Như đã nói, ngày xưa tôi cũng dịch nhiều cuốn tiểu thuyết, từ tiếng Nga, trong đó có một số cuốn hay, được tái bản nhiều lần, như Kho Báu Vua Xô-lô-mông, Công Chúa Ô-tô-mi, Macgaret Xinh Đẹp, Đói (giải thưởng Nobel), Quái Vật Cô Đơn (Frenkenstein), vân vân.
Ngẫu nhiên có bản thảo cuốn này, ai thích mời đọc cho vui.
Văn xuôi dịch:
1.
Ba tập Cổ
Tích Thế giới, 1000 trang.
2.
Frenkenstein,
tiểu thuyết, Mary Shelly.
3.
Kho báu của
Vua Solomon, tiểu thuyết, Henry Haggard.
4.
Nàng
Margaret xinh đẹp, tiểu thuyết, Henry Haggard.
5.
Công chúa
Otomi, tiểu thuyết, Hery Haggard.
6.
Đói, Tiểu
thuyết, Knut Hamsun.
7.
Cái giá của
tình yêu, Knut Hamsun.
8.
Tiểu thư
Victoria, tiểu thuyết, Knut Hamsun.
9.
Mối thù bí
ẩn, tiểu thuyết, Joseph Conrad.
10. Tim, cậu bé không cười, tiểu thuyết.
11. Bí mật tàu Kukabura, tiểu thuyết.
12. Chiếc nhẫn và bông hồng, truyện vừa, W. Thackeray.
Chắc còn dăm sáu hay chục cuốn nữa, không nhớ, không lưu.
_____MACGARET XINH ĐẸP
Tiểu thuyết của Henry Haggard
THAI BÁ TÂN dịch
(tái bản nhiều lần)
Nhà xuất bản Thanh niên
Trung tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây
Trung tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây
Lời
người dịch
Henry Rider Hagard (Henry Riđơ
Hagacđơ, 1856 - 1925) là một trong những nhà văn Anh nổi tiếng. Từ lâu tác phẩm
của ông - phần lớn là những cuốn tiểu thuyết li kì hấp dẫn - đã vượt ra ngoài
biên giới nước Anh và trở thành những cuốn sách được đọc nhiều nhất của bạn đọc
từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Hagacđơ đã để lại một di sản văn học khá lớn. Ông đi
khắp nơi trên thế giới, và hầu như sau mỗi chuyến đi, đều đã để lại cho đời một
cuốn sách. Năm 1875, Hagacđơ sang Nam Phi với tư cách là thư kí riêng của Toàn
quyền Anh ở thuộc đại Natan. Nam Phi lúc này đang là trung tâm chú ý của toàn
châu Âu nhờ các mỏ kim cương khổng lồ mới được phát hiện. Hagacđơ đi nhiều,
tiếp xúc nhiều với dân địa phương, gặp không ít các chuyện phưu lưu mạo hiểm mà
sau này ông làm chất liệu để viết Kho báu của vua Xôlômông, cuốn tiểu thuyết
ngay lập tức đã biến tác giả thành nhà vă nổi tiếng. Nó được cả nước Anh tìm
đọc một cách cuồng nhiệt. Đây là cuốn sách nói về một nhóm người dũng cảm vượt
sa mạc, và các dãy núi hiểm trở tới một
đất nước ở châu Phi xa xôi để tìm một người thân mất tích, và nhân thể tìm kho
báu của vua Xôlômông mà tương truyền đang được giấu kín ở đâu đó. Nhiều người
xem những gì nhà văn viết là có thật và đã gửi thư cho ông năn nỉ xin được biết
địa điểm chính xác của kho báu ấy. Thậm chí có người còn báo tin rằng dù tác
gải từ chối, ông ta cũng đã thành lập một đoàn thám hiểm và sắp sang châu Phi
để tìm nó.
Ngoài các tiểu thuyết phiêu lưu về đề tài các thổ
dân châu Phi và Nam Phi, Hagacđơ còn có một mảng sáng tác khác, là các tiểu
thuyết lịch sử, cũng không kém phần hấp dẫn về cốt truyện và có giá trị lớn về
văn học, đặc biệt là cuốn Nàng Macgaret xinh đẹp mà chúng tôi giới thiệu với
bạn đọc Việt Nam lần này.
Thời gian diễn ra các sự kiện được miêu tả trong
cuốn tiểu thuyết này là mười lăm năm cuối cùng của thế kỉ XV, ở Anh và Tây Ban
Nha. Nước Anh lúc này vừa thoát ra khỏi
cuộc chiến tranh Hoa hồng đỏ và hoa hồng trắng, một cuộc nội chiến kéo
dài và đẫm máu. Vua Henri VII lên ngôi, mở đầu cho một triều đại mới. Còn ở Tây
Ban Nha, sau nhiều thế kỉ bị chia nhỏ bởi các lãnh chúa phong kiến cát cứ, lúc này đất nước đã được thống nhất
dưới triều vua Phecđinăng vua xứ Aragông, và hoàng hậu Ixaben, người đứng đầu
xứ Caxitili. Trong một thời gian rất dài Tây Ban Nha bị người Mô Bắc Phi đô hộ,
nhưng đến khi câu chuyện trong tiểu thuyết xảy ra thì họ đã bị đẩy lùi gần hết,
chỉ còn lại trên đất Tây Ban Nha duy nhất một tiểuvương quốc nhỏ là Granađa. Cả
tiểu vương quốc này cũng bị đe doạ, và mấy năm sau, năm 1419, bị vua Phecđinăng
chiếm đóng.
Toà án dị giáo, với những việc
làm kinh khủng của nó, chiếm một vị trí khá nổi bật trong tác phẩm. Đây là công
cụ trấn áp lợi hại của chế độ quân chủ được trao vào ngày tay giáo hội. Nó có
nhiệm vụ truy lùng và hãm hại những người Do Thái và những "kẻ phản
đạo" khác. Thí dụ toà án dị giáo Xêvin được thành lập năm 1480, và chỉ
riêng ở thành phố này, trong vòng 8 năm đầu, nó đã đưa lên giàn thiêu hơn 700
người và giam giữ khoảng 5000 người khác. Tất nhiên, toàn bộ tài sản của họ bị
nhập vào tài sản của nhà vua và giáo hội.
Nàng Macgaret xinh đẹp là một cuốn tiểu thuyết cảm
động và hấp dẫn về tình yêu, lòng chung thuỷ và sự dũng cảm phi thường. Với
nghệ thuật điêu luyện và tính khách quan của những sự kiện lịch sử được miêu tả
một cách tuyệt vời, tác phẩm này đã thu hút sự chú ý của người đọc từ trang đầu
đến trang cuối. Người đọc được đưa dòng thời gian trở lại với thời đại trung cổ
Tây âu, được làm quen với các sự kiện chính trị và tôn giáo thời ấy, và phần
nào hình dung một cách rõ rệt hơn đời sống và phong tục hai nước Anh và Tây Ban
Nha.
Nàng Macgaret xinh đẹp đã trở thành tác phẩm cổ
điển, vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian và dư luận. Nó được dịch
đi dịch lại nhiều lần, được dựng thành phim và ngày càng có thêm những người
hâm mộ mới ở khắp thế giới, trong đó hi vọng sẽ có cả bạn đọc Việt Nam chúng
ta.
Thái Bá Tân
Chương I
PITƠ GẶP ĐACGHILA
Chuyện
xảy ra vào một ngày xuân năm thứ sáu của triều vua anh Henri VII(1). Lúc ấy ở Luân Đôn đang có hội lớn:
Đức vua vừa khai mạc phiên họp của Nghị viện và báo cho mọi người biết rằng
ngài định tấn công nước Pháp và sẽ thân chinh chỉ huy quân đội Anh. Dân chúng
chào đón tin ấy bằng những tiếng hô sung sướng. Tuy nhiên, ở Nghị viện, khi có
người nhắc rằng chiến tranh sẽ cần nhiều tiền, thì sự hào hứng có phần giảm đi
nhiều. Nhưng khía cạnh tế nhị này lại không ảnh hưởng mấy đến đám đông gồm phần
lớn những người không phải chi đồng nào cho chiến tranh, lúc ấy đang tụ tập
quanh tòa nhà Nghị viện. Khi Đức vua cùng đám tùy tùng ăn mặc sặc sỡ xuất hiện,
cả đám đông liền tung mũ lên trời và hò reo đến khản cổ.
Mặc dù còn trẻ, với khuôn mặt thanh tú và cau có,
Đức vua trông có vẻ là một người đã quá mỏi mệt. Ngài khẽ nhếch mép cười, pha
chút châm biếm. Nhưng bỗng nhớ ra rằng cái địa vị ngai vàng mà ngài đang giữ
không phải không có điều đáng nghi ngờ, và rằn cần tỏ ra vui mừng trước những
tiếng reo hò ấy, ngài liền nói đôi lời cám ơn, rồi cho ba thần dân được chạm
vào bàn tay ngà ngọc của mình. Thậm chí ngài còn cho phép mấy đứa trẻ ốm yếu
nào đó đến gần để sờ vào quần áo ngài - điều này chắc chắn sẽ xua được quỷ thần
và chúng sẽ khỏi bệnh. Ngài dừng lại một chốc để nghe các lời cầu xin của đám
dân nghèo, nhắc một người trong đám sĩ quan tùy tùng ghi nhớ các lời cầu xin
ấy; rồi chìm ngập trong những tiếng chào mừng còn cuồng nhiệt hơn trước, ngài
tiến về phía điện Oetminhxtơ để dự đại tiệc.
Trong đám tùy tùng đi theo Đức vua có đại sứ dơ Ailal, người đại
diện cho vua và hoàng hậu Tây Ban Nha là Phecđinăng và Ixaben ở triều đình Anh
quốc. Cùng đi với ông ta là một nhóm các quý tộc ăn mặc sang trọng. Cứ theo cái
vị trí mà ông đại sứ giữ trong đám tùy tùng của vua mà xét, ta sẽ hiểu vai trò
của nước ông được đề cao ở đây như thế nào. Vâng, tất nhiên, và không thể khác
được, vì cách đây bốn năm hoàng tử Actơ, đứa con đầu của Đức vua, đã được chính
thức làm lễ đính hôn với công chúa Ecaterin, con gái của Phecđinăng và Ixaben,
dù lúc ấy Actơ mới một tuổi và kém vị hôn the của mình chín tháng. Thời ấy,
người ta cho rằng phải cho các hoàng tử và công chúa đính hôn sớm để sớm đặt
nền móng cho sự phát triển hai bên cùng có lợi đối với các bậc cha mẹ là các
vua chúa.
Bên trái ông đại sứ là một người Tây Ban Nha cưỡi
con ngựa đen tuyệt đẹp, dáng người cao, mặc bộ quần áo bằng nhung mịn màu đen
sang trọng mà giản dị. Chiếc mũ nhung đen của ông ta chỉ được trang điểm bằng
một viên ngọc. Đó là một người đàn ông đẹp trai trạc ba mươi lăm tuổi, có khuôn
măt nghiêm khắc với những đường nét rõ rệt và đôi mắt đen sắc sảo. Nghe nói
trong mỗi con người có một đôi đặc điểm nào đó giống loài chim hay loài vật -
tất nhiên chỉ là giống sơ sơ hay mang tính ước lệ mà thôi. Nếu thế thì người
này làm người ta nghĩ tới một con đại bàng, và không hiểu vô tình hay hữu ý mà
trên quần áo của những tên hầu và trên yên ngựa của ông ta đều có hình đại bàng
trang điểm. Cái nhìn chăm chú, chiếc mũi khoặm, dáng điệu kiêu hãnh và đầy uy
quyền, những ngón tay thon dài, bước đi nhanh và uyển chuyển - tất cả những cái
ấy đều có một vẻ gì đó rất đại bàng. Với vẻ mặt khinh bỉ và buồn chán, ông ta
lắng nghe những câu trò chuyện giữa Đức vua nước Anh và những đại diện của đám
đông mà ngài đã rộng lượng chú ý tới.
- Ông thấy cái cảnh này kì lạ lắm à, thưa hầu tước?
- Ông đại sứ hỏi ông ta.
- ở đây, nước Anh, nếu không có gì phiền, xin ngài
gọi tôi là xinho(1), - ông ta trả lời một
cách đầy tự trọng, - xinho Đacghila. Cái ông hầu tước mà ngài vừa nhắc tới hiện
đang ở Tây Ban Nha, và đại sứ toàn quyền của Tổ quốc chúng ta ở Granađa của
người Mô. Còn xinho Đacghila, con chiên trung thành của giáo hội, - ông ta đưa
tay làm dấu thánh, - thì hiện đang nay đây mai đó ở nước ngoài để thực thi các
công việc của giáo hội và của Đức vua Tây Ban Nha.
- Và cả công việc của riêng mình nữa, tôi nghĩ thế,
- ông đại sứ lạnh nhạt nói thêm. - Thật ra mà nói, thưa xinho Đacghila, có một
điều tôi không hiểu, đó là việc vì sao ông - tôi biết ông đã từ bỏ con đường
công danh chính trị - không chuyển hẳn sang mặc toàn đồ đen? ừ, mà sao tôi lại
nói là đồ đen nhỉ? Với cái khả năng và sự quen biết rộng rãi mà ông có, với
ông, cái màu đen ấy nay đã có thể trở thành màu huyết dụ, cả chiếc mũ cũng thế(1).
Xinho Đacghila mỉm cười:
- Ngài muốn nói rằng thỉnh thoảng tôi cũng xuất
ngoại vì việc riêng của mình phải không? Vâng, quả có thế. Tôi đã từ bỏ mọi sự
hào hoa của cuộc đời trần tục. Nó chỉ gây thêm những sự lo lắng không cần
thiết, và nó cũng là điều nguy hiểm đối với những người thuộc đẳng cấp quý tộc
nhưng không có được những quyền hạn tương xứng. Từ trung tâm của sự phù hoa đó,
không ít khi mọc lên những cây sồi mà người ta cột dây vào để tự treo cổ...
- Hay người ta có thể chặt làm những chiếc thớt chém
để chém người. Thưa ông, tôi xin chúc mừng ông: ông đang có được sư thông thái
giúp ông giữ lấy những gì quan trọng và gạt bỏ những gì vô bổ. Điều này không
phải ai cũng có được.
- Ngài hỏi vì sao tôi không thay bộ quần áo của mình ư? - Đacghila
nói tiếp, không hề chú ý tới việc ông ta vừa bị ngắt lời. - Nếu nói một cách
cởi mở thì, thưa ngài, đó là vì do những lí do cá nhân. Tôi cũng có những điểm
yếu như người khác. Tôi cũng có thể bị lôi cuốn bởi đôi mắt đẹp hay bị mù quáng
vì tức giận, mà những điều ấy thì không thể hòa hợp với bộ quần áo màu đen hay
màu đỏ được.
- Nhưng những người mặc các bộ quần áo ấy vẫn thường
phạm các tội ông vừa kể đấy thôi, - ông đại sứ nhận xét một cách đầy ý nghĩa.
- Vâng, thưa ngài, và chính điều ấy đã làm hoen ố
nhà thờ thiêng liêng. Là một người phụng sự giáo hội, ngài hiểu rõ điều ấy hơn
ai hết. Ta để lại lòng đất tất cả những gì tội lỗi, nhưng, cũng như bầu trời,
nhà thờ phải vương lên cao hơn trên tất cả, phải trong sạch và không bị hoen ố
một tí nào. Nhà thờ phải là chỗ chứa của những lời cầu nguyện, lòng vị tha và
sự phán xử đúng đắn, là nơi bàn chân của một người tội lỗi như tôi không được
đặt đến, - lại một lần nữa Đacghila làm dấu thánh.
Giọng nói của ông ta chân thật đến mức dơ Aiala vốn
biết nhiều những việc tai tiếng của Đacghila, cũng phải nhìn ông ta với vẻ tò
mò thực sự.
“Đúng là một gã mù quáng, - ông đại sứ nghĩ, - nhưng
là người cần cho chúng ta dù hắn láu lỉnh biết cách kiếm lợi từ cuộc sống và
giáo hội”.
Nhưng ông lại nói to thành tiếng như sau:
- Không có gì đáng ngạc nhiên khi giáo hội thiêng
liêng vui mừng có được một người con như ông, còn kẻ thù thì phải run sợ khi
ông rút kiếm. Tuy nhiên, thưa ông, ông vẫn chưa nói cho tôi biết ông nghĩ gì về
tất cả các nghi lễ này và về dân chúng ở đây.
- Dân chúng ở đây thì thưa ngài, tôi biết rất rõ, vì
tôi đã có dịp sống ở xứ này và nói bằng ngôn ngữ của họ. Cũng chính vì vậy mà
tôi rời Granađa đến đây hôm nay, để được quan sát và báo cáo... - Ông ta dừng
lại một chốc rồi nói thêm: - Còn về cái nghi lễ này thì, nếu là vua, tôi sẽ cư
xử khác hẳn. Vì vừa mới lúc nãy, trong tòa nhà này, cái bọn dân đen - tức là
các đại diện của Hạ nghị viện, hình như chúng tự gọi mình như thế - suýt nữa đã
đe dọa tính mạng Đức vua của mình, khi ông ta tự hạ mình một cách tội nghiệp
xin cấp một phần nhỏ gia tài của đất nước để tiến hành chiến tranh. Tôi thấy
ông ta tái mặt và run lên khi nghe những giọng nói thô lỗ của chúng, như thể
chỉ cần chúng quát lên là ngai vàng của ông ta có thể bị lung lay. Xin ngài cứ
tin tôi, rằng có ngày chính bọn chúng sẽ cai trị nước Anh này. Ngài hãy nhìn
tên kia, người mà Đức vua đang cầm tay và gọi là xơ(1).
Cũng như tôi, Đức vua thừa biết hắn là một kẻ phản đạo, và nếu có quyền, ông ta
đã cho hắn lên dàn thiêu vì những tội lỗi hắn phạm. Theo tin tôi nhận được hôm
qua, thì hắn là người đã lên tiếng chống lại giáo hội...
- Giáo hội và các con chiên của mình sẽ không quên
điều đó khi thời cơ đến, - dơ Aiala thủng thẳng đáp. - Nhưng kìa, nghi lễ đã
kết thúc và nhà vua đang mời chúng ta cùng dự tiệc, nơi sẽ không có những tên
phản đạo làm chúng ta bực mình. Bây giờ đang là tuần chay nên chắc đồ ăn hầu
như sẽ không có. Ta đi thôi, kẻo đứng đây ngáng đường người khác.
Ba giờ trôi qua, mặt trời sắp lặn. Mặt trời có màu
đỏ nhạt, dù đang đầu xuân. Trên những cánh đồng thấp và lầy của khu Oetminhxtơ
tiết trời khá lạnh. Trên khoảng trống trước lâu đài nơi tổ chức bữa tiệc, dân
chúng thành Luân Đôn kéo đến tụ tập rất đông. Làm xong công việc của mình trong
ngày, họ tới đây để chứng kiến ngày lễ của Đức vua. Trong số họ có hai người
đáng chú ý - đó là một người đàn ông và một người phụ nữ quý phái được một
người đàn bà trẻ khá xinh xắn đi kèm.
Người đàn ông trạc ba mươi tuổi. Ông ta ăn mặc giản
dị như phần lớn dân lái buôn thành Luân Đôn, thắt lưng có đeo con dao găm. Ông
ta khá cao, hơn một mét tám mươi(1). Mà
người bạn gái của ông ta cũng không phải là thấp. Nàng mặc trên người chiếc áo
khoác bằng lông thú dày đẹp. Cứ công bằng mà nói thì khó có thể gọi người đàn
ông này là đẹp trai được - trán của ông ta quá cao, còn nét mặt thì có vẻ thô.
Thêm vào đó, trên nửa bên phải của khuôn mặt được cạo nhẵn của ông ta là một
vết sẹo màu đỏ do kiếm chém chạy suốt từ thái dương cho tới cằm. Nhưng dù sao,
khuôn mặt ấy cũng có vẻ cởi mở, dũng cảm và đôi mắt xám luôn nhìn thẳng, mặc dù
ít nhiều hơi nghiêm khắc. Đó không phải là khuôn mặt của một lái buôn, mà có lẽ
đúng hơn là của một người có nguồn gốc cao quý đã trải qua các cuộc chiến
tranh. Ông ta có một thân hình nhanh nhẹn tuyệt vời, còn giọng nói thì, - ông
ta rất ít nói, - nghe rõ ràng và dễ chịu.
Về dáng người của người bạn gái ông ta thì khó nói
chính xác, vì bị che bởi chiếc áo khoác dài, nhưng khuôn mặt của nàng để lộ
trong chiếc mũ che đầu - khi nàng quay lại nhìn và được những tia nắng của mặt
trời đang lặn chiếu sáng - thì làm ta phải sửng sốt vì xinh đẹp. Macgaret
Caxten, hay còn được gọi là Macgaret xinh đẹp, cho đến hết đời vẫn làm lu mờ
tất cả những người đàn bà khác bằng vẻ đẹp hiếm có của mình. Nước da hồng mịn
và các đường nét thanh tú, tròn trĩnh làm khuôn mặt nàng giống một bông hoa
đang nở. Trán nàng thanh, trắng, đôi môi đỏ mọng tuyệt đẹp. Nhưng để hiểu được
sự bí mật của vẻ đẹp đã làm nàng nổi bật hẳn so với những người phụ nữ xinh đẹp
cùng thời, ta phải nhìn thẳng vào mắt nàng. Đôi mắt nàng không phải màu xanh da
trời hay màu xám như ta mong đợi nếu căn cứ vào nước da. Đó là một đôi mắt to đen, lấp lánh và luôn ướt át
như mắt nai, chúng được viền quanh bằng đôi hàng mi hình cung màu đen. Thật khó
mà không chiêm ngưỡng đôi mắt ấy, như không chiêm ngưỡng bông hồng đang nằm
trên tuyết trắng, hay ngôi sao mai nhấp nháy xa xa phía chân trời bình minh
sương mù phủ nhẹ. Và dù đôi mắt ấy bẽn lẽn, e lệ là thế, đàn ông chúng ta phải
một thời gian khá lâu sau mới có thể quên được chúng, nhất là khi đã được thấy
chúng, đôi mắt tuyệt vời của Macgaret xinh đẹp, cùng với mái tóc dày màu sẫm
đang lượn sóng, phủ xuống đôi vai thanh mảnh của nàng.
Pitơ Brum - đó là tên của người đàn ông - lo lắng
nhìn quanh một chốc rồi quay sang nói với Macgaret:
- Ta có cần ở đây thêm nữa không, thưa cô em họ? ở
đây nhiều bọn phàm tục quá. Bố cô có thể giận.
Phải nói thêm rằng về mặt họ hàng, quan hệ giữa Pitơ
và Macgaret không phải là gần gũi lắm - họ chỉ là bà con xa với nhau theo đằng
mẹ - tuy nhiên, họ vẫn xưng hô với nhau như thế, vừa tiện lợi, lại vừa có thể
hiểu thế nào cũng được.
- Vì sao? - Macgaret hỏi lại. Giọng nói dịu dàng của
nàng pha chút âm sắc nước ngoài nghe thoảng qua như làn gió nhẹ phương nam vào
ban đêm, phải tinh ý lắm mới nhận thấy được. - Với một người anh họ như anh,
tôi chẳng còn phải sợ ai nữa. - Nàng nói rồi thích thú nhìn thân hình to lớn,
khoẻ mạnh của Pitơ. - Tôi rất muốn đứng gần để nhìn thấy Đức vua. Cả Bêti cũng
ước mơ điều ấy, phải không Bêti? - Nàng quay sang hỏi người bạn gái cùng đi.
Bêtin Đin là chị em họ với Macgaret, còn với Pitơ
Brum thì thật quá xa xôi. Bêti xuất thân từ một gia đình quý tộc, nhưng bố cô
ta là một người tính tình bốc đồng, ăn chơi vô độ. Ông ta đã làm bà vợ của mình
đau khổ đến không sống nổi. Chẳng bao lâu sau cái chết của bà, ông ta cũng qua
đời, để lại Bêti cho mẹ của Macgaret nuôi nấng và dạy dỗ.
Theo cách riêng của mình, Bêti cũng là một người đàn
bà hấp dẫn về tính tình lẫn bề ngoài. Cô xinh đẹp, có thân hình khoẻ mạnh, cân
đối, đôi mắt to màu xanh da trời đầy vẻ thách thức và đôi môi đỏ đầy đặn. Vốn
lãng mạn và ít nhiều phù phiếm, Bêti thích đànông, và lại càng thích họ yêu
mình. Tuy nhiên, ở cái tuổi hai mươi lăm, cô vẫn là một cô gái đứng đắn, và có
thể tự bảo vệ được danh dự cho mình. Điều này đã được không ít những người đàn
ông hâm mộ cô chứng kiến. Và tuy địa vị hiện nay của cô không lấy gì làm cao
lắm, sâu trong lòng cô vẫn rất tự hào về nguồn gốc của mình, và tỏ ra là một
người rất hiếu danh. Mong muốn lớn nhất của cô là lấy được chồng quý tộc để lại
trở lại với cái địa vị xưa kia của cô mà sự điên rồ của ông bố đã đánh mất. Đó
là một nhiệm vụ khá khó khăn đối với một cô gái có vai trò gần như một người
đày tớ, thêm vào đó lại không có chút của hồi môn nào. Và cuối cùng, để kết
thúc việc miêu tả Bêti, phải nói thêm rằng cô ta yêu mến Macgaret hơn bất kì
người nào trên đời. Cô cũng quý trọng Pitơ không kém, có lẽ vì cả việc dù cố
đến đâu, vẻ đẹp của cô cũng không làm Pitơ mảy may rung động.
Để trả lời Macgaret, Bêti cười to thành tiếng:
- Tất nhiên! Chẳng mấy khi chúng ta bước ra khỏi
Hônbôn(1), và tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội được
tận mắt nhìn thấy Đức vua và những người đi theo. Nhưng Pitơ là người thông
minh, tôi nghĩ chúng ta nên nghe theo. Vả lại trời cũng sắp tối.
- Thôi được - Macgaret thở dài, khẽ nhún vai nói. -
Khi cả hai cho là thế thì buộc phải đi vậy. Nhưng thưa anh họ Pitơ, lần sau đi
dạo chơi, tôi sẽ nhờ một người nào đó hiền lành và dễ tính hơn anh.
Nàng quay người rồi rảo bước đi nhanh qua đám đông.
Trước khi Pitơ kịp chặn lại, Macgaret đã rẽ sang phải, nơi thưa người hơn, và
đến đứng yên khoảng đất trống ngay trước tòa Nghị viện. Đây là nơi tụ tập của
đám lính tráng và đám người hầu đang giữ ngựa đứng chờ các ông chủ của mình.
Đám đông này đứng bao quanh Macgaret, và trong vòng mấy phút Pitơ và Bêti bị
tách khỏi nàng.
Thế là bỗng nhiên một mình Macgaret bị rơi vào giữa
đám lính có nhiệm vụ theo hầu ngài đại sứ Tây Ban Nha dơ Aiala. Những tên lính
này nổi tiếng khá liều lĩnh và thô bạo. Chúng tin chắc sẽ chẳng bị ai trừng
phạt, vì biết rằng địa vị của ông chủ luôn là sự bảo đảm an toàn cho chúng.
Thêm vào đó, lần này hầu như tất cả bọn chúng đều đang say.
Một tên trong đám lính ấy - đó là một gã người
Xcôtlen to lớn, tóc hung được dơ Aiala tuyển chọn từ quê hương hắn, nơi ông
từng làm đại sứ - bỗng thấy trước mặt mình một cô gái trẻ xinh đẹp, liền đi lại
gần để ngắm cho kĩ. Để làm điều ấy, hắn đã nghĩ ra một trò khá thô bạo. Giả vờ
vấp, hắn túm lấy áo khoác của Macgaret như để khỏi ngã xuống đất, rồi kéo thật
mạnh, làm áo rơi, để lộ khuôn mặt tuyệt vời và thân hình cân đối của nàng.
- Các cậu ơi! - Hắn kêu lên bằng cái giọng khản đặc
của người say rượu. - Con chim bồ câu này tự bay tới đây để ban cho tớ một cái
hôn đây! - rồi dang dôi tay dài của mình, hắn ôm lấy Macgaret, cố kéo về phía
hắn.
- Pitơ! Cứu tớ với, Pitơ! - Macgaret vừa kêu to, vừa
cương quyết chống lại.
- Thôi đi, cô em xinh đẹp! - Gã say rượu người
Xcôtlen nói. - Nếu cô em cần thánh giúp đỡ thì thánh Anđrin cũng chẳng thua kém
gì Pitơ!
Nghe câu ví “hóm hỉnh” như thế, đám bạn hắn phá lên
cười to, vì biết tên hắn là Anđrin.
Tuy nhiên, cũng ngay lập tức sau đó chúng lại cười, nhưng vì một
nguyên nhân hoàn toàn khác hẳn: Anđrin bỗng cảm thấy như hắn bị rơi hẫng vào
cơn gió cuốn. Macgaret đã được lôi khỏi vòng tay hắn, còn hắn thì quay như
chong chóng, bị bắn đi xa và ngã phịch, úp mặt xuống đất.
- Ô hô, Pitơ là thế đấy! - Một thằng thốt lên bằng
tiếng Tây Ban Nha.
- Đúng là hắn có thánh thần bảo trợ thật! - Một
thằng khác nhận xét.
Còn thằng thứ ba thì loay hoay đỡ Anđrin dậy.
Vẻ mặt của Anđrin thật đáng sợ. Chiếc mũ bay khỏi
đầu, mái tóc màu hung đỏ như lửa của hắn bê bết bẩn. Hơn nữa, lúc ngã mũi hắn
va vào đá, máu chảy khắp mặt. Đôi mắt đỏ, ti hí của hắn long lên giận dữ như
mắt chồn hôi, còn khuôn mặt thì méo xệch hẳn đi vì tức giận và đau đớn. Gầm lên
một câu gì đó bằng tiếng Xcôtlen, hắn rút kiếm lao vào định quật chết đối thủ
của mình.
Pitơ không có kiếm, thậm chí còn chưa kịp rút con
dao găm ngắn khỏi vỏ. Nhưng thật may trong tay chàng lúc ấy đang có chiếc gậy
lớn một đầu bịt sắt. Và khi Macgaret chưa kịp sợ hãi giơ hai tay lên trời, còn
Bêti kêu ré lên, thì Pitơ đã dùng gậy đánh bật kiếm khỏi tay Anđrin trước khi
hắn đâm chàng. Chàng giáng thêm một đòn thật mạnh nữa trúng vai hắn, làm hắn
lảo đảo.
- Một cú đánh tuyệt vời! Pitơ! Đánh hay lắMacgaret -
Những người đứng xem xung quanh tán thưởng.
Nhưng Pitơ không nhìn thấy, không nghe họ nói -
chàng đang giận dữ một cách điên cuồng vì việc bị xúc phạm. Chàng lại vùng gậy
lên, và lần này cùng với tất cả sức mạnh của mình, chàng giáng thẳng xuống đầu
Anđrin làm đầu hắn vỡ đôi như chiếc vỏ trứng, và hắn gục xuống đất chết.
Một phút im lặng - một sự đùa vui đã kết thúc bằng
cái chết. Cuối cùng, một tên trong đám lính Tây Ban Nha nhìn xác Anđrin, kêu
lên:
- Lạy chúa! Hắn giết chết người anh em của chúng ta
rồi, cái thằng lái buôn chó đẻ khỏe mạnh ấy!
Bạn bè của người chết nhốn nháo một lát rồi một đứa
nói lớn:
- Phải băm xác hắn ra!
Pitơ nhảy lên phía trước và vội nhặt từ đất thanh kiếm của Anđrin.
Đồng thời chàng vứt gậy, tay trái rút dao găm khỏi vỏ. Bây giờ Pitơ đã sẵn sàng
giao chiến với kẻ thù. Trông chàng thật giận dữ và can đảm, đến mức đối thủ dù
bốn năm mươi người với kiếm tuốt trần trong tay, vẫn phải chững lại, do dự
trong phút chốc. Tuy nhiên, biết một mình không thể chống chọi với chừng ấy kẻ
thù, chàng lên tiếng nói, lần đầu tiên trong suốt cả thời gian có cuộc ẩu đả:
- Nào các bạn người Anh! - Chàng kêu to, không ngoái
đầu quay lại để không rời mắt khỏi kẻ thù. - Chẳng lẽ các bạn đứng nhìn lũ chó
Tây Ban Nha kia giết chết tôi ư?
Xung quanh vẫn im lặng, chỉ một lát sau mới có người nói:
- Ai chứ nhất định không phải tôi, tôi xin thề như
thế!
Một người xứ Kent cao to cầm vũ khí nhảy ra đứng
cạnh Pitơ. Tay trái anh ta được che bởi chiếc áo khoác, còn tay phải giữ chặt
thanh kiếm tuốt trần.
- Cả tôi cũng thế! - Một người khác phụ họa theo. -
Tôi đã cùng Pitơ Brum tham gia chiến tranh.
- Cả tôi cũng thế! - Lại một người khác lên tiếng. -
Chúng tôi cùng đồng hương Êxec với nhau!
Chưa đầy một phút sau, đứng cạnh Pitơ đã là một đám
khá đông những người Anh khỏe mạnh, to lớn. Sức lực của hai bên gần như nhau.
- Đủ rồi! - Pitơ nói. - Chúng ta sẽ đánh nhau một
cách công bằng. Xin các bạn hãy trông coi hô những người đàn bà kia. Còn chúng
mày, những tên giết người, nếu chúng mày muốn biết người Anh sử dụng kiếm thành
thạo như thế nào, thì hãy bước ra đây, còn nếu hèn nhát, chúng mày phải để
chúng tao rút đi một cách an toàn.
- Nào bước ra, hỡi những thằng hèn ngoại quốc! - Cả
đám đông kêu lên vì căm ghét bọn lính hiếu chiến, nhốn nháo và lộng quyền này.
Lúc này đám lính người Tây Ban Nha cũng đang sôi máu vì tức giận. Sự thù địch
cũ giữa hai dân tộc lại trỗi dậy. Bằng thứ tiếng Anh bồi, viên đội chửi
Macgaret mấy câu gì đó rất thô bỉ rồi kêu gọi đồng bọn của hắn “cắt cổ những
con lợn Luân Đôn”. Trong ánh mặt trời đang lặn, chắc chắn một cuộc đổ máu lớn
sẽ không tránh khỏi.
Tuy nhiên, điều ấy đã không xảy ra. Một nhà quý tộc
Tây Ban Nha cao dong dỏng từ trước tới giờ đứng khuất trong đám đông lặng lẽ
theo dõi cuộc ẩu đả, bỗng bước ra đứng giữa hai phe thù địch và đưa tay hất
những ngọn kiếm đang chĩa vào nhau. Đó là Đacghila.
- Thôi đi!- Ông ta bình tĩnh nói bằng tiếng Tây Ban Nha. - Đồ ngốc!
Chúng mày muốn tất cả những người Tây Ban Nha ở Luân Đôn bị băm vụn ra chăng?
Còn về con lợn say rượu kia, - ông ta lấy chân đạp lên xác Anđrin, - thì tự hắn
có lỗi. Ngoài ra hắn không phải là người Tây Ban Nha, nên các anh cũng chẳng có
gì để trả thù. Hãy nghe lời ta khuyên. Hay ta phải nói cho các anh biết ta là
ai?
- Thưa hầu tước, chúng tôi biết ngài. - Viên đội
ngoan ngoãn trả lời. - Hỡi các bạn, hãy cho kiếm của mình vào vỏ. Suy cho cùng,
đây không phải là việc của chúng ta.
Đám lính miễn cưỡng nghe theo. Nhưng đúng lúc ấy
bỗng ông đại sứ dơ Aiala xuất hiện. Ông ta được báo về cái chết của tên lính
hầu nên giận dữ nói to, đòi phải trao cho ông ta người đã giết Anđrin.
- Chúng tôi nhất định không nộp Pitơ cho linh mục
Tây Ban Nha! - Cả đám đông nhao nhao phản đối. - Nếu giỏi thì cứ bước ra thử
bắt ông ta!
Một lần nữa tất cả lại nhốn nháo hẳn lên, và Pitơ
cùng các chiến hữu của mình lại sẵn sàng chiến đấu.
Cuộc ẩu đả chắc chắn sẽ không tránh khỏi, dù
Đacghila hết sức ngăn chặn. Nhưng tiếng ồn bỗng nhiên lắng xuống rồi bao trùm
lên xung quanh là một sự im lặng nặng nề. Giữa những hàng kiếm giơ cao, có một
người tầm thước ăn mặc lộng lẫy đang bước tới. Đó là đức vua Henri.
- Ai dám tuốt kiếm ra trên đường phố của ta, ngay
trước cửa lâu đài ta ở? - Đức vua lạnh lùng hỏi.
Có mấy cánh tay chỉ vào Pitơ.
- Nói đi! - Đức vua ra lệnh.
- Macgaret, hãy đi lại đây! - Pitơ gọi.
Và Macgaret được đẩy đi lại phía chàng.
- Tâu bệ hạ, - Pitơ nói, chỉ tay vào xác Anđrin, -
con người này đã xúc phạm đến tiểu thư đây. Tiểu thư đây là con gái của Giôn
Caxten. Còn tôi, là anh em họ của tiểu thư, tôi đã xô hắn ngã. Sau đó hắn tuốt
kiếm xông vào chém tôi và tôi đã giết chết hắn bằng gậy. Chiếc gậy đang nằm
kia. Còn những người Tây Ban Nha bạn hắn lại muốn giết tôi để trả thù. Tôi đã
gọi những người Anh này giúp đỡ. Tất cả chỉ có thế ạ.
Đức vua nhìn chàng từ đầu đến chân.
- Thương gia qua quần áo, - ngài nói, - người chiến
sĩ qua hành động. Tên nhà ngươi là gì?
- Tâu bệ hạ, là Pitơ Brum ạ.
- A, có một nhà quý tộc tên là Pitơ Brum đã hi sinh
ở trận Boxvot, trong khi chống lại ta. - Đức vua mỉm cười. - Ngươi, ngẫu nhiên,
có biết ông ta không?
- Tâu bệ hạ, đó là bố tôi. Chính tôi được chứng kiến
cảnh người ta giết bố tôi, và tôi đã giết chết kẻ ấy.
- Điều này thì ta có thể tin. - Đức vua nói, vẫn
không ngừng quan sát chàng. - Nhưng tại sao con trai của Pitơ Brum, với vết
chém trên mặt, lại khoác bộ quần áo của lái buôn trên người?
- Tâu bệ hạ, - Pitơ bình tĩnh đáp, - bố tôi đã bán
tất cả ruộng đất để lấy tiền cho Đức vua vay, cộng thêm cả những gì bố tôi có.
Nhưng tôi chẳng bao giờ đòi lại. Vì vậy tôi phải sống với cách mình có thể sống
được.
Đức vua phá lên cười:
- Ta thấy thích ngươi, Pitơ Brum ạ, mặc dù tuy nhiên
ngươi đang căm ghét ta.
- Thưa không, tâu bệ hạ. Khi vua Risa còn sống, tôi
đã chiến đấu vì Người. Nay vua Risa không còn nữa, nếu cần, tôi lại chiến đấu
vì một người Anh khác là Henri, và sẽ tận tâm phục vụ vua Anh.
- Những lời nói thật đáng khen. Có thể sau này ta sẽ
cần đến ngươi. Ta không là người để bụng nhớ lâu. à mà suýt nữa ta quên: Ngươi
nói là sẽ chiến đấu vì ta mà lại ẩu đả giữa phố, gây nên bất hòa giữa ta và
những người Tây Ban Nha của ta thế này sao?
- Tâu bệ hạ, tôi đã kể hết tất cả.
- ừ, ta đã nghe ngươi nói. Nhưng ai sẽ làm chứng
những điều ngươi nói là sự thật? Có thể cô con gái của thương gia Caxten chăng?
- Vâng, tâu bệ hạ. Con người mà anh họ tôi giết chết đã xúc phạm
tôi. Tội lỗi duy nhất của tôi là muốn được nhìn thấy bệ hạ. Đây, bệ hạ hãy nhìn
chiếc áo khoác của tôi thì biết.
- Vì một đôi mắt xinh đẹp như của cô, chẳng trách
anh ta đã giết chết hắn. Nhưng cô có thể không khách quan. - Đức vua lại mỉm
cười và nói thêm: - Không còn ai làm chứng nữa à?
Bêti đang định lên tiếng thì Đacghila đã bước lên
phía trước. Ông ta cởi mũ, cúi đầu chào và nói bằng tiếng Anh:
- Dạ có tôi, thưa bệ hạ. Tôi đã nhìn thấy tất cả.
Con người dũng cảm này không hề có lỗi. Có lỗi là những tên lính hầu của ngài
dơ Aiala, một người đồng hương Tây Ban Nha với tôi. ít ra lúc đầu là thế. Sau
đó thì cuộc ẩu đả bắt đầu.
Đến lúc này dơ Aiala lên tiếng. Ông ta còn đang tức
giận, và tuyên bố rằng nếu việc tên lính hầu của ông ta bị giết không được giải
quyết một cách thỏa đáng ông ta sẽ viết thư cho Đức vua và hoàng hậu Tây Ban
Nha để họ biết ở Luân Đôn người của họ bị đối xử như thế nào.
Nghe nói thế, vua Henri tái mặt. Trên đời này ngài sợ nhất là để
quan hệ giữa ngài và vua Tây Ban Nha trở nên xấu.
- Hôm nay ngươi đã làm một việc đáng trách, Pitơ
Brum ạ, - Đức vua nói. - Sẽ có tòa án xem xét việc này. Tạm thời ta phải cho
bắt ngươi. Nói đoạn, ngài quay người như để ra lệnh bắt Pitơ.
- Tâu bệ hạ! - Pitơ kêu lên. - Tôi đang sống trong
nhà của thương gia Caxten ở khu Honbon, và tôi sẽ chẳng chạy trốn đâu cả.
- Ai sẽ đứng ra bảo đảm điều đó, - vua hỏi, - và cả
việc ngươi không tiếp tục gây gổ dọc đường từ đây về nhà?
- Tôi sẽ bảo đảm, - Đacghila bình tĩnh nói, - và sẽ
rất vui lòng nếu tiểu thư kia cho phép tôi được tiễn nàng và ông anh họ của
nàng. Ngoài ra, - ông ta hạ giọng nói thêm, - tôi thiết nghĩ việc cho ông ta
vào tù sẽ gây ra bạo động hơn là cứ để ông ta về nhà.
Henri đưa mắt nhìn đám đông đang chăm chú theo dõi
mọi chuyện, nhìn thấy trên mặt họ những dấu hiệu gì đó, khiến ngài phải đồng ý
với Đacghila.
- Thôi được, hầu tước nói đúng, - Henri nói, - ta
tin ông và Pitơ, người đã tuyên bố sẽ đến trình diện lúc cho gọi. Từ giờ đến
ngày mai cứ để xác chết này trong nhà thờ, chờ khám nghiệm. Thưa ngài linh mục,
ngài hãy đưa tay cho tôi cầm. Đêm nay, tôi có nhiều việc quan trọng hơn cần bàn
với ngài trước khi chúng ta đi ngủ.
Chương II
GIÔN CAXTEN
K
|
hi
Đức vua đi khỏi, Pitơ quay sang những người đứng xung quanh và chân thành cảm
ơn họ. Sau đó chàng nói với Macgaret:
- Ta đi thôi, thưa cô em họ. Nghi lễ đã kết thúc, và
mong ước của cô đã được thực hiện. Cô đã nhìn thấy Đức vua. Còn bây giờ ta nên
về nhà, sớm bao nhiêu tôi càng yên tâm bấy nhiêu.
- Tất nhiên! - Macgaret trả lời. - Tôi đã nhìn thấy
nhiều hơn những điều muốn thấy. Nhưng trước khi đi, ta phải cảm ơn con người
quý tộc Tây Ban Nha kia, xinho...
- ... Đacghila, thưa tiểu thư. Tạm thời chỉ cần biết
cái tên như thế là đủ. - Đacghila lịch sự đỡ lời, đầu cúi thấp, mắt vẫn không
ngớt nhìn khuôn mặt tuyệt vời của Macgaret.
- Thưa xinho Đacghila, tôi cảm ơn ông, nhân danh tôi và cả anh họ
của tôi đây, người mà vừa rồi ông đã cứu sống. Có đúng thế không, Pitơ? Bố tôi
cũng sẽ rất biết ơn ông.
- Vâng. - Pitơ đáp, giọng có vẻ ảm đạm. - Tôi cũng
rất biết ơn ông. Còn về tính mạng tôi thì tôi tin vào đôi tay của tôi và của
bạn bè tôi nhiều hơn. Chúc ông ngủ ngon, thưa ông.
- Tôi e rằng chúng ta chưa thể chia tay nhau được. -
Đacghila mỉm cười đáp. - Ông quên rằng tôi đứng ra bảo lãnh cho ông, và vì thế
tôi phải tiễn ông tận nhà để biết ông sống ở đâu. Vả lại làm thế chỉ có lợi
thêm cho ông, vì những người đồng hương của yếu tôi có máu thích báo thù, và
nếu tôi không cùng đi, họ có thể lại gây sự với ông.
Thấy Pitơ có ý cương quyết phản đối một cuộc đưa
tiễn như thế, Macgaret vội vã xen vào:
- Tất nhiên, đó là giải pháp tốt nhất. Nếu là bố
tôi, bố tôi cũng xử sự như vậy. Thưa ông, tôi sẽ chỉ đường cho ông. - Rồi khẽ
đỡ lấy bàn tay Đacghila đang chìa cho nàng một cách lịch sự, Macgaret nhanh
nhẹn đi lên phía trước, để Pitơ cùng đi với Bêti.
Trong một thứ tự như thế, họ đi ngang qua những cánh
đồng đang chìm dần trong ánh hoàng hôn nằm giữa điện Oetminhxtơ và Hônbôn, rồi
họ đi len lỏi giữa những đường phố chật hẹp đan quyện vào nhau. Macgaret nói
chuyện với Đacghila bằng tiếng Tây Ban Nha khá thông thạo. Nàng biết thành thạo
thứ tiếng này nhờ những lí do sẽ được nói ở phần sau. Pitơ đi sau họ. Chàng
đang ở trong trạng thái hết sức buồn bực, một tay cầm thanh kiếm của gã
Xcôtlen, tay kia đỡ Bêti.
Giôn Caxten sống ở một ngôi nhà lớn được xây dựng
không theo một kế hoạch nào ở phố chính của khu Honbon. Phía sau nhà là một khu
vườn có tường cao bao bọc. Phía trước nhà là cửa hàng, kho chứa và phòng làm
việc. Giôn Caxten là một thương gia rất giàu, làm nghề mua bán hàng từ Tây Ban
Nha sang, với sự cho phép của Đức vua. Các tàu của ông chở về đây nguyên liệu
để dệt thành vải từ thứ lông cừu hảo hạng Tây Ban Nha, nhung, lụa, rượu nho từ
Granađa cũng như các loại vũ khí tuyệt vời có chạm trổ các hình vẽ tinh xảo
được làm từ một thứ thép đặc biệt. Có khi ông buôn bán cả vàng và đồng được
khai thác ở các mỏ, vì ông không chỉ đơn thuần là một nhà buôn, mà còn là một
chủ nhà băng theo nghĩa thời ấy người ta vẫn hiểu.
Không ai biết chính xác của cải của ông có bao
nhiêu. Người ta đồn rằng dưới các cửa hàng là những kho ngầm chứa đầy các loại
hàng hóa quý. Ngôi nhà của ông trông giống một nhà tù với những bức tường đá
cao, dầy và những tấm cửa sắt nặng nề không một tên trộm nào lọt qua nổi. Ngôi
nhà to lớn này, dưới thời các triều vua Plantaghênet từng là một trang trại quý
tộc, được bảo vệ nghiêm ngặt. Hiện nay trong đó vẫn còn nhiều phòng kín, bí mật
chỉ một mình ông chủ mới biết. Thậm chí cả con gái ông và Pitơ cũng không bao
giờ được đặt chân tới đó. Trong nhà có khá nhiều đầy tớ, đó là những chàng trai
khỏe mạnh luôn mang dao găm hoặc thậm chí có kiếm dưới áo khoác ngoài để bảo vệ
gia đình ông chủ. Những căn phòng bên trong, nơi Caxten, Macgaret và Pitơ ở khá
rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Chúng đã được ốp bằng các tấm gỗ sồi cho phù hợp
với phong cách các triều vua Truđo và có những ô cửa sổ lõm sâu nhìn ra vườn.
Khi Pitơ và Bêti tới cửa, họ nhận thấy Macgaret và
Đacghila đi nhanh hơn họ rất nhiều và đã vào hẳn trong nhà. Cửa ra vào đóng
kín, Pitơ phải gõ khá mạnh, người hầu mới ra mở. Chàng đi ngang qua phần hiên rồi
bước vào phòng khách, nơi đang nghe có người nói chuyện. Đó là một căn phòng
đẹp, có những chùm đèn treo, thắp bằng dầu ôliu và một lò sưởi lớn có củi đang
cháy. Trên chiếc bàn bằng gỗ sồi đặt trước lò sưởi, bữa ăn tối đã được dọn ra.
Macgaret cởi áo khoác ngoài đứng sưởi trước ngọn lửa, còn Đacghila thì ngồi
xuống một chiếc ghế bành to. Ông ta có vẻ như một người khách thường xuyên tới
đây. Ông ta cầm chiếc mũ trên tay, tựa người vào lưng ghế và ngắm nhìn
Macgaret.
Đứng trước ông là Giôn Caxten, một người đàn ông to
lớn trạc năm mươi, sáu mươi tuổi, có khuôn mặt thông minh, với đôi mắt sắc đen
và bộ râu cũng màu đen. ở đây, trong ngôi nhà của mình, ông mặc chiếc áo khoác
sang trọng được làm bằng thứ lông thú đắt tiền, và trang điểm bằng một dây
chuyền bằng vàng điểm những viên đá quý. Khi ngồi ở quầy hàng hoặc trong phòng
làm việc, ông ăn mặc giản dị hơn bất kì một người lái buôn nào khác ở Luân Đôn.
Tuy nhiên, trong thâm tâm ông rất ưa ăn diện sang trọng, và thường vào các buổi
chiều, thậm chí chẳng có ai để nhìn, ông cũng tham gia cho phép mình được hưởng
sự thích thú này.
Thoáng nhìn khuôn mặt của Caxten, Pitơ hiểu ngay
rằng ông đang rất lo lắng. Nghe tiếng bước chân của Pitơ, ông liền quay lại và
nói với chàng bằng vẻ cương quyết và cứng rắn của mình:
- Chuyện gì vừa xảy ra thế, Pitơ? Anh đã giết chết
một người ngay trước cổng cung điện Đức vua phải không? Đánh nhau. Một vụ ẩu đả
suýt gây ra một cuộc đổ máu lớn giữa một bên là người Anh, do anh đứng đầu, và
một bên là đám lính của ngài linh mục đại sứ dơ Aiala! Đức vua ra lệnh bắt anh
nhưng xinho đây đã đứng ra bảo lãnh. Có đúng thế không?
- Hoàn toàn đúng như thế, - Pitơ bình tĩnh đáp.
- Nếu như thế thì tôi sẽ chết, tất cả chúng ta sẽ
chết! Ôi! Thật đáng nguyền rủa cái ngày tôi đã cho một người có máu hiếu chiến
như anh bước chân vào nhà tối Anh định nói gì đây?
- Cháu muốn nói rằng cháu đã đói bụng, - Pitơ đáp. -
Cứ để mọi người bắt đầu kể cho bác nghe câu chuyện này, kể tiếp những gì còn
sót lại. Lưỡi họ khéo léo hơn lưỡi cháu! - Nói đoạn, chàng giận dữ nhìn về phía
Macgaret, lúc này đang cười to khi thấy Đacghila mỉm cười.
- Thưa bố, - Macgaret nói xen vào, - xin bố đừng
giận Pitơ. Anh ấy chỉ có một lỗi duy nhất là đôi tay quá nặng. - Con có lỗi vì
muốn ở lại xem Đức vua, mặc dù cả Pitơ lẫn Bêti đều phản đối. Sau đó cái thằng
thô lỗ ấy, - đôi mắt nàng bỗng ứa đầy những giọt lệ giận dữ và xấu hổ, - ôm lấy
con, và Pitơ đã đánh hắn ngã. Khi hắn cầm kiếm định chém Pitơ, Pitơ đã giết hắn
bằng gậy, còn sau đó thì... Sau đó xảy ra những việc còn lại.
- Ông Pitơ xử sự như thế là rất đúng1 - Đacghila nói
bằng cái giọng dịu dàng pha chút âm sắc nước ngoài của mình. - Tôi đã nhìn thấy
tất cả và tin chắc rằng cái gã Xcôtlen kia sẽ giết chết ông. Tôi biết ông đã
chống đỡ rất giỏi, nhưng thật tài tình rằng ông đã kịp đánh hắn trước khi hắn
tấn công. Điều ấy thật là...
- Thôi được! - Caxten nói. - Trước hết chúng ta ăn
tối đã, rồi sau bàn tiếp. Thưa xinho Đacghila, tôi hi vọng rằng ông sẽ không từ
chối tôi cái vinh dự được mời ông cùng ngồi ăn bữa tối đạm bạc này chứ? Tất
nhiên, sau bữa đại tiệc của nhà vua, thật khó mà có thể ngồi xuống bàn cơm của
một thương gia nghèo.
- Chính ông đang đem lại vinh dự cho tôi đấy ạ, - Đacghila nói. -
Còn về bữa tiệc của nhà vua thì, đang là tuần chay, nên Đức vua không chiêu đãi
gì nhiều. Tôi hầu như chẳng ăn gì, và cũng như xinho Pitơ, tôi hiện đang rất
đói.
Caxten khẽ rung chiếc chuông bằng bạc, và người hầu
bê ra ngay một bữa ăn rất thịnh soạn. Trong khi người hầu bầy các đĩa lên bàn,
Caxten lại gần chiếc tủ lẩn sâu vào tường và lấy từ đấy ra hai chiếc chai lớn có dây bện xung
quanh. Ông cẩn thận mở nút rồi tuyên bố rằng muốn chiêu đãi khách bằng thứ rượu
từ quê hương của ông ta. Rồi Caxten liền đọc một đoạn kinh bằng tiếng Latinh và
đưa tay làm dấu thánh. Đacghila cũng làm
theo, sau khi nói rằng ông ta rất sung sướng được làm khách của một con chiên
Cơ Đốc ngoan đạo như vậy.
- Thế ngoài con chiên Cơ Đốc, ông có thể nghĩ tôi là
ai khác nữa? - Caxten hỏi, ném một cái nhìn rất lạnh vào Đacghila.
- Thưa ông, tôi chẳng nghĩ gì cả, - Đacghila đáp. -
Nhưng than ôi, như ông biết, không phải ai cũng là con chiên đạo Cơ Đốc. Chẳng
hạn ở Tây Ban Nha còn có nhiều người Mô và... Do Thái.
- Tôi biết, - Caxten nói. - Tôi đã từng buôn bán với
cả hai loại người ấy.
- Nếu thế thì có lẽ ông đã từng ở Tây Ban Nha?
- Không, tôi là một nhà buôn người Anh. Nhưng mời
ông hãy nếm thử thứ rượu này. Nó từ Granađa, và chỉ riêng điều ấy cũng đủ nói
rằng nó ngon.
Đacghila nếm một tí rồi sau đó uống hết cả cốc.
- Đúng là ngon thât! - Ông ta nói. - Thậm chí ở nhà,
trong các kho rượu của mình, tôi cũng chẳng có được thứ rượu như thế này.
- Nghĩa là ông sống ở Granađa, thưa xinho Đacghila?
- Caxten hỏi.
- Thỉnh thoảng thôi, khi tôi không đi chu du đây đó.
ở đó tôi có một ngôi nhà do mẹ tôi để lại. Bà rất yêu thành phố này và đã mua
lại của người Mô một lâu đài cổ. Còn tiểu thư, tiểu thư có muốn tới thăm
Granađa không? - Ông ta hỏi Macgaret, hình như muốn thay đổi đề tài câu chuyện.
- ở đấy có một ngôi nhà tuyệt đẹp gọi là Angambra(1).
Từ cửa sổ nhà tôi có thể nhìn thấy nó.
- Chắc con gái tôi khó có lúc nào đó để nhìn thấy
nó, - Caxten nói. - Tôi không nghĩ cháu sẽ tới Tây Ban Nha.
- Ông đừng nghĩ thế, nhưng ai mà biết trước được?
Họa may chỉ có Chúa và các thánh. - Đacghila lại làm dấu thánh rồi bắt đầu khen
Macgaret xinh đẹp.
Ông ta là một người kể chuyện giỏi có giọng nói dễ chịu, làm
Macgaret lắng nghe một cách chăm chú đến mức quên cả ăn. Còn Caxten và Pitơ thì
ngồi im quan sát hai người. Cuối cùng bữa ăn kết thúc, người hầu thu dọn bát
đĩa rồi đi ra. Lúc ấy Caxten mới quay sang nói với Pitơ:
- Nào, bây giờ thì anh kể tôi nghe câu chuyện của anh đi.
Pitơ kể tóm tắt những gì đã xảy ra, không bỏ sót một
chi tiết nào.
- Tôi không cho anh là người có lỗi, - Caxten nói khi Pitơ kể xong,
- và tôi hiểu anh không thể làm khác. Tôi chỉ kết tội Macgaret, vì tôi chỉ cho
phép nó đi dạo cùng anh và Bêti đến bờ sông thôi, và luôn dặn phải tránh xa đám
đông.
- Vâng, thưa bố, con có lỗi, con mong bố tha thứ cho
- Macgaret nói một cách rất thành khẩn, đến nỗi Caxten thấy không đủ sức trách
con một điều nào.
- Con phải xin lỗi Pitơ, - ông nói. - Có lẽ anh ta
sẽ vào tù vì chuyện này, và còn bị đem ra xử vì tội đã giết người. Đừng quên
rằng đó là tên lính hầu của dơ Aiala, người mà Đức vua của chúng ta không muốn
làm mất lòng. Còn dơ Aiala thì rõ ràng là rất tức giận.
Những lời này làm Macgaret hoảng sợ. Trái tim nàng
đau thắt khi nghĩ tới việc Pitơ có thể gặp tai họa. Khuôn mặt nàng tái nhợt,
đối mắt đầy lệ ứa.
- Ôi, bố đừng nói thế! - Nàng kêu lên. - Pitơ, anh
phải trốn ngay lập tức.
- Không, không bao giờ. - Pitơ cương quyết đáp. -
Tôi đã hứa với Đức vua, còn nhà quý tộc ngoại quốc này thì đứng ra bảo lãnh cho
tôi.
- Biết làm thế nào bây giờ? - Macgaret nói tiếp, rồi
nàng quay sang Đacghila, vừa bóp chặt những ngón tay thanh mảnh của mình, vừa
nhìn ông ta với vẻ hi vọng. - Thưa ông, ông là người có quyền lực, lại kết thân
với các bậc vua chúa, xin ông hãy giúp đỡ chúng tôi!
- Lẽ nào tôi đến đây không phải để làm điều đó? Mặc dù một người có
thể gọi một nửa dân thành phố Luân Đôn đến giúp mình như anh họ của cô đây, tôi
nghĩ chưa chắc đã cần ai giúp đỡ. Tuy nhiên, xin cứ nghe tôi nói. Nước Tây Ban
Nha chúng tôi có hai đại sứ dưới triều vua Anh, là dơ Aiala, người có tên lính
hầu bị giết, và dơ Puebla, bạn thân của Đức vua. Kể cũng lạ rằng dơ Puebla
không thích dơ Aiala. Nhưng ông ta lại thích tiền, là cái có lẽ ta có thể kiếm
được. Vì vậy, nếu người buộc tội không phải là linh mục dơ Aiala, mà là dơ
Puebla, người am hiểu tòa án và luật pháp nước Anh, thì... ông hiểu ý tôi chứ,
ông Caxten?
- Tôi hiểu, - Caxten đáp. - Nhưng làm sao tôi có thể
hối lộ được dơ Puebla? Nếu tôi đưa tiền cho ông ta, nhất định ông ta sẽ đòi
thêm.
- Tôi thấy ông cũng hiểu tính tình của Puebla, -
Đacghila nhận xét một cách khô khan. - Ông nói rất đúng. Không phải đưa cho ông
ta bất cứ loại tiền gì cả. Ta chỉ tặng quà, nhưng chỉ sau khi có lệnh ân xá.
Vâng, dơ Puebla biết rằng lời nói của Giôn Caxten được coi trọng ở Luân Đôn
chẳng kém gì trong dâm do Thái ở Granađa và trong giới thương gia ở Xêvin. ở
hai thành phố ấy tôi đã được nghe nói về sự giàu có của ông.
Nghe thế, đôi mắt Caxten bỗng ánh lên tức giận,
nhưng ông chỉ nói:
- Có thể là thế. Nhưng làm sao tôi tiếp xúc được với
ngài đại sứ dơ Puebla, thưa ông?
- Nếu được ông cho phép, đó sẽ là nhiệm vụ của tôi.
Còn bây giờ xin ông cho biết ông có thể bỏ ra bao nhiêu để cứu bạn ông ra khỏi
những điều phiền toái? Năm mươi đồng tiền vàng được không?
- Thế thì nhiều quá! - Caxten nói ngay. - Mạng sống
của một thằng mạt hạng như hắn không đáng cả mười đồng. Vả lại chính hắn là người
gây sự, nên hoàn toàn không cần bồi thường gì cả.
- Thưa ông, trong ông, con người lái buôn đang lên
tiếng. Ông sẽ gặp nguy hiểm, nếu cho rằng cai trị cuộc đời này là chân lí, chứ
không phải các ông vua. Cái thằng cục súc kia không đáng giá gì thật, nhưng một
lời của dơ Puebla nói với vua Henr, lại rất đắt giá.
- Thôi được, năm mươi đồng tiền vàng cũng được, -
Caxten nói. - Tôi xin cám ơn trước rằng ông đã nhận làm người trung gian. Ông
lấytiền ngay bây giờ chứ?
- Không! Không bao giờ! Tôi chỉ lấy tiền lúc nào mang quyết định ân
xá lại đây. Thưa ông, tôi sẽ còn tới đây để báo cáo kết quả công việc. Tạm
biệt, thưa tiểu thư xinh đẹp. Mong thánh thần phù hộ cho thằng lính láo lếu đã
bị giết chết. Chính nhờ hắn mà tôi được làm quen với tiểu thư, và phù hộ cho cả
bộ óc thông minh của ông bố cũng như bàn tay to khỏe của người anh họ tiểu thư.
Hẹn gặp lại!
Đacghila cúi chào rồi đi ra, có một người hầu đi
theo.
- Tômat, - Caxten nói với người hầu khi anh ta quay
lại, - cậu biết giữ bí mật. Cậu hãy đội mũ, mặc áo khoác rồi đi theo xem người
Tây Ban Nha kia đi đâu. Cố tìm hiểu xem ông ta ở đâu và dò la, hỏi han tất cả
những điều có thể biết về ông ta. Nhanh lên!
Người hầu cúi đầu chào rồi đi ra. Caxten lắng tai
nghe cho đến lúc có tiếng khóa cổng vọng lại. Rồi quay sang Pitơ và Macgaret,
nói:
- Tôi không thích tất cả những việc này. Tôi có cảm
giác rằng chúng ta sẽ mang lại tai họa cho chúng ta. Cả anh chàng Tây Ban Nha
này tôi cũng không thích.
- Nhưng ông ta có vẻ là một người tử tế, thuộc dòng
họ cao quý, - Macgaret nói.
- Vâng, rất tử tế, quá ư tử tế; và cũng rất cao quý,
quá ư cao quý, nếu tôi không nhầm. Những người tử tế và cao quý như thế này...
- Caxten ngừng lời một lát rồi nói tiếp. - Này con gái, bằng cái tính tự do của
mình, con đã khuấy động dậy những sức mạnh khủng khiếp. Con hãy vào giường ngủ,
và hãy cầu Chúa để chúng không ập xuống ngôi nhà của chúng ta, làm chúng ta
khuynh gia bại sản và chết.
Macgaret đi ra, lo sợ và ít nhiều băn khoăn. - “Nàng
đã làm gì đáng trách? Tại sao bố nàng lại không tin con người Tây Ban Nha đẹp
trai kia?”
Khi nàng đi khỏi, từ nãy đến giờ hầu như chỉ ngồi
im, Pitơ ngẩng đầu hỏi Caxten:
- Bác sợ gì, thưa bác?
- Nhiều điều, Pitơ ạ. Trước hết là nhân vụ này,
chúng sẽ láy của tôi khá nhiều tiền. Chả là ai cũng biết tôi giàu. Mà moi tiền
người khác không bị xem là tội lỗi. Sau nữa là nếu tôi chống lại, người ta sẽ
đặt ra nhiều câu hỏi.
- Những câu hỏi gì ạ?
- Pitơ, anh có bao giờ nghe nói tới những người theo
đạo Cơ Đốc mới chưa, những người mà người Tây Ban Nha gọi là maran ấy mà?
Pitơ gật đầu.
- Nếu thế thì anh phải biết rằng maran là những
người Do Thái theo đạo Cơ Đốc. Nghĩa là, tôi kể anh nghe điều này vì anh là
người biết giữ kín mọi chuyện - bố tôi cũng là một maran. Không cần biết tên
ông là gì, nên quên đi thì hơn. Nhưng ông đã bỏ Tây Ban Nha để chạy sang nước
Anh vì những lí do chỉ liên quan đến một mình ông, rồi gọi mình bằng cái tên
của nơi ông bỏ chạy là Caxtili, hay Caxten. Vì luật pháp không cho người Do
Thái sống ở nước Anh, nên ông nhập đạo Thiên Chúa. Đừng gạn hỏi vì sao ông làm
thế, điều bí mật ấy đã được chôn xuống đất theo ông. Ông cũng bắt tôi, người
con trai duy nhất của ông, nhập đạo này. Lúc ấy tôi mười tuổi. Ông chẳng quan
tâm mấy tới việc tôi sẽ thờ ai - thánh Abraam hay thánh mẫu Maria. Các giấy tờ
chứng nhận tôi nhập đạo Thiên chúa hiện nay tôi còn giữ trong chiếc hòm sắt.
Vâng, bố tôi là một người thông minh, đã gây dựng nên sự nghiệp cho mình. Khi
chết cách đây hai mươi lăm năm, ông đã để lại cho tôi một tài sản không nhỏ.
Vào năm ấy, tôi lấy một phụ nữ Anh, là chị em họ của mẹ ảnh hưởng. Tôi yêu bà
ấy, tôi sống hạnh phúc và đã cho bà ấy tất cả những gì mong muốn. Nhưng sau khi
sinh Macgaret, cách đây 23 năm, bà ấy lâm bệnh và chẳng bao giờ khỏe lại. Tám
năm sau bà ấy mất. Anh hẳn còn nhớ bà ấy, vì anh đã là một chàng trai khi bà ấy
dẫn anh đến đây bắt tôi hứa sẽ giúp đỡ anh, vì ngoài bố anh, xơ Pitơ Brum, cả
dòng họ quý tộc lâu đời của anh chẳng còn ai nữa. Bất chấp lời tôi khuyên, bố
anh đã đem hết những gì mình có để hi sinh cho cái gã Risa tiêm quyền và lừa
đảo kia; hắn hứa nâng đỡ bố anh, nhưng thực chất đã bòn rút hết tiền bạc của
ông. Bố anh bị giết chết trong trận Boxvot, không để lại cho anh tiền bạc,
ruộng đất, mà anh lại còn bị thù ghét. Lúc ấy tôi mời anh về ở trong ngôi nhà
của tôi, và anh, một người thông minh, anh đã cởi bỏ áo giáp để mặc lên người
bộ đồ dạ của thương gia. Anh trở thành bạn chung vốn với tôi trong nghề buôn
bán, dù phần lời anh được hưởng nhỏ bé không đáng kể, bây giờ anh lại thay
chiếc gậy gỗ bằng thanh kiếm sắt, - Caxten nhìn thanh kiếm của tên lính Xcôtlen
nằm trên chiếc bàn con, - còn Macgaret thì khuấy động dậy những tà lực mà tôi
vừa nhắc tới.
- Bác định nói gì, thưa bác?
- Nói về thằng cha Tây Ban Nha lúc nãy mà Macgaret
đưa vào nhà này và cho là một người tốt.
- Bác biết điều gì về hắn không?
- Đợi một phút, tôi sẽ kể anh nghe.
Giôn Caxten cầm đèn đi ra khỏi phòng. Một lát sau
ông quay trở lại, cầm trong tay một bức thư nội dung đã được giải mã do chính
tay ông chép lại.
- Đây là bức thư, - ông nói, - của một bạn hàng và là người bà con
của tôi, Hoan Becnanđex, cũng là maran, đang sống ở Xêvin, nơi có triều đình
của Phecđinăng và Ixaben. Ngoài những việc khác, ông ta có viết: Tôi báo trước
để những người bà con của ta ở nước Anh biết để đề phòng một việc sau đây. Tôi
biết có một người mà tôi không được nhắc đến tên, thậm chí cả trong bức thư
viết bằng tín hiệu mật mã này. Hắn là một người có thế lực rất lớn, chức vụ
cao, và mặc dù nổi tiếng ăn chơi, thích hưởng lạc, hắn chính là một trong những
giáo đồ cuồng tín và độc ác nhất Tây Ban Nha. Với tư cách một sứ thần, hắn đã
được phái đi hay sắp tới sẽ được phái đi từ Granađa tới nước Anh để kí một hiệp
định bí mật với vua Anh. Sẽ phải có một bảng liệt kê những maran giàu có, nổi
tiếng ở đây, để khi có cơ hội tiêu diệt tất cả dân Do Thái và maran, dễ dàng
bắt họ đưa sang Tây Ban Nha để tòa án dị giáo xét xử. Hắn còn có nhiệm vụ thống
nhất với vua Anh để không một tên Do Thái hay maran nào được phép ẩn náu ở nước
Anh. Ông hãy đem tin này báo cho tất cả những người liên quan.
- Bác cho rằng hắn chính là Đacghila à? - Pitơ hỏi
khi Caxten gập thư cho vào túi áo khoác.
- Tôi nghĩ chính hắn. Tôi được báo rằng cáo đã ra
khỏi hang tìm mồi, và ta phải để mắt tới đàn gà của mình. Chẳng lẽ anh không
nhận thấy hắn làm dấu thánh như một linh mục, và nói rằng hắn sung sướng được ở
giữa những con chiên Cơ Đốc ngoan đạo? Hơn nữa, bây giờ đang là tuần chay, thế
mà thật rủi, trên bàn ăn của ta lại có thịt, mặc dù không ai động đến nó. Anh
cũng biết rằng tôi không giữ đúng lắm các quy định của giáo hội, - Caxten vội
nói thêm. - Hắn cũng nhận thấy điều đó và chỉ ăn các món cá, dù uống khá nhiều
rượu. Tôi tin chắc rằng tin về món thịt này sẽ được gửi về Tây Ban Nha ngay
chuyến tàu đầu tiên.
- Nếu thế thì đã sao? Chúng ta đang sống ở nước Anh
và người Anh không phải theo luật lệ và phong tục Tây Ban Nha. Theo cháu, chính
Đacghila đã được chứng kiến điều ấy hôm nay trước sân tòa Nghị viện. Hậu quả
của cuộc ẩu đả vừa rồi ta chỉ lo ở đây, ở ngôi nhà này thôi. Chúng ta đang sống
yên ổn ở nước Anh, không việc gì phải sợ ai từ Tây Ban Nha đe dọa.
- Tôi không là thằng hèn nhát, Pitơ, nhưng tôi hiểu
rằng mối nguy hiểm to lớn hơn nhiều. Bàn tay của Đức giáo hoàng La Mã dài lắm,
nhưng tay của Phecđinăng tinh khôn còn dài hơn. Tay của cả hai người ấy đều
hướng về cổ họng và túi tiền của những người dị giáo.
- Nhưng chúng ta không phải là những người dị giáo.
- Quả thế, nhưng chúng ta giàu. Vả lại bố của một trong hai chúng
ta là Do Thái. Thêm vào đó, trong nhà này còn có một cái có thể là mồi hấp dẫn
đối với cả những tín đồ ngoan đạo nhất của giáo hội thiêng liêng. - Nói đoạn,
Caxten nhìn về phía cánh cửa nơi Macgaret vừa đi qua.
Pitơ hiểu. Hai bàn tay khỏe mạnh của chàng nắm chặt
thành nắm đấm, đôi mắt xám long lên giận dữ.
- Bây giờ cháu xin được đi ngủ, - chàng nói. - Cháu
muốn suy nghĩ thêm về chuyện này.
- Khoan đã, - Caxten đáp. - Hãy rót đầy cốc và ngồi
lại đây chút nữa. Tôi còn đôi điều muốn nói với anh. Những dịp thuận lợi thế
này sẽ không có nữa. Ai biết trước chuyện gì có thể xảy ra ngày mai?
Chương III
PITƠ HÁI HOA
P
|
itơ
ngoan ngoãn ngồi vào chiếc ghế bành bằng gỗ sồi trước lò sưởi đang tắt dần, và
theo thói quen của mình, chàng im lặng chờ Caxten lên tiếng:
- Anh hãy nghe tôi nói, - Caxten bắt đầu. - Mười lăm
tháng trước anh có nói với tôi đôi điều, phải không?
Pitơ gật đầu.
- Lúc ấy anh nói gì?
- Nói rằng cháu yêu cô em họ của cháu là Macgaret,
và xin bác cho phép nói với Macgaret điều ấy.
- Lúc đó tôi trả lời như thế nào?
- Bác cấm cháu làm điều đó, vì bác chưa thử thách
cháu đủ mức cần thiết và Macgaret cũng chưa thật hiểu mình. Và cả vì việc
Macgaret sẽ rất giàu, và với sắc đẹp hiện có, có thể chọn được một người chồng
có địa vị cao hơn nhiều, dù nó chỉ là con gái của một thương gia.
- Rồi sau thì sao?
- Rồi sau thì chẳng có gì nữa. - Pitơ chậm rãi uống
hết một cốc rượu của mình rồi đặt cốc xuống bàn.
- Anh thực là một người ít lời, cả khi câu chuyện
liên quan đến tình yêu, - Caxten nói và nhìn chàng chăm chăm bằng đôi mắt mở to
của mình.
- Cháu im lặng vì chẳng còn gì thêm để nói. Bác ra
lệnh cho cháu phải im lặng, thế là cháu im lặng.
- Thậm chí cả khi anh nhìn thấy những nhà quý tộc
hào nhoáng cầu xin tình yêu của nó, và nó tức giận vì anh không hề tỏ tình với
nó, khiến nó có thể sẵn sàng vì bực mình mà lấy một người trong đám quý tộc
kia?
- Vâng, cả những lúc ây cũng thế. Thật đau khổ,
nhưng cháu vẫn im lặng. Chẳng phải cháu đang ăn bánh mì của bác đấy sao? Không
lẽ cháu phải lừa dối bác và làm những điều bác ngăn cấm?
Giôn Caxten lại nhìn chàng, lần này cái nhìn của ông
bộc lộ tình yêu thương và lòng kính trọng.
- ít lời, nghiêm khắc nhưng ngay thẳng, - ông lẩm bẩm như thể nói
với chính mình, rồi nói thêm liền ngay lúc ấy: - Đó là một thử thách nặng nề,
nhưng tôi rất hiểu và cố giúp anh một cách tốt nhất. Tôi đã xua đuổi bọn người
đến cầu hôn Macgaret - chúng là những thằng không xứng đáng. Bây giờ anh còn
giữ ý định lấy Macgaret làm vợ nữa không?
- Cháu ít khi thay đổi quyết định của mình, còn
trong những việc như thế này thì không bao giờ.
- Tốt lắm! Thế thì tôi cho phép anh được biết ý kiến
của Macgaret về chuyện này như thế nào.
Khuôn mặt của Pitơ rạng rõ vì niềm hạnh phúc chàng
không giấu nổi. Sau đó, như thể xấu hổ vì đã để lộ tình cảm, chàng cầm lấy cốc
rượu, uống mấy ngụm trước khi trả lời.
- Cảm ơn bác. Cháu thậm chí không dám nghĩ tới điều
đó. Nhưng thành thực mà nói, cháu quả không xứng đôi với Macgaret. Phần đất
đáng lẽ thuộc về cháu, bây giờ cháu không có và cháu cũng chẳng tích góp được
gì từ số tiền bác trả cho cháu vì đã góp phần khiêm tốn giúp đỡ bác trong việc
buôn bán. Còn Macgaret thì giàu, hay sẽ rất giàu.
Đôi mắt của Caxten ánh lên long lanh, vì ông lấy làm
thích câu trả lời của Pitơ.
- Nhưng để bù lại, anh có trái tim chân thât, - ông
nói. - Trong những trường hợp thế này, có người đàn ông nào đủ can đảm nói xấu
về mình? Hơn nữa, anh xuất thân từ một dòng họ cao quý, và bề ngoài trông cũng
không đến nỗi. ít ra thì cũng có những cô gái nghĩ như thế. Còn về sự giàu có
thì, như một ông vua thông minh của dân tộc chúng tôi đã nói, những người giàu
thường hay chắp cánh cho mình rồi bay đi. Vả lại tôi đã đem lòng yêu mến, kính
trọng anh, và sẵn sàng trao đứa con gái duy nhất của tôi cho anh, hơn bất kì
một huân tước nào khác ở nước Anh này.
- Cháu quá cảm động đến mức không biết phải nói gì
bây giờ, - Pitơ ngắt lời ông.
- Chẳng cần nói gì cả. Im lặng là thói quen của anh,
và không phải là một thói quen tồi. Anh hãy nghe tôi nói đây. Lúc nãy anh có
nhắc tới số đất của anh ở Êxec, trong thung lũng Đêthem tuyệt đẹp, mà hiện nay
anh không còn được hưởng. Nhưng bây giờ chúng lại thuộc về anh. Cách đây hơn
một tháng tôi đã mua chúng, thậm chí với giá cao hơn cái giá tôi mong đợi, vì
lúc ấy cũng có nhiều người khác muốn mua chúng. Ngay ngày hôm nay tôi vừa thanh
toán xong bằng tiền vàng, và đã nhận được giấy chứng nhận sở hữu. Giấy chứng
nhận đứng tên anh, Pitơ Brum, và dù anh có lấy con gái tôi hay không, sau khi
tôi chết, số đất ấy vẫn thuộc về anh, vì tôi đã hứa với người vợ quá cố của tôi
rằng sẽ giúp anh. Một thời, lúc còn bé, vợ tôi đã từng ở trong lâu đài của bố
anh.
Quá cảm động, Pitơ vụt đứng dậy, và như thời ấy
người ta vẫn làm, chàng hướng về bức ảnh của vị thánh mà chàng mang tên, và
thốt lên:
- Lạy thánh Pitơ, con xin cảm ơn Người.
- Tôi đã yêu cầu anh im lặng, - Caxten ngắt lời
chàng. - Vả lại, ngoài Đức Chúa Trời, anh chỉ cần cảm ơn một người nữa là Giôn
Caxten, chứ không phải thánh Pitơ. Đối với số đất đó, thánh Pitơ không có liên
quan gì hơn Đức cha Abraam hay Iôva. Thôi, cảm ơn hay không thì số đất này vẫn
thuộc về anh, mặc dù hôm nay tôi chưa định nói với anh điều đó. Còn bây giờ tôi
muốn đề nghị với anh đôi điều. Trước hết hãy cho tôi biết Macgaret nghĩ gì về
khuôn mặt lạnh lùng như đá và đôi môi luôn mím chặt của anh?
- Làm sao cháu biết được? Cháu chưa bao giờ hỏi
Macgaret về điều ấy, vì bác cấm mà.
- Ha ha! Sống cùng một nhà, lại cùng một tuổi với
nhau, nếu là tôi, tôi sẽ tự đoán biết tất cả mà vẫn giữ được lời hứa. Tuy nhiên
mỗi người một tính, mà tính anh thì quá thật thà để có thể trở thành một người
yêu say đắm. Thế nào, hôm nay nó có hoảng sợ lắm không, khi thằng lính lếu láo
ấy cầm kiếm nhảy bổ vào anh?
Pitơ ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:
- Dạ, cháu không biết. Lúc ấy cháu chẳng nhìn
Macgaret. Cháu chỉ chú ý tới gã Xcôtlen và thanh kiếm của hắn, nếu không chính
cháu chứ không phải hắn bị thiệt mạng. Nhưng tất nhiên Macgaret đã vô cùng
hoảng sợ khi bị thằng mất dạy ấy tìm cách ôm vào lòng. Chính Macgaret đã kêu
lên rất to, gọi cháu tới giúp.
- Nhưng thế thì đã sao? Trong những trường hợp tương
tự có người đàn bà nào ở Luân Đôn này lại không nhờ một chàng trai như Pitơ
Brum tới giúp đỡ? Thôi được, anh sẽ phải hỏi Macgaret về điều đó, và càng sớm
càng tốt, nếu anh biết tìm đủ từ để hỏi. Anh phải học ít nhiều ở nhà quý tộc
Tây Ban Nha kia. Anh phải miết đế giày thật mạnh, cúi thấp mình và tỏ ra lịch
sự, phải kể cho người yêu nghe đủ các chuyện nhảm nhí về chiến tranh và tặng
những bài thơ nói về đôi mắt và mái tóc của nó. Pitơ, nào anh có phải một thằng
ngốc. Chẳng lẽ ở cái tuổi này, tôi phải còn dạy anh cách tán tỉnh phụ nữ nữa
hay sao?
- Có thể như thế thật, thưa bác, cháu không biết làm
tất cả những điều ấy, còn thơ thì đến đọc cháu cũng không đọc nổi, chưa nói là
viết. Nhưng cháu có thể hỏi và chờ được trả lời.
Giôn Caxten khẽ lắc đầu một cách sốt ruột:
- Cứ hỏi, nếu anh muốn, nhưng đừng bao giờ chịu chấp
nhận một câu trả lời phủ định. Trong những trường hợp ấy, tốt hơn hết là cứ chờ
đợi và hỏi một lần nữa...
- Và nếu cần, - Pitơ tiếp tục nói, không nhận thấy
rằng chàng vừa bị ngắt lời, - cháu có thể bẻ gãy xương cổ cái gã Tây Ban Nha
kia.
- Cũng có thể có lúc anh phải làm cả điều ấy, trước
khi tất cả kết thúc một cách tốt đẹp. Còn riêng tôi thì tôi nghĩ rằng bẽ gãy
xương hắn là điều cần thiết. Còn anh, anh cứ hành động như anh nghĩ, cứ hỏi
những điều anh muốn hỏi. Cứ hỏi đi! Từ giờ cho tới chiều mai tôi muốn được nghe
câu trả lời. Tuy nhiên bây giờ đã muộn, mà tôi thì còn cần phải nói với anh một
đôi điều nữa. Tôi đang bị một mối nguy hiểm đe dọa. ở nước ngoài, người ta đã
được nghe nói về sự giàu có của tôi, mà trên đời này không ít người đang mơ ước
làm giàu bằng tiền của người khác. Trong số đó, tôi nghĩ có cả một số người
quyền cao chức trọng. Vì vậy, Pitơ ạ, tôi muốn đóng cửa hàng của mình và trốn
đi thật xa, nơi không ai có thể tìm thấy tôi, tức là đến sống ở lâu đài Đêthem
của anh, nếu anh cho tôi trốn ở đó. Đã hơn một năm trôi qua, kể từ ngày anh nói
với tôi về Macgaret. Tôi thu thập tiền bạc của tôi ở Tây Ban Nha và nước Anh,
chia chúng thành từng món tiền nhỏ, gửi gắm ở những nơi tin cậy. Tôi mua đồ
trang sức vàng bạc hay cho một số lái buôn vay, những người mà tôi tin là không
bao giờ ăn cắp của tôi cũng như những người thân của tôi. Pitơ, trong thời gian
sống với tôi, anh đã làm việc tận tụy, nhưng anh không phải là một lái buôn,
trong dòng máu của anh thiếu chất đó. Chúng ta có nhiều tiền. Tôi sẽ đem sự
nghiệp của mình giao cho người khác, họ sẽ tiếp tục công việc của tôi dưới tên
họ, nhưng chỉ hướng theo phần đóng góp. Vì nếu được Đức Chúa cho phép, chúng ta
sẽ cùng đón ngày lễ Phục sinh sắp tới ở Đêthem.
Đúng lúc ấy cửa mở, và người hầu được Caxten phái đi
theo dõi Đacghila bước vào phòng.
- Thế nào? - Caxten hỏi.
- Theo lệnh ngài, con đã theo ông ấy tới căn nhà mà
không hề bị phát giác. Ông ấy sống không xa điện Oetminhxtơ, cũng trong ngôi
nhà lớn, nơi đại sứ dơ Aiala đang sống. Thấy ông ta, những người đứng canh nhà
cởi mũ cúi chào, sau đó con thấy một số người trong bọn họ đi vào một quán hàng. Con cũng đi
theo, gọi cho mình một cốc rượu và để tai lắng nghe họ nói chuyện. Con biết
thông thạo tiếng Tây Ban Nha, vì trước đây con đã từng làm việc năm năm trong
văn phòng của ngài ở Xêvin. Họ bàn bạc với nhau về cuộc ẩu đả hôm nay, và nói
rằng nếu bắt được chàng trai có cặp giò dài ngoẵng kia, tức là ý họ muốn ám chỉ
ông Pitơ Brum, thì họ sẽ thẳng tay trừng trị, vì ông ta đã làm nhục họ bằng
cách dùng gậy đánh chết thủ lĩnh của họ là gã Xcôtlen kia. Con đóng giả một
thủy thủ Anh từng nhiều lần tới Tây Ban Nha để bắt chuyện với họ. Họ quá say
rượu nên không hỏi con điều gì. Còn con thì hỏi họ về nhà quý tộc người cao
dong dỏng đã đứng ra dàn xếp cuộc ẩu đả trước khi nhà vua tới. Họ nói rằng đó
là một người giàu có tên là Đacghila, và rằng phục vụ ông ta trong tuần chay
thật vất vả, vì ông ta rất nghiêm khắc trong những gì liên quan tới tôn giáo,
còn trong các chuyện khác thì ngược lại. Con nói rằng con tưởng ông ta là một
nhà quý tộc nổi tiếng. Lúc ấy một người trong bọn họ đáp rằng con đã nói đúng,
và ở Tây Ban Nha không có dòng họ nào cao quý hơn dòng họ của ông ta, nhưng
thật tiếc dòng họ ấy cũng không phải thuần khiết hoàn toàn. Trong máu của ông
ta có pha lẫn ít nhiều mực đen.
- Thế có nghĩa là gì? - Pitơ hỏi.
- Đó là cách nói của người Tây Ban Nha, - Caxten
giải thích, - có nghĩa rằng hắn là một đứa con bất hợp pháp, và trong máu có
pha lẫn máu của người Mô.
- Sau đó con ướm hỏi ông ta ở đây làm gì. Tên lính
đáp rằng điều ấy nên hỏi Đức Chúa hay hoàng hậu Tây Ban Nha thì hơn. Cuối cùng,
sau khi uống xong một cốc rượu nho nữa, người lính cho con biết rằng phần lớn
thời gian ông ta sống ở Granađa, và nếu có dịp tới đó, con sẽ thấy không ít
những người phụ nữ xinh đẹp. Tên ông ta là hầu tước Nighen. Con nói rằng thế có
nghĩa là hầu tước Không Ai Cả. Nghe thế, người lính bảo rằng con quá tò mò, và
rằng quả đúng thế thật - tên ông ta là Không Ai Cả. Liền lúc ấy người lính nói
to với bọn bạn rằng con là một tên gián điệp, và con nghĩ đến lúc rút lui, nếu
không đang say, chúng có thể đánh con thành thương tích suốt đời.
- Tốt lắm, Tômat, - Caxten nói. - Hôm nay đến phiên
anh gác chứ? Phải cẩn thận để lúc nào cửa cũng đóng chặt, và chúng ta có thể
ngủ yên mà không sợ lũ trộm Tây Ban Nha. Còn anh, Pitơ, anh đi nghỉ đi. Tôi ở
lại thêm chút nữa. Tôi phải viết thư sang Tây Ban Nha để gửi theo chuyến tàu sẽ
rời bến vào chiều mai.
Khi Pitơ đi khỏi, Giôn Caxten thổi tất cả các ngọn
nến, chỉ chừng lại một ngọn. Với ngọn nến trong tay, ông đi vào một căn phòng
nhỏ mà ngày xưa, khi ngôi nhà này thuộc về một nhà quý tộc nổi tiếng, là nơi
được dùng làm chỗ thờ cúng của gia đình. ở đây có một chiếc bàn thờ, phía trên
là một cây thánh giá. Giôn Caxten quỳ gối trước bàn thờ, thậm chí cả vào giờ
này trong đêm, ông cũng không thật tin rằng không có cặp mắt của ai đó đang
theo dõi ông. Rồi ông đứng dậy, đi ra phía sau bàn thờ, nâng tấm vải che ngoài
và khẽ ấn vào một chiếc lò xo được giấu kín trong một tấm gỗ. Cánh cửa mở vào
một chiếc phòng bí mật nhỏ bé, không cửa sổ, nằm gọn giữa những bức tường dày.
Có lẽ ngày xưa đây là nơi các linh mục cất giấu trang phục và các quà tặng mang
tính chất tôn giáo của mình.
Bây giờ trong căn phòng nhỏ bé ấy chỉ có một chiếc
bàn gỗ sồi giản dị, trên đó có mấy ngọn nến, một chiếc hòm bằng gỗ không lớn
lắm và mấy tờ giấy được làm từ da dê. Giôn Caxten cúi sụp người trước chiếc bàn
nhỏ và bắt đầu cầu Đức cha Abraam một cách thành khẩn. Mặc dầu bị bố bắt nhập
đạo Thiên Chúa từ nhỏ, Giôn Caxten vẫn trung thành với tôn giáo của mình. Chính
vì thế ông lo lắng cho căn phòng bí mật này. Nếu bị phát hiện, ông và gia đình
sẽ phải chết, vì thời ấy không có tội lỗi nào lớn bằng tôn thờ một vị thần khác
với vị thần mà giáo hội thiêng liêng cho phép tôn thờ. Tuy thế, trong nhiều năm
liền ông đã dám làm cái hành động liều lĩnh ấy, tức là tôn thờ vị thần của tổ
tiên mình. Cầu nguyện xong, Caxten ra khỏi căn phòng bí mật, đóng chặt cánh
cửa bí mật rồi đi xuống phòng làm việc.
ở đấy, ông ngồ cho đến rạng sáng. Lúc đầu ông viết thư gửi bạn mình ở Xêvin,
sau ông chuyển bức thư ấy thành những kí hiệu mật mã. Ông dán phong thư, đốt
bản nháp, tắt nến rồi đi tới đứng bên cửa sổ ngắm mặt trời mọc. Trong vườn,
ngay dưới cửa sổ nơi ông đứng, có những bông hoa chuông nhợt nhạt đã nở, có
tiếng chim sáo đang hót.
- Kể cũng lạ, - ông nói lên thành tiếng, - không
biết rồi có lúc nào đó ta được nhìn những bông hoa này không, khi chúng nở lại.
Ta cứ có cảm giác như thòng lọng đã bắt đầu siết chặt cổ ta. Ta cảm thấy điều
ấy khi cái thằng Tây Ban Nha đáng nguyền rủa kia giơ tay làm dấu thánh bên bàn
ta. Thôi được, điều gì đến cứ để nó đến, còn ta, ta sẽ cố che giấu sự thật
chừng nào còn có thể. Nếu chúng khám phá ra, ta sẽ không chối. Phần lớn số tiền
của ta đã được cất giữ một cách an toàn, chúng không bao giờ sờ tay tới được.
Bây giờ ta lo việc gia đình cho con gái - bên Pitơ, nó sẽ chẳng còn điều gì lo
sợ. Đáng lẽ ta không nên để chuyện này kéo dài như thế, nhưng quả thực ta đã
từng mơ ước tìm cho nó một đám thật xứng đáng, vì với tư cách là một tín đồ đạo
Thiên Chúa nó có thể tìm được một người như vậy. Lúc này ta đang sửa chữa lại
khuyết điểm của mình. Chậm nhất là sáng mai nó sẽ phải đính hôn với Pitơ và trở
thành vợ của anh ta trước tháng Năm. Hỡi vị thần của tổ tiên tôi, hãy cho chúng
tôi được sống yên ổn thêm một tháng nữa, rồi sau đó hãy bắt tôi chết, vì ngay
trước mặt người khác, tôi đã công khai từ bỏ Ngài.
Trước khi Giôn Caxten đi vào phòng ngủ của mình,
Pitơ đã thức dậy, hay nói đúng hơn suốt đêm ấy chàng không chợp mắt. Lẽ nào
chàng có thể ngủ yên, khi vào quãng giữa thời gian giữa mặt trời lặn và mặt
trời lại mọc, số phận đời chàng đã thay đổi một cách nhanh chóng và tốt đẹp như
thế? Mới hôm qua chàng còn là người giúp việc cho một thương gia - thích hợp
hay không công việc ấy đối với một người được dạy dỗ để lớn lên cầm vũ khí và
cầm vũ khí một cách xứng đáng? Hôm nay Pitơ đã là một nhà quý tộc, ông chủ của
một vùng đất rộng lớn từng là sở hữu của tổ tiên chàng trong nhiều thế hệ. Hôm
qua chàng còn là một kẻ si tình đáng buồn, vì sâu trong lòng, chàng không bao
giờ tin rằng Giôn Caxten giàu có lại có thể cho phép chàng, một thằng nghèo
không nhà cửa, tiền bạc, được phép yêu con gái mình, một cô gái giàu và đẹp
nhất thành Luân Đôn. Đã một lần chàng thử hỏi ông điều đó, nhưng đã bị từ chối
đúng như chàng chờ đợi. Là một người biết giữ lời hứa, Pitơ chưa lần nào nói
với Macgaret một lời dịu dàng, chưa bắt tay nàng, thậm chí không nhìn vào mắt
nàng. Thực ra đôi lúc chàng có cảm tưởng rằng nàng sẽ không phản đối, nếu chàng
làm một điều gì đó tương tự. Hình như đôi lúc Macgaret còn lấy làm ngạc nhiên
rằng chàng đã không làm thế. Hơn thế, bây giờ chàng mới hiểu rằng cả bố nàng
cũng ngạc nhiên trước sự kiềm chế của chàng. Đó là một phẩm chất quý nay đã
được đền bù xứng đáng.
Pitơ yêu Macgaret. Từ ngày còn là cậu bé chơi với nhau, chàng chẳng
yêu ai ngoài nàng. Chỉ một mình nàng xâm chiếm toàn bộ ý nghĩ của chàng ban
ngày và cả giấc mơ ban đêm. Nàng là hi vọng, là ngôi sao dẫn đường của chàng.
Đối với chàng, bầu trời là nơi chàng luôn được ở bên Macgaret, còn mặt đất thiếu
nàng chỉ là địa ngục. Chỉ vì nàng mà chàng chịu đứng trong quầy hàng của
Caxten, đưa cái đầu kiêu hãnh của mình vào chiếc gông của ông, để làm các công
việc buôn bán, nhận tiền, mặc cả, nghe các lời tục tĩu của đám lái buôn và
những người khách giàu có. Và làm tất cả những điều ấy, chàng không hề cảm thấy
khó chịu một chút nào, dù không ít khi chàng có cảm tưởng không chịu thêm được
nữa, và rằng một cuộc sống kinh tởm như thế sẽ làm chàng chết ngạt. Nhưng vì
nàng mà chàng ở đây, chứ không phải ở xa đâu đó với thanh kiếm trong tay, tự mở
đường cho mình đi tới vinh quang và thắng lợi hay cũng với thanh kiếm ấy, chàng
sẽ tự đào mộ chôn mình. ở đây, chàng được ở gần bên Macgaret, được chạm vào tay
nàng buổi sáng và buổi tối, được chiêm ngưỡng đôi mắt long lanh kì diệu của
nàng, và đôi lúc, khi nàng cúi trên đầu chàng, chàng có thể cảm thấy hơi thở
của nàng trên mái tóc mình. Và bây giờ mọi thử thách đã kết thúc - cánh cửa
thiên đường bỗng được mở rộng cho chàng.
Nhưng nếu Macgaret là một thiên thần với thanh gươm
lửa trong tay không cho chàng bước vào thiên đường thì sao? ý nghĩ này làm Pitơ
hoảng sợ. Thôi được, gì thì gì nhưng chàng sẽ không dùng sức lực để ép buộc
nàng hay cầu cứu bố nàng giúp đỡ. Chàng sẽ làm tất cả những gì có thể để được
nàng yêu mến. Còn nếu không, chàng cũng sẽ cầu phước cho nàng, và không vì thế
mà tức giận.
Bình minh vừa hé rạng, nhưng Pitơ đã không thể nằm
thêm trên giường được nữa. Chàng nhỏm dậy, nhanh chóng mặc quần áo. Bên cánh
cửa sổ đã mở chàng đọc kinh cầu nguyện, cảm ơn Đức Chúa vì những điều tốt lành
chàng được nhận, và cầu xin Ngài ban phước cho chàng. Mặt trời xuất hiện và
Pitơ bỗng có một mong muốn không cưỡng lại nổi, là được ra đứng giữa lòng thiên
nhiên, một mình với bầu trời, chim chóc và cây cối, vì chàng vốn sinh ra ở chốn
đồng quê và không yêu thành phố, thế mà ở đây, ở Luân Đôn, đi đâu chàng cũng
thấy toàn người là người. Liền lúc ấy chàng sực nhớ rằng là nay chàng không
được đi ra phố một mình mà không có người bảo vệ, vì người Tây Ban Nha có thể
rình đâu đó và bất chợt bắt cóc chàng. Chỉ còn lại khu vườn là nơi chàng có thể
đi dạo.
Pitơ bước xuống theo chiếc cầu thang rộng bằng gỗ
sồi, mở cửa và bước đi ra vườn. Dù không được chăm sóc cẩn thận lắm, nhưng đối
với Luân Đôn khu vườn này tương đối rộng. Nó được bao quanh bằng một bức tường
ca. Một trong số những con đường nhỏ dẫn tới những chiếc bình cổ trồng cây
cảnh. Dưới những chiếc bình là một ghế dài nhỏ đứng từ nhà không nhìn thấy. Vào
mùa hè, đó là chỗ yêu thích nhất của Macgaret, là người cũng rất yêu thiên nhiên.
Khu vườn mang lại cho nàng sự vui thích không thể thay thế được. Hầu như tất cả
hoa trong vườn đều tự tay nàng trồng.
Pitơ đi dạo quanh vườn một lát. Ngẫu nhiên đêm ấy
Macgaret cũng khó ngủ và dậy rất sớm. Qua tấm mành che cửa sổ, nàng nhìn thấy
Pitơ. Nàng lấy làm tò mò không hiểu chàng đang làm gì trong vườn vào lúc sáng
sớm thế này, mà lại diện bộ quần áo đẹp nhất. Hay bộ quần áo chàng vẫn mặc bị
rách hoặc ố bẩn sau cuộc ẩu đả hôm qua chăng? - Nàng nghĩ. Và rồi Macgaret liền
nhớ lại việc Pitơ đã tỏ ra dũng cảm thế nào trong suốt thời gian xảy ra sự kiện
hôm qua. Lại một lần nữa hiện lên trong đầu nàng những gì nàng được chứng kiến
- đôi tay to khỏe của Pitơ túm lấy thằng lính tóc hung lực lưỡng, xô hắn ngã
xuống đất. Rồi Pitơ chỉ bằng một chiếc gậy gạt ngang lưỡi kiếm lấp lánh của đối
thủ, sau đó là cú đánh của chàng, và gã kia ngã xuống đất chết.
Vâng, Pitơ, người anh họ của nàng, đúng là một người
đàn ông chân chính, dù hơi ít nhiều khó hiểu. Nhớ lại một vài lần cư xử lạ lùng
của chàng, Macgaret nhún vai và khẽ cắn môi. Trong vòng một giờ, chàng quý tộc
Tây Ban Nha kia nói với nàng nhiều lời dịu dàng hơn Pitơ đã nói trong suốt hai
năm. Thêm vào đó, Đacghila đẹp trai và có diện mạo cao quý. Nhưng suy cho cùng,
con người Tây Ban Nha kia chỉ là một người Tây Ban Nha, và tất cả những người
đàn ông khác chỉ là đàn ông mà thôi. Còn Pitơ là một người đặc biệt, quan tâm
đến phụ nữ cũng ít như tới việc buôn bán.
Nhưng thế thì tại sao chàng lại sống ở đây, nàng
nghĩ, khi chàng là người không quan tâm tới phụ nữ và buôn bán? Để kiếm lợi làm
giàu ư? Điều ấy có thể đặt ra. Hình như chàng cũng chẳng quan tâm đến tiền bạc.
Trong tất cả những điều này phải có một bí mật nào đó. Macgaret rất muốn được
biết cái gì giấu sâu trong đó. Không một người đàn ông nào được phép trở thành
bí ẩn đối với nàng. Vâng, rồi có ngày nàng sẽ làm điều đó, cho dù phải trả giá
đắt thế nào.
Macgaret sực nhớ rằng nàng vẫn chưa cảm ơn Pitơ sau
vụ hôm qua, hơn thế nữa, nàng còn bắt chàng đi về nhà với Bêti, là điều không
mang lại chút thích thú nào cho cả Bêti lẫn chàng. Qua câu chuyện sôi nổi của
Bêti khi cởi áo cho nàng, nàng đã hiểu ra như vậy. Chuyện này có thể giải thích
bằng việc Bêti đang bực mình với Pitơ, vì có lần chàng đã gọi cô ta là một con
ngốc xinh đẹp, nghĩ về đàn ông thì nhiều mà nghĩ về công việc thì ít. Macgaret
nghĩ bụng rằng chốc nữa, một ngày mới sẽ đến với đủ các loại công việc của
mình, nàng sẽ không có dịp nói chuyện với Pitơ, nên bây giờ nàng quyết định đi
xuống để cảm ơn chàng và thử bắt chàng nói chuyện, dù chỉ lần này.
Thế là Macgaret khoác chiếc áo lông thú lên người,
đội chiếc mũ chụp vì lúc đó là tháng Tư trời khá lạnh, và đi xuống vườn. Tuy
nhiên, khi tới nơi, Pitơ không còn ở đấy nữa. Macgaret lấy làm bực rằng nàng đã
ra vườn quá sớm như thế, trong khi trong vườn khá ẩm lạnh. Nàng đã nghĩ tới
chuyện quay lại. Nhưng vì sợ người nào đấy nhìn thấy sẽ bất tiện, nàng liền đi
theo con đường nhỏ, như thể đang tìm hái những bông hoa tím. Nàng không thấy
loại hoa này. Cứ thế, nàng đi tới những chiếc bình cổ trồng cây cảnh, và sâu
trong vườn, giữa những thân cây cổ thụ, nàng nhìn thấy Pitơ. Bây giờ thì nàng
hiểu vì sao không thấy hoa tím - chúng đã bị Pitơ hái trước. Lúc này Pitơ đang
hí hoáy một cách vụng về cố dùng một sợi cỏ còn lá bó những bông hoa tím thành
một bó nhỏ. Tay trái cầm hoa, tay phải kéo một đầu sợi cỏ, và vì không còn tay
để cầm đầu kia, chàng đã phải dùng đến răng của mình. Cuối cùng chàng cũng bó
được, nhưng sợi cỏ bỗng đứt và những bông hoa tím rơi xuống đất. Lúc ấy Pitơ vô
tình buột ra một tiếng không lấy gì lịch sự lắm mà chàng không được buột ra cả
khi xung quanh không có ai.
- Tôi biết trước thế nào cũng đứt, - Macgaret nói, -
nhưng không bao giờ nghĩ rằng anh có thể bực mình đến mức ấy vì một chuyện vặt
vãnh như thế.
Pitơ ngẩng đầu và nhìn thấy Macgaret, lúc này được
mặt trời chiếu sáng xinh đẹp và tươi mát như chính bản thân mùa xuân. Nàng lắc
đầu có vẻ trách móc, và vì chiếc mũ rơi xuống đất, đôi môi và đôi mắt nàng mỉm
cười. Macgaret xinh đẹp đến mức nhìn thấy nàng, trái tim Pitơ rộn lên thổn
thức. Nhưng sực nhớ tới cái tiếng vừa thốt ra cùng những lời Caxten nói hôm
trước, chàng đỏ mặt một cách thảm hại, làm đôi má của Macgaret ửng lên vì
thương hại. Nàng biết như thế là ngốc nghếch nhưng không tự kiềm chế nổi. Hôm
nay trông Pitơ có vẻ lạ lùng thế nào ấy, và điều đó làm nàng xúc động.
- Anh hái hoa tím cho ai mà sớm thế? - Nàng hỏi. -
Đáng lẽ bây giờ anh phải cầu nguyện cho linh hồn của tên lính Xcôtlen kia mới
đúng.
- Tôi hoàn toàn không quan tâm tới linh hồn của hắn,
- Pitơ khó chịu lầm bầm. - Nếu thằng khốn nạn ấy có linh hồn, thì tự hắn phải
chăm lo tới nó. Còn những bông hoa tím này thì tôi hái cho cô.
Macgaret ngạc nhiên mở to mắt, Pitơ chưa bao giờ có
thói quen tặng hoa cho nàng. Chẳng trách gì mà trông chàng có vẻ lạ lùng như
vậy.
- Nếu thế thì tôi sẽ giúp anh bó chúng lại. Anh có
biết vì sao tôi dậy sớm như thế này không? Vì anh đấy. Hôm qua tôi đã xử sự
không đúng. Tôi bực mình vì bị anh ngăn cản khi tôi muốn nhìn Đức vua. Thế mà
cho đến giờ tôi vẫn chưa cảm ơn anh vì tất cả những việc anh làm, dù trong thâm
tâm tôi rất biết ơn anh. Trông anh thật cao thượng khi anh cầm kiếm đứng giữa
những người Anh. Lại đây, để tôi có thể cảm ơn anh một cách xứng đáng.
Quá bối rối, Pitơ để rơi những bông hoa còn lại
xuống đất. Liền lúc ấy một ý nghĩ xuất hiện trong đầu chàng. Chàng nói:
- Cô thấy đấy, tôi không thể lại gần cô được. Nếu cô
thật sự muốn cảm ơn tôi vì một việc nhỏ nhặt như thế, cô hãy lại đây giúp tôi
nhặt những bông hoa này. Cuống hoa ngắn quá! Quỷ tha ma bắt chúng đi!
Macgaret hơi lưỡng lự một chút rồi đi lại gần, cúi xuống bắt đầu
nhặt hết bông hoa này đến bông hoa khác, Pitơ đã để chúng rơi vung vãi khắp
nơi, nên lúc đầu hai người còn ở xa nhau. Nhưng dần dần, khi hoa còn lại ít, họ
xích lại gần nhau hơn. Cuối cùng chỉ còn lại một bông, cả hai người cùng chìa
tay ra nhặt. Macgaret cầm bông hoa, còn Pitơ thì cầm tay nàng. Họ đứng thẳng
dậy, hai khuôn mặt kề sát nhau - đôi mắt Macgaret ánh lên long lanh, mắt của
Pitơ bỗng cháy lên ngọn lửa mãnh liệt. Họ nhìn nhau trong giây lát rồi thật bất
ngờ, Pitơ khẽ hôn lên môi nàng.
Chương IV
TÌNH YÊU
- P
|
itơ!
- Macgaret khẽ kêu lên vì xúc động: - Pitơ!
Nhưng Pitơ không trả lời, khuôn mặt chàng trắng
nhợt, làm vết sẹo do kiếm chém chạy ngang qua má trở thành như một sợi chỉ đỏ
thêu lên chiếc khăn trắng.
- Pitơ, - Macgaret vừa nhắc lại vừa gỡ tay mình ra,
- anh có hiểu anh vừa làm gì không?
- Anh nghĩ em cũng biết, - Pitơ khẽ nói. - Cần gì
phải giải thích?
- Nghĩa là không phải ngẫu nhiên? Nghĩa là anh thật
sự muốn thế? Anh không thấy xấu hổ sao?
- Nếu đó là một sự ngẫu nhiên, thì anh sẵn sàng lặp
lại nhiều lần sự ngẫu nhiên ấy.
- Pitơ, buông em ra! Em sẽ mách với bố bây giờ.
Pitơ mỉm cười sung sướng.
- Em có thể mách với bố mọi chuyện. Bố không giận
đâu. Chính bố bảo anh...
- Pitơ, anh lại còn dám nói dối nữa! Có phải anh
định thuyết phục em rằng chính bố đã sai anh hôn em, và nhất định phải hôn vào
lúc sáu giờ sáng phải không?
- Bố không nói gì về chuyện hôn cả, nhưng anh nghĩ
bố đồng ý cả chuyện ấy. Bố bảo rằng anh có thể yêu cầu em trở thành vợ anh.
- ồ, đó là chuyện khác! - Macgaret nói. - Nếu anh đề
nghị em lấy anh làm chồng, và sau một thời gian dài suy nghĩ em đồng ý, là điều
mà em không nên làm, thì chỉ trước lễ cưới của chúng ta anh mới được hôn em...
Thế mà anh lại bắt đầu từ cái hôn này, và điều đó về phía anh, thật đáng xấu hổ
và không đẹp một tí nào. Em sẽ không bao giờ nói chuyện với anh nữa.
- Thế mà bây giờ anh đang có chuyện phải nói với em,
- Pitơ vẫn kiên nhẫn đáp, - một khi anh đang có điều kiện tốt để làm điều ấy.
Em không được đi khỏi đây chừng nào chưa nghe anh nói hết. Macgaret, anh yêu em
từ khi em chưa đầy mười hai tuổi...
- Lại một lời nói dối nữa. Pitơ, hay anh đang điên?
Nếu yêu em trong suốt mười một năm qua, chắc anh phải để lộ cho em biết điều
ấy.
- Anh muốn nói với em từ lâu, nhưng bố em cấm anh.
Cách đây mười lăm tháng anh xin phép làm điều ấy, nhưng bố em bắt anh hứa không
được nói gì với em!
- Không được nói gì?... Nhưng bố em không thể bắt
anh hứa không tỏ ra yêu em cơ mà?
- Theo anh thì hai cái ấy là một. Bây giờ thì anh
hiểu rằng anh đã cư xử như một thằng ngốc, và hình như anh đã bỏ lỡ cơ hội.
Thấy Pitơ có dáng điệu thật buồn bã, Macgaret trở
lại dịu dàng hơn.
- Thôi được, - nàng nói. - ít ra thì anh là một
người ngay thật. Em thích điều đó...
- Em vừa nói rằng anh nói dối... hai lần. Nếu chân
thật, làm sao anh có thể nói dối được?
- Em không biết, sao anh cứ bắt em trả lời những
điều em không biết? Hãy cho em đi khỏi đây và cố quên tất cả những chuyện này
đi.
- Được, nhưng chỉ sau khi em nói thẳng cho anh biết
một điều. Em có đồng ý lấy anh làm chồng không? Nếu không, em chẳng cần phải đi
đâu, vì lúc ấy chính anh sẽ bỏ đi và không bao giờ quấy rầy em thêm nữa. Em đã
biết anh và tính tình của ảnh hưởng như thế nào. Anh chẳng có gì thêm để nói
với em, ngoài việc em có thể chọn được một người chồng xinh đẹp hơn, nhưng
không bao giờ em gặp người nào có thể yêu và lo lắng cho em hơn anh. Anh biết
rằng em rất xinh đẹp và rất giàu có. Còn anh thì xấu xí và nghèo. Đã nhiều lần
anh cầu Chúa để em không giàu và xinh đẹp như thế, bởi vì đôi lúc điều ấy chỉ
mang lại bất hạnh cho phụ nữ, khi họ chân thành và chỉ có một tái tim dành cho
người đàn ông của mình. Nhưng thật tiếc anh không thể thay đổi được điều gì, và
mặc dù ít có cơ hội thành công, anh vẫn quyết định thay đổi đến cùng. Em có cho
anh một hi vọng nhỏ nào không, Macgaret? Em hãy nói đi để chấm dứt mọi đau khổ
của anh. Bởi vì anh không biết nói nhiều.
Bây giờ đến lượt Macgaret hồi hộp, và sự tự tin kiểu
cách thường ngày đã biến mất.
- Không được làm thế, - nàng khẽ thì thào. - Em
không muốn... em phải nói với bố. Bố sẽ cho anh biết.
- Không cần làm phiền bố, Macgaret. Bố đã quyết
định. Mong muốn lớn nhất của bố là chúng ta lấy nhau. Bố muốn bỏ nghề buôn và
tới sống với chúng ta ở lâu đài Đêthem, quận Êxec. Bố đã mua trang trại của gia
đình anh ở đấy.
- Hôm nay anh có toàn những tin tức lạ lùng, Pitơ ạ.
- Vâng, Macgaret. Cỗ xe của cuộc đời chúng ta vốn
thường chậm chạp là thế, hôm nay đã bắt đầu phóng nhanh. Có lẽ từ trên cao, cao
trên đầu chúng ta, Chúa đã vung tay quất bầy ngựa kéo cỗ xe cuộc đời chúng ta,
và chúng phi nhanh, phi đi đâu - chính anh cũng không rõ. Chúng cùng chạy với
nhau hay mỗi con một hướng - đó là điều em phải cho anh biết.
- Pitơ, - nàng nói, - hãy cho em suy nghĩ thêm đã.
- Được, em còn mười phút để suy nghĩ, hoặc nếu không
em hãy suy nghĩ suốt cuộc đời của em, vì sau đó anh sẽ thu dọn đồ đạc và bỏ đi.
Cứ để người ta nói rằng anh bỏ trốn vì sợ bị bắt do đã giết chết tên lính kia.
- Anh dồn ép em như thế là không tốt.
- Không, như thế tốt hơn cho cả hai chúng ta. Hay em
đang yêu người khác?
- Vâng, em phải thú nhận với anh điều đó, - Macgaret
khẽ nói và ý tứ liếc nhìn Pitơ.
Nghe thế, dù là một người khỏe mạnh, Pitơ tái mặt,
và vì quá đột ngột đã buông tay nàng ra, bàn tay vẫn còn giữ những bông hoa
tím, Macgaret ngạc nhiên nhìn chàng.
- Anh không có quyền hỏi em người ấy là ai... - Pitơ
lí nhí nói, cố trấn tĩnh trở lại.
- Không, tất nhiên là không. Em muốn nói với anh
rằng em yêu bố em, em có thể yêu người đàn ông nào khác?
- Macgaret, - Pitơ tức giận kêu lên, - em đang trêu
anh!
- Tại sao? Em có thể yêu người đàn ông nào nữa... ngoài anh?
- Anh không còn đủ sức chịu đựng thêm trò chơi này
nữa, - Pitơ thốt lên. - Vĩnh biệt, thưa bà Macgaret! Cầu Chúa phù hộ cho bà! -
Rồi chàng bỏ chạy.
- Pitơ! - Nàng gọi theo khi chàng chạy được mấy
bước. - Anh không muốn lấy lại những bông hoa tím này làm kỉ niệm à?
Pitơ dừng lại.
- Nếu thế hãy đi lại đây và cầm lấy chúng.
Pitơ lại gần. Bằng những ngón tay run run, Macgaret
bắt đầu cắm những bông hoa tím vào áo khoác của Pitơ, đồng thời nàng xích lại
gần, cho đến khi hơi thở của nàng khẽ chạm vào mặt chàng, và những sợi tóc dính
vào mũi chàng. Rồi không biết tại sao, những bông hoa tím lại rơi xuống đất.
Nàng khẽ thở dài, và Pitơ liền dang đôi tay khỏe mạnh của mình ôm chặt nàng,
bắt đầu hôn vào tóc, vào mắt và vào môi nàng. Nàng không chống cự.
Cuối cùng nàng đẩy chàng ra, cầm tay bắt chàng ngồi
xuống chiếc ghế. Nàng cũng ngồi xuống với một quãng xa nhất định.
- Pitơ, - nàng vừa hổn hển thở, vừa nói, - em muốn nói với anh đôi điều, Pitơ, chắc anh
đang nghĩ xấu về em phải không? Không, không, hãy im lặng, bây giờ đến lượt em
nói. Anh đang nghĩ rằng em là người tàn nhẫn và đang trêu đùa anh. Em bày ra
trò đó chỉ để tin chắc rằng anh thật sự yêu em. Bây giờ em yên tâm, và muốn nói
với anh rằng em cũng yêu anh từ lâu và mãnh liệt như anh yêu em. Nếu không, em
đã chẳng lấy một người nào đấy trong số rất nhiều người đến cầu hôn rồi sao?
Bây giờ em xấu hổ mà thú nhận rằng một lần, quá giận dữ vì sự im lặng của anh
mà em đã suýt lấy một người khác làm chồng. Tuy thế, cuối cùng em vẫn không làm
được điều ấy. Pitơ, hôm qua, khi thấy anh chỉ có một chiếc gậy nhỏ trong tay để
bảo vệ em, em lo sợ rằng chúng có thể giết anh. Lúc ấy em mới hiểu hết sự thât
và trái tim em suýt vỡ tan vì lo sợ. Và nếu anh chết, có lẽ tim em sẽ tan vỡ
thật. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã lùi lại phía sau, và chúng ta đã hiểu hết nỗi
lòng nhau. Bây giờ không gì có thể chia cắt chúng ta. Họa chăng chỉ có cái
chết.
Macgaret nói thế, và Pitơ khao khát lắng nghe từng
lời của nàng, như sa mạc khô cằn lâu năm đón chờ những giọt mưa mát mẻ. Chàng
ngắm nhìn khuôn mặt nàng bây giờ đã không còn cái vẻ giễu cợt thường ngày nữa.
Đó là khuôn mặt của một người phụ nữ xinh đẹp nhất, nghiêm túc nhất, một người
bỗng nhiên ý thức được thế nào là cuộc sống với tất cả những niềm vui và nỗi
khổ của nó. Khi Macgaret nói xong, người bạn đời ít nói của nàng, người mà cả
trong giây phút hạnh phúc tột độ này vẫn không trở nên nhiều lời, nói:
- Đức Chúa quá yêu mến chúng ta, chúng ta hãy cảm ơn
Ngài.
Nói đoạn, họ bắt đầu cầu nguyện. Lời cầu nguyện của
họ chân thật như lời trẻ con. Họ tin rằng sức mạnh đã cột chặt đời họ với nhau,
dạy cho họ yêu thương, sẽ phù trợ và bảo vệ họ khỏi mọi tai họa, kẻ thù và điều
ác trên cõi đời.
Họ còn ngồi với nhau thật lâu, lúc chuyện trò, lúc yên lặng. Và
bỗng nhiên, sau một phút yên lặng hạnh phúc như thế, cả hai như chợt bừng tỉnh
do hoảng sợ điều gì - giống như đôi lúc một đám mây đen giữa bầu trời quang
đãng bỗng che kín mặt trời, báo hiệu một cơn giông đang tới.
- Muộn rồi, ta đi thôi! - Macgaret nói. - Chắc bố sẽ
tìm chúng ta.
Họ im lặng bước đi hỏi những chiếc bình cổ trồng cây
cảnh. Bỗng nhiên Macgaret nhận thấy chân nàng dẫm lên bóng một người nào đấy.
Nàng ngước lên nhìn: đứng trước nàng không phải ai xa lạ, mà là xinho Đacghila
đang nhìn họ bằng đôi mắt nghiêm khắc và ít nhiều giễu cợt. Macgaret thốt lên
một tiếng kêu hoảng sợ, còn Pitơ thì theo bản năng tự vệ của một người dũng cảm
sẵn sàng lao vào nguy hiểm, tiến lên sát Đacghila.
- Lạy Chúa! Ông không tưởng nhầm tôi là kẻ trộm đấy
chứ? - Giọng của Đacghila có vẻ châm chọc.
Để khỏi chạm vào người Pitơ, hắn lùi lại một chút.
- Tôi xin lỗi, thưa ông, - Pitơ đáp sau khi bình
tĩnh trở lại. - Nhưng ông xuất hiện đột ngột quá. Ông là người chúng tôi ít chờ
được gặp ở đây nhất.
- Tôi cũng không nghĩ sẽ gặp ông và tiểu thư ở đây.
Tôi có cảm tưởng rằng vào một buổi sáng lạnh lẽo như hôm nay, ở ngoài vườn
không lấy gì làm dễ chịu lắm. - Rồi Đacghila nhìn cả hai bằng đôi mắt chăm chú
và giễu cợt của mình. Dưới cái nhìn tra xét của hắn, cả hai người đỏ mặt lúng
túng. - Hãy cho phép tôi tự giải thích, - Đacghila nói tiếp. - Tôi đến đây sớm
sủa thế này là vì việc của ông, thưa ông Pitơ. Tôi muốn báo ông biết để ông
không đi ra khỏi nhà hôm nay, vì hiện đang có lệnh bắt ông, mà tôi thì chưa có
điều kiện giải quyết ổn thỏa vụ này và xin ân xá cho ông. Một cách hoàn toàn
ngẫu nhiên, hôm qua tôi được gặp cô gái xinh đẹp, bạn của tiểu thư. Lúc ấy cô
ấy đang đi chợ về và nói với tôi rằng cô ấy là chị em họ với tiểu thư. Cô ấy
thật tố bụng. Cô ấy đưa tôi vào nhà, và sau khi biết bố tiểu thư là người tôi
muốn gặp, đang cầu kinh ở nhà cầu nguyện, cô ấy đưa tôi đến tận cửa. Tôi bước
vào nhà nhưng không thấy ai, và chờ một lúc qua cách cửa để ngỏ, tôi đi xuống
khu vườn này định dạo chơi một lúc cho đến khi có ai đấy bước ra khỏi nhà. Và
như ông và tiểu thư thấy đấy, tôi dã may mắn đạt được nhiều hơn điều mong đợi.
- Đúng thế thật! - Pitơ nói. Cách cư xử và những lời
giải thích dài dòng của con người này làm chàng cảm thấy khó chịu. - Cần phải
tìm ông Giôn Caxten.
- Chúng tôi rất biết ơn ông, vì ông đã tới đây báo
trước cho chúng tôi cảnh giác, - Macgaret lẩm bẩm nói: - Bây giờ để tôi đi tìm
cha tôi. - Rồi nàng nhanh nhẹn đi qua trước mặt Đacghila.
Đacghila nhìn theo nàng một lúc rồi quay sang nói với Pitơ:
- Người Anh các ông là những người khỏe mạnh. Các
ông không sợ cái lạnh của buổi sáng mùa xuân. Tuy nhiên, nếu có được một phụ nữ
như thế bên cạnh, tôi cũng không sợ lạnh. Cô ấy quả là đẹp thật. Tôi có ít
nhiều kinh nghiệm về vấn đề này, nhưng quả chưa bao giờ được gặp một người xinh
đẹp đến thế.
- Cô em họ của tôi có bề ngoài không đến nỗi, - Pitơ
lạnh lùng đáp. Chàng hoàn toàn không thích những lời nói vừa rồi của Đacghila.
- Vâng, - Đacghila nói tiếp, không để ý đến thái độ
của Pitơ. - Cô ấy rất xinh đẹp và đáng được hưởng một địa vị cao hơn nhiều -
không phải địa vị con gái của một thương gia, mà là một nữ quý tộc cao thượng,
một nữ bá tước nắm trong tay cả những thành phố hay những khu đất rộng, hoặc
thậm chí là hoàng hậu. Bộ quần áo và trang sức của hoàng hậu chắc sẽ rất hợp
với cô ấy.
- Cô em họ của tôi không tìm kiếm những thứ đó. Cô
ấy hài lòng với số phận khiêm tốn của mình, - Pitơ ngắt lời hắn rồi nói thêm: -
Kia, ông Giôn Caxten đang đến.
Đacghila đi về phía Caxten, lịch sự chào ông. Dù cố
gắng giữ bình tĩnh, nhưng Caxten vẫn để lộ vẻ lo lắng ra ngoài, và điều ấy
không lọt qua đôi mắt sắc sảo của Đacghila.
- Tôi là một người khách đến quá sớm, - Đacghila nói
với ông. - Nhưng tôi biết các ông, những nhà buôn thường dậy sớm khi mặt trời
mới mọc. Vả lại, tôi muốn được gặp ông bạn của chúng ta trước khi ông ta đi
khỏi nhà. - Rồi hắn giải thích lí do cuộc đến thăm của mình.
- Cám ơn ông, thưa ông Đacghila! - Caxten đáp. - Ông
rất tốt với tôi và gia đình tôi. Tôi lấy làm tiếc đã để ông phải chờ tôi. Người
ta nói với tôi rằng ông tìm tôi trong nhà cầu nguyện, nhưng lúc ấy tôi đã kịp
đi khỏi đó để xuống phòng làm việc.
- Vâng, tôi có thể tự nhìn thấy điều ấy. Cái nhà cầu
nguyện cổ kính của ông thật khác thường! Trong khi chờ ông, tôi đã đi ngang qua
bàn thờ và đọc nốt bài kinh mà ở nhà tôi chưa kịp đọc hết.
Caxten khẽ giật mình, đưa mắt liếc nhanh Đacghila và
hướng câu chuyện sang đề tài khcs. Ông mời hắn cùng ăn cơm với mình, nhưng hắn
từ chối, việc lí do phải vội đi thu xếp công việc cho họ và cả việc riêng của
mình nữa. Hắn xin phép được tới cùng ăn tối vào ngày mai, tức là chủ nhật và
nhân thể sẽ báo tin kết quả công việc. Một lời đề nghị như thế Caxten không thể
không chấp nhận.
Và thế là Đacghila lịch sự cúi chào rồi đi ra khỏi
nhà. Hắn đi ra, không có người đi kèm. Vừa đi qua góc nhà, hắn gặp ngay một
người, không phải ai xa lạ mà là Bêti. Cô ta trên đường về nhà sau khi làm xong
một nhiệm vụ gì đó mà cô ta cho làm ngay bây giờ là tốt nhất.
- ồ! - Đacghila kêu lên. - Tôi lại được gặp cô lần
nữa! Hôm nay tôi được thánh thần phù hộ. Thưa cô, tôi mời cô đi dạo với tôi một
lát. Tôi có chuyện muốn hỏi cô.
Lưỡng lự một giây, rồi Bêti đồng ý, vì chẳng phải
lúc nào cô ta cũng được dạo chơi trên đường phố Honbon với một người đàn ông
lịch sự thế này.
- Xin cô đừng băn khoăn về bộ quần áo giản dị của
mình, - Đacghila nói. - Một người có thân hình tuyệt đẹp như cô thì có thể mặc
bất kì loại quần áo nào.
Lời nịnh ấy làm Bêti đỏ bừng mặt vì sung sướng. Cô
ta rất tự hào về dáng người của mình.
- Thế cô có muốn một chiếc áo khoác có những đường
viền đăng ten Tây Ban Nha chính cống không? Vâng, thế thì thế nào cô cũng có.
Tôi có mang theo từ Tây Ban Nha sang đây một chiếc áo như thế và tôi sẽ tặng
cô. Tôi chưa gặp một người phụ nữ nào có thể hợp với chiếc áo ấy như cô. Tuy
nhiên, thưa cô Bêti, cô đã nói dối tôi về ông chủ của cô, tôi đã vào nhà cầu
nguyện nhưng không thấy ông ta trong đó.
- Thưa ông, ông ta ở trong ấy đấy chứ, - Bêti cãi
lại, cố thanh minh trước con người ngoại quốc lịch sự và tinh tế này. - Chính tôi
thấy ông ta bước vào đấy một phút trước khi ông đến, sau đó không thấy ông ta
đi ra.
- Nếu thế thì ông ta trốn đi đâu, thưa cô? Hay ở đấy
có tầng ngầm?
- Tôi không biết, nhưng phía sau bàn thờ có một căn
phòng nhỏ.
- Ra thế đấy! Thế làm sao cô biết được điều ấy?
- Một lần tôi nghe có giọng nói sau tấm màn che, tôi
nâng lên và nhìn thấy một cánh cửa bí mật hé mở. Phía trong cánh cửa là ông
Caxten đang quỳ gối đọc kinh cầu nguyện trước một chiếc bàn nhỏ.
- Lạ nhỉ! Thế trên bàn có gì?
- Chỉ một chiếc hòm nhỏ bằng gỗ có hình thù khác
thường, trông giống một ngôi nhà bé xíu, hai chiếc giá đựng nến và mấy tờ giấy
da dê. Nhưng thưa ông, tôi quên mất rằng tôi đã hứa với ông Caxten sẽ không bao
giờ để lộ cho ai biết điều này. Lúc ấy quay lại, ông ta nhẩy bổ vào tôi như một
con chó becgiê. Ông sẽ không nói với ai điều tôi vừa kể cho ông nghe chứ?
- Không bao giờ! Tôi không quan tâm tới việc riêng
của gia đình ông chủ cô. Bây giờ tôi muốn hỏi cô một điều khác. Vì sao cô em họ
của cô không lấy chồng? Chẳng nhẽ không có ai tới cầu hôn?
- Không à? ồ, nhiều lắm, nhưng cô ấy từ chối và làm
ra vẻ hoàn toàn không quan tâm tới họ.
- Hay có thể cô ta đang yêu ông anh họ của mình, cái
anh chàng Brum chân dài, khỏe mạnh và liều lĩnh ấy?
- ồ không, thưa ông, tôi không nghĩ thế. Không một
người đàn bà nào có thể yêu anh ta, vì anh ta quá ư nghiêm khắc và ít lời.
- Tôi đồng ý với cô, thưa cô. Nhưng thế thì có lẽ
anh ta yêu cô ta chăng?
Bêti lắc đầu:
- Pitơ Brum không nghĩ tới phụ nữ, thưa ông. ít ra
thì chưa bao giờ anh ta nói chuyện với họ hay về họ.
- ồ, nhưng nếu thế thì có nghĩa ngược lại. Mà thôi,
suy cho cùng đấy không phải là việc của cô và tôi. Tôi chỉ lấy làm mừng rằng
giữa họ không có quan hệ gì vì một người như cô chủ của cô phải được chọn một
người chồng có dòng họ cao quý để trở thành một bà quý tộc thượng lưu, chứ
không phải vợ của một anh lái buôn.
- Tất nhiên là thế, thưa ông, dù Pitơ Brum không là
lái buôn, ít ra thì không phải xuất thân trong một gia đình như thế. Anh ta là
một nhà quý tộc và có lẽ đã trở thành xơ Pitơ Brum, nếu bố anh ta không chống
lại Đức vua hiện nay và không bị tước hết đất đai. Người ta nói Pitơ Brum là
một chiến binh rất dũng cảm. Hôm qua mọi người đã được chứng kiến điều ấy.
- Hoàn toàn đúng thế. Có lẽ với khuôn mặt nghiêm
khắc và tính ít nói của mình, nếu gặp thời, anh ta có thể trở thành một vị
tướng vĩ đại. Tuy nhiên, thưa cô Bêti, xin hãy cho tôi biết rằng vì soa một
người xinh đẹp như cô, - nói đến đấy, Đacghila kiểu cách, - mà mãi đến bây giờ
vẫn chưa lấy chồng. Tôi không nghĩ cô thiếu những người muốn đến dạm hỏi.
Và một lần nữa Bêti, cô gái ngu ngốc ấy, lại đỏ bừng
mặt vì sung sướng.
- Ông nói đúng, thưa ông, - cô ta đáp. - Không ít
người đến cầu hôn tôi, nhưng trong việc này tôi cũng giống cô em họ của tôi -
tôi chẳng thích họ một tí nào.
- Cô nói rất đúng, thưa cô - Đacghila nói với vẻ
thông cảm. - Đừng làm nhơ bẩn dòng máu của mình. Cô chỉ nên lấy người nào tương
xứng với cô về nguồn gốc dòng họ. Đối với một cô gái xinh đẹ, thông minh như
cô, điều ấy không khó lắm. - Rồi hắn nhìn vào đôi mắt to của Bêti với vẻ âu
yếm, chiêm ngưỡng.
Lúc này họ đang đi giữa cánh đồng vắng người, nên Đacghila càng
được dịp công khai bàytỏ tình cảm của mình. Nhưng Bêti, một cô gái ưa nịnh, đầy
lòng tự trọng và ngay thẳng cho là đã đến lúc nên nói là cô ta phải quay lại.
Mặc dù Đacghila phản đối, cô ta vẫn chia tay hắn rồi ba chân bốn cẳng chạy về
nhà, quá ngây ngất vì hạnh phúc.
“Ông ta mới tốt và đẹp trai làm sao! - Bêti nghĩ. -
Một người đàn ông chân chính! Và tất nhiên, ông ta đang yêu mình say đắm. Tại sao
lại không? Điều ấy vẫn thường xảy ra. Nhiều bà quý phái mà mình biết, không thể
sánh với mình, dù chỉ một nửa, về sắc đẹp và nguồn gốc quý tộc, và tất nhiên
không thể là đối tượng để ông ta chọn vợ. Có điều... ông ta phải chưa có vợ mới
được”. ý nghĩ này làm nhiệt tình của Bêti bớt sôi nổi ít nhiều.
Căn cứ vào những việc xảy ra mà xét thì Đacghila đạt
được kết quả khá nhanh trong việc thực hiện cái ý định mới nảy ra trong đầu hắn
mấy giờ trước đó. Bêti đã yêu hắn một nửa. Nhưng hắn hoàn toàn không có ý định
chinh phục trái tim cô gái xinh đẹp nhưng ngu ngốc này, mà chỉ sử dụng cô như
một phương tiện lợi hại, một bậc thang giúp hắn tiến lại gần Macgaret.
Hắn yêu Macgaret ngay từ khi mới gặp. Khi lần đầu tiên hắn nhìn
thấy nàng trong đám đông trước cung điện nhà vua, không áo khoác che người,
đang hoảng sợ và giận dữ, vẻ đẹp dịu hiền mà trang nghiêm của nàng đã đốt lên
ngọn lửa tình trong dòng máu phương Nam của hắn. Đacghila là một người đam mê
tình dục và luôn được thỏa mãn về điều đó, nhưng cái tình cảm mà hắn có lúc đó
hoàn toàn mới lạ. Từ trước tới nay chưa có người đàn bà nào hấp dẫn bằng
Macgaret. Ngoài ra, hắn còn muón nàng trở thành vợ hắn. Tại sao lại không? Đúng
là dòng máu hắn không thật thuần khiết lắm, nhưng địa vị hắn đang giữ rất cao.
Tất nhiên, Macgaret thấp hơn hắn, nhưng sắc đẹp của nàng có thể bù lại. Hơn
nữa, là một người thông minh và có học, nàng có thể phù hợp với cái địa vị mà
hắn tạo cho nàng. Vả lại, dù có tài sản rất lớn, nhưng do lối sống vô độ hắn đã
bắt đầu nợ nần rất nhiều, mà Macgaret lại là cô con gái duy nhất của một trong
những thương gia giàu có nhất nước Anh, và của hồi môn của nàng có thể làm
nhiều công chúa con vua ghen tị. Cái gì có thể cản trở hắn? Hắn sẽ bỏ rơi Inex
và những người khác - ít ra thì cũng trong một thời gian - để đưa Macgaret lên
địa vị bà chủ lâu đài của hắn ở Granađa. Nói tóm lại, như thường vẫn xảy ra với
những người mang trong mình dòng máu nóng phương Nam, hắn đã quyết định tất cả
những điều ấy trước khi rời bàn ăn của Giôn Caxten hôm qua. Hắn sẽ lấy nàng
Macgaret làm vợ, chứ không phải ai khác!
Nhưng cũng liền lúc ấy hắn hình dung trong đầu những
khó khăn mà hắn sẽ gặp. Trước hết, hắn không tin Pitơ, một người bình tĩnh,
khỏe mạnh, với chiếc gậy trong tay đã đánh bại một tên lính có vũ khí, và chỉ
nói một lời có thể gọi cả nửa thành phố Luân Đôn đến giúp. Hắn tin chắc rằng
Pitơ không thể không yêu Macgaret. đó là một đối thủ đáng gờm. Nhưng nếu
Macgaret không quan tâm tới Pitơ thì cũng chẳng ngại lắm, còn nếu ngược lại
thì... Mà sáng nay anh chàng làm gì trong vườn sớm thế nhỉ? Có lẽ phải thủ tiêu
Pitơ mới được, chỉ đơn giản thế thôi. Điều này không khó lắm nếu sử dụng một
vài cách thức quen thuộc: ở đây không hiếm những người Tây Ban Nha sẵn sàng
đứng nấp đâu đó trong bóng tối để bất chợt nhảy ra, đâm dao găm vào lưng Pitơ.
Tuy vậy, dù là một người độc ác, tội lỗi, ý nghĩ về
một hành động như thế cũng làm Đacghila băn khoăn. Hắn là một con chiên cuồng
tín và sau những việc làm tội lỗi, thỉnh thoảng lại ăn năn, lo sợ và hối hận.
Những lúc ấy hắn thường đem của cải và tài năng của mình phụng sự giáo hội, như
lần tới nước Anh này chẳng hạn. Không, Đacghila không bao giờ làm hoen ố bản
thân mình bằng máu người khác, nếu không sau này làm sao hắn có thể gột rửa
được điều ấy, để lương tâm trở nên trong sạch? Không. Phải tìm cách khác mới
được. Thí dụ, không phải chính Pitơ đã giết chết tên lính hầu của ngài đại sứ
Tây Ban Nha đó chăng, dò là để tự vệ? Cũng có thể không cần lợi dụng cả chi
tiết này. Đacghila có cảm giác rằng Macgaret thích hắn, ngoài ra bản thân hắn
cũng có thể mang lại nhiều cho nàng. Hắn sẽ chú ý, chiều chuộng nàng một cách
chân thật, và nếu bị nàng hay bố nàng từ chối, hắn sẽ hành động khác. Trong lúc
ấy thanh gươm đe dọa vẫn lơ lửng treo trên đầu Pitơ, và Đacghila sẽ làm ra vẻ
như hắn là người duy nhất có thể cứu được chàng. Trước mắt, hắn phải biết được
tất cả những gì cần biết về Caxten đã.
Lần này, thông qua cô Bêti ngốc nghếch, thần số phận
đã mỉm cười với hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, Giôn Caxten là một người Do
Thái. Điều này hắn đã được nghe nói ở Tây Ban Nha, và những hôm đến thăm ông ta
vừa rồi lại khẳng định thêm một lần nữa. Câu chuyện của Bêti về căn phòng nhỏ
sau bàn thờ, nơi có chiếc bàn gỗ để cầu nguyện, những ngọn nến và mấy tờ giấy
đã xóa sạch những băn khoăn cuối cùng. Nghĩa là chỉ riêng điều ấy cũng đủ để
đưa ông ta lên ngọn lửa giàn thiêu của tòa án dị giáo Tây Ban Nha, hay đuổi ông
ta ra khỏi nước Anh. Bây giờ, không chịu gả con gái cho hắn, thì có nên chăng
bắt ông ta thay đổi ý định bằng cách nhắc khéo ông ta về quyền lực của vua Tây
Ban Nha và Đức giáo hoàng?
Vừa suy nghĩ tất cả những điều ấy, Đacghila vừa đi
về nhà, trước hết để ghi lại câu chuyện của Bêti và những điều hắn thấy được
trong nhà Giôn Caxten.
Chương V
BÍ MẬT CỦA GIÔN CAXTEN
T
|
rong
nhà của Giôn Caxten, cũng như nhiều gia đình khác thời ấy, có lệ người bán hàng
và làm công cùng ngồi ăn sáng với chủ trong một phòng, có điều ở hai bàn khác
nhau. Nhưng Bêti là một ngoại lệ, và với tư cách chị em họ và là bạn gái của
Macgaret, cô ta được ngồi chung bàn với gia đình Caxten. Buổi sáng hôm ấy ghế
của Bêti bỏ trống. Mặc dù đang mải suy nghĩ mông lung, Caxten cũng nhận thấy
điều đó. Cả Macgaret lẫn Pitơ đều không trả lời nổi câu hỏi của ông - Bêti đi
đâu? Nhưng lúc ấy một người hầu, chính là người hôm trước Caxten cho đi theo
dõi Đacghila, nói rằng anh ta nhìn thấy Bêti đi giữa phố Honbon với người đàn
ông Tây Ban Nha kia. Nghe thế, Caxten sa sầm nét mặt.
Bữa ăn sáng trôi qua trong sự im lặng tuyệt đối, và
khi đám người hầu bước ra gần hết thì Bêti xuất hiện, đang còn đỏ ửng cả mặt.
- Cô vừa ở đâu về? - Caxten hỏi. - Và tại sao đến ăn
sáng muộn?
- Cháu di lấy vải trải giường, nhưng chưa giặt xong,
- cô ta nói liến thoắng.
- Nếu thế thì người ta bắt cô chờ lâu đấy, - Caxten
bình tĩnh nói. - Cô không gặp ai chứ?
- Chỉ gặp người ngoài phố thôi ạ.
- Tôi sẽ không hỏi thêm điều gì nữa, nếu không cô
lại tiếp tục nói dối, và bằng cách ấy chuốc thêm tội lỗi vào mình, - Giôn
Caxten nghiêm khắc nói. - Hãy nói cho tôi biết: cô vừa đi đâu với xinho
Đacghila, và nói gì với ông ta?
Bêti hiểu là cô đã bị nhìn thấy cùng đi với Đacghila
và có tiếp tục chối nữa cũng vô ích.
- Cháu đi với ông ấy một quãng, chả là ông ấy nhờ
cháu chỉ đường.
- Hãy nghe đây, Bêti, - Caxten ngắt lời cô ta, không
chú ý tới những điều cô ta nói, - cô là một cô gái đã lớn, đủ để tự chịu trách
nhiệm về mình. Tôi sẽ không nói gì về những cuộc dạo chơi của cô với đàn ông,
tuy những cuộc dạo chơi ấy chẳng mang lại điều tốt lành. Nhưng cô biết cho:
Không một người nào biết rõ về công việc của tôi được phép gặp gỡ, đi lại với
bất kì một người Tây Ban Nha nào. - Ông nhìn cô ta một cách chăm chú. - Nếu bị
bắt gặp đi với ông ta một lần nữa, cô sẽ không bao giờ còn được đặt chân đến
ngôi nhà này! Im đi, tôi không cần những lời thanh minh của cô. Hãy bê bữa sáng
của cô đi nơi khác mà ăn.
Bêti suýt khóc, đi ra khỏi phòng. Là một cô gái
ngang bướng, cô ta rất bực tức. Vốn yêu mến Bêti, Macgaret định nói một vài lời
gì đấy để bênh, nhưng bố nàng gạt đi:
- Vớ vẩn! Bố biết rõ Bêti. Nó phù phiếm và hiếu danh
như một con công. Nó không thể nào quên được nguồn gốc quý tộc của mình, và
rằng nó xinh đẹp và muốn kiếm được người chồng có địa vị cao. Mà thằng Tây Ban
Nha ấy thì lợi dụng chỗ yếu của nó để nhằm đạt được những mục đích riêng. Bố
tin chắc những mục đích ấy không hề tốt đẹp một tí nào. Nếu ta không kịp thời
can thiệp, nó sẽ mang tai họa lại cho tất cả chúng ta. Thôi, nói về Bêti Đin
như thế là đủ, bố còn phải đi làm việc.
Nhưng Pitơ, từ nãy đến giờ ngồi im, liền ngăn ông
lại:
- Thưa bố, chúng con muốn nói với bố đôi điều về chúng con.
- Về các con? - Caxten ngạc nhiên hỏi. - Vâng, cứ nói đi. à, mà đây
không phải là chỗ để nói những chuyện như thế. Bố nghĩ ở đây các bức tường có
thể có tai. Hãy đi theo ta.
Ông dẫn họ lên phòng cầu nguyện rồi khóa trái cửa
lại.
- Bây giờ thì nói đi. Có chuyện gì thế?
- Thưa bố, - Pitơ nói, - được bố cho phép, sáng nay
con đã yêu cầu Macgaret trở thành vợ con.
- Tôi thấy anh không để mất thời gian một chút nào,
anh bạn ạ. Nếu ai dựng nó dậy khỏi giường hay nói điều ấy với nó qua cửa sổ,
cũng không thể nhanh hơn được. Nhưng không sao, điều ấy cũng dễ hiểu. Bao giờ
anh cũng là con người hành động. Thế Macgaret trả lời anh sao?
- Cách đây một giờ Macgaret nói là đồng ý lấy con làm chồng.
- Anh là một người cẩn thận, - Caxten cười. - Và ai
cũng biết rằng trong một giờ người phụ nữ có thể thay đổi quyết định của mình.
Còn con, Macgaret bây giờ con nói sao, sau một thời gian suy nghĩ lâu như thế?
- Con nói rằng con giận Pitơ! - Macgaret khẽ kêu
lên, dậm bàn chân bé nhỏ của mình xuống đất. - Nếu anh ấy không tin con trong
một giờ, thì làm sao có thể sống với con suốt đời được?
- Không, không Macgaret, - Pitơ nói xin vào. - Em
không hiểu anh. Chỉ đơn giản là anh không muốn ép buộc em, nếu ngộ nhỡ...
- Thì đấy, anh đang lặp lại điều ấy đấy! - Macgaret
ngắt lời chàng, vừa bực mình lại vừa hài lòng.
- Có lẽ anh im lặng thì hơn, - Pitơ đấu dịu. - Thì
một mình em nói vậy.
- Vâng, tất nhiên, gì chứ im lặng thì anh giỏi lắm.
Hơn ai hết, em là người hiểu rõ điều ấy, - Macgaret đáp, tự thưởng cho mình cái
quyền được nói sau những năm tháng dài chờ đợi trong im lặng. - Được, em sẽ nói
thay cho anh. Thưa bố, anh Pitơ đã nói đúng sự thật. Con đồng ý làm vợ anh ấy,
dù điều ấy có nghĩa là gắn đời con với một người suốt ngày im lặng. Vâng, con
đồng ý, nhưng tất nhiên không phải vì Pitơ, anh ấy có quá nhiều khuyết tật, mà
là vì con, vì con yêu anh ấy. - Nói đoạn, Macgaret dịu dàng mỉm cười.
- Đừng đùa, Macgaret.
- Tại sao, thưa bố? Trông anh Pitơ mặt mũi mới đắc
thắng làm sao! Bố hãy nhìn anh ta xem. Ta cứ cười đi, chừng nào đang được cười.
Biết đâu sẽ có lúc phải khóc.
- Con nói đúng đấy, - Caxten thở dài nói. - Nghĩa là các con đã
quyết định đính hôn với nhau. Điều ấy làm bố vui mừng, các con ạ, bởi vì ai mà
biết trước được lúc nào sẽ rơi những giọt nước mắt mà Macgaret vừa nhắc tới.
Hãy cầm lấy tay Macgaret, Pitơ, và hãy thề trước cây thánh giá mà các con tôn
thờ. - Pitơ ngạc nhiên nhìn Caxten, nhưng ông vẫn nói tiếp: - Các con phải thề
rằng trước khi làm lễ đính hôn, các con sẽ trung thành với lời nói của mình
trong bất kì hoàn cảnh nào, ở cùng nhau hay xa nhau, gặp tin buồn, hay tin vui,
nghèo khổ hay sung sướng, bình yên hay loạn lạc, vui hay buồn, hay gặp những
thử thách ghê gớm. Còn sau khi đã đính hôn với nhau, các con sẽ chung thủy
thương yêu nhau suốt đời, cho đến khi bị thần chết chia lìa.
Caxten nói những lời ấy một cách nghiêm trang và hồi
hộp. Ông nhìn thẳng vào mắt Pitơ và Macgaret như muốn đoán đọc những ý nghĩ
thầm kín nhất của họ. Sự hồi hộp của ông được truyền sang đôi bạn trẻ. Lại một
lần nữa họ cảm thấy sợ hãi, giống như họ đã từng sợ hãi khi trong vườn bất chợt
họ nhìn thấy cái bóng của Đacghila. Một cách trang nghiêm, hầu như không cảm
thây sự vui mừng đáng lẽ phải có trong những lúc như thế, họ cầm tay nhau và
thề trước thánh giá rằng họ sẽ giữ vững lời thề này và sẽ chung thủy với nhau
cho tới lúc chết, dù phải vượt qua nhiều thử thách, cả những thử thách mà họ
bây giờ còn chưa hình dung nổi.
- Và cả sau khi chết, chúng con vẫn chung thủy với
nhau, - Pitơ nói thêm.
Chiếc đầu kiêu hãnh của Macgaret khẽ cúi xuống, tỏ ý
đồng ý.
- Các con ạ, - Caxten nói, - các con sẽ giàu có. ở nước Anh này
không có nhiều người giàu có như các con đâu. Nhưng có lẽ tốt hơn, các con đừng
khoe khoang sự giàu có của mình và đừng bắt chước những người danh giá khác.
Nếu không, các con sẽ làm người khác ghen tị, và sự ghen tị đó sẽ làm hại các
con. Hãy biết chờ đợi, rồi địa vị cao sang sẽ tự đến với các con, hoặc nếu
không, sẽ đến với con cháu của các con. Pitơ, để khỏi quên, bây giờ bố nói với
con, rằng bản thống kê tất cả chắc chắn vốn liếng và tiền đầu tư vào bất động
sản, vào việc mua đất, mua tàu và các cửa hàng buôn bán đã được chôn kĩ dưới
nền nhà trong phòng làm việc của bố, ngay dưới chỗ chiếc ghế bố vẫn ngồi. Lật
tấm ván lên, đào sâu xuống đất, con sẽ nhìn thấy một tấm đá, dưới nó là một
chiếc hòm sắt đựng tài liệu và sổ ghi chép. Cả đồ trang sức quý cũng ở trong
đó. Nếu vì một lí do nào đó chiếc hòm này bị mất, bản sao của hầu như tất cả
giấy tờ ấy đang nằm trong tay người bạn thân và là bạn hàng cùng buôn bán với
bố ở nước Anh. Đó là Ximông Livet, người mà các con có biết. Hãy nhớ lời bố
dặn.
- Thưa bố, - Macgaret lo lắng ngắt lời ông, - sao bố
lại nói những điều ấy? Như thể bố sắp không ở bên chúng con nữa. Bố sợ điều gì
chăng?
- ừ, con gái của bố ạ, bố sợ hay nói đúng hơn, bố
không sợ mà là chờ đợi. Bố đã sẵn sàng đón nhận tất cả. Nhưng các con đã thề,
và các con sẽ giữ vững lời thề chứ?
- Vâng, - cả Pitơ và Macgaret cùng đồng thanh nói.
- Nếu thế thì các con hãy chuẩn bị đón nhận thử
thách nặng nề đầu tiên, vì bây giờ bố không muốn giấu các con sự thật. Các con
ạ, các con tưởng rằng bố và các con cùng một tôn giáo, nhưng thực ra không phải
thế. Bố là một người Do Thái, như người bố và người ông của bố từ thời Abraam.
Những lời này gây nên một ấn tượng hết sức mạnh mẽ
đối với Pitơ và Macgaret. Vì ngạc nhiên, Pitơ há to miệng, và lần thứ hai trong
ngày chàng tái mặt. Macgaret thì ngã xỉu xuống ghế, bất lực nhìn chàng. Vào
thời ấy, làm người Do Thái có nghĩa là tự chuốc vào mình một mối nguy hiểm
khủng khiếp. Caxten nhìn họ, và sự im lặng của họ làm ông cảm thấy bị xúc phạm.
- à, ra thế đấy! - Ông chua xót kêu lên. - Hóa ra các người cũng
giống người khác, có đúng thế không? Các người đang khinh bỉ tôi vì tôi thuộc
vào một giống người có nguồn gốc lâu đời hơn và cao thượng hơn tất cả các huân
tước kiêu kì và các ông vua của các người, có đúng thế không? Các người hiểu rõ
tôi. Phải chăng tôi đã làm điều gì đáng xấu hổ? Tôi đã lừa dối láng giềng hay
ăn cướp của người nghèo ư? Hay tôi đã cười giễu đồ cũng lễ của các người? Tôiđã
bao giờ âm mưu nổi loạn chống lại chính quyền chưa? Hay có thể tôi là một người
bạn tồi và là một người cha khắc nghiệt? Các người lắc đầu, nhưng nếu thế, sao
các người lại nhìn tôi như nhìn một người tội lỗi? Lẽ nào tôi không có quyền
được theo tín ngưỡng của tổ tiên tôi? Lẽ nào tôi không được phép cầu nguyện
Chúa Trời theo các tôi muốn? - Rồi ông nhìn Pitơ với vẻ thách thức.
- Không, thưa bố, - Pitơ đáp. - Tất nhiên bố được
phép. ít ra thì con cho là thế. Nhưng nếu vậy , tại sao những năm qua bố phải
giả vờ cầu nguyện như chúng con?
Cái câu hỏi thẳng thừng và rất đặc trưng cho Pitơ ấy
đã làm Caxten giật mình lùi lại, như một chiến binh bất ngờ bị đánh một cú vào
chỗ hiểm. Sự dũng cảm đã rời bỏ ông, cơn giận trong mắt đã được thay bằng sự
nhẫn nhục, còn con người ông thì như thấp hẳn xuống. Bây giờ ông là một bị cáo
đang chờ được con gái và người yêu của con gái tha thứ.
- Các con đừng lên án bố một cách tàn nhẫn, ông nói.
- Các con phải biết thế nào là làm một người Do Thái - một kẻ khốn nạn mà bất
cứ một thằng ăn mầynò cũng có thể xô đẩy và phỉ nhổ; một người bị loại khỏi
vòng pháp luật và ở nước nào cũng bị lùng bắt như lùng bắt một con chó sói
hoang dại, và khi bắt được, người ấy bị giết để mua vui cho những con chiên Cơ
Đốc ngoan đạo, sau khi hắn đã bị cướp lột đến tận mang áo cuối cùng. Và bây giờ
các con thử hình dung tới khả năng trốn thoát khỏi những điều kinh khủng ấy để
được sống yên ổn, được nhà thờ che chở, và sau đó trở thành giàu có và có địa
vị!
Ông dừng lại một lát như để chờ nghe những lời phản
đối, nhưng Pitơ và Macgaret vẫn im lặng. Caxten nói tiếp:
- Vả lại, ngày bé bố đã được nhập đạo Cơ Đốc, nhưng
trái tim của bố cũng như tổ tiên bố, vẫn là trái tim của người Do Thái, mà ở
đâu trái tim ở đấy là linh hồn.
- Điều ấy chỉ làm mọi điều thêm phức tạp, - Pitơ
nói, như thể với chính mình.
- Bố đã được ông cụ thân sinh dạy như thế, - Caxten
nói để tự bảo vệ mình.
- Chúng ta phải trả giá cho các tội lỗi của mình, -
Pitơ lại ngắt lời ông.
Đến lúc này Caxten không còn kìm mình được nữa:
- Anh chỉ là con ngựa non háu đá, anh còn chưa biết
gì về những điều kinh khủng của cuộc đời, thế mà đã dám chê trách tôi! Nếu anh
phải chịu đựng những điều tôi đã chịu đựng, thì chắc gì anh đã dũng cảm bằng
một nửa tôi bây giờ. Các người có biết vì sao tôi đã cho các người biết điều bí
mật mà tôi có thể giữ kín, như đã từng giữ kín đối với mẹ cô không, Macgaret?
Tôi cho các người biết, vì đó là một phần của sự trừng phạt mà tôi phải gánh
chịu vì tội lỗi của mình. Vâng, tôi biết Đức Chúa của tôi rất nghiêm khắc, và
tội lỗi sẽ đổ lên đầu tôi, tôi sẽ phải trả giá tất cả cho đến đồng xu nhỏ cuối
cùng, mặc dầu tôi còn chưa biết bao giờ và ở đâu tôi phải gánh chịu sự trừng
phạt ấy. Đi đi, Pitơ, đi đi, Macgaret, đi mà tố cáo tôi, nếu các người muốn các
vị linh mục chỉ cho các người con đường ngắn nhất lên thiên đường. Tôi sẽ không
lấy của các người, dù chỉ một đồng tiền vàng.
- Thưa bố, xin bố đừng để cơn giận lôi kéo tình cảm
của mình, - Pitơ nói. - Đó là việc chỉ liên quan tới bố và Đức Chúa. Chúng con
biết nói gì với bố bây giờ, có ai bắt chúng con lên án bố đâu? Chúng con chỉ
biết cầu Chúa để những mối lo sợ của bố không thành sự thật, và để bố sống hết
những năm tháng còn lại của mình trong sự bình yên và danh giá.
- Bố cảm ơn con vì những lời tốt lành kia, chúng làm
tăng giá trị thêm cho con, - Caxten nói. - Còn con, Macgaret, con định nói gì
với bố?
- Nói gì ư? - Macgaret ngơ ngác hỏi lại. - Con chẳng
có điều gì để nói. Anh Pitơ nói đúng: Đó là việc của bố và Đức Chúa. Nhưng con
thật buồn vì phải để mất người yêu.
Pitơ ngạc nhiên nhìn nàng, còn Caxten thì kêu lên:
- Để mất? Vì sao? Nó chẳng vừa mới thề đó sao?
- Vấn đề không phải ở đấy. Làm sao con có thể yêu cầu anh ấy, một
nhà quý tộc, một con chiên Cơ Đốc chính cống, lấy làm vợ mình con gái một người
Do Thái suốt đời cầu chúa Giêsu, nhưng trong lòng lại không công nhận Ngài?
Lúc này Pitơ liền giơ tay lên.
- Hãy kết thúc câu chuyện này đi, - chàng nói. -
Thậm chí nếu bố em là Giuđa đi nữa, thì điều ấy có quan hệ gì đến anh và em?
Anh đã thuộc về em, và em thuộc về anh cho đến khi thần chết chia lìa chúng ta.
Và không tín ngưỡng của một người nào có thể ngăn cách chúng ta, dù chỉ một
phút. Thưa bố, cảm ơn bố đã tin chúng con. Xin bố hãy tin chắc rằng dù những
điều bố vừa kể có làm chúng con đau buồn, chúng con vẫn yêu và kính trọng bố
không kém chút nào so với chúng con đã yêu và kính trọng bố trước khi biết được
điều bí mật này.
Macgaret ngã vào Caxten khóc nức nở:
- Xin bố tha lỗi cho con, nếu con nói quá lời. Vì
con chẳng biết gì về điều ấy, và suốt đời con được dạy phải căm ghét những
người Do Thái. Bố theo tín ngưỡng nào không hề liên quan gì tới con, vì với
con, bố luôn luôn là một người bố đáng yêu!
- Nếu thế thì sao con lại khóc? - Caxten hỏi, dịu
dàng xoa đầu nàng.
- Bởi vì bố đang bị nguy hiểm đe dọa, ít ra thì bố
nói như thế, mà nếu có chuyện xảy ra với bố... thì lúc ấy con sẽ thế nào?
- Nếu đòn số mệnh giáng xuống đầu bố, con hãy xem đó
là ý Chúa muốn thế, và hãy dũng cảm đón nhận nó như bố. - Caxten khẽ hôn
Macgaret rồi đi ra khỏi nhà nguyện.
- Hóa ra niềm vui và nỗi khổ kề sát bên nhau, -
Macgaret khẽ nói.
- Vâng, chúng là anh em sinh đôi. Nhưng nếu chúng ta
đã được nếm mùi hạnh phúc, thì chúng ta sẽ không còn sợ điều bất hạnh. Mong sao
bệnh dịch hạch sớm bắt đi tất cả các cha cố và những kẻ cuồng tín của chúng!
Đức Chúa Giêsu đã cố để tất cả những người Do Thái tin theo đạo của Ngài, nhưng
Ngài không kêu gọi phải giết hết họ. Còn riêng về anh, anh quý trọng những
người biết giữ vững tín ngưỡng của mình, và sẵn sàng tha thứ cho họ, vì chính
các cố đạo đã bắt họ phải giả vờ và nói dối. Hãy cầu mong Chúa Trời để chúng ta
sớm đính hôn với nhau và yên ổn rời bỏ Luân Đôn, đi về nơi có thể giấu được bố
em.
- Em sẽ cầu, em sẽ cầu... - Macgaret khẽ nói rồi
tiến lại gần Pitơ.
Và sau đó họ ôm hôn nhau, quên hết mọi điều lo sợ.
Sáng sớm hôm sau - hôm đó là ngày chủ nhật, Pitơ, Macgaret và Bêti
đi vào nhà thờ thánh Pôn để dự lễ Met. Bây giờ, khi điều bí mật của ông không
còn là bí mật nữa, ông quyết định tránh không vào nhà thờ đạo Thiên Chúa chừng
nào có thể. Vì vậy ông đã cáo ốm không đi. Nhưng điều này không thể không làm
Macgaret lo lắng. Sau này thì sao? Vì không thể cứ giả vờ ốm mãi thế được. Mà
không đi lễ nhà thờ nghĩa là tự mình chuốc lấy tiếng phản đạo.
ở nhà một mình, Caxten cho gọi hai người đầy tớ khỏe
mạnh tới, ra lệnh cho họ lặng lẽ đi theo Pitơ và Macgaret:
Khi Pitơ, Macgaret và Bêti đi khỏi nhà thờ, Pitơ
nhìn thấy hai tên Tây Ban Nha mà chàng quen mặt. Chàng có cảm giác là chúng
đang theo dõi chàng. Trong đám đông chàng không nhìn thấychúng nên không nói gì
với Macgaret và Bêti. Con đường ngắn nhất dẫn về nhà chạy qua những cánh đồng
và khu vườn, nơi chỉ lác đác mấy ngôi nhà. Pitơ và Macgaret vừa đi vừa nói
chuyện. Bất chợt Bêti lúc ấy đi sau, bỗng kêu lên, Pitơ ngẩng đầu và nhìn thấy
hai tên Tây Ban Nha kia đang chui qua một lỗ hổng xuyên bờ giậu cách chàng
không đầy sáu bước. Chàng cũng nhìn thấy chúng đang nắm chuôi kiếm.
- Đi về phía trước, nhanh lên! - Pitơ khẽ nói với
Macgaret. - Anh không muốn quay lưng về phía chúng.
Nói đoạn chàng nắm lấy chuôi kiếm mà chàng luôn đeo
trong áo khoác, rồi bảo Macgaret lùi ra xa.
Họ đứng giáp mặt với hai tên Tây Ban Nha. Chúng lịch
sự cúi chào và hỏi có phải chàng là Pitơ Brum không. Chúng nói bằng tiếng Tây
Ban Nha, nhưng Pitơ và Macgaret thông thạo thứ tiếng ấy - chàng đã học thời nhỏ,
và nhiều khi chàng phải nói bằng tiếng Tây Ban Nha khi làm việc với Giôn
Caxten, là người thường được sử dụng ngôn ngữ ấy trong công việc buôn bán của
mình.
- Vâng, đúng thế, - chàng đáp. - Các ông có việc cần
gặp tôi à?
- Vâng, chúng tôi đến tìm ông để thực hiện nhiệm vụ
mà một người bạn Xcôtlen của chúng tôi có tên là Anđrin giao cho. Cách đây mấy
ngày ông đã gặp ông ấy, - một trong hai tên Tây Ban Nha nói với Pitơ. - Ông ấy
đã chết, và giao cho chúng tôi một nhiệm vụ có thể nói tóm tắt là làm sao để
ông và ông ta gặp được nhau lần nữa. Tất cả chúng tôi đã thề sẽ nói điều ấy với
ông, và chăm lo để ông sớm được gặp ông ấy.
- Ông muốn nói rằng các ông định giết tôi? - Pitơ
vừa đáp vừa nghiến chặt răng và rút
thanh kiếm từ dưới áo khoác ra. - Nào hãy lại gần đây, đồ hèn nhát, và chúng ta
sẽ thấy ai trong chúng ta sẽ là bạn của Anđrin dưới địa ngục. Macgaret, Bêti
hãy tránh ra xa!
Pitơ cởi áo khoác và quấn nó vào tay trái. Hai tên
Tây Ban Nha chựng lại trong giây lát - vẻ mặt cương quyết của Pitơ chắc đã cho
chúng biết rằng đánh nhau với chàng không phải dễ. Khi chúng xông vào chàng thì
bỗng nghe có tiếng chân chạy lại, và lập tức thấy hai người hầu của Caxten tay
cầm kiếm đứng cạnh Pitơ.
- Rất vui mừng được gặp các anh ở đây, - Pitơ nhìn
họ nói. - Còn bây giờ, thưa các ngài, bây giờ các ngài có còn muốn gặp tôi nữa
không ạ?
Thay cho câu trả lời, hai tên Tây Ban Nha vội vã bỏ
chạy. Một trong hai người hầu nhặt một hòn đá lớn bên đường rồi vung tay ném
theo. Hòn đá rơi đúng vào lưng gã Tây Ban Nha chạy sau, làm hắn ngã gục mặt
xuống đất. Hắn gượng dậy và vừa khập khiễng chạy tiếp, vừa chửi rủa câu gì đó
bằng tiếng Tây Ban Nha.
- Tôi nghĩ bây giờ chúng ta có thể yên tâm đi về
nhà, - Pitơ nói. - Có lẽ hôm nay chúng ta sẽ không còn gặp vị khách nào của
Anđrin nữa.
- Có thể hôm nay thì không, - Macgaret thở dài nói.
- Nhưng ngày mai hay ngày kia chúng lại đến. Rồi sẽ kết thúc thế nào?
- ồ, chuyện ấy thì chỉ một mình Chúa biết, - Pitơ
buồn bực đáp và cho kiếm vào vỏ.
Khi nghe chàng kể lại về việc này, Caxten lo lắng.
- Chúng muốn trả thù con về cái chết của gã Xcôtlen,
- ông nói. - Người Tây Ban Nha rất hay trả thù, vả lại, chúng không bao giờ tha
thứ cho con về việc lúc ấy con đã gọi người Anh đến giúp đỡ. Bố rất lo cho con,
Pitơ ạ. Nếu ra khỏi nhà, chúng sẽ giết con mất.
- Nhưng con không thể suốt đời cứ ngồi khóa cửa
trong nhà như chuột trong hang được! - Pitơ giận dữ nói. - Làm thế nào bây giờ?
Hay phải nhờ đến pháp luật?
- Không, chính con giết người, và bằng cách ấy đã vi
phạm pháp luật. Bố nghĩ tốt nhất con nên đi khỏi đây một thời gian, cho đến khi
mọi việc lắng xuống.
- Đi khỏi đây? Pitơ đi khỏi đây ư? - Macgaret hoảng
sợ kêu lên.
- ừ! Con hãy nghe bố nói đây. Bây giờ các con không
thể làm lễ cưới được. Điều này không đơn giản như thế. Cần phải báo tin và thống
nhất trước về nghi lễ. Để làm chuyện ấy phải mất gần một tháng. Cũng chẳng lâu
lắm. Suy cho cùng, các con mới làm lễ đính hôn hôm qua. Bây giờ hãy nhớ kĩ điều
này: Không một ai được biết việc các con đã đính hôn với nhau. Nếu không, bọn
Tây Ban Nha sẽ truy lùng cả con nữa, Macgaret ạ. Bố bắt các con phải thề độc
rằng điều này phải được giữ bí mật tuyệt đối. Các con phải tỏ ra lạnh lùng,
cách xa nhau, như không có chuyện gì xảy ra.
- Mọi việc sẽ đúng như bố muốn, thưa bố, - Pitơ nói.
- Nhưng con thì không thích phải che giấu sự thật như thế. Điều ấy chỉ gây thêm
phức tạp. Theo con, con phải liều ở lại đây và tổ chức lễ cưới càng sớm càng
tốt.
- Để một tuần sau vợ con sẽ trở thành góa chồng hoặc
những thằng khốn nạn kia đốt cháy ngôi nhà của ta hay sao? Không, không, Pitơ,
đừng chọc tức thần số phận. Chúng ta chờ Đacghila cho biết kết quả thế nào, rồi
sau sẽ quyết định.
Chương VI
CHIA TAY
N
|
hư
đã hứa, Đacghila đến nhưng không phải đi bộ và một mình như lần trước, mà cùng
với một đoàn tuỳ tùng, như một nhà quý tộc lớn phải có. Hai tên hầu chạy phía
trước dọn đường. Tuyệt đẹp, mặc chiếuc áo choàng bằng vải the và đội chiếc mũ
có cắm lông đà điểu. Bốn người vũ trang cưỡi ngựa có đeo phù hiệu của Đacghila
đi kèm.
- Chúng ta chỉ mời một người, hay nói đúng hơn,
chính hắn tự yêu cầu được tiếp, thế mà bây giờ
buộc phải thiết cơm bảy người, chưa nói đến ngựa! - Caxten lẩm bẩm khi
đứng bên cửa sổ tầng trên quan sát chúng. - Nhưng biết làm thế nào được? Pitơ,
con phải chú ý để chọn người hầu này được ăn uống tử tế - chúng không được than
phiền về lòng hiếu khách của chúng ta. Có thể cho bọn người hậu ăn ở phòng nhỏ
với đám gia nhân của ta. Còn con, Macgaret, con hãy mặc bộ quần áo đẹp nhất và
mang các đồ trang sức mà con đã mang hồi mùa hè năm ngoái, khi bố dẫn con đi dự
buổi dạ hội thành phố. Phải cho những tên nước ngoài đỏm dáng này thấy rằng
giới thương gia Luân Đông cũng có cái để khoe.
Pitơ lưỡng lự, băn khoăn có nên tổ chức một sự đón
tiếp long trọng như vậy không. Nếu là chàng, chàng sẽ cho đám tuỳ thùng kia ra
quán ăn, còn ông chủ củachúng thì được chàng ặc một bộ quanà áo giản dị và tiếp
sau cái bàn thường ngày vẫn ngồi. Nhưng Caxten hôm ấy hơi khó tính, vả lại đôi
lúc ông cũng thích khoe khoang sự giàu có của mình, nên ông giận dữ, quát tháo,
và nói rằng có lẽ chính Pitơ phải ra đón Đacghila. Cuối cùng Pitơ lắc đầu chán
nản rồi đi ra, còn Macgaret thì về phòng mình thay quần áo.
Mấy phút sau mặc bộ quần áo sang trọng và đắt tiền
nhất, Caxten chào đón Đacghila ở phòng khách. Nhân lúc chỉ có hai người, Caxten
hỏi hắn việc chạy chọt với dơ Aiala thế nào.
- Vừa tốt lại vừa xấu, - Đacghila nói. - Tiến sĩ dơ Puebla, người
mà tôi định nhờ giúp đỡ đã rời khỏi Luân Đôn, sau khi tuyên bố rằng ông ta bị
xúc phạm, và rằng ở triều đình Anh không thể một lúc có hai đại sứ Tây Ban Nha.
Vì thế tôi buộc phải thương lượng với dơ
Aiala. Tóm lại, tôi đã hai lần nói chuyện với ông ta về cái chết đích
đáng của tên lính hầu láo lếu của ông ta. Ông ta cho rằng ông ta bị xúc phạm,
vì trước đấy cũng đã mất mấy tên như thế trong những trường hợp tương tự. Vì
vậy phải vất vả lắm, tôi mới thuyết phục được ông ta nhận năm mươi đồng tiền
vàng - tất nhiên, như ông ta nói, là để chuyển cho gia đình người bị giết - và
kí vào tờ giấy này. Đây, nó đây. - Rồi Đacghila chìa cho Caxten một tờ giấy, Caxten
chăm chú đọc.
Trong tờ giấy ghi rõ rằng Pitơ Brum đã bồi thường
cho người thân của Anđrin Phecxơn năm mươi đồng tiền vàng, và rằng những người
lính hầu của ngài đại sứ Tây Ban Nha và cả bản thân ngài đại sứ cam đoan không
được trả thù Pitơ Brum dưới bất kì hình thức nào vì tội giết người mà ông ta đã
gây ra.
- Nhưng chúng tôi đã đưa tiền cho ông đâu? -
Caxten nói.
- Tôi trả bằng tiền của tôi. Dơ Aiala không chịu kí,
nếu chỉ hứa không mà không có tiền.
- Tôi rất biết ơn ông vì nhiệt tình của ông, thưa
ông. Ông sẽ nhận được số tiền ấy trước khi rời khỏi ngôi nhà này. ở địa vị ông,
chắc ít người có thể tin tưởng một người lạ như thế được.
- Chúng ta sẽ không nhắc đến những chuyện vụn vặn
như vậy. Tôi mong ông xem đó như một cử chỉ tôn trọng của tôi đối với gia đình
ông. Nếu không điều ấy sẽ là một sự xúc phạm đối với một người giàu có như ông.
Nhưng tôi còn phải nói với ông một đôi điều. Ông, hay đúng hơn là Pitơ, người
bà con của ông, vẫn còn bị nguy hiểm đe doạ. Dơ Aiala đã tha thứ cho ông ta.
Nhưng còn vua Anh là người đã đặt ra pháp luật mà ông ta vi phạm. Hôm nay tôi
vừa gặp Đức vua, và nhân tiện, ngài có nói về ông như về một người rất đáng
kính. Nhưng ngài cũng nói thêm rằng bao giờ ngài cũng nghĩ là chỉ có những
người Do Thái mới có được một tài sản lớn như thế. Tuy nhiên, ngài biết rằng
ông không phải là người Do Thái. Người ta nói với ngài rằng ông là một con
chiên rất ngoan đạo. - Đến đây, Đacghila dừng lại, nhìn Caxten một cách thử
thách.
- Tôi e rằng Đức vua có phóng đại thêm sự giàu có
của tôi, - Caxten lạnh lùng nói, làm ra vẻ không chú ý đến câu nói cuối cùng
của Đacghila. - Thế Đức vua nói gì?
- Tôi đưa cho ngài xem chữ kí của dơ Aiala, và ngài
nói rằng nếu ông ta hài lòng với cách giải quyết ấy, thì ngài không phản đối,
và ngài cho rằng không cần thiết phải đưa vụ này ra toà án nữa. Nhưng ngài có
ra lệnh cho tôi phải nói với ông và ông Pitơ Brum rằng, nếu một lần nữa ông ta
gây nên ẩu đả giữa đường phố, nhất là giữa những người Anh và người Tây Ban
Nha, dù bị bắt buộc phải làm thế, thì ngài sẽ treo cổ ông ta, có toà án hay
không toà án cũng vậy. Đức vua khá bực mình khi nói điều này, bởi vì ngài không hề muốn xảy ra một sự hiểu
lầm nào giữa hai nước Tây Ban Nha và Anh.
- Thế thì
đúng là đáng ngại thật, - Caxten thở dài nói. - Ngay sáng nay thôi, một cuộc ẩu
đả như thế suýt xảy ra. - Rồi ông kể lại việc hai tên Tây Ban Nha đã đi theo
Pitơ và một tên bị người hầu ném đã trúng đã ngã như thế nào. Nghe xong,
Đacghila lắc đầu một cách thông cảm.
- Vâng, mọi điều phiền toái bắt đầu từ những chuyện
như thế - hắn nói. - Tôi nghe bọn hầu của tôi kể lại, chúng bao giờ cũng kể cho
tôi nghe, chúng có hơn hai mươi đứa, đã thề trước Đức Mẹ Xêvin rằng, trước khi
rời khỏi nước này, chúng sẽ bắt người bà con của ông phải đổ máu vì tội đã giết
Anđrin Phecxơn, một chàng trai dũng cảm và là chỉ huy của chúng. Chúng rất yêu
hắn. Nếu chúng tấn công Pitơ, chắc sẽ xảy ra ẩu đả, vì Pitơ là người rất biết
đánh nhau, mà có ẩu đả thì nghĩa là Pitơ sẽ bị treo cổ như Đức vua đã hứa.
- Trước khi chúng rời khỏi nước này à? Thế bao giờ
chúng định lên đường?
- Độ một tháng nữa dơ Aiala sẽ về nước cùng với đoàn
tuỳ tùng của mình, không muộn hơn, vì ngài đại sứ khác, dơ Puebla không muốn
nhìn thấy ông ta ở đây thêm nữa, và từ ngôi nhà ngoại ô của mình, dơ Puebla đã
viết về Tây Ban Nha rằng một người trong số họ phải về nước.
- Nếu thế thì, thưa ông, tôi nghĩ rằng tốt hơn hết,
Pitơ nên rời khỏi đây một tháng.
- Thưa ông Caxten kính mến, ông thật thông minh. Tôi
cũng nghĩ như thế, và tôi khuyên ông nên làm ngay điều đó. ồ, tiểu thư con gái
của ông đang tới kia!
Macgaret xuất hiện trên chiếc cầu thang rộng bằng gỗ
sồi dẫn vào phòng khách. Một tay nàng cầm chiếc đèn chiếu sáng người nàng,
trong lúc Đacghila và Caxten đứng trong bóng tối mờ. Nàng mặc một chiếc ấo hở
cổ được may bằng loại nhung màu đỏ sẫm có thêu những đường vàng. Màu áo làm tôn
thêm nước da trắng kì lạ của chiếc cổ và ngực nàng. Quanh cổ nàng là một chuỗi
ngọc lớn. Nàng đội trên đầu một chiếc lưới bằng vàng có đính những hạt ngọc nhỏ
hơn, phủ lên những làn sóng tóc dày, màu nâu tuyệt đẹp dài đến tận đầu gối.
Theo lệnh bố, nàng đã ăn mặc thế để trở nên xinh đẹp nhất không phải cho ông
khách, mà là con người yêu của mình, người mà nàng vừa mới đính hôn. Nàng xinh
đẹp đến mức Đacghila, nghệ sĩ và một kẻ tôn thờ cái đẹp, phải ngỡ ngàng đến
nghẹt thở.
- Xin thề có mười một ngàn cô gái đồng trinh! - Hắn
thốt lên. - Cô con gái của ông xinh đẹp hơn tất cả mười một ngàn cô gái đồng
trinh kia cộng lại. Cô ấy phải trở thành hoàng hậu và chinh phục toàn thế giới.
Không, không thưa ông, - Caxten vội nói, - cứ để nó
mãi mãi là một cô gái chân thật, khiêm tốn và chỉ chinh phục mỗi chồng mình.
- Nếu được là
chồng cô ấy, tôi cũng nói đúng như thế, - Đacghila khẽ nói rồi bước lên phía
trước, cúi thấp người chào Macgaret.
Lúcnày ánh sáng của ngọn đèn bàng bạc nàng đang giữ
trong tay soi sáng Đacghila và nàng, và trông họ thật đẹp đôi. Cả hai cùng cao
và cân đối, cùng có những cử chỉ đường bệ và những câu nói đầy tự tin. Nhận tấy
điều ấy, Caxten bỗng lo sợ, mặc dù không biết lo sợ điều gì.
Đúng lúc ấy, Pitơ bước vào theo một cửa khác. Chàng
vẫn mặc bộ quần áo thường ngày màu xám, và chàng không hề nghĩ tới việc phải ăn
mặc đẹp để chiều lòng gã Tây Ban Nha kia. Chàng cũng chú ý tới Macgaret và
Đacghila, và bản năng của một người ngoại quốc xinh đẹp kia là đối thủ và là kẻ
thù của chàng. Nhưng Pitơ không sợ, chàng chỉ thấy ghen tị và tức giận. Bỗng
nhiên chàng rất muốn Đacghila đánh chàng, lúc ấy chỉ cần năm phút sau sẽ rõ ai
là người đàn ông thật sự. Chàng hiểu rằng có ngày nhất định chuyện ấy sẽ xảy
ra, và nghĩ sẽ tốt hơn nếu xảy ra ngay bây giờ, chứ không phải sau này, khi một
trong hai người đã bình tĩnh trở lại. Nhưng Pitơ chợt nhớ rằng chàng đã hứa
không để lộ mối quan hệ giữa chàng và Macgaret, vì vậy chàng chào Đacghila một
cách lịch sự nhưng lạnh lùng, nói với hắn rằng ngựa đã được đưa vào chuồng, còn
đám người hầu của hắn đã được bố trí đâu vào đấy. Đacghila cám ơn chàng. Rồi họ
cùng đi tới bàn ăn. Đó là một bữa ăn tối khá lạnh lùng đối với cả bốn người,
mặc dù bề ngoài trông vẫn rất hấp dẫn. Tạm quên những mối lo sợ của mình, trong
khi rót rượu, Caxten kể cho khách nghe những chuyện ông đã trực tiếp chứng
kiến. Về phần mình, Đacghila cũng vui vẻ kể về những cuộc chiến tranh Tây Ban
Nha và về chính trị - hắn đã từng tham gia các cuộc chiến tranh ấy, còn về
chính trị thì hắn biết một cách rất thông thạo. Qua những lời hắn kể, dễ đoán
được rằng hắn là một trong những người thường xuyên lui tới cung đình, được các
quan đại thần và nhà vua sủng ái. Một cách tò mò và chăm chú, Macgaret lắng nghe
về những điều xảy ra trong thế giới rộng lớn ngoài Hônbôn và Luân Đông. Nàng
hỏi khách về nhiều điều nàng muốn biết về Phecđinăng, vua xứ Aragông và vợ ông
ta, Ixaben, bà hoàng hậu nổi tiếng là ai.
- Thưa tiêu thư, tôi sẽ kể một cách thật ngắn gọn
cho tiểu thư nghe, - Đacghila nhanh nhảu nói. - Phecđinăng là người ham mê công
danh nhất ở châu Âu. Thêm vào đó, khi cần cho công việc của mình, ông ta rất
giả dối. Quyền lực và tiền bạc đối với ông ta là điều quan trọng nhất. Đó là
các bậc thần mà ông ta tôn thờ, ông ta không có một thứ tín ngưỡng nào thật sự.
Ông ta không thông minh lắm, nhưng rất xảo quyệt, và điều đó đã giúp ông ta
thành công, vươn lên phía trước.
- Một con người không lấy gì làm tốt đẹp lắm, -
Macgaret nhận xét. - Còn hoàng hậu thì thế nào?
- Đó là một người đàn bà vĩ đại! - Đacghila kêu lên. - Bà biết cách
sử dụng tinh thần thời đại để đạt được những mục đích của mình. Bà cũng biết
cách tỏ ra mềm mỏng, nhưng dưới sự mềm mỏng ấy là một sự cương quyết sắt đá.
- Thế hoàng hậu vươn tới điều gì? - Macgaret tò mỏ
hỏi.
- Đặt cả châu Âu dưới quyền lực của mình, đánh bại
người Mô và cướp đất của họ; truyền bá đạo Thiên Chúa khắp thế giới; tiêu diệt
bọn phản đạo, bắt tất cả những người Do Thái nhập đạo Thiên Chúa hay tiêu diệt
họ. - ĐAcghila thong thả nói tiếp, Pitơ lúc đó đang theo dõi hắn, nhận thấy mắt
hắn ánh lên khi nói những từ ấy. - Ném họ lên ngọn lửa giàn thiêu, còn tài sản
thì nhập vào ngân khố nước mình. Làm thế, bà ta nghĩ sẽ chiếm được lòng biết ơn
của tất cả các tín đồ trên trái đất và ngai vàng trên thiên đường.
Sau những lời ấy là một sự im lặng, rồi
Macgaret mạnh bảo nói:
- Nếu ngai vàng trên thiên đường được dựng lên bằng
máu và nước mắt của con người, thì tôi muốn biết dưới địa ngục đá và lửa sẽ thế
nào.
Không chờ được trả lời, nàng đứng dậy viện cớ mệt,
nhún chân cúi chào Đacghila, bố nàng và
Pitơ rồi đi ra.
Sau khi nàng đi khỏi, câu chuyện không ăn nhập với
nhau nữa, và một lúc sau, Đacghila cáo từ. Trước khi ra về, hắn nói:
- Thưa ông bạn Caxten thân mến của tôi, xin ông báo
lại những tin tức tôi mang tới cho ông với người bà con người của ông. Vì quyền
lợi chung của chúng ta, tôi hi vọng ông ta sẽ tạm cúi đầu trước hoàn cảnh, và
bằng cách ấy, giữa được nó đứng thẳng trên vai.
- Hắn nói thế nghĩa là gì? - Pitơ hỏi khi tiếng vó
ngựa của Đacghila xa dần.
Caxten kể cho chàng nghe về cuộc nói chuyện giữa ông
và Đacghila trước khi ăn tối, cho chàng xem tờ giấy có chữ kí của dơ Aiala, rồi
ông bực mình nói thêm:
- Bố quên đưa tiền cho hắn! Ngày mai phải cho người
mang tới mới được.
- Đừng lo, rồi hắn sẽ tự đến đòi, - Pitơ lạnh lùng
nói. - Còn riêng con, nếu được tự mình quyết định, con thà ở lại đây để cầm
kiếm gặp bọn Tây Ban Nha kia và chờ giá treo cổ của Đức vua còn hơn.
- Con không được làm thế, - Caxten nói. - Nếu không
vì con thì ít ra cũng vì sự an toàn của bố và Macgaret. Chẳng nhẽ con muốn để
nó phải goá chồng trước khi cưới con? Hãy nghe bố nói: bố bắt con phải đi tới
Êxec để nhận bàn giao giấy tờ về số đất ở Dethem của bố con ngày xưa, và đồng
thời để tu sửa lại ngôi nhà mà theo bố biết, hiện đang rất cần được sửa chữa.
Khi những tên Tây Ban Nha kia rời khỏi Luân Đôn, con sẽ trở lại, và chính chúng
ta sẽ tổ chức ngay lễ cưới. Chẳng còn bao lâu nữa, chỉ vỏn vẹn một tháng.
- Bố và Macgaret không cùng đi với con về Dethem à?
Caxten lắc đầu:
- Không được. Bố phải làm nốt công việc của mình ở
đây, còn Macgaret thì không thể một mình cùng đi với con. Vả lại ở đấy nó chẳng
biết sống vào đâu. Bố sẽ cố gắng giữ gìn Macgaret trước khi con trở lại.
- Vâng, thưa bố, nhưng liệu bố có giữ nổi không?
Những lời nói nham hiểm của người Tây Ban Nha đôi
khi còn đáng sợ hơn lưỡi kiếm của chúng.
- Bố nghĩ là Macgaret có cách để chống lại điều ấy.
- Caxten mỉm cười rồi đi ra, để Pitơ ở
lại một mình.
Ngày hôm sau, khi Caxten báo cho Macgaret biết người
yêu của mình sẽ phải ra đi chiều hôm ấy, - tự Pitơ không đủ can đảm nói với
nàng điều đó, - thì nàng liền khóc và năn nỉ bố đừng để Pitơ đi xa, hoặc cho cả
nàng cùng đi. Nhưng Caxten dịu dàng giải thích cho nàng hiểu rằng điều ấy không
thể được, và nếu Pitơ không đi ngay chàng sẽ bị giết chết. Và rằng chỉ một
tháng nữa, khi bọn Tây Ban Nha về nước, họ sẽ tổ chức lễ cưới, và sẽ sống mãi
trong bình yên và hạnh phúc.
Cuối cùng thì Macgaret cũng công nhận rằng đó là cách giải quyết
tốt nhất và có lẽ cũng thông minh nhất. Nhưng phải xa cách như thế, nàng thật
đau khổ. Cuộc hành trình tới Êxec không phải quá dài, và một lần nữa được làm
chủ số đất mới hai ngày trước đây thôi Pitơ tưởng đã mất vĩnh viễn, không phải
là chuyện khó chịu lắm. Tuy thế, lòng họ vẫn thấy nặng trĩu, và đối với họ,
ngôi sao hi vọng vẫn xa vời.
Macgaret lo Pitơ có thể bị phục kích dọc đường,
nhưng chàng chỉ cười, nói rằng Caxten cử đi theo sáu tay kiếm lực lưỡng và nói
với những người tuỳ tùng như thế, chàng không sợ bất kì tên Tây Ban Nha nào. Còn
Pitơ thì lo ở nhà Đacghila sẽ tán tỉnh Macgaret khi chàng vắng mặt. Nhưng
Macgaret cười giễu chàng, tuyên bố rằng trái tim nàng đã trao cho Pitơ Brum,
nên không còn gì để làm mồi cho Đacghila hay bất cứ người đàn ông nào khác.
Ngoài ra, nàng còn nhắc chàng rằng nước Anh là một nước tự do và không ai có
thể bắt được một người phụ nữ nào làm trái ý họ. Nghĩa là hoá ra họ chẳng có gì
để sợ. Nhưng dù sao họ vẫn cảm thấy lo lắng.
- Anh thân yêu, - nàng nói sau một lúc suy nghĩ, con
đường của chúng ta có vẻ như thẳng và trơn tru, tuy thế vẫn rất có thể có nhiều
cạm bẫy mà không lường trước được. Anh phải thề với em một điều rằng có nghe ai
nói gì hay xảy ra chuyện gì đi nữa, anh cũng không bao giờ được nghi ngờ anh.
Thí dụ nếu người ta nói với anh rằng em đã bỏ anh lấy người khác, hay thậm chí
cả khi anh tin rằng đấy là chữ em viết, hay chính tai anh được nghe em nói - cả
những lúc ấy anh cũng đừng tin.
- Nhưng làm sao điều ấy có thể xảy ra được? - Pitơ
lo lắng hỏi.
- Cả em cũng không nghĩ điều ấy có thể xảy ra. Em
chỉ nên giả thuyết xấu nhất, để chúng ta sẵn sàng chờ đón tất cả. Cho đến nay
cuộc đời em hoàn toàn trong sáng, phẳng lặng như bầu trời xuân nhưng ai biết
được sẽ có ngày giông bão mùa đông ập đến. Nhiều khi em cứ tưởng em được sinh
ra để đón nhận thử thách của mưa, gió và giông bão, cũng như sự yên tĩnh và mặt
trời. Anh đừng quên rằng bố em là một người Do Thái, mà người Do Thái và con
cái họ thì đôi khi có thể xảy ra những điều kinh khủng nhất. Tất cả gia tài
chúng ta có thể bỗng chốc biến đi, và anh
có thể tìm thấy em trong nhà tù hay trong bộ quần áo rách rưới của kẻ ăn mày.
Anh thề chứ? - Rồi nàng đưa cây thánh giá bằng vàng lên môi Pitơ.
- Vâng, - chàng nói, - anh xin thề trước đây thánh
giá thiêng liêng này và cả trước đôi môi em - Pitơ khẽ hôn, lúc đầu cây thánh
giá rồi đến môi nàng và nói tiếp: - Anh có phải bắt em cũng thề như thế với anh
không?
Macgaret phá lên cười:
- Nếu anh
muốn, nhưng theo em thì không cần. Em biết trái tim anh em sẽ không bao giờ còn
yêu người nào khác, cả sau khi em chết và anh lấy vợ lần nữa. Nhưng dù sao đàn
ông vẫn là đàn ông, vì vậy em sẽ thề điều này, nếu vô tình anh bị sa ngã và em
còn sống để nghe thấy điều ấy, em thề sẽ cố không lên án anh quá nghiêm khắc. -
Nói đoạn nàng lại phá lên cười, nàng tuyệt đối tin tưởng vào quyền lực của nàng
đối với Pitơ.
- Cảm ơn em, - Pitơ đáp. - Nhưng anh sẽ cố gắng đứng
vững, và nếu người ta kể với em những chuyện không hay gì đó về anh, mong em
hãy bình tĩnh suy xét.
Rồi tạm quên những mối lo sợ và nghi ngờ của mình,
họ bắt đầu nói về lễ cưới sẽ được tổ chức một tháng sau đó, và về cuộc sống
hạnh phúc ở Đêthem. Macgaret biết rõ ngôi nhà của Pitơ, vì ngày nhỏ nàng từng
sống ở đấy, bây giờ nàng đưa ra một loạt các yêu cầu, bắt chàng sắp xếp lại các
phòng và bày biện các đồ gỗ. Để làm điều ấy, họ sẵn sàng chi không tiếc tiền.
Và Macgaret hứa sẽ gửi tới Đêthem tất cả những gì cần thiết.
Cứ thế, hết giờ này đến giờ khác trôi qua, cho đến
tối. Lần cuối cùng cả ba người lại ngồi vào bàn ăn. Họ quyết định Pitơ sẽ lên
đường vào lúc trăng lên để không ai nhìn thấy. Bữa ăn không thể gọi là vui vẻ
được, dù cả ba cố làm ra vẻ đang ăn rất ngon miệng. Cuối cùng ngựa đã được dẫn
tới, Macgaret đeo kiếm cho Pitơ và khoác chiếc áo dài lên người chàng. Pitơ bắt
tay Caxten, nhắc ông về lời hứa gìn gữ vật báu chung của hai người là Macgaret,
chàng ôm hôn tạm biết người yêu rồi đi ra phía cổng.
Tay cầm chiếc đàn bằng bạc. Macgaret tiễn chàng đến
hiên. Đứng ở bậc cửa, Pitơ quay lại và thấy nàng đang nhìn theo chàng bằng đôi
mắt mở rộng. Khuôn mặt nàng căng thẳng và tái nhợt. Pitơ ngập ngừng - sự cương
quyết trước đây hầu như đã rời bỏ chàng. Chàng ao ước được ở lại, nhưng rồi
chàng cố nén tình cảm của mình để ra đi.
Macgaret thẫn thờ đứng yên cho đến khi tiếng vó ngựa
tan dần. Lúc ấy nàng quay lại, nói với Caxten:
- Thưa bố, không hiểu sao, con có cảm giác rằng con
và Pitơ sẽ gặp nhau ở nơi nào đó ngoài biển cả, cách xa đây. Có điều con không
biết chính xác ở đâu.
Không chờ bố trả lời, nàng bỏ đi về phòng mình,
Caxten lặng lẽ nhìn theo nàng rồi lẩm bẩm:
- Lạy Chúa, may mà nó không phải là một nhà
tiên tri. Nhưng tại sao tôi thấy trong lòng thực nặng nề? Tôi đã làm tất cả
những gì có thể làm được cho nó và cho Pitơ. Còn chuyện gì sẽ xảy ra với tôi,
bây giờ đều không quan trọng.
Chương VII
TIN TỪ TÂY BAN NHA
P
|
itơ Brum là một người rất điềm tĩnh và ít nói -
giọng chàng trước khi vang lên trong ngôi nhà của Caxten. Tuy vậy, vắng chàng
ngôi nhà cổ ở khu Hônbôn này có vẻ như trống trải. Thậm chí cả cô Bêti xinh
đẹp, người mà Pitơ không bao giờ chơi thân vì chàng không tán thành nhiều điều
trong cách cư xử của cô ta, cũng cảm thấy sự vắng mặt của chàng, và đem điều đó nói với Macgaret.
Macgaret chỉ thở dài.
Trong thâm tâm Bêti sợ và kính trọng Pitơ. Cô ta sợ
đôi mắt nhìn chăm chú và những nhận xét sâu cay của chàng, vì cô ta biết bao
giờ những nhận xét ấy cũng đúng. Cô ta kính trọng vì chàng ngay thẳng và chân
thật, nhất là trong những trường hợp có liên quan đến phụ nữ.
Người ta đồn rằng, khi Pitơ lần đầu tiên xuất hiện trong ngôi nhà
của Caxten, Bêti cho rằng người này xuất thân từ tầng lớp quý tộc, và chính là
người cô ta có thể lấy làm chồng. Và thế là cô ta bắt đầu tấn công. Nhưng sau
khi mọi cố gắng tỏ ra không được chú ý tới, các cuộc tấn công của cô ta càng
ngày càng trở nên lộ liễu. Điều ấy kết thúc thế nào thì chỉ hai người mới biết
được. Từ đấy Bêti luôn nói về Pitơ như nói về một người thô lỗ có trái tim sắt
đặt một người chỉ biết nghĩ tới công việc và lợi ích của mình. Dần dần những
mối lo toan khác đã làm cô ta quên dần chuyện này, nhưng vẫn giữ được lòng kính
trọng đối với Pitơ. Vả lại, Pitơ cũng tỏ ra là một người bạn tốt và - điều này
quan trọng hơn nhiều - một người bạn biết im lặng. Bêti muốn chàng quay lại
đúng lúc này, khi cô ta thấy có một cái gì đấy quan trọng hơn những sự phù
phiếm bình thường, một nỗi khao khát những xúc cảm mới lạ đang xâm chiếm lòng
cô ta, vì cô ta có cảm giác như đang bước vào một con đường hết sức nguy hiểm
và dễ vấp ngã.
Những người làm công và đám người hầu cũng buồn khi Pitơ vắng mặt,
bởi vì người hầu có chuyện bất đồng, họ thường tìm đến chàng nhờ phân giải. Hơn
thế, chàng luôn sẵn sàng giúp đỡ hay cứu ra khỏi tai nạn những người đến yêu
cầu chàng, nếu người ấy không làm những việc tội lỗi đáng trách. Nhưng hơn ai
hết, Caxten là người cảm thấy thiếu Pitơ nhất. Chỉ bây giờ, khi vắng mặt chàng,
ông mới hiểu rằng Pitơ thật sự là một người giúp việc và là một người bạn của
ông. Còn với Macgaret thì, vắng chàng cuộc đời đối với nàng chỉ là một đêm dài
cô đơn.
Vào những lúc như thế này, người ta dễ vui mừng cả
với những sự thay đổi nhỏ nhặt nào đó. Mặc dầu Macgaret không hề quan tâm tới
Đacghila nhưng nàng vẫn cảm thấy hài lòng, khi một hôm vào buổi sáng, Bêti báo
cho nàng biết rằng Đacghila định hôm nay sẽ tới thăm và tặng quà cho nàng.
- Tôi không cần quà của ông ta - Macgaret hờ hững
đáp, rồi liền hỏi ngay Bêti: - Thế ao cô biết được điều ấy?
Bêti đỏ bừng mặt:
- Tôi biết được điều ấy vì hôm qua, khi đi thăm bà
cô già của tôi sống ở bờ sông gần điện Oetminhxtơ, tôi gặp ông ta. Ông ta gọi
tôi lại và nói rằng ông ta có quà cho cô và cả cho tôi.
- Bêti ạ, tốt hơn là cô không nên gặp ông ta nhiều
như thế. Người Tây Ban Nha không phải lúc nào cũng chân thật lắm đâu. Mong sao
tự cô không phải nếm thử mùi đó.
- Cám ơn cô vì lời khuyên tốt lành, - Bêti giận dữ
nói. - Nhưng tôi nhiều tuổi hơn cô, và không lạ gì giới đàn ông. Tôi biết cách
giữ mình và giữ họ ở khoảng cách xa.
- Tôi rất mừng khi nghe cô nói thế. Bêti, có điều
đôi khi tôi nghĩ cái khoảng cách ấy đã trở nên quá gần, - Macgaret nói và kết
thúc câu chuyện này ở đây, vì lúc ấy tâm trí nàng đang hướng về chuyện khác.
Trưa hôm ấy, khi Macgaret đang dạo trong vường, thì
Bêti mặt mũi đỏ bừng chạy tới báo rằng xinho Đacghila đang chờ nàng trong phòng
khách.
- Được, - Macgaret đáp, - tôi vào ngay bây giờ. Cô
đến báo cho bố tôi biết rằng nhà có khách. Có chuyện gì thế, Bêti, sao cô hồi
hộp và đỏ bừng mặt mũi như vậy? - Nàng ngạc nhiên hỏi.
- ồ! - Bêti thốt lên. - Ông ta
tặng quà cho tôi, một món quà tuyệt vời! Ông ta tặng tôi một chiếc áo choàng
bằng thứ đăng ten tuyệt diệu nhất mà xưa nay tôi chưa hề thấy, và một chiếc
lược đồi mồi viền vàng để tôi găm lên tóc. Ông ta không chịu buông tôi ra chừng
nào chưa bày cách sử dụng nó như thế nào. Vì vậy mà tôi phải vội thế này.
Vất vả lắm Macgaret mới thấy sợi dây liên hệ giữa
hai tin tức mà Bêti vừa báo, nhưng nàng chỉ nói:
- Tôi nghĩ có lẽ tốt hơn nếu lúc đầu cô đến đây
trước đã. Và nói chung, tôi không hiểu vì sao con người hào hoa ấy lại tặng quà
cho cô.
- Nhưng ông ấy cũng mang quà đến cho cô, có điều
không chịu nói quà ấy là gì.
- Điều ấy lại càng làm tôi khó hiểu hơn. Hãy đến báo
với bố tôi rằng xinho Đacghila đang chờ.
Macgaret bước vào phòng khách, Đacghila đang lật xem
cuốn sách kinh được minh họa bằng những hình họa xinh đẹp mà nàng thường đọc.
Cuốn sáhoặc kinh được in một bên bằng tiếng Tây Ban Nha, bên kia bằng tiếng
Latinh. Đacghila chào Macgaret bằng ve hoa vốn có của hắn - một cách tự nhiên
và không có vẻ thách thức, khêu gợi - hắn liền hỏi:
- Tiểu thư đọc bằng tiếng Tây Ban Nha à?
- Một ít thôi.
- Bằng cả tiếng Latinh?
- Cũng không nhiều lắm. Đọc cuốn kinh này, tôi định
đọc thêm cả hai thứ tiếng ấy.
- Tôi hoàn toàn không nghi ngờ chút nào về việc tiểu
thư vừa xinh đẹp lại vừa học rộng. - Rồi hắn lại kiểu cách cúi thấp người trước
nàng.
- Cảm ơn ông, thưa ông, nhưng tôi không có ý định
phải đạt được cả hai điều ấy.
- Tại sao phải đạt trong khi đã có sẵn? - rồi
Đacghila nói thêm. - ồ, suýt nữa tôi quên. Tôi có một món quà tặng cô, nếu cô
vui lòng nhận nó. Nói đúng hơn là tôi đã màng lại chô cô cái thuộc về cô hay ít
ra là về bố cô. Tôi đã thương lượng, mặc cả với dơ Aialia, cố tỏ cho ông ta
biết rằng đối với mạng sống của một thằng lính khốn nạn năm mươi đồng tiền vàng
là quá cao. Nhưng ông ta không hoàn lại tiền, vì không đủ sức rời bỏ những đồng
tiền vàng ấy. Tuy thế, tôi vẫn đòi được cái thay thế, và hiện nó đang ở bên cửa
nhà tiểu thư. Đó là một con ngựa Tây Ban Nha có dòng giống Arập thuần khiến mà
mấy trăm năm về trước người Mô đã mang từ phương Đông về đây. Dơ Aialia không
cần nó nữa, vì ông ta đã quay về Tây Ban Nha. Con ngựa này đã được huấn luyện
cho phụ nữ cưỡi.
Macgaret đang không biết trả lời thế nào thì may
sao, đúng lúc ấy bố nàng biết vào. Đacghila nói lại từ đâu rồi nói thêm rằng,
hắn nghe Macgaret nói con ngựa của nàng đã ngã trong khi dạo chơi, và bây giờ
nàng không thể cưỡi nó được nữa.
Caxten không muốn nhận món qùa này. Ông biết chắc đó
là quà tặng. Nhưng Đacghila cố thuyết phục ông, nói rằng nếu ông từ chối, hắn
sẽ buộc phải bán ngựa và hoàn lại tiền cho chẳng, bởi vì số tiền ấy không phải
của hắn. Không còn cách nào khách Caxten buộc phải đồng ý và nhân danh cá nhân
cùng con gái, ông cảm ơn hắn, rồi cả ba
cùng đi ra sân xem ngựa.
Mới nhìn, Caxten hiểu ngay rằng đó là con ngựa rất
quý. Lông nó trắng như tuyết, thân dài và thấp, đầu nhỏ, đôi mắt dịu dàng, móng
tròn, lông bờm và đuôi rậm. Đến hoàng hậu cũng có thể cưỡi nó.
Điều này làm Caxten bối rối. Ông tin chắc rằng không ai có thể đem
một con ngựa thế này để đền bù hơn thiệt, ít ra thì vì một lí do dễ hiểu rằng
giá của nó đã hơn năm mươi đồng tiền vàng. Ngoài ra trên lưng ngựa còn có một
chiếc yên dành cho phụ nữ và một bộ dây cương được làm bằng thứ da đỏ Coođô
tuyệt diệu. Nhưng Đacghila mỉm cười và thề rằng tất cả đúng như lời hắn nói.
Caxten chẳng biết làm gì khác. Vả lại Macgaret cũng rất thích con ngựa và muốn nhảy
lên phi thử, đến mức quên cả những mối ngờ vực của mình. Nhận thấy sự vui mừng
mà Macgaret không giữa được thể hiện qua nét mặt, Đacghila nói:
- Bây giờ tôi muốn ông và tiểu thư làm ơn cho tôi
một điều. Tiểu thư nói rằng hàng ngày vào buổi sáng, tiểu thư thường phi ngựa
đi dạo cùng bố. Tôi có thể xin phép ong, - hắn quay sang nói với Caxten, - cho
tôi được đi theo ông và tiểu thư vào khoảng bảy giờ sáng mai được không? Tôi
muốn bày cho con gái ông cách điều khiển giống ngựa này.
- Nếu ông muốn, - Caxten đáp, - và nếu thời
tiết cho phép.
Một yêu cầu
lịch thiệp đến mức khó lòng từ chối nổi.
Đacghila cúi đầu cảm ơn, rồi họ cùng đi vào nhà. Khi
đã vào trong phòng khách, Đacghila hỏi Pitơ đã tới nơi cần tới một cách trót
lọt chưa. Rồi hắn nói tiếp:
- Xin ông đừng nói cho tôi biết ông ấy ở đâu để tôi
có thể đặt tay lên tim mà thề với bất cứ người nào, nhất là những kẻ đang tiếp
tục tìm kiếm ông ấy, rằng tôi hoàn toàn không biết gì.
Caxten đáp rằng chỉ cách đây mấy phút ông nhận được
thư báo Pitơ đã đến nơi an toàn. Nghe thế, Macgaret suýt nhảy lên vì sung
sướng, nhưng sực nhớ những lời đã hứa, nàng vội lấy vẻ mặt thản nhiên; nói rằng
nàng sung sướng được nghe điều đó, vì hiện nay đường xá không phải không nguy
hiểm. Đacghila cũng nói rằng hắn rất vui, rồi hắn đứng dậy xin phép được ra về.
Khi hắn đi khỏi, Caxten đưa bức thư Pitơ đề gửi
nàng. Bức thư được viết bằng nét chữ thẳng và cứng. Nàng đưa mắt đọc nhanh nội
dung. Nó được bắt đầu và kết thúc bằng những lời dịu dàng, nhưng ngắn ngủi và
mang tính chất công việc. Pitơ báo tin chàng đã tới nơi yên ổn, và rất sung
sướng được trở lại ngôi nhà xưa của mình. Ngay ngày hôm sau, chàng đã quyết
định gặp các thợ sửa chữa, vì ngôi nhà cần phải được tu bổ lại - thậm chí các hố bị lấp đầy rác
rưởi và cỏ dại. Bức thư kết thúc như sau: Anh không tin con người Tây Ban Nha
đẹp trai kia, và anh cảm thấy ghen tị, khi hình dung thấy hắn ở bên em trong
lúc anh vắng mặt. Hãy cẩn thận, anh yêu cầu em hãy cẩn thận đề phòng hắn. Cầu
mong Đức mẹ thiêng liêng và tất cả các thánh thần khác phù hộ cho em. Người yêu
em bằng tất cả tâm hồn của mình.
Macgaret viết thư trả lời ngay ngày hôm ấy, vì sang
hôm sau người ta đưa thư đã phải lên đường trở lại. Ngoài các việc khác nàng
báo cho Pitơ biết về món quà của Đacghila và cả bố nàng và nàng buộc phải nhận
nó. Nàng van xin Pitơ không được ghen, vì dù nàng có thích món quà thật, nhưng
nàng không hề yêu người tặng nó, và đang ngày đêm tính từng giờ mong chàng trở
lại đem nàng đi.
Sáng hôm sau, thời tiết thật đẹp. Macgaret dậy sớm,
mặc bộ quần áo cưỡi ngựa để đi dạo. Đúng bảy giờ, Đacghila xuất hiện. Khi con
ngựa Tây Ban Nha được đưa khỏi chuồng ngựa, hắn nhanh nhẹn đỡ nàng lên yên. Sau
đó hắn chỉ cho nàng cách nhẹ nhàng kéo dây cương, báo trước rằng muốn ngựa đi
nhanh hay chậm chỉ cần dùng lờ nói, vào trong bất kì trường hợp nào cũng không
được sử dụng roi hay mũi giày để thúc vào.
Con ngựa quả đúng là tuyệt vời: dịu dàng như một con
cừu non, ngoan ngoãn nhưng đồng thời cũng
rất hăng hái và nhanh nhẹn.
Đacghila là một người bạn đường thật đáng yêu. Hắn
kể đủ các thứ chuyện, cả nghiêm túc lẫn buồn cười, đến mức thậm chí cả Caxten
cuối cùng cũng trở nên vui vẻ. Hôm ấy là một buổi sáng mùa xuân mát mẻ. Họ cho
ngựa chậm rãi phi qua các thung lũng, leo lên các ngọn đồi, nghe chim hót trong
rừng và xem những người nông dân đang làm việc trên đồng.
Cuộc dạo chơi này mới chỉ là một sự mở đầu. Sau đó
Đacghila tìm biết được giờ đi dạo của hai người, cả khi họ thay đổi chúng, và
dù có được mời hay không, hắn vẫn tự tìm đến, hay vô tình gặp họ giữa đường một
cách rất tự nhiên, đến nỗi không thể không cho hắn nhập bọn. Cả Caxten lẫn
Macgaret không thể hiểu nổi vào sao Đacghila biết trước các cuộc dạo chơi của
họ, thậm chí cả nơi họ sẽ đến. Họ nghĩ có thể bọn gia nhân cho hắn biết, nhưng
bọn này được lệnh tuyệt đối không nói lộ ra ngoài. Họ không hề nghĩ rằng chính
Bêti đã làm điều đó. Họ cũng không thể hình dung nổi nếu họ gặp Đacghila vào
buổi sáng thì Bêti gặp hắn vào buổi tối, khi mọi người nghĩ rằng cô ta đang ở
trong nhà thờ, may vá hay đang thăm bà con mình ở gần điện Oetminhxtơ. Nhưng
Bêti, vì những lí do riêng mà chỉ một mình cô ta biết, không hề nói lại với ai
về những cuộc gặp gỡ với hắn.
Bây giờ, khi họ phi ngựa với nhau, Đacghila vẫn tỏ
ra lịch sự và ý tứ như trước, nhưng cách cư xử đã trở nên thoải mái hơn. Hắn kể
đủ chuyện về cuộc đời đầy cách sự kiện li kì của hắn, về cái địa vị cao sang mà
tạm thời hắn phải giấu. Hắn còn nói về sự cô đơn của mình, rằng sự cô đơn ấy đã
làm hắn đau khổ như thế nào, và cả rằng hắn đang muốn tìm cho mình một người
thích hợp, có thể chia sẻ với hắn sự giàu sang, địa vị và hi vọng. Những lúc ấy
đôi mắt đen của hắn dừng lại ở Macgaret như muốn nói: "Tiểu thư chính là
người tôi đang tìm kiếm".
Cuối cùng những sự
ám chỉ như thế đã làm Macgaret hoảng sợ, và nàng quyết định, vì chưa có
điều kiện được tránh không gặp Đacghila, nàng sẽ thôi không phi ngựa dạo chơi
hàng ngày nữa, cho đến khi Pitơ trở lại, mặc dù nàng rất thích cưỡi ngựa. Nàng
nói rằng nàng bị chấn thương ở đầu gối, và yên ngựa làm nàng đau. Thế là con
ngựa Tây Ban Nha tuyệt vời kia bây giờ phải suốt ngày đứng trong chuồng ngựa.
Bằng cách ấy, trong suốt mấy ngày liền Macgaret đã
thoát khỏi Đacghila để đọc sách, làm việc và viết cho Pitơ những bức thư dài.
Pitơ lúc này ở Đêthem đang rất bận, và trong các bức thư của mình, chàng giao
cho nàng rất nhiều nhiệm vụ.
Một buổi sáng, Caxten ngồi trong phòng làm việc của
mình, giải mã những bức thư mới nhận được. Đêm hôm trước chiếc tàu tốt nhất của
ông trọng tải một trăm tấn được ông cho mang tên con gái là
"Macgaret" đã từ Tây Ban Nha về, cập bến sông Tem một cách an toàn.
Tối hôm ấy, khi thuỷ triều lên, nó sẽ phải thả neo ở Grepxen, và Caxten định
tới đấy để xem nó dỡ hàng. Đó là con tàu cuối cùng mà ông chưa bán. Lần này sau
khi dỡ hàng xong, ông định cho bốc lên tàu ngay các hàng hoá và đồ lương thực
rồi cho đi tới cảng Xêvin, là nơi người bạn hàng và là đồng sự của ông, Hoan
Becnađex, hiện đang đứng tên đăng kí chiếc tàu này, sẽ mua nó theo một giá đã
được thoả thuận. Sau đó Caxten chỉ còn việc chuyển lại công việc buôn bán của
mình cho các thương gia Luân đôn. Và thế là, vẫn giữ nguyên được tài sản của
mình, lúc này ông có thể lánh xa các công việc kinh doanh và bình yên sống một
quãng đời còn lại ở Êxec cùng con gái và chàng rể. Ông chẳng còn ước mơ gì hơn
thế.
Khi tùa "Macgaret" vừa cập bến sông Tem,
thuyền trưởng Xmit cho một người lên bờ, sai cưỡi ngựa đem đến cho Caxten thư
từ và bản thống kê hàng hoá. Bây giờ Caxten đang đọc những bức thư ấy. Trong số
đó có một bức thư của Becnanđex từ Xêvin. Nó không phải là thư trả lời bức thư
mà Caxten đã viết vào cái đêm hôm nọ, khi câu chuyện này mới bắt đầu xảy ra.
Bức thư ấy vẫn chưa đến nơi, tuy nhiên bức thư lần này của Becnanđex cũng nói
về mối lo sợ như lần trước. Bức thư viết như sau:
Chắc ông còn nhớ tôi đã viết báo cho ông về con
người được cử tới triều đình Luân Đôn. Vì mật mã củ ta không ai biết, vả lại
đây là việc quan trọng ông cần được báo trước, nên tôi liều lĩnh chuốc vào mình
sự mạo hiểm gọi tên hắn ở đây. Tên hắn là Đacghila. Sau khi giử bức thư trước,
tôi đã tìm hiểu thêm được đôi điều về tên quý tộc này. Mặc dù hắn chỉ tự gọi
mình một cách đơn giản là Đacghila, nhưng thực tế hắn là hầu tước. Môrela.
Người ta đồn rằng hắn mang trong mình dòng máu hoàg tộc, vì hắn chính là đứa
con bất hợp pháp của hoàng thân Caclôt nghĩa là hắn là anh em họ với Đức vua
hiện nay. Cũng theo lời đồn, Caclôt đem lòng yêu một phụ nữ người Mô giàu có và
danh giá ở xứ Acghila. Bà này có rất nhiều đất đai ở Granđa và ở các nơi khác.
Và vì Caclốt không thể lấy bà ta làm vợ do đó có sự khác nhau giữa địa vị và
tín ngưỡng, nên cuộc tình duyên này đã không được pháp luật công nhận. Họ sinh
được một người con trai. Trước khi hoàng thân Caclôt chết, hay bị đầu độc chết
như người ta nói, lúc đang còn bị cầm tù ở Môrela, ông ta đã xin được cho đứa bé
này tước hầu, và đặt tên cho nó là Môrela, theo những suy nghĩ khác thường của
ông ta! Caclôt cũng di chúc lại cho con một số đất đai của mình. Sau khi Caclôt
chết, bà người yêu của ông ta - lúc này đã bí mật trở thành một tín đồ Thiên
Chúa giáo - liền đem con trai về lâu đài của mình ở Granađa. ở đấy bà ta chết
cách đây mười năm, để lại tất cả tài sản cho con trai, vì bà ta không lấy
chồng. Người ta nó rằng tính mạng của Đacghila luôn bị đe doạ, vì mặc dù lai
người Mô, nhưng trong tim hắn có khá nhiều dòng máu hoàng tộc. Nhưng là một
người thông minh nên hắn đã thành công trong việc thuyết phục Đức vua và hoàng
hậu rằng hắn không mở tưởng tới ngai vàng, mà chỉ nghĩ tới một cuộc sống hưởng
lạc. Vả lại giáo hội cũng bênh vực hắn vì hắn tỏ ra là một con chiên ngoan đạo,
hăng hái tiêu diệt những kẻ dị giáo, nhất là những người Do Thái, thậm chí cả
người Mô, là dòng giống người mà hắn cùng mang chung dòng máu. Thành ra hắn
được để yên và quyền lợi của hắn được công nhận. Nhưng hắn đã từ chối không trở
thành linh mục.
Cho đến nay, hắn là đại diện của vua Tây Ban Nha ở
Granđa. Hắn được cử tới Luân Đôn, La Mã và các nơi khác để làm nhiệm vụ liên
quan tới tôn giáo và toà án dị giáo. Đó là lí do lúc này hắn có mặt ở nước Anh
- hẳn có nhiệm vụ phải thu thập danh sách và tin tức những người maran đang
sống ở đó, nhất là những người buôn bán với Tây Ban Nha. Tôi đã nhìn thấy bản
ghi tên những người mà hắn phải quan tâm
trước hết. Tên của ông đứng đầu danh sách ấy, vì vậy trong bức thư này tôi mới
viết một cách tỉ mỉ như vậy. Tôi nghĩ rằng ông hành động đúng khi từ bỏ việc
buôn bán với Tây Ban Nha, đặc biệt là ông đã quyết định nhanh chóng bán lại các
con tàu cho chúng tôi. Nếu không, chúng có thể tịch thu những con tàu ấy, cũng
như có thể bắt ông, nếu ông tới đây. Tôi khuyên ông hãy cất giấu tất cả tài sản
của mình, - sau khi chúng tôi trả hết nợ cho ông, - số tài sản ấy khá lớn, và
hãy đi tới một nơi nào đấy an toàn, trước khi Đacghila tìm ra dấuvết ông ở Luân
Đôn. Nhờ ơn Chúa trong số chúng tôi không có ai bị nghi ngờ, có lẽ do chúng tôi
đã trả hậu cho những người nào đó.
Sau khi giải mã xong bức thư, Caxten chăm chú đọc
lại một lần nữa. Sau đó ông bước vào phòng ngày khá lạnh. Ông ném bức thư vào
ngọn lửa chờ việc và giấu kín nguyên bản bức thư vào chiếc hòm bí mật trong tường.
Chỉ lúc ấy ông mới ngồi vào ghế suy ngẫm: "Ông bạn Hoan Becnađex tốt bụng
đã nói đúng. Đacghila, hay còn gọi là hầu tước Môrela, đang truy lùng ta và
những người khác Không sao, vì ta không còn ý định tiếp tục gắn bó đời mình với
Tây Ban Nha nữa. Hầu như tất cả tiền bạc của ta, trừ số tiền sắp được gửi tới
Tây Ban Nha, đã được giấu cất kĩ lưỡng để hắn không bao giờ có thể sờ tới chúng
Nhưng dù sao ta cũng cầu mong Đức Cháu để Pitơ và Macgaret sớm cưới nhau, và cả
ba chúng ta sẽ về trốn ở Đethem, không còn bị những cặp mắt người ngoài soi
mói. Ta đã dính quá lâu vào trò chơi này. Đáng lẽ ta phải kết thúc mọi chuyện
cách đây một năm, nhưng việc buôn bán diễn ra tốt đẹp đến mức ta không đủ can
đảm làm điều ấy! Vả lại ta luôn gặp may và chỉ trong vòng một năm qua, tài sản
của ta đã được nhân đôi. Nhưng dù sao, đáng lẽ ta phải kết thúc công việc kinh
doanh của mình sớm hơn mới phải, để chúng không ngửi thấy đồng tiền của ta. Đó
là vì lòng tham, hoàn toàn vì lòng tham. Ta nào cần gì những đồng tiền có thể mang
lại tai họa cho ta và gia đình.
Dòng suy nghĩ của ông ta bị cắt
đứt bởi có tiếng gõ cửa. Caxten vội vớ lấy cây bút, chấm vào lọ mực và nói:
"Cứ vào!". Rồi ông chép các
cột số vào tờ giấy đang nằm trước mặt.
Cửa mở, nhưng Caxten làm ra vẻ không nghe thấy vì
đang bị hút bởi các con tính. Một thứ linh cảm nào đó mách cho ông biết rằng
chính Đacghila đang đứng sau lưng ông.
Có thể một cách vô ý thức, ông đã nhận ra bước chân hắn. Trong chốc lát ông
bỗng cảm thấy lạnh toát người, và một nỗi sợ hãi vô hình đang bóp nghẹt ông, vì
chính ông vừa mới đọc về những việc hắn phải làm. Tuy nhiên Caxten đã đóng kính
một cách khá đạt.
- Sao con gái cứ quấy rầy bố thế? - Không quay đầu lại, ông khó
chịu nói: - Không có con, bố cũng đã có quá nhiều đau buồn. Một nửa hàng hoá
trên tàu đã bị hư hỏng, thế mà con còn quấy rầy bố khi bố ngồi tính sự thua lỗ
của mình.
- Nói đoạn, Caxten quẳng bút cùng chiếc ghế quay
mạnh lại phía sau.
Quả thật đứng
trước ông là Đacghila đang cúi đầu mỉm cười trong bộ quần áo sang trọng của mình.
(1) Vua Anh từ 1485 - 1509. (Các chú thích đều của người
dịch).
(1) Chữ đệm tỏ ý kính trọng, đi kèm với tên người trong cách xưng hô.
(1) Các quan
chức cao cấp của giáo hội
Thiên Chúa được mặc quần áo màu huyết
dụ.
(1) Tiếng Anh: sir - xơ - ngài, đức ông - chữ đệm trước
tên, tỏ ý tôn kính trong
lúc xưng hô.
(1) Nguyên bản: 6 phút (Phút - đơn vị đo lường Anh, bằng 30,5 cm, để tiện cho người đọc, chúng tôi chuyển sang hệ mét quen thuộc).
(1) Một quận ở Luân Đôn
(1) Cung điện của
các vua Granađa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét