Việt Nam Lược Sử Diễn Ca
LÝ CÔNG UẨN (974 –
1028)
VÀ ĐỜI NHÀ LÝ
Thời Đinh - Lê, ruộng
đất
Thuộc sở hữu xã, làng.
Dân chia đều cày cấy,
Nộp thuế vua, quĩ
làng.
Đại Cồ Việt lúc ấy
Có nhiều xưởng thủ
công,
Đúc tiền, rèn vũ khí,
Làm dụng cụ nghề nông.
Ngoài ra còn nghề
giấy,
Nghề dệt lụa, gốm
sành.
Buôn bán đã phát triển
Nhờ tiền đồng lưu
hành.
Đạo Phật được truyền
bá
Chùa mọc lên nhiều
nơi.
Các sư mở lớp học
Dạy chữ cho mọi người.
Nho Giáo cũng xuất
hiện,
Phần lớn ở lớp trên.
Dân đã dùng chữ Hán,
Nhưng tiếng nói giữ
nguyên.
Lê Tiên Hoàn Hoàng đế
Mất Một Không Không
Năm.
Con là Lê Long Đĩnh,
Lên ngôi, thành “Vua
Nằm”.
Sở dĩ có tên ấy
Là do ông ta lười
Thường nằm khi triều
chính,
Hỗn láo và khinh
người.
Bốn năm sau ông chết.
Lý Công Uẩn lên thay.
Bây giờ ông sẽ kể
Về vị vua hiền này.
*
Một trong những vua
lớn
Của nước Việt Nam ta
Là vua Lý Thái Tổ,
Vẻ vang sử nước nhà.
Ông lập nên triều Lý
Kéo dài những chín
đời,
Mở đầu nước Đại Việt,
Được lòng dân, lòng
trời.
Ông sửa sang việc
nước,
Dùng chính sách “thân
dân”,
Sưu thuế nhẹ và ít,
Còn miễn thuế nhiều
lần.
Ông đề cao đạo Phật,
Xây chùa chiền, đắp
đê,
Còn cho quan sang Tống
Thỉnh kinh Tam Tạng
về.
Ông là người viết
chiếu
Dời đô về Thăng Long,
Giúp đất nước phát
triển
Theo thế của con rồng.
*
Ông người châu Cổ Pháp
Nay thuộc tỉnh Bắc
Ninh.
Mẹ họ Phạm, ba tuổi,
Kháu khỉnh và thông
minh,
Trụ trì chùa Cổ Pháp
Nhận ông làm con nuôi,
Đưa vào chùa dạy dỗ,
Học Phật, học làm
người.
Năm ông lên bảy tuổi,
Một thiền sư lừng danh
Có tên là Vạn Hạnh
Nhận làm học trò mình.
Ông được sư Vạn Hạnh
Cho vào hầu vua Lê.
Vua Lê rất yêu quí,
Luôn chăm sóc, vỗ về.
Lớn lên, ông phục vụ
Trong cung Lê Đại
Hành,
Làm đến Chỉ Huy Sứ
Bảo vệ Hoa Lư thành.
Vua còn gả công chúa
Là Lê thị cho ông,
Sinh ra Lý Phật Mã,
Rất được vua hài lòng.
Khi vua Đại Hành chết,
Triều đình thật rối
ren.
Tiếm ngôi, Lê Long
Đĩnh
Thành ông vua yếu hèn.
Rồi Lê Long Đĩnh chết,
Ông được tôn lên thay
Nhờ tướng Đào Cam Mộc
Và Vạn Hạnh, sư thầy.
Triều Lý được thiết
lập.
Cung đình lại bình
yên,
Quyền lực được củng
cố,
Yên vui khắp mọi miền.
Vậy là Lý Công Uẩn,
Ở tuổi ba mươi lăm,
Thành vua Lý Thái Tổ,
Trị vì mười chín năm.
Ông chấn chỉnh chế
sắc,
Đặt niên hiệu Thuận
Thiên,
Cất nhắc các quan lại,
Toàn xứng đáng, người
hiền.
Thấy đất Hoa Lư hẹp,
Toàn núi cao, khe sâu,
Không tiện làm đô hội,
Khó phát triển dài
lâu,
Ông xuống chiếu di
chuyển
Kinh đô về Đại La,
Mở đầu kỷ nguyên mới
Cho lịch sử nước nhà.
Năm Thuận Thiên thứ
nhất,
Một Nghìn Không Trăm Mười,
Đến đất kinh đô mới,
Vua ngước nhìn lên
trời
Liền giật mình, chợt
thấy
Thấp thoáng bóng con
rồng
Đang bay lên, tuyệt
đẹp,
Nên đổi thành Thăng
Long.
Quan hệ với nước Tống,
Ông khôn khéo nhún
nhường,
Vua Tống không sinh
sự,
Lại còn phong sắc
vương.
Năm Thuận Thiên mười
một,
Ông chinh phạt Chiêm
Thành,
Giành được thắng lợi
lớn,
Thanh thế cũng tăng
nhanh.
Vua Chiêm và Chân Lạp
Sang triều cống hàng
năm.
Việc bang giao yên
trị,
Dân yên ổn làm ăn.
Năm Một Không Hai Tám
Lý Thái Tổ băng hà,
Hưởng thọ năm lăm
tuổi,
Phật Mã lên thay cha.
Ông là vị vua tốt,
Hiệu là Lý Thái Tông,
Một vị tướng tài giỏi,
Chuyên đánh Tây dẹp
Đông.
Ông xây Chùa Một Cột,
Đào Kênh Lẫm, Thần Phù,
Đối xử rất nhân đạo
Với những người bị tù.
Ông cải cách pháp
luật,
Theo hướng nhẹ thì
tha,
Soạn Bộ luật Hình sự
Đầu tiên của nước nhà.
*
Khi Lý Thái Tông chết,
Lý Thánh Tông lên
thay.
Lịch sử luôn ghi nhớ
Công lao vị vua này.
Vua thứ ba nhà Lý,
Ông là vị minh quân,
Đặt quốc hiệu Đại
Việt,
Yêu nước và thương
dân.
Ông cho xây Văn Miếu,
Chăm lo việc học hành,
Dám đem quân đánh
Tống,
Lấy ba châu Chiêm
Thành.
Ba châu ấy rất lớn,
Thuộc vùng đất bây giờ
Là Quảng Bình, Quảng
Trị,
Mầu mỡ và nên thơ.
Xã hội luôn ổn định
Dưới triều Lý Thánh
Tông.
Quả không phải hổ thẹn
Với hương hồn cha,
ông.
4
LÝ THƯỜNG KIỆT (1019 –
1105)
Trong lịch sử dân tộc,
Đời nhà Lý, chín
triều,
Đã làm được nhiều
việc.
Vâng quả thật rất
nhiều.
Bình Chiêm, mở lãnh
thổ.
Đánh giặc Tống thành
công.
Đạo Phật phát triển
mạnh.
Dời đô về Thăng Long.
Đổi tên nước Đại Việt
Năm Một Không Năm Tư.
Vua đứng đầu nhà nước,
Công tâm và nhân từ.
Một chiếc chuông rất
lớn
Đặt trước điện Long
Trì.
Dân oan cứ đến gõ,
Kêu bất cứ việc gì.
Nước có hăm tư tỉnh.
Quan - tri phủ, tri
châu.
Chủ yếu người hoàng
tộc
Hay con cái nhà giàu.
Nhà Lý ban bộ luật
Năm Một Không Bốn Ba,
Dạng như luật Hình Sự,
Đầu tiên ở nước ta.
Quân đội gồm hai loại
-
Cấm quân và địa
phương.
Có cả bộ cả thủy,
Rất chặt chẽ kỷ cương.
Vũ khí gồm giáo mác,
Đao kiếm và cung tên.
Có cả máy bắn đá,
Có xưởng đóng chiến
thuyền.
Về ngoại giao, nhà Lý
Hòa hoãn với Bắc
Phương.
Với Chiêm Thành, Đại
Việt
Giữ quan hệ bình
thường.
*
Giữa thế kỷ mười một,
Nhà Tống gặp khó khăn.
Nội tình đầy mâu
thuẫn,
Ngân khố luôn nợ nần.
Chúng muốn đánh Đại
Việt
Để giải quyết việc
nhà,
Nhưng phải chịu thất
bại
Trước quân và dân ta.
Bây giờ ông sẽ kể
Về vị tướng thiên tài
Đã đánh bại quân Tống.
Các cháu biết là ai?
Đó là Lý Thường Kiệt,
Một con người tài ba,
Một anh hùng dân tộc
Trong lịch sử nước ta.
*
Ông là tướng nhà Lý,
Đồng thời một hoạn
quan,
Có công đánh quân
Tống,
Giữ đất nước bình an.
Tên thật là Ngô Tuấn,
Hậu duệ Ngô Quyền xưa,
Ông quê huyện Quảng
Đức,
Thuộc Gia Lâm bây giờ.
Bố ông làm Thái úy
Đời vua Lý Thái Tông,
Được vua ban quốc
tính,
Do đức và do công.
Năm Một Không Bốn Mốt,
Nhờ khôi ngô, thông
minh,
Ông được làm thái
giám,
Vua cho theo bên mình.
Sau ông được thăng
chức
Nội thị Sảnh đô tri
Lúc mới ba lăm tuổi,
Vinh hiển và quyền uy.
Rồi sau, tiến hơn nữa,
Dưới triều Lý Thánh
Tông,
Làm Kiểm hiệu Thái
bảo,
Chức quan hàng tam
công.
Năm Một Không Sáu Một,
Ở Thanh Hóa, Nghệ An
Các tộc Mường quấy
rối,
Vua sai ông trấn an.
Nhờ ông biết thuyết
giảng,
Có lý lại có tình,
Cả năm châu, sáu huyện
Đã quy phục triều
đình.
Năm Một Không Sáu
Chín,
Ông đi đánh Chiêm
Thành,
Bắt được vua Chế Củ,
Mở rộng đất nước mình.
*
Khi Càn Đức, bảy tuổi,
Lên ngôi báu, triều
đình
Lục đục các phe cánh,
Đất nước chẳng an
bình.
Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan phu nhân,
Nhờ thế mà mọi chuyện
May cũng ổn định dần.
*
Tể tướng Tống, An
Thạch,
Năm Một Không Bảy Năm,
Xui vua đánh Đại Việt,
Một quyết định sai
lầm.
Thấy trước âm mưu
giặc,
Không đợi giặc tấn
công,
Lý Thường Kiệt chủ
động
Cả đường bộ, đường
sông
Tiến quân vào đất
giặc,
Cùng Tôn Đản tướng
quân,
Vượt qua các thành ải,
Chiếm châu Liêm, châu
Khâm.
Năm Một Không Bảy Sáu,
Hai cánh quân gặp
nhau,
Cùng bắt đầu vây hãm,
Quyết hạ thành Ung
Châu.
Đó là một thành lớn,
Ngày nay là Nam Ninh,
Tướng Tô Giám cố thủ
Cùng ba vạn tinh binh.
Tướng giặc Trương Thủ
Tiết
Đem quân đến giải vây,
Bị ông chém tại trận.
Sử Tàu chép trận này.
Cuối cùng Lý Thường
Kiệt
Phải dùng kế hỏa công,
Bắn các chất dễ cháy
Như bùi nhùi, nhựa
thông.
Ông còn bắt dân Tống
Chồng bao cát thật cao
Để quân lính Đại Việt
Vượt tường thành xông
vào.
Thành Ung Châu thất
thủ
Vào ngày thứ bốn hai.
Tướng Tô Giám tự tử,
Lửa ngùn ngụt trong,
ngoài.
Sáu vạn người bị giết.
Cả Khâm Châu, Liêm
Châu,
Con số là mười vạn.
Một thất bại thật đau.
Làm cỏ ba châu ấy,
Nhiều cảnh cũng đau
lòng,
Lý Thường Kiệt ra lệnh
Quay trở về Thăng
Long.
Ông bắt nhiều dân Tống
Cùng đi theo với mình
Rồi cho vào khai khẩn
Vùng Nghệ Tĩnh, Quảng
Bình.
*
Tháng Ba năm Bảy Sáu,
Quân Tống lại đánh ta,
Xui Chiêm Thành, Chân
Lạp
Từ phía Nam đánh ra.
Nhưng rồi hai nước ấy
Sợ, không dám xuất
quân.
Quân Tống gồm mười
vạn,
Hai mươi vạn phu dân.
Hay tin, Lý Thường
Kiệt
Liền cấp tốc đề phòng,
Lập các chốt phòng ngự
Cả đường bộ, đường
sông.
Ông cho xây chiến lũy
Bên cửa ải Chi Lăng
Ngăn quân Tống tràn
xuống
Từ phía Bắc Cao Bằng.
Tuyến phòng thủ đường
thủy
Ông lập ở sông Cầu,
Xưa là sông Như
Nguyệt,
Chỗ sông hẹp, nước
sâu.
Nhờ hai phòng tuyến
ấy,
Giặc Tống bị kìm chân,
Quân mười phần chết
bảy,
Ý chí cũng nguội dần.
Biết giặc đang thế bí,
Ông sai sứ “nghị hòa”.
Quân Tống liền đồng ý.
Thoát được nạn can
qua.
*
Năm Một Một Không Bốn
Và Một Không Bảy Năm,
Hai lần Lý Thường Kiệt
Phải đem quân bình
Nam.
Cả hai lần đều thắng,
Chưa nói đến lần đầu
Khi bắt được Chế Củ,
Đổi vua lấy ba châu.
Ông được phong Thái
úy,
Bậc khai quốc công
thần,
Một anh hùng dân tộc,
Sống mãi cùng nhân
dân.
Tháng Sáu năm Ất Dậu,
Tức Một Một Không Năm,
Ở tuổi tám mươi bảy,
Lý Thường Kiệt từ
trần.
Ông là vị thái giám
Đầu tiên ở nước ta
Có công với dân tộc,
Giúp bảo vệ sơn hà.
Theo truyền thuyết kể
lại,
Trước ba quân, bấy
giờ,
Ở phòng tuyến Như
Nguyệt,
Ông đã đọc bài thơ.
Bài thơ như lời hịch,
Như một bản tuyên ngôn
Về độc lập dân tộc,
Sống mãi cùng nước
non.
*
Bài thơ tứ tuyệt ấy
Vang vọng mãi lòng
người.
Bốn câu thơ ngắn gọn
Xuyên suốt đã bao đời.
Nước Nam người Nam ở.
Trời định thế từ lâu.
Đừng tìm cách xâm
phạm,
Kẻo lại bị đánh đau.
Không gì đúng hơn thế.
Cũng không gì hay hơn.
Đó là lời cảnh cáo
Nhằm bảo vệ giang sơn.
Đến nay vẫn chưa biết
Ai viết bài thơ này.
Điều ấy không quan
trọng.
Quan trọng là nó hay.
Nó nói đúng khí phách
Của con cháu Lạc Rồng,
Bản Tuyên ngôn Độc
lập,
Lời thề với non song.
Thái úy Lý Thường Kiệt
Đã đọc vang bài thơ
Trong đền thờ Trương
Hống,
Huyện Yên Phong bây
giờ.
Tuyến phòng thủ Như
Nguyệt
Đứng sừng sững bên
sông.
Binh sĩ nghe tướng đọc
Mà thấy náo nức lòng.
Rồi vạn người như một
Tiến lên theo tiếng
thơ.
Khiến quân Tống bỏ
chạy,
Ô nhục tận bây giờ.
Nhà thơ không xung
trận
Trong trận ấy bên
sông,
Nhưng với bài tứ tuyệt
Đã góp phần lập công.
*
Lúc nãy ông nhắc đến
Hai từ lạ - “hoạn
quan”.
Hoạn quan Lý Thường
Kiệt.
Hay là Ngài bị oan?
Vấn đề chưa ngả ngũ,
Được tranh cãi xưa
nay.
Tạm thời ông chỉ nói
Đại khái như thế này.
*
Theo sử, Lý Thường
Kiệt
Vốn là một hoạn quan.
Một từ không đẹp lắm,
Khiến thiên hạ luận
bàn.
Nhiều nhà nho khinh bỉ
Khi nhắc đến tên ông,
Thậm chí có đánh giá
Sai lệch và bất công.
Với ta, Lý Thường Kiệt
Là khai quốc công
thần,
Người anh hùng dân
tộc,
Sống vì nước, vì dân,
Cho nên không quan
trọng
Ông là người thế nào.
Dẫu vậy, thử tìm hiểu
Vấn đề này xem sao.
*
Xưa nay trong lịch sử
Từng có nhiều hoạn
quan
Làm khuynh đảo chính
sự,
Tàn bạo và mưu gian.
Xưa nhất phải kể đến
Tên hoạn quan Triệu
Cao,
Từng giữ chức tể tướng
Thời nhà Tần năm nào.
Khi Tần Thủy Hoàng
chết,
Hắn giả di chiếu vua,
Lập con thứ Nhị Thế
Thay con trưởng Phù
Tô.
Hai anh em tranh chấp,
Nên cơ đồ nước Tần
Lọt vào tay nhà Hán,
Làm ly tán lòng dân.
Về phần mình, nhà Hán
Có họa mười hoạn quan
Thao túng cả triều
chính,
Nên vận nhà Hán tàn,
Để gian thần Đổng Trác
Nắm hết mọi quyền
hành,
Mở đường cho Tam Quốc
Dùng dằng thế phân
tranh.
Trường hợp Lý Thường
Kiệt
Của Đại Việt chúng ta,
Dẫu hoạn quan, tuy
vậy,
Là hiền tài, khác xa.
Vì sao Lý Thường Kiệt
Lại trở thành hoạn
quan?
Có khá nhiều giả
thuyết
Được đưa ra luận bàn.
Một - sinh ra đã thế.
Điều này rất khó tin,
Vì ông, như ta biết,
Từng có một mối tình
Với nàng Dương Hồng
Hạc,
Sau là vợ Thái Tông.
Khi biết ông bị hoạn,
Nàng dứt tình với ông.
Hai - hay Lý Thường Kiệt
Tự hoạn để lấy tiền?
Lý Thái Tông, nghe
nói,
Thấy mặt ông xinh,
hiền,
Nên hứa nếu tự hoạn
Để trở thành hoạn quan
Theo hầu vua sớm tối,
Vua thưởng ba vạn
quan.
Điều này khó có thật.
Là con một công hầu,
Tuy bố mẹ mất sớm,
Nhưng nhà ông khá
giàu.
Nên không thể có
chuyện
Ông bán mình vì tiền.
Với một nhân cách lớn,
Việc ấy là đê hèn.
Lại có người còn nói
Tự hoạn để tiến thân,
Hoặc do vua trừng phạt
Vì tội dám khi quân.
Còn một số thuyết nữa,
Nhưng tất cả xem ra
Không hoàn toàn thuyết
phục,
Trừ một thuyết, đó là
Khi vua tuyển thái
giám,
Người ta đánh thuốc
mê,
Hoạn ông ngoài ý muốn,
Một nỗi đau ê chề.
Chắc kẻ làm việc ấy
Có liên quan ít nhiều
Đến nàng Dương Hồng
Hạc,
Một người ông từng
yêu.
Không ngẫu nhiên sau
đó,
Đúng vào lúc gian
nguy,
Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan Nguyên phi.
Giả thuyết là giả
thuyết,
Còn chưa rõ thế nào.
Dẫu ông là quan hoạn,
Việc ấy cũng chẳng
sao.
Nó không thể che lấp
Tài đức và công danh.
Ông, vị tướng lỗi lạc
Phá Tống, bình Chiêm
thành.
*
Thế là ông kể hết
Phần chuyện của hôm
nay.
Giờ đến phần cổ tích.
Ông sẽ kể chuyện này.
Đây không phải cổ
tích,
Mà truyền thuyết dân
gian,
Về một người có thật,
Là Nguyên phi Ỷ Lan.
NGUYÊN PHI Ỷ LAN (1044 – 1117)
Có một truyền thuyết đẹp,
Đúng hay không, bàn sau.
Và theo truyền thuyết ấy,
Có một nàng hái dâu.
Nàng, cô thôn nữ ấy,
Rất xinh đẹp, tất nhiên.
Nết na và chăm chỉ,
Không thể không dịu hiền.
Một hôm, đang dưới bãi
Thì xe vua đi qua.
Ấy là vua tìm vợ,
Vì vua đã, đang già.
Khỏi nói, các cô gái
Tranh nhau đứng trước ngài.
Họ thích làm hoàng hậu
Và quyết không nhường ai.
Thế mà thôn nữ ấy,
Cô gái đang hái dâu,
Vẫn luôn tay, cứ hái,
Thậm chí không ngửng đầu.
Vừa hái dâu vừa hát,
Mà cô hát rất hay,
Đến mức vua dừng lại,
Nghe, và lòng say say.
Từ tò mò, rồi thích,
Rồi yêu cô gái nghèo,
Vua cho người cung kính
Rước kiệu cô về triều.
Rồi lấy nàng làm vợ,
Rồi gì gì, gì gì,
Cuối cùng cô gái ấy
Thành Ỷ Lan chính phi.
Ỷ Lan, vì hôm đó
Cô đứng tựa cây lan.
Vừa hồn nhiên, vừa đẹp.
Cũng có người bảo gian.
Có một nhà viết sử
Vừa viết sách về cô,
Nói bố cô lúc ấy
Làm quan ở kinh đô.
Có thể ông biết trước
Việc vua về vùng ông
Nên sai con phục sẵn,
Như phục chim vào lồng.
Nên cô mới ra bãi
Vờ chăm chú hái dâu,
Cố tình không chú ý,
Cố tình không ngửng đầu.
Vì biết có chú ý
Cũng chẳng ăn thua gì.
Vậy phải làm gì đấy
Thật lãng mạn, ly kỳ.
*
Ngoài đời, bà quả thật
Chuyên trồng dâu nuôi tằm.
Tên là Lê Thị Yến,
Quê ở huyện Gia Lâm.
Vua đã bốn mươi tuổi
Mà chưa có con trai,
Nên gặp được Thị Yến
Vừa xinh vừa có tài
Liền lấy bà làm vợ,
Xây riêng một cung to,
Nay là đình Yên Thái,
Cách không xa Bờ Hồ.
Bà sinh hai hoàng tử
Cho vua Lý Thánh Tông.
Con đầu là Càn Đức,
Sau thành Lý Nhân Tông.
Thế là vua mãn nguyện,
Được như ước, còn gì?
Nên bà được cất nhắc
Thần phi, rồi Nguyên phi.
*
Năm Một Không Sáu Chín
Vua đi đánh Chiêm Thành.
Đem mọi việc quốc sự
Giao cho bà điều hành.
Vua đánh mãi không thắng,
Đang có ý lui quân,
Thì biết tin hoàng hậu
Ở Thăng Long được dân
Và các quan kính trọng
Vì các việc triều đình
Đều được bà làm tốt.
Vua xấu hổ, giật mình.
Đàn bà mà giỏi thế,
Vậy đàn ông thì sao?
Thế là vua quyết định
Lại tung quân đánh vào.
Lần ấy vua thắng lớn,
Lấy thêm được ba châu,
Bắt vua Chiêm, Chế Củ,
Phải uốn gối, cúi đầu.
*
Tháng Giêng năm Nhâm Tý,
Tức Một Không Bảy Hai,
Thánh Tông lâm bệnh chết,
Lý Nhân Tông lên ngai.
Càn Đức mới sáu tuổi,
Còn nhỏ, chẳng biết gì,
Nên xẩy ra cuộc chiến
Giữa hai bà Hoàng phi.
Một bên là Thái hậu
Đang thực nắm quyền hành,
Nhờ có sự ủng hộ
Của Thái sư Đạo Thành.
Còn bên kia, yếu thế,
Là Ỷ Lan Thái phi.
Làm mẹ vua còn nhỏ,
Không có quyền hành gì.
Sau được Lý Thường Kiệt
Đứng hẳn về phe mình,
Ỷ Lan giành thế thắng.
Quên hết cả nghĩa tình,
Bà bắt con, Càn Đức,
Chôn Thái hậu họ Dương,
Bảy mươi sáu thị nữ
Cùng Thánh Tông, thật thương.
Còn Thái sư họ Lý
May không bị giết oan,
Giáng chức thành Tả gián,
Đi coi châu Nghệ An.
Vậy là một thôn nữ,
Hiền dịu và xinh tươi,
Vì quyền lực, đã giết
Bảy mươi bảy con người.
*
Nắm toàn quyền triều chính,
Từ Ỷ Lan Thái phi,
Thành Ỷ Lan Thái Hậu.
Sắp tới bà làm gì?
Lần thứ hai nhiếp chính
Năm Một Không Bảy Tư,
Bà lại mời ra Bắc
Lý Đạo Thành Thái sư.
Bà quên thù hận cũ,
Giao trọng trách cho ông,
Để cùng Lý Thường Kiệt
Lo gánh vác việc công.
Nhờ thế mà đất nước
Được ổn định dài lâu,
Bình Chiêm rồi phá Tống -
Việc này bà công đầu.
Sử cũ còn ghi lại,
Năm Một Một Không Ba,
Bà lấy tiền công quĩ
Và một phần tiền bà
Để chuộc các cô gái
Bị bán cho nhà giàu,
Tìm đàn ông góa vợ
Để họ thành cô dâu.
Vốn là người mộ Phật,
Là người tu tại gia,
Bà xây nhiều chùa, miếu,
Nhất là khi về già.
Có người nói, bởi lẽ
Lòng bà không thảnh thơi,
Hối hận vì đã giết
Bảy mươi bảy con người.
Rất có thể như thế,
Cũng có thể là không.
Lịch sử rất sòng phẳng:
Khen khi bà có công.
Ngược lại, khi có tội,
Phải mang tiếng với đời.
Không ai có thể thoát
Luật trời và luật người.
Bảy mươi tuổi, bà chết,
Ba hầu gái chôn theo,
Những người bà yêu mến,
Tức là những người nghèo.
5
TRẦN THỦ ĐỘ (1194 -
1264)
Xã hội ta thời Lý,
Hơn hai thế kỷ dài,
Có nhiều sự kiện lớn,
Nhiều nhân vật hiền
tài.
Từ vua Lý Thái Tổ
Đến vua Lý Chiêu
Hoàng,
Chín đời vua cai trị
Với nhiều trang sử
vàng.
Bình Chiêm rồi đánh
Tống,
Dời đô về Thăng Long,
Xây dựng Quốc Tử Giám,
Phát triển nghề thủ
công.
Phật giáo rất phát
triển.
Nho giáo cũng gia
tăng.
Trong việc cai trị
nước
Có phân cấp rõ ràng.
Năm Một Không Bảy Sáu,
Quốc Tử Giám lần đầu
Mở cửa đón vào học
Con cháu của người
giàu.
Còn một năm trước đó
Khóa thi tuyển đầu
tiên
Được nhà vua cho mở
Để kén chọn người
hiền.
Kiến trúc và điêu khắc
Rất phát triển thời
này -
Văn Miếu, Chùa Một
Cột…
Tồn tại đến ngày nay.
Cũng vào thời nhà Lý
Xuất hiện một dòng
thơ,
Gọi là thơ Thiền,
Phật,
Rất phổ biến bấy giờ.
Làm nên dòng thơ ấy
Là các sư đời thường,
Như Vạn Hạnh, Lê
Thước,
Đoàn Văn Khâm, Lý
Trường,
Đỗ Pháp Thuận, Từ Lộ,
Ngô Chân Lưu, Lâm Khu,
Dương Không Lộ, Lê
Thuấn,
Vạn Trì bát, Kiều Phù…
Cả vua Lý Thái Tổ
Có bài thơ rất hay,
Nói ngủ, chân đạp đất,
Đầu Ngài gác lên mây.
Đêm mỏi, không dám
duỗi,
Chỉ vì sợ ngủ quên
Mà đạp đổ sông núi.
Đúng khí phách người
hiền.
Tuy nhiên, từ giai đoạn
Cuối thế kỷ Mười Hai,
Nhà Lý dần suy yếu.
Suốt một thời gian dài
Vua quan lo hưởng lạc
Và bòn vét của dân.
Lại hạn hán, lụt lội,
Mất mùa, dân thiếu ăn.
Dân nghèo đã nổi dậy
Ở Nghệ An, Ninh Bình.
Thái Sư Trần Thủ Độ,
Thâu tóm hết quyền
binh.
Bây giờ ông sẽ kể
Về ông Thái Sư này.
Người luôn gây tranh
cãi
Khi đánh giá xưa nay.
Chính ông đã êm thấm,
Chuyển từ Lý sang
Trần.
Gây dựng triều đại
mới.
Dẫu mang tiếng bất
nhân
*
Một nhân vật lịch sử
Gây nhiều oán, nhiều
ân,
Đó là Trần Thủ Độ,
Thái sư đầu triều
Trần.
Cũng ông, người thực
sự
Sáng lập triều đại
này,
Và bốn mươi năm chẵn
Giữ chặt nó trong tay.
Nhưng ông ác hay
thiện,
Chính nghĩa hay gian
tà?
Điều này chưa ngả ngũ,
Dù nhiều năm trôi qua.
Ông sinh ở Lưu Xá,
Huyện Hưng Hà, Thái
Bình,
Tổ tiên làm nghề cá,
Từ Đông Triều, Yên
Sinh.
Nhưng đến đời ông bố
Thì giàu sang vô cùng,
Khi Hoàng Thái tử Sảm
Lấy chị Trần Thị Dung.
Sau Hoàng Thái tử Sảm
Thành vua Lý Huệ Tông.
Nhà Lý đứng vững được
Một phần cũng nhờ ông.
Năm Một Hai Hai Bốn,
Ông được phong chức
danh
“Điện tiền Chỉ huy
sứ”,
Chỉ huy bảo vệ thành.
Khi Trần Tự Khánh
chết,
Ông là người một mình
Nắm hết mọi quyền lực,
Và công việc triều
đình.
Triều Lý vào lúc ấy
Đang trên đường suy
vong.
Vua ham chơi, tác
tráng,
Dân bất ổn, nản lòng.
Mùa màng luôn thất
bát.
Chân Lạp và Chiêm
Thành
Thường quấy phá biên
giới,
Lơ lửng họa chiến
tranh.
Sáng suốt và khôn
khéo,
Biết trông rộng, nhìn
xa,
Ông nghĩ cần thay đổi,
Cho mình, cho nước
nhà.
Năm Một Hai Hai Bốn,
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con
gái,
Cho dù muốn hay không.
Huệ Tông lên chùa
sống,
Lấy pháp hiệu Huệ
Quang.
Con gái vua, bảy tuổi,
Hiệu là Lý Chiêu
Hoàng.
Đó là vị vua nữ
Duy nhất của nước nhà,
Nhưng cuộc đời chìm
nổi,
Ngẫm mà thương cho bà.
Tiếp đến, Trần Thủ Độ
Đưa Trần Cảnh, cháu
ông,
Vào hầu bên nữ chúa,
Rồi sau trở thành
chồng.
Chỉ một năm sau đó
Chiêu Hoàng tự dâng
ngai
Cho cậu chồng tám
tuổi,
Yên cả trong lẫn
ngoài.
Vậy là cuộc đảo chính
Đã mỹ mãn thành công,
Nhà Trần kế nhà Lý,
Hoàn toàn theo ý ông.
Phải khen ông tài
giỏi,
Thay đổi cả vương
triều,
Đất nước không xáo
trộn,
Máu cũng chẳng đổ
nhiều.
Vì vua còn rất bé,
Ông lại nắm toàn
quyền,
Dẹp loạn sứ trong
nước,
Dân chúng được bình
yên.
Lần kháng chiến thứ
nhất
Chống xâm lược nhà
Mông,
Đại Việt giành thắng
lợi
Một phần nhờ có ông.
Thế giặc lớn, vua sợ,
Mới hỏi ông, thăm dò.
“Chừng nào tôi chưa
chết,
Xin bệ hạ đừng lo!”
Thái sư nói câu ấy,
Làm triều đình vững
lòng,
Trên dưới dốc toàn
lực,
Giúp kháng chiến thành
công.
*
Theo sử cũ chép lại,
Trần Thủ Độ là người
Rất công tâm, nghiêm
khắc,
Khôn ngoan và hiểu
đời.
Một lần vợ ông trách
Khi đi vào cấm cung
Bị lính cờ ngăn lại.
Ông nghe, giận vô
cùng,
Liền gọi tên lính ấy,
Định chém đầu tức thì.
Thế mà ông không chém,
Còn khen, thật lạ kỳ.
“Tên lính này, ông
nói,
Giữ đúng phép vua ban.
Lính làm thế là tốt,
Sao bà còn phàn nàn?”
Có lần, một công chúa
Xin ông cho người nhà
Một chức quan nho nhỏ.
Ông gật đầu, thế là
Khi người kia đến gặp,
Ông nói: “Anh là người
Được công chúa ưu ái,
Vậy nổi bật ở đời.
Thế thì ta xin phép
Chặt một ngón chân anh
Đánh dấu sự khác ấy.
Chắc anh cũng đồng
tình.”
Anh kia nghe, sợ quá,
Liền ra về, tay không.
Từ đấy không hề thấy
Người nào đến nhờ ông.
Lại nữa, một lần nọ,
Có người tâu chân
tình:
“Bệ hạ còn ít tuổi,
Thái sư nắm quyền
hành,
E gây nên hậu họa.”
Thái Tông đưa người
này
Đến gặp Trần Thủ Độ.
Ông nghe rồi khen hay,
Bảo ông ta nói đúng,
Không chém đầu để răn,
Mà còn ban lụa thưởng,
Khen là người trung
thần.
*
Vậy là Trần Thủ Độ
Rõ ràng rất có công
Xây dựng vương triều
mới,
Đánh thắng giặc Nguyên
Mông.
Nhưng nhiều người chỉ
trích
Ông là người nhẫn tâm,
Độc ác, vô đạo đức.
Nói thế cũng không
nhầm.
Để đề phòng hậu họa,
Ông không ngại giết
người.
Giết tôn thất nhà Lý,
Một tội ác tày trời.
Chính ông ép Trần Liễu
Nhường vợ cho em trai.
Vua lấy chị dâu ruột,
Khi chị dâu có thai.
Ông bị chê thất đức
Khi giết Lý Huệ Tông,
Lấy hoàng hậu làm vợ,
Tức lấy chị họ ông.
Ông là người như thế.
Công và tội đan xen.
Thậm chí công và tội
Còn chưa rõ trắng đen.
6
CÁC VUA TRẦN
Nhà Trần thay nhà Lý
Lo củng cố quốc phòng
Và chấn hưng kinh tế,
Đặc biệt là nghề nông.
Để trao đổi hàng hóa,
Chợ mọc lên khắp nơi,
Hầu như các làng xã,
Luôn nhộn nhịp, đông
người.
Nghề thủ công phát
triển,
Như nghề gốm, đúc
đồng,
Nghề làm giấy, rèn dũa
Các công cụ nhà nông.
Triều đình sai các lộ
Phải đào sông, đắp đê,
Khai khẩn đất hoang
hóa
Ngăn nước biển bằng
kè.
Biết trước họa xâm
lược,
Vua bắt quân thường
xuyên
Học binh pháp, luyện
võ,
Sử dụng giáo, cung
tên.
Thời kỳ đầu cai trị,
Các ông vua đời Trần,
Là người hiền, tài
giỏi,
Lo cho nước, cho dân.
Hôm nay ông sẽ kể
Chi tiết về hai ông.
Hai ông vua tài đức -
Thánh Tông và Nhân
Tông.
TRẦN
THÁNH TÔNG (1240 – 1290)
Thái sư Trần Thủ Độ,
Vốn là một quyền thần,
Thu xếp sự chuyển tiếp
Từ triều Lý sang Trần.
Năm Một Hai Hai Bốn
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con
gái,
Rồi ép nàng lấy chồng.
Lấy cháu ông, Trần
Cảnh.
Lý Chiêu Hoàng bấy giờ
Vừa mới lên bảy tuổi,
Trẻ con và ngây thơ.
Sau đấy ông lại ép
Nàng nhường ngôi cho
chồng,
Cũng trẻ con, bảy
tuổi,
Sau thành Trần Thái
Tông.
Lớn lên, ông vua ấy
Là một vị vua hiền,
Người có công lãnh đạo
Cuộc chiến chống quân
Nguyên.
Thái Tông và hoàng hậu
Mãi vẫn không có con.
Sợ không người nối dõi
Để ngôi báu trường
tồn,
Thái sư Trần Thủ Độ
Ép vua lấy chị dâu,
Tức là vợ Trần Liễu,
Lúc ấy đang có bầu.
Rồi họ sinh Trần
Hoảng,
Sau thành Trần Thánh
Tông,
Một anh hùng dân tộc,
Chiến thắng giặc
Nguyên Mông.
Trần Thánh Tông trị
quốc
Trong vòng hai mươi
năm.
Đất nước luôn thịnh
trị,
Không có giặc ngoại
xâm.
Ông đặc biệt chú ý
Lo cuộc sống cho dân,
Giảm phu phen, lao
dịch,
Tạo điều kiện làm ăn.
Lê Văn Hưu viết sử
Theo chiếu lệnh của
ông.
Cuốn Đại Việt sử ký
Cuối cùng đã viết
xong.
Bộ sử ba mươi cuốn
Từ xưa đến Chiêu
Hoàng.
Tiếc bây giờ thất lạc,
Nhưng là cuốn sử vàng.
Ông mở nhiều trường
học,
Đúc chuông, xây chùa
chiền,
Lập xưởng đúc vũ khí,
Đóng sẵn các chiến
thuyền.
Khi còn nhỏ, Thái tử
Từng theo cha Thái
Tông
Nhiều lần ngự thuyền
chiến
Tham gia đánh Nguyên
Mông.
Ông cho phép vương
thất
Cùng dân nghèo khai
hoang.
Các vương hầu từ đó
Nhiều người có điền
trang.
Ông đều đặn xuống
chiếu
Kén chọn các hiền tài
Sung vào nơi Quán,
Các,
Không phân biệt trong
ngoài.
Năm Một Hai Bảy Tám
Thánh Tông nhường ngôi
vàng
Cho Trần Khâm, thái
tử,
Để thành Thái thượng
hoàng.
Ông lui về Cung Bắc
Rồi xuống tóc, nhập
thiền,
Nghiên cứu về Phật
Giáo,
Xây dựng nhiều chùa
chiền.
Năm Một Hai Tám Bốn
Quân Nguyên lại tấn
công.
Hưng Đạo Vương Quốc
Tuấn
Được phụ trách quốc
phòng.
Quân Nguyên bị đánh
bại
Lần thứ hai, thứ ba,
Đều có công đóng góp
Của Thánh Tông vua
cha.
Năm Một Hai Tám Chín,
Khi kết thúc chiến
tranh,
Thánh Tông về ở ẩn,
Làm thơ và du hành.
TRẦN
NHÂN TÔNG (1258 – 1308)
Anh minh và nhân ái,
Đức vua Trần Nhân
Tông,
Một ông vua vĩ đại,
Sống mãi cùng non
sông.
Không chỉ vua, hơn
thế,
Ngài còn là Phật
Hoàng,
Lập Trúc Lâm Yên Tử,
Mở một kỷ nguyên vàng.
Ngài là con trai
trưởng
Đức vua Trần Thánh
Tông.
Trần Khâm là tên húy,
Anh hùng chống Nguyên
Mông.
Năm Một Hai Bảy Tám,
Nhận ngôi từ vua cha,
Đúng lúc giặc Mông Cổ
Lại đe dọa nước nhà.
Thế lực giặc rất lớn,
Không ít người nản
lòng,
Nhưng Ngài quyết chủ
chiến,
Mở Hội nghị Diên Hồng.
Ngài là người đoàn kết
Sức mạnh toàn quốc
gia.
Lòng tự hào dân tộc
Nhờ đó mà thăng hoa.
Được Thánh Tông giúp
sức,
Ngài lãnh đạo nhân dân
Đánh thắng quân xâm
lược
Liên tục cả hai lần.
Tháng Tư năm Ất Dậu,
Tức Một Hai Tám Năm,
Ngài sai Trần Nhật
Duật,
Trần Quốc Toản mang
quân
Đánh giặc ở Tây Kết,
Suýt bắt sống Thoát
Hoan,
Rồi sau đó thắng lớn
Ở cửa Hàm Tử Quan.
Năm Một Hai Hai Tám,
Sau trận thắng Bạch
Đằng,
Mở Thái Bình Diên Yến,
Ba ngày ba đêm trăng.
Quân Ai Lao lúc đó
Cũng thường quấy nước
ta.
Đích thân Ngài gươm
giáo
Lên đường chinh phạt
xa.
Cương quyết không để
mất
Một tấc đất tiền nhân.
Bằng mọi giá phải giữ.
Ngài nói thế nhiều
lần.
Để kết tình hòa hiếu,
Ngài gả con Huyền
Trân,
Công chúa Ngài yêu
quí,
Cho vua Chiêm Chế Mân.
Nước Đại Việt từ đó
Có thêm được mấy châu,
Đất rộng, người thưa
thớt
Nhưng tài nguyên rất
giàu.
Xong việc, năm Quý Tị,
Tức Một Hai Chín Ba,
Ngài nhường con ngôi
báu,
Cùng gánh vác sơn hà.
Năm Một Hai Chín Chín,
Ngài xuất gia tu hành
Ở Vũ Lâm cung cấm,
Nay thuộc tỉnh Ninh
Bình.
Rồi Ngài đến Yên Tử,
Niệm kinh và tưới hoa,
Lập dòng thiền đất
Việt,
Hiệu Trúc Lâm Đầu Đà.
Trong Trúc Lâm Tam Tổ,
Ngài là vị tổ đầu,
Pháp Loa là tổ tiếp,
Huyền Quang tổ về sau.
Năm Một Ba Không Tám,
Tức là năm Mậu Thân,
Ở Ngọa Vân, Yên Tử
Ngài từ giã cõi trần.
Ngài từ người thành
Phật
Sau tám năm xuất gia.
Chết, xá lị được giữ
Như báu vật nước nhà.
Tro Ngài được an táng
Và hậu thế tôn thờ
Trong tháp lăng Quí
Đức,
Tỉnh Thái Bình bây
giờ.
*
Theo sử sách kể lại,
Một lần về Thăng Long,
Ngài rất buồn khi thấy
Con mình, Trần Anh
Tông,
Trình Ngài bản danh
sách
Hàng trăm quan nhỏ to
Mới được vua cất nhắc,
Tưởng Ngài vui, ai
ngờ,
Ngài vứt tờ giấy ấy,
Vỗ vai con, và rồi
Nói: “Nước mình bé
nhỏ,
Nhiều quan, lấy ai
nuôi?”
Đó là bài học lớn
Về trị nước, yên dân.
Quan nhiều là gánh
nặng,
Khiến đất nước nghèo
dần.
*
Ngài là vua, là Phật,
Lại còn là nhà thơ.
Ba lăm bài tuyệt tác
Còn lưu đến bây giờ.
Đó là thơ tứ tuyệt
Và một số thơ Đường,
Về thiên nhiên, thiền
Phật,
Về lẽ sống đời thường.
*
Theo sử sách kể lại,
Lên Yên Tử, dọc đường
Ngài bị ba tên cướp
Cầm giáo ra chặn
đường.
Ngài ôn tồn hỏi chúng,
Mới biết nghèo, làm
liều,
Rồi lấy, đem cho chúng
Suất cơm Ngài mang
theo.
Khi đến một quả núi
Có hình như mâm xôi,
Định ăn thì sực nhớ
Suất cơm cho mất rồi.
Ngài đành nhờ Bảo Sái,
Người hầu luôn theo
Ngài,
Xuống suối lấy nước
uống
Thay cơm cho cả hai.
Về sau ở núi ấy,
Có ngôi chùa, trước
sân
Ghi hai chữ “Cấm
Thực”,
Tức là chùa không ăn.
*
Khi Ngài lên Yên Tử,
Một mình giữa rừng
sâu,
Triều đình sợ Ngài
khổ,
Cho cung nữ theo hầu.
Ngài không chịu, bảo
họ
Nếu muốn, trở về quê.
Nhưng tất cả cung nữ
Nhảy xuống suối Hổ Khê
Để tỏ lòng thương mến
Và trung thành với
Ngài.
Con suối ấy sau đó
Đổi thành Giải Oan
Đài.
Khi tu ở Yên Tử,
Ngài thường leo hàng
ngày
Lên đỉnh núi cao nhất,
Bốn mùa chìm trong
mây.
Ngài cho xây ở đấy
Chiếc am nhỏ Ngọa Vân,
Nơi Ngài thiền, đọc
sách,
Hưởng cái thú thanh
bần.
*
Khi Ngài sắp viên
tịch,
Trời mưa gió dầm dề.
Mồng Ba, tháng Mười
Một,
Bỗng gió lặng, trời
se.
Ngài liền hỏi Bảo Sái:
“Giờ này là giờ gì?”
“Bạch thầy, là giờ
Tý”.
“Đã đến giờ ta đi”.
Nói xong, Ngài viên
tịch,
Nằm nghiêng như Phật
nằm,
Ở ngay trong am núi,
Nơi Ngài tu tám năm.
Pháp Loa, theo di
chúc,
Thiêu xác Ngài, lát
sau
Thấy nghìn viên xá lị
Lung linh đủ các màu.
*
Giờ các cháu nghe nốt
Chuyện con gái của
Ngài
Là Huyền Trân Công
chúa
Đã lấy chồng nước
ngoài.
*
Mấy trăm năm về trước
Đất nước ta thân yêu
Có tên là Đại Việt,
Diện tích bé hơn
nhiều.
Có một vương quốc cổ
Ở miền Trung ngày nay.
Chiêm Thành là tên
gọi.
Rất hung hãn nước này.
Còn vùng đất Nam Bộ
Của chúng ta bây giờ
Lại thuộc một nước
khác,
Cũng vào loại đáng
ngờ.
Thời ấy vua Đại Việt
Có công chúa Huyền
Trân,
Không thể nói xinh
đẹp,
Mà phải nói tuyệt
trần.
Nàng yêu một dũng
tướng
Tên là Trần Khắc
Chung.
Chàng có tài, còn trẻ,
Cũng yêu nàng vô cùng.
Nghe tiếng nàng xinh
đẹp,
Vua Chiêm Thành, Chế
Mân,
Liền cho người đem lễ
Dâng vua Việt, cầu
thân.
Quà cầu hôn còn có
Hai vùng đất rất to,
Trù phú, dân thưa
thớt,
Là Châu Lý, Châu Ô.
Công chúa buồn, đau
khổ
Khi nghe tin bố mình
Quyết định gả con gái
Cho vua nước Chiêm
Thành.
Yêu Khắc Chung tha
thiết,
Nhưng nàng hiểu vua
cha
Làm thế là chủ ý
Vì đại sự quốc gia.
Thế là nàng gạt lệ
Chia tay cùng Khắc
Chung
Để lên đường Nam tiến,
Vượt muôn núi chập
chùng.
Chỉ ít năm sau đó
Vua Chế Mân qua đời.
Theo tục lệ bản xứ,
Hoàng hậu phải là
người
Lên dàn thiêu chịu
chết
Để hồn đi theo chồng.
Một tục lệ man rợ
Của nhiều nước phương
Đông.
Đắc Chung nghe tin dữ
Đem mấy nghìn tinh
binh
Đi ngày đêm không nghỉ
Tới kinh đô Chiêm
Thành.
Dẫu ở trong lòng địch,
Quân mình ít, địch
đông,
Chàng cướp được công
chúa,
Đưa về thành Thăng
Long.
Từ đó họ hạnh phúc
Ở bên nhau trọn đời.
Gương Huyền Trân Công
chúa
Sống mãi trong lòng
người.
7
BA LẦN CHIẾN THẮNG
GIẶC NGUYÊN MÔNG
Nước du mục Mông Cổ,
Đầu thế kỷ Mười Ba
Thành một đế quốc
mạnh,
Diện tích rộng bao la.
Với quân đội hùng mạnh
Và thiện chiến, nước
này
Xâm lược các nước khác
Khắp từ Đông sang Tây,
Gồm châu Âu, Tây Á,
Rồi như cơn cuồng
phong,
Chúng đánh nhà Tây Hạ,
Xuống phía Nam, phía
Đông.
Giặc Mông Cổ hiếu
chiến.
Hễ chúng đi đến đâu
Là gieo rắc tàn phá,
Chết chóc và buồn đau.
Năm Một Hai Năm Bảy
Vua Mông Cổ liền sai
Một dũng tướng tài giỏi
Là Ngột Lương Hợp Thai
Đem ba vạn binh sĩ
Quyết tâm chiếm nước
ta,
Tạo gọng kìm xâm lược
Nước Nam Tống Trung
Hoa.
Để đạt mục đích ấy,
Thì việc làm đầu tiên
Là phải thắng Đại Việt
Để từ dưới đánh lên.
Tướng giặc cậy thế
mạnh,
Trước khi cho xuất
quân,
Sai sứ mang thư dọa
Và dụ hàng vua Trần.
Các vua Trần từ chối,
Còn nhốt sứ trong nhà.
Năm Một Hai Năm Tám,
Chúng đem quân đánh
ta.
Hơn ba vạn binh sĩ,
Từ Vân Nam tràn sang.
Chúng làm cỏ mọi thứ,
Đồng ruộng và xóm
làng.
Theo sông Thao, đường
thủy,
Chúng đánh xuống Việt
Trì.
Đến Vĩnh Phúc, quân
giặc
Bị ta cản đường đi.
Hai vua của Đại Việt
Là Thái Tông, Thánh
Tông
Dẫn quân ra nghênh
chiến,
Nhưng do địch quá
đông,
Trận ấy ở Vĩnh Phúc,
Quân Đại Việt thua to,
Thua cả trận Phù Lỗ
Ở bên sông Cà Lồ.
Các vua Trần quyết
định
Rút khỏi thành Thăng
Long,
Làm “nhà không vườn
trống”,
Gây khó cho quân Mông.
Nhưng mười ngày sau
đó,
Hai vua Trần cùng nhau
Đánh bại quân Mông Cổ
Trong trận Đông Bộ
Đầu,
Giờ thuộc đất Hà Nội,
Quận Ba Đình ngày nay.
Năm Một Hai năm Tám,
Giặc rút, hướng Bắc -
Tây.
Chỉ trong vòng nửa
tháng
Cuộc chiến tranh xẩy
ra
Và nhanh chóng kết
thúc,
Phần thắng thuộc về
ta.
*
Hăm bảy năm sau đó,
Tức Một Hai Tám Năm
Quân Nguyên Mông lần
nữa
Đánh ta từ phía Nam.
Năm mươi vạn phía Bắc,
Mười vạn phía Chiêm
Thành,
Chúng đưa quân ồ ạt,
Hòng đánh nhanh, thắng
nhanh.
Biết trước dã tâm
giặc,
Năm Một Hai Tám Hai,
Tức là ba năm trước,
Vua và các tướng tài
Gặp nhau ở Hội nghị
Có tên là Bình Than
Để bàn mưu giữ nước,
Chống bọn giặc hung
tàn.
Hai năm sau, sứ Việt
Do Trần Phủ cầm đầu
Sang, tìm kế hoãn
chiến,
Nhưng chẳng đi đến
đâu.
Biết không thể hòa
hoãn,
Thượng hoàng Trần
Thánh Tông
Bèn cho mở Hội nghị
Ở cung điện Diên Hồng.
Khách mời dự Hội nghị
Là các bậc cao niên
Gồm già làng, trưởng
lão
Đến từ khắp mọi miền.
Vua mở yến chiêu đãi,
Rồi nói họa Nguyên
Mông,
Xin các cụ cho biết:
Ta nên đánh hay không?
Vốn quanh năm chân
đất,
Nay được vào hoàng
cung,
Được vua ân cần tiếp,
Các cụ vui vô cùng.
Rồi trăm người như
một,
Hô to cùng đức vua:
“Đánh! Sát thát! Sát
thát!
Đánh đến khi giặc
thua!”
Sau Hội nghị, các cụ
Về làng bản của mình
Khích lệ các con cháu
Cùng tham gia việc
binh.
Hội nghị Diên Hồng ấy
Thể hiện được lòng
dân,
Thề quyết tâm giữ nước
Cùng các vị vua Trần.
Vua Trần có thể quyết
Chủ chiến hay chủ hòa,
Nhưng tôn trọng dân
chúng
Hỏi đại sự quốc gia.
Quân và dân như một,
Nhờ thế đã đồng lòng,
Ý chí cả dân tộc
Thắng được họa Nguyên
Mông.
Một tấm gương trị nước
Giá trị đến ngày nay.
Muốn bảo vệ Tổ quốc,
Phải nhớ bài học này.
*
Như lần xâm lược
trước,
Lần này quân Nguyên
Mông
Thắng trận ở Vạn Kiếp,
Lạng Sơn và sông Hồng.
Sau khi vượt biên
giới,
Chưa đầy hai mươi
ngày,
Thăng Long bị chúng
chiếm.
Tình thế quả rất gay.
Các vua Trần tạm rút
Về Nam Định, Ninh
Bình,
Rồi sau theo đường
biển,
Lên chốt vùng Quảng
Ninh.
Ở phía Nam, quân giặc
Đánh ra từ Chiêm
Thành,
Liên tiếp giành thắng
lợi
Ở xứ Nghệ, xứ Thanh.
Đây cũng là vùng đất
Mà vua tôi nhà Trần
Đã rút về chốt giữ,
Đợi thời và yên dân.
Cũng giống như lần
trước,
Quân Nguyên gặp khó
khăn,
Vì “tiêu thổ kháng
chiến”,
Người và ngựa thiếu
ăn.
Tinh thần binh sĩ
xuống,
Chỉ huy thì nản lòng.
Từ Thanh Hóa lúc ấy
Quân Đại Việt phản
công,
Liên tiếp giành thắng
lợi
Ở Hàm Tử, Chương
Dương.
Thành Thăng Long giải
phóng,
Chặn hết các ngả
đường.
Quân Nguyên Mông tháo
chạy.
Bị chặn ở sông Cầu.
Cánh phía Nam bị diệt
Ở Tây Kết, Khoái Châu.
Thế là một lần nữa,
Giặc Nguyên Mông lại
thua.
Nhưng như cha ông nói:
“Đánh chết, nết không
chừa”.
*
Quân Nguyên Mông đại
bại,
Lo quân lương, chiến
xa,
Đóng thêm nhiều tàu
chiến,
Đánh Đại Việt lần ba.
Chúng chia làm ba
cánh,
Từ Vân Nam, Quảng Tây
Và Quảng Đông - đường
biển -
Hành quân gấp đêm
ngày.
Đó là năm Tám Bảy,
Cuộc chiến cũng không
lâu,
Từ tháng Chạp năm ấy
Đến tháng Tư năm sau.
Quân giặc năm mươi
vạn,
Quân Trần chỉ hai mươi,
Nhưng ta hơn “địa lợi”
Và hơn cả “nhân thời”.
Lại giống hai lần
trước,
Chúng chiếm được Thăng
Long,
Nhưng thiếu lương,
quân đói,
Binh lính lại nản
lòng.
Hơn thế, vì bão biển,
Vì thuyền đi lạc
đường,
Trần Khánh Dư lại
đánh,
Nên mất hết quân
lương.
Quân ta do thế yếu,
Về chốt ở Hải Phòng,
Thường tập kích Vạn
Kiếp,
Đánh quân thủy trên
sông.
Bị đói, bị chia cắt,
Giặc rút khỏi Thăng
Long,
Co cụm ở Vạn Kiếp.
Quân Trần chưa tấn
công,
Chúng đã chủ động rút,
Đi qua ngả Cao Bằng.
Còn toàn bộ quân thủy
Bỏ mạng trận Bạch
Đằng.
Quân giặc lại thất
bại,
Cả ba lần, vua Nguyên,
Thế tổ Hốt Tất Liệt,
Vẫn còn chưa chịu yên.
Hắn muốn đánh Đại
Việt,
Chờ thời, chờ binh
tình.
Có lần đã xuất phát,
Tướng chết mà hoãn
binh
Năm Một Hai Chín Bốn,
Định xuất quân, bất
ngờ
Hốt Tất Liệt ốm chết,
Mang mộng ấy xuống mồ.
Một trang sử chói lọi.
Ba lần thắng Nguyên
Mông,
Một đế quốc tự mãn
Luôn thắng Tây, thắng
Đông.
Đây là thắng lợi lớn
Của binh sĩ, nhân dân,
Của đức Trần Hưng Đạo
Và của các vua Trần.
8
TRẦN HƯNG ĐẠO (1232 -
1300)
Tên thật là Quốc Tuấn,
Trần Hưng Đạo đại
vương
Là một người đặc biệt,
Tài đức bậc phi
thường.
Ông là nhà chính trị,
Nhà quân sự thiên tài,
Góp phần giữ độc lập
Cho thế hệ tương lai.
Ông là con Trần Liễu,
Cháu vua Trần Thái
Tông.
Rất khôi ngô, tuấn tú,
Văn và võ tinh thông.
Ông lớn lên đúng lúc
Nước thọ địch bốn bề.
Giặc Nguyên Mông
phương Bắc
Đang đêm ngày lăm le.
*
Năm Một Hai Năm Bảy
Đức vua Trần Thái Tông
Xuống chiếu giao chức
vụ
Đại Tiết Chế cho ông.
Tiết chế là Tư Lệnh,
Theo cách hiểu thông
thường.
Ông đem quân thủy bộ
Ra trấn giữ biên
cương.
Sau lần đầu thắng giặc
Ông được đức vua Trần
Phong Quốc công Tiết
chế,
Thống lĩnh cả ba quân.
Là vị tổng tư lệnh,
Năm tám tư, mùa đông,
Ông cho duyệt quân ngũ
Bến Hàng Than, sông
Hồng.
Rồi bài “Hịch tướng
sĩ”,
Một đệ nhất hùng văn,
Được ông đọc dõng dạc
Trước toàn bộ ba quân.
Chỉ một năm sau đó,
Quân Nguyên sang đánh
ta.
Kể từ lần thứ nhất,
Hăm bảy năm trôi qua.
Đường bộ và đường
thủy,
Hai mũi chúng tấn
công.
Đường bộ từ phía Bắc,
Đường thủy từ phía
đông.
Từ Nghệ An, Thanh Hóa,
Chúng còn vòng đánh
ra.
Để bảo toàn lực lượng,
Cân nhắc địch và ta,
Trần Hưng Đạo quyết
định
Tạm rút khỏi Thăng
Long,
Làm vườn không nhà
trống,
Quân và dân một lòng.
Vào tháng Năm năm ấy,
Từ căn cứ Thiên
Trường,
Ông đánh trận Hàm Tử,
Rồi Tây Kết, Chương
Dương...
Đội quân Nguyên hùng
mạnh,
Như đám mây âm u,
Bị quân Trần quét
sạch,
Xua hết bóng quân thù.
Năm Một Hai Tám Bảy
Quân Nguyên lại đánh
ta,
Hai năm sau lần trước,
Giờ là lần thứ ba.
Đoàn thuyền lương quân
địch
Bị diệt ở Vân Đồn.
Hay tin, Thoát Hoan
sợ,
Rút chạy, vãi linh
hồn.
Trần Hưng Đạo cho lính
Chốt giữ cửa Bạch
Đằng.
Sau Vân Đồn, binh lính
Khí thế đang rất hăng.
Tháng Tư năm Tám Tám,
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi
Bị Đại Việt phá sạch,
Lương thực chẳng còn
gì.
Tướng Thoát Hoan nghe
thế,
Liền vội vã rút về,
Chui ống đồng mà rút,
Thật nhục nhã, ê chề.
*
Năm Một Hai Tám Chín,
Vua luận công, biểu
dương,
Rồi phong Trần Hưng
Đạo
Là Hưng Đạo Đại vương.
Ông lui về Vạn Kiếp
An hưởng nốt tuổi già,
Nơi ông được phong ấp,
Cách Chí Linh không
xa.
Tháng Sáu năm Canh Tý,
Tức Một Ba Không
Không,
Ông lâm bệnh, ốm nặng,
Đích thân Trần Anh
Tông
Cùng nhiều đại quan
khác
Về thăm hỏi tận nơi.
Nhưng hai tháng sau đó
Ông lặng lẽ qua đời.
Ông dặn con khi chết,
Hãy hỏa táng xác ông,
Đựng cốt trong lọ sứ,
Chôn giữa các gốc
thông
Trong góc vườn An Lạc.
Chôn rồi, phủ đất lên,
Lại trồng cây như cũ,
Thật khéo và tự nhiên
Để trường hợp, nếu
muốn,
Người của các đời sau
Không thể nào đoán
biết
Mộ ông chôn ở đâu.
Ông được dân cả nước
Tôn là Đức Thánh Trần,
Lập đền thờ cúng
viếng,
Hương khói đều quanh
năm.
TRUYỆN
VỀ TRẦN HƯNG ĐẠO
1
Năm Một Hai Ba Bảy,
Trần Thủ Độ bỗng nhiên
Ép cha ông, Trần Liễu,
Nhường vợ là Thuận
Thiên
Cho chú ông, Trần
Cảnh,
Lúc ấy ngự ngai vàng.
Mà Thuận Thiên công
chúa
Là chị Lý Chiêu Hoàng.
Với cái thai ba tháng,
Thuận Thiên thành vợ
vua,
Dẫu vua không đồng ý,
Cứ đòi bỏ lên chùa.
Trần Liễu thì uất ức,
Dấy binh nhưng bất
thành.
Thủ Độ tha không giết,
Nhờ vua xin cho anh.
Trần Liễu tìm người
giỏi
Làm thầy dạy con trai,
Tức là Trần Hưng Đạo,
Mong văn võ toàn tài.
Trước khi chết, ông
dặn:
“Con hãy cố vì cha
Mà lấy cả thiên hạ,
Thế mới đẹp lòng ta.”
Tức là ý ông dặn
Con tiếm ngôi về sau.
Hưng Đạo không muốn
thế,
Nhưng ghi nhớ trong
đầu.
Khi đã nắm toàn bộ
Quyền lực vào tay
mình,
Ông giả đò ướm hỏi
Thân tín trong triều
đình.
Yết Kiêu và Dã Tượng
Nói là điều không nên.
Ông gật đầu khen ngợi,
Còn thưởng họ nhiều
tiền.
Ông hỏi cả con trưởng
Và con thứ điều này.
Người con trưởng phản
đối.
Anh con thứ khen hay.
Lập tức ông rút kiếm
Định chém đầu anh ta,
Bảo là phường nghịch
tặc,
Không cho nhận là cha.
Rồi lệnh: khi ông
chết,
Đậy nắp quan tài xong,
Mới cho anh con thứ
Được đi vào viếng ông.
*
Theo sử cũ ghi lại
Trần Quang Khải và ông
Có mối tư thù nhỏ
Vẫn canh cánh trong
lòng.
Trong cuộc chiến lần
một,
Trần Thánh Tông cầm
quân,
Tể tướng Trần Quang
Khải
Đi hộ giá vua Trần.
Thượng hoàng thì có ý
Khi Hưng Đạo ở nhà
Phong ông chức Tể
tướng
Nhân Quang Khải đi xa.
Trần Hưng Đạo vội vã
Cúi đầu xin không
nghe,
Nói rằng những việc ấy
Chờ Tể tướng quay về.
Một hôm, Trần Hưng Đạo
Đi thuyền tới Thăng
Long,
Trần Quang Khải nghe
tiếng,
Xuống thuyền chơi với
ông.
Quang Khải vốn sợ tắm,
Hai người ăn uống
xong,
Hưng Đạo tự cởi áo
Rồi kỳ lưng cho ông.
“Nhờ bác thăm thuyền
chiến,
Tôi may mắn hôm nay
Được tắm cho Tể tướng.
Phải ghi nhớ ngày
này!”
Trần Quang Khải cúi
tạ:
“Được Quốc công kỳ
lưng,
Thật là diễm phúc lớn,
Xin mở tiệc ăn mừng.”
*
Sử cũ cũng chép việc
Con trai Hưng Đạo
vương
Lấy công chúa Thiên
Thụy,
Thế mà trái đạo
thường,
Trần Khánh Dư, tướng
giỏi,
Lại thông dâm với
nàng,
Khiến vua phải xuống
chiếu
Đuổi về núi Phượng
Hoàng.
Vậy mà khi Mông Cổ
Đánh Đại Việt lần ba,
Hưng Đạo quên chuyện
cũ,
Cho vị tướng tài ba
Ra trấn thủ biên giới.
Trần Khánh Dư lập
công,
Góp phần làm chiến
thắng,
Suốt đời kính phục
ông.
Hơn thế, Trần Hưng
Đạo,
Đã chọn Trần Khánh Dư
Viết lời tựa cho cuốn
“Vạn Kiếp bí truyền
thư”.
*
Năm Một Hai Tám Mốt,
Vua Nguyên sai Sài
Xuân
Đi sứ sang Đại Việt.
Thằng này láo, có lần
Cứ ngồi trên lưng ngựa
Đi qua cửa Dương Minh.
Hắn còn dùng roi cứng
Quất vào đầu vệ binh.
Tể tướng Trần Quang
Khải
Đến chào hắn, vậy mà,
Bất chấp cả nghi lễ,
Hắn nằm khểnh, không
ra.
Hay tin, Trần Hưng
Đạo,
Mặc áo vải, cạo đầu,
Đi thẳng đến quán sứ
Xem binh tình ra sao.
Thế mà lạ, lập tức
Hắn đứng dậy, cúi mình
Lễ phép mời uống nước,
Đàm đạo khá thân tình.
Một thằng hầu của hắn
Cầm mũi tên, đứng sau,
Chọc vào Trần Hưng Đạo
Đến chảy cả máu đầu.
Nhưng ông vẫn bình
thản,
Nét mặt không đổi
thay.
Lúc về, Sài Xuân tiễn,
Còn nhắc mãi chuyện
này.
9
CÁC DANH TƯỚNG ĐỜI
TRẦN
Hôm nay, như đã hứa,
Ông kể về hai người,
Hai danh tướng lỗi
lạc,
Sống mãi trong lòng
người.
Đó là Trần Bình Trọng,
“Thà làm quỉ nước Nam
Hơn làm vương đất
Bắc”.
Quyết chết, không đầu
hàng.
Người thứ hai ông kể
Là một người hiền minh
-
Tể tướng Trần Quang
Khải,
Sử sách mãi lưu danh.
Còn nhiều anh hùng
khác
Ở triều đại nhà Trần.
Các cháu cứ đợi đấy,
Có dịp, ông kể dần.
TRẦN
BÌNH TRỌNG (1259 – 1285)
Danh tướng Trần Bình
Trọng,
Trong kháng chiến lần
hai
Chống Nguyên Mông xâm
lược,
Đã đem hết sức tài
Bảo vệ hai chủ tướng
Là Thái Tông, Thánh
Tông,
Rồi bị giặc bắt sống,
Son sắt một tấm lòng.
Lần ấy giặc Mông Cổ
Đem năm mươi vạn quân
Chia làm hai mũi lớn
Cùng tấn công nhà
Trần.
Sau trận đầu thất bại,
Tiết chế Hưng Đạo
vương
Quyết định phải tạm
rút
Về căn cứ Thiên
Trường.
Ông giao Trần Bình
Trọng
Một nhiệm vụ nặng nề:
Phải chốt giữ Thiên
Mạc
Và các khu liền kề,
Để cầm chân quân địch,
Và giúp hai vua Trần
Cùng chỉ huy kháng
chiến,
Rút bí mật, an toàn.
Thoát Hoan sai tướng
giỏi
Là Khoan Triệt, Lý
Hồng,
Đem tinh binh truy
đuổi,
Cả đường bộ, đường
sông.
Chính ở bãi Thiên Mạc,
Huyện Khoái Châu, Hưng
Yên,
Ông đã cầm chân giặc
Liên tục mấy ngày
liền.
Do vậy, giặc mất dấu
Đường rút của vua
Trần.
Ta bảo toàn lực lượng
Để phản công khi cần.
Tuy nhiên, trong trận
ấy,
Thế giặc mạnh và đông,
Quân ta dần đuối sức,
Giặc bắt sống được
ông.
Chúng tìm cách mua
chuộc
Để ông khai việc binh.
Ông nhất quyết không
chịu,
Còn giục chúng giết
mình.
Trần Bình Trọng lần ấy
Để lại cho đời sau
Một câu nói nổi tiếng,
Rằng thà bị chém đầu,
Thà nước Nam làm quỉ
Còn hơn được làm vương
Ở nước giặc phương
Bắc.
Một khí phách quật
cường.
Biết không thể khuất
phục,
Cuối cùng chúng giết
ông,
Năm ông hăm sáu tuổi.
Xác quẳng xuống dòng
sông.
*
Dòng dõi Trần Bình
Trọng
Là từ Lê Đại Hành,
Sinh Hà Nam, nhưng gốc
Huyện Thọ Xuân, xứ
Thanh.
Ông xuất thân quí tộc.
Sử chỉ nói vợ ông
Là công chúa Thụy Bảo,
Trước có một đời chồng.
Con ông thành hoàng
hậu,
Mẹ vua Trần thứ năm,
Tức Minh Tông hoàng
đế,
Có đức và có tầm.
Tài liệu sử cho biết
Rằng tướng Lê Phụ
Trần,
Nhờ có công chống
giặc,
Trần Thái Tông ban ân
Bằng cách gả Chiêu
Khánh,
Tức vợ vua, cho ông,
Sau sinh Trần Bình
Trọng.
Đúng là thật lòng
vòng.
Dù con ai chăng nữa,
Thì ông cũng là người
Nêu tấm gương trung
liệt
Về lẽ sống ở đời.
TRẦN
QUANG KHẢI (1241 – 1294)
Ông là một quí tộc,
Một đại thần nhà Trần,
Làm đến chức Tể tướng,
Đánh quân Nguyên ba
lần.
Trần Thái Tông là bố,
Mẹ là Lý Ngọc Oanh.
Trong nhà, ông phải
gọi
Trần Thánh Tông là
anh.
Một lần, khi còn nhỏ,
Ông ốm nặng, Thái Tông
Để áo bào, gươm báu
Cạnh giường bệnh của
ông,
Và nói: “Hãy khỏi
bệnh.
Nếu khỏi, ta sẽ trao,
Hai thứ này quí giá -
Gươm báu và áo bào.”
Lần ấy, ông khỏi bệnh,
Quả thật vua cho ông
Chiếc áo ngài đang
mặc,
Còn gươm báu thì
không.
Trần Quang Khải từ bé
Được phong Chiêu Minh
Vương,
Lê Văn Hưu dạy dỗ,
Thông tuệ bậc khác
thường.
Năm Một Hai Năm Tám,
Vua cho cưới Phụng
Dương,
Em gái nuôi, sau đó
Ban ấp ở Thiên Trường.
Năm Một Hai Bảy Mốt
Ông đã là đại thần,
Chức Tướng quốc Thái
úy,
Cao hơn Đức thánh
Trần.
Khi quân Nguyên xâm
lược,
Ông theo lệnh vua cha,
Vào Nghệ An trấn giữ
Không cho giặc đánh
ra.
Rồi ông lập công lớn
Trận đánh bến Chương
Dương.
Vua xếp ông cao nhất
Khi ban thưởng, tuyên
dương.
Ông và Trần Hưng Đạo,
Theo sử, có bất hòa.
Điều ấy rất nghiêm
trọng
Với hưng vong nước
nhà.
Hưng Đạo, như ta biết,
Đã chủ động làm hiền,
Kỳ lưng cho Quang
Khải,
Khi ông xuống thăm
thuyền.
Sau lần ấy, hai vị
Bỏ thù riêng, cùng
nhau
Gắng công lo việc
nước,
Hai vị quan hàng đầu.
Trần Quang Khải nổi
tiếng
Còn là một thi nhân.
Ông viết khi rỗi rãi,
Đẹp ý, đẹp cả vần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét