Truyện Thơ Danh Nhân Việt - 3
TRẠNG
TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585)
Có
một anh chàng nọ,
Nghèo,
chẳng còn gì ăn.
Vợ
chau mày, con đói,
Anh
ta ngồi bần thần.
Bỗng
anh ta chợt nhớ,
Hình
như xưa tổ tiên
Để
lại chiếc ống quyển,
Dặn
lúc nào thiếu tiền
Hay
tiệt hết đường sống,
Gia
cảnh quá bần hàn,
Thì
mở ra, trong đó
Có
bức thư gửi quan.
Chiếc
ống quyển nhỏ bé
Giấu
kỹ trên xà nhà,
Qua
nhiều đời, ám khói
Được
lấy xuống, mở ra.
Bên
trong có thư thật.
Anh
ta mang bức thư
Đến
nhà quan sở tại,
Vẫn
chưa rõ thực hư.
Lúc
ấy quan đang nghỉ,
Nằm
đọc sách trong nhà.
Thấy
báo thư Cụ Trạng,
Liền
vội vàng đi ra.
Quan
vừa đi đến cửa,
Bỗng
nhiên có thanh dầm,
Chắc
lâu ngày bị mọt,
Rơi
đúng chỗ quan nằm.
Quan
hoảng hồn, thoát chết,
Liền
mở thư ra xem.
Thư
có dấu, chữ ký
Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bức
thư ngắn, chỉ viết:
Tôi
cứu ông vừa rồi.
Vậy
xin ông giúp đỡ
Cháu
bảy đời của tôi.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm là Trạng,
Một
thi nhân diệu kỳ,
Một
đại quan chính trực
Và
một nhà tiên tri.
Ông
sinh ở Vĩnh Lại,
Nay
Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Đúng
vào thời thịnh trị
Của
vua Lê Thánh Tông.
Tên
thật Nguyễn Văn Đạt,
Hiệu
Cư Sĩ Bạch Vân,
Mẹ
là Nhữ Thị Thục,
Giỏi
tướng số, thơ văn.
Bà
là con quan lớn,
Khó
tính khi kén chồng,
Mãi
đến lúc luống tuổi
Mới
chịu lấy cha ông,
Tức
là Nguyễn Văn Định,
Tài
năng loại thường thường,
Có
tướng sinh quí tử,
Sau
dễ thành đế vương.
Để
con thành hoàng đế,
Bà
đã bắt bố ông
Mười
hai giờ đêm ấy
Mới
được vào động phòng.
Bố
ông, chắc nóng vội,
Vào
sớm hơn ít nhiều,
Nên
con bà, thật tiếc
Chỉ
đại thần trong triều.
Sau
chuyện ấy, bà giận,
Về
với bố mẹ mình,
Rồi
lấy ông chồng khác,
Rồi
tính giờ, năm sinh,
Bà
sinh được Trạng nữa,
Lại
Lưỡng Quốc Trạng Nguyên,
Trạng
Bùng, Mai Nham Tử,
Phùng
Khắc Khoan, đại hiền.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm từ nhỏ
Được
bà mẹ cầu kỳ
Dạy
đến nơi đến chốn,
Không
sót một môn gì.
Về
sau, khi khôn lớn,
Tìm
thầy tận xứ Thanh,
Lương
Đắc Bằng, bảng nhãn,
Hoàn
thiện sự học hành.
Ông
thầy này uyên bác,
Từng
là quan đại thần,
Sau
từ quan, chán nản,
Về
quê sống thanh bần.
Cậu
trò Bắc học giỏi,
Chăm
chỉ và thông minh,
Được
thầy trước khi chết
Tặng
“Thái Ất Thần Kinh”.
Đó
là cuốn sách quí
Ông
mang từ nước Tàu,
Về
Chu Dịch, bói toán,
Bắt
phải học thuộc làu.
Thời
ấy chính sự loạn,
Nguyễn
Bỉnh Khiêm ở nhà,
Không
bon chen thi thố
Chín
kỳ thi đại khoa.
Khi
nhà Mạc thành lập,
Đời
ít nhiều tạm yên,
Ông
mới ra thi cử,
Lập
tức đậu Trạng nguyên.
Năm
ấy bốn lăm tuổi,
Ông
được bổ làm quan
Đông
Các Đại học sĩ,
Lo
soạn thảo công văn.
Ông
nhanh chóng thăng tiến,
Đến
chức Tả Thị lang
Của
bộ Hình, bộ Lại,
Bạn
của Thái thượng hoàng,
Tức
vua Mạc Thái Tổ.
Tiếc
là ông vua này
Đã
qua đời quá sớm
Để
ấu chúa lên thay.
Chính
sự lại nát bét,
Đói
kém, mất lòng dân.
Ông
dâng sớ đòi chém
Mười
tám tên lộng thần.
Trong
mười tám tên ấy
Có
con rể, Phạm Dao.
Thế
mới biết quan Trạng
Chính
trực đến mức nào.
Vua
không chấp thuận sớ.
Năm
một năm bốn hai,
Sau
tám năm tại vị,
Ông
về với trúc mai.
Nhưng
hai năm sau đó
Vua
Mạc lại mời ông
Làm
Thượng thư bộ Lại,
Tước
hiệu Trình Quốc công.
Cũng
nhờ tước hiệu ấy
Ông
trở thành Trạng Trình.
Một
đại thần hòa nhã,
Liêm
khiết và công minh.
Bảy
ba tuổi, từ chức,
Ông
dựng Am Bạch Vân,
Tức
là Lều Mây Trắng,
Rồi
xây Quán Trung Tân.
Thỉnh
thoảng vua có việc
Lại
đón ông vào kinh.
Các
quyết định quan trọng
Đều
hỏi ý Trạng Trình.
Ông
mở lớp dạy học
Bên
bờ sông Tuyết Giang.
Nhiều
học trò vinh hiển,
Thành
một danh sách vàng.
Vào
cuối năm Ất Dậu,
Tức
một năm tám năm,
Ông
qua đời lặng lẽ
Ở
tuổi đời chín lăm.
Đích
thân Mạc Đôn Nhượng
Cùng
các quan đại thần
Về
quê ông cúng viếng
Để
bày tỏ tình thân.
Vừa
là nhà chính trị,
Nhà
tiên tri đại tài,
Ông
là nhà thơ lớn,
Sáng
tác khoảng nghìn bài.
Cả
chữ Nôm, chữ Hán,
Thơ
ông thật trữ tình,
Về
thiên nhiên, sông nước,
Về
thế thái, nhân tình.
Về
số, ông là nhất
Trong
năm trăm năm thơ.
Về
chất, cũng loại nhất,
Đọc,
không thể hững hờ.
Tuy
nhiên, phải thừa nhận
Ông
nổi tiếng ở đời
Nhờ
những bài sấm ký
Về
sự việc, về người.
Thật
lạ, nhiều tiên đoán
Lại
rất đúng sau này,
Như
việc quân Pháp phá
“Tan
tành Cổ Am Mây.”
Hay
việc ông đoán đúng
Thế
chiến lần thứ hai.
“Diễn
ra năm Thân - Dậu”,
Tàn
khốc và kéo dài.
Năm
một năm sáu tám,
Nghe
lời khuyên của ông
Mà
Nguyễn Hoàng yên chí
Vào
lập nghiệp Đằng Trong.
Ở
Thăng Long, Trịnh Kiểm
Muốn
bỏ Lê, lên ngôi,
“Thờ
Phật thì ăn oản”,
Ông
nói thế, đành thôi.
Trước
khi mất, nhà Mạc
Đến
hỏi kế dài lâu.
Đáp:
Đất Cao Bằng nhỏ,
Nhưng
lợi thế về sau.
Nhờ
thế mà nhà Mạc
Đã
chọn vùng đất này
Lập
căn cứ, lánh nạn,
Tồn
tại thêm nhiều ngày.
TRUYỀN
THUYẾT VỀ TRẠNG TRÌNH
Có
không ít truyền thuyết
Về
Trạng Trình xưa nay.
Nhân
tiện xin được kể
Thêm
một chuyện thế này.
Hồi
học ở Thanh Hóa
Với
Bảng nhãn họ Lương,
Ông
được thầy rất quí
Vì
thông minh khác thường.
Đến
mức trước khi chết
Thầy
truyền lại cho ông
Cuốn
“Thái Ất” quí giá
Mà
thầy đã thuộc lòng.
Cuốn
sách rất khó hiểu
Do
đạo sĩ Triệu Nga
Rất
nổi tiếng Đời Tống
Đúc
kết rồi soạn ra.
Thầy
có người cùng họ
Làm
quan, sống bên Tàu,
Tên
là Lương Nhữ Hốt,
Chỗ
thân tình từ lâu.
Một
lần thầy đi sứ,
Sang
gặp lại người này.
Ông
cho thầy cuốn sách,
Lưu
giữ đến hôm nay.
Thực
ra cuốn sách ấy,
Dẫu
uyên bác, thông minh,
Bỉnh
Khiêm chưa hiểu lắm,
Nhưng
luôn giữ bên mình.
Lại
nói, rời Thanh Hóa,
Đời
loạn, chưa muốn thi,
Ông
theo một hảo hán
Tên
là Lý Hưng Chi.
Có
lần, khi phiêu bạt,
Cùng
vị hảo hán này
Ông
vượt qua biên giới,
Sống
tạm giữa rừng cây.
Một
sáng nọ, tỉnh dậy,
Ông
thấy một ông già
Dáng
dị thường, quắc thước,
Cứ
lởn vởn quanh nhà.
Ông
già ấy, thật lạ,
Cứ
nhìn ông chằm chằm,
Tay mân mê bối rối
Chiếc
gậy trúc đang cầm,
Nguyễn
Bỉnh Khiêm ra hỏi.
Ông
đáp: Đi ngang qua
Thấy
có luồng khí lạ
Bốc
lên từ mái nhà.
Và
rằng ông vất vả
Tìm
kiếm khắp đó đây
Một
cuốn sách rất quí,
Tìm
đã hai năm nay.
Khi
ông già được hỏi
Cuốn
sách đó là gì,
Ông
đáp: Đó là cuốn
“Thái
Ất Kinh tiên tri”.
Rằng
thầy tôi ngày trước
Đem
tặng nó một người
Là
sứ thần Đại Việt,
Rồi
người ấy qua đời
Trao
nó cho môn đệ.
Giờ
tôi tìm người này.
Vì
thấy có khí lạ,
Nên
tôi đã đến đây.
Người
ấy có cuốn sách,
Nhưng
cũng chẳng làm gì
Khi
không có lời giải
Để
hiểu lời tiên tri.
Tôi
thì có lời giải,
Thầy
trao khi qua đời.
Khi
tìm được cuốn sách,
Sẽ
có ích hai người.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm nghe thế,
Liền
lẳng lặng vào nhà,
Lấy
cuốn sách “Thái Ất”,
Hai
tay đưa ông già.
Ông
già nhìn thấy nó,
Sụp
xuống lạy rất lâu.
Rồi
ông chăm chú đọc,
Đọc
và giảng từng câu.
Hai
người đọc, bàn luận
Bảy
ngày bảy đêm dài.
Đọc
và hiểu mọi chuyện
Quá
khứ và tương lai.
Rồi
cả hai vội vã,
Chia
tay, người một nơi
Sợ
hãi vì phạm thượng
Do
hiểu được ý trời.
Ông
già lên phương Bắc.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm một mình
Về
nước, thi, đỗ trạng,
Rồi
sau thành Trạng Trình.
Có
một anh trò giỏi
Đến
thăm thầy Trạng Trình.
Hôm
ấy ba mươi Tết,
Ông
đang ở làng mình.
Hai
người đang bàn luận
Về
tướng số, tử vi,
Về
nhân tình thế thái,
Về
sấm ký, tiên tri.
Bỗng
ngoài cổng ai đó
Bảo
có việc muốn nhờ.
Ông
sai anh đầy tớ
Bảo
người ấy hẵng chờ.
Rồi
thầy trò nhà Trạng
Cùng
bấm quẻ tử vi
Để
đoán biết người ấy
Sang
đây để làm gì.
Cả
hai người bốc quẻ,
Trúng
“thiết đoản, mộc trường”.
Tức
“gỗ dài, sắt ngắn.”
Một
quẻ rất bình thường.
“Theo
con, người ấy đến
Để
hỏi mượn chiếc mai.
Chiếc
mai lưỡi sắt ngắn,
Mà
cán gỗ lại dài.”
Quan
Trạng nghe, liền đáp:
“Theo
ý thầy, ông này.
Đến
để mượn chiếc búa.
Mời
ông ta vào đây.”
Và
rồi ông hàng xóm
Bước
vào, chào hai người,
Hỏi
mượn tạm chiếc búa,
Lúc
ra về, mỉm cười.
Thấy
học trò ngơ ngác,
Thầy
Trạng nói ôn tồn:
“Con
bấm quẻ rất khá,
Ta
có lời khen con.
Nhưng
đúng quẻ chưa đủ,
Còn
phải đoán, phải suy.
Hôm
nay ba mươi Tết,
Hỏi
mượn mai làm gì?
Phải
chăng là mượn búa?
Cũng
“thiết đoản, mộc trường.”
Để
bổ củi, nấu bánh,
Đơn
giản và bình thường.
THƠ
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Cảnh mùa hè
Ngày
dài, cửa thoáng, quán Trung Tân.
Hương
sen theo gió tỏa xa gần.
Lai
láng tình thơ ai hiểu hết.
Trên
lầu chiều xế, tiếng ve ngân.
Tự thuật
Tuổi
vừa bẩy chục, đã từ quan,
Về
nơi núi cũ sống an nhàn.
Ngủ
đến mặt trời cao mới dậy.
Đã
chắc Thanh Vân hơn Bạch Vân?
Ngụ hứng
Chọn
đất dựng nhà cạnh suối trong.
An
nhàn vui thú với non sông.
Sáng
dạo vườn rau, sương dính dép.
Đêm
chơi xóm lưới ánh trăng lồng.
Lui,
tiến, chơi cờ luôn tính trước.
Buông,
giật, đi câu cũng bận lòng.
Lầu
son xin khách đàn khe khẽ,
Kẻo
nhỡ làm ta tỉnh giấc nồng.
Tự thuật
Bao
người tráng kiệt thế xưa nay,
Cũng
đành tạm náu lúc không may.
Ta
xưa là khách nơi lầu tía,
Giờ
bạn non sông ở chốn này.
Có
đủ mùa xuân, hoa với lá,
Có
đàn, có rượu, uống kỳ say.
Một
mình đứng ngắm hoàng hôn tắt.
Mặc
gió đầu trần thổi tóc bay.
Ngẫu hứng
Thấm
thoắt đã già, hơn sáu mươi.
Tự
thấy mình ngông, những ngậm cười.
Ham
muốn làm quan giờ chẳng có.
Quán
nhà, hết ngủ lại ngồi chơi.
Thanh
thản ngắm hoa, nghe chim hót.
Uống
rượu ngâm thơ, hưởng thú đời.
Kìa
sáo nhà ai ngoài xóm vắng.
Chiều
xế, ngà ngà, gió lả lơi.
Ngụ hứng quán Trung Tân
Nhà
vắng không vương chút bụi trần.
Dòng
sông lờ lững chảy kề sân.
Thuyền
cá chiều chiều vào ghé đậu.
Hương
thơm rau quế khách xa gần.
Mừng
được tạm yên thời loạn lạc.
Thẹn
chẳng có tài để cứu dân.
Nhàn
nhã ngồi chơi, nhờ ngọn gió
Đưa
vào cốc rượu chút mùa xuân.
Cảm hứng
Ai
người có thể cứu muôn dân
Bị
giặc xâm lăng, đợi chết dần?
Hại
cả con trâu và ngọn núi,
Bừa
bãi bắt giam, luật bất cần.
Mòn
mỏi dân mong người dẹp loạn,
Mà
đời chẳng có tướng cầm quân.
Lại
đúng vào khi đang nạn đói,
Biết
tìm đâu nổi chốn nương thân?
Tức sự
Bên
khe, ao nhỏ với vườn cây.
Đường
rợp bóng xanh, lá phủ dày.
Trời
quang, nắng dịu, hoa đua nở.
Trúc
xanh, khe lạnh nước in mây.
Cơm
áo vợ nghèo lo chu đáo.
Khách
tục không ai đến quấy rầy.
Ta
già, mắc bệnh mê thơ phú,
Lại
chỉ mây, trăng, gió suốt ngày.
Tỏ nỗi lòng trong dịp Nguyên Đán
Thấm
thoắt tuổi đời đã sáu mươi.
Bệnh
tật thi nhau đến hại người.
Thương
xuân, gượng uống vài ly rượu.
Chỉ
tiếc không sao giúp được đời.
Lẩn
thẩn quay ra chê vợ vụng,
Trách
con hư hỏng, lại chây lười.
Còn
thêm cái tội chê thơ bạn
Những
lúc thanh nhàn bạn đến chơi.
Cảm ơn người bạn từ Cao Xá tới thăm khi ốm
Nhớ
tình huynh đệ giữa hai ta,
Thăm
tôi, bác đến tự làng xa.
Thương
bác cảnh nghèo thời loạn lạc.
Lo
mình tự mãn giữa xa hoa.
Giữa
bác và tôi chung ngọn gió,
Chung
ánh trăng khuya, giọt nắng tà.
Nếu
đời giữ được văn và đạo,
Thì
rồi cái khổ cũng trôi qua.
Đầu năm xúc cảm, làm bài thơ này
Đã
bảy mươi tư cái tuổi già.
Thầm
mừng về lại đất ông cha.
Năm
mới nhìn quanh, tìm cái mới.
Giàu
sang chỉ có sách trong nhà.
Nhà
trống trăng soi qua cửa sổ.
Bốn
mùa trúc mọc tốt, xen hoa.
Ai
đúng, ai sai, thôi chẳng nói.
Nhưng
quả ngông, lười, đích thực ta.
Từ quan, gửi thượng thư bộ lại Kế Khê Bá
Đếm
tuổi, bây giờ quá bẩy mươi.
Hơi
muộn từ quan, thẹn với đời.
Không
tham vàng bạc, không ham chức.
Tiếc
không tài giỏi được như người.
Mong
ông gắng sức phò vua, nước.
Riêng
tôi sống ẩn, cứ chê cười.
Cùng
ngước nhìn lên, sao Lão Thọ
Đang
chiếu trời Nam,
sáng khắp trời.
Nỗi lòng người vợ có chồng nơi biên ải
Ngoài
vườn gió lạnh thổi từng cơn.
Thiếu
phụ phòng khuê ngủ chập chờn.
Lặng
lẽ thấm qua màn, cái lạnh
Càng
làm tê tái nỗi cô đơn.
Chồng
xa biền biệt ngoài biên ải,
Không
tiếc sức mình, tính thiệt hơn.
Tí
tách sau nhà, mưa nặng hạt.
Thủ
thỉ bên tai tiếng giận hờn.
Ở làng, viết tiễn các bạn cùng chí hướng
Vẫn
được ân vua, dẫu bất tài.
Nhàn
nhã bên trong, bận vẻ ngoài.
Học
vấn còn thua bao kẻ sĩ.
Danh
hờ vọng hão bị chê bai.
Người
khác vẻ vang cùng bạn hữu,
Còn
ta vui thú với tùng mai.
Mây
xanh không cao bằng mây trắng,
Khỏi
bàn ai đúng hoặc ai sai.
Đêm cuối năm, tức sự
Năm
mới đến rồi, năm cũ qua.
Rõ
thật thờ ơ cái tuổi già.
Thiên
nhiên không của riêng ai cả.
Đất
trời bất tận lá và hoa.
Hai
phen từng đã phò xe chúa.
Nhiều
lần việc nước vẫn đi xa.
Năm
năm được sống cùng sông núi -
Quả
trời ban thưởng lớn cho ta.
HUYỀN QUANG LÝ ĐẠO TÁI (1254 – 1334)
Huyền Quang Lý Đạo Tái
Là bậc đại thiền minh,
Người Vạn Tải, Nam Sách,
Huyện Gia Bình, Bắc Ninh.
Gia đình ông nghèo khổ,
Bị họ hàng chê cười,
Nên bố mẹ quyết chí
Làm ăn ở đất người.
Ông không được đi học,
Thường lên chùa đứng rình
Để nghe lỏm, học mót,
Mà thuộc chữ, làu kinh.
Lúc ông hai mươi tuổi,
Năm một hai bảy hai,
Đỗ Trạng Nguyên, đầu bảng,
Nổi tiếng về văn tài.
Sau đó ông được bổ
Làm trong viện Nội hàn,
Soạn văn, tiếp sứ Bắc,
Rồi treo áo từ quan.
Vua trọng tài, đức độ,
Gả con gái cho ông,
Nhưng ông muốn thoát tục
Nên cúi bẩm, xin không.
Ông qui y, theo Phật,
Tu ở chùa Hoa Yên
Ở vùng núi Yên Tử,
Nhanh chóng thành sư thiền.
Trước đấy, như ta biết,
Đức vua Trần Nhân Tông
Lên Yên Tử tu luyện,
Lập Trúc Lâm Thiền tông.
Năm một ba không tám
Ngài viên tịch, Pháp Loa
Nhận từ ngài y bát
Của dòng Thiền nước nhà.
Năm một ba một bảy,
Lúc viên tịch, Pháp Loa
Truyền cho ông y bát,
Thành vị Tổ thứ ba.
Vua Anh Tông, lần nọ,
Đã dùng kế mỹ nhân
Để thử thách đạo hạnh
Của Huyền Quang người trần.
Tất nhiên vua thất bại,
Lòng hối hận, đức vua
Bắt mình phải vất vả
Leo lên núi, vào chùa
Xin lỗi Ngài, sau đó
Phong Ngài làm quốc sư,
Một trí tuệ sáng láng,
Một cõi tâm nhân từ.
Năm một ba ba bốn,
Ở tuổi đời tám mươi,
Ngài viên tịch, để lại
Một tấm gương cho đời.
Huyền Quang Lý Đạo Tái
Còn là một thi nhân
Tinh tế và sâu sắc
Về cõi Phật, đời trần.
May mắn còn giữ được
Một số bài của ông
Mà khi đọc không thể
Không xao xuyến nỗi lòng.
THƠ HUYỀN QUANG LÝ ĐẠO TÁI
Tức
cảnh ngày xuân
Người đẹp ngồi thêu dải gấm dày.
Dưới cành hoa đỏ, cánh chim bay.
Thương biết bao nhiêu xuân ý ấy,
Khi nàng tư lự chợt ngừng tay.
Trong
thuyền
Một lá thuyền con, một khách chèo,
Ra khỏi mé rừng, gió đuổi theo.
Hoàng hôn, nước lớn, con chim trắng,
Hòa lẫn sông trong với nắng chiều.
Nhà
đá
Nửa gian nhà đá lẫn trong mây.
Áo ấm mùa đông cũng đủ dày.
Sách kinh trên án, sư trên chiếu.
Mặt trời đã quá mấy tầm cây.
Họa
bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh
Cỏ vàng, khói nhạt, sóng lăn tăn.
Quán Bắc, lầu Nam nắng tắt dần.
Tiếc thơ không hứng, xuân không chủ,
Mấy bụi hoa buồn trước gió xuân.
Ngủ
trưa
Sau mưa khe núi sạch, ban ngày
Ngủ một giấc dài dưới bóng cây.
Tỉnh dậy nhìn đời đầy bụi bặm,
Mà tưởng như mình đang lúc say.
Trước
bếp lò, tức cảnh
Hương tắt từ lâu, củi đã tàn.
Tay cầm ống thổi, quạt hoa nan.
Trẻ con hỏi chữ, vu vơ đáp.
Ai chê ta biếng, quá an nhàn?
Ngủ
ngày
Tự mình cày cấy ruộng ông cha.
Cây cao bóng rợp mát quanh nhà.
Con chim ngoài cửa thôi không hót.
Đánh một giấc dài bên khóm hoa.
Nhà
trong núi
Xao xuyến hương thu chạm bức rèm.
Nhà gối rừng cây tựa gối mềm.
Lòng ta yên tĩnh như sông núi.
Sao dế ngoài vườn khóc suốt đêm?
Chơi
thuyền
Gặp gió, thuyền con lướt giữa dòng.
Sông xanh, núi biếc, trời mênh mông.
Tiếng sáo làng chài sau bãi sậy.
Vô ý, trăng chiều rơi đáy sông.
Đề
núi non bộ của thí chủ ở Động Hiên
Cũng núi nhấp nhô, cũng cỏ cây.
Trăng lồng khói lạnh, cánh hoa bay.
Bây giờ tục lụy thôi vương vấn,
Giấc ngủ an nhàn trong gió mây.
Gửi
những người trẻ tuổi
đang
tấp tểnh muốn làm quan
Giàu sang khó bắt giống như mây.
Thời gian như nước, ngày qua ngày.
Sao không về ẩn nơi rừng núi,
Rừng thông là chiếu, gối là mây?
Thơ
đề chùa Đạm Thủy
Bên chùa cây cỏ tốt, xanh tươi.
Chiều xế, trời quang, vắng bóng người.
Nhân tiện đi ngang vào Đạm Thủy,
Giúp chùa chuông mõ, nhặt hoa rơi.
Thu
sớm
Đêm thu, hơi mát lọt qua mành.
Lá cây khẽ chạm mái nhà tranh.
Quên mất trong nhà hương đã lụi.
Ngoài vườn trăng kẹt tán cây xanh.
Hoa
cúc
Quên cả chính mình, quên nhớ thương,
Ngồi lặng đìu hiu, lạnh mép giường.
Không lịch, trong rừng nhìn cúc nở,
Giật mình mới biết đã Trùng Dương.
Thơ
đề am núi Yên Tử
Am thiền cao chót vót.
Cửa mở trên tầng mây.
Động Rồng, mặt trời chiếu.
Khe Hổ, băng còn dày.
Vụng về, không mưu chước,
Gầy yếu, gậy cầm tay.
Rừng trúc nhiều chim đậu,
Quá nửa bạn sư thầy.
THÁI
THUẬN TIÊN SINH (1441 - ?)
Huyện
Kim Hoa ngày ấy
Có
một nàng rất xinh,
Thơ
văn hay, chữ tốt,
Vợ
của Phù Tiên sinh.
Nàng
xuất thân danh giá,
Dẫu
có lúc bần hàn,
Được
học hành tử tế,
Tên
là Ngô Chi Lan.
Lê
Thánh Tông nghe tiếng,
Bèn
cho mời vào triều
Giúp
dạy các cung nữ,
Ban
ân huệ rất nhiều.
Mỗi
lần vua mở yến,
Nàng
được phép đứng chầu.
Vua
xướng thơ, lập tức
Nàng
họa lại từng câu.
Không
may, bốn mươi tuổi,
Nàng
lâm bệnh qua đời,
Mộ
táng bên bãi cạn,
Để
tiếng tốt cho đời.
Cuối
đời Lê Uy Mục,
Có
một anh học trò
Tên
Tử Biên, ăn học
Lâu
ngày ở kinh đô.
Một
hôm, nhớ bố mẹ,
Về
Thái Nguyên thăm nhà,
Chàng
bỗng gặp mưa lớn
Khi
đến huyện Kim Hoa.
Giữa
đồng không mông quạnh,
Bốn
bề trời tối đen,
Bỗng
xa xa le lói,
Mờ
ảo một ánh đèn.
Chàng
lại gần và thấy
Một
ngôi nhà lợp tranh
Gọn
gàng và ấm cúng,
Cây
rậm rạp xung quanh.
Chàng
muốn vào trú tạm,
Người
gác cổng không cho.
Nhìn
vào trong, chàng thấy
Hai
người đang chuyện trò.
Đó
là một mệnh phụ
Đài
các, đẹp như tiên,
Và
một ông đứng tuổi
Đang
cầm sách ngồi bên.
Bất
chợt, mệnh phụ nói:
“Trời
mưa gió thế này,
Người
ta xin vào trú,
Sao
không cho vào ngay!”
Chàng
Tử Biên lặng lẽ
Theo
người hầu vào trong,
Ngồi
nghỉ trên nền cứng
Của
chái nhà phía đông.
Khoảng
canh hai, bất chợt
Chàng
thấy một ông già
Đẹp
lão và quắc thước
Cưỡi
trên một con la.
Con
la ấy màu tía,
Tấm
vải phủ màu hồng.
Còn
râu ông và tóc
Trắng
và mịn như bông.
Hai
người kia ra đón:
“Thật
phiền Thái Tiên sinh!”
Khách
đáp: “Muốn đàm đạo
Phải
có tâm và tình.”
Rồi
cả chủ và khách
Cùng
nói chuyện văn chương,
Hết
bài này bài khác,
Vui,
say mê khác thường.
Bất
chợt, ông khách nói:
“Hình
như đang có người
Lén
nghe ta đàm đạo.”
Mệnh
phụ chủ nhà cười:
“Bàn
chuyện văn là tốt,
Nghe
lén cũng chẳng sao.
Vậy
mời anh bạn trẻ
Muốn
nghe thì cứ vào!”
Chàng
Tử Biên cả sợ,
Nhưng
cũng ghé ngồi nghe,
Cúi
lạy, xin các vị
Chỉ
giáo cho đôi bề.
Thái
Tiên sinh lẳng lặng
Lấy
đâu đó trong người
Một
tập giấy bọc vải,
Đưa
cho chàng, mỉm cười:
“Về
thơ văn, tốt nhất,
Con
hãy đọc tập này.
Khỏi
cần tìm đâu nữa,
Mọi
cái đều ở đây.”
Rồi
cả chủ và khách
Cúi
chào nhau, chia tay.
Chàng
Tử Biên chợt tỉnh
Khi
trời mới rạng ngày.
Chàng
giật mình, kinh hãi
Thấy
đang nằm giữa đồng
Cạnh
hai ngôi mộ cũ
Bên
bờ một dòng sông.
Kinh
ngạc hơn: cuộn giấy
Ông
khách đưa cho chàng
Đang
nằm kia, gần cạnh,
Rực
rỡ dưới nắng vàng.
Chàng
liền mở, chỉ thấy
Bốn
chữ đẹp tuyệt vời
Là
“Lã Đường Thi Tập”,
Nét
mực vẫn còn tươi.
Về
sau, chàng dò hỏi
Biết
đôi mộ ngoài đồng
Là
mộ của mệnh phụ
Ngô
Chi Lan và chồng.
Còn
Lã Đường thi sĩ
Là
bút hiệu xưa nay
Của
nhà thơ Thái Thuận,
Một
cây bút bậc thầy.
Sinh
một bốn bốn mốt,
Mất
chưa rõ, bình sinh
Ông
người xã Song Liễu,
Huyện
Thuận Thành, Bắc Ninh.
Năm
Hồng Đức thứ sáu,
Tức
một bốn bảy lăm,
Ông
thi đậu tiến sĩ
Rồi
làm quan nhiều năm.
Thái
Thuận là sao sáng
Trong
Hội Thơ thời ông -
“Tao
Đàn phó nguyên súy”,
Chỉ
sau Lê Thánh Tông.
Thơ
ông sâu và nhã,
Nghe
nói hàng nghìn bài,
Không
may thất lạc hết,
Mai
một một danh tài.
Được
thi nhân gợi ý,
Tử
Biên về làng ông
Tìm
“Lã Đường Thi Tập”,
Thoạt
nhìn mà đau lòng.
Mối
mọt ăn gần hết
Rời
rạc mấy trăm trang.
Chỗ
đọc được, chỗ mất,
Vất
vả mãi, rồi chàng
Chép
lại được trọn vẹn
Cũng
vài trăm bài thơ.
Đời
sau dùng bản ấy
Truyền
mãi đến bây giờ.
Câu
chuyện này tôi kể
Lấy
trong cuốn Truyền Kỳ
Của
tác giả Nguyễn Dữ,
Có
thật mà ly kỳ.
Nhân
đây cũng xin nói,
Thái
Thuận trong truyện này
Là
cụ tổ đáng kính
Của
họ Thái ngày nay.
Tôi
là một hậu duệ
Cũng
đến mấy chục đời.
Gia
phả họ ghi rõ
Từng
tên làng, tên người.
Hiện
tôi may có được
Cuốn
Thi Tập của Ngài,
Và
lạm phép tạm dịch
Khoảng
sáu bảy chục bài.
Thích
thì mời các vị
Vào
đọc thơ Cụ tôi
Trong
“Cổ Thi Tác Dịch”,
In
cũng mấy năm rồi.
Cái
hay và cái đẹp
Nhường
cụ Thái tiên sinh.
Còn
cái dở, cái chán
Tôi
xin nhận về mình.
THƠ
THÁI THUẬN
Bến Hoàng Giang
Hoàng
Giang, thuyền ghé bến.
Nhà
tranh khói bập bồng.
Trẻ
con, ba bốn đứa
Tìm
bắt cáy ven sông.
Oán mùa xuân ở Tây Hồ
Đêm
đêm thấm lạnh ánh trăng tà.
Không
thuộc nhà nào, xuân cứ qua.
Cuộc
vui đã hết, buồn ngơ ngác,
Buồn
không ai đến hỏi mua hoa.
Nhìn khói xuân buổi sáng sớm
Nguyệt
lặn, xa xa hửng sáng dần.
Hoa
lồng bóng nguyệt múa ngoài sân.
Theo
mặt trời lên, trăng xạm tối,
Trao
hàng liễu biếc cái sầu xuân.
Làng ven núi
Mưa
tạnh, đường làng ngập xác hoa.
Nhao
nhác quạ bay giữa nắng tà.
Ông
lão bạc đầu hờ hững quét
Cánh
đỏ cánh vàng chẳng xót xa.
Chiều muộn bên sông
Bãi
sông, nhân nước ngập,
Nhà
nông tranh thủ cày,
Giục
trâu đi, cò trắng
Giật
mình, nháo nhác bay.
Buổi sáng, xuất phát sớm từ làng ven sông
Xóm
chài gà gáy rộn đâu đây.
Trăng
mờ khói nước phía trời tây.
Gió
thổi bờ lau, thu vạn dặm.
Mờ
mờ bãi cát cánh chim bay.
Đêm xuân
Trăng
chiếu qua rèm, trắng lẫn đen.
Không
người dệt gấm để hàn huyên.
Chợt
tỉnh, như nghe ai khẽ gọi.
Sau
bụi cúc vàng, tiếng đỗ quyên.
Xóm nhỏ ven sông
Trên
sông triều rút, lộ cát lầy.
Từng
đàn chim trắng rủ nhau bay.
Một
chiếc áo tơi che khói lạnh.
Trên
trời gió thổi, cuốn sông mây.
Đầu xuân
Năm
cũ hết rồi, sương mới tan.
Đào
chưa ra nụ, liễu yếu tàn.
Đa
tình đám cỏ ngoài sân vắng
Đã
kịp xanh rờn, chạy trước xuân.
Đề thơ ở đình Bến Chiền
Bụi
đời chưa sạch, sáng hôm nay
Nhàn,
buộc thuyền thơ ở bến này.
Núi
sông cảnh đẹp lên thăm thú.
Chắc
gì có dịp lại về đây!
Sáng sớm, đi Đông Triều
Gà
còn chưa báo sáng,
Thuyền
đã đi, lúc này
Triều
đang lên, nước đục,
Nhợt
nhạt mảnh trăng gầy.
Gió
lạnh thổi ngoài bãi.
Bến
cá chìm trong mây.
Khúc
Thương Lang ai hát,
Chim
giật mình trên cây.
Đi sớm
Ra
đi trời chưa sáng,
Trăng
gặp người trên sông.
Ảo
mờ như trong mộng.
Mây
là là trên đồng.
Trước
hoa, đỗ quyên hót.
Đo
đỏ đèn bãi nông.
Đi
qua hết chợ cũ
Mới
nghe chuông chùa Bồng.
Đêm thu ở Tràng An
Tiếng
chày đập vải vọng từ đâu.
Một
mình quán trọ giữa thu thâu.
Khí
mát đầy sân, cơn gió thổi.
Lạnh
lẽo trăng soi nửa gác lầu.
Tù
và rền rĩ trên thành vắng.
Dế
khóc buồn buồn ngoài bãi dâu.
Trăm
mối cảm thương không nén được.
Chỉ
sợ sáng mai bạc trắng đầu.
Quán khách đêm thu
Nhà
tranh che khuất vệt sao mờ.
Tiếng
dế kêu hoài, buồn vẩn vơ.
Lá
rụng một sân, thu sắp hết.
Nửa
gối gió lùa, tỉnh giấc mơ.
Kẻ
Bắc người Nam, nhiều nước mắt.
Trời
đất xưa nay luôn hững hờ.
Bao
bận tương tư, thi hứng tắt.
Cảm
hoài, quán khách chẳng thành thơ.
Thơ đề ở chùa Phổ Lại
Núi
đến đây gặp suối.
Núi
chạy từ phía đông.
Tiếng
chuông xuôi về biển.
Trăng
thu soi xuống sông.
Rồng
ngâm nước ngoài bãi.
Cò
đứng ngủ bên song.
Thỉnh
thoảng sư thức giấc
Vì
tiếng sáo ngư ông.
Phòng khuê đêm thu
Canh
năm chuông điểm, ánh trăng mờ.
Mưa
gió xen vào cả giấc mơ.
Gối
lẻ, đèn tàn, thu lạnh lẽo,
Cái
buồn ly biệt gửi vào thơ
Không
dám lên lầu trông mỏi mắt.
Phong
thư đã viết vẫn nằm chờ.
Ngàn
vạn đóa hoa, tươi lại héo.
Gió
lạnh sen tàn, cọng xác xơ.
NGƯỜI
VIỆT NAM XÂY TỬ CẤM THÀNH Ở BẮC KINH
Không
phải ai cũng biết
Một
người Việt chúng ta
Xây
Cố Cung hoa lệ
Cho
vua chúa Trung Hoa.
Hơn
thế, người Việt ấy
Vốn
là một hoạn quan,
Sử
sách ít nhắc đến.
Người
đó là Nguyễn An.
Là
kiến trúc sư trưởng
Xây
khu Tử Cấm Thành,
Một
nhà đại trị thủy,
Thế
mà chẳng lưu danh.
Mãi
các nhà sử học
Mới
biết ông gần đây.
Hình
như sử Trung Quốc
Cố
tình quên chuyện này.
Nguyễn
An là thợ giỏi,
Quê
ở vùng Hà Đông,
Một
làng nghề nào đó,
Làng
mộc hoặc làng đồng.
Khi
mới mười sáu tuổi,
Ông
đã theo người thân
Vào
xây hoặc tu sửa
Các
cung vua nhà Trần.
Năm
một bốn không bảy,
Khi
diệt xong nhà Hồ,
Quân
Minh mang về nước
Nhiều
trai Việt khôi ngô.
Sau
đó họ bị thiến
Để
trở thành hoạn quan.
Trong
số những người ấy
Có
chàng trai Nguyễn An.
Thấy
ông giỏi tính toán,
Có
biệt tài xây nhà,
Lại
liêm khiết hiếm thấy,
Nên
vua nước Trung Hoa,
Lúc
ấy là Thành Tổ,
Đặc
biệt rất tin dùng.
Vua
giao ông phụ trách
Việc
xây khu Cố Cung.
Lúc
ấy ông còn trẻ,
Mới
ba mươi tuổi đời,
Được
toàn quyền sai khiến
Khoảng
mười tám vạn người.
Kể
từ khâu thiết kế,
Lo
vật liệu, thi công,
Đến
hoàn thiện mỹ thuật,
Việc
gì cũng do ông.
Phải
là người nhân cách
Và
tài năng cực kỳ
Mới
làm nổi điều ấy,
Tránh
được lời thị phi.
Một
công trình tốn kém
Suốt
hàng chục năm ròng,
Khó
khăn và vất vả,
Cuối
cùng cũng làm xong.
Nguyễn
An được vua thưởng
Năm
mươi lạng vàng nguyên,
Thêm
một trăm lạng bạc
Và
một vạn quan tiền.
Chưa
kể tám tấn thóc
Và
bài vị, sắc phong...
Tất
cả để ghi nhận
Công
và tài của ông.
Có
một con sông lớn
Tên
là sông Hoàng Hà,
Thường
xuyên gây lũ lụt.
Ngẫm
mà lòng xót xa.
Vua
nhà Minh lần nữa
Phải
nhờ ông ra tay,
Đem
tài năng xuất chúng
Trị
thủy con sông này.
Đích
thân ông gia cố
Các
công trình thủy nông.
Phu
phen hàng chục vạn
Răm
rắp nghe lời ông.
Sau
đó ông lại “trị”
Con
sông dữ Tắc Dương,
Sông
Trạch Chư, Trương Thụ,
Nơi
ông chết dọc đường.
Nguyễn
An là gương sáng
Về
làm việc hết mình,
Về
tài năng, đức độ,
Liêm
khiết và công minh.
Trên
đường đến xây dựng
Đê
đập ở Sơn Đông,
Ông
chết, có trăn trối
Đừng
xây lăng cho ông,
Mà
dùng số tiền ấy
Cho
dân chúng trong vùng,
Người
không may gặp lụt,
Rơi
vào cảnh khốn cùng.
Nhân
tiện xin nhắc đến
Những
người như Nguyễn An,
Các
chàng trai Đại Việt
Bị
biến thành hoạn quan.
Phạm
Hoằng, một thợ giỏi,
Vua
Anh Tông nhà Minh
Sai
xây Vĩnh An Tự
Tây
Nam thành Bắc Kinh.
Đó
là một chùa lớn,
Vua
hài lòng, gọi ông
Là
“Bồng Lai Cát Sĩ”,
Cho
khắc tên ghi công.
Thêm
một người khác nữa,
Có
tên là Vương Cần.
Ông
tài giỏi đến mức,
Nghe
kể lại, một lần
Người
ta bỗng phát hiện,
Rằng
ông là hoạn quan
Mà
vẫn còn “cái ấy”,
Tội
chém, không phải bàn.
Thế
mà vua tha chết,
Cho
ra sống ngoài đời.
Còn
tặng mấy cung nữ,
Rồi
có con - mười người!
Tuy
nhiên, người giỏi nhất
Lại
là Hồ Nguyên Trừng,
Một
thiên tài quân sự,
Danh
tiếng rất lẫy lừng.
Ông
này, như ta biết,
Là
con Hồ Quí Ly,
Bị
bắt sang Trung Quốc,
Có
số phận li kỳ.
Lịch
sử đã ghi lại
Rất
chính xác, rằng ông,
Lần
đầu trên thế giới
Chế
tạo súng thần công.
Nhờ
loại vũ khí đó
Mà
nhà Minh nhiều lần
Đánh
bại quân phương Bắc,
Xem
ông như vị thần.
Về
sau, ông, người Việt,
Làm
Thượng thư bộ Công
Của
thiên triều Đại Hán.
Kể
cũng đáng hả lòng.
NGUYỄN
DỮ (? - ?)
Dân
ta hay sùng ngoại,
Không
chịu khám phá mình.
Trong
văn chương, Nguyễn Dữ
Đâu
kém Bồ Tùng Linh.
Một
ông viết Chí Dị,
Ông
kia viết Truyền Kỳ.
Đều
là chuyện ma quái,
Nói
chung, chẳng khác gì.
Hơn
thế, ông Đại Việt
Viết
trước ông người Tàu,
(Thực
ra người Mông Cổ)
Hai
trăm năm về sau.
Nguyễn
Dữ người Gia Phúc,
Tỉnh
Hải Dương ngày nay.
Phùng
Khắc Khoan là bạn,
Nguyễn
Bỉnh Khiêm là thầy.
Người
ta vẫn chưa biết
Ông
sinh, mất năm nào.
Chỉ
biết ông nổi tiếng
Học
rộng và tài cao.
Làm
quan thời nhà Mạc
Nhờ
đỗ đầu thi Hương.
Sau
ông treo mũ áo,
Ở
ẩn vì chán chường.
Ông
lui về trí sĩ
Vùng
Thanh Hóa ngày nay,
Nhàn
rỗi, viết cuốn sách
Rất
nổi tiếng sau này.
Cuốn
Truyền Kỳ Mạn Lục,
Hai
mươi chương vừa xinh.
Mỗi
chương là một truyện,
Có
kèm theo lời bình.
Văn
cụ Nguyễn súc tích,
Chất
ma quái rất nhiều,
Về
nhân tình thế thái,
Về
tội lỗi, tình yêu.
TRUYỆN
NGUYỄN DỮ
1.
TRUYỆN NÀNG NHỊ THANH
Xưa,
chàng Trình Trung Ngộ
Quê
ở xứ Bắc Hà,
Vốn
con nhà giàu có,
Thường
đi buôn bán xa.
Thuyền
chàng luôn neo đỗ
Dưới
chân cầu Liễu Khê.
Chợ
Nam Xang gần đấy,
Cây
xanh tốt bốn bề.
Đêm,
lên bờ đi dạo,
Chàng
thường thấy một nàng
Trẻ
tuổi, rất xinh đẹp.
Chắc
con gái trong làng.
Sau
vài lần trò chuyện,
Từ
lạ thành quen thân.
Nàng
lên thuyền tối tối
Hai
người cùng ái ân.
Nàng
còn giỏi đàn hát,
Biết
luận bàn văn thơ.
Chàng
Trình thêm mê mẩn,
Tưởng
mình đang trong mơ.
Cứ
thế, suốt một tháng,
Nàng
đến lúc nửa đêm,
Ra
về trời gần sáng,
Lửa
tình càng bén thêm.
Một
lần, do nài ép,
Nàng
miễn cưỡng đưa chàng
Đến
một căn lều nhỏ
Ở
tận cuối mép làng.
Khi
vừa vào đến cửa,
Chàng
giật mình, sững sờ
Thấy
chiếc quan tài đỏ
Đặt
trước chiếc bàn thờ.
“Giường
em đây, - nàng nói,
Chỉ
vào chiếc quan tài. -
Em
không muốn chàng biết,
Nhưng
chàng cứ van nài.”
Chàng
hoảng hồn, bỏ chạy.
Nàng
túm áo không cho.
Cũng
may áo bị đứt,
Chàng
về được bến đò.
Hôm
sau, cho người hỏi
Thì
biết nàng Nhị Thanh,
Chết
đã được mấy tháng,
Xác
quàn trong lều tranh.
Thương
cho Trình Trung Ngộ
Đổ
bệnh rồi phát điên.
Suốt
ngày đêm nằng nặc
Đòi
được rời khỏi thuyền.
Người
ta trói chàng lại,
Không
cho gặp Nhị Thanh,
Vì
đêm nàng vẫn đến,
Tha
thiết gọi người tình.
Một
tối nọ, bất chợt,
Không
ai biết chàng Trình
Bỗng
nhiên biến đâu mất,
Dẫu
sông nước xung quanh.
Cuối
cùng người ta thấy
Chàng
chết trong túp lều,
Tay
ôm quan tài đỏ
Bên
cạnh xác người yêu.
Rồi
cả hai xác ấy
Được
đem chôn bên nhau
Bên
một ngôi chùa cổ,
Mặc
mưa gió dãi dầu.
Cũng
đêm đêm, từ đó
Người
ta thấy hai người
Cùng
nắm tay đi dạo
Giữa
mịt mùng mưa rơi.
2.
TÂY VIÊN KỲ NGỘ
Ở
Thiên Trường thời ấy,
Thuộc
Nam Định ngày nay,
Có
một người trò giỏi
Lên
kinh đô tìm thầy.
Hà
Nhân là tên họ,
Khoảng
vào năm Thiệu Bình,
Chàng
được nhận vào học
Thầy
Nguyễn Trãi Tiên sinh.
Chàng
thông minh, chăm chỉ,
Không
hư hỏng, chơi bời.
Một
tấm gương sáng chói
Cho
lớp trẻ cùng thời.
Hàng
ngày chàng đi học
Tắt
Tây Viên cho gần.
Đó
là dinh cơ cũ
Của
Thái Sư triều Trần.
Giữa
những bức tường đổ,
Chàng
thường thấy hai người,
Hai
cô gái xinh đẹp,
Nhìn
chàng và mỉm cười.
Có
khi họ hái quả
Hoặc
ném hoa cho chàng.
Rất
nhiều lần, cứ thế,
Chàng
quen thân hai nàng.
Một,
Nhu Nương, họ Liễu.
Hai,
Họ Đào, Hồng Nương,
Cả
hai là tỳ thiếp,
Được
Thái Sư yêu thương.
Anh
học trò nghèo ấy,
Vì
ngoan và thông minh,
Đêm,
rủ hai người đẹp
Đến
nhà trọ của mình.
Việc
sinh viên, sĩ tử
Rủ
gái chơi đến nhà
Xưa
nay không gì lạ.
Cái
lạ đáng nói là
Anh
chàng này khiêm tốn
Lại
rủ cả hai nàng,
Không
chỉ để trò chuyện,
Mà
qua đêm với chàng.
Thế
mới biết thời ấy
Sinh
viên cũng chịu chơi.
Đêm
nào họ cũng đến,
Chàng
tiếp cả hai người.
Một
hôm chàng cao hứng,
Đến
thăm nhà hai nàng
Trong
khu vườn đổ nát,
Mờ
ảo dưới trăng vàng.
Giao
hoan suốt đêm ấy,
Tỉnh
dậy sáng hôm sau,
Thấy
mình nằm trên cỏ
Và
u u trong đầu.
Nghĩa
là chàng cũng biết
Đang
ăn nằm với ma.
Biết
mà vẫn quyến luyến,
Chuyện
học hành lơ là.
Nên
dễ hiểu, sau đó
Chàng
gầy như chiếc tăm.
Nghỉ
học nhiều, bị đuổi,
Chỉ
còn việc ngày nằm
Để
đêm đến say đắm
Phục
vụ cả hai nàng.
Cứ
nghe mà phát khiếp.
Tôi
thì xin đầu hàng.
Hơn
thế, bỗng bố mẹ
Bắt
lấy vợ mới gay.
Bạn
nghĩ chàng từ chối?
Còn
lâu. Những anh gầy
Các
cụ nói rất giỏi,
Giỏi
cái “chuyện ấy” mà.
Vậy
là chàng hăng hái
Một
lúc chiều cả ba!
Rồi
kiệt sức, chàng chết.
May
để lại cho đời
Một
bài học đắt giá:
Sinh
viên đừng ham chơi.
Nhất
là đừng trai gái.
Chuyện
học chớ lơ là.
Nếu
quả không đừng được
Thì
đừng ngủ với ma.
Ngủ
với người vừa ấm,
Lại
vừa được an toàn.
Nhưng
chỉ một thôi nhé.
Nhiều
hơn là đời tàn.
3.
ĐÔNG TRIỀU PHẾ TỰ
Dân
chúng vào thời ấy,
Tức
là đời nhà Trần
Ai
ai cũng tin Phật
Và
tin các quỉ thần.
Người
qui y, xuống tóc
Đi
tu ngày càng nhiều.
Chùa
chiền mọc nhan nhản,
Nhất
là vùng Đông Triều.
Tín
ngưỡng được tôn trọng,
Dân
chúng thì lòng lành,
Nên
cầu gì được ấy,
Cuộc
sống rất yên bình.
Đến
đời vua Giản Định,
Binh
lửa nổi triền miên,
Khắp
nơi đều loạn lạc,
Giặc
phá hết chùa chiền.
Sau
nhờ Đức Lê Lợi
Đánh
đuổi được nhà Minh,
Mọi
người về quê cũ,
Lại
sinh sống hòa bình.
Có
điều, khác hẳn trước,
Không
hiểu sao bây giờ
Hay
xẩy ra trộm cắp,
Thường
xuyên và bất ngờ.
Mất
trộm từ gà vịt,
Đến
quả chín trên cây,
Con
cá nuôi trong ruộng,
Ban
đêm lẫn ban ngày.
Những
tưởng bọn hư đốn
Trong
làng xóm gây ra.
Người
ta tìm bắt chúng,
Nhưng
tìm mãi không ra.
Hay
thần linh giận dữ,
Và
Đức Phật từ bi,
Do
không được cúng độ,
Thôi
phù hộ độ trì?
Ông
nghè Nguyễn Tư Lập
Là
tri phủ Đông Triều,
Thấy
thế rất lo lắng,
Buồn,
thấy chùa đổ xiêu.
Ông
bèn cho sửa lại
Dẫu
không được như xưa,
Nhưng
cũng khá tươm tất,
Lễ
cúng cũng dư thừa.
Thế
mà nạn trộm cắp
Vẫn
tiếp tục xẩy ra.
Tri
phủ Nguyễn Tư lập
Nghĩ
chắc có ma tà.
Ông
cho mời phù thủy
Đốt
vàng mã, yểm bùa,
Còn
cho thuyền tống tiễn,
Nhưng
cũng chẳng ăn thua.
Thấy
thế, ông cả sợ,
Cho
mời Vương tiên sinh,
Một
thầy bói Dịch giỏi,
Người
ở huyện Kim Thành.
Vương
gieo quẻ rồi nói:
Muốn
trừ được nạn này,
Sáng
mai cho nha lại
Cứ
đi về hướng Tây.
Hễ
thấy ai cưỡi ngựa,
Áo
thợ săn da dê,
Đeo
túi da, tên thiếc,
Thì
mời người ấy về.
Người
ấy sẽ chắc chắn
Giúp
được quan trừ tà.
Tư
Lập nghe, mừng rỡ,
Thưởng
ông rất nhiều quà.
Hôm
sau, theo lời dặn,
Một
người đúng thế này
Được
mời đến huyện phủ,
Nhờ
ra đức, ra tay.
Nhưng
ông ta tự nghĩ
Mình
chỉ là thợ săn
Chắc
quan huyện nhầm lẫn
Mới
tiếp đãi ân cần.
Nên
ông rất khó xử,
Chẳng
biết làm thế nào.
Muốn
giúp, không giúp được,
Biết
ăn nói ra sao?
Thế
là khuya, đêm ấy
Ông
trèo tường trốn đi.
Trăng
mờ mờ, ảo ảo,
Núi
một vệt đen sì.
Bất
chợt ông nhìn thấy
Có
hai người khổng lồ,
Vụng
về và chậm chạp,
Đang
đi từ phía hồ.
Hoảng
sợ, ông lẩn trốn
Vào
bụi cây bên đường
Vừa
run, vừa quan sát
Hai
người ấy dị thường.
Họ
cho tay xuống ruộng,
Bắt
cá rồi ăn ngay,
Khoe
với nhau những vụ
Trộm
cắp ở vùng này.
Rồi
họ đến ruộng mía,
Bẻ
mía ăn như voi.
Một
loáng, hết cả ruộng,
Vừa
xoa bụng vừa cười.
Không
nghi ngờ gì nữa,
Đây
là hai con ma
Thủ
phạm các vụ trộm
Người
ta tìm chưa ra.
Ông
thợ săn nghĩ thế,
Liền
vội rút cung tên,
Bắn
hai phát trúng đích,
Lập
tức nghe tiếng rên.
Nghĩ
một mình thế yếu,
Ông
gọi to dân làng.
Dân
làng nghe, chạy tới,
Đèn
và đuốc sáng choang.
Họ
lần theo vết máu,
Đến
ngôi chùa giữa đồng
Lâu
nay bỏ hoang phế,
Có
cây gạo phía đông.
Trước
ngôi chùa hoang ấy
Nổi
tiếng cả Đông Triều,
Nhiều
năm không hương khói,
Mái
và tường vẹo xiêu.
Họ
vào chùa, kinh ngạc
Thấy
máu chảy ra ngoài.
Còn
hai ông hộ pháp
Mũi
tên cắm vào tai.
Đám
dân chúng tức giận,
Xưa
nay mất lợn gà,
Đập
nát hai bức tượng
Rồi
hoan hỉ về nhà.
Từ
đấy tịnh không thấy
Một
vụ trộm nào thêm.
Ma
quỉ cũng chẳng có.
Mọi
chuyện thế là êm.
Ngôi
chùa hoang ngày ấy
Tồn
tại đến ngày nay,
Thiếu
hai ông hộ pháp.
Không
ngẫu nhiên điều này.
NGUYỄN
TRÃI (1380 – 1442)
Khi
nói đến Nguyễn Trãi,
Là
nói đến người hiền,
Một
nhà văn hóa lớn
Và
vụ Lệ Chi Viên.
Ông
xuất thân cao quí,
Con
của Nguyễn Phi Khanh,
Cháu
ngoại Trần Nguyên Đán,
Rất
giỏi đường học hành.
Ông
sinh ở Chí Ngại,
Huyện
Chí Linh, Hải Dương,
Sau
chuyển về Thường Tín,
Sống
cuộc sống dân thường.
Khi
nhà Hồ thành lập,
Bố
ông ra làm quan,
Đứng
đầu Quốc Tử Giám,
Được
xem là công thần.
Cùng
lúc ấy Nguyễn Trãi
Thi
đỗ Thái học sinh,
Được
bổ làm Chính Chưởng
Nhờ
uyên bác, thông minh.
Khi
nhà Hồ sụp đổ,
Cùng
nhiều quan hàng đầu
Bố
ông bị giặc bắt
Rồi
đưa về nước Tàu.
Từ
một bốn không bảy
Ông
phiêu bạt đó đây.
Không
ai biết Nguyễn Trãi
Làm
gì thời gian này.
Năm
một bốn một sáu,
Trong
Hội thề Lũng Nhai,
Nguyễn
Trãi gặp Lê Lợi,
Anh
tài gặp anh tài.
Ông
đã trình Lê Lợi
Ba
lời khuyên Bình Ngô,
Hết
lòng giúp minh chúa
Xây
dựng lại cơ đồ.
Ông
là quân sư giỏi,
Một
nhà ngoại giao tài,
Người
có công rất lớn
Đưa
Lê Lợi lên ngai.
Khi
công thành danh toại,
Triều
nhà Lê, tiếc thay,
Bắt
đầu chia phe cánh,
Mâu
thuẫn tăng hàng ngày.
Năm
một bốn hai chín,
Trần
Nguyên Hãn quyên sinh
Khi
Lê Lợi xuống chiếu
Bắt
giam người bạn mình.
Nghe
lời bọn xu nịnh,
Vua
giết bạn thứ hai
Là
tướng Phạm Văn Xảo,
Liêm
khiết và có tài.
Rồi
nhiều công thần khác,
Liên
quan hai người này,
Cũng
bị giết thê thảm,
Kêu
trời, trời có hay.
Đại
công thần Nguyễn Trãi
Cũng
bị vua giam cầm,
Xem
thường, không sử dụng
Và
quên lãng nhiều năm.
Khi
Lê Thái Tổ mất,
Lê
Thái Tông lên thay,
Nguyễn
Trãi được trọng dụng,
Dạy
cho ông vua này.
Nhưng
rồi lại phe cánh,
Lại
chước quỉ mưu ma,
Nguyễn
Trãi lại thất sủng
Vì
những lời gièm pha.
Năm
một bốn ba tám,
Ông
lui về Côn Sơn,
Điền
trang của ông ngoại,
Giữa
rừng thông xanh rờn.
Và
rồi cuối cùng đến
Cái
án được lưu truyền
Như
tiếng kêu oan ức -
Vụ
án Lệ Chi Viên.
Năm
bốn hai, tháng Chín,
Hai
mươi tuổi, Thái Tông
Cùng
một đoàn bộ xậu,
Đi
tuần ở miền Đông.
Đến
Chí Linh, Nguyễn Trãi
Mời
vua ghé chơi chùa.
Lúc
về, nàng Thị Lộ
Ông
cho theo hầu vua.
Nguyễn
Thị Lộ lúc ấy
Đã
bốn mươi tuổi đời,
Là
thiếp của Nguyễn Trãi,
Đa
tình và xinh tươi.
Phần
vì đẹp, khéo nói,
Phàn
vì tài văn chương,
Bà
được vua gần gũi
Và
yêu quí khác thường.
Giữa
đường vua dừng lại
Ở
quán Lệ Chi Viên,
Tức
là quán Vườn Vải,
Nghỉ
ngơi và định thiền.
Đêm
hôm ấy, bất chợt
Vua
đổ bệnh, qua đời.
Chỉ
một mình Thị Lộ
Luôn
túc trực bên người.
Đến
nay vẫn chưa biết
Vì
sao vua băng hà.
Chỉ
hai người, vua chết
Bên
bà, hay trên bà?
Rồi
bà và Nguyễn Trãi
Bị
buộc tội tày trời,
Lệnh
tru di tam tộc,
Giết
ba họ, ba đời.
Mười
mấy ngày sau đó,
Lệnh
đã được thi hành.
Nguyễn
Trãi cùng ba họ
Bị
nhà Lê hành hình.
Một
anh hùng dân tộc,
Một
khai quốc công thần
Đã
bị giết thế đấy,
Vô
lý và bất nhân.
Ngẫm
mà thương số phận
Của
các bậc đại thần
Cái
thời mông muội ấy,
Cái
thời vua hôn quân.
Phù
vua và cứu chúa,
Để
đưa vua lên ngai.
Vua
nhỏ nhen, quay lại
Giết
các bậc hiền tài.
Sau
khi Nguyễn Trãi chết,
Các
tác phẩm của ông
Bị
đốt sạch, phá sạch -
Một
cảnh tượng đau lòng.
Những
áng thơ tuyệt đẹp
Của
một đại thi nhân
Bị
biến thành tro bụi
Như
xưa ở nước Tần.
Hăm
hai năm sau đó,
Lê
Thánh Tông lên ngôi,
Minh
oan cho Nguyễn Trãi,
Nhưng
cũng việc đã rồi.
Có
truyền thuyết kể lại,
Bố
ông, Nguyễn Phi Khanh,
Xưa
làm nghề dạy học,
Định
cuốc vườn cỏ gianh.
Đêm
ông mơ, bất chợt
Có
một người đàn bà
Dẫn
theo một lũ trẻ
Đến
nằn nì xin tha.
Bà
xin ông hoãn lại
Thư
thư một vài ngày
Để
bà tìm chỗ mới
Đi
khỏi khu vườn này.
Sáng
dậy ông đã thấy,
Lúc
dọn vườn, học trò
Giết
chết một bầy rắn.
Ông
giật mình, thấy lo.
Tối
ấy, khi đọc sách
Có
con rắn để rơi
Từ
trên xà giọt máu,
Rơi
xuống đúng chữ “đời”.
Giọt
máu trên cuốn sách
Thấm
xuống đúng ba trang.
Ông
lờ mờ chợt hiểu,
Ngồi
lặng yên, bàng hoàng.
Về
sau con rắn ấy,
Với
ý định trả thù,
Biến
thành Nguyễn Thị Lộ,
Đưa
ba họ vào tù.
Khi
bà Nguyễn Thị Lộ
Bị
dìm chết dưới sông,
Bà
lại thành con rắn,
Lẩn
trốn dưới đám rong.
Theo
các nhà sử học,
Truyền
thuyết này lạ đời.
Do
nhà Lê bịa đặt
Để
lừa dối mọi người.
Sự
thật thì vụ án
Do
nhà Lê gây ra
Do
tranh giành quyền lực
Trong
nội bộ hoàng gia.
Chỉ
oan cho Thị Lộ,
Phi
lý và bất ngờ.
Một
vụ án oan khuất.
Đau
đến tận bây giờ.
THƠ
NGUYỄN TRÃI
Tiếng chày đập vải mùa thu ở xóm nhỏ
Tiếng
chày đập vải rộn khắp sông.
Đêm
vắng, khách nghe chợt chạnh lòng.
Vợ
người lính ải vào tiếng nện
Gửi
hết tâm tư nỗi nhớ chồng.
Buổi chiều đứng trông
Bao
la trời rộng, nước bao la.
Cuối
thu, lá đỏ rụng quanh nhà.
Mang
nặng việc đời, chưa ẩn dật.
Thèm
thành chim trắng lượn bên hoa.
Thơ đề ở Vân Oa
Nắng
chếch rèm thưa, giường sách đầy.
Ngoài
vườn gió thổi, trúc lung lay.
Rỗi,
chẳng làm gì, ôm gối ngủ.
Cửa
sổ, tất nhiên, mở suốt ngày.
Ngẫu hứng
Đời
là giấc mộng, thật mong manh.
Tỉnh
mộng, than ôi, việc chẳng thành.
Những
muốn suốt đời ngồi đọc sách
Bên
dòng suối nhỏ, giữa rừng xanh.
Giấc mộng trong núi
Quanh
động Thanh Hư trúc mọc dày.
Suối
như màn kính, gió lung lay.
Đêm
qua trăng sáng trong giấc ngủ,
Mơ
cưỡi hạc vàng bay lên mây.
Bến đò xuân đầu trại
Cỏ
xuân đầu bến rối như mây.
Lại
mưa, sông nhỏ nước dâng đầy.
Con
đường bên cạnh dài heo hút.
Gối
bãi, thuyền côi ngủ suốt ngày.
Cuối xuân tức cảnh
Cánh
cửa phòng văn đóng suốt ngày.
Khách
tục không hề bước đến đây.
Chim
quyên buồn hót thương xuân muộn.
Ngoài
vườn hoa nở, mưa lây rây.
Nghe mưa
Phòng
tối, đêm tĩnh lặng,
Ngồi
nghe mưa một mình.
Mưa
não nề, buốt lạnh,
Rơi
thánh thót năm canh.
Tiếng
chuông như ngái ngủ,
Bên
cửa, trúc rùng mình.
Thơ
đọc mãi, khó ngủ,
Thức
tới rạng bình minh.
Gửi bạn
Vất
vả quanh năm, chán sự đời.
Mọi
việc đành cam phó mặc trời.
Tấc
lưỡi đang còn, còn nói được.
Thân
còm chưa chết, chỉ nằm chơi.
Vụn
vặt thời gian trôi, khó giữ.
Quán
trọ đêm đêm lạnh đất người.
Đọc
sách mười năm mà kiết xác,
Ăn
toàn rau củ để cầm hơi.
Đêm thu khách cảm
Treo
chiếu làm mành, quán trước thôn.
Ủ
tay đọc sách buổi hoàng hôn.
Gió
thổi lá rơi, thương lữ khách.
Đêm
mưa, đèn lạnh, giấc mơ buồn.
Sau
loạn, người quen không thấy nữa.
Buồn
nhìn đau đớn cảnh càn khôn.
Cuối
cùng muôn việc đều hư ảo,
Nói
chi Phàm, Sở mất hay còn.
Ngày hạ ngẫu tác
Gia
truyền chỉ có tấm chăn xanh.
Loạn
ly, may được sống yên lành.
Xưa
nay mọi việc do trời định.
Đời
người, giấc mộng cứ trôi nhanh.
Nửa
giường gió mát tha hồ ngủ.
Một
vò rượu trắng vợi lòng anh.
Duy
vẫn nhớ quê, mong lại được
Quay
về sông núi, mái nhà tranh.
Sau loạn, đến Côn Sơn, cảm tác
Mười
năm thấm thoắt đã xa nhà.
Quay
về, tùng rậm, cúc ra hoa.
Có
hẹn với rừng mà nhỡ hẹn.
Cúi
đầu, chỉ biết trách mình ta.
Làng
quê quen thuộc mà như lạ.
Thân
còn nguyên vẹn buổi can qua.
Bao
giờ được dựng lều trên núi,
Múc
nước khe sâu để uống trà?
Đêm đậu thuyền ở cửa biển
Xa
nhà đã mấy chục năm nay.
Đêm
buộc thuyền thơ ở bến này.
Sóng
gợn mênh mang, trăng chiếu lạnh.
Trên
bờ cao thấp những lùm cây.
Ơn
nước chưa đền, mai đã bạc.
Thời
gian như nước tuột qua tay.
Lo
trước vui sau, luôn nghĩ ngợi.
Chăn
lạnh ngồi ôm đến rạng ngày.
Ngẫu nhiên viết thành thơ
Làm
quan mà rỗi, sướng thân ta.
Chẳng
thiết giao du, cứ ở nhà.
Sáng
dậy đốt trầm, mây sát cửa.
Tùng
reo bên gối, tối pha trà.
Chăm
chỉ tu thân, làm việc thiện.
Đọc
nhiều mụ óc, chóng thành ma.
Cái
bệnh suốt đời không thực tế,
Về
già có vẻ nặng thêm ra.
Đêm thu ở đất khách, cảm hứng
Xạc
xào tiếng gió thổi cành cây.
Làm
buồn lòng khách bấy lâu nay.
Lá
úa vàng sân hơn quá nửa.
Đèn
xanh mưa hắt mấy canh chầy.
Bệnh
lắm, xương còm nên ngủ ít.
Việc
quan nhàn nhã cũng thành hay.
Bớt
nghĩ một điều, thêm một sướng.
Được
thua không tính nữa từ nay.
Tức cảnh
Hiên,
song đều nhỏ, cảnh thanh bần.
Nhà
quan mà chẳng khác nhà dân.
Dưới
cây đọc sách, lòng thanh thản,
Trên
sông câu cá, thú an nhàn.
Mưa
tạnh, hơi thu xuyên cửa sổ.
Gió
chiều, lá rụng, múa ngoài sân.
Nằm
khểnh bên song, không lụy tục,
Thư
thái lòng ta chẳng vướng trần.
Ngẫu hứng trên thuyền
Sau
mưa, cửa biển nước dâng cao.
Gió
ru muôn sóng, biển rì rào.
Nửa
rừng chiều xế như rây khói.
Chuông
làng lay động ánh trăng sao.
Phong
cảnh chiều người, thơ có họa.
Mải
ngắm non sông, rượu rót trào.
Những
chuyến chơi xưa đều nhớ hết.
Việc
đời muốn nhớ, chỉ chiêm bao.
TRẦN
NGUYÊN HÃN (? – 1429)
Một
trong mười chín vị
Dự
Hội thề Lũng Nhai,
Ông
là một danh tướng,
Có
đức và có tài.
Ông
chiến đấu dũng cảm,
Không
quản ngại hy sinh
Giúp
chủ tướng Lê Lợi
Đánh
bại giặc nhà Minh.
Thế
mà đời oan nghiệt,
Khi
kháng chiến thành công,
Chính
vị chủ tướng ấy
Đã
nỡ lòng giết ông.
Lời
thề Lũng Nhai ấy,
Hỡi
ôi nay còn đâu?
Thương
cho Trần Nguyên Hãn
Dưới
chín suối ngậm sầu.
Xuất
thân, Trần Nguyên Hãn
Là
dòng dõi họ Trần,
Chắt
của Trần Quang Khải,
Nguyễn
Trãi - bà con gần.
Ông
sinh ở Lập Thạch,
Tỉnh
Vĩnh Phúc ngày nay.
Có
một số học giả
Không
nhất trí điều này.
Sách
cũ có kể lại
Ông
gánh dầu bán rong,
Tìm
người chung chí hướng
Bàn
kế cứu non sông.
Cuối
cùng Trần Nguyên Hãn
Và
Nguyễn Trãi tiên sinh
Hội
tụ với Lê Lợi
Cùng
chống giặc nhà Minh.
“Tang
thương ngẫu lục” chép
Rằng
Nguyễn Trãi và ông
Lần
đầu gặp Lê Lợi
Rất
không vui trong lòng
Khi
thấy vị chủ tướng
Xé
thịt ăn bằng tay
Nhồm
nhoàm và thô lỗ,
Nên
họ bỏ đi ngay.
Lần
thứ hai, khi đến
Thấy
Lê Lợi mải mê
Đọc
binh thư không chán,
Họ
ở lại, không về.
Hai
ông được trọng dụng.
Nguyễn
Trãi làm quân sư.
Nguyên
Hãn làm soái tướng
Gian
khổ chẳng hề từ.
Khi
còn ở Thuận Hóa,
Ông
đánh bại quân Minh,
Dù
quân chúng áp đảo,
Trong
trận đánh Tân Bình.
Sau
đó là chiến thắng
Trong
trận Đông Bộ Đầu
Khi
ông và Lê Lợi
Đánh
ra Bắc cùng nhau.
Ông
cũng là chủ soái
Trận
đánh thành Xương Giang,
Một
trận đánh quyết định
Khiến
giặc phải đầu hàng.
Về
chức, sau Lê Lợi,
Trần
Nguyên Hãn thứ hai,
Cao
hơn cả Nguyễn Trãi,
Tạm
gác chuyện đức, tài.
Trong
danh sách Đại Việt
Ở
Hội thề Đông Quan,
Ông
chỉ sau Lê Lợi
Khi
hai bên nghị bàn.
Năm
một bốn hai chín,
Ông
xin phép nhà vua
Được
lui về trí sĩ,
Bên
vườn thuốc, sân chùa.
Có
sách bảo ông nói,
Rằng
Lê Lợi bề ngoài
Giống
Việt vương Câu Tiễn,
Nên
khó ở với ngài.
Câu
Tiễn mép như quạ,
Ranh
ma, không thực lòng.
Có
thể ông nói thế.
Cũng
có thể là không.
Hơn
thế, vua khó chịu
Khi
thấy ông xây nhà
To
đẹp như phủ đệ
Mà
nghĩ chắc gian tà.
Vua
nghi ông phản nghịch,
Nên
ra lệnh bắt ông.
Giữa
đường ông tự tử
Bằng
cách nhảy xuống sông.
Trước
khi chết ông nói:
“Hoàng
thượng đã cùng ta
Xưa
vào sinh ra tử,
Nay
nghe lời gièm pha
Mà
bắt ta phải chết.
Hỏi
trời, trời biết không?”
Trời
chưa kịp đáp lại
Thì
nước đã dìm ông.
Về
sau, Trần Nguyên Hãn
Được
nhà Lê minh oan.
Nhưng
con cháu nhất mực
Không
chịu ra làm quan.
Lê
Lợi là minh chủ,
Có
lúc đã không minh,
Nhưng
nhân dân yêu quí
Vị
tướng giỏi của mình.
Nhiều
nơi trong cả nước,
Nhất
là vùng Sơn Đông,
Nơi
ông đã tự tử,
Dựng
đền thờ thờ ông.
PHÙNG
KHẮC KHOAN (1528 – 1613)
Phùng
Khắc Khoan nổi tiếng
Là
một người tài, hiền.
Ông
mới đậu Hoàng giáp,
Chưa
hề đậu Trạng nguyên,
Nhưng
được gọi là Trạng,
Chính
xác là Trạng Bùng,
Vì
quê ở Thạch Thất,
Và
sinh ở làng Bùng.
Nghe
người ta nói lại,
Phùng
Khắc Khoan là em,
Tuy
khác cha, cùng mẹ,
Với
Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Được
cha dạy từ nhỏ,
Rồi
lại theo học anh,
Ông
tấn tới nhanh chóng
Trên
con đường học hành.
Nhưng
dười triều nhà Mạc,
Ông
không chịu đi thi.
Trung
với triều Lê cũ,
Chỉ
ở nhà ngủ khì.
Năm
một năm năm bảy,
Ông
đỗ đầu thi Hương,
Lúc
đã hăm chín tuổi,
Rồi
theo đường quan trường.
Trịnh
Kiểm biết ông giỏi,
Cho
làm ở Ngự dinh,
Trông
coi bốn quân vệ,
Tham
dự việc cơ binh.
Vua
cho mở thi Hội,
Năm
một năm tám không.
Ông
thi đỗ Hoàng giáp,
Làm
Thị lang bộ Công.
Năm
một năm chín bảy,
Sáu
mươi chín tuổi đời,
Ông
được cử đi sứ,
Tài
đối đáp hơn người.
Chỉ
hai năm sau đó,
Ông
được thăng Thượng thư,
Bộ
Công rồi bộ Lại,
Rồi
về quê nhàn cư.
Trong
thời gian đi sứ,
Phùng
Khắc Khoan nhập tâm
Học
cách trồng ngô bắp,
Cách
dệt the, nuôi tằm.
Về
nước, ông truyền lại
Cho
dân chúng trong làng.
Một
số nơi, vì thế,
Tôn
ông làm Thành hoàng.
Một
số giống lúa tốt
Ông
cũng lén mang về
Để
giúp dân Thạch Thất
Trồng
chúng ở đồng quê.
Sau
khi thành trí sĩ,
Ông
ra đồng hàng ngày
Giúp
dân đào kênh, rạch
Vùng
xung quanh núi Thầy.
Nhờ
thế mà có nước
Tưới
cho các cánh đồng
Ở
Phùng Xá, Hoàng Xá,
Giúp
phát triển nghề nông.
Phùng
Khắc Khoan, ta biết,
Còn
là một nhà thơ,
Cả
chữ Nôm, chữ Hán,
Lưu
được đến bây giờ.
Ông
còn là tác giả
“Sấm
Thượng thư họ Phùng”,
Người
đời chắc vì thế
Gọi
ông là Trạng Bùng.
Thơ
ông rất tao nhã,
Phong
cách không giống ai.
Ông
viết nhiều, chỉ tiếc,
Lưu
được ba trăm bài.
THƠ
PHÙNG KHẮC KHOAN
Viết trả lời người mang rượu đến xin thơ
Còn
hơn cả rượu, hứng thơ say.
Ngang
vò rượu quý bài thơ này,
Thơ
đã làm xong, rượu uống hết.
Trùm
thơ, trùm rượu là ta đây!
Thơ tức sự ở công quán
Tuổi
già, đi sứ đến Yên Kinh.
Đế
đô cảnh vật thật thanh bình.
Gió
thổi qua cây như tiếng suối.
Trong
vườn, xuyên lá, nắng lung linh.
Bến Bành Thành
Viết ở sông Tuy Thủy, huyện Bành Thành, Từ
Châu, vốn là chỗ đóng đô của Hạng Vũ, có đài Hý Mã và đền Bành Tử.
Hý
Mã đài xưa dấu vẫn còn.
Nhà
khách bên đường, rặng liễu non.
Tuy
Thủy, Bành Thành nguyên như cũ,
Công
danh Hán Sở đã phai mòn.
Tự thuật
Viết năm Quý mão (1543), lúc 16 tuổi.
Tự
biết mình non, tuổi học hành,
Đêm
ngày phải học để thành danh.
Quý
nhất trong nhà là quyển sách.
Chiếc
cày là bút vẽ nên tranh.
Sự
nghiệp phải đi đường ngay thẳng.
Làm
người phải biết trọng thanh danh.
Làm
con trước hết thờ cha mẹ,
Rồi
sau mới nghĩ chuyện tung hoành.
Ngày đầu xuân
Viết năm Mậu Thân, lúc 21 tuổi.
Vua
mới ban cho lịch Mậu Thân.
Vậy
là lần nữa lại mùa xuân.
Lộc
nhú, hoa tươi, gì cũng mới.
Lá
biếc, non xanh, mây trắng ngần.
Năm
mới, mọi người thay cái cũ.
Đất
trời vạn vật rất quen thân.
Xuân
đến, điều lành mong sẽ đến.
Cần
chi cắt lụa giống đời Tần.
Nguyên Đán
Viết năm Bính Thìn, lúc 29 tuổi.
Xuân
đi, xuân đến tự xoay vần.
Lòng
người háo hức với mùa xuân.
Núi
sông cảnh đẹp như tranh vẽ.
Cỏ
cây thay sắc đã bao lần.
Say
đất, say trời, ta uống rượu.
Ngồi
nhàn quán trọ viết thơ văn.
Cưỡi
ngựa ngắm hoa là thú thích,
Hơn
nhiều gà chọi ở Tràng An.
Từ xa gửi cho bạn
Từ
khi xa bác đến bây giờ,
Chẳng
viết thư nhiều, chỉ viết thơ.
Muốn
bẻ cành mai, mai chửa mọc,
Bạn
bè gặp mặt chỉ trong mơ.
Giang
sơn xa cách tuy nghìn dặm,
Tấm
lòng trung nghĩa chẳng thờ ơ.
Tài
lớn cần dùng vào việc lớn.
Kẻ
sĩ sao cam mãi đợi chờ?
Đêm ba mươi tết
Đêm
ba mươi tết, thức làm thơ.
Không
ngủ suốt đêm, cứ thẫn thờ.
Trong
thành đây đó đèn thắp sáng.
Ngoài
ngõ nơi nơi rợp bóng cờ.
Nửa
đêm khí lạnh còn chưa hết.
Canh
ba trời bỗng ấm bất ngờ.
Mai
nở bên thềm như báo lịch.
Quả
rằng Thiệu Tử giỏi thiên cơ.
Đêm thu hoài cảm
Đồng
hồ chảy chậm, mới canh ba.
Nỗi
lòng ai hiểu thấu cho ta.
Đầu
tháng thuyền trăng treo trước cửa.
Cuối
năm gió lạnh thổi sau nhà.
Lo
nghĩ giúp đời không ngủ được,
Hết
ngồi đọc sách lại nhìn hoa.
Cái
chí làm trai lo việc lớn,
Chứ
đâu vui thú với đàn bà.
Leo núi buổi sớm
Sáng
sớm vào rừng leo núi chơi.
Bình
minh nhuốm đỏ phía chân trời.
Lau
lách xếp hàng, đầu khẽ cúi.
Hoa
nở, chim ca đợi đón người.
Cây
cỏ thân quen như bạn cũ.
Mây
gió gợi tình, phút thảnh thơi.
Nào
quản hang sâu, khe đá hiểm,
Ta
quyết leo cao, đứng giữa trời.
Sáng sớm qua Tây Đô
Đô
thành, trời rạng, sáng xa xa.
Cảm
hứng dạt dào khi ghé qua.
Tường
đá bám rêu, xanh ẩm mốc.
Long
lanh suối nước, liễu la đà.
Năm
tháng trôi đi, còn vết cũ.
Cảm
hứng non sông vẫn mặn mà.
Cha
con họ Hồ giờ không thấy,
Chỉ
thấy gió vờn trên mặt ta.
Khuyên người đi học
Chăm
lo việc học phải do mình.
Trời
không can dự việc nho kinh.
Người
giỏi, dạy con thường đã khó,
Dễ
gì đọc sách lúc đao binh.
Học
rộng, lòng thông như suối chảy.
Cái
tham tự bớt, sống yên bình.
Khi
ít đam mê, lòng sẽ nhẹ,
Cần
gì bổng lộc với quang vinh?
Hiếu
Hiếu
là đạo lớn khắp gần xa.
Trăm
điều đức hạnh đó mà ra.
Cái
đạo làm con là báo hiếu,
Phụng
dưỡng, tôn thờ bậc mẹ cha.
Chu
Công, Ngưu Thuấn là gương tốt.
Đại
hiếu, đại trung, nước lẫn nhà.
Còn
ta, thật tiếc dù tâm niệm,
Chưa
thể làm tròn đạo của ta.
Đi qua chỗ nước xiết ở Quảng Bình
Vâng
mệnh nhà vua đi việc công,
Gặp
nơi nước xiết chẳng sờn lòng.
Muôn
dặm đường xa không ngại khổ.
Trèo
đèo vượt suối cứ như không.
Gánh
vác trên vai là việc nước.
Treo
đầu ngọn bút núi và sông.
Khi
nước thái bình, mong hậu thế,
Lưu
lại công danh được mấy dòng.
Ở nhà trọ gặp mưa, chờ tạnh
Định
lên đường sớm, lúc tinh mơ,
Bỗng
đâu mưa lớn, phải ngồi chờ.
Mưa
tạnh, trong rừng chim líu ríu.
Ngoài
đồng bò gặm cỏ non tơ.
Mây
vương đầu núi, trời trong vắt.
Chân
ngựa quen đường, bước nhởn nhơ.
Trời
sáng thế này, điềm tốt đẹp,
Báo
thời Nho thịnh, phát văn thơ.
Năm mới
Được
mất ở đời, đều tại thiên.
Nuôi
dưỡng lúc nhàn khí hạo nhiên.
Ngâm
vịnh khác xưa, năm mới đến.
Bất
ngờ mai nở trắng ngoài hiên.
Hương
hỏa ba sinh duyên kiếp trước
Muôn
quyển Thi Thư, ấy bạn hiền.
Mừng
thời vận tốt, mừng năm mới,
Thêm
một tuổi xuân, một tuổi tiên.
Tự xướng, tự họa
Kinh
Thi chưa kịp đọc nhiều lần,
Đi
sứ bất tài, thật khó khăn.
Nhưng
được vua giao, dù tuổi tác,
Lên
đường, không gợn chút băn khoăn.
Thành
đô ngoái lại nhìn lưu luyến,
Thẹn
mình chưa hiểu hết thơ văn.
Cố
đem trung nghĩa làm nên việc,
Để
có hòa bình, đỡ khổ dân.
Mừng năm Bính Tuất
Vâng
chiếu nhà vua đi sứ xa.
Nay
đúng mùa xuân, trở lại nhà.
Theo
gót anh tài đi đây đó,
Mở
mày, mở mặt với người ta.
Mới
biết mùa đông, tùng khí phách,
Và
mai đẹp nhất các loài hoa.
Nay
việc đã xong, chào thiên tử,
Ta
lại trở về nước Nam
ta.
Thơ đáp lại sứ thần Triều Tiên
Trọn
tình, vẹn nghĩa sẽ bền lâu.
Đọc
sách thánh hiền đến thuộc lầu.
Việt
Triều hai nước dù xa cách
Nhưng
cùng gốc rễ bám rất sâu.
Bang
giao phải lấy tình làm gốc.
Muốn
xây nghiệp lớn - nghĩa làm đầu.
Sứ
bộ mai kia về cố quốc,
Hãy
ngắm nhìn mây lúc nhớ nhau.
CAO
BÁ QUÁT (1809 - 1855)
Một
hiện tượng kỳ lạ
Trên
thi đàn nước ta.
Đó
là Cao Bá Quát,
Một
nhà thơ tài ba,
Một
ông quan chính trực,
Đèo
bòng nợ văn chương
Rồi
sau thành “tướng giặc”,
Bị
giết ở chiến trường.
Ông
sinh ở Phú Thị,
Huyện
Gia Lâm bây giờ
Bố
ông và ông nội
Là
thầy thuốc yêu thơ.
Ngày
bé ông nghèo khổ
Nhưng
nổi tiếng thông minh,
Văn
hay và chữ tốt,
Thần
đồng tỉnh Bắc Ninh.
Thế
mà thi luôn trượt.
Mãi
sau ông thi Hương,
Đỗ
Á Nguyên Hà Nội,
Nhưng
thật tiếc, quan trường
Xếp
ông vào cuối bảng
Trong
số hai mươi người
Đỗ
cử nhân lần ấy.
Bất
công và buồn cười.
Sau
đó ông vào Huế
Thi
Hội, khá nhiều lần,
Nhưng
lần nào cũng trượt.
Dù
rất giỏi thơ văn.
Năm
một tám bốn một,
Được
quan tỉnh Bắc Ninh
Tiến
cử làm công chức,
Ông
khăn gói vào kinh,
Rồi
làm chức quan nhỏ
Trong
bộ Lễ, thường niên
Ông
được làm sơ khảo
Trường
thi tỉnh Thừa Thiên.
Một
lần chấm, ông tiếc,
Thấy
một số bài thi
Viết
hay và súc tích
Nhưng
vô tình phạm qui.
Thế
là cùng Phan Nhạ,
Một
người chấm như ông,
Cao
Bá Quát chữa lại
Bằng
mực pha son hồng.
Việc
lộ, ông bị bắt,
Đáng
lẽ xử tử hình,
Sau
vua xét, hạ xuống
Thành
“giảo giam hậu trình”.
Tức
tạm giam đợi lệnh.
Ba
năm sau, được tha
Để
“dương trình hiệu lực”,
Tức
chuộc tội, đi xa.
Ông
theo Đào Trí Phú,
Lên
tàu lớn Phấn Bằng
Sang
Nam
Dương “hiệu lực”,
Kéo
dài gần một năm.
Rồi
sau được phục chức
Ở
bộ Lễ, nhưng ông
Lần
nữa bị sa thải,
Lại
quay về Thăng Long.
Năm
một tám bốn bảy,
Bỗng
có giấy mời ông
Quay
lại Huế làm việc,
Một
công việc văn phòng,
Là
chỉnh lý thơ phú
Cũng
có khi sưu tấm,
Nói
chung là nhàn nhã
Ngay
trong Viện Hàn lâm.
Do
bản chất công việc,
Ông
làm quen ở đây
Với
Miên Trinh, Miên Thẩm.
Hai
vị hoàng thân này
Đã
mời ông gia nhập
Và
đàm đạo đôi khi
Với
nhóm thơ của họ,
Gọi
là Mạc Vân Thi.
Nhưng
ba năm sau đó,
Do
mất lòng quan thầy,
Ông
bị đổi ra Bắc
Làm
giáo thụ Sơn Tây.
Sau
đó ông buồn chán,
Treo
áo mũ, về nhà,
Mượn
cớ cha vừa mất,
Phải
phụng dưỡng mẹ già.
Năm
một tám năm bốn,
Trời
nắng hạn lâu ngày,
Lại
gặp nạn châu chấu,
Dân
đói, nhiều ăn mày.
Ông
bí mật vận động
Một
số người có tiền
Và
sĩ phu yêu nước
Khởi
nghĩa chống chính quyền.
Từ
Quốc Oai, Vĩnh Phúc
Đến
Lạng Sơn, Cao Bằng
Có
nhiều người hưởng ứng,
Tinh
thần cũng rất hăng.
Lại
thêm Đinh Công Mỹ,
Bạch
Công Trân Sơn Tây,
Các
thổ mục giàu có,
Rất
ủng hộ việc này.
Việc
tụ nghĩa cứ vậy,
Được
tiến hành từ từ.
Lê
Duy Cự - minh chủ.
Cao
Bá Quát - quốc sư.
Thành
trì quân khởi nghĩa
Là
vùng núi Mỹ Lương,
Kiểu
thay trời hành đạo,
Chống
áp bức, bạo cường.
Rất
tiếc, việc bại lộ
Khi
chuẩn bị chưa xong,
Nên
cuối năm năm bốn,
Ông
buộc phải tấn công.
Lúc
đầu nghĩa quân thắng
Ở
Tam Dương, Thanh Oai,
Sau
quân vua đánh rát,
Phải
thua chạy dài dài.
Năm
Giáp Dần, tháng Chạp,
Được
người Thái, người Mường
Bổ
sung vào lực lượng
Ở
cứ điểm Mỹ Lương,
Ông
chủ động đánh chiếm
Thành
Yên Sơn lần hai,
Ngày
nay huyện lỵ ấy
Là
thị trấn Quốc Oai.
Phó
lãnh binh Lê Thuận
Đem
quân dàn hàng ngang,
Hai
bên đang huyết chiến,
Tên
đội Đinh Thế Quang
Cho
lính bắn tới tấp
Vào
hàng ngũ nghĩa quân.
Cao
Bá Quát trúng đạn,
Ngã
xuống chết bất thần.
Rồi
tướng Nguyễn Văn Thực
Và
tướng Nguyễn Kim Thanh
Cũng
lần lượt bị bắt,
Chém,
đầu bêu ngoài thành.
Hơn
trăm quân khởi nghĩa
Đã
bỏ mạng lần này
Cùng
tám mươi người khác
Bị
bắt và đi đày.
Vua
Tự Đức từ Huế
Xuống
chiếu thưởng, khao quân,
Ra
lệnh cắt cắt thủ cấp
Cao
Bá Quát nghịch thần
Rồi
cho xe bêu riếu
Khắp
các tỉnh Bắc Kỳ,
Xong,
đưa vào cối giã,
Để
nước sông cuốn đi.
Quốc
sư Cao Bá Quát
Còn
là một nhà thơ,
Một
nhà thơ rất lớn,
Nổi
tiếng cả bây giờ.
Khi
khởi nghĩa thất bại,
Triều
đình đốt sách ông.
May
mắn còn giữ được
Trong
các thư viện công
Tổng
cộng, không kể truyện,
Gần
nghìn rưởi bài thơ
Chủ
yếu thơ chữ Hán,
Ý
hay và bất ngờ.
Thơ
ông là khí phách
Của
một bậc túc nho,
Một
tấm lòng yêu nước
Khao
khát dựng cơ đồ.
CAO
BÁ QUÁT, GIAI THOẠI
Cao
Bá Quát từ nhỏ
Đã
nổi tiếng thần đồng,
Ăn
nói giỏi, chí lớn,
Kinh
và sử thuộc lòng.
Lớn
lên càng khí phách,
Không
khuất phục người nào,
Nhất
là bọn ngu dốt
Loại
lý trường, cường hào.
Lần
nọ, nhân lý trưởng
Đắp
đôi voi ngoài đình,
Quát
làm bài thơ nhỏ,
Còn
ký cả tên mình:
“Đôi
voi đắp đẹp đấy,
Đủ
cả đuôi, cả vòi.
Sao
không thấy “cái ấy”,
Hay
ông lý ăn rồi?”
Lão
lý trưởng tức lắm,
Nhưng
không dám làm gì.
Dính
vào bọn con nít,
Người
lớn sẽ xầm xì.
Lần
nọ, vua Minh Mạng
Kinh
lý ra Thăng Long.
Dân
đi xem đông đúc,
Quát
cũng muốn thấy ông.
Hôm
ấy trời oi bức,
Quát
xuống tắm Hồ Tây
Đúng
lúc Minh Mạng đến,
Dừng
kiệu ngắm hồ này.
Cậu
giả đò sợ hãi,
Tồng
ngồng leo lên bờ.
Vua
cho là hỗn láo,
Sai
lính trói, bắt chờ.
Cậu
khóc, xin tha tội,
Xưng
mình học trò nghèo.
Vua
nói tội này láo,
Phải
đánh đúng mười hèo.
Học
trò chắc giỏi chữ,
Vậy
câu đối vua ra,
Nếu
đối được, đối đúng,
Vua
chiếu cố, sẽ tha.
“Dưới
hồ, cá đớp cá.”
Vua
nói rồi mỉm cười.
Quát
lập tức đáp lại:
“Trên
bờ, người trói người.”
Minh
Mạng biết mình hớ
Để
thằng nhóc con này
Đặt
mình ngang với hắn,
Nhưng
hứa rồi, tiếc thay.
Cao
Bá Quát học giỏi,
Nhưng
thi trượt đều đều.
Người
Thăng Long thời ấy
Gọi
Thánh Quát, Thần Siêu.
Số
là bọn quan lại,
Ghét,
tìm cách dìm ông.
Năm
một tám ba một,
Đi
thi Ở Thăng Long,
Bài
ông làm rất tốt,
Nên
được đậu cử nhân,
Thế
mà khi thi Hội,
Quan
ngửi thấy giọng văn
Đúng
của Cao Bá Quát,
Bèn
đánh trượt tức thì.
Nhưng
ông vẫn không nản
Và
tiếp tục đi thi.
Tiếp
tục lại thi trượt,
Vì
khẩu khí của ông
Quan
đọc qua là biết.
Cuối
cùng ông nản lòng,
Bỏ
về quê nằm khểnh,
Suốt
ngay chỉ rong chơi,
Làm
thơ hay đọc sách
Và
lặng lẽ chờ thời.
Ở
Thăng Long lúc ấy
Có
thầy Nguyễn Văn Siêu,
Nổi
tiếng là hay chữ,
Học
trò theo rất nhiều.
Một
lần Cao Bá Quát
Tò
mò đến xem sao.
Tới
nơi, đứng tựa cửa
Chốc
chốc ghé nhìn vào.
Nguyễn
Văn Siêu thấy lạ,
Bèn
cho hỏi là ai.
Đáp:
Học trò, nhân tiện
Đến
ghé thăm thầy tài.
Thế
thì hãy đối lại
Vế
đối này bây giờ:
“Thầy,
chõng tre cót két.”
“Trò,
sân gạch thẩn thơ.”
Quát
đáp ngay tắp lự,
Vừa
chuẩn lại vừa hay.
Siêu
phục tài, giữ lại
Rồi
đàm đạo suốt ngày.
Từ
đó họ thành bạn
Dù
tuổi tác chênh nhau,
Thành
“Thần Siêu”, “Thánh Quát”,
Rất
ý hợp tâm đầu.
Quát
tuy còn ít tuổi,
Nhưng
kiêu căng, khinh người.
Nói:
Xưa này chỉ có
Bốn
bồ chữ trên đời.
Hai
bồ là của Quát.
Một
- của Nguyễn Văn Siêu.
Cả
thiên hạ chỉ một,
Mà
thế cũng là nhiều.
THƠ
CAO BÁ QUÁT
Tắm ở khe Bàn Thạch
Sáng
tắm khe Bàn Thạch.
Nhặt
sỏi chơi suốt ngày.
Cả
giang sơn nhặt mãi,
Chưa
đầy một vốc tay.
Tám bài tứ tuyệt vịnh Hồ Tây
Cầm
câu, thong thả dạo quanh co.
Không
câu, chỉ muốn vợi buồn lo.
Lũ
cá không tin người vô hại,
Hễ
thấy, đua nhau trốn đáy hồ.
Cô gái đi trên cầu lúc chiều tối
Lo
rét không bằng lo đói ăn.
Gạo
đắt, phải cầm cả áo, khăn.
Biết
có người chờ bên bậu cửa,
Lầm
lũi một mình rảo bước chân.
Chiều tà, uống rượu say, trở về
Uống
say, nghiêng ngả, tự về nhà.
Một
dải sông mờ phía xa xa.
Xuống
ao khẽ hỏi bông sen đỏ:
"Liệu
có đỏ bằng mặt của ta?"
Qua núi Dục Thúy
Đất
trời có Dục Thúy.
Muôn
thuở có chùa này.
Phong
cảnh đã tuyệt đẹp,
Lại
thêm ta đến đây.
Muốn
leo lên đến đỉnh
Gửi
lòng vào trời mây.
Muốn
mà làm không được.
Thường
vẫn thế đời này.
Trả lời Trần Ngộ Hiên
Gặp
nhau, chỉ đứng lặng.
Bác
đừng trách thằng này.
Bất
tài mà bị ghét.
Ốm,
còn chạy suốt ngày.
Biển
xa, sông càng xiết.
Trời
lạnh, trăng thêm gầy.
Nhiều
khi buồn, tự hỏi:
Đời
đểu, tính sao đây?
Trọ ở Lạc Sơn
Đường
hẻm quanh co giữa núi ngàn.
Chân
đi, đi mãi, nghĩ miên man.
Khe
núi lơ thơ làn khói biếc.
Con
suối lách qua bậc đá tràn.
Tiễn
khách, chim bay, kêu thảng thốt.
Đón
người, nở muộn những chùm lan.
Còn
trẻ mà thân luôn lặn lội.
Đường
đời phía trước thật gian nan.
Chơi phố Hội An, gặp đào hát người Vị Thành
Tiếc
gặp nhau đã muộn,
Lại
đất khách thế này.
Xa
quê, nghe đàn hát
Dưới
trăng vàng đêm nay.
Đèn
sáng, lửa lòng tắt.
Lệ
khô, rượu còn đầy.
Bạn
bè giờ đã ít,
Tiếc
gì bài hát hay.
Đêm ngồi một mình
Nhà
thị thành, chật hẹp.
Người
vừa ốm vừa già.
Suốt
một đời vất vả.
Thua
từ lúc sinh ra.
Hết
lụt lại đến hạn.
Dân
đói khổ, kêu ca.
Muốn
giúp đời, không được,
Thẹn
mình là nho gia.
Nghe tin Lưu Nguyệt Trì ra Bắc,
không đến tiễn được, xin gửi bài thơ này
Trời
cho tính ngay thẳng,
Mà
đời lắm long đong.
Tiếc
đôi chân quá ngắn,
May
giữ được tấm lòng.
Giận
đời luôn tráo trở.
Nhớ
nhà, đêm ngóng trông.
Nhà
tôi chắc khổ lắm.
Bác
ghé thăm được không?
Người ăn mày
Ngập
ngừng, dù đói rét,
Không
dám xin người đời.
Chỉ
một xu là sống.
Áo
quần rách tả tơi.
Quan
quát: “Đang vụ thuế,
Mày
còn bỏ đi chơi?”
Các
cháu đừng trêu chọc:
Ăn
mày cũng là người!
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét