Các Tích Cổ Việt Nam
TRUYỆN LƯU BÌNH, DƯƠNG
LỄ
Truyện Lưu Bình, Dương
Lễ
Được truyền tụng từ
lâu,
Truyện về hai người
bạn,
Một nghèo và một giàu.
Họ chơi thân từ nhỏ.
Vì nhà giàu, Lưu Bình
Mời bạn đến cùng ở,
Thật chí đức, chí
tình.
Biết phận nghèo, Dương
Lễ
Rất chịu khó học hành.
Chàng đi thi, đỗ
trạng,
Thành công và thành
danh.
Còn Lưu Bình, thật
tiếc,
Cậy giàu, thích ham
chơi,
Nên thi trượt, chán
nản,
Chán mình và chán đời.
Cũng vì chán, của cải
Cứ theo nhau ra đi,
Chẳng bao lâu chợt
thấy
Trong nhà không còn
gì.
Chàng đến gặp Dương
Lễ,
Lúc này là quan to,
Dương Lễ không chịu
tiếp,
Còn mời ăn cơm khô.
Giận bạn quên ân
nghĩa,
Lòng ngậm ngùi, xót
xa,
Chàng quyết tâm học
giỏi
Để cũng được vinh hoa.
Khi trở về quán trọ,
Còn tủi nhục trong
lòng,
Chàng gặp một cô gái
Có tên là Châu Long.
Nàng dịu dàng, xinh
đẹp,
Có vẻ con nhà giàu.
Hai người cảm, rồi
mến,
Rồi cuối cùng yêu
nhau.
Có điều, Châu Long
nói,
Nàng sẽ chỉ lấy chàng
Khi chàng thi, đỗ đạt
Mang về nhà vinh
quang.
Được Châu Long khích
lệ
Và giúp đỡ tận tâm,
Lưu Bình chăm chỉ học
Ròng rã suốt ba năm.
Nàng lo từ sách vở
Đến quần áo, cái ăn,
Chu đáo như người vợ,
Nhưng vẫn không cho
gần.
Rồi Lưu Bình thi đỗ,
Như mở cờ trong lòng,
Về nhà, rất kinh ngạc
Khi không thấy Châu
Long.
Chàng tìm mãi không
thấy,
Mà không hiểu vì sao,
Bèn đến nhà Dương Lễ,
Trách mắng chuyện năm
nào.
Dương Lễ ra đón bạn,
Ân cần mời vào nhà.
Lưu Bình chưa kịp nói
Thì Châu Long bước ra.
Khi chàng được cho
biết
Châu Long là thiếp yêu
Của bạn mình, Dương
Lễ,
Chàng hiểu hết mọi
điều.
Thì ra, để khích bạn
Nhanh chóng đạt công
danh,
Dương Lễ vờ bội bạc,
Bị bạn trách cũng
đành.
Nàng Châu Long xinh
đẹp,
Tận tâm vì bạn chồng,
Vẫn giữ tròn danh
tiết,
Giúp Lưu Bình thành
công.
Từ đó hai người bạn
Lại gắn bó như xưa.
Mọi chuyện thế là rõ,
Có bàn thêm cũng thừa.
Vậy là tôi kể hết
Chuyện Dương Lễ, Lưu
Bình,
Hy vọng các bạn trẻ
Rút bài học cho mình.
TRUYỆN PHẠM CÔNG, CÚC
HOA
1.
“Phạm Công, Cúc Hoa”
truyện
Được biết đến từ lâu,
Chữ Nôm, thể lục bát,
Bốn nghìn sáu trăm
câu.
Tức là truyện dài nhất
Trong thơ Nôm xưa nay.
Trước không rõ người
viết,
Nhưng nghe nói gần đây
Đã tìm ra tác giả,
Nhờ nhiều năm sưu tầm,
Là Dương Minh Đức Thị,
Cách đây hai trăm năm.
Tuy nhiên, chính Đức
Thị
Là ai, và thế nào,
Thì còn chờ nghiên
cứu.
Chờ thì chờ, không
sao.
2.
Gặp cảnh nghèo, mới
lớn,
Phạm Công phải ở nhà
Lo làm thuê cuốc mướn
Giúp đỡ đần mẹ cha.
Cha mất, gặp năm đói,
Chàng phải đi ăn mày
Để nuôi mẹ, mẹ chết,
Chàng một mình, trắng
tay.
Vốn là người hiếu học,
Lại tư chất thông
minh,
Phạm Công xin thụ
giáo,
Học Quỉ Cốc tiên sinh.
Ở đấy, cùng theo học
Còn có nàng Cúc Hoa,
Con gái quan tri phủ,
Hạng danh giá con nhà.
Kiểu gần rơm lửa cháy,
Hai người đã yêu nhau,
Rồi lấy nhau, hạnh
phúc,
Rất ý hợp tâm đầu.
Phạm Công từ biệt vợ,
Khăn gói lên kinh kỳ.
Nhờ dùi mài kinh sử,
Chàng đỗ đầu khoa thi.
Thế mà nhiều tai họa
Đã ập xuống đầu chàng.
Chàng trở thành gai
nhọn
Trong mắt nhiều lân
bang.
Kể ra ai cũng thích
Khi đi thi đỗ đầu.
Cũng thích - lấy công
chúa,
Vừa xinh lại vừa giàu.
Nhưng Phạm Công thì
khác.
Chàng yêu thương Cúc
Hoa,
Từ chối lấy công chúa,
Mới sinh lắm phiền hà.
May công chúa nước
Triệu,
Vốn nhân hậu, từ tâm
Giúp được chàng họ
Phạm
Thoát khỏi chốn giam
cầm.
Thế là chàng đoàn tụ
Cùng vợ mình Cúc Hoa.
Mọi việc đều tốt đẹp,
Việc công và việc nhà.
Rồi Cúc Hoa sinh hạ
Hai con ngoan, lớn
dần,
Con trai là Tiến Lực,
Con gái là Nghi Xuân.
3.
Tưởng tột cùng hạnh
phúc,
Thế mà rồi hóa không:
Ba mươi tuổi, vợ chết,
Bỏ lại con và chồng.
Khóc đến mòn hai mắt,
Phạm Công nghe lời
khuyên,
Lấy vợ hai - con gái
Của viên quan huyện
bên.
Tên ả là Tào Thị,
Đẹp thì đẹp, tiếc thay
Mưu mô và hiểm độc,
Còn thích trò gió mây.
Rồi Phạm Công vâng
chiếu
Lên trấn thủ Cao Bằng,
Chốn khỉ ho cò gáy,
Giữa điệp trùng núi
dăng.
Ở nhà, ả Tào Thị,
Tìm bạn tình, tư
thông,
Còn ngang nhiên đánh
đập
Hai con riêng của
chồng.
Bọn gian phu, dâm phụ
Còn mưu giết con
chàng,
Khiến chúng đêm, hoảng
sợ,
Bỏ nhà đi lang thang.
Cúc Hoa ngay tối ấy
Từ cõi âm hiện về
Để giúp hai con nhỏ,
Báo chồng về mụ kia.
Sau ba năm trấn thủ,
Phạm Công trở về nhà,
Thẳng tay đuổi Tào
Thị,
Một dâm phụ gian tà.
Trời nổi giông lập
tức.
Sấm sét nổ vang trời.
Sét đánh chết Tào Thị,
Xác tung tóe khắp nơi.
Nhờ công chúa nước
Trịnh,
Có tên là Xuân Dung,
Và Tề Thiên Đại Thánh,
Và Diêm Vương, cuối
cùng
Phạm Công xuống âm phủ
Gặp lại nàng Cúc Hoa.
Cúc Hoa sinh lần nữa,
Rồi được cho về nhà.
Chàng Phạm Công sau đó
Được vua Trịnh nhường
ngôi,
Cưới Xuân Dung công
chúa,
Sống hạnh phúc suốt
đời.
TRUYỆN TỐNG TRÂN, CÚC
HOA
1.
Cảm động và ý nghĩa,
Nội dung câu chuyện
này
Có tích thuần chất Việt,
Hơn hai trăm năm nay.
Truyện theo thể lục
bát,
Một nghìn bảy trăm
câu,
Không biết tên tác
giả,
Rất nhiều người thuộc
làu.
Giờ tôi xin viết lại,
Đúng ý, đúng tinh thần,
Ngắn gọn và giản dị,
Chuyện Cúc Hoa, Tống Trân.
Tống Trân mồ côi bố
Khi vừa mới lên ba.
Chàng là con cầu tự,
Mẹ chàng lại mù lòa.
Lớn lên, vì nghèo đói,
Chàng dắt mẹ xin ăn,
Tới một nhà giàu có
Nổi tiếng khắp xa gần.
Mở cửa, ra bố thí
Là con gái chủ nhà,
Một cô gái xinh đẹp,
Có tên là Cúc Hoa.
Nàng giản dị, tốt
bụng,
Đa cảm và thương
người,
Chuyên tâm làm việc
thiện,
Lo tích đức giúp đời.
Vừa đưa xong bát gạo,
Ngước mắt nhìn Tống
Trân,
Trái tim nàng thổn
thức,
Bước chân đi tần ngần.
Nàng yêu chàng say đắm
Từ cái nhìn đầu tiên,
Đem chuyện thưa với
bố,
Xin kết nghĩa nhân
duyên.
Xấu hổ và tức giận,
Bố và mẹ Cúc Hoa,
Sau khi khuyên không
được,
Đuổi nàng ra khỏi nhà.
Thế là thành chồng vợ,
Cúc Hoa và Tống Trân.
Nàng không hề ca thán,
Cam chịu cảnh thanh
bần.
Nàng vất vả làm việc,
Không chỉ thờ mẹ
chồng,
Mà nuôi chồng ăn học,
Mong đến ngày thành công.
Cuối cùng, kỳ thi đến,
Tống Trân đỗ trạng nguyên,
Vua muốn gả công chúa,
Xinh đẹp và dịu hiền.
Chàng nhất mực từ chối.
Công chúa giận, xui cha
Bắt chàng sang Trung Quốc,
Giải quyết mối bất hòa.
Đang bực mình, khó chịu
Với nước Nam, vua Tần
Tìm cách gây khó dễ
Với sứ thần Tống Trân.
Vốn thông minh, khôn khéo,
Sứ Việt đã vượt qua
Các thử thách vua bẫy,
Giải quyết được bất hòa.
Vua Tần thôi không ghét,
Để cho chàng được yên,
Còn ban lộc, phong tặng
Chức Lưỡng quốc Trạng nguyên.
Vua muốn gả công chúa,
Nhưng nhớ vợ ở nhà,
Chàng khôn khéo từ chối,
Không mất lòng ông ta.
Vậy là bảy năm chẵn
Chàng xa xứ, long đong,
Để Cúc Hoa nuôi mẹ
Và một mực chờ chồng.
Bố nàng thấy con gái
Chờ chồng, chồng không về,
Ép nàng lấy Đình Trưởng,
Một người giàu cùng quê.
Nàng nhất quyết không chịu,
Bị cha nhốt trong nhà,
Còn đánh đập tàn nhẫn,
Nhốt cả bà thông gia.
Cúc Hoa quá đau khổ,
Để giữ trọn chữ tình,
Nàng lên núi Sơn Vĩ
Định liều mình quyên sinh.
Một bức thư tuyệt mệnh
Nàng để lại cho chồng.
Thần Sơn Tinh cám cảnh,
Liền vội hóa thành rồng
Rồi mang bức thư ấy
Đưa tận tay Tống Trân.
Chàng khóc thương, lặng lẽ
Đưa nó cho vua Tần.
Vua Tần tuy quyến luyến
Sứ đất Việt tài hoa,
Đọc xong thư, quyết định
Cho chàng về quê nhà.
Trong khi đó Đình Trưởng
Hết hạn chờ ba năm,
Cha Cúc Hoa cho cưới,
Một tiệc cưới nghìn mâm.
Tống Trân về đúng lúc
Tiệc cưới rất linh đình
Và người vợ chung thủy
Sắp liều mình quyên sinh.
Rồi mừng mừng, tủi tủi
Rồi sum họp một nhà.
Một đoạn kết có hậu
Cho Tống Trân, Cúc Hoa.
Hai người sống hạnh phúc
Tới đầu bạc, răng long.
Một tấm gương chung thủy
Của đạo nghĩa vợ chồng.
Nay bên bờ sông Luộc,
Huyện Phù Cừ, Hưng Yên,
Vẫn còn ngôi đền cổ
Thờ Lưỡng quốc Trạng nguyên.
2.
Lại nói nàng công chúa
Con gái vua nước Tần,
Buồn rầu và đau khổ
Khi không còn Tống Trân.
Nàng xin sang nước Việt.
Vua cấp thuyền, cho đi.
Một khi con đã quyết,
Bố còn biết làm gì?
Không may gặp bão lớn,
Nàng bị dạt lên bờ,
Được hươu nai cứu sống,
Giữa núi rừng hoang sơ.
Một hôm, đang săn thú,
Tống Trân nhìn thấy nàng,
Lại mừng mừng, tủi tủi,
Lại lệ chảy hai hàng.
Tiễn đưa nàng công chúa,
Muông thú xếp hàng dài.
Còn Cúc Hoa hào hiệp
Cho nàng làm vợ hai.
TRUYỆN PHẠM TẢI, NGỌC
HOA
1.
Có gia đình giàu có
Xưa ở huyện Thanh Hà,
Bố làm quan, nhân đức,
Con gái là Ngọc Hoa.
Đương nhiên là nàng
đẹp
Lại gia giáo, đa tài.
Nhiều người muốn dạm
hỏi,
Nhưng nàng không lấy
ai.
Ở Sơn Tây lúc ấy
Có một chàng thư sinh
Có tên là Phạm Tải,
Tuấn tú và thông minh.
Bố mẹ chàng mất sớm,
Gia cảnh sa sút dần,
Để tiếp tục theo học,
Chàng đành đi xin ăn.
Chắc chàng khôi ngô
lắm,
Hay có gì khác thường,
Mà Ngọc Hoa vừa gặp,
Đã đem lòng yêu
thương.
Dẫu không thật vừa ý,
Bố mẹ nàng dằn lòng
Để cho cô con gái
Lấy Phạm Tải làm
chồng.
Có một tên vô lại
Tục danh là Biện Điền,
Trước bị nàng từ chối,
Giờ tức giận, phát
điên.
Không ăn thì đạp đổ -
Triết lý hắn rõ ràng.
Hắn lấy một khúc gỗ,
Đẽo bức tượng giống
nàng.
Bức tượng quả giống
thật.
Hắn đem tặng Trang
Vương,
Một tên vua háo sắc,
Khinh luân lý, đạo
thường.
Vua cho ngay quân lính
Bắt nàng về triều
đình.
Thấy Ngọc Hoa xinh
đẹp,
Hắn ép phải lấy mình.
Nàng Ngọc Hoa không
chịu,
Vua dọa chém cũng
không,
Một mực nàng chỉ nói:
“Thiếp là gái có
chồng!”
Vua cho đòi Phạm Tải,
Bắt ký giấy nhường
nàng.
Vì tội không nhượng
vợ,
Vua đã đầu độc chàng
Ngọc Hoa khóc, thương
xót
Bên xác chồng thân
yêu.
Nàng rạch mặt, cắt
tóc,
Mặc áo tang vào triều,
Rồi giả vờ đồng ý
Lấy Trang Vương, để
nàng
Có ba năm thanh thản
Thờ chồng và chịu
tang.
Hết hạn, vua đòi cưới,
Ngọc Hoa nhảy xuống
sông.
Dưới âm phủ, lần nữa,
Nàng lại được gặp
chồng.
Rồi hai người thưa
kiện,
Quỳ trước điện Diêm
La,
Kiện Trang Vương tàn
ác
Hại vợ chồng Ngọc Hoa.
Diêm Vương, vua âm
phủ,
Vốn là em Trang Vương,
Nhưng ông là vua tốt,
Rất coi trọng kỷ
cương.
Xử vụ này, vua nói:
“Thương anh, để trong
lòng,”
Ác giả phải ác báo,
“Việc quan cứ phép
công!”
Vua nén khóc, quay
mặt,
Ném anh vào vạc dầu.
Một tấm gương xử án
Cho các quan về sau.
Ngọc Hoa và Phạm Tải,
Vì đau khổ, vì oan,
Được Diêm Vương ký
lệnh
Cho trở về dương gian.
2.
Vậy là tóm lược hết
Cuốn “Phạm Tải - Ngọc
Hoa”.
Nội dung chỉ có thế,
Ngắn gọn và nôm na.
Đây là cuốn sách cổ,
Gần một nghìn câu thơ
Viết theo thể lục bát,
Truyền tụng đến bây
giờ.
Như nhiều truyện Nôm
khác,
Tác giả tập thơ này
Còn vô danh, chưa
biết.
Thơ dung dị mà hay.
Tôi chỉ muốn con trẻ
Biết vốn cổ cha ông
Ngay từ thời đi học,
Thậm chí cấp vỡ lòng.
Đọc để hiểu nhân nghĩa
Và đạo lý, luân
thường,
Để làm người nhân ái
Còn biết yêu, biết
thương.
Mục đích rất khiêm tốn
Ham muốn cũng không
nhiều.
Các cháu nhỏ đọc nhé.
Ông yêu các cháu
nhiều.
TRUYỆN TRƯƠNG VIÊN,
PHƯƠNG THỊ
1.
Truyện rằng xưa, làng
nọ
Có người tên Trương
Viên,
Một chàng trai khỏe
mạnh,
Chất phác và rất hiền.
Bỗng lệnh vua ban
xuống
Bắt tất cả tráng đinh
Phải đầu quân chiến
đấu
Trong quân đội triều đình.
Vợ chàng là Phương
Thị,
Vừa đẹp vừa đảm đang,
Rất giỏi bề gia chánh,
Nổi tiếng tốt khắp
làng.
Ngày lên đường nhập
ngũ,
Khăn ướt, lệ dầm dề,
Chàng dặn vợ, chạy
giặc,
Nên tạm lánh về quê.
Và rồi, quả sau đó,
Giặc nổi lên ngút
đồng,
Phương Thị đành phận
gái
Đưa mẹ về quê chồng.
Gặp muôn vàn trở ngại,
Đường vừa khó, vừa xa.
Nàng là dâu hiểu thảo,
Nhường cơm, cõng mẹ
già.
Một sáng nọ, đói khát,
Họ đi qua một nơi,
Thấy dân làng chạy
đến,
Với bộ mặt vui cười.
Hai mẹ con được họ
Còn cho ăn uống no.
Có chuyện gì thế nhỉ?
Đang lúc họ tò mò,
Thì một vị bô lão
Liền giải thích thế
này:
Mỗi năm làng phải tế
Cho hung thần ở đây
Một cặp mắt phụ nữ.
Trước còn của dân
làng,
Sau chuyển thành lấy
mắt
Của những người đi
ngang,
Tức là người hôm ấy
Đến làng này đầu tiên.
Vậy năm nay hiến mắt
Sẽ là mẹ Trương Viên!
Phương Thị nghe, hoảng
hốt,
Sụp lạy trước dân
làng,
Xin được thay cho mẹ.
Rồi họ móc mắt nàng.
Cảm tấm lòng chí hiếu,
Một bà tiên hiện ra,
An ủi nàng rồi tặng
Một chiếc đàn tỳ bà.
Khi trao đàn, bà nói:
“Con quả là dâu hiền.
Nó sẽ giúp con sống
Cho đến ngày đoàn
viên.”
Vậy là mù hai mắt,
Phương Thị dẫn mẹ già
Đi xin ăn khắp chợ,
Xin, và chơi tỳ bà.
2.
Lại nói, binh đao hết,
Chàng Trương Viên trở
về,
Không thấy vợ và mẹ,
Chàng lên đường về
quê.
Tới chỗ làng có lệ
Lấy mắt người cúng
thần,
Chàng đau xót khi biết
Mọi chuyện về người
thân.
Chàng cất công tìm
kiếm,
Tìm mãi, tìm khắp nơi,
Cuối cùng đến khu chợ
Thì gặp được hai
người.
Vợ chàng đang ngồi
hát,
Chiếc đàn lạ trên tay.
Mẹ chàng xin bố thí
Bằng chiếc bát ăn mày.
Rồi mừng mừng, tủi
tủi,
Ba người khóc, ôm
nhau.
Nàng Phương Thị khóc
mãi,
Đến khi từ hố sâu
Của đôi mắt bị khoét,
Ứa hai cục máu hồng.
Và rồi sự lạ đến,
Trước mặt mẹ và chồng,
Nàng ôm đầu quằn quại.
Đôi mắt mù ngày nào
Bỗng nhiên giờ lại sáng,
Sáng như hai ngôi sao.
3.
Đây là phần tóm lược
Một vở chèo rất hay,
Tích Trương Viên -
Phương Thị,
Tôi mới xem gần đây.
Trong các loại hát cổ,
Tôi thích nhất là
chèo,
Áo mớ ba, mớ bảy,
Đủ màu, trông thật
yêu.
Là đặc sản Bắc Bộ,
Hóm hỉnh và thông minh,
Chèo đầy chất dân dã,
Có duyên, lại có tình.
Nhân tiện, xin nhắc
lại,
Rằng Hoa Lư, Ninh
Bình,
Là gốc của chèo cổ,
Có từ thời nhà Đinh.
Và người tạo ra nó
Là bà Phạm Thị Trân,
Một nữ sĩ tài giỏi,
Chắc cũng đẹp tuyệt
trần.
Rồi chèo dần phổ biến
Từ Nghệ Tĩnh trở ra
Khắp cả vùng Bắc Bộ,
Thành một dạng dân ca.
Một thế kỷ sau đó,
Khi ta thắng quân
Nguyên,
Ta tóm được một chú
Người Mông Cổ, rất
hiền.
Chú đánh nhau thì kém,
Nhưng giỏi hát, giỏi
đàn,
Nên đã đưa Kinh Kịch
Của Tàu vào nước Nam.
Trước chèo chỉ có nói
Và lời ngâm dân ca,
Nay nhờ chú, thêm hát,
Những câu hát mặn mà.
TRUYỆN SÚY VÂN GIẢ DẠI
1.
Tích “Súy Vân giả dại”
Trong vở chèo Kim Nham
Được xem là kinh điển
Của môn chèo Việt Nam.
Giả dại để chồng bỏ,
Để đi theo tình nhân,
Rồi tình nhân ruồng
rẫy,
Cuối cùng phải xin ăn.
Cái giá là thế đấy,
Giá của những cô nàng
Thích tham sung bỏ
ngãi,
Thích phú quí, giàu
sang.
Vậy mà tôi, thật lạ,
Thương thương cho Súy
Vân.
Kiếp nữ nhi bèo bọt,
Chẳng biết đâu mà lần.
2.
Ngày xưa ở Nam Định
Có anh gốc bần hàn,
Tên Kim Nham, hiếu
học,
Trọ học ở Tràng An.
Ông quan huyện họ Tể
Có con là Súy Vân,
Một cô gái xinh đẹp,
Nết na và tảo tần.
Cũng vì đức tính ấy,
Tức tảo tần, nết na,
Nàng thích sống giản
dị,
Cam chịu phận đàn bà.
Không quen nghĩ sâu
sắc,
Ít tiếp xúc với đời,
Chỉ lo bề gia chánh,
Nàng rất dễ tin người.
Thấy Kim Nham học
giỏi,
Tướng mạo cũng đàng
hoàng,
Ông quan huyện họ Tể
Gả Súy Vân cho chàng.
Mọi chuyện đều tốt
đẹp,
Ai cũng thấy hài lòng.
Súy Vân thì hạnh phúc,
Đơn giản vì có chồng.
Thế mà người chồng ấy,
Lần nữa lại đi xa,
Ra kinh thành học tập,
Để mình nàng ở nhà.
Súy Vân đành lẻ bóng,
Chờ chồng và buồn rầu.
Nàng chỉ nghĩ đơn
giản,
Vợ chồng phải bên
nhau.
Có một gã giàu có
Ở Đông Ngàn, Bắc Ninh,
Tên Trần Phương, đẹp
mã,
Và nổi tiếng phong
tình.
Thấy Súy Vân xinh đẹp,
Hắn buông lời lẳng lơ,
Còn hứa lấy làm vợ,
Thôi không phải đợi
chờ.
Hắn xui nàng giả dại,
Để Kim Nham bỏ nàng,
Sau đấy hắn sẽ lấy,
Có cưới xin đàng
hoàng.
Vốn thơ ngây, nhẹ dạ,
Không quen thiếu đàn
ông,
Súy Vân nghe lời hắn,
Giả điên để lừa chồng.
Chàng Kim Nham, tội
nghiệp,
Phải vất vả, ưu phiền,
Lo chữa trị cho vợ,
Mà bệnh tình vẫn
nguyên.
Không còn cách nào
khác,
Theo đúng ý của nàng,
Chàng ký giấy thừa
nhận,
Nàng không phải vợ
chàng.
Súy Vân, lòng khấp
khởi,
Liền đi tìm Trần
Phương,
Những tưởng sắp hạnh
phúc,
Những tưởng lên thiên
đường.
Thế mà thằng vô lại,
Sau khi chiếm được
nàng,
Đã thẳng tay ruồng
rẫy,
Tráo trở và phũ phàng.
Lòng chua xót, xấu hổ,
Nàng không dám về nhà,
Điên giả thành điên
thật,
Ngẫm mà lòng xót xa.
Kim Nham khoa thi ấy
Thi đỗ, được làm quan.
Súy Vân nơi phố chợ
Xin ăn, thân héo tàn.
Một lần, thấy vợ cũ,
Đang xin ăn, thương
thay,
Chàng lấy một nén bạc
Giấu dưới bát cơm đầy.
Thấy tên lính lễ phép
Đưa bát cơm cho mình,
Bẻ ra, có nén bạc,
Nàng hiểu hết sự tình.
Xấu hổ và đau đớn,
Nàng gieo mình xuống
sông.
Lại thêm một bài học
Về đạo nghĩa vợ chồng.
TRUYỆN TRÊ CÓC
Viết theo thể lục bát,
Ba trăm chín tám câu,
Trê Cóc là câu chuyện
Đã có từ rất lâu.
Truyện ngụ ngôn, giáo huấn
Của tác giả vô danh,
Đời sau thường chuyển thể
Thành văn xuôi, truyện tranh.
Truyện kể rằng xóm nọ
Có vợ chồng Cóc nghèo,
Sống cạnh một ao nước
Trong túp lều vẹo xiêu.
Láng giềng có cô Diếc,
Bác Cua, chú Cá Mè
Ông Ếch, anh Nhái Bén
Và vợ chồng Cá Trê.
Hai vợ chồng nhà lão
Giàu có nhưng khó gần,
Lại thêm tính hách dịch,
Nên không ai chơi thân.
Một ngày nọ, cô Cóc
Đến mùa sinh, bất ngờ
Đẻ ra một bọc trứng
Trôi trên ao nhờ nhờ.
Rồi từ bọc trứng ấy
Một bầy nòng nọc con
Nở ra, trông thật thích,
Đuôi dài, đầu tròn tròn.
Lão Cá Trê đi dạo,
Tưởng chúng là cá trê
Vì đuôi dài, đầu lớn,
Nên lão bắt mang về.
Vợ chồng Cóc biết chuyện,
Đem Trê kiện lên quan.
Quan giam lão vào ngục,
Dù lão cứ kêu oan.
Bị lính đánh đau quá,
Trê ông bảo Trê bà
Phải lo đường đút lót
Để nhanh chóng được tha.
Thế là lão Lý Ngạnh
Và Chánh Quạ nhận tiền
Cùng rất nhiều lễ biếu,
Rồi chúng đút quan trên.
Trước quan xử: Nòng nọc
Không phải con Lão Trê,
Mà con vợ chồng Cóc,
Nay quan cười hề hề,
Bảo để rồi xem lại.
Rồi quan cử sai nha
Gồm Lý Ngạnh, Chánh Quạ
Xuống tận nơi điều tra.
Hai đứa này, ta biết,
Do nhận lễ, ăn tiền,
Nên chúng xuống chiếu lệ,
Chỉ đánh chén triền miên.
Chúng bèn xin quan lớn
Thả lão Trê ra ngay.
Quan, cũng nhận hối lộ,
Còn băn khoăn việc này.
Lại nói vợ chồng Cóc,
Không có tiền đút quan,
Nên nhờ anh Nhái Bén
Bày cách gỡ mối oan.
Nhái Bén vốn hay chữ,
Học đến héo quắt người,
Sau khi nghe sự việc,
Nhẩm tính rồi mỉm cười:
“Hai bác đừng lo sợ.
Chờ vài ngày nữa thôi
Mọi việc sẽ sáng tỏ.
Cứ yên tâm tin tôi.”
Hai ngày sau, nòng nọc
Rụng hết đuôi, bình thường
Lại thành cóc, bé xíu
Trông thật là dễ thương.
Sau đó cả nhà cóc
Kéo nhau lên gặp quan.
Giờ con ai đã rõ,
Điều ấy không cần bàn.
Dù đã ăn của đút
Của vợ chồng nhà Trê,
Quan đưa ra mức phạt
Phải nói, cũng rất ghê:
Vợ chồng Trê bị đánh
Mỗi người một trăm roi
Rồi bị đày biệt xứ,
Đày vĩnh viễn, suốt đời.
Còn Lý Ngạnh, Chánh Quạ,
Vì tội thiếu công tâm,
Tức là ăn của đút,
Bị treo chức mười năm.
Thế mới biết, đôi lúc
Người có quyền được ăn
Lại còn vừa được đánh
Mà không chút lăn tăn.
Còn gia đình nhà Cóc
Thì mở tiệc ăn mừng,
Mời bà con, hàng xóm
Làm một bữa tưng bừng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét