
Đến
mức Nguyên Hoàng đế
Phải
công nhận tài hiền,
Lấy
bút tặng bốn chữ,
Là
“Lưỡng quốc Trạng nguyên”.
Nhờ
thế mà uy tín
Đại
Việt được nâng cao.
Sứ
thần các nước khác
Gặp
đâu cũng cúi chào.
Có
khá nhiều giai thoại
Về
tài đối của ông.
Đi
sứ, nhờ tài ấy
Mà
làm tốt việc công.
Văn
chương là một chuyện.
Chuyện
khác tốt hơn nhiều.
Đó
là ông liêm khiết,
Thượng
thư mà vẫn nghèo.
Nghèo
đến mức, lần nọ,
Người
của vua Minh Tông
Bỏ
mười quan tiền cũ
Trước
cửa thềm nhà ông.
Thế
mà ông, sáng dậy,
Đem
tiền ấy vào cung.
Vua
cười: “Không ai nhận,
Khanh
cứ lấy mà dùng.”
Một
tấm gương sáng chói
Về
liêm khiết, công minh,
Mà
chúng ta, con cháu,
Phải
biết để soi mình.
THƠ
MẠC ĐỈNH CHI
Mừng trời tạnh
Non
sông thật tươi đẹp.
Trời
lại ấm, khô hanh.
Khói
lồng mặt trời mọc.
Sóng
gợn, nước trong xanh.
Thuyền
lướt, chạm hoa lá.
Trên
bờ liễu buông mành.
Khách
xa lòng ấm lại,
Mừng
năm mới tốt lành.
Cảnh chiều
Mây
núi xanh nhàn nhạt.
Nước
sông xuân nhuộm màu.
Quạ
kêu giữa chiều xế.
Nhạn
tiễn mây về đâu?
Bên
khe, bác tiều hát.
Trong
vịnh, lửa thuyền câu.
Khách
xa buồn, lạnh lẽo,
Mượn
chén rượu giải sầu.
Đi sớm
Vừa
tỉnh giấc mơ bướm.
Sông
Thương Lang đầy mây.
Ai
hát điệu chài lưới.
Thuyền
xuyên lớp sương dày.
Tam
Sở nhiều núi thẳm.
Cửu
Giang nước dâng đầy.
Liêm
Khê nơi nào nhỉ?
Muốn
đến thăm nơi này.
Qua Bành Trạch, thăm nơi ở cũ của Đào Tiềm
Bản
tính ưa phóng khoáng.
Ghét
xu nịnh, mưu cầu.
Từ
quan, cởi dây ấn.
Không
vì ăn, cúi đầu.
Một
giậu cúc lạnh lẽo.
Dăm
cây liễu gợi sầu.
Danh
tiếng ông thanh khiết
Lưu
lại muôn đời sau.
TRẦN
THỦ ĐỘ (1194 – 1264)
Một
nhân vật lịch sử
Gây
nhiều oán, nhiều ân,
Đó
là Trần Thủ Độ,
Thái
sư đầu triều Trần.
Cũng
ông, người thực sự
Sáng
lập triều đại này,
Và
bốn mươi năm chẵn
Giữ
chặt nó trong tay.
Nhưng
ông ác hay thiện,
Chính
nghĩa hay gian tà?
Điều
này chưa ngả ngũ,
Dù
nhiều năm trôi qua.
Ông
sinh ở Lưu Xá,
Huyện
Hưng Hà, Thái Bình,
Tổ
tiên làm nghề cá,
Từ
Đông Triều, Yên Sinh.
Nhưng
đến đời ông bố
Thì
giàu sang vô cùng,
Khi
Hoàng Thái tử Sảm
Lấy
chị Trần Thị Dung.
Sau
Hoàng Thái tử Sảm
Thành
vua Lý Huệ Tông.
Nhà
Lý đứng vững được
Một
phần cũng nhờ ông.
Năm
một hai hai bốn,
Ông
được phong chức danh
“Điện
tiền Chỉ huy sứ”,
Chỉ
huy bảo vệ thành.
Khi
Trần Tự Khánh chết,
Ông
là người một mình
Nắm
hết mọi quyền lực,
Và
công việc triều đình.
Triều
Lý vào lúc ấy
Đang
trên đường suy vong.
Vua
ham chơi, tác tráng,
Dân
bất ổn, nản lòng.
Mùa
màng luôn thất bát.
Chân
Lạp và Chiêm Thành
Thường
quấy phá biên giới,
Lơ
lửng họa chiến tranh.
Sáng
suốt và khôn khéo,
Biết
trông rộng, nhìn xa,
Ông
nghĩ cần thay đổi,
Cho
mình, cho nước nhà.
Năm
một hai hai bốn,
Ông
ép Lý Huệ Tông
Nhường
ngôi cho con gái,
Cho
dù muốn hay không.
Huệ
Tông lên chùa sống,
Có
pháp hiệu Huệ Quang.
Con
gái vua, bảy tuổi,
Hiệu
là Lý Chiêu Hoàng.
Đó
là vị vua nữ
Duy
nhất của nước nhà,
Nhưng
cuộc đời chìm nổi,
Ngẫm
mà thương cho bà.
Tiếp
đến, Trần Thủ Độ
Đưa
Trần Cảnh, cháu ông,
Vào
hầu bên nữ chúa,
Rồi
sau trở thành chồng.
Chỉ
một năm sau đó
Chiêu
Hoàng tự dâng ngai
Cho
cậu chồng tám tuổi,
Yên
cả trong lẫn ngoài.
Vậy
là cuộc đảo chính
Đã
mỹ mãn thành công,
Triều
Trần kế triều Lý,
Hoàn
toàn theo ý ông.
Phải
khen ông tài giỏi,
Thay
đổi cả vương triều,
Đất
nước không xáo trộn,
Máu
cũng chẳng đổ nhiều.
Vì
vua còn rất bé,
Ông
lại nắm toàn quyền,
Dẹp
loạn sứ trong nước,
Dân
chúng được bình yên.
Lần
kháng chiến thứ nhất
Chống
xâm lược nhà Mông,
Đại
Việt giành thắng lợi
Một
phần nhờ có ông.
Thế
giặc lớn, vua sợ,
Mới
hỏi ông, thăm dò.
“Chừng
nào tôi chưa chết,
Xin
bệ hạ đừng lo!”
Thái
sư nói câu ấy,
Làm
triều đình vững lòng,
Trên
dưới dốc toàn lực,
Giúp
kháng chiến thành công.
Theo
sử cũ chép lại,
Trần
Thủ Độ là người
Rất
công tâm, nghiêm khắc,
Khôn
ngoan và hiểu đời.
Một
lần vợ ông trách
Khi
đi vào cấm cung
Bị
lính cờ ngăn lại.
Ông
nghe, giận vô cùng,
Liền
gọi tên lính ấy,
Định
chém đầu tức thì.
Thế
mà ông không chém,
Còn
khen, thật lạ kỳ.
“Tên
lính này, ông nói,
Giữ
đúng phép vua ban.
Lính
làm thế là tốt,
Sao
bà còn phàn nàn?”
Có
lần, một công chúa
Xin
ông cho người nhà
Một
chức quan nho nhỏ.
Ông
gật đầu, thế là
Khi
người kia đến gặp,
Ông
nói: “Anh là người
Được
công chúa ưu ái,
Vậy
nổi bật ở đời.
Thế
thì ta xin phép
Chặt
một ngón chân anh
Đánh
dấu sự khác ấy.
Chắc
anh cũng đồng tình.”
Anh
kia nghe, sợ quá,
Liền
ra về, tay không.
Từ
đấy không hề thấy
Người
nào đến nhờ ông.
Lại
nữa, một lần nọ,
Có
người tâu chân tình:
“Bệ
hạ còn ít tuổi,
Thái
sư nắm quyền hành,
E
gây nên hậu họa.”
Thái
Tông đưa người này
Đến
gặp Trần Thủ Độ.
Ông
nghe rồi khen hay,
Bảo
ông ta nói đúng,
Không
chém đầu để răn,
Mà
còn ban lụa thưởng,
Khen
là người trung thần.
Vậy
là Trần Thủ Độ
Rõ
ràng rất có công
Xây
dựng vương triều mới,
Đánh
thắng giặc Nguyên Mông.
Nhưng
nhiều người chỉ trích
Ông
là người nhẫn tâm,
Độc
ác, vô đạo đức.
Nói
thế cũng không nhầm.
Để
đề phòng hậu họa,
Ông
không ngại giết người.
Giết
tôn thất nhà Lý,
Một
tội ác tày trời.
Chính
ông ép Trần Liễu
Nhường
vợ cho em trai.
Vua
lấy chị dâu ruột,
Khi
chị dâu có thai.
Ông
bị chê thất đức
Khi
giết Lý Huệ Tông,
Lấy
hoàng hậu làm vợ,
Tức
lấy chị họ ông.
Ông
là người như thế.
Công
và tội đan xen.
Thậm
chí công và tội
Còn
chưa rõ trắng đen.
TRẦN
HƯNG ĐẠO (1232 - 1300)
Tên
thật là Quốc Tuấn,
Trần
Hưng Đạo đại vương
Là
một người đặc biệt,
Tài
đức bậc phi thường.
Ông
là nhà chính trị,
Nhà
quân sự thiên tài,
Góp
phần giữ độc lập
Cho
thế hệ tương lai.
Ông
là con Trần Liễu,
Cháu
vua Trần Thái Tông.
Rất
khôi ngô, tuấn tú,
Văn
và võ tinh thông.
Ông
lớn lên đúng lúc
Nước
thọ địch bốn bề.
Giặc
Nguyên Mông phương Bắc
Đang
đêm ngày lăm le.
Năm
một hai năm bảy
Đức
vua Trần Thái Tông
Xuống
chiếu giao chức vụ
Đại
Tiết Chế cho ông.
Tiết
chế là Tư Lệnh,
Theo
cách hiểu thông thường.
Ông
đem quân thủy bộ
Ra
trấn giữ biên cương.
Sau
lần đầu thắng giặc
Ông
được đức vua Trần
Phong
Quốc công Tiết chế,
Thống
lĩnh cả ba quân.
Là
vị tổng tư lệnh,
Năm
tám tư, mùa đông,
Ông
cho duyệt quân ngũ
Bến
Hàng Than, sông Hồng.
Rồi
bài “Hịch tướng sĩ”,
Một
đệ nhất hùng văn,
Được
ông đọc dõng dạc
Trước
toàn bộ ba quân.
Chỉ
một năm sau đó,
Quân
Nguyên sang đánh ta.
Kể
từ lần thứ nhất,
Hăm
bảy năm trôi qua.
Đường
bộ và đường thủy,
Hai
mũi chúng tấn công.
Đường
bộ từ phía Bắc,
Đường
thủy từ phía đông.
Từ
Nghệ An, Thanh Hóa,
Chúng
còn vòng đánh ra.
Để
bảo toàn lực lượng,
Cân
nhắc địch và ta,
Trần
Hưng Đạo quyết định
Tạm
rút khỏi Thăng Long,
Làm
vườn không nhà trống,
Quân
và dân một lòng.
Vào
tháng Năm năm ấy,
Từ
căn cứ Thiên Trường,
Ông
đánh trận Hàm Tử,
Rồi
Tây Kết, Chương Dương...
Đội
quân Nguyên hùng mạnh,
Như
đám mây âm u,
Bị
quân Trần quét sạch,
Xua
hết bóng quân thù.
Năm
một hai tám bảy
Quân
Nguyên lại đánh ta,
Hai
năm sau lần trước,
Giờ
là lần thứ ba.
Đoàn
thuyền lương quân địch
Bị
diệt ở Vân Đồn.
Hay
tin, Thoát Hoan sợ,
Rút
chạy, vãi linh hồn.
Trần
Hưng Đạo cho lính
Chốt
giữ cửa Bạch Đằng.
Sau
Vân Đồn, binh lính
Khí
thế đang rất hăng.
Tháng
Tư năm tám tám,
Đoàn
thuyền Ô Mã Nhi
Bị
Đại Việt phá sạch,
Lương
thực chẳng còn gì.
Tướng
Thoát Hoan nghe thế,
Liền
vội vã rút về,
Chui
ống đồng mà rút,
Thật
nhục nhã, ê chề.
Năm
một hai tám chín,
Vua
luận công, biểu dương,
Rồi
phong Trần Hưng Đạo
Là
Hưng Đạo đại vương.
Ông
lui về Vạn Kiếp
An
hưởng nốt tuổi già,
Nơi
ông được phong ấp,
Cách
Chí Linh không xa.
Tháng
Sáu năm Canh Tý,
Tức
một ba không không,
Ông
lâm bệnh, ốm nặng,
Đích
thân Trần Anh Tông
Cùng
nhiều đại quan khác
Về
thăm hỏi tận nơi.
Nhưng
hai tháng sau đó
Ông
lặng lẽ qua đời.
Ông
dặn con khi chết,
Hãy
hỏa táng xác ông,
Đựng
cốt trong lọ sứ,
Chôn
giữa các gốc thông
Trong
góc vườn An Lạc.
Chôn
rồi, phủ đất lên,
Lại
trồng cây như cũ,
Thật
khéo và tự nhiên
Để
trường hợp, nếu muốn,
Người
của các đời sau
Không
thể nào đoán biết
Mộ
ông chôn ở đâu.
Nhân
dân khắp cả nước
Tôn
là Đức Thánh Trần,
Lập
đền thờ cúng viếng,
Hương
khói đều quanh năm.
CHUYỆN
VỀ TRẦN HƯNG ĐẠO
Năm
một hai ba bảy,
Trần
Thủ Độ bỗng nhiên
Ép
cha ông, Trần Liễu,
Nhường
vợ là Thuận Thiên
Cho
chú ông, Trần Cảnh,
Lúc
ấy ngự ngai vàng.
Mà
Thuận Thiên công chúa
Là
chị Lý Chiêu Hoàng.
Với
cái thai ba tháng,
Thuận
Thiên thành vợ vua,
Dẫu
vua không đồng ý,
Cứ
đòi bỏ lên chùa.
Trần
Liễu thì uất ức,
Dấy
binh nhưng bất thành.
Thủ
Độ tha không giết,
Nhờ
vua xin cho anh.
Trần
Liễu tìm người giỏi
Làm
thầy dạy con trai,
Tức
là Trần Hưng Đạo,
Mong
văn võ toàn tài.
Trước
khi chết, ông dặn:
“Con
hãy cố vì cha
Mà
lấy cả thiên hạ,
Thế
mới đẹp lòng ta.”
Tức
là ý ông dặn
Con
tiếm ngôi về sau.
Hưng
Đạo không muốn thế,
Nhưng
ghi nhớ trong đầu.
Khi
đã nắm toàn bộ
Quyền
lực vào tay mình,
Ông
giả đò ướm hỏi
Thân
tín trong triều đình.
Yết
Kiêu và Dã Tượng
Nói
là điều không nên.
Ông
gật đầu khen ngợi,
Còn
thưởng họ nhiều tiền.
Ông
hỏi cả con trưởng
Và
con thứ điều này.
Người
con trưởng phản đối.
Anh
con thứ khen hay.
Lập
tức ông rút kiếm
Định
chém đầu anh ta,
Bảo
là phường nghịch tặc,
Không
cho nhận là cha.
Rồi
lệnh: khi ông chết,
Đậy
nắp quan tài xong,
Mới
cho anh con thứ
Được
đi vào viếng ông.
Theo
sử cũ ghi lại
Trần
Quang Khải và ông
Có
mối tư thù nhỏ
Vẫn
canh cánh trong lòng.
Trong
cuộc chiến lần một,
Trần
Thánh Tông cầm quân,
Tể
tướng Trần Quang Khải
Cũng
đi theo vua Trần.
Thượng
hoàng thì có ý
Khi
Hưng Đạo ở nhà
Phong
ông chức Tể tướng
Nhân
Quang Khải đi xa.
Cớ
là tiếp sứ Bắc,
Nhưng
ông xin không nghe,
Nói
rằng những việc ấy
Chờ
Tể tướng quay về.
Một
hôm, Trần Hưng Đạo
Đi
thuyền về Thăng Long,
Trần
Quang Khải nghe tiếng,
Xuống
thuyền chơi với ông.
Quang
Khải vốn sợ tắm,
Hai
người ăn uống xong,
Hưng
Đạo tự cởi áo
Rồi
kỳ lưng cho ông.
“Nhờ
bác thăm thuyền chiến,
Tôi
may mắn hôm nay
Được
tắm cho Tể tướng.
Phải
ghi nhớ ngày này!”
Trần
Quang Khải cúi tạ:
“
Được Quốc công kỳ lưng,
Thật
là diễm phúc lớn,
Xin
mở tiệc ăn mừng.”
Sử
cũ cũng chép việc
Con
trai Hưng Đạo vương
Lấy
công chúa Thiên Thụy,
Thế
mà trái đạo thường,
Trần
Khánh Dư, tướng giỏi,
Lại
thông dâm với nàng,
Khiến
vua phải xuống chiếu
Đuổi
về núi Phượng Hoàng.
Vậy
mà khi Mông Cổ
Đánh
Đại Việt lần ba,
Hưng
Đạo quên chuyện cũ,
Cho
vị tướng tài ba
Ra
trấn thủ biên giới.
Trần
Khánh Dư lập công,
Góp
phần làm chiến thắng,
Suốt
đời kính phục ông.
Hơn
thế, Trần Hưng Đạo,
Đã
chọn Trần Khánh Dư
Viết
lời tựa cho cuốn
“Vạn
Kiếp bí truyền thư”.
Năm
một hai tám mốt,
Vua
Nguyên sai Sài Xuân
Đi
sứ sang Đại Việt.
Thằng
này láo, có lần
Cứ
ngồi trên lưng ngựa
Đi
qua cửa Dương Minh.
Hắn
còn dùng roi cứng
Quất
vào đầu vệ binh.
Tể
tướng Trần Quang Khải
Đến
chào hắn, thế mà,
Bất
chấp cả nghi lễ,
Hắn
nằm khểnh, không ra.
Hay
tin, Trần Hưng Đạo,
Mặc
áo vải, cạo đầu,
Đi
thẳng đến quán sứ
Xem
binh tình ra sao.
Thế
mà lạ, lập tức
Hắn
đứng dậy, cúi mình
Lễ
phép mời uống nước,
Đàm
đạo khá thân tình.
Một
thằng hầu của hắn
Cầm
mũi tên, đứng sau,
Chọc
vào Trần Hưng Đạo
Đến
chảy cả máu đầu.
Nhưng
ông vẫn bình thản,
Nét
mặt không đổi thay.
Lúc
về, Sài Xuân tiễn,
Còn
nhắc mãi chuyện này.
BA
LẦN ĐÁNH THẮNG GIẶC NGUYÊN MÔNG
Thái
sư Trần Thủ Độ
Đã
chuyển giao nhẹ nhàng
Ngai
vua cho Trần Cảnh
Từ
tay Lý Chiêu Hoàng.
Trong
khi đó, phương Bắc
Đầu
thế kỷ mười ba,
Người
Mông Cổ đánh chiếm
Một
vùng đất bao la
Gồm
châu Âu, Tây Á,
Rồi
như cơn cuồng phong,
Đánh
chiếm nhà Tây Hạ,
Xuống
phía Nam, phía Đông.
Tiêu
diệt nước Nam Tống
Là
mục đích đầu tiên.
Chúng
mượn đường Đại Việt
Để
từ dưới đánh lên.
Các
vua Trần từ chối,
Còn
nhốt sứ trong nhà.
Năm
một hai năm tám,
Chúng
đem quân đánh ta.
Gần
năm vạn binh sĩ,
Từ
Vân Nam tràn sang.
Chúng
làm cỏ mọi thứ,
Đồng
ruộng và xóm làng.
Hai
vua của Đại Việt
Là
Thái Tông, Thánh Tông
Dẫn
quân ra nghênh chiến,
Nhưng
do địch quá đông,
Trận
ấy ở Vĩnh Phúc,
Quân
Đại Việt thua to,
Thua
cả trận Phù Lỗ
Ở
bên sông Cà Lồ.
Vua
nhà Trần quyết định
Rút
khỏi thành Thăng Long,
Làm
“nhà không vườn trống”,
Gây
khó cho quân Mông.
Nhưng
mười ngày sau đó,
Hai
vua Trần cùng nhau
Đánh
bại quân Mông Cổ
Trong
trận Đông Bộ Đầu,
Giờ
thuộc đất Hà Nội,
Quận
Ba Đình ngày nay.
Giặc
phải rút về nước,
Cũng
theo đường Bắc - Tây.
Chỉ
trong vòng nửa tháng
Cuộc
chiến tranh xẩy ra
Và
nhanh chóng kết thúc,
Phần
thắng thuộc về ta.
Hăm
bảy năm sau đó,
Tức
một hai tám năm
Quân
Nguyên Mông lần nữa
Đánh
Đại Việt phía Nam.
Quân
số năm mươi vạn,
Muốn
đánh nhanh, thắng nhanh,
Hai
đường bộ phía Bắc,
Đường
thủy từ Chiêm Thành.
Như
lần xâm lược trước,
Lần
này quân Nguyên Mông
Thắng
trận ở Vạn Kiếp,
Lạng
Sơn và sông Hồng.
Sau
khi vượt biên giới,
Chưa
đầy hai mươi ngày,
Thăng
Long bị chúng chiếm.
Tình
thế quả rất gay.
Các
vua Trần tạm rút
Về
Nam Định, Ninh Bình,
Rồi
sau theo đường biển,
Lên
chốt vùng Quảng Ninh.
Ở
phía Nam, quân giặc
Đánh
ra từ Chiêm Thành,
Liên
tiếp giành thắng lợi
Ở
xứ Nghệ, xứ Thanh.
Đây
cũng là vùng đất
Mà
vua tôi nhà Trần
Đã
rút về chốt giữ,
Đợi
thời và yên dân.
Cũng
giống như lần trước,
Quân
Nguyên gặp khó khăn,
Vì
“tiêu thổ kháng chiến”,
Người
và ngựa thiếu ăn.
Tinh
thần binh sĩ xuống,
Chỉ
huy thì nản lòng.
Từ
Thanh Hóa lúc ấy
Quân
Đại Việt phản công,
Liên
tiếp giành thắng lợi
Ở
Hàm Tử, Chương Dương.
Thành
Thăng Long giải phóng,
Chặn
hết các ngả đường.
Quân
Nguyên Mông tháo chạy.
Bị
chặn ở sông Cầu.
Cánh
phía Nam bị diệt
Ở
Tây Kết, Khoái Châu.
Quân
Nguyên Mông đại bại,
Lo
quân lương, chiến xa,
Đóng
thêm nhiều tàu chiến,
Đánh
Đại Việt lần ba.
Chúng
chia làm ba cánh,
Từ
Vân Nam, Quảng Tây
Và
Quảng Đông - đường biển -
Hành
quân gấp đêm ngày.
Đó
là năm tám bảy,
Cuộc
chiến cũng không lâu,
Từ
tháng Chạp năm ấy
Đến
tháng Tư năm sau.
Quân
giặc năm mươi vạn,
Quân
Trần chỉ hai mươi,
Nhưng
ta hơn “địa lợi”
Và
hơn cả “nhân thời”.
Lại
giống hai lần trước,
Chúng
chiếm được Thăng Long,
Nhưng
thiếu lương, quân đói,
Binh
lính lại nản lòng.
Hơn
thế, vì bão biển,
Vì
thuyền đi lạc đường,
Trần
Khánh Dư lại đánh,
Nên
mất hết quân lương.
Quân
ta do thế yếu,
Về
chốt ở Hải Phòng,
Thường
tập kích Vạn Kiếp,
Đánh
quân thủy trên sông.
Bị
đói, bị chia cắt,
Giặc
rút khỏi Thăng Long,
Co
cụm ở Vạn Kiếp.
Quân
Trần chưa tấn công,
Chúng
đã chủ động rút,
Đi
qua ngả Cao Bằng.
Còn
toàn bộ quân thủy
Bỏ
mạng trận Bạch Đằng.
Thế
là lại thất bại,
Cả
ba lần, vua Nguyên,
Thế
tổ Hốt Tất Liệt,
Vẫn
còn chưa chịu yên.
Hắn
muốn đánh Đại Việt,
Chờ
thời, chờ binh tình.
Có
lần đã xuất phát,
Tướng
chết mà hoãn binh
Năm
một hai chín bốn,
Định
xuất quân, bất ngờ
Hốt
Tất Liệt ốm chết,
Mang
mộng ấy xuống mồ.
Môt
trang sử chói lọi.
Ba
lần thắng Nguyên Mông,
Một
đế quốc tự mãn
Luôn
thắng Tây, thắng Đông.
Đây
là thắng lợi lớn
Của
binh sĩ, nhân dân,
Của
đức Trần Hưng Đạo
Và
của các vua Trần.
TRẦN
BÌNH TRỌNG (1259 – 1285)
Danh
tướng Trần Bình Trọng,
Trong
kháng chiến lần hai
Chống
Nguyên Mông xâm lược,
Đã
đem hết sức tài
Bảo
vệ hai chủ tướng
Là
Thái Tông, Thánh Tông,
Rồi
bị giặc bắt sống,
Son
sắt một tấm lòng.
Lần
ấy giặc Mông Cổ
Đem
năm mươi vạn quân
Chia
làm hai mũi lớn
Cùng
tấn công nhà Trần.
Sau
trận đầu thất bại,
Tiết
chế Hưng Đạo vương
Quyết
định phải tạm rút
Về
căn cứ Thiên Trường.
Ông
giao Trần Bình Trọng
Một
nhiệm vụ nặng nề:
Phải
chốt giữ Thiên Mạc
Và
các khu liền kề,
Để
cầm chân quân địch,
Và
giúp hai vua Trần
Cùng
chỉ huy kháng chiến,
Rút
bí mật, an toàn.
Thoát
Hoan sai tướng giỏi
Là
Khoan Triệt, Lý Hồng,
Đem
tinh binh truy đuổi,
Cả
đường bộ, đường sông.
Chính
ở bãi Thiên Mạc,
Huyện
Khoái Châu, Hưng Yên,
Ông
đã cầm chân giặc
Dòng
dã mấy ngày liền.
Do
vậy, giặc mất dấu
Đường
rút của vua Trần.
Ta
bảo toàn lực lượng
Để
phản công khi cần.
Tuy
nhiên, trong trận ấy,
Thế
giặc mạnh và đông,
Quân
ta dần đuối sức,
Giặc
bắt sống được ông.
Chúng
tìm cách mua chuộc
Để
ông khai việc binh.
Ông
nhất quyết không chịu,
Còn
giục chúng giết mình.
Trần
Bình Trọng lần ấy
Để
lại cho đời sau
Một
câu nói nổi tiếng,
Rằng
thà bị chém đầu,
Thà
nước Nam làm quỉ
Còn
hơn được làm vương
Ở
nước giặc phương Bắc.
Một
khí phách quật cường.
Biết
không thể khuất phục,
Cuối
cùng chúng giết ông,
Năm
ông hăm sáu tuổi.
Xác
quẳng xuống dòng sông.
Dòng
dõi Trần Bình Trọng
Là
từ Lê Đại Hành,
Sinh
Hà Nam, nhưng gốc
Là
Thọ Xuân, xứ Thanh.
Ông
xuất thân quí tộc.
Sử
chỉ nói vợ ông
Là
công chúa Thụy Bảo,
Trước
có một đời chồng.
Con
ông thành hoàng hậu,
Mẹ
vua Trần thứ năm,
Tức
Minh Tông hoàng đế,
Có
đức và có tầm.
Có
tài liệu cho biết
Rằng
tướng Lê Phụ Trần,
Nhờ
có công chống giặc,
Trần
Thái Tông ban ân
Bằng
cách gả Chiêu Khánh,
Tức
vợ vua, cho ông,
Sau
sinh Trần Bình Trọng.
Đúng
là thật lòng vòng.
Dù
con ai chăng nữa,
Thì
ông cũng là người
Nêu
tấm gương trung liệt
Về
lẽ sống ở đời.
TRẦN
QUANG KHẢI (1241 – 1294)
Ông
là một quí tộc,
Một
đại thần nhà Trần,
Làm
đến chức Tể tướng,
Đánh
quân Nguyên ba lần.
Trần
Thái Tông là bố,
Mẹ
là Lý Ngọc Oanh.
Trong
nhà, ông phải gọi
Trần
Thánh Tông là anh.
Một
lần, khi còn nhỏ,
Ông
ốm nặng, Thái Tông
Để
áo bào, gươm báu
Cạnh
giường bệnh của ông,
Và
nói: “Hãy khỏi bệnh.
Nếu
khỏi, ta sẽ trao,
Hai
thứ này quí giá -
Gươm
báu và áo bào.”
Lần
ấy, ông khỏi bệnh,
Quả
thật vua cho ông
Chiếc
áo ngài đang mặc,
Còn
gươm báu thì không.
Trần
Quang Khải từ bé
Được
phong Chiêu Minh Vương,
Lê
Văn Hưu dạy dỗ,
Thông
tuệ loại khác thường.
Năm
một hai năm tám,
Vua
cho cưới Phụng Dương,
Em
gái nuôi, sau đó
Ban
ấp ở Thiên Trường.
Năm
một hai bảy mốt
Ông
đã là đại thần,
Chức
Tướng quốc Thái úy,
Cao
hơn Đức thánh Trần.
Khi
quân Nguyên xâm lược,
Ông
theo lệnh vua cha,
Vào
Nghệ An trấn giữ
Không
cho giặc đánh ra.
Rồi
ông lập công lớn
Trận
đánh bến Chương Dương.
Vua
xếp ông cao nhất
Khi
ban thưởng, tuyên dương.
Ông
và Trần Hưng Đạo,
Theo
sử, có bất hòa.
Điều
ấy rất nghiêm trọng
Với
hưng vong nước nhà.
Hưng
Đạo, như ta biết,
Đã
chủ động làm hiền,
Kỳ
lưng cho Quang Khải,
Khi
ông xuống thăm thuyền.
Sau
lần ấy, hai vị
Bỏ
thù riêng, cùng nhau
Gắng
công lo việc nước,
Hai
vị quan hàng đầu.
Trần
Quang Khải nổi tiếng
Còn
là một thi nhân.
Ông
viết khi rỗi rãi,
Đẹp
ý, đẹp cả vần.
THƠ
TRẦN QUANG KHẢI
Phò giá về kinh đô
Chương
Dương, cướp giáo giặc.
Hàm
Tử, bắt quân Hồ.
Giang
sơn này phải giữ.
Lúc
thái bình càng lo.
Tặng sứ bắc Sài Trang Khanh và Lý Chấn Văn
Vâng
mệnh thiên triều đến tận đây.
Vua
giao đi sứ, chiếu cầm tay.
Quan
lớn Bắc triều lưu luyến tiễn.
Dân
Nam biết tiếng đã bao ngày.
Nói
lời oai phúc thay thiên tử,
Mong
tình hai nước nặng từ nay.
Cũng
mong các vị lòng nhân đức,
Che
chở cho dân của nước này.
Tiễn sứ Bắc Sài Trang Khanh
Tiễn
người về nước sáng hôm nay.
Xăm
xăm ngựa bước, rợp cờ bay.
Người
đi kẻ ở, lòng lưu luyến,
Tần
ngần chủ khách, rượu cầm tay.
Mới
gặp ngày nào vui xướng hoạ,
Mà
giờ ly biệt, nước cùng mây.
Không
biết bao giờ còn gặp lại,
Để
mong nói rõ tấm lòng này.
Thơ đề ở đền Bạch Mã
Bao
đời nổi tiếng rất oai linh,
Nghe
nói đến thần, ma quỷ kinh.
Bốn
bề lửa cháy, đền không cháy.
Sấm
chớp, cuồng phong chẳng giật mình.
Chỉ
huy ba vạn quân yêu quái.
Trấn
áp trăm nghìn ma quỉ binh.
Mạo
muội mong thần xua giặc Bắc,
Để
dân Nam Việt sống yên bình.
Bến đò Lưu Gia
Bến
cũ Lưu Gia rợp bóng cây.
Xưa
theo thuyền ngự đến nơi này.
Sông
thu tháp nhỏ nghiêng soi bóng.
Đền
hoang mộ cổ lá rơi đầy.
Thái
Bình phủ rộng, trăm nghìn dặm.
Giang
sơn nhà Lý chục đời nay.
Trở
lại, khách thơ đầu đã bạc.
Hoa
mai, như tuyết, rụng, đang bay.
Cảm hứng ngày xuân
Bài
một
Mưa
rơi cây tốt, ướt cành hoa.
Khách
thơ đóng cửa ngồi trong nhà.
Một
nửa đời xuân đành bỏ phí.
Năm
mươi, cũng tự biết mình già.
Mang
nặng ân vua, không ở ẩn.
Đêm
ngày mong nhớ chốn quê xa.
Dũng
khí ngày xưa chưa để mất,
Giờ
ngồi uống rượu, xướng thơ ca.
Cảm hứng ngày xuân
Bài
hai
Nhàn
nhạt trăng khuya, đêm sắp tàn.
Hơi
xuân lành lạnh, gió miên man.
Rặng
liễu chao mình, hoa khép nụ.
Khóm
trúc xạc xào, ngủ bất an.
Nhờ
mưa, cây cỏ đang xanh tốt.
Tuổi
làm tóc bạc, kém dung nhan.
Giải
sầu tạm uống dăm ba chén.
Vỗ
kiếm, một mình tựa lan can.
Thơ đề ở nhà nhỏ đồng quê
Nhà
nhỏ đồng quê mới dựng xong.
Quanh
năm đào lý tỏa hương nồng.
Áo
lá nông phu in bãi biếc.
Lầu
cao sáo vẳng, ánh trăng lồng.
Khe
suối chia đôi bờ đất đỏ.
Đường
làng mềm mại uốn cong cong.
Sống
ẩn quả đây là lý tưởng.
Gió
mát, trăng thanh, sáo mục đồng.
Vườn Phúc Hưng
Phúc
Hưng, vùng đất nước bao quanh.
Ta
có khu vườn mấy mẫu xanh.
Đình
trúc mượt mà như ngọc bích.
Như
châu, mai nở trắng trên cành.
Sau
mưa, sai trẻ chăm vườn thuốc.
Nắng
lên, mời bạn uống trà thanh.
Yên
ổn trời Nam, không có giặc.
Gối
cao nằm ngủ giấc ngon lành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét