Thứ Ba, 14 tháng 4, 2020

Truyện Thơ Danh Nhân Việt



Truyện Thơ Danh Nhân Việt - 2
LÊ LỢI (1385 – 1433)

Giặc nhà Minh phương Bắc
Diệt xong Hồ Quý Ly,
Quyết xóa văn minh Việt,
Không để lại chút gì.

Chúng đốt hết sách vở,
Hoặc chở về Yên Kinh.
Hoạn đàn ông Đại Việt,
Làm điêu đứng dân tình.

Chúng bắt, đưa về nước
Những người giỏi, người tài.
Tịch thu các thư tịch,
Các bia đá, tượng đài.

Lòng muôn dân ta thán,
Đâu cũng thấy bất bình.
Đúng lúc ấy xuất hiện
Vị anh hùng cứu tinh.

Người ấy là Lê Lợi,
Một chúa trại Lam Sơn.
Ông dấy binh khởi nghĩa,
Rửa mối nhục căm hờn.

Năm một bốn một sáu,
Cùng mười tám hiền tài,
Ông thề quyết đánh giặc
Trong hội thề Lũng Nhai.

Nhiều anh hùng, hào kiệt
Giúp ông dựng cơ đồ:
Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Đinh Lễ, Lê Đa Bồ...

Năm một bốn một tám,
Ông phong vương cho mình,
Hịch kêu gọi dân chúng
Chống lại ách nhà Minh.

Nghĩa quân ông lãnh đạo
Tạm thất bại ban đầu,
Nhưng giành nhiều thắng lợi
Trong giai đoạn về sau.

Năm một bốn hai bảy
Cuộc kháng chiến thành công,
Khôi phục nền độc lập,
Vua và dân nức lòng.

Trong năm năm trị nước,
Ông làm được nhiều điều:
Lấy đất người giàu có
Đem chia cho người nghèo.

Soạn lại luật hình sự
Theo mô hình nhà Đường.
Lo chấn hưng văn hóa
Bằng cách xây thêm trường.

Các cơ cấu hành chính
Và bộ máy công quyền
Cũng được điều chỉnh lại
Theo hướng trọng người hiền.

Là anh hùng dân tộc,
Nhà quân sự đại tài,
Cuối đời, vua Lê Lợi
Cũng có nhiều điểm sai.

Ông thay ngôi thái tử,
Quá tin lời người thân,
Mà đang tâm bức hại
Cả những bậc trung thần.

Nguyễn Trãi bị tù tội,
Trần Nguyên Hãn quyên sinh.
Đó không phải là việc
Của đấng vua anh minh.

Năm năm trên ngôi báu,
Năm một bốn ba ba,
Hưởng thọ bốn tám tuổi
Vua Lê Lợi băng hà.


TRUYỀN THUYẾT VỀ LÊ LỢI

Xung quanh vua Lê Lợi
Và cuộc khởi nghĩa này
Có khá nhiều truyền thuyết
Được lưu truyền xưa nay.

Truyện kể rằng Lê Lợi,
Khi chưa dựng sơn hà,
Có bạn tên là Thận,
Như anh em một nhà.

Thận làm nghề chài lưới,
Một hôm đi ra sông,
Thấy đáy nước phát sáng,
Rất nghi hoặc trong lòng.

Ông quăng lưới bắt cá,
Mãi không thấy cá đâu,
Chỉ vớt được thanh sắt
Dài một thước, sỉn màu.

Định vứt đi, nhưng tiếc,
Ông đem nó về nhà,
Vứt vào trong góc tối,
Đêm phát sáng chói lòa.

Một hôm Lê Lợi đến,
Thấy lạ, hỏi sự tình.
Rồi xin thanh sắt ấy
Đem về nhà cho mình.

Ông cho người rửa sạch,
Đánh bóng lớp gỉ đen,
Thấy trên đó chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận Thiên”.

Hôm sau, bước ra cửa,
Thấy vỏ gươm bằng vàng,
Ông sụp lạy xuống đất
Rất cung kính, mà rằng:

“Nếu đây là gươm báu
Trời ban cho Lợi này,
Thì hãy làm phép lạ,
Cho nhập làm một ngay!”      

Ông giơ thanh sắt nhỏ
Trước mặt mình, bất ngờ
Thanh sắt thành gươm sáng
Cho vào vỏ rất vừa.

Đêm hôm ấy bất chợt
Mưa gió to rất lâu.
Sáng dậy, vợ Lê Lợi
Khi đi ra vườn rau

Thấy bốn vết chân lớn,
Rất rộng và rất dài
Bà gọi chồng, muốn hỏi
Dấu chân này của ai.

Rồi hai người lại thấy
Chiếc ấn ngọc đắt tiền,
Trên mặt có chữ “Lợi”
Và hai chữ “Thuận Thiên”.

Về sau, lên ngôi báu,
Vua dùng hai chữ này
Làm niên hiệu Đại Việt.
“Thuận ý trời” là đây.

Lê Lợi liền vội vã
Đem nó giấu trong nhà,
Mừng được trời giao ấn,
Lo đại sự quốc gia.

Theo truyền thuyết, Lê Lợi
Luôn mang gươm theo mình,
Dùng nó chém đầu địch,
Đuổi hết giặc nhà Minh.

Khi công thành danh toại,
Vua Lê Lợi một lần
Đi thuyền rồng du ngoạn
Trên mặt hồ Thủy Quân.

Bỗng Rùa Vàng xuất hiện,
Đòi gươm báu, và hồ
Đổi tên thành Hoàn Kiếm,
Ngay trong lòng thủ đô.

Truyền thuyết cũng kể lại,
Lê Lợi thời kỳ đầu,
Một lần bị giặc đuổi,
Phải chạy vào rừng sâu.

Ở đấy ông bất chợt
Thấy có một xác người,
Một cô gái, trên cỏ,
Khuôn mặt vẫn còn tươi.

Ông dùng gươm đào huyệt,
Đắp cho nàng nấm mồ,
Khấn, mong nàng phù hộ
Giúp ông dựng cơ đồ.

Khi quân Minh đuổi đến,
Ông trốn vào hốc cây.
Bầy chó cứ sục sạo
Rất lâu bên cây này.

Giặc sinh nghi, dùng kiếm
Đâm xuyên cây, trúng người.
Lê Lợi phải lấy áo
Lau kiếm sạch máu tươi.

Rồi chúng lấy lửa đốt.
Và từ thân cây già
Bất chợt một con cáo
Lông màu trắng chạy ra.

Bầy chó ùa theo đuổi.
Giặc bỏ đi vội vàng.
Lê Lợi may thoát chết,
Sụp lạy trước mộ nàng.

Nàng đã hóa thành cáo,
Chạy trước mặt đám đông,
Để thu hút bầy chó
Và giải cứu cho ông.

Về sau ông lập miếu
Thờ nàng như thờ thần,
Còn truy tặng danh hiệu
Là Hồ Ly Phu Nhân.

Nơi Lê Lợi thoát chết
Bây giờ là cánh đồng,
Có tên là Đồng Chó
Bên cạnh một dòng sông.

Ngày nay con sông ấy
Được gọi là sông Chu,
Nằm không xa Bái Thượng,
Nơi thường nhiều sương mù.

Khi hay tin Lê Lợi
Đang chiêu quân đánh Tàu,
Trần Nguyên Hãn cải dạng
Thành một anh bán dầu         

Vào Đông Đô tìm cách
Gặp Nguyễn Trãi tiên sinh,
Người đang bị giam lõng,
Kiểm soát bởi quân Minh.

Rồi sau khi bàn luận,
Hai người trốn khỏi thành,
Lặn lội tìm minh chúa
Trong núi rừng xứ Thanh.

Được Nguyễn Trãi hiến kế
Với kế hoạch “Bình Ngô”,
Lê Lợi mời hai vị
Tham gia dựng cơ đồ.

Nguyễn Trãi sai lấy mật
Viết lên nhiều lá cây
Mọc bên sông gần đấy
Tám chữ nho thế này:

Lê Lợi là hoàng đế
Chữ “Lê Lợi vi quân”,
Bầy tôi là Nguyễn Trãi,
Chữ “Nguyễn Trãi vi thần”.

Tất nhiên kiến thấy mật
Liền bu đến rất đông.
Chúng ăn, đục xuyên lá,
Lá rơi xuống dòng sông.

Những chiếc lá có chữ
Nước cuốn đi khắp nơi,
Dân chúng nhặt lên đọc,
Nghĩ đó là ý trời.

Nhờ những chiếc lá ấy,
Người tìm đến đông dần,
Cùng tham gia khởi nghĩa,
Vì “Lê Lợi vi quân”.

Lại nữa, một lần nọ,
Giặc đuổi gấp phía sau,
Lê Lợi thấy hai cụ
Đang tát nước ruộng sâu,

Liền nhảy ào xuống ruộng,
Cởi áo, để ngực trần,
Giả làm người mò cá
Như con nhà nông dân.

Giặc kéo đến liền hỏi:
Thấy ai chạy qua không?
Hai cụ đáp: Không biết.
Chúng tôi mải làm đồng.

Thấy Lê Lợi có vẻ
Muốn nghe chuyện, bà già
Quát: Mày lo mò cá
Rồi còn sớm về nhà!

Giặc nghe thế, tưởng thật,
Liền bỏ đi, hai người
Mời về nhà nghỉ tạm,
Lúc ấy đã tối trời.

Trước bữa cơm giản dị,
Hai cụ lạy rồi thưa:
Chúng tôi, lúc nguy khốn,
Có thất lễ với vua...

Lê Lợi lạy rất thấp,
Cảm ơn hai cụ già.
Lúc thành vương, quay lại,
Vất vả tìm đến nhà

Thì hai cụ đã chết.
Để ghi nhớ ân sâu,
Ông cho lập miếu cúng,
Còn thụy phong tước hầu.


LÊ LAI CỨU CHÚA

Theo Đại Việt thông sử,
Quan Nội hầu Lê Lai
Là người tính cương trực,
Có chí và có tài.

Năm một bốn một tám,
Mới phất ngọn cờ đào,
Bị thua ở Mường Một,
Vua chạy về Trịnh Cao.

Đó là nơi hẻo lánh,
Nhiều thú dữ, ít dân.
Giặc bao vây tứ phía,
Tình thế hiểm nguy dần.

Nghĩa quân thì lính ít,
Lương thực thiếu bất ngờ.
Ở lại sẽ chết hết.
Làm thế nào bây giờ?

Đó là điều day dứt,
Làm phiền lòng Lê Lai,
Khiến bồi hồi nhớ lại
Ngày Hội thề Lũng Nhai.

Cuối cùng ông đề nghị
Đức vua cởi áo bào
Để ông mặc, ra trận,
Mở đường huyết xem sao.

Và rồi, đóng giả chúa,
Cưỡi voi phủ lụa vàng,
Ông cùng năm trăm lính,
Xông vào giặc, thét vang:

“Ta là vua Lê Lợi,
Quyết chiến cùng chúng mày!
Đứa nào không muốn sống,
Hãy nhanh chóng ra đây!”

Rồi tả xung, hữu đột,
Ông chém giết hồi lâu,
Cho đến khi đuối sức,
Bị giặc bắt, chém đầu.

Trong khi đó, Lê Lợi
Và binh tướng của ông
Thoát vây, sau lãnh đạo
Cuộc khởi nghĩa thành công.

Cảm vì lòng trung nghĩa,
Vua Lê Lợi cho người
Tìm xác ông chôn cất,
Lập miếu thờ suốt đời.


HỘI THỀ LŨNG NHAI

Năm một bốn một sáu,
Một buổi sáng ban mai,
Lê Lợi và các tướng
Mở Hội Thề Lũng Nhai.

Cùng mười tám vị khác
Chung chí hướng như mình,
Lê Lợi tế trời đất,
Thề chống lại giặc Minh.

Thề có trời chứng dám,
Mười chín người khác nhau,
Nay qui tụ làm một,
Đặt vận nước lên đầu.

Mười chín vị hào kiệt,
Từ gần và từ xa,
Thề thương yêu, đoàn kết
Như anh em một nhà.

Rằng chúng tôi, Lê Lợi,
Cùng Nguyễn Trãi, Lê Ninh,
Đinh Lễ, Lê Nhân Chú,
Trịnh Khả, Lê Văn Ninh...

Thề một lòng giết giặc,
Thề cứu giúp dân lành.
Ai có lòng dạ khác
Sẽ chết bởi thần linh.

Hội thề ấy lịch sử
Đã thu hút nhều người
Về Lam Sơn tụ nghĩa
Để hành đạo thay trời.

Nó cũng là cơ sở,
Bước quan trọng ban đầu
Để Lam Sơn khởi nghĩa
Khoảng gần hai năm sau.


HỘI THỀ ĐÔNG QUAN

Sau mười năm kháng chiến,
Lê Lợi và nghĩa binh
Đã dồn vào thế bí,
Quân xâm lược nhà Minh.

Quân giặc bị vây hãm
Suốt từ Bắc chí Nam.
Vương Thông, chủ tướng giặc,
Nằm bẹp ở Đông Quan.

Sau thất bại của tướng
Mộc Thạnh và Liễu Thăng,
Vua Minh phải tuyên bố
Bãi binh - tức đầu hàng.

Theo tinh thần dân tộc:
Quyết chiến nhưng thân hòa.
Thắng giặc vẫn trải chiếu
Cho chúng rút về nhà,

Năm một bốn hai bảy,
Lê Lợi và Vương Thông
Cùng nhất trí gặp mặt
Ở Đông Quan, sông Hồng.

Cuộc gặp ấy được gọi
Là Hội thề Đông Quan,
Tức là một thỏa thuận
Để giặc rút an toàn

Trong thời gian năm tháng,
Không cướp bóc của dân,
Không tiến hành chiến sự
Dọc đường chúng rút quân.

Về phần mình, Đại Việt,
Để cho chúng được yên,
Cung cấp đủ lương thực,
Xe ngựa và tàu thuyền.

Các tướng giặc kéo đến
Đứng trước dinh Bồ Đề,
Lạy tạ tướng Đại Việt
Rồi lủi thủi ra về.

Hội thề - Hiệp định ấy
Cho phép mười nghìn quân
Của giặc Minh sót lại
Rút về nước dần dần.

Một trang sử chói lọi.
Một “Hội thề” vinh quang.
Ta, cháu con, phải nhớ,
Để sống cho đàng hoàng.


LÊ THÁNH TÔNG (1442 – 1497)

Lê Thánh Tông hoàng đế,
Tên thật Lê Tư Thành,
Một nhà văn hóa lớn,
Một ông vua anh minh.

Ngài đã đưa dân tộc
Lên một kỷ nguyên vàng
Của thời đại phong kiến,
Một trang sử vẻ vang.

Ngài tiến hành cải cách
Nhiều lĩnh vực, nhiều ngành,
Còn mở mang bờ cõi,
Chiếm kinh đô Chiêm Thành.

Mẹ Ngài suýt bị hại
Vì chỉ là tiệp dư,
Nếu không có Nguyễn Trãi
Và Thị Lộ nhân từ.

Hai mẹ con được họ
Đưa đến chùa Huy Văn,
Nay Đống Đa, Hà Nội,
Lánh nạn, sống thanh bần.

Ngẫu nhiên do phe cánh,
Mà Ngài được lên ngôi,
Niên hiệu là Quang Thuận,
Năm một bốn sáu mươi.

Vua liền cho xét lại
Vụ án Lệ Chi Viên.
Minh oan cho Thị Lộ,
Phục danh người đức hiền.

Ngài phục danh, lập miếu
Thờ Nguyễn Trãi ân nhân.
Con cái Trần Nguyên Hãn
Và các vị công thần

Trước từng theo Lê Lợi,
Bị kẻ xấu giết oan,
Giờ được cấp ruộng đất
Và mời ra làm quan.

Những ai trước đổi họ
Thành họ Lê, bây giờ
Có thể dùng họ cũ
Mà không bị nghi ngờ.

Ngài cho sắp xếp lại
Các chức quan trong triều.
Ai đến sáu lăm tuổi
Đều thôi chức, về hưu. 

Lệ cha truyền con nối
Các chức tước xưa nay
Cũng bị Ngài hủy bỏ.
Nhiều người ghét việc này.

Quan phải là người giỏi.
Mở thi chọn nhân tài.
Giỏi mới làm được việc -
Đó là lệnh của Ngài.

Vua đặc biệt chú trọng
Làm ruộng và chăn tằm,
Bắt khai hoang, thêm vụ,
Để có ăn quanh năm.

Ngài còn ra chỉ dụ
Tổ chức lễ hạ điền,
Tức xuống ruộng cày cấy.
Quan phải làm đầu tiên.

Ở mỗi đạo, tức tỉnh,
Vua lập nhà Tế Sinh
Nuôi người già đơn độc,
Cấp thuốc lúc bệnh tình.

Ở nơi nào có dịch,
Quan phải đến tận nơi
Bốc thuốc và châm cứu
Cho từng nhà, từng người.

Thời ấy dân mộ Phật,
Thường có lệ quyên tiền
Xây thêm chùa, vua nói
Đó là điều không nên.

Rằng mộ Phật là tốt,
Nhưng nên mộ trong lòng,
Để tiền làm việc khác,
Nhất là những việc công.

Ngài còn cấm người sống
Khi tổ chức ma chay
Không bày trò đàn sáo
Và ăn uống suốt ngày.

Ngài nói, đã nhận lễ
Thì phải cho rước dâu,
Không bắt người ta đợi
Đến ba bốn năm sau.

Để cư xử đúng mực,
Ngài đặt hăm bốn điều,
Các quan phải giảng giải,
Làm trước để dân theo.

Vua bắt mười hai đạo
Vẽ bản đồ đạo nhà,
Có ghi rõ sông núi,
Thành bản đồ quốc gia.

Ngài đích thân xuống chiếu
Yêu cầu Ngô Sĩ Liên
Viết Đại Việt Sử Ký
Mười lăm quyển, nhiều thiên.

Năm quyển thời Bắc Thuộc.
Mười quyển từ Ngô Quyền
Đến vua Lê Thái Tổ,
Viết theo dạng biên niên.

Vua rất trọng giáo dục,
Khuyến khích học Ngũ Kinh,
Thường đứng làm chủ khảo
Trong các kỳ thi Đình.

Ngài lập lệ danh xướng,
Đọc tên các ông Nghè.
Ai đậu thì ở lại,
Ai trượt phải ra về.

Các ông Nghè, Tiến sĩ
Được Ngài mời vào cung,
Ban áo mũ, dự tiệc,
Thật vinh dự vô cùng.

Rồi vinh qui, mũ lọng,
Họ trở về quê nhà,
Cảm ơn thầy dạy dỗ,
Bái tổ tiên, mẹ cha.

Lê Thánh Tông cổ xúy
Việc thi cử, học hành.
Rất nhiều người đỗ đạt
Rồi thành công, thành danh.

Ông là người khởi xướng
Việc dựng bia ghi tên
Các tiến sĩ Văn Miếu,
Để khích lệ người hiền.

Vua cho xây thư viện
Ở khu Thái Học đường,
Ngay phía sau Văn Miếu,
Vốn xưa là ngôi trường.

Ngài còn xây ký túc
Cho người xa tới đây.
Việc ăn ở và học
Ở ngay trong khu này.

Lê Thánh Tông hoàng đế
Còn là một nhà thơ.
Hơn thế, nhà thơ lớn,
Được yêu đến bây giờ.

Thơ Ngài đẹp, ý nhị,
Uyên thâm mà trữ tình,
Như bức tranh thủy mặc,
Ý và lời lung linh.

Cùng hăm bảy vị khác,
Ngài lập Hội Tao Đàn
Gồm nhị thập bát tú,
Câu lạc bộ thơ quan.

Vua tôi thường xướng họa.
Quan có Thân Nhân Trung,
Đỗ Nhuận và Thái Thuận...
Thật tao nhã vô cùng.            

Rất ham mê văn học,
Nhưng không quên việc binh,
Vua nhắc phải luyện võ
Ngay cả trong thời bình.

Ngài mở hội thi võ,
Cứ ba năm một lần.
Ai trượt bị giáng chức,
Ai đỗ được thăng quan.

Nhờ thế mà tướng sĩ
Rất ham mê tập tành,
Vừa khỏe, vừa đắc dụng
Khi đất nước chiến tranh.

Gây sự với Đại Việt,
Năm một bốn bảy không,
Cùng mười vạn quân thủy,
Vua Chiêm Thành tấn công.

Hắn còn lén sai sứ
Sang cầu cứu nhà Minh.
Cùng hai mươi vạn lính,
Ngài quyết đánh Chiêm Thành.

Tháng Ba năm bảy mốt
Ngài chiếm được Đồ Bàn.
Kinh đô Chiêm thất thủ,
Lính chết hàng chục ngàn.

Ngài nhập vào Đại Việt
Cả miền Bắc nước Chiêm,
Mãi đến tận vùng đất
Nay là tỉnh Phú Yên.

Năm một bốn bảy chín,
Lại có loạn Ai Lao.
Ngài sai Lê Thọ Vực
Năm hướng đánh sang Lào.

Quân Đại Việt đại thắng.
Ai Lao và Chiêm Thành
Đều chấp nhận cống nạp.
Đất nước được hòa bình.

Một đóng góp quan trọng
Của vua Lê Thánh Tông
Là Bộ luật Hồng Đức,
Biên soạn rất dày công.

So với các luật trước,
Luật này tốt hơn nhiều,
Gồm mười ba chương lớn
Và hơn bảy trăm điều.

Nền tảng của bộ luật
Là tư tưởng Đạo Nho,
Luôn lấy dân làm gốc
Để xây dựng cơ đồ.

Một, giữ nghiêm phép nước.
Hai, chống giặc ngoại xâm.
Ba, chấn hưng nông nghiệp.
Bốn, lo công, thương, lâm.

Năm, bài trừ tham nhũng.
Sáu, bảo vệ thuần phong.
Bảy, bênh vực phụ nữ.
Tám, xét xử khoan hồng.        

Ngài nói: “Luật bình đẳng
Với tất cả mọi người,
Với dân chúng cả nước,
Cả ta và các ngươi”.

Có lần Ngài cách chức
Một đô đốc, quan to,
Chỉ vì con người ấy
Có hành vi côn đồ.

Năm một bốn chín bảy
Lê Thánh Tông qua đời,
Hưởng thọ năm lăm tuổi,
Sự nghiệp vẫn sáng ngời.

Là anh hùng dân tộc,
Là một vị anh quân,
Một nhà chiến lược lớn
Với tâm hồn thi nhân,

Vua chấn hưng văn hóa,
Mở mang đất nước mình.
Trong nhị thập bát tú,
Là vì sao lung linh.


THƠ LÊ THÁNH TÔNG

Đạo trung thần

Đức của người phò tá                   
Là giữ đạo trung thần.
Cái điều cao đẹp ấy
Xa lạ với tiểu nhân.

Bài thơ mừng lúa tốt

Một màu xanh biếc trải mênh mông.
Nuôi dân phải nhớ trọng nghề nông.
"Năm nay lúa tốt hơn năm ngoái!"
Mấy lão nông phu đứng ngắm đồng.

Dừng chân ở núi Cổ Quý

Gió thổi, cờ bay giữa nắng tà.
Lá đỏ còn hơn hoa tháng Ba.
Đời người nhìn lại, không như trước.
Vui buồn trăm mối, rối lòng ta.

Qua bến Phù Tang

Trên bến Phù Tang mưa lắt lay.
Tiết xuân, trời đất ấm từng ngày.
Chỉ thương những kẻ ham danh lợi,
Quên đời trôi thoáng tựa làn mây.

Qua đền Hưng Đạo vương

Lá đỏ trên cây khẽ xạc xào.
Trời đầy mây trắng, nắng xôn xao.
Tượng đá, chùa đây, người chẳng thấy,
Chỉ thấy bên ngoài rặng núi cao.

Dừng lại ở Xương Giang

Nắng chiều, nửa núi xạm dần đen.
Hai bờ như có khói bay lên.
Sách xưa đọc mãi mà không hết,
Dù đã mười năm đọc trước đèn.

Bến cảng Vân Đồn

Nắng chiều óng ả, bến bình yên.
Con thuyền lướt nhẹ, nước đang lên.
Gái trai bên biển cười vui vẻ,
Át cả gió reo trước mũi thuyền.

Bãi Đông Ngạc

Thơ làm xong, đi ngủ.
Trăng nhú nơi chân trời.
Hoa rụng bao tình ý,
Khẽ chạm vào áo người.

Đêm cắm thuyền ở bãi Trung Giang

Không gió, không sương, đêm tĩnh yên.
Ngồi đợi bình minh trước mũi thuyền.
Sắp sáng, hé nhìn qua cửa sổ,
Dòng sông phẳng lặng, nước triều lên.

Qua núi Điệp Sơn

Triều dâng, sông đỏ gặp sông vàng.
Liễu thêm xanh biếc lúc xuân sang.
Thuyền ghé, khách thơ bèn ướm hỏi
Chuyện xưa, tên núi lẫn tên làng.

Con trai, con gái ở Lỵ Nhân

Trên đê trời lạnh, sắp sang xuân.
Đẹp như mỹ nữ nước Yên, Tần,
Ở đây con gái xinh, hiền dịu.
Xấu hổ con trai, chẳng dám gần.

Ốm dậy, cảm hoài

Hôm nay có lẽ bệnh thuyên dần.
Suốt ngày thư thái dạo quanh sân.
Nhờ thuốc, nên vui vì khỏi bệnh,
Tiếc chẳng có gì níu tuổi xuân.

Thơ đề trên quạt

Nam Huân gác tía giữa ban ngày,
Nhẹ nhàng quạt lụa phẩy trên tay.
Gió mát hiu hiu, trưa ngủ thiếp,
Không biết mồ hôi của dân cày.

Thơ đề trên núi Dục Thúy
   Năm Quang Thuận thứ 8 (1464)    

Dục Thúy nằm kề ba khúc sông.
Đỉnh cao lạnh lẽo vút lên không.
Leo lên theo gió, bên chùa cổ,
Bia đá xế chiều mới đọc xong.
Xuống hang, cứ tưởng trời không rộng.
Lên cao mới biết đất mênh mông.
Núi sông vẫn thế, không thay đổi.
Như mơ, ngoái lại, thấy anh hùng.   

Lên núi Long Đọi đề sau tấm bia
Bảo tháp Sùng Thiện Diêu Linh

Núi cao, chùa cổ đứng chơi vơi.
Đường dốc, leo hoài mới tới nơi.
Giặc Minh phá hết, còn bia đá.
Vua Lý ghi bao chuyện lạ đời.
Đường ít vết chân, rêu phủ kín.
Núi nhiều mưa ẩm, cảnh xinh tươi.
Lên cao, tầm mắt nhìn, vô tận
Cây cỏ xanh xanh đến cuối trời.

Thơ khắc ở cột chùa Tu Mộng

Chùa cổ nghiêng xiêu đã nửa phần.
Sư dắt thăm chùa, nhẹ bước chân.
Chân sư dễ vượt vòng đai giác.
Ta bước đường đời thật khó khăn.
Ngũ viên mạnh mẽ mà không sắc.
Lục độ sáng ngời vẫn có nhân.
Thấy khách cúi đầu như giác ngộ,
Sư thôi không giảng, lặng im dần.

Thơ đề ở chùa Sài Sơn

Đứng bên vách núi, xốn xang lòng.
Theo mây, chân nhẹ bước lên không.
Hoa nở lặng im bên cửa động,
Chào người, chim hót dưới rừng thông.
Tay ngắt vì sao trời thứ nhất.
Ba nghìn thế giới cõi mênh mông,
Quét rêu, nguệch ngoạc thơ lên đá,
Ngọn bút làm rung cả núi sông.

Đi trên sông

Bến sông tiếng trống giục vang xa.
Thuyền rồng lướt sóng chạy ngang qua.
Bát ngát ruộng nương xanh nghìn khoảnh.
Lác đác kề sông mấy nóc nhà.
Như thể sắp mưa, trời rất thấp,
Dẫu phía biển Đông nắng chói lòa.
Buổi sớm, núi xanh như trịnh trọng
Tiễn vua qua cửa biển Hà Hoa.

Hồng Đức năm thứ nhất, ngày 11 tháng 12.
Đóng quân tại cửa bể Hà Hoa, đêm khuya
ngồi nghe tiếng mưa, sinh lòng thương cảm

Tựa mui thuyền vắng, nghĩ lan man.
Đêm mưa, hơi lạnh thấm qua màn.
Như cánh ve sầu, màn rất mỏng.
Đầy trời mưa gió, ngủ không an.
Sông nước mênh mang nhìn hút mắt.
Lặng trôi ngày tháng, tiếc thời gian.
Nghĩ thương binh sĩ chân dầm đất,
Ngã chết, không tiền mua áo quan.

Ngồi ngắm trăng, bày tỏ nỗi lòng

Quan sơn nghìn dặm, lộ trình xa.
Mây trôi, biển sóng, ánh trăng tà.
Trăng sát bên thuyền, không ngủ được,
Như vành ngọc sáng giữa bao la.
Muốn hiểu biết thêm, cần học hỏi,
Trau dồi kiến thức của ông cha.
Kéo lại mặt trời, trai chí lớn,
Không buồn năm tháng vụt trôi qua.

Đạo làm vua

Nhớ lời các bậc đế vương răn:
Trên chăm thần thánh, dưới chăm dân,
Lo xây dựng nước, lo đời thịnh,
Với mình luôn nhớ phải tu thân.
Chiêu hiền đãi sĩ, lo văn đức,
Trọng tài tướng lĩnh, giỏi nuôi quân.
Đạo lớn làm vua là sáng suốt,
Mọi người Kinh, Thượng được ban ân.

Đi tuần phía đông, qua An Lão

Con đường nghìn dặm chạy quanh quanh.
Gió thổi, nâng thuyền khẽ lướt nhanh.
Chiều xế, mặt trời soi bóng nước.
Theo áng mây hồng, lòng nhẹ tênh.
Sương muối rơi nhiều, cây úa lá.
Bãi dâu khói nhạt, cảnh yên lành.
Núi biển mờ mờ như nhập một,
Kéo dài thành vệt biếc màu xanh.

Qua bến Phù Thạch

Triều dâng, nước lạnh chảy về đông.
Mấy mỏm đá nhô chính giữa dòng.
Mây như mũ trắng treo đầu núi.
Ráng in trên nước giống tơ hồng.
Rồng không ẩn mãi nơi sâu thẳm,
Khi lửa mặt trời bốc lên không.
Nay lúc việc văn hơn việc võ,
Ân vua phải tưới khắp non sông.

Đừng lại ở núi Cổ Quý

Tâm hồn như ngọc sáng bao la.
Ngoài sông mờ ảo ánh trăng nhòa.
Xưa nay đời tục thành hay bại,
Vui buồn cũng chỉ giấc mơ qua.
Là vua, đọc hết năm xe sách,
Làm ba việc lớn giống ông cha.
Dẫu đời bèo bọt, đừng lo nghĩ,
Vì đời tất cả ở lòng ta.

Qua sông Bạch Đằng

Thuyền như tranh vẽ lướt trên sông.
Bạch Đằng con nước cứ mênh mông.
Chợt nhớ cái ngày Toa Đô chết,
Nhớ thời Hưng Đạo lập chiến công.
Xã tắc nhà Trần ngày ấy mạnh,
Giang sơn đất Việt vững như đồng.
Hư danh, ảo mộng ngày xưa ấy,
Nay giống làn mây trắng bập bồng.

Đêm đậu thuyền ở bến Bình Than

Như ngọc, trăng lên sáng một vành.
Bãi bồi tít tắp một màu xanh.
Rau tần trắng bãi, heo may lạnh.
Sau mưa lá đỏ kín trên cành.
Trên thuyền khách thấy như lơ lửng.
Bên trời, bên nước sáng long lanh.
Lòng đạo tuy già còn cứng cỏi,
Hơn cả đàn tiêu cung Thái Thành.

Cảm xúc ở Xương Giang

Dừng chân bên bến, ngắm dòng sông.
Chớm mọc xa xa vệt ráng hồng.
Cảnh đẹp gợi nên tâm ý cũ,
Xua tan bao thói dục trong lòng.
Xao xuyến tai nghe chày đập vải.
Mắt nhìn trăng sáng giữa tầng không.
Vạn vật như xưa không đổi khác.
Cái buồn như nước, vẫn mênh mông.

Uống rượu với khách

Khách mới ngồi dự tiệc,
Mà như say nửa phần.
Thơ cứ ra lai láng,
Cười nói giống cổ nhân.
Hết ngâm rồi bình luận,
Kẻ xướng, người họa vần.
Khi khách chào tạm biệt,
Trăng chỉ còn góc sân. 

Tiễn thượng thư bộ lễ
Lê Hạo Nhiên đi sứ phương bắc

Cái chí làm trai đi bốn phương.
Làm thơ tiễn sứ lúc lên đường.
Bên đình bẻ liễu, xuân đang rộ.
Hoa nhiều trong trạm, ngát mùi hương.
Non sông quan sứ từng đi hết,
Việc nước, việc nhà giỏi đảm đương.
Khi về mạnh khỏe, thơ đầy túi,
Đầy thuyền trăng sáng lẫn hơi sương.       


MẠC ĐĂNG DUNG (1483 – 1541)

1
Theo truyền thuyết kể lại,
Thì xưa Mạc Đăng Dung
Vốn dòng dõi quyền quí
Nhưng sau thành bần cùng.

Ông làm nghề đánh cá,
Bố mẹ nghề chèo đò.
Bến sông ấy rất rộng,
Thường sóng lớn, gió to.

Có một thầy địa lý,
Nghe đâu là người Tàu,
Được hai người cứu sống,
Nên mang nặng ân sâu.

Để trả ơn, họ mách
Phải táng mộ ông bà
Vào chỗ có long mạch,
Sau sẽ thành vương gia.

Mạc Đăng Dung lập tức
Đem cốt tổ tiên mình
Táng vào nơi được chỉ,
Mong có ngày hiển vinh.

Năm sau, thầy địa lý
Quay lại và bảo ông
Đem một quan tiền mới,
Tức đúng một trăm đồng

Ra ngồi trên con dốc
Cách không xa bến đò,
Thấy ai vác chữ “khẩu”
Trên lưng mình, thì cho.

Ông chờ mãi, chỉ thấy
Một ông lão ra sông,
Đeo trên vai chiếc dặm.
Ông cho ba mươi đồng.

Chiều tối, ông lão ấy
Quay về, ông lại cho
Thêm ba lăm đồng nữa,
Rồi đi xuống chèo đò.

Tối về, nghe kể lại,
Thầy địa lý lầm bầm:
“Vậy nhà ông chỉ được
Làm vua sáu lăm năm.”

2
Đức vua Mạc Thái Tổ
Tên húy Mạc Đăng Dung,
Quê nơi nay là đất
Huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

Theo các tài liệu sử,
Ông là cháu bảy đời
Một trạng nguyên nổi tiếng -
Mạc Đỉnh Chi hơn người.

Ông thời bé nghèo khổ,
Chuyên chài lưới kiếm ăn,
Sau lớn lên, khỏe mạnh,
Đỗ “Lực sĩ xuất thân.”

Rồi thành quân túc vệ
Vào thời nhà Hậu Lê,
Đời vua Lê Uy Mục,
Đang rối ren trăm bề.

Nhờ thông minh, tài giỏi,
Được hoàng gia tin yêu,
Ông nhanh chóng thăng chức
Thành quan lớn trong triều.

Nhà Hậu Lê thời ấy
Yếu hèn và rối tung,
Và dần dần quyền lực
Vào tay Mạc Đăng Dung.

Năm một năm hai bảy,
Ông tiếm ngôi nhà Lê,
Lấy hiệu Mạc Thái Tổ,
Lúc thọ địch bốn bề.

Ông đúc tiền Thông Bảo,
Lo chấn chỉnh triều đình.
Thành Hải Dương được chọn
Làm kinh đô - Dương Kinh.

Năm một năm hai bảy
Ông nhường con ngai vàng.
Mạc Thái Tông kế vị,
Ông thành Thái thượng hoàng.

Năm một năm bốn mốt
Mạc Đăng Dung băng hà,
Hưởng thọ năm chín tuổi,
Và trước lúc đi xa

Ông dặn Mạc Phúc Hải
Không lập đàn ma chay,
Mà lo việc xã tắc,
Xây dựng nước sau này.

Như thầy địa lý nọ
Có lần đã lầm bầm,
Các vua Mạc cai trị
Tất cả sáu lăm năm.

3
“Toàn thư” nói nhà Mạc
Đem đất đai nước mình,
Gồm hai châu Quy, Thuận,
Nhục nhã dâng nhà Minh.

Thực ra hai châu ấy
Thủ lĩnh Nùng Trí Cao
Và anh, Nùng Trí Hội,
Dâng Tống từ đời nào.

Người đời sau xác nhận
Ông chỉ nhường ngoại bang
Năm hang động không lớn
Thuộc vùng đất Cao Bằng.

Mà rồi năm hang ấy
Vốn không phải đất mình,
Mà do Đại Việt lấn,
Giờ trả lại nhà Minh.

Ông còn bị chê trách
Vì tự trói, đầu hàng,
Dâng cho giặc đồ cống
Cùng hai bức tượng vàng.

Vì sao ông làm vậy?
Vì nhà Lê, hai lần,
Cầu nhà Minh đánh Mạc,
Mất nước và khổ dân.

Thấy lực mình đang yếu,
Muốn tránh cảnh can qua,
Vua Mạc đành nén nhục,
Quì gối xin giảng hòa.

Nhục, một mình vua chịu,
Mang tiếng xấu với đời,
Nhưng dân tình thoát khỏi
Cảnh máu chảy, đầu rơi.        

Sau cái nhục lần ấy,
Tự trói mình xin hòa,
Ông xấu hổ, lâm bệnh
Một năm rồi băng hà.

Giống như Trần Thủ Độ
Và cả Hồ Quý Ly,
Ông tiếm ngôi người khác,
Hoàn toàn không khác gì.

Vua các triều đại trước
Đã mục ruỗng, yếu hèn.
Theo qui luật lịch sử
Thì triều khác sẽ lên.

Tuy nhiên, có điều khác:
Truất ngôi Lê Cung Hoàng,
Mạc Đăng Dung không giết
Các đại thần quy hàng.

Ông cũng không hề giết
Một ai trong hoàng gia.
Một sự kiện hiếm có
Trong lịch sử nước nhà.

Những di sản kiến trúc
Và văn hóa Lê Sơ
Ông không hề phá hủy,
Nên còn mãi đến giờ.

5
Đức vua Mạc Thái Tổ
Có một thanh Long Đao
Bây giờ còn giữ được,
Thật quí giá nhường nào.

Cháu con ông giữ nó
Suốt năm trăm năm qua,
Nay thờ ở Kiến Thụy
Như vật báu quốc gia.

Đao dài hai mét rưỡi,
Nặng gần ba mươi cân,
Cán làm bằng sắt rỗng
Có chạm hình long vân.

Thanh đao của Quan Vũ
Được nói đến nhiều lần,
Tức Long Đao Yển Nguyệt,
Cũng chỉ ba bảy cân.

Châu Á giờ chỉ có
Hai long đao thế này.
Đao kia thuộc nước Tống,
Ở Trung Quốc ngày nay.


QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ (1753 – 1792)

Ba anh em Nguyễn Huệ,
Như sử sách đã ghi,
Quê gốc ở xứ Nghệ,
Dòng dõi Hồ Quý Ly.

Họ đi theo Chúa Nguyễn
Vào lập nghiệp Đằng Trong.
Thời kỳ đầu, nghe nói,
Cũng vất vả, long đong.

Ít ra bố mẹ họ
Phải làm nghề buôn trầu.
Ba trai và năm gái,
Nguyễn Nhạc là anh đầu.

Anh thứ hai - Nguyễn Lữ,
Nguyễn Huệ là thứ ba.
Cả ba đều giỏi võ,
Mở lò ở quê nhà.

Mỗi người là sư tổ
Của một môn quyền hay,
Thành Tây Sơn võ phái,
Thuộc Bình Định ngày nay.

Năm một bảy bảy mốt,
Lấy cớ chống cường quyền,
Nguyễn Nhạc làm khởi nghĩa.
Lòng dân đang không yên,

Nên lập tức hào sĩ
Và nhiều người đi theo.
Lấy của kẻ giàu có
Đem chia cho dân nghèo.

Quân Tây Sơn giỏi võ,
Nguyễn Huệ là tướng tài
Nên đánh đâu thắng đấy,
Quân Chúa Nguyễn chạy dài.

Hai năm sau khởi nghĩa,
Anh em nhà Tây Sơn
Đánh đến tận Bình Thuận,
Chiếm được thành Quy Nhơn.

Nhưng giữa năm bảy bốn
Từ Gia Định đánh ra,
Chúa Nguyễn chiếm Bình Thuận
Và Gia Khánh, vậy là

Ba anh em Nguyễn Nhạc
Còn vùng đất Phú Yên
Đến vùng đất Quảng Ngãi,
Nhưng một vệt nối liền.

Cũng năm ấy, Chúa Trịnh
Cho đưa ba vạn quân
Vượt sông Gianh, nhanh chóng
Chiếm được thành Phú Xuân.

Chúa Nguyễn nhân dịp ấy
Tiến đánh quân Tây Sơn.
Ba anh em co cụm,
Phải rút về Quy Nhơn. 

Tình thế rất nguy ngập.
Cả Đằng Trong, Đằng Ngoài
Đều o ép - phải chọn
Nên hòa, nên đánh ai?

Và Nguyễn Nhạc quyết định
Xin Chúa Trịnh cầu hòa,
Rảnh tay đánh chúa Nguyễn,
Sau thắng, sẽ đánh ra.

Muốn mượn tay Nguyễn Nhạc
Làm kẻ thù yếu dần,
Chúa Trịnh liền đồng ý,
Nhưng không chịu rút quân.

Tạm yên ở phía Bắc,
Quyết đánh bại Đằng Trong,
Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ
Cầm quân đi tiên phong.

Tướng Nguyễn Huệ lúc ấy
Còn là chàng thanh niên,
Hăm ba tuổi, quyết định
Phải chiếm lại Phú Yên.

Ông nhanh chóng bắt sống
Tướng giặc Nguyễn Khoa Kiên,
Giết chết nhiều tướng khác,
Có cả Nguyễn Văn Hiền.

Tướng Trịnh, Hoàng Ngũ Phúc
Thấy Nguyễn Huệ thắng nhanh,
Bèn rút về bám trụ,
Chốt giữ Phú Xuân thành.

Thiên tài của Nguyễn Huệ
Sau trận thắng Phú Yên
Liên tiếp được khẳng định,
Thanh thế ngày càng lên.

Đặc biệt qua các trận
Tiến sâu vào phía trong,
Đánh chiếm thành Gia Định,
Thần tốc và tấn công.

Chỉ trong vòng bảy tháng,
Từ chỗ bị bao vây,
Nguyễn Huệ đảo thế trận,
Luôn đánh Đông dẹp Tây.

Hai Chúa Nguyễn bị giết,
Giải phóng cả toàn miền.
Nguyễn Ánh phải bỏ chạy
Ra Phú Quốc nằm yên.

Năm một bảy bảy tám
Nguyễn Nhạc tự xưng vương,
Lập niên hiệu Thái Đức
Nguyễn Huệ làm Long Nhương.

Năm một bảy tám sáu
Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân.
Thành Phú Xuân thất thủ,
Càng nức lòng nghĩa quân.

Rồi cũng liền sau đó
Ông đánh ra Thăng Long,
Cử tướng Nguyễn Hữu Chỉnh
Đi trước làm tiên phong.

Tinh thần đang rệu rã,
Các tướng Trịnh bàng hoàng,
Nên chưa đánh đã chạy
Hoặc hạ giáo đầu hàng.

Chúa Trịnh Tông bỏ trốn,
Dân bắt, giải về kinh.
Dọc đường, quá hoảng sợ,
Ông đã tự quyên sinh.

Thần tốc, như vũ bão,
Nguyễn Huệ vào Thăng Long
Như đi vào chỗ trống,
Gặp vua Lê Hiển Tông.

Về danh nghĩa, Nguyễn Huệ
Bầy tôi vua Hiển Tông,
Nhưng thực chất quyền lực
Đều nằm trong tay ông.

Rồi qua Nguyễn Hữu Chỉnh,
Trước là một đại thần,
Ông trở thành phò mã,
Lấy công chúa Ngọc Hân.

Chỉ mấy ngày sau đó
Lê Hiển Tông qua đời.,
Thông qua nhiều dàn xếp,
Lê Chiêu Thống lên ngôi.

Tướng Nguyễn Huệ quyết định
Đem công chúa Ngọc Hân
Cùng đại quân trở lại
Đóng ở thành Phú Xuân.       

Như ta biết, Nguyễn Nhạc
Chia đất nước làm ba,
Nguyễn Lữ vùng Gia Định,
Nguyễn Huệ xứ Bắc Hà.         

Việc Nguyễn Huệ tự ý
Đánh chiếm thành Thăng Long
Khi ông chưa cho phép
Khiến ông không hài lòng.

Mâu thuẫn ngày một lớn,
Nghi kỵ và đối đầu,
Và rồi năm tám bảy
Hai anh em đánh nhau.

Mà đánh nhau dữ dội,
Tây Sơn đánh Tây Sơn.
Nguyễn Huệ cho đại bác
Nã vào thành Qui Nhơn.

Nguyễn Nhạc thấy yếu thế
Phải nén nhục cầu hòa.
Nghĩ tình anh em ruột,
Nguyễn Huệ trách, rồi tha.

Nhân Tây Sơn lục đục,
Cả Đằng Ngoài, Đằng Trong
Liền tập hợp lực lượng
Nhất tề chống lại ông.

Quân Trịnh ở Miền Bắc
Đưa Trịnh Bồng lên ngôi.
Ở Gia Định, Nguyễn Ánh
Cũng chiếm được nhiều nơi.

Nguyễn Huệ lại Bắc tiến,
Lại đánh nhanh, tốc thần.      
Sau khi giành thắng lợi,
Đưa quân về Phú Xuân.

Trong khi đó Nguyễn Ánh
Chiếm được vùng Đằng Trong.
Nguyễn Nhạc già, thoái vị,
Nhường ngai vàng cho ông.

Năm một bảy tám tám
Lê Chiêu Thống thỉnh cầu
Vua Càn Long giúp đỡ,
Và một thời gian sau

Tướng Thanh, Tôn Sĩ Nghị,
Dẫn hăm chín vạn quân
Ào ào như thác chảy,
Tiến qua Ải Nam Quan.

Vừa lên ngôi hoàng đế,
Lấy niên hiệu Quang Trung,
Nguyễn Huệ lại Bắc tiến,
Đoàn quân đi trùng trùng.

Để tuyển thêm binh lính,
Ông dừng ở Nghệ An,
Cho diễu binh rầm rộ,
Quân số lên trăm ngàn.

Đoàn quân diễu binh ấy
Tiến thẳng ra Bắc Kỳ,
Thế mạnh như vũ bão,
Rầm rập tiếng người đi.

Ngày hai mươi tháng Chạp
Tới Tam Điệp, Quang Trung
Hẹn đến ngày mồng bảy
Ăn Tết ở Thăng Long.

Đến ngày mồng năm Tết,
Với chiến thắng Đống Đa,
Tây Sơn đã đại thắng,
Giải phóng cả Bắc Hà.

Chủ tướng Sầm Nghi Đống
Tự vẫn vì buồn lo.
Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy,
Xác giặc chết thành gò.

Dẫu chiến thắng oanh liệt,
Để gìn giữ hòa bình,
Nguyễn Huệ vẫn quyết định
Giảng hòa với nhà Thanh.

Nhà Thanh sai sứ giả
Sang phong vương cho ông,
Còn mời sang Trung Quốc
Mừng thọ vua Càn Long.

Theo kế Ngô Thì Nhậm,
Năm một bảy chín mươi,
Ông cử đoàn sứ giả
Một trăm năm mươi người.

Cháu ông, Phạm Công Trị,
Thay ông, giả làm vua,
Dẫn đầu đoàn sứ ấy,
Giặc biết, đành làm ngơ.

Ông còn có ý định
Cầu hôn con vua Thanh,
Đòi lại đất Lưỡng Quảng,
Tiếc là việc không thành.

Ông bị bệnh, chết sớm,
Tháng Chín năm bảy hai,
Hưởng thọ bốn mươi tuổi,
Một con người toàn tài.

Bốn năm trên ngôi báu,
Ông làm được nhiều điều,
Đánh đuổi giặc xâm lược,
Thiết lập một vương triều.

Ông chấn hưng nông nghiệp,
Khuyến khích ngành công thương,
Cho tự do tôn giáo,
Xây thêm nhiều tuyến đường.

Ông sửa đổi hành chính,
Sắp xếp lại chức quan,
Chữ Nôm thay chữ Hán
Khi soạn thảo công văn.

Vua Quang Trung Hoàng Đế,
Nhà quân sự tuyệt vời,
Người anh hùng dân tộc
Sống mãi trong lòng người.

Theo sử sách chép lại,
Trước khi đánh Thăng Long,
Ông bày ra một cách
Làm quân sĩ nức lòng.

Ông nói với quân sĩ
Sẽ tung trăm đồng tiền,
Nếu tất cả đều sấp,
Ta sẽ thắng, tiến lên!

Trăm đồng tiền, quả thật,
Đều sấp hết, việc này
Làm nức lòng binh sĩ,
Nghĩ trời cho vận may.

Thực ra, vua trước đó
Cho đúc chúng, có điều
Cả hai mặt đều sấp.
Một cú lừa đáng yêu.


Phần Hai

TUỆ TĨNH (? – 1330)

Tuệ Tĩnh là pháp hiệu.
Ông là một thiền sư,
Tên thật Nguyễn Bá Tĩnh,
Tài giỏi và nhân từ.

Ông được tôn ông tổ
Ngành Nam dược nước ta.
Tiếc ông bị giặc bắt,
Sớm đưa về Trung Hoa.

Ông là thầy thuốc giỏi,
Lại vừa một nhà sư,
Viết “Nam dược thần hiệu”
Và “Hồng nghĩa giác tư”.

Ông xuất thân nghèo khổ,
Gia cảnh rất bình thường,
Quê ở xã Cẩm Vũ,
Huyện Cẩm Giàng, Hải Dương.

Khi mới lên sáu tuổi,
Bố mẹ ông qua đời,
Chùa Hải Triều, Giao Thủy
Nuôi ông lớn thành người.

Năm tròn hăm hai tuổi,
Ông đậu Thái học sinh,
Vẫn ở chùa nghiên cứu,
Bốc thuốc giúp dân lành.

Đến năm ba mươi tuổi,
Ông về chùa Yên Trang,
Làm trụ trì ở đấy,
Nay thuộc huyện Cẩm Giàng.

Tuệ Tĩnh đỗ Hoàng giáp
Năm một ba tám năm,
Bị đem cống Trung Quốc
Khi tuổi đời năm lăm.

Ông tiếp tục bốc thuốc,
Nổi tiếng, dù ẩn cư.
Vua Minh yêu tài đức,
Phong “Đại y Thiền sư”.

Ông qua đời ở đấy,
Hàng nghìn dặm xa nhà.
Tài, không được cống hiến,
Ngẫm, chạnh lòng xót xa.

Tuệ Tĩnh đặt nền móng
Ngành y dược nước nhà,
Xây dựng thành nếp nghĩ -
Người ta dùng thuốc ta.

Nhờ ông mà cả nước,
Mỗi gia đình, đền chùa,
Có một vườn thuốc nhỏ
Cung cấp thuốc bốn mùa.

Nhiều lương y nổi tiếng
Làm tiếp việc của ông
Hoàng Đôn Hòa là một,
Dưới triều Lê Thế Tông.

Ông dùng các toa thuốc
Của Tuệ Tĩnh sư thiền
Chữa sốt rét cho lính,
Dập dịch vùng Thái Nguyên.

Có một đồ đệ khác,
Là Hải Thượng Lãn Ông,
Viết “Lĩnh Nam Bản Thảo”
Về thuốc Nam, thuốc Đông,

Đã trích nhiều toa thuốc
Của Tuệ Tĩnh Thiền sư,
Cả phần dưỡng sinh khí
Bằng hít thở từ từ.

Ở quê hương Tuệ Tĩnh,
Để ghi nhớ công ơn,
Có đền Thuốc Nam Thánh,
Và đền ở Tân Sơn.

Ông cũng được thờ cúng
Ở Thủy Nguyên, Hải Phòng,
Làm Thành hoàng một xã,
Có cả miếu thờ ông.

Đại danh y dân tộc,
Chết từ lâu, xa nhà,
Triết lý ông vẫn sống:
Người ta dùng thuốc ta!         


LÝ THƯỜNG KIỆT (1019 – 1105) 

Ông là tướng nhà Lý,
Đồng thời một hoạn quan,
Có công đánh quân Tống,
Giữ đất nước bình an.  

Tên thật là Ngô Tuấn,
Hậu duệ Ngô Quyền xưa,
Ông quê huyện Quảng Đức,
Thuộc Gia Lâm bây giờ.         

Bố ông làm Thái úy
Đời vua Lý Thái Tông,
Được vua ban quốc tính,
Do đức và do công.       

Năm một không bốn mốt,
Nhờ khôi ngô, thông minh,
Ông được làm thái giám,
Vua cho theo bên mình.

Sau ông được thăng chức
Nội thị Sảnh đô tri
Lúc mới ba lăm tuổi,
Vinh hiển và quyền uy.

Rồi sau, tiến hơn nữa,
Dưới triều Lý Thánh Tông,
Làm Kiểm hiệu Thái bảo,       
Chức quan hàng tam công.

Năm một không sáu một,
Ở Thanh Hóa, Nghệ An
Các tộc Mường quấy rối,
Vua sai ông trấn an.

Nhờ ông biết thuyết giảng,
Có lý lại có tình,
Cả năm châu, sáu huyện
Đã quy phục triều đình.

Năm một không sáu chín,
Ông đi đánh Chiêm Thành,
Bắt được vua Chế Củ,
Mở rộng đất nước mình.

Khi Càn Đức, bảy tuổi,
Lên ngôi báu, triều đình
Lục đục các phe cánh,
Đất nước chẳng an bình.

Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan phu nhân,
Nhờ thế rồi mọi chuyện
May cũng ổn định dần.

Tể tướng Vương An Thạch,
Năm một không bảy năm,
Xui vua đánh Đại Việt,
Một quyết định sai lầm.

Thấy trước âm mưu giặc,       
Không đợi giặc tấn công,
Lý Thường Kiệt chủ động
Cả đường bộ, đường sông

Tiến quân vào đất giặc,
Cùng Tôn Đản tướng quân,
Vượt qua các thành ải,
Chiếm châu Liêm, châu Khâm.

Năm một không bảy sáu,
Hai cánh quân gặp nhau,
Cùng bắt đầu vây hãm,
Quyết hạ thành Ung Châu.

Đó là một thành lớn,
Ngày nay là Nam Ninh,
Tướng Tô Giám cố thủ
Cùng ba vạn tinh binh.

Tướng giặc Trương Thủ Tiết
Đem quân đến giải vây,
Bị ông chém tại trận.
Sử Tàu chép trận này.

Cuối cùng Lý Thường Kiệt
Phải dùng kế hỏa công,
Bắn các chất dễ cháy
Như bùi nhùi, nhựa thông.

Ông còn bắt dân Tống
Chồng bao cát thật cao
Để quân lính Đại Việt   
Vượt tường thành xông vào.

Thành Ung Châu thất thủ
Vào ngày thứ bốn hai.
Tướng Tô Giám tự tử,
Lửa ngùn ngụt trong, ngoài.

Sáu vạn người bị giết.
Cả Khâm châu, Liêm châu,
Con số là mười vạn.
Một thất bại thật đau.

Làm cỏ ba châu ấy,
Nhiều cảnh cũng đau lòng,
Lý Thường Kiệt ra lệnh
Quay trở về Thăng Long.

Ông bắt nhiều dân Tống
Cùng đi theo với mình
Rồi cho vào khai khẩn
Vùng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình.        

Tháng Ba năm bảy sáu,
Quân Tống lại đánh ta,
Xui Chiêm Thành, Chân Lạp
Từ phía Nam đánh ra.

Nhưng rồi hai nước ấy
Sợ, không dám xuất quân.
Quân Tống gồm mười vạn,
Hai mươi vạn phu dân.

Hay tin, Lý Thường Kiệt
Liền cấp tốc đề phòng,
Lập các chốt phòng ngự
Cả đường bộ, đường sông.

Ông cho xây chiến lũy
Bên cửa ải Chi Lăng
Ngăn quân Tống tràn xuống
Từ phía Bắc Cao Bằng.

Tuyến phòng thủ đường thủy
Ông lập ở sông Cầu,
Xưa là sông Như Nguyệt,
Chỗ sông hẹp, nước sâu.

Nhờ hai phòng tuyến ấy,
Giặc Tống bị kìm chân,
Quân mười phần chết bảy,
Ý chí cũng nguội dần.

Biết giặc đang thế bí,
Ông sai sứ “nghị hòa”.
Quân Tống liền đồng ý.
Thoát được nạn can qua.       

Năm một một không bốn
Và một không bảy năm,
Hai lần Lý Thường Kiệt
Phải đem quân bình Nam.

Cả hai lần đều thắng,
Chưa nói đến lần đầu
Khi bắt được Chế Củ,
Đổi vua lấy ba châu.

Ông được phong Thái úy,
Bậc khai quốc công thần,
Một anh hùng dân tộc,
Sống mãi cùng nhân dân.

Tháng Sáu năm Ất Dậu,
Tức một một không năm,
Ở tuổi tám mươi bảy,
Lý Thường Kiệt từ trần.

Ông là vị thái giám
Đầu tiên ở nước ta
Có công với dân tộc,
Giúp bảo vệ sơn hà.      


HOẠN QUAN LÝ THƯỜNG KIỆT

Theo sử, Lý Thường Kiệt
Vốn là một hoạn quan.
Một từ không đẹp lắm,
Khiến thiên hạ luận bàn.        

Nhiều nhà nho khinh bỉ
Khi nhắc đến tên ông,
Thậm chí có đánh giá
Sai lệch và bất công.     

Với ta, Lý Thường Kiệt
Là khai quốc công thần,
Người anh hùng dân tộc,
Sống vì nước, vì dân,

Cho nên không quan trọng
Ông là người thế nào.
Dẫu vậy, thử tìm hiểu
Vấn đề này xem sao.

Xưa nay trong lịch sử
Từng có nhiều hoạn quan
Làm khuynh đảo chính sự,
Tàn bạo và mưu gian.

Xưa nhất phải kể đến
Tên hoạn quan Triệu Cao,
Từng giữ chức tể tướng
Thời nhà Tần năm nào.

Khi Tần Thủy Hoàng chết,
Hắn giả di chiếu vua,
Lập con thứ Nhị Thế
Thay con trưởng Phù Tô.

Hai anh em tranh chấp,
Nên cơ đồ nước Tần
Lọt vào tay nhà Hán,
Làm ly tán lòng dân.     

Về phần mình, nhà Hán
Có họa mười hoạn quan
Thao túng cả triều chính,
Nên vận nhà Hán tàn,

Để gian thần Đổng Trác
Nắm hết mọi quyền hành,
Mở đường cho Tam Quốc
Dùng dằng thế phân tranh.

Trường hợp Lý Thường Kiệt
Của Đại Việt chúng ta,
Dẫu hoạn quan, tuy vậy,
Là hiền tài, khác xa.

Vì sao Lý Thường Kiệt
Lại trở thành hoạn quan?
Có khá nhiều giả thuyết
Được đưa ra luận bàn.

Một - sinh ra đã thế.     
Điều này rất khó tin,
Vì ông, như ta biết
Từng có một mối tình

Với nàng Dương Hồng Hạc,
Sau là vợ Thái Tông.
Khi biết ông bị hoạn,
Nàng dứt tình với ông.

Hai - Hay Lý Thường Kiệt
Tự hoạn để lấy tiền?
Lý Thái Tông, nghe nói,
Thấy mặt ông xinh, hiền,

Nên hứa nếu tự hoạn
Để trở thành hoạn quan
Theo hầu vua sớm tối,
Vua thưởng ba vạn quan.

Điều này khó có thật.
Là con một công hầu,   
Tuy bố mẹ mất sớm,
Nhưng nhà ông khá giàu.

Nên không thể có chuyện
Ông bán mình vì tiền.
Với một nhân cách lớn,
Việc ấy là đê hèn.

Lại có người còn nói
Tự hoạn để tiến thân,
Hoặc do vua trừng phạt
Vì tội dám khi quân.

Còn một số thuyết nữa,
Nhưng tất cả xem ra
Không hoàn toàn thuyết phục,
Trừ một thuyết, đó là

Khi vua tuyển thái giám,
Người ta đánh thuốc mê,
Hoạn ông ngoài ý muốn,
Một nỗi đau ê chề.

Chắc kẻ làm việc ấy
Có liên quan ít nhiều
Đến nàng Dương Hồng Hạc,
Một người ông từng yêu.

Không ngẫu nhiên sau đó,
Đúng vào lúc gian nguy,
Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan Nguyên phi.

Giả thuyết là giả thuyết,
Còn chưa rõ thế nào.
Dẫu ông là quan hoạn,
Việc ấy cũng chẳng sao.

Nó không thể che lấp
Tài đức và công danh.
Ông, vị tướng lỗi lạc
Phá Tống, bình Chiêm thành.


NAM QUỐC SƠN HÀ

Bài thơ tứ tuyệt ấy
Vang vọng mãi lòng người.
Bốn câu thơ ngắn gọn
Xuyên suốt đã bao đời.

Nước Nam người Nam ở.
Trời định thế từ lâu.
Đừng tìm cách xâm phạm,
Kẻo lại bị đánh đau.

Không gì đúng hơn thế.
Cũng không gì hay hơn.
Đó là lời cảnh cáo
Nhằm bảo vệ giang sơn.

Đến nay vẫn chưa biết
Ai viết bài thơ này.
Điều ấy không quan trọng.
Quan trọng là nó hay.

Nó nói đúng khí phách
Của con cháu Lạc Rồng,
Bản Tuyên ngôn Độc lập,
Lời thề với non song.

Thái úy Lý Thường Kiệt
Đã đọc vang bài thơ
Trong đền thờ Trương Hống,
Huyện Yên Phong bây giờ.

Tuyến phòng thủ Như Nguyệt
Đứng sừng sững bên sông.
Binh sĩ nghe tướng đọc
Mà thấy náo nức lòng.

Rồi vạn người như một
Tiến lên theo tiếng thơ. 
Khiến quân Tống bỏ chạy,
Ô nhục tận bây giờ.

Nhà thơ không xung trận
Trong trận ấy bên sông,
Nhưng với bài tứ tuyệt
Đã góp phần lập công.

                                        
NGUYÊN PHI Ỷ LAN (1044 – 1117)        

Có một truyền thuyết đẹp,
Đúng hay không, bàn sau.
Và theo truyền thuyết ấy,
Có một nàng hái dâu.

Nàng, cô thôn nữ ấy,
Rất xinh đẹp, tất nhiên.
Nết na và chăm chỉ,
Không thể không dịu hiền.     

Một hôm, đang dưới bãi
Thì xe vua đi qua.
Ấy là vua tìm vợ,
Vì vua đã, đang già.

Khỏi nói, các cô gái
Tranh nhau đứng trước ngài.
Họ thích làm hoàng hậu
Và quyết không nhường ai.

Thế mà thôn nữ ấy,
Cô gái đang hái dâu,
Vẫn luôn tay, cứ hái,
Thậm chí không ngửng đầu.

Vừa hái dâu vừa hát,
Mà cô hát rất hay,
Đến mức vua dừng lại,
Nghe, và lòng say say.

Từ tò mò, rồi thích,
Rồi yêu cô gái nghèo,
Vua cho người cung kính
Rước kiệu cô về triều.

Rồi lấy nàng làm vợ,
Rồi gì gì, gì gì,
Cuối cùng cô gái ấy
Thành Ỷ Lan chính phi.

Ỷ Lan, vì hôm đó
Cô đứng tựa cây lan.
Vừa hồn nhiên, vừa đẹp.
Cũng có người bảo gian.

Có một nhà viết sử
Vừa viết sách về cô,
Nói bố cô lúc ấy
Làm quan ở kinh đô.

Có thể ông biết trước
Việc vua về vùng ông
Nên sai con phục sẵn,
Như phục chim vào lồng.

Nên cô mới ra bãi
Vờ chăm chú hái dâu,
Cố tình không chú ý,
Cố tình không ngửng đầu.

Vì biết có chú ý
Cũng chẳng ăn thua gì.
Vậy phải làm gì đấy
Thật lãng mạn, ly kỳ.

Ngoài đời, bà quả thật
Chuyên trồng dâu nuôi tằm.
Tên là Lê Thị Yến,
Quê ở huyện Gia Lâm.

Vua đã bốn mươi tuổi
Mà chưa có con trai,
Nên gặp được Thị Yến
Vừa xinh vừa có tài

Liền lấy bà làm vợ,
Xây riêng một cung to,
Nay là đình Yên Thái,
Cách không xa Bờ Hồ.

Bà sinh hai hoàng tử
Cho vua Lý Thánh Tông.
Con đầu là Càn Đức,
Sau thành Lý Nhân Tông.

Thế là vua mãn nguyện,
Được như ước, còn gì?
Nên bà được cất nhắc
Thần phi, rồi Nguyên phi.

Năm một không sáu chín
Vua đi đánh Chiêm Thành.
Đem mọi việc quốc sự
Giao cho bà điều hành.

Vua đánh mãi không thắng,
Đang có ý lui quân,
Thì biết tin hoàng hậu
Ở Thăng Long được dân

Và các quan kính trọng
Vì các việc triều đình
Đều được bà làm tốt.
Vua xấu hổ, giật mình.

Đàn bà mà giỏi thế,
Vậy đàn ông thì sao?
Thế là vua quyết định
Lại tung quân đánh vào.

Lần ấy vua thắng lớn,
Lấy thêm được ba châu,
Bắt vua Chiêm, Chế Củ,
Phải uốn gối, cúi đầu.   

Tháng Giêng năm Nhâm Tý,
Tức một không bảy hai,
Thánh Tông lâm bệnh chết,
Lý Nhân Tông lên ngai.

Càn Đức mới sáu tuổi,
Còn nhỏ, chẳng biết gì,
Nên xẩy ra cuộc chiến
Giữa hai bà Hoàng phi.

Một bên là Thái hậu
Đang thực nắm quyền hành,
Nhờ có sự ủng hộ
Của Thái sư Đạo Thành.

Còn bên kia, yếu thế,
Là Ỷ Lan Thái phi.
Làm mẹ vua còn nhỏ,
Không có quyền hành gì.       

Sau được Lý Thường Kiệt
Đứng hẳn về phe mình,
Ỷ Lan giành thế thắng.
Quên hết cả nghĩa tình,

Bà bắt con, Càn Đức,
Chôn Thái hậu họ Dương,
Bảy mươi sáu thị nữ
Cùng Thánh Tông, thật thương.

Còn Thái sư họ Lý
May không bị giết oan,
Giáng chức thành Tả gián,
Đi coi châu Nghệ An.

Vậy là một thôn nữ,
Hiền dịu và xinh tươi,
Vì quyền lực, đã giết
Bảy mươi bảy con người.

Nắm toàn quyền triều chính,
Từ Ỷ Lan Thái phi,
Thành Ỷ Lan Thái Hậu.
Sắp tới bà làm gì?         

Lần thứ hai nhiếp chính
Năm một không bảy tư,
Bà lại mời ra Bắc
Lý Đạo Thành Thái sư.

Bà quên thù hận cũ,
Giao trọng trách cho ông,
Để cùng Lý Thường Kiệt
Lo gánh vác việc công.

Nhờ thế mà đất nước
Được ổn định dài lâu,
Bình Chiêm rồi phá Tống -
Việc này bà công đầu.            

Sử cũ còn ghi lại,
Năm một một không ba,
Bà lấy tiền công quĩ
Và một phần tiền bà

Để chuộc các cô gái
Bị bán cho nhà giàu,
Tìm đàn ông góa vợ
Để họ thành cô dâu.     

Vốn là người mộ Phật,
Là người tu tại gia,
Bà xây nhiều chùa, miếu,
Nhất là khi về già.

Có người nói, bởi lẽ
Lòng bà không thảnh thơi,
Hối hận vì đã giết
Bảy mươi bảy con người.        

Rất có thể như thế,
Cũng có thể là không.
Lịch sử rất sòng phẳng:
Khen khi bà có công.

Ngược lại, khi có tội,
Phải mang tiếng với đời.
Không ai có thể thoát
Luật trời và luật người.

Bảy mươi tuổi, bà chết,
Ba hầu gái chôn theo,
Những người bà yêu mến,
Tức là những người nghèo.      


CHU VĂN AN (1292 – 1370)

Chu Văn An tên thật
Đơn giản chỉ Chu An,
Tên chữ là Linh Triệt.
Khi về ẩn, an nhàn

Ông lấy hiệu Tiều Ẩn,
Ông tiều thích ngủ khì,
Quê ở xã Thanh Liệt,
Nay thuộc huyện Thanh Trì.

Ông là người chính trực,
Từng đỗ Thái học sinh,
Nhưng ở nhà dạy học,
Chọn hai chữ yên bình.

Trường mở, đông người học,
Bên kia bờ sông Tô.
Ông có công truyền bá
Các tư tưởng Đạo Nho.

Không ít các trò học
Thành nổi tiếng sau này.
Phạm Sư Mạnh, Lê Quát
Vẫn cung kính thăm thầy.

Nhờ có tài, có đức,
Ông được Trần Minh Tông
Mời làm quan tư nghiệp
Quốc Tử Giám, trường công.

Ông thành thầy dạy học,
Của vị vua tương lai
Là Thái tử Trần Vượng,
Dạy cả đức lẫn tài.

Sau khi Minh Tông mất,
Vua Dụ Tông lên thay,
Một ông vua hèn yếu,
Thích đàn hát suốt ngày.

Vua ham chơi như thế
Nên quan nịnh lộng quyền,
Triều chính không ổn định,
Lòng dân cũng không yên.

Ông dâng “thất trảm sớ”,
Tức sớ chém bảy người.
Vua không nghe, thất vọng,
Ông về nhà ngồi chơi.

Ông lui về ở ẩn
Ở vùng núi Phượng Hoàng,
Viết sách và dạy học
Cho lũ trẻ trong làng.

Cuộc đời ông thanh bạch,
Liêm khiết và chí công
Được xem là gương sáng
Vào thời đại của ông.

Ông còn viết nhiều sách:
Thơ gồm hai tập dày,
Chữ Nôm và chữ Hán,
Tinh tế và rất hay.

Cả Tứ “Thư thuyết ước”
Cũng là sách của ông,
Ngoài ra còn mấy cuốn
Thuốc Bắc và thuốc Đông.

Ông là một trong ít
Các học giả, hiền nho
Được thờ ở Văn Miếu
Mãi cho đến bây giờ.

Hiện còn có lăng mộ
Và ngôi đền thờ ông
Nằm lưng chừng Núi Phượng,
Người đến viếng rất đông.


NGƯỜI HỌC TRÒ CỦA CHU VĂN AN  

Chu Văn An mở lớp
Ngay bên bờ sông Tô.
Lớp, nghe nói, không lớn,
Nhưng rất đông học trò.

Trong số học trò ấy,
Ông để ý một người,
Sáng nào cũng đến sớm,
Ghi chép kỹ từng lời.

Ông khen, hài lòng lắm,
Nhưng không biết người này,
Con nhà ai, giàu, đói
Và từ đâu đến đây.

Bèn cho người lặng lẽ
Theo anh kia về nhà,
Nhưng khi đến Đầm Đại
Thì biến mất bất ngờ.

Cái Đầm Đại ngày ấy
Nhiều sen và vân sam,
Bây giờ vẫn chưa lấp.
Đó là hồ Linh Đàm.

Mọi người lấy làm lạ,
Nhưng sáng ngày hôm sau,
Người học trò vẫn đến,
Kinh sử thuộc làu làu.

Một lần, trời hạn lớn,
Lúa ngoài đồng cháy khô.
Chu Văn An buồn bã
Nói với các học trò,

Rằng nếu ai có thể
Thì làm mưa giúp dân.
Người học trò lạ ấy
Đứng trước thầy, phân vân:

“Thưa thầy, con làm được,
Tuy trái với lệnh trời.
Nhưng con nghĩ thà chết,
Không thể không giúp người.”

Rồi người ấy thong thả
Bước ra giữa sân trường,
Sau khi đọc thần chú,
Vung mực khắp bốn phương.

Khi nghiên mực đã cạn,
Anh tung nó lên cao.
Lập tức trời nổi gió
Rồi mưa xối ào ào.

Trời mưa suốt đêm đó.
Phía Đầm Đại chớp lòa
Rồi sấm nổ liên tục.
Sáng tỉnh dậy, người ta

Thấy giữa hồ trôi nổi
Xác con thuồng luồng to.
Chu Văn An vội vã
Cho gọi đám học trò

Vớt nó lên chôn cất.
Rồi dân lập miếu thờ.
Cái mộ ấy, nghe nói,
Còn tận đến bây giờ.

Theo truyền thuyết kể lại,
Chỗ rơi xuống chiếc nghiên
Sau gọi là Đầm Mực,
Vì nước nó màu đen.

Còn quản bút rơi trúng
Đất làng Tả Thanh Oai,
Nên về sau đất ấy
Sinh ra lắm hiền tài.      


THƠ CHU VĂN AN

Tạp hứng ở Linh Sơn

Núi rừng như cảnh vẽ bình phong.
Bờ khe lơ lửng mặt trời hồng.
Lối đi cỏ mọc, người thưa thớt.
Thỉnh thoảng chim kêu trong tán thông.

Tạm nghỉ ở núi thôn Nam

Như áng mây chiều, lòng thảnh thơi.
Gió mát xua tan hết sự đời.
Cõi trần, cõi Phật xa vời vợi.
Ngoài thềm chim hót, cánh hoa rơi.

Kính họa thơ vua

Hạc múa ngoài sân, mây sát thềm.
Cầm hoa như chén, uống sương đêm.
Gió xuân thổi nhẹ rung đàn đá.
Dạo dưới hoa đào, lòng tĩnh êm.

Sông Thanh Lương

Hoàng hôn, vệt nắng vắt qua đồi.
Thuyền chài trên bến đứng từng đôi.
Ngắm mãi Thanh Lương không biết chán,
Triều dâng, ráng lạnh, áng mây trôi.

Đêm trăng, đi dạo trên con đường
có thông mọc ở núi Tiên Du

Con đường rợp bóng cây.
Xóm vắng, khói mờ bay.
Chiều buông, ai thổi sáo.
Trời thấp và nhiều mây.
Dưới khe lạnh cá nhảy.
Chim ngủ trong sương dày.
Người thổi sênh đâu vắng,
Để núi lạnh thế này?

Ao Miết Trì

Hoàng hôn, bóng nguyệt giỡn bóng tà.
Dưới ao sen nở, lá xen hoa.
Chỉ thấy cá bơi, rồng không thấy.
Trời chiều vắng bóng hạc bay qua.
Rêu non đẫm nước che lấp cửa.
Thoang thoảng đường đi mùi quế già.
Lòng này chưa nguội như tro lạnh.
Nhắc đến Tiên hoàng, giọt lệ sa.

Thơ làm ở Giang Đình

Một mình buồn đứng, ngắm thuyền câu.
Nước dâng, sáo thổi gợi thêm sầu.
Xế bóng hoàng hôn, thi hứng cạn.
Hiu hắt trời thu biếc một mầu.
Sự nghiệp công danh thành cõi mộng.
Giang hồ du ngoạn đỡ buồn đau.
Đi, ở tự mình, không trói buộc,
Khác nào ngang dọc cánh chim âu.

Sáng xuân

Thảnh thơi, nhà nhỏ giữa rừng cây.
Màu xanh của lá át màu mây.
Liếp mỏng nghiêng nghiêng che rét nhẹ.
Cánh hoa sương ướt, trời như say.
Lòng như mặt giếng, luôn thanh thản.
Bên rừng lưu luyến cánh mây bay.
Khói thông sắp hết, trà đang nguội.
Một tiếng chim kêu, tỉnh mộng ngày.

Đầu hè

Nhà tranh, núi vắng, giấc mơ màng.
Gió thổi hàng cây, nắng nhạt vàng.
Chim én rủ nhau tìm tổ cũ.
Ve sầu đầu hạ hát âm vang.
Sen nở dưới khe không gợn bẩn.
Trúc mọc xanh tươi phía cuối làng.
Cành ngô phượng đậu, lâu thành biếng.
Tập sách trên bàn, gió lật trang.      

Trông về Thái Lăng

Xế chiều, rừng bách ngát màu xanh.
Hòn đá to nghiêng cỏ bám quanh.
Gió thổi, núi buồn thêm ảm đạm.
Trên trời mây rách dạt trôi nhanh.
Hoa rụng bờ khe, mưa lất phất.
Ngoài đồng im bặt tiếng chim oanh.
Bát ngát cỏ xuân, xanh đến lạ.
Dùng dằng định bước, bước không đành.


MẠC ĐỈNH CHI (1280 – 1346)       

Tương truyền có bà nọ,
Bị khỉ hiếp, sau này
Đẻ đứa con xấu xí,
Ngắn chân và dài tay.

Nhưng đứa bé, bù lại,
Lại thông minh cực kỳ,
Rất có tài ứng đối.
Đó là Mạc Đỉnh Chi.

Chồng bà giết con khỉ,
Chôn, rồi mối đùn to,
Biết là đất phát tướng,
Nên khi chết dặn dò

Các con cháu từ đó
Chôn xác người thân mình
Ngay trên khu đất ấy,
Sẽ có ngày hiển vinh.

Cuốn “Công dư tiệp ký”
Nói rằng vua nhà Nguyên
Thấy Chi tài mà xấu,
Chắc phải có nhân duyên,

Bèn cho thầy địa lý
Sang dò hiểu xem sao,
Và quả thầy tìm đến
Mộ con khỉ năm nào.

Có thể chuyện ấy đúng,
Cũng có thể là sai,
Nhưng người này quả thật
Đúng là bậc hiền tài.

Dòng họ ông sau đó
Cũng vinh hiển vô cùng.
Có vị vua nổi tiếng,
Là vua Mạc Đăng Dung.

Ông người làng Lũng Động,
Huyện Nam Sách, Hải Dương,
Tướng mạo không đẹp lắm,
Nhưng trí tuệ phi thường.

Năm một ba không bốn,
Ông đỗ đầu, tuy nhiên,
Vua phải duyệt tướng mạo,
Mới cho làm Trạng nguyên.

Thấy ông thấp và bé,
Đức vua Trần Anh Tông,
Không muốn cho đỗ Trạng,
Nhưng đọc thơ của ông,

Cuối cùng vua đồng ý,
Lại còn ban lời khen
Bài “Sen trong giếng ngọc”,
Tức là “Ngọc tỉnh liên”.

Ông được giữ thư khố,
Có tài và nhân từ,
Được triều đình yêu mến
Rồi thăng chức Thượng thư.

Hai ông tổ, đời Lý,
Làm thượng thư như ông:
Mạc Hiển Tích - bộ Lại,
Mạc Kiến Quan - bộ Công.

Ông hai lần đi sứ
Sang triều đình Bắc phương,
Áp đảo về hùng biện,
Nổi bật tài văn chương,

Đến mức Nguyên Hoàng đế
Phải công nhận tài hiền,
Lấy bút tặng bốn chữ,
Là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.

Nhờ thế mà uy tín
Đại Việt được nâng cao.
Sứ thần các nước khác
Gặp đâu cũng cúi chào.

Có khá nhiều giai thoại
Về tài đối của ông.
Đi sứ, nhờ tài ấy
Mà làm tốt việc công.

Văn chương là một chuyện.
Chuyện khác tốt hơn nhiều.
Đó là ông liêm khiết,
Thượng thư mà vẫn nghèo.

Nghèo đến mức, lần nọ,
Người của vua Minh Tông
Bỏ mười quan tiền cũ
Trước cửa thềm nhà ông.

Thế mà ông, sáng dậy,
Đem tiền ấy vào cung.
Vua cười: “Không ai nhận,
Khanh cứ lấy mà dùng.”

Một tấm gương sáng chói
Về liêm khiết, công minh,
Mà chúng ta, con cháu,
Phải biết để soi mình.    


THƠ MẠC ĐỈNH CHI 

Mừng trời tạnh

Non sông thật tươi đẹp.
Trời lại ấm, khô hanh.
Khói lồng mặt trời mọc.
Sóng gợn, nước trong xanh.
Thuyền lướt, chạm hoa lá.
Trên bờ liễu buông mành.
Khách xa lòng ấm lại,
Mừng năm mới tốt lành.

Cảnh chiều

Mây núi xanh nhàn nhạt.
Nước sông xuân nhuộm màu.
Quạ kêu giữa chiều xế.
Nhạn tiễn mây về đâu?
Bên khe, bác tiều hát.
Trong vịnh, lửa thuyền câu.
Khách xa buồn, lạnh lẽo,
Mượn chén rượu giải sầu.

Đi sớm        

Vừa tỉnh giấc mơ bướm.
Sông Thương Lang đầy mây.
Ai hát điệu chài lưới.
Thuyền xuyên lớp sương dày.
Tam Sở nhiều núi thẳm.
Cửu Giang nước dâng đầy.
Liêm Khê nơi nào nhỉ?
Muốn đến thăm nơi này.

Qua Bành Trạch, thăm nơi ở cũ của Đào Tiềm

Bản tính ưa phóng khoáng.
Ghét xu nịnh, mưu cầu.
Từ quan, cởi dây ấn.
Không vì ăn, cúi đầu.
Một giậu cúc lạnh lẽo.
Dăm cây liễu gợi sầu.
Danh tiếng ông thanh khiết
Lưu lại muôn đời sau.


TRẦN THỦ ĐỘ (1194 – 1264)

Một nhân vật lịch sử
Gây nhiều oán, nhiều ân,
Đó là Trần Thủ Độ,
Thái sư đầu triều Trần.

Cũng ông, người thực sự
Sáng lập triều đại này,
Và bốn mươi năm chẵn
Giữ chặt nó trong tay.

Nhưng ông ác hay thiện,
Chính nghĩa hay gian tà?
Điều này chưa ngả ngũ,
Dù nhiều năm trôi qua.

Ông sinh ở Lưu Xá,
Huyện Hưng Hà, Thái Bình,
Tổ tiên làm nghề cá,
Từ Đông Triều, Yên Sinh.

Nhưng đến đời ông bố
Thì giàu sang vô cùng,
Khi Hoàng Thái tử Sảm
Lấy chị Trần Thị Dung.


Sau Hoàng Thái tử Sảm
Thành vua Lý Huệ Tông.
Nhà Lý đứng vững được
Một phần cũng nhờ ông.

Năm một hai hai bốn,
Ông được phong chức danh
“Điện tiền Chỉ huy sứ”,
Chỉ huy bảo vệ thành.

Khi Trần Tự Khánh chết,
Ông là người một mình
Nắm hết mọi quyền lực,
Và công việc triều đình.

Triều Lý vào lúc ấy
Đang trên đường suy vong.
Vua ham chơi, tác tráng,
Dân bất ổn, nản lòng.

Mùa màng luôn thất bát.
Chân Lạp và Chiêm Thành
Thường quấy phá biên giới,
Lơ lửng họa chiến tranh.

Sáng suốt và khôn khéo,
Biết trông rộng, nhìn xa,
Ông nghĩ cần thay đổi,
Cho mình, cho nước nhà.

Năm một hai hai bốn,
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con gái,
Cho dù muốn hay không.

Huệ Tông lên chùa sống,
Có pháp hiệu Huệ Quang.
Con gái vua, bảy tuổi,
Hiệu là Lý Chiêu Hoàng.

Đó là vị vua nữ
Duy nhất của nước nhà,
Nhưng cuộc đời chìm nổi,
Ngẫm mà thương cho bà.       

Tiếp đến, Trần Thủ Độ
Đưa Trần Cảnh, cháu ông,
Vào hầu bên nữ chúa,
Rồi sau trở thành chồng.

Chỉ một năm sau đó
Chiêu Hoàng tự dâng ngai
Cho cậu chồng tám tuổi,
Yên cả trong lẫn ngoài.

Vậy là cuộc đảo chính
Đã mỹ mãn thành công,
Triều Trần kế triều Lý,
Hoàn toàn theo ý ông.  

Phải khen ông tài giỏi,
Thay đổi cả vương triều,
Đất nước không xáo trộn,
Máu cũng chẳng đổ nhiều.

Vì vua còn rất bé,
Ông lại nắm toàn quyền,
Dẹp loạn sứ trong nước,         
Dân chúng được bình yên.

Lần kháng chiến thứ nhất
Chống xâm lược nhà Mông,
Đại Việt giành thắng lợi
Một phần nhờ có ông.

Thế giặc lớn, vua sợ,
Mới hỏi ông, thăm dò.
“Chừng nào tôi chưa chết,
Xin bệ hạ đừng lo!”

Thái sư nói câu ấy,
Làm triều đình vững lòng,      
Trên dưới dốc toàn lực,
Giúp kháng chiến thành công.

Theo sử cũ chép lại,
Trần Thủ Độ là người
Rất công tâm, nghiêm khắc,
Khôn ngoan và hiểu đời.

Một lần vợ ông trách
Khi đi vào cấm cung
Bị lính cờ ngăn lại.
Ông nghe, giận vô cùng,

Liền gọi tên lính ấy,
Định chém đầu tức thì.
Thế mà ông không chém,
Còn khen, thật lạ kỳ.

“Tên lính này, ông nói,
Giữ đúng phép vua ban.
Lính làm thế là tốt,
Sao bà còn phàn nàn?”

Có lần, một công chúa
Xin ông cho người nhà
Một chức quan nho nhỏ.
Ông gật đầu, thế là

Khi người kia đến gặp,
Ông nói: “Anh là người
Được công chúa ưu ái,
Vậy nổi bật ở đời.

Thế thì ta xin phép
Chặt một ngón chân anh
Đánh dấu sự khác ấy.
Chắc anh cũng đồng tình.”

Anh kia nghe, sợ quá,
Liền ra về, tay không.
Từ đấy không hề thấy
Người nào đến nhờ ông.

Lại nữa, một lần nọ,
Có người tâu chân tình:
“Bệ hạ còn ít tuổi,
Thái sư nắm quyền hành,

E gây nên hậu họa.”
Thái Tông đưa người này
Đến gặp Trần Thủ Độ.
Ông nghe rồi khen hay,

Bảo ông ta nói đúng,
Không chém đầu để răn,
Mà còn ban lụa thưởng,
Khen là người trung thần.

Vậy là Trần Thủ Độ
Rõ ràng rất có công
Xây dựng vương triều mới,
Đánh thắng giặc Nguyên Mông.      

Nhưng nhiều người chỉ trích
Ông là người nhẫn tâm,
Độc ác, vô đạo đức.
Nói thế cũng không nhầm.

Để đề phòng hậu họa,
Ông không ngại giết người.
Giết tôn thất nhà Lý,
Một tội ác tày trời.

Chính ông ép Trần Liễu
Nhường vợ cho em trai.
Vua lấy chị dâu ruột,
Khi chị dâu có thai.

Ông bị chê thất đức
Khi giết Lý Huệ Tông,
Lấy hoàng hậu làm vợ,
Tức lấy chị họ ông.

Ông là người như thế.
Công và tội đan xen.
Thậm chí công và tội
Còn chưa rõ trắng đen.


TRẦN HƯNG ĐẠO (1232 - 1300)   

Tên thật là Quốc Tuấn,
Trần Hưng Đạo đại vương
Là một người đặc biệt,
Tài đức bậc phi thường.

Ông là nhà chính trị,
Nhà quân sự thiên tài,
Góp phần giữ độc lập
Cho thế hệ tương lai.

Ông là con Trần Liễu,
Cháu vua Trần Thái Tông.
Rất khôi ngô, tuấn tú,
Văn và võ tinh thông.

Ông lớn lên đúng lúc
Nước thọ địch bốn bề.
Giặc Nguyên Mông phương Bắc
Đang đêm ngày lăm le.

Năm một hai năm bảy
Đức vua Trần Thái Tông
Xuống chiếu giao chức vụ
Đại Tiết Chế cho ông.

Tiết chế là Tư Lệnh,
Theo cách hiểu thông thường.
Ông đem quân thủy bộ
Ra trấn giữ biên cương.

Sau lần đầu thắng giặc
Ông được đức vua Trần
Phong Quốc công Tiết chế,
Thống lĩnh cả ba quân.

Là vị tổng tư lệnh,
Năm tám tư, mùa đông,         
Ông cho duyệt quân ngũ
Bến Hàng Than, sông Hồng.

Rồi bài “Hịch tướng sĩ”,
Một đệ nhất hùng văn,
Được ông đọc dõng dạc
Trước toàn bộ ba quân.

Chỉ một năm sau đó,
Quân Nguyên sang đánh ta.
Kể từ lần thứ nhất,
Hăm bảy năm trôi qua.

Đường bộ và đường thủy,
Hai mũi chúng tấn công.
Đường bộ từ phía Bắc,
Đường thủy từ phía đông.

Từ Nghệ An, Thanh Hóa,
Chúng còn vòng đánh ra.
Để bảo toàn lực lượng,
Cân nhắc địch và ta,

Trần Hưng Đạo quyết định
Tạm rút khỏi Thăng Long,
Làm vườn không nhà trống,
Quân và dân một lòng.

Vào tháng Năm năm ấy,
Từ căn cứ Thiên Trường,
Ông đánh trận Hàm Tử,
Rồi Tây Kết, Chương Dương...

Đội quân Nguyên hùng mạnh,
Như đám mây âm u,
Bị quân Trần quét sạch,
Xua hết bóng quân thù.

Năm một hai tám bảy
Quân Nguyên lại đánh ta,
Hai năm sau lần trước,
Giờ là lần thứ ba.

Đoàn thuyền lương quân địch
Bị diệt ở Vân Đồn.
Hay tin, Thoát Hoan sợ,
Rút chạy, vãi linh hồn.

Trần Hưng Đạo cho lính
Chốt giữ cửa Bạch Đằng.
Sau Vân Đồn, binh lính
Khí thế đang rất hăng.

Tháng Tư năm tám tám,
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi
Bị Đại Việt phá sạch,
Lương thực chẳng còn gì.

Tướng Thoát Hoan nghe thế,
Liền vội vã rút về,
Chui ống đồng mà rút,
Thật nhục nhã, ê chề.   

Năm một hai tám chín,
Vua luận công, biểu dương,
Rồi phong Trần Hưng Đạo
Là Hưng Đạo đại vương.

Ông lui về Vạn Kiếp
An hưởng nốt tuổi già,
Nơi ông được phong ấp,
Cách Chí Linh không xa.

Tháng Sáu năm Canh Tý,
Tức một ba không không,
Ông lâm bệnh, ốm nặng,
Đích thân Trần Anh Tông

Cùng nhiều đại quan khác
Về thăm hỏi tận nơi.
Nhưng hai tháng sau đó
Ông lặng lẽ qua đời.

Ông dặn con khi chết,
Hãy hỏa táng xác ông,
Đựng cốt trong lọ sứ,
Chôn giữa các gốc thông

Trong góc vườn An Lạc.
Chôn rồi, phủ đất lên,
Lại trồng cây như cũ,
Thật khéo và tự nhiên

Để trường hợp, nếu muốn,
Người của các đời sau  
Không thể nào đoán biết
Mộ ông chôn ở đâu.

Nhân dân khắp cả nước
Tôn là Đức Thánh Trần,
Lập đền thờ cúng viếng,
Hương khói đều quanh năm. 


CHUYỆN VỀ TRẦN HƯNG ĐẠO  

Năm một hai ba bảy,
Trần Thủ Độ bỗng nhiên
Ép cha ông, Trần Liễu,
Nhường vợ là Thuận Thiên

Cho chú ông, Trần Cảnh,
Lúc ấy ngự ngai vàng.
Mà Thuận Thiên công chúa
Là chị Lý Chiêu Hoàng.

Với cái thai ba tháng,
Thuận Thiên thành vợ vua,
Dẫu vua không đồng ý,
Cứ đòi bỏ lên chùa.

Trần Liễu thì uất ức,
Dấy binh nhưng bất thành.
Thủ Độ tha không giết,
Nhờ vua xin cho anh.

Trần Liễu tìm người giỏi
Làm thầy dạy con trai,
Tức là Trần Hưng Đạo,
Mong văn võ toàn tài.   

Trước khi chết, ông dặn:
“Con hãy cố vì cha
Mà lấy cả thiên hạ,
Thế mới đẹp lòng ta.”

Tức là ý ông dặn
Con tiếm ngôi về sau.
Hưng Đạo không muốn thế,
Nhưng ghi nhớ trong đầu.

Khi đã nắm toàn bộ
Quyền lực vào tay mình,
Ông giả đò ướm hỏi
Thân tín trong triều đình.

Yết Kiêu và Dã Tượng
Nói là điều không nên.
Ông gật đầu khen ngợi,
Còn thưởng họ nhiều tiền.     

Ông hỏi cả con trưởng
Và con thứ điều này.
Người con trưởng phản đối.
Anh con thứ khen hay.

Lập tức ông rút kiếm
Định chém đầu anh ta,
Bảo là phường nghịch tặc,
Không cho nhận là cha.

Rồi lệnh: khi ông chết,
Đậy nắp quan tài xong,
Mới cho anh con thứ
Được đi vào viếng ông.

Theo sử cũ ghi lại
Trần Quang Khải và ông
Có mối tư thù nhỏ
Vẫn canh cánh trong lòng.

Trong cuộc chiến lần một,
Trần Thánh Tông cầm quân,
Tể tướng Trần Quang Khải
Cũng đi theo vua Trần.

Thượng hoàng thì có ý
Khi Hưng Đạo ở nhà
Phong ông chức Tể tướng
Nhân Quang Khải đi xa.

Cớ là tiếp sứ Bắc,
Nhưng ông xin không nghe,
Nói rằng những việc ấy
Chờ Tể tướng quay về. 

Một hôm, Trần Hưng Đạo
Đi thuyền về Thăng Long,
Trần Quang Khải nghe tiếng,
Xuống thuyền chơi với ông.

Quang Khải vốn sợ tắm,
Hai người ăn uống xong,
Hưng Đạo tự cởi áo
Rồi kỳ lưng cho ông.     

“Nhờ bác thăm thuyền chiến,
Tôi may mắn hôm nay
Được tắm cho Tể tướng.
Phải ghi nhớ ngày này!”

Trần Quang Khải cúi tạ:
“ Được Quốc công kỳ lưng,    
Thật là diễm phúc lớn,
Xin mở tiệc ăn mừng.”

Sử cũ cũng chép việc
Con trai Hưng Đạo vương
Lấy công chúa Thiên Thụy,
Thế mà trái đạo thường,

Trần Khánh Dư, tướng giỏi,
Lại thông dâm với nàng,
Khiến vua phải xuống chiếu
Đuổi về núi Phượng Hoàng.   

Vậy mà khi Mông Cổ
Đánh Đại Việt lần ba,   
Hưng Đạo quên chuyện cũ,
Cho vị tướng tài ba

Ra trấn thủ biên giới.
Trần Khánh Dư lập công,
Góp phần làm chiến thắng,
Suốt đời kính phục ông.

Hơn thế, Trần Hưng Đạo,
Đã chọn Trần Khánh Dư
Viết lời tựa cho cuốn
“Vạn Kiếp bí truyền thư”.

Năm một hai tám mốt,
Vua Nguyên sai Sài Xuân
Đi sứ sang Đại Việt.
Thằng này láo, có lần

Cứ ngồi trên lưng ngựa
Đi qua cửa Dương Minh.       
Hắn còn dùng roi cứng
Quất vào đầu vệ binh.

Tể tướng Trần Quang Khải
Đến chào hắn, thế mà,
Bất chấp cả nghi lễ,
Hắn nằm khểnh, không ra.

Hay tin, Trần Hưng Đạo,
Mặc áo vải, cạo đầu,
Đi thẳng đến quán sứ
Xem binh tình ra sao.   

Thế mà lạ, lập tức
Hắn đứng dậy, cúi mình
Lễ phép mời uống nước,
Đàm đạo khá thân tình.

Một thằng hầu của hắn
Cầm mũi tên, đứng sau,
Chọc vào Trần Hưng Đạo
Đến chảy cả máu đầu.

Nhưng ông vẫn bình thản,
Nét mặt không đổi thay.
Lúc về, Sài Xuân tiễn,
Còn nhắc mãi chuyện này.


BA LẦN ĐÁNH THẮNG GIẶC NGUYÊN MÔNG     

Thái sư Trần Thủ Độ
Đã chuyển giao nhẹ nhàng
Ngai vua cho Trần Cảnh
Từ tay Lý Chiêu Hoàng.

Trong khi đó, phương Bắc
Đầu thế kỷ mười ba,
Người Mông Cổ đánh chiếm
Một vùng đất bao la

Gồm châu Âu, Tây Á,
Rồi như cơn cuồng phong,
Đánh chiếm nhà Tây Hạ,
Xuống phía Nam, phía Đông.

Tiêu diệt nước Nam Tống
Là mục đích đầu tiên.
Chúng mượn đường Đại Việt
Để từ dưới đánh lên.

Các vua Trần từ chối,
Còn nhốt sứ trong nhà.
Năm một hai năm tám,
Chúng đem quân đánh ta.     

Gần năm vạn binh sĩ,
Từ Vân Nam tràn sang.
Chúng làm cỏ mọi thứ,
Đồng ruộng và xóm làng.

Hai vua của Đại Việt
Là Thái Tông, Thánh Tông
Dẫn quân ra nghênh chiến,
Nhưng do địch quá đông,

Trận ấy ở Vĩnh Phúc,
Quân Đại Việt thua to,
Thua cả trận Phù Lỗ
Ở bên sông Cà Lồ.

Vua nhà Trần quyết định
Rút khỏi thành Thăng Long,
Làm “nhà không vườn trống”,
Gây khó cho quân Mông.

Nhưng mười ngày sau đó,
Hai vua Trần cùng nhau
Đánh bại quân Mông Cổ
Trong trận Đông Bộ Đầu,

Giờ thuộc đất Hà Nội,
Quận Ba Đình ngày nay.
Giặc phải rút về nước,
Cũng theo đường Bắc - Tây.  

Chỉ trong vòng nửa tháng
Cuộc chiến tranh xẩy ra
Và nhanh chóng kết thúc,
Phần thắng thuộc về ta.         

Hăm bảy năm sau đó,
Tức một hai tám năm
Quân Nguyên Mông lần nữa
Đánh Đại Việt phía Nam.

Quân số năm mươi vạn,
Muốn đánh nhanh, thắng nhanh,
Hai đường bộ phía Bắc,
Đường thủy từ Chiêm Thành.

Như lần xâm lược trước,
Lần này quân Nguyên Mông
Thắng trận ở Vạn Kiếp,
Lạng Sơn và sông Hồng.

Sau khi vượt biên giới,
Chưa đầy hai mươi ngày,
Thăng Long bị chúng chiếm.
Tình thế quả rất gay.

Các vua Trần tạm rút
Về Nam Định, Ninh Bình,
Rồi sau theo đường biển,
Lên chốt vùng Quảng Ninh.

Ở phía Nam, quân giặc
Đánh ra từ Chiêm Thành,
Liên tiếp giành thắng lợi
Ở xứ Nghệ, xứ Thanh.

Đây cũng là vùng đất
Mà vua tôi nhà Trần    
Đã rút về chốt giữ,
Đợi thời và yên dân.

Cũng giống như lần trước,
Quân Nguyên gặp khó khăn,
Vì “tiêu thổ kháng chiến”,
Người và ngựa thiếu ăn.

Tinh thần binh sĩ xuống,
Chỉ huy thì nản lòng.
Từ Thanh Hóa lúc ấy
Quân Đại Việt phản công,

Liên tiếp giành thắng lợi
Ở Hàm Tử, Chương Dương.
Thành Thăng Long giải phóng,
Chặn hết các ngả đường.

Quân Nguyên Mông tháo chạy.
Bị chặn ở sông Cầu.
Cánh phía Nam bị diệt
Ở Tây Kết, Khoái Châu.        

Quân Nguyên Mông đại bại,
Lo quân lương, chiến xa,
Đóng thêm nhiều tàu chiến,
Đánh Đại Việt lần ba.

Chúng chia làm ba cánh,
Từ Vân Nam, Quảng Tây
Và Quảng Đông - đường biển -
Hành quân gấp đêm ngày.

Đó là năm tám bảy,
Cuộc chiến cũng không lâu,
Từ tháng Chạp năm ấy
Đến tháng Tư năm sau.

Quân giặc năm mươi vạn,
Quân Trần chỉ hai mươi,
Nhưng ta hơn “địa lợi”
Và hơn cả “nhân thời”.

Lại giống hai lần trước,
Chúng chiếm được Thăng Long,
Nhưng thiếu lương, quân đói,
Binh lính lại nản lòng.

Hơn thế, vì bão biển,
Vì thuyền đi lạc đường,
Trần Khánh Dư lại đánh,
Nên mất hết quân lương.

Quân ta do thế yếu,
Về chốt ở Hải Phòng,
Thường tập kích Vạn Kiếp,
Đánh quân thủy trên sông.

Bị đói, bị chia cắt,
Giặc rút khỏi Thăng Long,
Co cụm ở Vạn Kiếp.
Quân Trần chưa tấn công,

Chúng đã chủ động rút,
Đi qua ngả Cao Bằng.
Còn toàn bộ quân thủy
Bỏ mạng trận Bạch Đằng.

Thế là lại thất bại,
Cả ba lần, vua Nguyên,
Thế tổ Hốt Tất Liệt,
Vẫn còn chưa chịu yên.

Hắn muốn đánh Đại Việt,
Chờ thời, chờ binh tình.
Có lần đã xuất phát,
Tướng chết mà hoãn binh

Năm một hai chín bốn,
Định xuất quân, bất ngờ
Hốt Tất Liệt ốm chết,
Mang mộng ấy xuống mồ.

Môt trang sử chói lọi.
Ba lần thắng Nguyên Mông,
Một đế quốc tự mãn
Luôn thắng Tây, thắng Đông.

Đây là thắng lợi lớn
Của binh sĩ, nhân dân,
Của đức Trần Hưng Đạo
Và của các vua Trần.   

         
TRẦN BÌNH TRỌNG (1259 – 1285)        

Danh tướng Trần Bình Trọng,
Trong kháng chiến lần hai      
Chống Nguyên Mông xâm lược,
Đã đem hết sức tài

Bảo vệ hai chủ tướng
Là Thái Tông, Thánh Tông,
Rồi bị giặc bắt sống,
Son sắt một tấm lòng.   

Lần ấy giặc Mông Cổ
Đem năm mươi vạn quân
Chia làm hai mũi lớn
Cùng tấn công nhà Trần.

Sau trận đầu thất bại,
Tiết chế Hưng Đạo vương
Quyết định phải tạm rút
Về căn cứ Thiên Trường.

Ông giao Trần Bình Trọng
Một nhiệm vụ nặng nề:
Phải chốt giữ Thiên Mạc
Và các khu liền kề,

Để cầm chân quân địch,
Và giúp hai vua Trần
Cùng chỉ huy kháng chiến,
Rút bí mật, an toàn.

Thoát Hoan sai tướng giỏi
Là Khoan Triệt, Lý Hồng,
Đem tinh binh truy đuổi,
Cả đường bộ, đường sông.

Chính ở bãi Thiên Mạc,
Huyện Khoái Châu, Hưng Yên,
Ông đã cầm chân giặc
Dòng dã mấy ngày liền.

Do vậy, giặc mất dấu
Đường rút của vua Trần.
Ta bảo toàn lực lượng
Để phản công khi cần.

Tuy nhiên, trong trận ấy,
Thế giặc mạnh và đông,
Quân ta dần đuối sức,
Giặc bắt sống được ông.

Chúng tìm cách mua chuộc
Để ông khai việc binh.
Ông nhất quyết không chịu,
Còn giục chúng giết mình.

Trần Bình Trọng lần ấy
Để lại cho đời sau
Một câu nói nổi tiếng,
Rằng thà bị chém đầu,

Thà nước Nam làm quỉ
Còn hơn được làm vương
Ở nước giặc phương Bắc.
Một khí phách quật cường.

Biết không thể khuất phục,
Cuối cùng chúng giết ông,
Năm ông hăm sáu tuổi.
Xác quẳng xuống dòng sông.

Dòng dõi Trần Bình Trọng
Là từ Lê Đại Hành,
Sinh Hà Nam, nhưng gốc
Là Thọ Xuân, xứ Thanh.

Ông xuất thân quí tộc.
Sử chỉ nói vợ ông
Là công chúa Thụy Bảo,
Trước có một đời chồng.

Con ông thành hoàng hậu,
Mẹ vua Trần thứ năm,
Tức Minh Tông hoàng đế,
Có đức và có tầm.

Có tài liệu cho biết
Rằng tướng Lê Phụ Trần,
Nhờ có công chống giặc,
Trần Thái Tông ban ân

Bằng cách gả Chiêu Khánh,
Tức vợ vua, cho ông,
Sau sinh Trần Bình Trọng.
Đúng là thật lòng vòng.

Dù con ai chăng nữa,
Thì ông cũng là người
Nêu tấm gương trung liệt
Về lẽ sống ở đời.


TRẦN QUANG KHẢI (1241 – 1294)

Ông là một quí tộc,
Một đại thần nhà Trần,
Làm đến chức Tể tướng,
Đánh quân Nguyên ba lần.

Trần Thái Tông là bố,
Mẹ là Lý Ngọc Oanh.
Trong nhà, ông phải gọi
Trần Thánh Tông là anh.

Một lần, khi còn nhỏ,
Ông ốm nặng, Thái Tông
Để áo bào, gươm báu
Cạnh giường bệnh của ông,

Và nói: “Hãy khỏi bệnh.
Nếu khỏi, ta sẽ trao,
Hai thứ này quí giá -
Gươm báu và áo bào.”

Lần ấy, ông khỏi bệnh,
Quả thật vua cho ông
Chiếc áo ngài đang mặc,
Còn gươm báu thì không.

Trần Quang Khải từ bé
Được phong Chiêu Minh Vương,
Lê Văn Hưu dạy dỗ,
Thông tuệ loại khác thường.

Năm một hai năm tám,
Vua cho cưới Phụng Dương,
Em gái nuôi, sau đó
Ban ấp ở Thiên Trường.

Năm một hai bảy mốt
Ông đã là đại thần,
Chức Tướng quốc Thái úy,
Cao hơn Đức thánh Trần.

Khi quân Nguyên xâm lược,
Ông theo lệnh vua cha, 
Vào Nghệ An trấn giữ
Không cho giặc đánh ra.

Rồi ông lập công lớn
Trận đánh bến Chương Dương.
Vua xếp ông cao nhất
Khi ban thưởng, tuyên dương.

Ông và Trần Hưng Đạo,
Theo sử, có bất hòa.
Điều ấy rất nghiêm trọng
Với hưng vong nước nhà.

Hưng Đạo, như ta biết,
Đã chủ động làm hiền,
Kỳ lưng cho Quang Khải,
Khi ông xuống thăm thuyền.

Sau lần ấy, hai vị
Bỏ thù riêng, cùng nhau
Gắng công lo việc nước,
Hai vị quan hàng đầu.

Trần Quang Khải nổi tiếng
Còn là một thi nhân.
Ông viết khi rỗi rãi,
Đẹp ý, đẹp cả vần.


THƠ TRẦN QUANG KHẢI

Phò giá về kinh đô

Chương Dương, cướp giáo giặc.
Hàm Tử, bắt quân Hồ.
Giang sơn này phải giữ.
Lúc thái bình càng lo.

Tặng sứ bắc Sài Trang Khanh và Lý Chấn Văn

Vâng mệnh thiên triều đến tận đây.
Vua giao đi sứ, chiếu cầm tay.
Quan lớn Bắc triều lưu luyến tiễn.
Dân Nam biết tiếng đã bao ngày.
Nói lời oai phúc thay thiên tử,
Mong tình hai nước nặng từ nay.
Cũng mong các vị lòng nhân đức,
Che chở cho dân của nước này.

Tiễn sứ Bắc Sài Trang Khanh

Tiễn người về nước sáng hôm nay.
Xăm xăm ngựa bước, rợp cờ bay.
Người đi kẻ ở, lòng lưu luyến,
Tần ngần chủ khách, rượu cầm tay.
Mới gặp ngày nào vui xướng hoạ,
Mà giờ ly biệt, nước cùng mây.
Không biết bao giờ còn gặp lại,
Để mong nói rõ tấm lòng này.

Thơ đề ở đền Bạch Mã

Bao đời nổi tiếng rất oai linh,
Nghe nói đến thần, ma quỷ kinh.
Bốn bề lửa cháy, đền không cháy.
Sấm chớp, cuồng phong chẳng giật mình.
Chỉ huy ba vạn quân yêu quái.
Trấn áp trăm nghìn ma quỉ binh.
Mạo muội mong thần xua giặc Bắc,
Để dân Nam Việt sống yên bình.

Bến đò Lưu Gia

Bến cũ Lưu Gia rợp bóng cây.
Xưa theo thuyền ngự đến nơi này.
Sông thu tháp nhỏ nghiêng soi bóng.
Đền hoang mộ cổ lá rơi đầy.
Thái Bình phủ rộng, trăm nghìn dặm.
Giang sơn nhà Lý chục đời nay.
Trở lại, khách thơ đầu đã bạc.
Hoa mai, như tuyết, rụng, đang bay.

Cảm hứng ngày xuân
Bài một

Mưa rơi cây tốt, ướt cành hoa.
Khách thơ đóng cửa ngồi trong nhà.
Một nửa đời xuân đành bỏ phí.
Năm mươi, cũng tự biết mình già.
Mang nặng ân vua, không ở ẩn.
Đêm ngày mong nhớ chốn quê xa.
Dũng khí ngày xưa chưa để mất,
Giờ ngồi uống rượu, xướng thơ ca.

Cảm hứng ngày xuân
Bài hai

Nhàn nhạt trăng khuya, đêm sắp tàn.
Hơi xuân lành lạnh, gió miên man.
Rặng liễu chao mình, hoa khép nụ.
Khóm trúc xạc xào, ngủ bất an.
Nhờ mưa, cây cỏ đang xanh tốt.
Tuổi làm tóc bạc, kém dung nhan.
Giải sầu tạm uống dăm ba chén.
Vỗ kiếm, một mình tựa lan can.

Thơ đề ở nhà nhỏ đồng quê

Nhà nhỏ đồng quê mới dựng xong.
Quanh năm đào lý tỏa hương nồng.
Áo lá nông phu in bãi biếc.
Lầu cao sáo vẳng, ánh trăng lồng.
Khe suối chia đôi bờ đất đỏ.
Đường làng mềm mại uốn cong cong.
Sống ẩn quả đây là lý tưởng.
Gió mát, trăng thanh, sáo mục đồng.

Vườn Phúc Hưng

Phúc Hưng, vùng đất nước bao quanh.
Ta có khu vườn mấy mẫu xanh.
Đình trúc mượt mà như ngọc bích.
Như châu, mai nở trắng trên cành.
Sau mưa, sai trẻ chăm vườn thuốc.
Nắng lên, mời bạn uống trà thanh.
Yên ổn trời Nam, không có giặc.
Gối cao nằm ngủ giấc ngon lành.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét