Thứ Ba, 24 tháng 3, 2020

Việt Nam Lược Sử Diễn Ca



Việt Nam Lược Sử Diễn Ca 
LÝ CÔNG UẨN (974 – 1028)
VÀ ĐỜI NHÀ LÝ

Thời Đinh - Lê, ruộng đất
Thuộc sở hữu xã, làng.
Dân chia đều cày cấy,
Nộp thuế vua, quĩ làng.

Đại Cồ Việt lúc ấy
Có nhiều xưởng thủ công,
Đúc tiền, rèn vũ khí,
Làm dụng cụ nghề nông.

Ngoài ra còn nghề giấy,
Nghề dệt lụa, gốm sành.
Buôn bán đã phát triển
Nhờ tiền đồng lưu hành.

Đạo Phật được truyền bá
Chùa mọc lên nhiều nơi.
Các sư mở lớp học
Dạy chữ cho mọi người.

Nho Giáo cũng xuất hiện,
Phần lớn ở lớp trên.
Dân đã dùng chữ Hán,
Nhưng tiếng nói giữ nguyên.

Lê Tiên Hoàn Hoàng đế
Mất Một Không Không Năm.
Con là Lê Long Đĩnh,
Lên ngôi, thành “Vua Nằm”.

Sở dĩ có tên ấy
Là do ông ta lười
Thường nằm khi triều chính,
Hỗn láo và khinh người.

Bốn năm sau ông chết.
Lý Công Uẩn lên thay.
Bây giờ ông sẽ kể
Về vị vua hiền này.

          *
Một trong những vua lớn
Của nước Việt Nam ta
Là vua Lý Thái Tổ,
Vẻ vang sử nước nhà.

Ông lập nên triều Lý
Kéo dài những chín đời,
Mở đầu nước Đại Việt,
Được lòng dân, lòng trời.

Ông sửa sang việc nước,
Dùng chính sách “thân dân”,
Sưu thuế nhẹ và ít,
Còn miễn thuế nhiều lần.

Ông đề cao đạo Phật,
Xây chùa chiền, đắp đê,
Còn cho quan sang Tống
Thỉnh kinh Tam Tạng về.

Ông là người viết chiếu
Dời đô về Thăng Long,
Giúp đất nước phát triển
Theo thế của con rồng.

*
Ông người châu Cổ Pháp
Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Mẹ họ Phạm, ba tuổi,
Kháu khỉnh và thông minh,

Trụ trì chùa Cổ Pháp
Nhận ông làm con nuôi,
Đưa vào chùa dạy dỗ,
Học Phật, học làm người.

Năm ông lên bảy tuổi,
Một thiền sư lừng danh
Có tên là Vạn Hạnh
Nhận làm học trò mình.

Ông được sư Vạn Hạnh
Cho vào hầu vua Lê.
Vua Lê rất yêu quí,
Luôn chăm sóc, vỗ về.

Lớn lên, ông phục vụ
Trong cung Lê Đại Hành,
Làm đến Chỉ Huy Sứ
Bảo vệ Hoa Lư thành.

Vua còn gả công chúa
Là Lê thị cho ông,
Sinh ra Lý Phật Mã,
Rất được vua hài lòng.

Khi vua Đại Hành chết,
Triều đình thật rối ren.
Tiếm ngôi, Lê Long Đĩnh
Thành ông vua yếu hèn.

Rồi Lê Long Đĩnh chết,
Ông được tôn lên thay
Nhờ tướng Đào Cam Mộc
Và Vạn Hạnh, sư thầy.

Triều Lý được thiết lập.
Cung đình lại bình yên,
Quyền lực được củng cố,
Yên vui khắp mọi miền.

Vậy là Lý Công Uẩn,
Ở tuổi ba mươi lăm,
Thành vua Lý Thái Tổ,
Trị vì mười chín năm.

Ông chấn chỉnh chế sắc,
Đặt niên hiệu Thuận Thiên,
Cất nhắc các quan lại,
Toàn xứng đáng, người hiền.

Thấy đất Hoa Lư hẹp,
Toàn núi cao, khe sâu,
Không tiện làm đô hội,
Khó phát triển dài lâu,

Ông xuống chiếu di chuyển
Kinh đô về Đại La,
Mở đầu kỷ nguyên mới
Cho lịch sử nước nhà.

Năm Thuận Thiên thứ nhất,
Một Nghìn Không Trăm Mười,       
Đến đất kinh đô mới,
Vua ngước nhìn lên trời

Liền giật mình, chợt thấy
Thấp thoáng bóng con rồng
Đang bay lên, tuyệt đẹp,
Nên đổi thành Thăng Long.

Quan hệ với nước Tống,
Ông khôn khéo nhún nhường,
Vua Tống không sinh sự,
Lại còn phong sắc vương.

Năm Thuận Thiên mười một,
Ông chinh phạt Chiêm Thành,
Giành được thắng lợi lớn,
Thanh thế cũng tăng nhanh.

Vua Chiêm và Chân Lạp
Sang triều cống hàng năm.
Việc bang giao yên trị,
Dân yên ổn làm ăn.       

Năm Một Không Hai Tám
Lý Thái Tổ băng hà,
Hưởng thọ năm lăm tuổi,
Phật Mã lên thay cha.

Ông là vị vua tốt,
Hiệu là Lý Thái Tông,
Một vị tướng tài giỏi,
Chuyên đánh Tây dẹp Đông.

Ông xây Chùa Một Cột,
Đào Kênh Lẫm, Thần Phù,
Đối xử rất nhân đạo
Với những người bị tù.

Ông cải cách pháp luật,
Theo hướng nhẹ thì tha,
Soạn Bộ luật Hình sự
Đầu tiên của nước nhà.

*
Khi Lý Thái Tông chết,
Lý Thánh Tông lên thay.
Lịch sử luôn ghi nhớ
Công lao vị vua này.

Vua thứ ba nhà Lý,
Ông là vị minh quân,
Đặt quốc hiệu Đại Việt,
Yêu nước và thương dân.

Ông cho xây Văn Miếu,
Chăm lo việc học hành,
Dám đem quân đánh Tống,
Lấy ba châu Chiêm Thành.

Ba châu ấy rất lớn,
Thuộc vùng đất bây giờ
Là Quảng Bình, Quảng Trị,
Mầu mỡ và nên thơ.

Xã hội luôn ổn định
Dưới triều Lý Thánh Tông.
Quả không phải hổ thẹn
Với hương hồn cha, ông.
  
4
LÝ THƯỜNG KIỆT (1019 – 1105)

Trong lịch sử dân tộc,
Đời nhà Lý, chín triều,
Đã làm được nhiều việc.
Vâng quả thật rất nhiều.

Bình Chiêm, mở lãnh thổ.
Đánh giặc Tống thành công.
Đạo Phật phát triển mạnh.
Dời đô về Thăng Long.

Đổi tên nước Đại Việt
Năm Một Không Năm Tư.
Vua đứng đầu nhà nước,
Công tâm và nhân từ.

Một chiếc chuông rất lớn
Đặt trước điện Long Trì.
Dân oan cứ đến gõ,
Kêu bất cứ việc gì.

Nước có hăm tư tỉnh.
Quan - tri phủ, tri châu.
Chủ yếu người hoàng tộc
Hay con cái nhà giàu.

Nhà Lý ban bộ luật
Năm Một Không Bốn Ba,
Dạng như luật Hình Sự,
Đầu tiên ở nước ta.

Quân đội gồm hai loại -
Cấm quân và địa phương.
Có cả bộ cả thủy,
Rất chặt chẽ kỷ cương.

Vũ khí gồm giáo mác,
Đao kiếm và cung tên.
Có cả máy bắn đá,
Có xưởng đóng chiến thuyền.

Về ngoại giao, nhà Lý
Hòa hoãn với Bắc Phương.
Với Chiêm Thành, Đại Việt
Giữ quan hệ bình thường.

*
Giữa thế kỷ mười một,
Nhà Tống gặp khó khăn.
Nội tình đầy mâu thuẫn,
Ngân khố luôn nợ nần.

Chúng muốn đánh Đại Việt
Để giải quyết việc nhà,
Nhưng phải chịu thất bại
Trước quân và dân ta.

Bây giờ ông sẽ kể
Về vị tướng thiên tài
Đã đánh bại quân Tống.
Các cháu biết là ai?

Đó là Lý Thường Kiệt,
Một con người tài ba,
Một anh hùng dân tộc
Trong lịch sử nước ta.

*
Ông là tướng nhà Lý,
Đồng thời một hoạn quan,
Có công đánh quân Tống,
Giữ đất nước bình an.  

Tên thật là Ngô Tuấn,
Hậu duệ Ngô Quyền xưa,
Ông quê huyện Quảng Đức,
Thuộc Gia Lâm bây giờ.         

Bố ông làm Thái úy
Đời vua Lý Thái Tông,
Được vua ban quốc tính,
Do đức và do công.       

Năm Một Không Bốn Mốt,
Nhờ khôi ngô, thông minh,
Ông được làm thái giám,
Vua cho theo bên mình.

Sau ông được thăng chức
Nội thị Sảnh đô tri
Lúc mới ba lăm tuổi,
Vinh hiển và quyền uy.

Rồi sau, tiến hơn nữa,
Dưới triều Lý Thánh Tông,
Làm Kiểm hiệu Thái bảo,       
Chức quan hàng tam công.

Năm Một Không Sáu Một,
Ở Thanh Hóa, Nghệ An
Các tộc Mường quấy rối,
Vua sai ông trấn an.

Nhờ ông biết thuyết giảng,
Có lý lại có tình,
Cả năm châu, sáu huyện
Đã quy phục triều đình.

Năm Một Không Sáu Chín,
Ông đi đánh Chiêm Thành,
Bắt được vua Chế Củ,
Mở rộng đất nước mình.

*
Khi Càn Đức, bảy tuổi,
Lên ngôi báu, triều đình
Lục đục các phe cánh,
Đất nước chẳng an bình.

Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan phu nhân,
Nhờ thế mà mọi chuyện
May cũng ổn định dần.

*
Tể tướng Tống, An Thạch,
Năm Một Không Bảy Năm,
Xui vua đánh Đại Việt,
Một quyết định sai lầm.

Thấy trước âm mưu giặc,       
Không đợi giặc tấn công,
Lý Thường Kiệt chủ động
Cả đường bộ, đường sông

Tiến quân vào đất giặc,
Cùng Tôn Đản tướng quân,
Vượt qua các thành ải,
Chiếm châu Liêm, châu Khâm.

Năm Một Không Bảy Sáu,
Hai cánh quân gặp nhau,
Cùng bắt đầu vây hãm,
Quyết hạ thành Ung Châu.

Đó là một thành lớn,
Ngày nay là Nam Ninh,
Tướng Tô Giám cố thủ
Cùng ba vạn tinh binh.

Tướng giặc Trương Thủ Tiết
Đem quân đến giải vây,
Bị ông chém tại trận.
Sử Tàu chép trận này.

Cuối cùng Lý Thường Kiệt
Phải dùng kế hỏa công,
Bắn các chất dễ cháy
Như bùi nhùi, nhựa thông.

Ông còn bắt dân Tống
Chồng bao cát thật cao
Để quân lính Đại Việt   
Vượt tường thành xông vào.

Thành Ung Châu thất thủ
Vào ngày thứ bốn hai.
Tướng Tô Giám tự tử,
Lửa ngùn ngụt trong, ngoài.

Sáu vạn người bị giết.
Cả Khâm Châu, Liêm Châu,
Con số là mười vạn.
Một thất bại thật đau.

Làm cỏ ba châu ấy,
Nhiều cảnh cũng đau lòng,
Lý Thường Kiệt ra lệnh
Quay trở về Thăng Long.

Ông bắt nhiều dân Tống
Cùng đi theo với mình
Rồi cho vào khai khẩn
Vùng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình.        

*
Tháng Ba năm Bảy Sáu,
Quân Tống lại đánh ta,
Xui Chiêm Thành, Chân Lạp
Từ phía Nam đánh ra.

Nhưng rồi hai nước ấy
Sợ, không dám xuất quân.
Quân Tống gồm mười vạn,
Hai mươi vạn phu dân.

Hay tin, Lý Thường Kiệt
Liền cấp tốc đề phòng,
Lập các chốt phòng ngự
Cả đường bộ, đường sông.

Ông cho xây chiến lũy
Bên cửa ải Chi Lăng
Ngăn quân Tống tràn xuống
Từ phía Bắc Cao Bằng.

Tuyến phòng thủ đường thủy
Ông lập ở sông Cầu,
Xưa là sông Như Nguyệt,
Chỗ sông hẹp, nước sâu.

Nhờ hai phòng tuyến ấy,
Giặc Tống bị kìm chân,
Quân mười phần chết bảy,
Ý chí cũng nguội dần.

Biết giặc đang thế bí,
Ông sai sứ “nghị hòa”.
Quân Tống liền đồng ý.
Thoát được nạn can qua.       

*
Năm Một Một Không Bốn
Và Một Không Bảy Năm,
Hai lần Lý Thường Kiệt
Phải đem quân bình Nam.

Cả hai lần đều thắng,
Chưa nói đến lần đầu
Khi bắt được Chế Củ,
Đổi vua lấy ba châu.

Ông được phong Thái úy,
Bậc khai quốc công thần,
Một anh hùng dân tộc,
Sống mãi cùng nhân dân.

Tháng Sáu năm Ất Dậu,
Tức Một Một Không Năm,
Ở tuổi tám mươi bảy,
Lý Thường Kiệt từ trần.

Ông là vị thái giám
Đầu tiên ở nước ta
Có công với dân tộc,
Giúp bảo vệ sơn hà.      

Theo truyền thuyết kể lại,
Trước ba quân, bấy giờ,
Ở phòng tuyến Như Nguyệt,
Ông đã đọc bài thơ.

Bài thơ như lời hịch,
Như một bản tuyên ngôn
Về độc lập dân tộc,
Sống mãi cùng nước non.
         
*
Bài thơ tứ tuyệt ấy
Vang vọng mãi lòng người.
Bốn câu thơ ngắn gọn
Xuyên suốt đã bao đời.

Nước Nam người Nam ở.
Trời định thế từ lâu.
Đừng tìm cách xâm phạm,
Kẻo lại bị đánh đau.

Không gì đúng hơn thế.
Cũng không gì hay hơn.
Đó là lời cảnh cáo
Nhằm bảo vệ giang sơn.

Đến nay vẫn chưa biết
Ai viết bài thơ này.
Điều ấy không quan trọng.
Quan trọng là nó hay.

Nó nói đúng khí phách
Của con cháu Lạc Rồng,
Bản Tuyên ngôn Độc lập,
Lời thề với non song.

Thái úy Lý Thường Kiệt
Đã đọc vang bài thơ
Trong đền thờ Trương Hống,
Huyện Yên Phong bây giờ.

Tuyến phòng thủ Như Nguyệt
Đứng sừng sững bên sông.
Binh sĩ nghe tướng đọc
Mà thấy náo nức lòng.

Rồi vạn người như một
Tiến lên theo tiếng thơ. 
Khiến quân Tống bỏ chạy,
Ô nhục tận bây giờ.

Nhà thơ không xung trận
Trong trận ấy bên sông,
Nhưng với bài tứ tuyệt
Đã góp phần lập công.

*
Lúc nãy ông nhắc đến
Hai từ lạ - “hoạn quan”.
Hoạn quan Lý Thường Kiệt.
Hay là Ngài bị oan?

Vấn đề chưa ngả ngũ,
Được tranh cãi xưa nay.
Tạm thời ông chỉ nói
Đại khái như thế này.

*
Theo sử, Lý Thường Kiệt
Vốn là một hoạn quan.
Một từ không đẹp lắm,
Khiến thiên hạ luận bàn.        

Nhiều nhà nho khinh bỉ
Khi nhắc đến tên ông,
Thậm chí có đánh giá
Sai lệch và bất công.     

Với ta, Lý Thường Kiệt
Là khai quốc công thần,
Người anh hùng dân tộc,
Sống vì nước, vì dân,

Cho nên không quan trọng
Ông là người thế nào.
Dẫu vậy, thử tìm hiểu
Vấn đề này xem sao.

*
Xưa nay trong lịch sử
Từng có nhiều hoạn quan
Làm khuynh đảo chính sự,
Tàn bạo và mưu gian.

Xưa nhất phải kể đến
Tên hoạn quan Triệu Cao,
Từng giữ chức tể tướng
Thời nhà Tần năm nào.

Khi Tần Thủy Hoàng chết,
Hắn giả di chiếu vua,
Lập con thứ Nhị Thế
Thay con trưởng Phù Tô.

Hai anh em tranh chấp,
Nên cơ đồ nước Tần
Lọt vào tay nhà Hán,
Làm ly tán lòng dân.     

Về phần mình, nhà Hán
Có họa mười hoạn quan
Thao túng cả triều chính,
Nên vận nhà Hán tàn,

Để gian thần Đổng Trác
Nắm hết mọi quyền hành,
Mở đường cho Tam Quốc
Dùng dằng thế phân tranh.

Trường hợp Lý Thường Kiệt
Của Đại Việt chúng ta,
Dẫu hoạn quan, tuy vậy,
Là hiền tài, khác xa.

Vì sao Lý Thường Kiệt
Lại trở thành hoạn quan?
Có khá nhiều giả thuyết
Được đưa ra luận bàn.

Một - sinh ra đã thế.     
Điều này rất khó tin,
Vì ông, như ta biết,
Từng có một mối tình

Với nàng Dương Hồng Hạc,
Sau là vợ Thái Tông.
Khi biết ông bị hoạn,
Nàng dứt tình với ông.

Hai - hay Lý Thường Kiệt
Tự hoạn để lấy tiền?
Lý Thái Tông, nghe nói,
Thấy mặt ông xinh, hiền,

Nên hứa nếu tự hoạn
Để trở thành hoạn quan
Theo hầu vua sớm tối,
Vua thưởng ba vạn quan.

Điều này khó có thật.
Là con một công hầu,   
Tuy bố mẹ mất sớm,
Nhưng nhà ông khá giàu.

Nên không thể có chuyện
Ông bán mình vì tiền.
Với một nhân cách lớn,
Việc ấy là đê hèn.

Lại có người còn nói
Tự hoạn để tiến thân,
Hoặc do vua trừng phạt
Vì tội dám khi quân.

Còn một số thuyết nữa,
Nhưng tất cả xem ra
Không hoàn toàn thuyết phục,
Trừ một thuyết, đó là

Khi vua tuyển thái giám,
Người ta đánh thuốc mê,
Hoạn ông ngoài ý muốn,
Một nỗi đau ê chề.

Chắc kẻ làm việc ấy
Có liên quan ít nhiều
Đến nàng Dương Hồng Hạc,
Một người ông từng yêu.

Không ngẫu nhiên sau đó,
Đúng vào lúc gian nguy,
Lý Thường Kiệt ủng hộ
Phe Ỷ Lan Nguyên phi.

Giả thuyết là giả thuyết,
Còn chưa rõ thế nào.
Dẫu ông là quan hoạn,
Việc ấy cũng chẳng sao.

Nó không thể che lấp
Tài đức và công danh.
Ông, vị tướng lỗi lạc
Phá Tống, bình Chiêm thành.

*
Thế là ông kể hết
Phần chuyện của hôm nay.
Giờ đến phần cổ tích.
Ông sẽ kể chuyện này.

Đây không phải cổ tích,
Mà truyền thuyết dân gian,
Về một người có thật,
Là Nguyên phi Ỷ Lan.


NGUYÊN PHI Ỷ LAN (1044 – 1117)

Có một truyền thuyết đẹp,
Đúng hay không, bàn sau.
Và theo truyền thuyết ấy,
Có một nàng hái dâu.

Nàng, cô thôn nữ ấy,
Rất xinh đẹp, tất nhiên.
Nết na và chăm chỉ,
Không thể không dịu hiền.       

Một hôm, đang dưới bãi
Thì xe vua đi qua.
Ấy là vua tìm vợ,
Vì vua đã, đang già.

Khỏi nói, các cô gái
Tranh nhau đứng trước ngài.
Họ thích làm hoàng hậu
Và quyết không nhường ai.

Thế mà thôn nữ ấy,
Cô gái đang hái dâu,
Vẫn luôn tay, cứ hái,
Thậm chí không ngửng đầu.

Vừa hái dâu vừa hát,
Mà cô hát rất hay,
Đến mức vua dừng lại,
Nghe, và lòng say say.

Từ tò mò, rồi thích,
Rồi yêu cô gái nghèo,
Vua cho người cung kính
Rước kiệu cô về triều.

Rồi lấy nàng làm vợ,
Rồi gì gì, gì gì,
Cuối cùng cô gái ấy
Thành Ỷ Lan chính phi.

Ỷ Lan, vì hôm đó
Cô đứng tựa cây lan.
Vừa hồn nhiên, vừa đẹp.
Cũng có người bảo gian.

Có một nhà viết sử
Vừa viết sách về cô,
Nói bố cô lúc ấy
Làm quan ở kinh đô.

Có thể ông biết trước
Việc vua về vùng ông
Nên sai con phục sẵn,
Như phục chim vào lồng.

Nên cô mới ra bãi
Vờ chăm chú hái dâu,
Cố tình không chú ý,
Cố tình không ngửng đầu.

Vì biết có chú ý
Cũng chẳng ăn thua gì.
Vậy phải làm gì đấy
Thật lãng mạn, ly kỳ.

*
Ngoài đời, bà quả thật
Chuyên trồng dâu nuôi tằm.
Tên là Lê Thị Yến,
Quê ở huyện Gia Lâm.

Vua đã bốn mươi tuổi
Mà chưa có con trai,
Nên gặp được Thị Yến
Vừa xinh vừa có tài

Liền lấy bà làm vợ,
Xây riêng một cung to,
Nay là đình Yên Thái,
Cách không xa Bờ Hồ.

Bà sinh hai hoàng tử
Cho vua Lý Thánh Tông.
Con đầu là Càn Đức,
Sau thành Lý Nhân Tông.

Thế là vua mãn nguyện,
Được như ước, còn gì?
Nên bà được cất nhắc
Thần phi, rồi Nguyên phi.

*
Năm Một Không Sáu Chín
Vua đi đánh Chiêm Thành.
Đem mọi việc quốc sự
Giao cho bà điều hành.

Vua đánh mãi không thắng,
Đang có ý lui quân,
Thì biết tin hoàng hậu
Ở Thăng Long được dân

Và các quan kính trọng
Vì các việc triều đình
Đều được bà làm tốt.
Vua xấu hổ, giật mình.

Đàn bà mà giỏi thế,
Vậy đàn ông thì sao?
Thế là vua quyết định
Lại tung quân đánh vào.

Lần ấy vua thắng lớn,
Lấy thêm được ba châu,
Bắt vua Chiêm, Chế Củ,
Phải uốn gối, cúi đầu.    

*
Tháng Giêng năm Nhâm Tý,
Tức Một Không Bảy Hai,
Thánh Tông lâm bệnh chết,
Lý Nhân Tông lên ngai.

Càn Đức mới sáu tuổi,
Còn nhỏ, chẳng biết gì,   
Nên xẩy ra cuộc chiến
Giữa hai bà Hoàng phi.

Một bên là Thái hậu
Đang thực nắm quyền hành,
Nhờ có sự ủng hộ
Của Thái sư Đạo Thành.

Còn bên kia, yếu thế,
Là Ỷ Lan Thái phi.
Làm mẹ vua còn nhỏ,
Không có quyền hành gì.

Sau được Lý Thường Kiệt
Đứng hẳn về phe mình,
Ỷ Lan giành thế thắng.
Quên hết cả nghĩa tình,

Bà bắt con, Càn Đức,
Chôn Thái hậu họ Dương,
Bảy mươi sáu thị nữ
Cùng Thánh Tông, thật thương.

Còn Thái sư họ Lý
May không bị giết oan,
Giáng chức thành Tả gián,
Đi coi châu Nghệ An.

Vậy là một thôn nữ,
Hiền dịu và xinh tươi,
Vì quyền lực, đã giết
Bảy mươi bảy con người.

*       
Nắm toàn quyền triều chính,
Từ Ỷ Lan Thái phi,
Thành Ỷ Lan Thái Hậu.
Sắp tới bà làm gì?

Lần thứ hai nhiếp chính
Năm Một Không Bảy Tư,
Bà lại mời ra Bắc
Lý Đạo Thành Thái sư.

Bà quên thù hận cũ,
Giao trọng trách cho ông,
Để cùng Lý Thường Kiệt
Lo gánh vác việc công.

Nhờ thế mà đất nước
Được ổn định dài lâu,
Bình Chiêm rồi phá Tống -
Việc này bà công đầu.              

Sử cũ còn ghi lại,
Năm Một Một Không Ba,
Bà lấy tiền công quĩ
Và một phần tiền bà

Để chuộc các cô gái
Bị bán cho nhà giàu,
Tìm đàn ông góa vợ
Để họ thành cô dâu.       

Vốn là người mộ Phật,
Là người tu tại gia,
Bà xây nhiều chùa, miếu,
Nhất là khi về già.

Có người nói, bởi lẽ
Lòng bà không thảnh thơi,
Hối hận vì đã giết
Bảy mươi bảy con người.         

Rất có thể như thế,
Cũng có thể là không.
Lịch sử rất sòng phẳng:
Khen khi bà có công.

Ngược lại, khi có tội,
Phải mang tiếng với đời.
Không ai có thể thoát
Luật trời và luật người.

Bảy mươi tuổi, bà chết,
Ba hầu gái chôn theo,
Những người bà yêu mến,
Tức là những người nghèo.      


5
TRẦN THỦ ĐỘ (1194 - 1264)

Xã hội ta thời Lý,
Hơn hai thế kỷ dài,
Có nhiều sự kiện lớn,
Nhiều nhân vật hiền tài.

Từ vua Lý Thái Tổ
Đến vua Lý Chiêu Hoàng,
Chín đời vua cai trị
Với nhiều trang sử vàng.

Bình Chiêm rồi đánh Tống,
Dời đô về Thăng Long,
Xây dựng Quốc Tử Giám,
Phát triển nghề thủ công.

Phật giáo rất phát triển.
Nho giáo cũng gia tăng.
Trong việc cai trị nước
Có phân cấp rõ ràng.

Năm Một Không Bảy Sáu,
Quốc Tử Giám lần đầu
Mở cửa đón vào học
Con cháu của người giàu.

Còn một năm trước đó
Khóa thi tuyển đầu tiên
Được nhà vua cho mở
Để kén chọn người hiền.

Kiến trúc và điêu khắc
Rất phát triển thời này -
Văn Miếu, Chùa Một Cột…
Tồn tại đến ngày nay.

Cũng vào thời nhà Lý
Xuất hiện một dòng thơ,
Gọi là thơ Thiền, Phật,
Rất phổ biến bấy giờ.

Làm nên dòng thơ ấy
Là các sư đời thường,
Như Vạn Hạnh, Lê Thước,
Đoàn Văn Khâm, Lý Trường,

Đỗ Pháp Thuận, Từ Lộ,
Ngô Chân Lưu, Lâm Khu,
Dương Không Lộ, Lê Thuấn,
Vạn Trì bát, Kiều Phù…

Cả vua Lý Thái Tổ
Có bài thơ rất hay,
Nói ngủ, chân đạp đất,
Đầu Ngài gác lên mây.

Đêm mỏi, không dám duỗi,
Chỉ vì sợ ngủ quên
Mà đạp đổ sông núi.
Đúng khí phách người hiền.

Tuy nhiên, từ giai đoạn
Cuối thế kỷ Mười Hai,
Nhà Lý dần suy yếu.
Suốt một thời gian dài

Vua quan lo hưởng lạc
Và bòn vét của dân.
Lại hạn hán, lụt lội,
Mất mùa, dân thiếu ăn.

Dân nghèo đã nổi dậy
Ở Nghệ An, Ninh Bình.
Thái Sư Trần Thủ Độ,
Thâu tóm hết quyền binh.

Bây giờ ông sẽ kể
Về ông Thái Sư này.
Người luôn gây tranh cãi
Khi đánh giá xưa nay.

Chính ông đã êm thấm,
Chuyển từ Lý sang Trần.
Gây dựng triều đại mới.
Dẫu mang tiếng bất nhân

*
Một nhân vật lịch sử
Gây nhiều oán, nhiều ân,
Đó là Trần Thủ Độ,
Thái sư đầu triều Trần.

Cũng ông, người thực sự
Sáng lập triều đại này,
Và bốn mươi năm chẵn
Giữ chặt nó trong tay.

Nhưng ông ác hay thiện,
Chính nghĩa hay gian tà?
Điều này chưa ngả ngũ,
Dù nhiều năm trôi qua.

Ông sinh ở Lưu Xá,
Huyện Hưng Hà, Thái Bình,
Tổ tiên làm nghề cá,
Từ Đông Triều, Yên Sinh.

Nhưng đến đời ông bố
Thì giàu sang vô cùng,
Khi Hoàng Thái tử Sảm
Lấy chị Trần Thị Dung.

Sau Hoàng Thái tử Sảm
Thành vua Lý Huệ Tông.
Nhà Lý đứng vững được
Một phần cũng nhờ ông.

Năm Một Hai Hai Bốn,
Ông được phong chức danh
“Điện tiền Chỉ huy sứ”,
Chỉ huy bảo vệ thành.

Khi Trần Tự Khánh chết,
Ông là người một mình
Nắm hết mọi quyền lực,
Và công việc triều đình.

Triều Lý vào lúc ấy
Đang trên đường suy vong.
Vua ham chơi, tác tráng,
Dân bất ổn, nản lòng.

Mùa màng luôn thất bát.
Chân Lạp và Chiêm Thành
Thường quấy phá biên giới,
Lơ lửng họa chiến tranh.

Sáng suốt và khôn khéo,
Biết trông rộng, nhìn xa,
Ông nghĩ cần thay đổi,
Cho mình, cho nước nhà.

Năm Một Hai Hai Bốn,
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con gái,
Cho dù muốn hay không.

Huệ Tông lên chùa sống,
Lấy pháp hiệu Huệ Quang.
Con gái vua, bảy tuổi,
Hiệu là Lý Chiêu Hoàng.

Đó là vị vua nữ
Duy nhất của nước nhà,
Nhưng cuộc đời chìm nổi,
Ngẫm mà thương cho bà.       

Tiếp đến, Trần Thủ Độ
Đưa Trần Cảnh, cháu ông,
Vào hầu bên nữ chúa,
Rồi sau trở thành chồng.

Chỉ một năm sau đó
Chiêu Hoàng tự dâng ngai
Cho cậu chồng tám tuổi,
Yên cả trong lẫn ngoài.

Vậy là cuộc đảo chính
Đã mỹ mãn thành công,
Nhà Trần kế nhà Lý,
Hoàn toàn theo ý ông.  

Phải khen ông tài giỏi,
Thay đổi cả vương triều,
Đất nước không xáo trộn,
Máu cũng chẳng đổ nhiều.

Vì vua còn rất bé,
Ông lại nắm toàn quyền,
Dẹp loạn sứ trong nước,         
Dân chúng được bình yên.

Lần kháng chiến thứ nhất
Chống xâm lược nhà Mông,
Đại Việt giành thắng lợi
Một phần nhờ có ông.

Thế giặc lớn, vua sợ,
Mới hỏi ông, thăm dò.
“Chừng nào tôi chưa chết,
Xin bệ hạ đừng lo!”

Thái sư nói câu ấy,
Làm triều đình vững lòng,      
Trên dưới dốc toàn lực,
Giúp kháng chiến thành công.

*                 
Theo sử cũ chép lại,
Trần Thủ Độ là người
Rất công tâm, nghiêm khắc,
Khôn ngoan và hiểu đời.

Một lần vợ ông trách
Khi đi vào cấm cung
Bị lính cờ ngăn lại.
Ông nghe, giận vô cùng,

Liền gọi tên lính ấy,
Định chém đầu tức thì.
Thế mà ông không chém,
Còn khen, thật lạ kỳ.

“Tên lính này, ông nói,
Giữ đúng phép vua ban.
Lính làm thế là tốt,
Sao bà còn phàn nàn?”

Có lần, một công chúa
Xin ông cho người nhà
Một chức quan nho nhỏ.
Ông gật đầu, thế là

Khi người kia đến gặp,
Ông nói: “Anh là người
Được công chúa ưu ái,
Vậy nổi bật ở đời.

Thế thì ta xin phép
Chặt một ngón chân anh
Đánh dấu sự khác ấy.
Chắc anh cũng đồng tình.”

Anh kia nghe, sợ quá,
Liền ra về, tay không.
Từ đấy không hề thấy
Người nào đến nhờ ông.

Lại nữa, một lần nọ,
Có người tâu chân tình:
“Bệ hạ còn ít tuổi,
Thái sư nắm quyền hành,

E gây nên hậu họa.”
Thái Tông đưa người này
Đến gặp Trần Thủ Độ.
Ông nghe rồi khen hay,

Bảo ông ta nói đúng,
Không chém đầu để răn,
Mà còn ban lụa thưởng,
Khen là người trung thần.

*
Vậy là Trần Thủ Độ
Rõ ràng rất có công
Xây dựng vương triều mới,
Đánh thắng giặc Nguyên Mông.      

Nhưng nhiều người chỉ trích
Ông là người nhẫn tâm,
Độc ác, vô đạo đức.
Nói thế cũng không nhầm.

Để đề phòng hậu họa,
Ông không ngại giết người.
Giết tôn thất nhà Lý,
Một tội ác tày trời.

Chính ông ép Trần Liễu
Nhường vợ cho em trai.
Vua lấy chị dâu ruột,
Khi chị dâu có thai.

Ông bị chê thất đức
Khi giết Lý Huệ Tông,
Lấy hoàng hậu làm vợ,
Tức lấy chị họ ông.

Ông là người như thế.
Công và tội đan xen.
Thậm chí công và tội
Còn chưa rõ trắng đen.


6
CÁC VUA TRẦN

Nhà Trần thay nhà Lý
Lo củng cố quốc phòng
Và chấn hưng kinh tế,
Đặc biệt là nghề nông.

Để trao đổi hàng hóa,
Chợ mọc lên khắp nơi,
Hầu như các làng xã,
Luôn nhộn nhịp, đông người.

Nghề thủ công phát triển,
Như nghề gốm, đúc đồng,
Nghề làm giấy, rèn dũa
Các công cụ nhà nông.

Triều đình sai các lộ
Phải đào sông, đắp đê,
Khai khẩn đất hoang hóa
Ngăn nước biển bằng kè.

Biết trước họa xâm lược,
Vua bắt quân thường xuyên
Học binh pháp, luyện võ,
Sử dụng giáo, cung tên.

Thời kỳ đầu cai trị,
Các ông vua đời Trần,
Là người hiền, tài giỏi,
Lo cho nước, cho dân.

Hôm nay ông sẽ kể
Chi tiết về hai ông.
Hai ông vua tài đức -
Thánh Tông và Nhân Tông.


TRẦN THÁNH TÔNG (1240 – 1290)

Thái sư Trần Thủ Độ,
Vốn là một quyền thần,
Thu xếp sự chuyển tiếp
Từ triều Lý sang Trần.

Năm Một Hai Hai Bốn
Ông ép Lý Huệ Tông
Nhường ngôi cho con gái,
Rồi ép nàng lấy chồng.

Lấy cháu ông, Trần Cảnh.
Lý Chiêu Hoàng bấy giờ
Vừa mới lên bảy tuổi,
Trẻ con và ngây thơ.

Sau đấy ông lại ép
Nàng nhường ngôi cho chồng,
Cũng trẻ con, bảy tuổi,
Sau thành Trần Thái Tông.

Lớn lên, ông vua ấy
Là một vị vua hiền,
Người có công lãnh đạo
Cuộc chiến chống quân Nguyên.

Thái Tông và hoàng hậu
Mãi vẫn không có con.
Sợ không người nối dõi
Để ngôi báu trường tồn,

Thái sư Trần Thủ Độ
Ép vua lấy chị dâu,
Tức là vợ Trần Liễu,
Lúc ấy đang có bầu.

Rồi họ sinh Trần Hoảng,
Sau thành Trần Thánh Tông,
Một anh hùng dân tộc,
Chiến thắng giặc Nguyên Mông.

Trần Thánh Tông trị quốc
Trong vòng hai mươi năm.
Đất nước luôn thịnh trị,
Không có giặc ngoại xâm.

Ông đặc biệt chú ý
Lo cuộc sống cho dân,
Giảm phu phen, lao dịch,
Tạo điều kiện làm ăn.

Lê Văn Hưu viết sử
Theo chiếu lệnh của ông.
Cuốn Đại Việt sử ký
Cuối cùng đã viết xong.

Bộ sử ba mươi cuốn
Từ xưa đến Chiêu Hoàng.
Tiếc bây giờ thất lạc,
Nhưng là cuốn sử vàng.

Ông mở nhiều trường học,
Đúc chuông, xây chùa chiền,
Lập xưởng đúc vũ khí,
Đóng sẵn các chiến thuyền.

Khi còn nhỏ, Thái tử
Từng theo cha Thái Tông
Nhiều lần ngự thuyền chiến
Tham gia đánh Nguyên Mông.

Ông cho phép vương thất
Cùng dân nghèo khai hoang.
Các vương hầu từ đó
Nhiều người có điền trang.

Ông đều đặn xuống chiếu
Kén chọn các hiền tài
Sung vào nơi Quán, Các,
Không phân biệt trong ngoài.

Năm Một Hai Bảy Tám
Thánh Tông nhường ngôi vàng
Cho Trần Khâm, thái tử,
Để thành Thái thượng hoàng.

Ông lui về Cung Bắc
Rồi xuống tóc, nhập thiền,
Nghiên cứu về Phật Giáo,
Xây dựng nhiều chùa chiền.

Năm Một Hai Tám Bốn
Quân Nguyên lại tấn công.
Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn
Được phụ trách quốc phòng.

Quân Nguyên bị đánh bại
Lần thứ hai, thứ ba,
Đều có công đóng góp
Của Thánh Tông vua cha.     

Năm Một Hai Tám Chín,
Khi kết thúc chiến tranh,
Thánh Tông về ở ẩn,
Làm thơ và du hành.    


TRẦN NHÂN TÔNG (1258 – 1308)

Anh minh và nhân ái,
Đức vua Trần Nhân Tông,
Một ông vua vĩ đại,
Sống mãi cùng non sông.        

Không chỉ vua, hơn thế,
Ngài còn là Phật Hoàng,
Lập Trúc Lâm Yên Tử,
Mở một kỷ nguyên vàng.

Ngài là con trai trưởng
Đức vua Trần Thánh Tông.
Trần Khâm là tên húy,
Anh hùng chống Nguyên Mông.

Năm Một Hai Bảy Tám,
Nhận ngôi từ vua cha,
Đúng lúc giặc Mông Cổ
Lại đe dọa nước nhà.

Thế lực giặc rất lớn,
Không ít người nản lòng,
Nhưng Ngài quyết chủ chiến,
Mở Hội nghị Diên Hồng.                  

Ngài là người đoàn kết
Sức mạnh toàn quốc gia.
Lòng tự hào dân tộc
Nhờ đó mà thăng hoa.

Được Thánh Tông giúp sức,
Ngài lãnh đạo nhân dân
Đánh thắng quân xâm lược
Liên tục cả hai lần.        
                                       
Tháng Tư năm Ất Dậu,
Tức Một Hai Tám Năm,
Ngài sai Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Toản mang quân

Đánh giặc ở Tây Kết,
Suýt bắt sống Thoát Hoan,
Rồi sau đó thắng lớn
Ở cửa Hàm Tử Quan.

Năm Một Hai Hai Tám,
Sau trận thắng Bạch Đằng,
Mở Thái Bình Diên Yến,
Ba ngày ba đêm trăng. 

Quân Ai Lao lúc đó
Cũng thường quấy nước ta.
Đích thân Ngài gươm giáo
Lên đường chinh phạt xa.

Cương quyết không để mất
Một tấc đất tiền nhân.
Bằng mọi giá phải giữ.
Ngài nói thế nhiều lần.  

Để kết tình hòa hiếu,
Ngài gả con Huyền Trân,
Công chúa Ngài yêu quí,
Cho vua Chiêm Chế Mân.

Nước Đại Việt từ đó
Có thêm được mấy châu,
Đất rộng, người thưa thớt
Nhưng tài nguyên rất giàu.

Xong việc, năm Quý Tị,
Tức Một Hai Chín Ba,
Ngài nhường con ngôi báu,
Cùng gánh vác sơn hà.

Năm Một Hai Chín Chín,
Ngài xuất gia tu hành
Ở Vũ Lâm cung cấm,
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.

Rồi Ngài đến Yên Tử,
Niệm kinh và tưới hoa,
Lập dòng thiền đất Việt,
Hiệu Trúc Lâm Đầu Đà.

Trong Trúc Lâm Tam Tổ,
Ngài là vị tổ đầu,
Pháp Loa là tổ tiếp,
Huyền Quang tổ về sau.         

Năm Một Ba Không Tám,
Tức là năm Mậu Thân,
Ở Ngọa Vân, Yên Tử
Ngài từ giã cõi trần.

Ngài từ người thành Phật
Sau tám năm xuất gia.
Chết, xá lị được giữ
Như báu vật nước nhà.

Tro Ngài được an táng
Và hậu thế tôn thờ
Trong tháp lăng Quí Đức,
Tỉnh Thái Bình bây giờ.

*
Theo sử sách kể lại,
Một lần về Thăng Long,
Ngài rất buồn khi thấy
Con mình, Trần Anh Tông,

Trình Ngài bản danh sách
Hàng trăm quan nhỏ to
Mới được vua cất nhắc,
Tưởng Ngài vui, ai ngờ,

Ngài vứt tờ giấy ấy,
Vỗ vai con, và rồi
Nói: “Nước mình bé nhỏ,
Nhiều quan, lấy ai nuôi?”

Đó là bài học lớn
Về trị nước, yên dân.
Quan nhiều là gánh nặng,
Khiến đất nước nghèo dần.

*
Ngài là vua, là Phật,
Lại còn là nhà thơ.
Ba lăm bài tuyệt tác
Còn lưu đến bây giờ.     

Đó là thơ tứ tuyệt
Và một số thơ Đường,
Về thiên nhiên, thiền Phật,
Về lẽ sống đời thường.

*
Theo sử sách kể lại,
Lên Yên Tử, dọc đường
Ngài bị ba tên cướp
Cầm giáo ra chặn đường.

Ngài ôn tồn hỏi chúng,
Mới biết nghèo, làm liều,
Rồi lấy, đem cho chúng
Suất cơm Ngài mang theo.

Khi đến một quả núi
Có hình như mâm xôi,
Định ăn thì sực nhớ
Suất cơm cho mất rồi.

Ngài đành nhờ Bảo Sái,
Người hầu luôn theo Ngài,
Xuống suối lấy nước uống
Thay cơm cho cả hai.

Về sau ở núi ấy,
Có ngôi chùa, trước sân
Ghi hai chữ “Cấm Thực”,
Tức là chùa không ăn.

*
Khi Ngài lên Yên Tử,
Một mình giữa rừng sâu,
Triều đình sợ Ngài khổ,
Cho cung nữ theo hầu.

Ngài không chịu, bảo họ
Nếu muốn, trở về quê.
Nhưng tất cả cung nữ
Nhảy xuống suối Hổ Khê        

Để tỏ lòng thương mến
Và trung thành với Ngài.
Con suối ấy sau đó
Đổi thành Giải Oan Đài.

Khi tu ở Yên Tử,
Ngài thường leo hàng ngày
Lên đỉnh núi cao nhất,
Bốn mùa chìm trong mây.

Ngài cho xây ở đấy
Chiếc am nhỏ Ngọa Vân,
Nơi Ngài thiền, đọc sách,
Hưởng cái thú thanh bần.

*
Khi Ngài sắp viên tịch,
Trời mưa gió dầm dề.
Mồng Ba, tháng Mười Một,
Bỗng gió lặng, trời se.   

Ngài liền hỏi Bảo Sái:
“Giờ này là giờ gì?”
“Bạch thầy, là giờ Tý”.
“Đã đến giờ ta đi”.

Nói xong, Ngài viên tịch,
Nằm nghiêng như Phật nằm,
Ở ngay trong am núi,
Nơi Ngài tu tám năm.

Pháp Loa, theo di chúc,
Thiêu xác Ngài, lát sau
Thấy nghìn viên xá lị
Lung linh đủ các màu.  

*
Giờ các cháu nghe nốt
Chuyện con gái của Ngài
Là Huyền Trân Công chúa
Đã lấy chồng nước ngoài.
         
          *
Mấy trăm năm về trước
Đất nước ta thân yêu
Có tên là Đại Việt,
Diện tích bé hơn nhiều.

Có một vương quốc cổ
Ở miền Trung ngày nay.
Chiêm Thành là tên gọi.
Rất hung hãn nước này.

Còn vùng đất Nam Bộ
Của chúng ta bây giờ
Lại thuộc một nước khác,
Cũng vào loại đáng ngờ.

Thời ấy vua Đại Việt
Có công chúa Huyền Trân,
Không thể nói xinh đẹp,
Mà phải nói tuyệt trần.

Nàng yêu một dũng tướng
Tên là Trần Khắc Chung.
Chàng có tài, còn trẻ,
Cũng yêu nàng vô cùng.

Nghe tiếng nàng xinh đẹp,
Vua Chiêm Thành, Chế Mân,
Liền cho người đem lễ
Dâng vua Việt, cầu thân.        

Quà cầu hôn còn có
Hai vùng đất rất to,
Trù phú, dân thưa thớt,
Là Châu Lý, Châu Ô.

Công chúa buồn, đau khổ
Khi nghe tin bố mình
Quyết định gả con gái
Cho vua nước Chiêm Thành.

Yêu Khắc Chung tha thiết,
Nhưng nàng hiểu vua cha
Làm thế là chủ ý
Vì đại sự quốc gia.

Thế là nàng gạt lệ
Chia tay cùng Khắc Chung
Để lên đường Nam tiến,
Vượt muôn núi chập chùng.

Chỉ ít năm sau đó
Vua Chế Mân qua đời.
Theo tục lệ bản xứ,
Hoàng hậu phải là người

Lên dàn thiêu chịu chết
Để hồn đi theo chồng.
Một tục lệ man rợ
Của nhiều nước phương Đông.

Đắc Chung nghe tin dữ
Đem mấy nghìn tinh binh
Đi ngày đêm không nghỉ
Tới kinh đô Chiêm Thành.      

Dẫu ở trong lòng địch,
Quân mình ít, địch đông,
Chàng cướp được công chúa,
Đưa về thành Thăng Long.

Từ đó họ hạnh phúc
Ở bên nhau trọn đời.
Gương Huyền Trân Công chúa
Sống mãi trong lòng người.

7
BA LẦN CHIẾN THẮNG GIẶC NGUYÊN MÔNG

Nước du mục Mông Cổ,
Đầu thế kỷ Mười Ba
Thành một đế quốc mạnh,
Diện tích rộng bao la.

Với quân đội hùng mạnh
Và thiện chiến, nước này
Xâm lược các nước khác
Khắp từ Đông sang Tây,

Gồm châu Âu, Tây Á,
Rồi như cơn cuồng phong,
Chúng đánh nhà Tây Hạ,
Xuống phía Nam, phía Đông.

Giặc Mông Cổ hiếu chiến.
Hễ chúng đi đến đâu
Là gieo rắc tàn phá,
Chết chóc và buồn đau.

Năm Một Hai Năm Bảy
Vua Mông Cổ liền sai
Một dũng tướng tài giỏi
Là Ngột Lương Hợp Thai

Đem ba vạn binh sĩ
Quyết tâm chiếm nước ta,
Tạo gọng kìm xâm lược
Nước Nam Tống Trung Hoa.

Để đạt mục đích ấy,
Thì việc làm đầu tiên
Là phải thắng Đại Việt
Để từ dưới đánh lên.

Tướng giặc cậy thế mạnh,
Trước khi cho xuất quân,
Sai sứ mang thư dọa
Và dụ hàng vua Trần.

Các vua Trần từ chối,
Còn nhốt sứ trong nhà.
Năm Một Hai Năm Tám,
Chúng đem quân đánh ta.     

Hơn ba vạn binh sĩ,
Từ Vân Nam tràn sang.
Chúng làm cỏ mọi thứ,
Đồng ruộng và xóm làng.

Theo sông Thao, đường thủy,
Chúng đánh xuống Việt Trì.
Đến Vĩnh Phúc, quân giặc
Bị ta cản đường đi.

Hai vua của Đại Việt
Là Thái Tông, Thánh Tông
Dẫn quân ra nghênh chiến,
Nhưng do địch quá đông,

Trận ấy ở Vĩnh Phúc,
Quân Đại Việt thua to,
Thua cả trận Phù Lỗ
Ở bên sông Cà Lồ.

Các vua Trần quyết định
Rút khỏi thành Thăng Long,
Làm “nhà không vườn trống”,
Gây khó cho quân Mông.

Nhưng mười ngày sau đó,
Hai vua Trần cùng nhau
Đánh bại quân Mông Cổ
Trong trận Đông Bộ Đầu,

Giờ thuộc đất Hà Nội,
Quận Ba Đình ngày nay.
Năm Một Hai năm Tám,
Giặc rút, hướng Bắc - Tây.    

Chỉ trong vòng nửa tháng
Cuộc chiến tranh xẩy ra
Và nhanh chóng kết thúc,
Phần thắng thuộc về ta.         

*
Hăm bảy năm sau đó,
Tức Một Hai Tám Năm
Quân Nguyên Mông lần nữa
Đánh ta từ phía Nam.

Năm mươi vạn phía Bắc,
Mười vạn phía Chiêm Thành,
Chúng đưa quân ồ ạt,
Hòng đánh nhanh, thắng nhanh.

Biết trước dã tâm giặc,
Năm Một Hai Tám Hai,
Tức là ba năm trước,
Vua và các tướng tài

Gặp nhau ở Hội nghị
Có tên là Bình Than
Để bàn mưu giữ nước,
Chống bọn giặc hung tàn.

Hai năm sau, sứ Việt
Do Trần Phủ cầm đầu
Sang, tìm kế hoãn chiến,
Nhưng chẳng đi đến đâu.

Biết không thể hòa hoãn,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông
Bèn cho mở Hội nghị
Ở cung điện Diên Hồng.

Khách mời dự Hội nghị
Là các bậc cao niên
Gồm già làng, trưởng lão
Đến từ khắp mọi miền.

Vua mở yến chiêu đãi,
Rồi nói họa Nguyên Mông,
Xin các cụ cho biết:
Ta nên đánh hay không?

Vốn quanh năm chân đất,
Nay được vào hoàng cung,
Được vua ân cần tiếp,
Các cụ vui vô cùng.

Rồi trăm người như một,
Hô to cùng đức vua:
“Đánh! Sát thát! Sát thát!
Đánh đến khi giặc thua!”

Sau Hội nghị, các cụ
Về làng bản của mình
Khích lệ các con cháu
Cùng tham gia việc binh.

Hội nghị Diên Hồng ấy
Thể hiện được lòng dân,
Thề quyết tâm giữ nước
Cùng các vị vua Trần.

Vua Trần có thể quyết
Chủ chiến hay chủ hòa,
Nhưng tôn trọng dân chúng
Hỏi đại sự quốc gia.

Quân và dân như một,
Nhờ thế đã đồng lòng,
Ý chí cả dân tộc
Thắng được họa Nguyên Mông.

Một tấm gương trị nước
Giá trị đến ngày nay.
Muốn bảo vệ Tổ quốc,
Phải nhớ bài học này.

*
Như lần xâm lược trước,
Lần này quân Nguyên Mông
Thắng trận ở Vạn Kiếp,
Lạng Sơn và sông Hồng.

Sau khi vượt biên giới,
Chưa đầy hai mươi ngày,
Thăng Long bị chúng chiếm.
Tình thế quả rất gay.

Các vua Trần tạm rút
Về Nam Định, Ninh Bình,
Rồi sau theo đường biển,
Lên chốt vùng Quảng Ninh.

Ở phía Nam, quân giặc
Đánh ra từ Chiêm Thành,
Liên tiếp giành thắng lợi
Ở xứ Nghệ, xứ Thanh.

Đây cũng là vùng đất
Mà vua tôi nhà Trần    
Đã rút về chốt giữ,
Đợi thời và yên dân.

Cũng giống như lần trước,
Quân Nguyên gặp khó khăn,
Vì “tiêu thổ kháng chiến”,
Người và ngựa thiếu ăn.

Tinh thần binh sĩ xuống,
Chỉ huy thì nản lòng.
Từ Thanh Hóa lúc ấy
Quân Đại Việt phản công,

Liên tiếp giành thắng lợi
Ở Hàm Tử, Chương Dương.
Thành Thăng Long giải phóng,
Chặn hết các ngả đường.

Quân Nguyên Mông tháo chạy.
Bị chặn ở sông Cầu.
Cánh phía Nam bị diệt
Ở Tây Kết, Khoái Châu.        

Thế là một lần nữa,
Giặc Nguyên Mông lại thua.
Nhưng như cha ông nói:
“Đánh chết, nết không chừa”.

*
Quân Nguyên Mông đại bại,
Lo quân lương, chiến xa,
Đóng thêm nhiều tàu chiến,
Đánh Đại Việt lần ba.

Chúng chia làm ba cánh,
Từ Vân Nam, Quảng Tây
Và Quảng Đông - đường biển -
Hành quân gấp đêm ngày.

Đó là năm Tám Bảy,
Cuộc chiến cũng không lâu,
Từ tháng Chạp năm ấy
Đến tháng Tư năm sau.

Quân giặc năm mươi vạn,
Quân Trần chỉ hai mươi,
Nhưng ta hơn “địa lợi”
Và hơn cả “nhân thời”.

Lại giống hai lần trước,
Chúng chiếm được Thăng Long,
Nhưng thiếu lương, quân đói,
Binh lính lại nản lòng.

Hơn thế, vì bão biển,
Vì thuyền đi lạc đường,
Trần Khánh Dư lại đánh,
Nên mất hết quân lương.

Quân ta do thế yếu,
Về chốt ở Hải Phòng,
Thường tập kích Vạn Kiếp,
Đánh quân thủy trên sông.

Bị đói, bị chia cắt,
Giặc rút khỏi Thăng Long,
Co cụm ở Vạn Kiếp.
Quân Trần chưa tấn công,

Chúng đã chủ động rút,
Đi qua ngả Cao Bằng.
Còn toàn bộ quân thủy
Bỏ mạng trận Bạch Đằng.

Quân giặc lại thất bại,
Cả ba lần, vua Nguyên,
Thế tổ Hốt Tất Liệt,
Vẫn còn chưa chịu yên.

Hắn muốn đánh Đại Việt,
Chờ thời, chờ binh tình.
Có lần đã xuất phát,
Tướng chết mà hoãn binh

Năm Một Hai Chín Bốn,
Định xuất quân, bất ngờ
Hốt Tất Liệt ốm chết,
Mang mộng ấy xuống mồ.

Một trang sử chói lọi.
Ba lần thắng Nguyên Mông,
Một đế quốc tự mãn
Luôn thắng Tây, thắng Đông.

Đây là thắng lợi lớn
Của binh sĩ, nhân dân,
Của đức Trần Hưng Đạo
Và của các vua Trần.   


8
TRẦN HƯNG ĐẠO (1232 - 1300)   

Tên thật là Quốc Tuấn,
Trần Hưng Đạo đại vương
Là một người đặc biệt,
Tài đức bậc phi thường.

Ông là nhà chính trị,
Nhà quân sự thiên tài,
Góp phần giữ độc lập
Cho thế hệ tương lai.

Ông là con Trần Liễu,
Cháu vua Trần Thái Tông.
Rất khôi ngô, tuấn tú,
Văn và võ tinh thông.

Ông lớn lên đúng lúc
Nước thọ địch bốn bề.
Giặc Nguyên Mông phương Bắc
Đang đêm ngày lăm le.

*
Năm Một Hai Năm Bảy
Đức vua Trần Thái Tông
Xuống chiếu giao chức vụ
Đại Tiết Chế cho ông.

Tiết chế là Tư Lệnh,
Theo cách hiểu thông thường.
Ông đem quân thủy bộ
Ra trấn giữ biên cương.

Sau lần đầu thắng giặc
Ông được đức vua Trần
Phong Quốc công Tiết chế,
Thống lĩnh cả ba quân.

Là vị tổng tư lệnh,
Năm tám tư, mùa đông,         
Ông cho duyệt quân ngũ
Bến Hàng Than, sông Hồng.

Rồi bài “Hịch tướng sĩ”,
Một đệ nhất hùng văn,
Được ông đọc dõng dạc
Trước toàn bộ ba quân.

Chỉ một năm sau đó,
Quân Nguyên sang đánh ta.
Kể từ lần thứ nhất,
Hăm bảy năm trôi qua.

Đường bộ và đường thủy,
Hai mũi chúng tấn công.
Đường bộ từ phía Bắc,
Đường thủy từ phía đông.

Từ Nghệ An, Thanh Hóa,
Chúng còn vòng đánh ra.
Để bảo toàn lực lượng,
Cân nhắc địch và ta,

Trần Hưng Đạo quyết định
Tạm rút khỏi Thăng Long,
Làm vườn không nhà trống,
Quân và dân một lòng.

Vào tháng Năm năm ấy,
Từ căn cứ Thiên Trường,
Ông đánh trận Hàm Tử,
Rồi Tây Kết, Chương Dương...

Đội quân Nguyên hùng mạnh,
Như đám mây âm u,
Bị quân Trần quét sạch,
Xua hết bóng quân thù.

Năm Một Hai Tám Bảy
Quân Nguyên lại đánh ta,
Hai năm sau lần trước,
Giờ là lần thứ ba.

Đoàn thuyền lương quân địch
Bị diệt ở Vân Đồn.
Hay tin, Thoát Hoan sợ,
Rút chạy, vãi linh hồn.

Trần Hưng Đạo cho lính
Chốt giữ cửa Bạch Đằng.
Sau Vân Đồn, binh lính
Khí thế đang rất hăng.

Tháng Tư năm Tám Tám,
Đoàn thuyền Ô Mã Nhi
Bị Đại Việt phá sạch,
Lương thực chẳng còn gì.

Tướng Thoát Hoan nghe thế,
Liền vội vã rút về,
Chui ống đồng mà rút,
Thật nhục nhã, ê chề.   

*
Năm Một Hai Tám Chín,
Vua luận công, biểu dương,
Rồi phong Trần Hưng Đạo
Là Hưng Đạo Đại vương.

Ông lui về Vạn Kiếp
An hưởng nốt tuổi già,
Nơi ông được phong ấp,
Cách Chí Linh không xa.

Tháng Sáu năm Canh Tý,
Tức Một Ba Không Không,
Ông lâm bệnh, ốm nặng,
Đích thân Trần Anh Tông

Cùng nhiều đại quan khác
Về thăm hỏi tận nơi.
Nhưng hai tháng sau đó
Ông lặng lẽ qua đời.

Ông dặn con khi chết,
Hãy hỏa táng xác ông,
Đựng cốt trong lọ sứ,
Chôn giữa các gốc thông

Trong góc vườn An Lạc.
Chôn rồi, phủ đất lên,
Lại trồng cây như cũ,
Thật khéo và tự nhiên

Để trường hợp, nếu muốn,
Người của các đời sau  
Không thể nào đoán biết
Mộ ông chôn ở đâu.

Ông được dân cả nước
Tôn là Đức Thánh Trần,
Lập đền thờ cúng viếng,
Hương khói đều quanh năm. 


TRUYỆN VỀ TRẦN HƯNG ĐẠO 

1
Năm Một Hai Ba Bảy,
Trần Thủ Độ bỗng nhiên
Ép cha ông, Trần Liễu,
Nhường vợ là Thuận Thiên

Cho chú ông, Trần Cảnh,
Lúc ấy ngự ngai vàng.
Mà Thuận Thiên công chúa
Là chị Lý Chiêu Hoàng.

Với cái thai ba tháng,
Thuận Thiên thành vợ vua,
Dẫu vua không đồng ý,
Cứ đòi bỏ lên chùa.

Trần Liễu thì uất ức,
Dấy binh nhưng bất thành.
Thủ Độ tha không giết,
Nhờ vua xin cho anh.

Trần Liễu tìm người giỏi
Làm thầy dạy con trai,
Tức là Trần Hưng Đạo,
Mong văn võ toàn tài.   

Trước khi chết, ông dặn:
“Con hãy cố vì cha
Mà lấy cả thiên hạ,
Thế mới đẹp lòng ta.”

Tức là ý ông dặn
Con tiếm ngôi về sau.
Hưng Đạo không muốn thế,
Nhưng ghi nhớ trong đầu.

Khi đã nắm toàn bộ
Quyền lực vào tay mình,
Ông giả đò ướm hỏi
Thân tín trong triều đình.

Yết Kiêu và Dã Tượng
Nói là điều không nên.
Ông gật đầu khen ngợi,
Còn thưởng họ nhiều tiền.     

Ông hỏi cả con trưởng
Và con thứ điều này.
Người con trưởng phản đối.
Anh con thứ khen hay.

Lập tức ông rút kiếm
Định chém đầu anh ta,
Bảo là phường nghịch tặc,
Không cho nhận là cha.

Rồi lệnh: khi ông chết,
Đậy nắp quan tài xong,
Mới cho anh con thứ
Được đi vào viếng ông.

*
Theo sử cũ ghi lại
Trần Quang Khải và ông
Có mối tư thù nhỏ
Vẫn canh cánh trong lòng.

Trong cuộc chiến lần một,
Trần Thánh Tông cầm quân,
Tể tướng Trần Quang Khải
Đi hộ giá vua Trần.

Thượng hoàng thì có ý
Khi Hưng Đạo ở nhà
Phong ông chức Tể tướng
Nhân Quang Khải đi xa.

Trần Hưng Đạo vội vã
Cúi đầu xin không nghe,
Nói rằng những việc ấy
Chờ Tể tướng quay về. 

Một hôm, Trần Hưng Đạo
Đi thuyền tới Thăng Long,
Trần Quang Khải nghe tiếng,
Xuống thuyền chơi với ông.

Quang Khải vốn sợ tắm,
Hai người ăn uống xong,
Hưng Đạo tự cởi áo
Rồi kỳ lưng cho ông.     

“Nhờ bác thăm thuyền chiến,
Tôi may mắn hôm nay
Được tắm cho Tể tướng.
Phải ghi nhớ ngày này!”

Trần Quang Khải cúi tạ:
“Được Quốc công kỳ lưng,     
Thật là diễm phúc lớn,
Xin mở tiệc ăn mừng.”

*
Sử cũ cũng chép việc
Con trai Hưng Đạo vương
Lấy công chúa Thiên Thụy,
Thế mà trái đạo thường,

Trần Khánh Dư, tướng giỏi,
Lại thông dâm với nàng,
Khiến vua phải xuống chiếu
Đuổi về núi Phượng Hoàng.   

Vậy mà khi Mông Cổ
Đánh Đại Việt lần ba,   
Hưng Đạo quên chuyện cũ,
Cho vị tướng tài ba

Ra trấn thủ biên giới.
Trần Khánh Dư lập công,
Góp phần làm chiến thắng,
Suốt đời kính phục ông.

Hơn thế, Trần Hưng Đạo,
Đã chọn Trần Khánh Dư
Viết lời tựa cho cuốn
“Vạn Kiếp bí truyền thư”.

*
Năm Một Hai Tám Mốt,
Vua Nguyên sai Sài Xuân
Đi sứ sang Đại Việt.
Thằng này láo, có lần

Cứ ngồi trên lưng ngựa
Đi qua cửa Dương Minh.       
Hắn còn dùng roi cứng
Quất vào đầu vệ binh.

Tể tướng Trần Quang Khải
Đến chào hắn, vậy mà,
Bất chấp cả nghi lễ,
Hắn nằm khểnh, không ra.

Hay tin, Trần Hưng Đạo,
Mặc áo vải, cạo đầu,
Đi thẳng đến quán sứ
Xem binh tình ra sao.

Thế mà lạ, lập tức
Hắn đứng dậy, cúi mình
Lễ phép mời uống nước,
Đàm đạo khá thân tình.

Một thằng hầu của hắn
Cầm mũi tên, đứng sau,
Chọc vào Trần Hưng Đạo
Đến chảy cả máu đầu.

Nhưng ông vẫn bình thản,
Nét mặt không đổi thay.
Lúc về, Sài Xuân tiễn,
Còn nhắc mãi chuyện này.


9
CÁC DANH TƯỚNG ĐỜI TRẦN

Hôm nay, như đã hứa,
Ông kể về hai người,
Hai danh tướng lỗi lạc,
Sống mãi trong lòng người.

Đó là Trần Bình Trọng,
“Thà làm quỉ nước Nam
Hơn làm vương đất Bắc”.
Quyết chết, không đầu hàng.

Người thứ hai ông kể
Là một người hiền minh -
Tể tướng Trần Quang Khải,
Sử sách mãi lưu danh.

Còn nhiều anh hùng khác
Ở triều đại nhà Trần.
Các cháu cứ đợi đấy,
Có dịp, ông kể dần.


TRẦN BÌNH TRỌNG (1259 – 1285)          

Danh tướng Trần Bình Trọng,
Trong kháng chiến lần hai      
Chống Nguyên Mông xâm lược,
Đã đem hết sức tài

Bảo vệ hai chủ tướng
Là Thái Tông, Thánh Tông,
Rồi bị giặc bắt sống,
Son sắt một tấm lòng.   

Lần ấy giặc Mông Cổ
Đem năm mươi vạn quân
Chia làm hai mũi lớn
Cùng tấn công nhà Trần.

Sau trận đầu thất bại,
Tiết chế Hưng Đạo vương
Quyết định phải tạm rút
Về căn cứ Thiên Trường.

Ông giao Trần Bình Trọng
Một nhiệm vụ nặng nề:
Phải chốt giữ Thiên Mạc
Và các khu liền kề,

Để cầm chân quân địch,
Và giúp hai vua Trần
Cùng chỉ huy kháng chiến,
Rút bí mật, an toàn.

Thoát Hoan sai tướng giỏi
Là Khoan Triệt, Lý Hồng,
Đem tinh binh truy đuổi,
Cả đường bộ, đường sông.

Chính ở bãi Thiên Mạc,
Huyện Khoái Châu, Hưng Yên,
Ông đã cầm chân giặc
Liên tục mấy ngày liền.

Do vậy, giặc mất dấu
Đường rút của vua Trần.
Ta bảo toàn lực lượng
Để phản công khi cần.

Tuy nhiên, trong trận ấy,
Thế giặc mạnh và đông,
Quân ta dần đuối sức,
Giặc bắt sống được ông.

Chúng tìm cách mua chuộc
Để ông khai việc binh.
Ông nhất quyết không chịu,
Còn giục chúng giết mình.

Trần Bình Trọng lần ấy
Để lại cho đời sau
Một câu nói nổi tiếng,
Rằng thà bị chém đầu,

Thà nước Nam làm quỉ
Còn hơn được làm vương
Ở nước giặc phương Bắc.
Một khí phách quật cường.

Biết không thể khuất phục,
Cuối cùng chúng giết ông,
Năm ông hăm sáu tuổi.
Xác quẳng xuống dòng sông.

*
Dòng dõi Trần Bình Trọng
Là từ Lê Đại Hành,
Sinh Hà Nam, nhưng gốc
Huyện Thọ Xuân, xứ Thanh.

Ông xuất thân quí tộc.
Sử chỉ nói vợ ông
Là công chúa Thụy Bảo,
Trước có một đời chồng.

Con ông thành hoàng hậu,
Mẹ vua Trần thứ năm,
Tức Minh Tông hoàng đế,
Có đức và có tầm.

Tài liệu sử cho biết
Rằng tướng Lê Phụ Trần,
Nhờ có công chống giặc,
Trần Thái Tông ban ân

Bằng cách gả Chiêu Khánh,
Tức vợ vua, cho ông,
Sau sinh Trần Bình Trọng.
Đúng là thật lòng vòng.

Dù con ai chăng nữa,
Thì ông cũng là người
Nêu tấm gương trung liệt
Về lẽ sống ở đời.


TRẦN QUANG KHẢI (1241 – 1294)

Ông là một quí tộc,
Một đại thần nhà Trần,
Làm đến chức Tể tướng,
Đánh quân Nguyên ba lần.

Trần Thái Tông là bố,
Mẹ là Lý Ngọc Oanh.
Trong nhà, ông phải gọi
Trần Thánh Tông là anh.

Một lần, khi còn nhỏ,
Ông ốm nặng, Thái Tông
Để áo bào, gươm báu
Cạnh giường bệnh của ông,

Và nói: “Hãy khỏi bệnh.
Nếu khỏi, ta sẽ trao,
Hai thứ này quí giá -
Gươm báu và áo bào.”

Lần ấy, ông khỏi bệnh,
Quả thật vua cho ông
Chiếc áo ngài đang mặc,
Còn gươm báu thì không.

Trần Quang Khải từ bé
Được phong Chiêu Minh Vương,
Lê Văn Hưu dạy dỗ,
Thông tuệ bậc khác thường.

Năm Một Hai Năm Tám,
Vua cho cưới Phụng Dương,
Em gái nuôi, sau đó
Ban ấp ở Thiên Trường.

Năm Một Hai Bảy Mốt
Ông đã là đại thần,
Chức Tướng quốc Thái úy,
Cao hơn Đức thánh Trần.

Khi quân Nguyên xâm lược,
Ông theo lệnh vua cha, 
Vào Nghệ An trấn giữ
Không cho giặc đánh ra.

Rồi ông lập công lớn
Trận đánh bến Chương Dương.
Vua xếp ông cao nhất
Khi ban thưởng, tuyên dương.

Ông và Trần Hưng Đạo,
Theo sử, có bất hòa.
Điều ấy rất nghiêm trọng
Với hưng vong nước nhà.

Hưng Đạo, như ta biết,
Đã chủ động làm hiền,
Kỳ lưng cho Quang Khải,
Khi ông xuống thăm thuyền.

Sau lần ấy, hai vị
Bỏ thù riêng, cùng nhau
Gắng công lo việc nước,
Hai vị quan hàng đầu.

Trần Quang Khải nổi tiếng
Còn là một thi nhân.
Ông viết khi rỗi rãi,
Đẹp ý, đẹp cả vần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét