Việt Nam Lược Sử Diễn Ca
HAI BÀ TRƯNG (mất năm
43)
Bắt đầu giai đoạn mới
Trong lịch sử nước nhà
-
Một nghìn năm lệ thuộc
Vào phong kiến Trung
Hoa.
Vào năm Một Bảy Chín
Trước Công Nguyên,
Triệu Đà
Sáp nhập vào Nam Việt
Nước Âu Lạc của ta.
Nam Việt, như ta biết
Là Lưỡng Quảng ngày
nay,
Vùng đất thuộc Trung
Quốc,
Tức Quảng Đông, Quảng
Tây.
Triệu Đà chia Âu Lạc
Thành hai quận, đông
dân
Và rộng lớn lúc ấy,
Là Giao Chỉ, Cửu Chân.
Giao Chỉ ở Miền Bắc,
Còn Cửu Chân bây giờ
Thuộc vùng Thanh Nghệ
Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên
thơ.
Vào năm Một Một Một,
Nhà Hán chiếm nước ta.
Lập thêm một quận nữa,
Nhật Nam, quận thứ ba.
Quận này đất cũng
rộng,
Nhưng người thưa, hanh
khô,
Từ Quảng Bình cát
trắng
Đến Quảng Nam bây giờ.
Nhà Hán nhập ba quận
Với vùng đất người
Tàu,
Thành một Châu rộng
lớn,
Đặt tên là Giao Châu.
Thủ phủ của Châu ấy
Đóng ở huyện Thuận
Thành.
Luy Lâu là tên cũ,
Nay thuộc tỉnh Bắc
Ninh.
Thái Thú đứng đầu
quận.
Thứ Sử đứng đầu Châu.
Tất cả đều người Hán.
Còn Lạc Tướng, Lạc Hầu
Vẫn giữ nguyên người
Việt.
Cai trị vẫn như xưa.
Dân chịu nhiều sưu
thuế,
Thân phận như trâu,
lừa.
Năm Ba Tư, Tô Định
Được nhà Hán cử sang
Làm Thái Thú Giao Chỉ.
Tên này loại làng
nhàng,
Nhưng nham hiểm, độc
ác,
Chuyên vơ vét cho
mình,
Làm nhiều điều ngang
ngược,
Gây khổ cho dân tình.
*
Bấy giờ ở vùng đất
Nay thuộc huyện Mê
Linh,
Có hai chị em gái
Vừa đẹp vừa thông
minh.
Con một vị Lạc Tướng.
Trưng Trắc là cô đầu.
Cô em là Trưng Nhị,
Ghét Tô Định từ lâu.
Quan Thái Thú Tô Định,
Gian xảo và đê hèn
Lập mưu giết Thi Sách,
Con quan huyện Châu
Diên.
Ông là chồng Trưng
Trắc,
Trước đó từng bất bình
Với cách quan nhà Hán
Cai trị dân nước mình.
Vào đầu năm Canh Tý,
Tức là năm bốn mươi,
Hai Bà Trưng khởi
nghĩa
Thu hút rất nhiều
người.
Trước hết đền nợ nước,
Sau để trả thù nhà.
Nghĩa quân thắng dòn
dã,
Nức lòng dân gần xa.
Theo truyền thuyết kể
lại,
Hay tin, Nguyễn Tam
Trinh
Từ Mai Động kéo đến
Cùng hai nghìn tráng
binh.
Hơn ba nghìn lính nữ
Theo chủ tướng, Ông
Cai,
Gia nhập quân khởi
nghĩa,
Từ vùng đất Thanh Oai.
Quân Hai Bà rất mạnh.
Sáu lăm thành đầu
hàng.
Tô Định trốn về nước,
Nhục nhã và vội vàng.
Hai Bà lập nước mới,
Kinh đô ở Mê Linh,
Đuổi Thái Thú phương
Bắc,
Cai trị theo cách
mình.
Đứng đầu đất nước ấy
Là hai vị nữ vương.
Xưa nay trong lịch sử,
Một sự kiện phi
thường.
Năm Bốn Hai, nhà Hán
Sai Mã Viện Phục Ba,
Lưu Long làm phó
tướng,
Sang chiếm lại nước
ta.
Cùng rất nhiều xe ngựa
Và hai vạn tinh binh
Chúng tấn công Hợp
Phố,
Và cướp bóc dân tình.
Mã Viện đi đường thủy,
Lưu Long đi đường
rừng,
Gặp phải sự chống cự
Của quân Hai Bà Trưng.
Quân Mã Viện thế mạnh,
Áp tới tận La Thành.
Nghĩa quân không chống
nổi,
Rút lui bảo vệ mình.
Sau một năm cầm cự,
Dũng cảm và kiên cường,
Quân Hai Bà đành rút,
Binh sĩ chết đầy
đường.
Cuối cùng đến Phúc
Thọ,
Giặc dụ dỗ ra hàng,
Nhưng Hai Bà tuẫn
tiết,
Nhảy xuống dòng Hát
Giang.
Ở đấy giờ đang có
Ngôi đền thờ Hai Bà,
Một tấm gương trung
liệt,
Trả nợ nước, thù nhà.
Quân Mã Viện tuy
thắng,
Nhưng thiệt hại nặng
nề.
Mười phần chết sáu,
bảy
Ở vùng đất Cấm Khê.
*
Lại nói tướng Mã Viện,
Khi việc bình định
xong,
Hắn ngạo nghễ cho đúc
Chiếc cột lớn bằng
đồng.
Trên cột đồng hắn khắc
Hai dòng chữ sơn son:
“Khi cột đồng này gãy,
Đất Giao Chỉ không
còn.”
Thật láo và hợm hĩnh
Viên tướng người Tàu
này.
Cột đồng giờ chẳng
thấy,
Nước Việt vẫn còn đây.
Hơn thế, còn hùng
mạnh,
Đã đánh đuổi nhiều lần
Khiến quân giặc phương
Bắc.
Hoảng sợ, chẳng dám
gần.
9
BÀ TRIỆU (225 -248)
Hôm qua ông đã nói,
Vì sưu thuế nặng nề,
Dân Giao Châu cơ cực
Và khốn khổ đủ bề.
Nhiều nơi dân khởi
nghĩa
Chống lại ách ngoại
bang,
Khiến vua quan Trung
Quốc
Phải hoảng sợ, kinh
hoàng.
Thái Thú quận Giao Chỉ
Là Tiết Tống tâu vua:
“Dân Giao Chỉ khó trị,
Đất lam chướng bốn
mùa…”
Năm Hai Trăm Bốn Tám,
Giữa thế kỷ thứ Ba,
Một cuộc khởi nghĩa
lớn
Có nhiều người tham
gia.
*
Một truyền thuyết kể
lại,
Xưa ở quận Cửu Chân
Có một con voi trắng
To đẹp như voi thần.
Nó xuống núi phá
phách,
Dẫm đạp hết mùa màng.
Nhiều khi còn táo tợn
Xông cả vào xóm làng.
Con voi thật to lớn,
Duy nhất chỉ một ngà.
Ai nhìn thấy cũng sợ,
Phải né tránh từ xa.
Thế mà một cô gái,
Xinh đẹp, để vai trần,
Quyết tay không bắt
nó
Để trừ hại cho dân.
Cô đi trước, khiêu
khích,
Nhử nó ra đầm sình,
Rồi nhảy lên đầu nó
Đưa về nuôi nhà
mình.
Về sau, cô gái ấy
Chiêu quân chống giặc
Ngô,
Luôn cưỡi nó ra trận,
Voi một ngà, khổng lồ.
Truyền thuyết còn kể
lại
Rằng ngực cô rất dài,
“Dài tới hơn ba
thước”,
Thường phải vắt lên
vai.
Quân giặc nhìn, cả sợ,
Liền bỏ chạy thoát
thân.
Cô gái ấy xinh đẹp,
Oai nghiêm như vị
thần.
*
Cô gái trong huyền
thoại,
Tên là Triệu Thị
Trinh,
Một anh hùng dân tộc,
Dám vì dân quên mình.
Bà người huyện Yên
Định,
Tỉnh Thanh Hóa bây
giờ,
Không may bố mẹ chết
Khi đang còn trẻ thơ.
Anh bà, Triệu Quốc
Đạt,
Nuôi em như mẹ hiền.
Ông là một hào trưởng,
Làm huyện lệnh Quan
Yên.
Lớn lên, bà giỏi võ,
Có sức khỏe hơn người,
Lại nung nấu chí lớn
Muốn ra tay giúp đời.
Gặp người chị dâu ác,
Bà trốn nhà đi xa,
Lên rừng chiêu binh
mã,
Hơn nghìn người theo
bà.
Thấy giặc Ngô tàn ác,
Bà về bàn với anh
Cùng khởi binh chống
lại,
Và được anh đồng tình.
Từ căn cứ Yên Định,
Nghĩa quân lấn đánh
dần,
Chiếm quận lỵ Tư Phố,
Rồi cả vùng Cửu Chân.
Quốc Đạt lâm bệnh
chết,
Bà cầm quân thay anh.
Ra trận mặc giáp bạc,
Cưỡi voi, cài trâm
anh.
Trông bà thật lẫm
liệt,
Xinh đẹp như nữ thần,
Nên người ta thường
gọi
Là “Nhụy Kiều Tướng
quân.”
*
Nghe tin có bạo loạn,
Vua Ngô rất lo âu,
Liền cử tướng Lục Dận
Làm thứ sử Giao Châu.
Cùng sáu nghìn binh
mã,
Theo đường bộ tới đây,
Hắn quyết tâm đàn áp
Cuộc khởi nghĩa lần
này.
Hắn dùng tiền mua
chuộc
Nhiều hào trưởng địa
phương,
Hứa phong cho Bà Triệu
Chức Lệ Hải Bà Vương.
Tất nhiên Bà từ chối,
Nhất quyết không đầu
hàng.
Nghĩa binh được khích
lệ,
Tinh thần càng vững
vàng.
Nhiều trận đánh ác
liệt
Ở căn cứ Bồ Điền.
Nhưng do lực quá yếu,
Thiếu lương thực và
tiền,
Nên chỉ sau hai tháng
Cầm cự rất kiên cường,
Thành Bồ Điền thất
thủ,
Rơi vào tay đối
phương.
Bà Triệu đã tuẫn tiết
Trên núi Tùng đầy mây.
Nó ở xã Triệu Lộc,
Huyện Hậu Lộc ngày
nay.
Bà mới hăm ba tuổi,
Chết, để lại tấm lòng
Và chiến công hiển
hách,
Sống mãi với non sông.
10
NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO VÀ
PHẬT GIÁO
Nhà Đông Hán suy yếu,
Đầu thế kỷ thứ ba.
Ba nước Ngô, Thục Ngụy
Ra đời ở Trung Hoa.
Đó là thời Tam Quốc,
Khi ba nước tranh tài.
Nhà Ngô đã tự tiện
Chia Giao Châu thành
hai.
Phần đất ở Trung Quốc
Được gọi là Quảng
Châu.
Phần của Âu Lạc cũ
Thì gọi là Giao Châu.
Khi dẹp xong khởi
nghĩa,
Các triều vua Trung
Hoa
Cử người sang cai trị
Các huyện ở nước ta.
Cùng thời gian, đất
nước
Phát triển hơn xưa
nhiều.
Nhưng người dân vẫn
khổ
Và cơ cực đủ điều.
Nhân tiện, ông muốn
nói,
Rằng vào thời gian
này,
Thế kỷ Một đến Sáu,
Đã có nhiều đổi thay
Trong đời sống văn hóa
Và tinh thần nước ta.
Nho Giáo rồi Đạo Giáo,
Rồi Đạo Phật Thích Ca
Được người Hán du nhập
Vào đời sống hàng
ngày.
Sơ bộ, ông giải thích
Về từng đạo thế này.
*
Nho Giáo, hay Khổng
Giáo,
Do Khổng Tử lập ra.
Là bộ luật ứng xử
Và lễ nghĩa người Hoa.
Khổng Tử người nước
Lỗ,
Thông minh và thâm
trầm,
Một triết gia cổ đại,
Hai nghìn năm trăm
năm.
Cơ sở của Nho Giáo
Là Tứ Thư, Ngũ Kinh.
Nó dạy người nhỏ tuổi
Phải chăm lo học hành.
Luôn kính yêu cha mẹ,
Lớn, xây dựng nước
nhà.
Như các cụ vẫn nói:
“Tu thân rồi tề gia…”
Sống, có trên có dưới,
Đúng đạo lý làm người.
Vua được gọi “Thiên
Tử”,
Nôm na là “Con Trời’.
Nó dạy nhiều điều
khác,
Nói chung, toàn điều
hay.
Ảnh hưởng của Nho Giáo
Còn đến tận ngày nay.
*
Cùng thời với Khổng
Tử,
Có Lão Tử, là người
Đã lập nên Đạo Giáo,
Chủ trương sống ở đời
Phải tuân theo số phận
Và qui luật tự nhiên.
Sống giản đơn, thanh
bạch,
Không lo lắng, buồn
phiền.
Ông cũng là tác giả
Bộ sách Đạo Đức Kinh.
Dựa vào nó, Lão Tử
Xây dựng thuyết của
mình.
Đạo Giáo bao quát
rộng,
Ngoài nghi lễ tinh
thần,
Còn có cả tướng số,
Thuốc chữa bệnh, thiên
văn.
Cả phép trừ ma thuật,
Cả phong thủy, pháp
thiền,
Dưỡng sinh và diệt
độc,
Cả phép luyện thuốc
tiên…
Một người khác, Trang
Tử,
Cũng đóng góp phần
mình
Vào tư tưởng Đạo Giáo
Bằng cuốn Nam Hoa
Kinh.
Ông này, theo truyền
thuyết,
Có giấc mơ lạ thường.
Ông mơ mình hóa bướm,
Bay lượn mãi bên
đường.
Tỉnh dậy, ông rất
tiếc,
Thấy mình vẫn là
người,
Không biết mơ hay
tỉnh,
Đành thở dài, mỉm
cười.
*
Quê hương của Phật
Giáo
Không phải nước Trung
Hoa,
Mà là nước Ấn Độ.
Đức Phật là Thích Ca.
Ngài là người có thật,
Sinh tháng Tư, ngày
Rằm,
Cách đây đã lâu lắm -
Hai nghìn năm trăm
năm.
Giáo lý của Đạo Phật
Chủ yếu ba điều này:
Không được làm việc
ác,
Làm việc thiện hàng
ngày.
Điều thứ ba, luôn nhớ
Làm sạch ý nghĩ mình
Bằng cách ngồi thiền
định
Hoặc niệm Phật, cầu
kinh.
Thế giới, ba Đạo lớn,
Là Đạo Phật lâu đời,
Rồi đến Đạo Thiên
Chúa,
Cuối cùng là Đạo Hồi.
Đạo Phật giúp hướng
thiện,
Xua đuổi cái ác tà,
Làm lòng người nhân
ái,
Xã hội đẹp, hài hòa.
12
LÝ BÍ (503 – 548) VÀ
NHÀ TIỀN LÝ
Đầu thế kỷ thứ Sáu,
Nhà Lương chia nước ta
Thành sáu châu lớn
nhỏ.
Tên các châu ấy là:
Giao Châu ở Bắc Bộ.
Ở Thanh Hóa - Ái Châu.
Đức, Lợi, Minh - Nghệ
Tĩnh.
Quảng Ninh là Hoàng
Châu.
Ở Giao Châu thời ấy
Thứ Sử là Tiêu Tư,
Tham lam và gian ác
Nhưng giả bộ nhân từ.
Hắn đặt nhiều thuế
mới,
Tăng lao dịch, lao
công,
Làm người dân cơ cực,
Luôn ấm ức trong lòng.
Rồi một cuộc khởi
nghĩa,
Năm Năm Trăm Bốn Hai,
Do Lý Bí khởi xướng,
Ác liệt và kéo dài.
Sau, ông thành vua
Việt,
Hậu duệ người Trung
Hoa,
Đó là Lý Nam Đế,
Chính trực và tài ba.
Vào cuối đời Tây Hán,
Để tránh nạn đao binh,
Tổ tiên ông phiêu dạt
Sang nước Nam yên
bình.
Đến đời thứ mười một
Lý Nam Đế mới sinh.
Cụ bà ông người Việt,
Đa tài và rất xinh.
Ông lập nhà Tiền Lý,
Khai sinh nước Vạn
Xuân,
Một anh hùng dân tộc,
Sống mãi cùng nhân
dân.
Ông tên là Lý Bí,
Sinh ở nơi ngày nay
Là vùng đất Thạch Thất
Và thị xã Sơn Tây.
Năm tuổi, ông mất bố.
Bảy tuổi, mẹ qua đời,
Ông sống với người
chú.
Đến khi ông lên mười,
Một nhà sư đức độ
Cho vào chùa nhập thiền.
Sau mười năm đèn sách,
Ông thành người thâm
uyên.
Tiêu Tư cho Lý Bí
Làm Giám quân Đức
Châu,
Nay thuộc huyện Đức
Thọ,
Nhưng một thời gian
sau,
Thấy dân tình quá khổ
Vì sưu thuế nặng nề,
Vì chế độ lao dịch,
Ông từ quan về quê.
Ông chiêu binh, mãi mã,
Quyết chống lại người
Tàu.
Trong số người hưởng
ứng
Có thủ lĩnh nhiều
châu,
Như Triệu Túc, Hà Nội,
Phạm Tu ở Thái Bình.
Thế mạnh như thác đổ,
Háo hức lòng dân tình.
Chỉ trong vòng ba
tháng,
Nghĩa quân chiếm hết
châu.
Tiêu Tư cùng gia thất
Phải trốn chạy về Tàu.
Toàn bộ vùng Bắc Bộ
Nằm trong tay nghĩa
quân.
Lần lượt các châu khác
Cũng được giải phóng
dần.
Vua nhà Lương, Vũ Đế,
Tháng Tư, năm Bốn Hai,
Cho quân sang trấn áp,
Cử toàn những tướng
tài.
Nghe tin này, Lý
Bí
Liền chủ động đưa quân
Sang bán đảo Hợp Phố
Mai phục sẵn một phần.
Thành Hợp Phố lúc ấy
Còn thuộc về Giao
Châu.
Khi quân Lương kéo đến
Liền bị đánh phủ đầu.
Quân của tướng Tôn
Quýnh
Mười phần chết bảy
phần.
Thế là thành đại bại,
Hắn phải đành rút
quân.
Cả nước được giải
phóng
Sau trận chiến thắng
này,
Kể cả quận Hợp Phố
Thuộc Quảng Đông ngày
nay.
Ngày ấy ở vùng đất
Quảng Bình đến Quảng
Nam
Là vương quốc Lâm Ấp,
Ở phía bắc nước Chàm.
Lâm Ấp thấy Lý Bí
Đang bận đánh quân
Lương,
Định xâm lấn bờ cõi,
Thái độ rất khinh
thường.
Chúng đem quân đánh
chiếm
Phần phía Nam Giao
Châu,
Nay là Thanh, Nghệ,
Tĩnh,
Bằng đường bộ, bằng
tàu.
Lý Bí sai tướng giỏi
Vào đánh dẹp, rất
nhanh
Đội quân của Lâm Ấp
Đã bị đánh tan tành.
*
Năm Năm Trăm Bốn Bốn,
Lý Bí tự xưng vương,
Gọi là Lý Nam Đế,
Một việc cũng bình
thường.
Đặt niên hiệu Thiên
Đức,
Quốc hiệu là Vạn Xuân.
Lập trăm quan văn võ,
Xuống chiếu để yên
dân.
Lập đô ở Đan Phượng,
Thuộc Hà Nội ngày nay,
Cho xây điện Vạn Thọ
Để triều kiến hàng
ngày.
Tướng Tinh Thiều giỏi
chữ,
Được đứng đầu ban văn.
Còn đứng đầu ban võ
Là Phạm Tu phong trần.
Năm sau, vào tháng
Sáu,
Tướng Bá Tiên dẫn đầu
Một đoàn quân hùng
mạnh
Sang chiếm lại Giao
Châu.
Lý Nam Đế lập tức
Điều ba vạn nghĩa quân
Quyết một lòng bảo vệ
Đất nước mới Vạn Xuân.
Ở cửa sông Tô Lịch
Quân của ông bị thua.
Tướng Tinh Thiều tử
trận
Khi phá vây cứu vua.
Thế yếu, Lý Nam Đế
Rút về thành Gia Ninh,
Nay ở tỉnh Phú Thọ,
Để chấn chỉnh lương,
binh.
Tháng Giêng năm Bốn Sáu
Bá Tiên chiếm thành
này.
Tướng Phạm Tu tử trận,
Vua phải bỏ nơi đây
Để đến hồ Điển Triệt,
Huyện Lập Thạch bây
giờ.
Ông đóng nhiều thuyền
lớn,
Đậu kín cả mặt hồ.
Quân Lương không dám
tiến,
Chờ nước lụt dâng cao.
Bất ngờ nước dâng
thật,
Thuyền quân giặc kéo
vào.
Do không phòng ngự
trước
Quân của vua thua to,
Rút về động Khuất Lão,
Dai dẳng thế dằng co.
Năm Năm Trăm Bốn Tám,
Ở trong hang quá lâu,
Ông nhiễm bệnh, mù
mắt,
Qua đời mấy tháng sau.
Hưởng thọ bốn sáu
tuổi,
Trị vì được năm năm,
Vua băng hà, để lại
Lừng lẫy một tiếng
tăm.
Người vợ vua yêu quí,
Hoàng hậu Bùi Thị Quyền,
Cũng là một dũng
tướng,
Hy sinh cùng chiến
thuyền.
12
TRIỆU QUANG PHỤC (mất
571)
VÀ NHÀ HẬU LÝ
Lý Nam Đế khi mất,
Có dặn dò ân cần
Và trao lại quyền bính
Cho một người rất
thân.
Đó là Triệu Quang
Phục,
Người cùng bố giúp ông
Đánh giặc Lương đô hộ
Và gây dựng non sông.
Dưới triều đại nhà Lý
Ông là Tả tướng quân,
Người nắm quyền quân
sự
Đất nước trẻ Vạn Xuân.
Vâng mệnh, Triệu Quang
Phục,
Sau thành Triệu Việt
Vương,
Đã giữ vững bờ cõi,
Chống xâm lược nhà
Lương.
Ông là con Triệu Túc,
Người ở huyện Chu
Diên,
Nay nằm ở vùng đất
Phía Đông thành Long
Biên.
Hai cha con họ Triệu
Theo Lý Bí từ đầu,
Lập được nhiều công
lớn
Truyền tụng mãi về
sau.
Năm Năm Trăm Bốn Bảy,
Ông đến một đầm lầy
Có tên là Dạ Trạch,
Huyện Khoái Châu ngày
nay.
Đó là một đầm lớn,
Ở giữa có gò cao,
Cây cối rất rậm rạp,
Khó ra và khó vào.
Ông tập trung ở đấy
Những hơn hai vạn
người.
Dùng chiến thuật du
kích,
Giấu khói và giấu
người.
Trần Bá Tiên, tướng
giặc,
Muốn đánh nhanh thắng
nhanh,
Nhưng bị ông giữ lại,
Ngập chân trong bùn
sình.
Đêm, các thuyền độc
mộc
Đi từ bãi Tự Nhiên
Đến đánh úp lương thảo
Doanh trại Trần Bá
Tiên.
Quân giặc bị bắt sống
Hoặc bị giết hàng
nghìn.
Quân Lương rất mệt
mỏi,
Nhưng chỉ biết đứng
nhìn.
Năm Năm Trăm Bốn Tám,
Lý Nam Đế qua đời.
Ông xưng vương, điều
ấy
Hợp lẽ người, lẽ trời.
Tên nước vẫn như cũ,
Ông thành Triệu Việt
Vương,
Vẫn ở đầm Dạ Trạch,
Vẫn chiến đấu như
thường.
Một thời gian sau đó
Trần Bá Tiên về Tàu,
Giao Dương Sàn, tỳ
tướng,
Phải mai phục dài lâu.
Vua Vạn Xuân lập tức
Tung quân đánh họ
Dương.
Quân Lương thua, tan
vỡ
Phải chạy về Bắc
phương.
Đất nước hết bóng
giặc,
Hết chiến tranh triền
miên.
Vua và tôi nhà Triệu
Dọn về thành Long
Biên.
*
Lại nói Lý Nam Đế
Trước có người anh
trai
Tên là Lý Thiên Bảo,
Một dũng tướng có tài.
Khi vua Lý gặp khốn,
Bị bệnh, nằm trong
hang,
Ông và Lý Phật Tử,
Một người cùng họ
hàng,
Đem ba vạn binh mã
Đánh vào vùng Đức
Châu,
Nay thuộc đất xứ Nghệ,
Định tính kế dài lâu.
Họ giết Trần Văn Giới,
Một viên tướng người
Tàu,
Rồi đem quân ra Bắc,
Tiến đánh vùng Ái
Châu.
Trần Bá Tiên đánh trả,
Họ thua, sang Ai Lao,
Đến đất người Di Lạo,
Nay thuộc về nước Lào.
Binh lính chết già
nửa,
Chỉ còn hơn vạn người.
Họ chọn vùng đất rộng,
Màu mỡ và xanh tươi
Rồi lập nên nước mới
Đặt tên là Dã Tăng,
Còn tướng Lý Thiên Bảo
Tự xưng vương, Đào
Lang.
Khi vua Đào Lang chết,
Chỉ mấy năm sau này,
Không có con nối dõi,
Lý Phật Tử lên
thay.
Năm Năm Trăm Năm Bảy
Lý Phật Tử lên đường
Đem quân xuống giao
chiến
Với quân Triệu Việt
vương.
Hai bên đánh năm trận
Ở vùng đất Thái Bình.
Phật Tử biết mình yếu,
Bèn chủ động hoãn
binh.
Ông đề nghị vua Triệu
Cùng rút quân, giảng
hòa.
Hơn thế, còn mong muốn
Được trở thành thông
gia.
Con trai Lý Phật Tử,
Có tên là Nhã Lang,
Muốn lấy con vua Triệu
Là công chúa Cảo
Nương.
Còn nặng tình họ Lý,
Triệu Việt Vương gật
đầu,
Chia đất nước ông có
Thanh hai phần đều
nhau.
Phía Tây thuộc Phật
Tử,
Phía Đông của Việt
Vương.
Đất ai người ấy giữ,
Đúng như lẽ đạo
thường.
Đường ranh địa giới ấy
Là bãi sậy lơ thơ
Giữa làng Thượng, Hạ
Cát,
Huyện Từ Liêm bây giờ.
Sau đó Lý Phật Tử
Dọn đến thành Ô Diên
Nay là xã Hạ Mỗ,
Cũng thuộc huyện Từ
Liêm.
Hai bên cựu thù địch
Giờ giảng hòa với
nhau,
Thề thân ái, đoàn kết
Tới răng long, bạc
đầu.
*
Theo truyền thuyết kể
lại,
Khi lấy nàng Cảo
Nương,
Nhã Lang muốn tìm hiểu
Binh tình nhà Việt
Vương.
Năm Năm Trăm Bảy Mốt
Lý Phật Tử bội thề,
Đánh úp Triệu Quang Phục,
Bao vây khắp tứ bề.
Thế yếu không địch
nổi,
Cùng con gái của mình
Vua bỏ chạy, chạy mãi
Rồi hai người quyên
sinh.
Thế là nhà Triệu mất,
Trị vì hăm ba năm.
Nhà Lý được khôi phục
Sau bao nỗi thăng
trầm.
Lên ngôi, Lý Phật Tử
Đóng đô ở Phong Châu,
Cũng xưng Lý Nam Đế,
Các sử gia đời sau
Gọi là nhà Hậu Lý
Để phân biệt gian,
ngay
Giữa Lý Bí vua trước
Và Phật Tử vua này.
Nhà Tùy bên Trung
Quốc,
Hơn ba mươi năm sau
Cho quân sang đánh
chiếm,
Tướng Lưu Phương cầm
đầu.
Hay tin, Lý Phật Tử
Rút về thành Cổ Loa.
Bị bao vây, dụ dỗ,
Ông nộp mình xin hòa.
Cả hoàng tộc bị giết,
Một cảnh tượng đáng
thương.
Vua bị đưa về Bắc
Rồi cũng chết dọc
đường.
13
MAI THÚC LOAN (sinh
cuối thế kỷ thứ Bảy)
Năm Sáu Trăm Mười Tám
Thiết lập đời Nhà
Đường,
Một triều đại phong
kiến
Phát triển và hùng
cường.
“An Nam Đô Hộ Phủ”
Là tên gọi nước ta
Từ Sáu Trăm Bảy Chín,
Do nhà Đường đặt ra.
Trung tâm Đô Hộ Phủ
Được gọi là Tống Bình,
Nay Thủ Đô Hà Nội,
Xinh đẹp và văn minh.
Nhà Đường cho xây dựng
Nhiều tuyến đường giao
thông,
Giúp đi lại thuận
tiện,
Cả đường bộ, đường
sông.
Ở nước ta thời ấy,
Ngoài nông nghiệp, công
thương
Cũng dần dần phát
triển,
Kể cả ngành mía đường.
Tuy nhiên, dân vẫn
khổ,
Sống dưới ách ngoại
bang.
Chịu sưu cao thuế
nặng,
Cống nạp nhiều bạc
vàng.
*
Cuối thế kỷ thứ Bảy,
Ở Ngọc Trừng, Châu
Hoan,
Một vùng đất linh
kiệt,
Nay là huyện Nam Đàn,
Có cậu bé mười tuổi
Theo mẹ đi vào rừng.
Mẹ bị hổ vồ chết.
Hai mắt lệ rưng rưng,
Cậu thề sau khôn lớn
Giết hổ trả thù này.
Rồi cậu luyện tập võ
Rất chăm chỉ hàng
ngày.
Cậu đã giết được hổ,
Có sức mạnh hơn người,
Lại nuôi hoài bão lớn
Sẽ hành đạo cứu đời.
Đó là Mai Hắc Đế,
Tên thật Mai Thúc
Loan,
Một anh hùng dân tộc,
Sinh ở huyện Nam Đàn.
Ông mở nhiều lò vật,
Thành lập các phường
săn,
Luôn chiêu mộ trai
tráng,
Chuẩn bị sẵn khi cần.
Ông quen nhiều hào
kiệt,
Cả đằng trong, đằng
ngoài.
Sau trở thành chiến hữu,
Nhiều người thành
tướng tài.
Và rồi thời cơ đến,
Năm Bảy Trăm Mười Ba,
Ông dấy binh khởi
nghĩa
Ở ngay tại quê nhà.
Đó là cuộc khởi nghĩa
Chống lại ách nhà
Đường,
Nên nhanh chóng thu
hút
Người của khắp bốn
phương.
Nghĩa quân đang háo
hức,
Thế mạnh như chẻ tre,
Nông dân đến tụ nghĩa
Từ khắp mọi vùng quê.
Mai Thúc Loan nhanh
chóng
Hạ được rất nhiều
thành,
Giải phóng một vùng
lớn
Gồm cả đất xứ Thanh.
Ông lên ngôi, xưng đế,
Đóng đô ở Vạn An,
Nay là một vùng đất
Thuộc thị trấn Nam
Đàn.
Vua biết mình mệnh
thủy,
Thủy tượng trưng màu
đen,
Nên lấy hiệu Hắc Đế,
Chứ da ông không đen.
Ông cho xây thành lũy,
Rèn luyện lính đêm
ngày
Để chuẩn bị Bắc tiến,
Kho lương thảo chất
đầy.
Nghe nói cả hai nước
Khờ-me và Chiêm Thành
Cũng giúp ông khởi
nghĩa
Giúp đánh nhanh, thắng
nhanh.
*
Năm Bảy Trăm Mười Bốn
Mai Hắc Đế tiến binh,
Nhằm thẳng hướng Hà
Nội,
Lúc ấy gọi Tống Bình.
Thanh thế ông lớn lắm,
Có tới mười vạn quân.
Dọc đường đi, dân
chúng
Còn gia nhập thêm dần.
Viên tướng Quách Sở
Khách,
Thái thú của nhà
Đường,
Thế yếu, không địch
nổi,
Phải trốn về Bắc
phương.
Cả nước được giải
phóng,
Độc lập mười năm trời.
Mười năm không nô lệ,
Mười năm được làm
người.
Nhà Đường không cam
chịu.
Năm Bảy Trăm Hăm Hai
Đã xuất quân trấn áp.
Một cuộc chiến không
dài.
Tướng giặc, Dương Tư
Húc,
Đem mười vạn tinh binh
Theo đường thủy Đông
Bắc
Tấn công thành Tống
Bình.
Nhiều trận đánh khốc
liệt
Ở sông Lam, sông Hồng,
Dằng co hai thế trận
Phòng ngự và tấn công.
Cuối cùng Mai Hắc Đế
Phải rút vào rừng sâu.
Ông bị bệnh rồi mất,
Để lại một mối sầu.
14
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG
HƯNG
(mất năm 791)
Đường Lâm, đất long
mạch,
Gần thị xã Sơn Tây
Vốn xưa rất tươi tốt,
Nhiều gò và rừng cây.
Đất địa linh, nhân
kiệt,
Sản sinh nhiều người
hiền
Kể cả hai vua lớn -
Phùng Hưng và Ngô
Quyền.
Phùng Hưng thuộc dòng
dõi
Cự tộc và lâu đời.
Phùng Hạp Khanh là bố,
Tài đức quả hơn người.
Cụ tổ Phùng Tôi Cái
Từng phục vụ trong
cung
Của vua Đường Cao Tổ,
Cũng là bậc anh hùng.
Sau khi giúp Hắc Đế
Nổi dậy chống nhà
Đường,
Phùng Hợp Khanh trở
lại
Với cuộc sống đời
thường.
Ông chăm lo công việc,
Sớm trở thành rất
giàu.
Ba con trai sinh hạ.
Phùng Hưng là con đầu.
Tiếp đến là Phùng Hải.
Phùng Dĩnh - em thứ
ba.
Đến năm mười tám tuổi,
Mà côi cả mẹ cha.
Phùng Hưng được nối
nghiệp
Thành hào trưởng Đường
Lâm.
Ông cao to, khỏe mạnh,
Chính trực và công
tâm.
An Nam đô hộ phủ,
Là tên nước bấy giờ,
Do nhà Đường cai trị,
Quan thì lo vét vơ,
Dân quanh năm lao
dịch,
Lại sưu thuế nặng nề,
Đâu cũng nghe lời oán,
Khốn khổ đủ trăm bề.
*
Năm Bảy Trăm Bảy Sáu,
Nhân lính ở Tống Bình,
Nay là thành Hà Nội,
Nổi loạn trong trại
binh,
Phùng Hưng đã phát
động
Khởi nghĩa chống nhà
Đường,
Nhận được sự hưởng ứng
Của người khắp bốn
phương.
Chiếm Đường Lâm nhanh,
gọn,
Được Phùng Hưng dẫn
đầu,
Nghĩa quân chiếm phần
lớn
Vùng đất quanh Phong
Châu.
Lo xây thành, đắp lũy,
Ông và hai em trai
Chốt các nơi xung yếu
Để chiến đấu lâu dài.
Quan thứ sử Trung
Quốc,
Tức là Cao Chính Bình,
Nhiều lần đem quân
dẹp,
Thế trận cứ lình xình,
Hết đánh lại phòng
ngự,
Vừa đánh vừa nghỉ
ngơi,
Không thua cũng không
thắng
Suốt hai mươi năm
trời.
Năm Bảy Trăm Chín Mốt,
Được Anh Hàn tiên sinh
Làm quân sư chiến
lược,
Phùng Hưng đánh Tống
Bình.
Ông chia quân năm đạo,
Từ năm hướng vây
thành,
Vừa đánh vừa chiêu mộ
Thêm tướng và tân
binh.
Cao Chính Bình cố thủ,
Nhưng thân cô, thế cô,
Cuối cùng đổ bệnh chết
Vì sợ hãi, buồn lo.
Phùng Hưng lên thay
hắn
Cai trị đất An Nam.
Tiếc rằng ông chết
sớm,
Nhiều việc chưa kịp
làm.
Phùng An, con trai cả,
Nối ngôi, hai năm sau,
Năm bảy trăm chín mốt,
Được tướng giỏi dẫn
đầu,
Quân nhà Đường kéo
đến,
Quyết dành lại Tống
Bình.
Phùng An biết sức yếu,
Đành phải ra nộp mình.
Giặc truy lùng gay gắt
Cả gia tộc họ Phùng,
Nên người gia tộc ấy
Phải tỏa đi các vùng.
Người anh hùng dân tộc
Phùng Hưng chống nhà
Đường
Được nhân dân tôn tặng
Là Bố Cái Đại Vương.
Một đền thờ cổ kính
Ở Đường Lâm, Sơn Tây,
Thờ cúng ông từ ấy
Cho đến tận ngày nay.
15
KHÚC THỪA DỤ (mất năm
907), KHÚC HẠO (trị vì 907 – 917), DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (mất năm 937)
Cuối thế kỷ thứ Chín
Nhà Đường ở Trung Hoa
Đã hoàn toàn suy yếu.
Nhiều khởi nghĩa nổ
ra.
Lớn, và kéo dài nhất
Là khởi nghĩa Hoàng
Sào.
Vua Đường phải bỏ
trốn,
Lòng dân tình xôn xao.
Lợi dụng cơ hội ấy,
Hào trưởng quận Chu
Diên
Đã tập hợp dân chúng,
Cùng phất cờ đứng lên.
Ông là Khúc Thừa Dụ,
Quê Hồng Châu, Hải
Dương,
Sống khoan hòa, trung
thực,
Được dân chúng mến
thương.
An Nam vào thời ấy
Đổi thành Tĩnh Hải
Quân.
Tiết Độ Sứ người Hán
Độc ác và vô luân.
Hắn bị gọi về nước.
Độc Cô Tổn lên thay.
Rồi tên này thất sủng,
Cuối cùng phải đi đày.
Nhân thế, Khúc Thừa Dụ
Đánh chiếm thành Tống
Bình,
Tự xưng Tiết Độ Sứ,
Nắm quyền vào tay
mình.
Năm Chín Trăm Linh Sáu,
Vua Đường phải cho ông
Giữ chức Tiết Độ Sứ,
Dẫu ấm ức trong lòng.
Tiếc rằng năm sau đó
Khúc Thừa Dụ băng hà.
Con trai là Khúc Hạo
Được chọn lên thay
cha.
Khúc Hạo liền lập tức
Giảm sưu thế cho dân,
Chấn chỉnh lại hành
chính,
Bỏ lao dịch không cần.
Năm Chín Trăm Mười Bảy,
Khúc Hạo chết, tiếc
thay.
Con trai, Khúc Thừa Mỹ
Nối nghiệp cha, lên
thay.
*
Ở Quảng Châu lúc ấy,
Nhân nhà Đường rối
ren,
Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn
Mưu phản, lập nước
riêng.
Liên kết với Nam
Chiếu,
Tỉnh Vân Nam ngày nay,
Một mình ông cát cứ
Vùng đất rộng lớn này.
Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn
Chết năm Chín Trăm Mười.
Lưu Nham lên thay thế,
Thu phục được lòng
người.
Năm Chín Trăm Mười Bảy,
Lưu Nham lập nước
riêng,
Đặt tên là Nam Hán,
Mưu toan chiếm láng
giềng.
Thế là giặc Nam Hán,
Năm Chín Trăm Ba Mươi
Đem đại binh đánh
Việt,
Kiểu lấy thịt đè
người.
Khúc Thừa Mỹ thất
trận,
Bị bắt, đưa về Tàu.
Nam Hán cử Lý Tiến
Sang cai trị Giao
Châu.
Hay tin, Dương Đình
Nghệ,
Một tướng tài, thông
minh,
Đem quân từ Thanh Hóa,
Tấn công thành Tống
Bình.
Quân Nam Hán lo sợ,
Cố thủ không chịu ra,
Chờ viện binh đến cứu.
Nhưng đường hiểm và
xa,
Nên khi viện binh tới,
Ông đã hạ Tống Bình,
Hơn thế, còn đánh
chặn,
Chém đầu tướng viện
binh.
Danh tướng Dương Đình
Nghệ
Vốn quê ở làng Giàng,
Nay Triệu Dương, Thanh
Hóa,
Thuộc dòng họ vẻ vang.
Ông vốn là hào trưởng,
Rất giàu và thương
người.
Nghe nói ông từng có
Những ba nghìn con
nuôi.
Đánh xong giặc Nam
Hán,
Ông tự phong cho mình
“Giao Châu Tiết Độ Sứ”
Và nắm hết quyền binh.
Noi theo gương Khúc
Hạo,
Liêm khiết và tài ba,
Ông tiếp tục phát
triển
Nền tự chủ nước nhà.
16
NGÔ QUYỀN (898 - 944)
Người anh hùng dân
tộc,
Tiền Ngô vương Ngô
Quyền,
Trong lòng người dân
Việt
Là một vị vua hiền.
Bằng chiến thắng lịch
sử
Trong trận Bạch Đằng
giang,
Ông đặt dấu chấm hết
Nghìn năm ách ngoại
bang.
Từ đấy nền độc lập
Và tự chủ nước nhà
Được khẳng định thêm
nữa
Trong hơn nghìn năm
qua.
Ông con một hào trưởng
Thế lực lớn, công dày
Ở châu Đường Lâm cũ,
Nay thuộc huyện Hà
Tây.
Mới lọt lòng, thầy
tướng
Thấy ba chấm sau lưng,
Liền sụp lạy mà phán
Sau danh tiếng lẫy
lừng.
Nước Việt ta ngày ấy
Gọi là Tĩnh Hải Quân,
Do nhà Đường cai trị,
Dân khổ sở muôn phần.
Mà triều chính lúc đó
Cũng rối ren nhiều bề.
Nhà Đường đang suy
sụp,
Quan lại thì nhiêu
khê.
Hào trưởng Dương Đình
Nghệ
Thắng Nam Hán, dần dần
Trở thành Tiết độ sứ,
Cả vùng Tĩnh Hải Quân.
Họ Dương lắm kẻ mạnh,
Họ Ngô nhiều người
hiền,
Liên kết, gả con gái
Cho chàng trai Ngô
Quyền.
Rồi Ngô Quyền được cử
Cai trị đất Ái Châu,
Một vùng đất rộng lớn,
Đông dân và khá giàu.
Năm Chín Trăm Ba Bảy,
Kiều Công Tiễn đê hèn
Sát hại Dương Đình
Nghệ
Rồi thâu tóm toàn
quyền.
Bị nhiều người phản
đối,
Tiết độ sứ họ Kiều
Sang cầu quân Nam Hán.
Lợi ít, nhục thì
nhiều.
Ngô Quyền đem binh
lính
Từ Châu Ái đánh ra,
Giết chết Kiều Công
Tiễn,
Nhanh chóng rửa thù
nhà.
Rồi ông lo chuẩn bị,
Quân và dân một lòng,
Đợi quân Hán xâm lược,
Đóng cọc các dòng
sông.
Năm Chín Trăm Ba Tám,
Ở cửa sông Bạch Đằng
Thuyền của quân Nam
Hán
Sa bẫy cọc đang giăng.
Phần bị cọc đâm thủng,
Phần bị thuyền Ngô
Quyền
Đánh đắm hơn một nửa.
Rồi sông nước lại yên.
Tướng giặc Lưu Hoằng
Tháo
Bỏ mạng nơi chiến
trường.
Từ đó giặc phương Bắc
Bỏ mộng chiếm Nam
phương.
Ngô Quyền xưng vương
đế,
Đóng đô ở Cổ Loa,
Lập nên triều đại mới,
Làm vẻ vang nước nhà.
Trong những năm sau đó
Ông làm rất nhiều điều
Để chấn hưng kinh tế,
Được mọi người thương
yêu.
Bốn sáu tuổi, ông mất,
Trị vì được sáu năm,
Rồi nhà Ngô sụp đổ
Năm Chín Trăm Sáu Lăm.
17
NƯỚC CHĂM-PA
Nước ta, các cháu
biết,
Trải qua bao đời nay
Nhờ cha ông xây dựng
Mới được như thế này.
Ở phía Nam Trung Bộ
Xưa có nước Chăm-pa,
Từng một thời hưng
thịnh,
Nay thuộc về nước ta.
Cháu con dân nước ấy
Giờ tạo thành một phần
Của gia đình Đại Việt,
Sống trong tình tương
thân.
Nhiều di tích văn hóa
Còn giữ đến ngày nay.
Mai sau các cháu lớn,
Sẽ đến thăm nơi này.
Ngày xưa, khi người
Hán
Chiếm Giao Chỉ, Cửu
Chân,
Họ cho quân đánh tiếp,
Chiếm đất của người
Chăm.
Họ lập ra huyện mới
Đặt tên là Tượng Lâm,
Rồi nhập vào thành
quận,
Đó là quận Nhật Nam.
Tượng Lâm là huyện
lớn,
Xa nhất ở quận này
Gồm Quảng Nam, Quảng
Ngãi
Và Bình Định ngày nay.
Người Chăm cổ lúc ấy
Thuộc văn hóa Sa Huỳnh,
Biết dùng đồng, dùng
sắt,
Sinh hoạt đã văn minh.
Dân Giao Châu, Giao
Chỉ
Đầu thế kỷ thứ hai
Đã nhiều lần nổi dậy,
Khiến quân giặc chạy
dài.
Dân Tượng Lâm nhân thế
Cũng nổi dậy theo ta.
Quân nhà Hán bất lực
Đối phó với quận xa.
Họ giành được độc lập.
Năm Một Trăm Chín Ba,
Đặt tên nước Lâm Ấp,
Rồi xây dựng quốc gia.
Khu Liên, vua của họ,
Có đội quân khá đông,
Đến những bốn, năm
vạn,
Rất vững về quốc
phòng.
Rồi Lâm Ấp đánh chiếm
Các vùng đất mỡ màng
Của người Cau bản địa,
Đến tận Nam Phan Rang.
Họ đánh lên phương
Bắc,
Chiếm dãy núi Hoành
Sơn
Vốn là đất nước Việt,
Bốn mùa cây xanh rờn.
Rồi họ đổi tên nước,
Lâm Ấp thành Chăm-pa,
Đóng đô ở Trà Kiệu,
Hay Sin-ha-pu-ra.
Nhà nước này cực thịnh
Thế kỷ thứ Chín, Mười.
Đến nay còn sót lại
Nhiều di tích tuyệt vời.
Đó là các đền, tháp
Ở Ninh Thuận, Quảng
Nam,
Các bức tượng tuyệt
đẹp
Mang đậm văn hóa Chàm.
Dân Chăm theo đạo Phật
Và đạo Bà La Môn.
Người chết được hỏa
táng,
Rắc xuống sông, không
chôn.
Họ có riêng chữ viết,
Từ chữ Phạn mà ra.
Văn hóa gốc Ấn Độ
Thấm đẫm nền thi ca.
Chăm-pa là đất nước
Chịu chiến tranh nặng
nề.
Phía Bắc, từ Đại Việt,
Phía Nam, từ Khơ-me.
Năm Một Bốn Bảy Một,
Quân vua Lê Thánh Tông
Chiếm nửa nước phía
Bắc,
Giải vua về Thăng
Long.
Nửa phía Nam còn lại
Bị Chúa Nguyễn về sau
Dần dần thôn tính hết
Bằng nhiều cách khác
nhau.
Vương quốc Chăm-pa cổ
Năm Một Tám Ba Hai
Chính thức ngừng tồn
tại,
Sau chín thế kỷ dài.
18
NƯỚC PHÙ NAM, NƯỚC
CHÂN LẠP
Phù Nam là nước cổ,
Từng nổi tiếng một
thời
Khắp vùng Đông Nam Á,
Đất rộng và đông
người.
Hơn hai nghìn năm
trước,
Ở Nam Bộ ngày nay
Có một nền văn hóa
Của quốc gia cổ này.
Các nhà khảo cổ học
Gọi nó là Ốc Eo.
Di tích nó để lại
Đến nay vẫn còn nhiều.
Trên nền văn hóa ấy,
Quốc gia cổ Phù Nam
Hình thành, rất phát
triển,
Thế kỷ Ba đến Năm.
Đó là một vương quốc,
Do nhà vua đứng đầu.
Dưới có nhiều nước nhỏ,
Không gọi quận hay
châu.
Người dân theo đạo
Phật
Và đạo Bà La Môn.
Tiếng nói hệ Nam Đảo,
Trồng lúa để sinh tồn.
Họ cũng giỏi đánh cá
Và các nghề thủ công,
Biết gao dịch, buôn
bán,
Mở đường ra Biển Đông.
Đến thế kỷ thứ Bảy,
Nước Phù Nam, tiếc
thay,
Bị Chân Lạp thôn tính.
Chấm hết quốc gia này.
Đến thế kỷ Mười Tám,
Một phần nước Phù Nam
Tách khỏi nước Chân
Lạp,
Rồi nhập vào Việt Nam.
Phần nước Phù Nam ấy
Là Nam Bộ bây giờ.
Một vùng đất mầu mỡ,
Những dòng sông lững
lờ.
*
Nhân tiện ông cũng
nói,
Dẫu qua loa, đôi lời
Về đất nước Chân Lạp,
Từng hưng thịnh một
thời.
Chân Lạp là vương quốc
Đầu tiên của Khơ Me.
Vốn là một nước nhỏ
Của Phù Nam xưa kia.
Đến thế kỷ thứ Sáu
Nó tách thành nước
riêng,
Rồi mở mang bờ cõi,
Chiếm các nước láng
giềng.
Giữa thế kỷ thứ Bảy,
Nó thôn tính Phù Nam
Thành một nước rất
rộng,
Đông Bắc giáp nước
Chàm.
Phía Tây là nước Thái.
Gồm Cam-pu-chi-a
Và thêm một số tỉnh
Vùng Nam Bộ nước ta.
Nhưng rất nhanh sau
đó,
Đất nước họ bất an.
Đầu thế kỷ thứ Chín
Thì tan rã hoàn toàn.
Vậy là nước Chân Lạp,
Một quốc gia phương
Đông
Sau gần ba thế kỷ
Phát triển rồi suy
vong.
Phần Hai
TỪ THẾ KỶ THỨ 10 ĐẾN
THẾ KỶ 19
Ông cháu mình, như vậy
Đã có chuyến hành trình
Xuyên suốt mười thế kỷ
Từ buổi đầu bình minh
Cha ông ta dựng nước,
Đến thế kỷ thứ Mười,
Thoát khỏi vòng nô lệ,
Chúng ta được làm
người.
Từ hôm nay ông kể
Về lịch sử nước nhà
Chín thế kỷ bảo vệ
Nền độc lập quốc gia.
Thế nào? Chuyến du
lịch
Cũng thú vị, đúng
không?
Ngược thời gian tìm
hiểu
Lịch sử của cha ông.
Lịch sử, các cháu ạ,
Là môn không chỉ hay
Mà cực kỳ cần thiết
Cho các cháu ngày nay.
Khi không biết lịch sử
Là ta không biết mình.
Quên mất gốc dân tộc,
Tức là quên nghĩa
tình.
Ông cha ta dựng nước,
Trả giá bằng máu
xương.
Ta, những người kế
tục,
Quên là trái lẽ
thường.
*
Ngày xưa vua Tự Đức
Cấp tiền và cấp nhà
Để ông Lê Ngô Cát
Viết Quốc Sử Diễn Ca.
Đó là bộ sách lớn
Gần bốn nghìn câu thơ
Viết theo thể lục bát,
Nhiều người thuộc đến
giờ.
Đã là con dân Việt
Thì phải biết sử mình.
Vua Tự Đức làm thế
Là ông vua thông minh.
Nay ông cũng bắt
chước,
Viết Quốc Sử Diễn Ca
Bằng kiểu thơ năm chữ,
Dễ hiểu và nôm na.
Nó như sách tham khảo,
Sách sử, lại bằng thơ,
Viết về thời dựng nước
Cho đến tận bây giờ.
Nhớ nhé, sách tham
khảo,
Chứ không phải giáo
khoa.
Giúp bổ sung kiến thức
Về lịch sử nước nhà.
Các cháu nhớ thỉnh
thoảng
Đọc lại tập thơ này.
Đọc để nhớ lịch sử
Và cả cổ tích hay.
1
BUỔI ĐẦU ĐỘC LẬP
VÀ ĐINH BỘ LĨNH (924 –
979)
Năm Chín Trăm Ba Tám
Ngô Quyền lên ngai
vàng,
Chấm dứt mười thế kỷ
Đô hộ của ngoại bang.
Ông nhanh chóng bỏ
chức
Tiết Độ Sứ Bắc Phương,
Thiết lập bộ máy mới
Từ dưới lên trung
ương.
Một số quan, tướng
giỏi
Được điều giữ các
châu.
Hoan Châu - Đinh Công
Trứ.
Kiều Công Hãn - Phong
Châu.
Tiếc là Năm Bốn Bốn,
Ông lâm bệnh, từ trần.
Con cả, Ngô Xương
Ngập,
Con thứ, Ngô Xương Văn
Còn trẻ người non dạ,
Bị Tam Kha, họ Dương,
Tiếm quyền, lên ngôi
báu,
Tự xưng là Bình Vương.
Bất bình trước việc
ấy,
Các phe phái dần dần
Lập nên nhiều cát cứ,
Thành mười hai sứ
quân.
Được tướng lĩnh ủng
hộ,
Năm Chín Trăm Năm Mươi
Ngô Xương Văn lật đổ
Dương Tam Kha, và rồi
Cho người rước anh cả
Về làm vua với mình.
Nhưng anh em lục đục,
Không yên lòng dân
tình.
Mười lăm năm sau đó,
Ngô Xương Văn qua đời.
Các thế lực cát cứ
Vẫn hoành hành nhiều
nơi.
Triều đình thì lục
đục.
Chỉ khốn khổ người
dân.
Đất nước bị chia cắt,
Loạn mười hai sứ quân.
*
Trong bối cảnh như
thế,
Xuất hiện một nhân
tài.
Bây giờ ông sẽ nói
Con người ấy là ai.
Đó là Đinh Bộ Lĩnh,
Sau thành Đinh Tiên
Hoàng,
Người đầu tiên xưng đế
Trong lịch sử Nam
Bang.
Sau nghìn năm Bắc
thuộc,
Dẹp mười hai sứ quân,
Lập nước Đại Cồ Việt,
Lo vỗ về muôn dân,
Ông là người khẳng
định
Chủ quyền nước Nam ta,
Mở đầu các triều đại
Phong kiến của nước
nhà.
Ông chấn hưng kinh tế
Bằng cách cho đúc
tiền,
Đồng Thái Bình Hưng
Bảo,
Loại tiền đồng đầu
tiên.
Bảy mươi triều sau đó
Theo ông đúc tiền
đồng,
Giúp kinh tế phát
triển,
Hàng hóa được lưu
thông.
*
Ông người làng Đại Hữu
Nay thuộc tỉnh Ninh
Bình.
Bố là Đinh Công Trứ,
Suốt đời theo nghiệp
binh.
Không may bố mất sớm,
Ông theo mẹ về quê,
Phải nương nhờ ông
chú,
Cũng vất vả đủ bề.
Ngày nhỏ Đinh Bộ Lĩnh
Cùng lũ trẻ chăn trâu
Thường chơi trò chiến
trận,
Phất cao cờ hoa lau.
Về sau, lũ trẻ ấy
Một số thành bạn hiền,
Theo ông dựng cơ
nghiệp
Như Nguyễn Bặc, Đinh
Điền.
Dẫu nhà nghèo, còn
nhỏ,
Ông thường xưng là
vua,
Bắt lũ trẻ phục dịch
Trong các trò chơi
đùa.
Nghe người ta kể lại,
Một lần, để “khao
quân”,
Ông giết bò của chú,
Rồi cả bọn cùng ăn.
“Bò đâu?” ông chú hỏi.
Ông bèn chỉ chiếc đuôi
Cắm xuống bùn, và nói:
“Bò chui xuống đất
rồi!”
*
Sau khi Ngô Quyền mất,
Đất nước suy yếu dần,
Rồi loạn, như đã nói,
Loạn mười hai sứ quân.
Tức là loạn cát cứ,
Mỗi người chiếm một
phương.
Lại mất mùa, đói kém,
Người dân khổ trăm
đường.
Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh
Tự dấy quân, chiêu
binh,
Sau nhập với Trần Lãm
Cát cứ ở Thái Bình.
Khi tướng Trần Lãm
chết,
Ông được tôn lên thay,
Lại chiêu binh thêm
nữa,
Thế lực lớn từng ngày.
Từ Hoa Lư hiểm trở,
Ông xuất quân, lên
đường,
Rồi đánh đâu thắng đó,
Tự xưng Vạn Thắng
Vương.
Cuối cùng, ông lần
lượt
Dẹp hết các sứ quân,
Thống nhất cả đất
nước,
Hợp ý trời, lòng dân.
Ông lên ngôi Hoàng Đế,
Năm Mậu Thìn, tháng
Tư,
Tức Chín Trăm Sáu Tám,
Lập đô ở Hoa Lư.
Quốc hiệu Đại Cồ Việt.
Thiết lập các chế
triều,
Ban sắc các hàm phẩm,
Chỉnh lý rất nhiều
điều.
*
Hoàng Đế Đinh Bộ Lĩnh
Mười hai năm trên
ngôi,
Chỉ thọ năm lăm tuổi
Vì chết thảm, than ôi.
Số là do yêu quí
Con út là Hạng Lang,
Lúc ấy mới bốn tuổi,
Ngài cho kế ngai vàng.
Trong khi đó, Đinh
Liễn
Là con trưởng của
Ngài,
Người lập nhiều công
trạng,
Lại bị gạt ra ngoài.
Vậy là xẩy ra họa,
Cái họa của bao người
Khi bỏ trưởng lập thứ,
Thêm bài học cho đời.
Đinh Liễn, lúc tức
giận,
Xuống tay giết Hạng
Lang,
Còn vua thì bị giết
Bởi tên quan hạng
xoàng.
Tên hắn là Đỗ Thích,
Do một đêm nằm mơ
Thấy sao rơi vào
miệng,
Nghĩ mình sẽ làm vua,
Hắn giết Đinh Bộ Lĩnh,
Đinh Liễn Nam Việt
vương.
Một âm mưu quen thuộc,
Nhơ bẩn và tầm thường.
Tuy nhiên, hai người
chết
Có thể có bàn tay
Của một số người khác.
Mà thôi, chuyện sau
này.
Bây giờ, trước khi
nghỉ,
Ông kể truyền thuyết
này,
Cũng về Đinh Bộ Lĩnh,
Được lưu truyền lâu
nay.
CON NGỰA ĐÁ
Ngày xưa, ở làng nọ
Có một người đàn bà
Tên gọi là Đàm Thị,
Sống bằng nghề nông gia.
Một hôm ra suối tắm,
Khi cởi hết áo quần,
Thấy có con rái cá
Đang lừng lững đến gần,
Bà sợ quá, ngất xỉu,
Khi tỉnh lại, thấy mình
Nằm cạnh con rái cá,
Người trần truồng, thất kinh,
Bà vội mặc quần áo,
Cuống quít chạy về nhà,
Giấu chồng, không dám kể
Câu chuyện vừa xẩy ra.
Hơn chín tháng sau đó,
Theo lẽ rất bình thường,
Bà sinh một đứa bé
Khôi ngô và dễ thương.
Mấy năm sau, chồng chết,
Bà thấy con trai mình,
Tên là Đinh Bộ Lĩnh,
Khỏe mạnh và thông minh.
Đặc biệt về bơi lội,
Cậu có thể hàng giờ
Lặn sâu, không cần thở,
Mãi không chịu lên bờ.
Còn con rái cá nọ,
Dẫu trốn sâu trong hang,
Có người bắt, làm thịt,
Đem chia cho cả làng.
Đàm Thị không ăn thịt,
Chỉ lấy một ít xương,
Đem phơi khô, hong bếp
Rồi giấu dưới gậm giường.
*
Một ông thầy địa lý,
Người Tàu, từ Nam Kinh,
Đến đây tìm long mạch
Để táng cốt cha mình.
Khi đến dòng suối nọ,
Thấy có ánh hào quang
Chiếu lên sao Thiên Mã,
Ông ta liền vội vàng
Cho tiền Đinh Bộ Lĩnh,
Bảo lặn xuống xem sao.
Lặn ở chỗ sâu nhất,
Nơi nước réo ào ào.
Chàng lặn xuống, chợt thấy
Con ngựa đá khổng lồ.
Nó nhìn chàng giận giữ,
Chiếc miệng há rất to.
Chàng sợ quá, quay lại
Nói với ông người Tàu.
Ông đưa một bó cỏ,
Bảo đem xuống thật mau.
Sau khi nghe chàng nói
Ngựa ăn cỏ, ông này
Liền kêu lên sung sướng:
“Long mạch chính là đây!
Ai táng cốt bố mẹ
Vào nơi này khác thường,
Nhờ long mạch nhất định
Sẽ được phát đế vương!”
Rồi lão đưa hài cốt
Của cha lão cho chàng,
Bảo mang cho ngựa đá,
Hứa thưởng một đồng vàng.
Chàng lặn xuống lần nữa,
Nhét xương bố lão này
Vào một ngách đá hẻm
Mà lão chẳng hề hay.
Hôm ấy về gặp mẹ,
Kể chuyện này lạ kỳ.
Chàng hỏi hài cốt bố,
Bà im, chẳng nói gì.
Rồi bà đưa cái gói
Xương rái cá ngày nào,
Bảo đấy là xương bố,
Đem cho ngựa xem sao.
Đinh Bộ Lĩnh lập tức
Làm theo lời mẹ chàng,
Và rồi, nhờ long mạch,
Sau thành Đinh Tiên Hoàng.
*
Lại nói thầy địa lý,
Nghe tin chàng xưng vương,
Biết rằng mình bị lỡm,
Liền khăn gói lên đường.
Lão đến Đại Cồ Việt,
Xin được vào gặp vua,
Bảo tình xưa, bạn cũ.
Lão được gặp, và thưa:
“Dạ, muôn tâu hoàng thượng,
Cũng nhờ bởi phúc trời
Mà Ngài dựng nên nghiệp,
Thu phục được muôn người.
Nhưng thiết nghĩ ngựa đá
Cần thêm thanh gươm này
Để giúp Ngài trị nước
Và hưng thịnh từ nay.”
Nói đoạn, lão cung kính
Dâng chiếc gươm sáng ngời,
Hai lưỡi đều rất sắc.
Bản tính vốn tin người,
Vua nhận gươm, sai lính
Lặn xuống suối, và rồi
Đeo nó lên cổ ngựa,
Không biết rằng, than ôi,
Ngài đã mắc mưu lão,
Rơi vào thế hiểm nghèo:
Gươm cứa đứt cổ ngựa,
Long mạch cũng đứt theo.
Vậy là vua sơ ý
Giết quí nhân của mình.
Cũng nhanh chóng chấm dứt
Triều đại của nhà Đinh.
2
LÊ ĐẠI HÀNH (941 -
1005) VÀ NHÀ TIỀN LÊ
Năm Chín Trăm Bảy Chín,
Có sự kiện đau lòng -
Đinh Tiên Hoàng bị
giết.
Cả Đinh Liễn, con ông.
Vì vua còn nhỏ tuổi,
Lê Hoàn, một tướng
tài,
Được chọn giúp ấu
chúa,
Luôn thường trực bên
ngai.
Bây giờ ông sẽ kể
Về ông tổ Tiền Lê,
Người bắt quân nhà
Tống
Chịu thất bại nặng nề.
Sau vua Đinh Bộ Lĩnh
Là vua Lê Đại Hành,
Một ông vua kiệt xuất
Được sử sách lưu danh.
Khởi dựng triều đại
mới,
Lo chấn hưng nước nhà,
Bình Chiêm và phá
Tống,
Nâng vị thế quốc gia,
Ông là vị tướng giỏi,
Công tâm khi dùng
người,
Khôn ngoan trong giao
tế,
Để tiếng tốt cho đời.
Theo sử sách ghi lại,
Ông xuất thân nghèo
hèn.
Cha ông là Lê Mịch,
Mẹ là Đặng Thị Sen.
Trường Châu là bản
quán,
Nay thuộc tỉnh Ninh
Bình.
Cũng có người nói khác
Về quê gốc, nơi sinh.
Cha mẹ qua đời sớm,
Được chú nuôi, và ông
Lớn lên, theo Đinh
Liễn,
Lập được nhiều chiến
công.
Ông giúp Đinh Bộ Lĩnh
Dẹp loạn sứ, yên dân,
Được phong Đại Nguyên
Soái,
Chức Thập Đạo Tướng
Quân.
Lúc ấy ông còn trẻ,
Mới hăm bảy tuổi đời,
Nhưng có tài thao
lược,
Biết thu dụng lòng
người.
Đinh Tiên Hoàng bị
giết,
Triều đình đang bất
an,
Ông trở thành nhiếp
chính
Cho ấu chúa Đinh Toàn.
Các đại thần nổi loạn,
Phía Nam họa Chiêm
Thành,
Phía Bắc có giặc Tống,
Để mất nước sao đành?
Nên tướng Phạm Cự
Lạng,
Thái hậu Dương Vân Nga
Tôn ông lên ngôi báu
Để cứu nguy nước nhà.
Ông lên ngôi Hoàng Đế,
Xưng là Lê Đại Hành,
Đặt niên hiệu Thiên
Phúc,
Hoa Lư là kinh thành.
Ông khuyến khích nông
nghiệp,
Là vị vua đầu tiên
Hàng năm cho mở lễ
Gọi là lễ Tịch Điền.
Ông cho dân đào đắp
Rất nhiều kênh và sông
Để lấy nước tưới ruộng
Và tiện bề lưu thông.
*
Đầu năm Tám Chín Một
Quân Tống đánh Đại Cồ,
Chia hai đường thủy
bộ,
Thanh thế đang rất to.
Đường bộ qua xứ Lạng,
Đường thủy theo Bạch
Đằng,
Nơi quân ta đóng cọc
Thành thế trận đang
giăng.
Ở bến sông Tây Kết,
Chúng thất bại ê chề,
Nhiều dũng tướng bị
giết,
Quân bộ đành rút về.
Công đầu của đại thắng
Thuộc về Lê Đại Hành,
Một nhà quân sự lớn,
Còn lưu mãi sử xanh.
Vua đích thân ra trận,
Nhờ thao lược của ông
Mà xác quân Tống chết
Ngập núi và đầy sông.
*
Chỉ một năm sau đó
Vua cử Ngô Tử Canh
Và Từ Mục đi sứ
Sang đất nước Chiêm
Thành.
Họ bị Chiêm giữ lại.
Vua tức giận, ngày đêm
Sai chuẩn bị thuyền
chiến,
Tự mình đi bình Chiêm.
Trong một thời gian
ngắn
Lê Đại Hành thắng to,
Chém vua Chiêm tại
trận,
Thành quách đốt thành
tro.
Tù binh nhiều vô kể,
Có cả sư, nữ tỳ,
Vàng bạc thu ức vạn,
Không thiếu một thứ
gì.
Hăm sáu năm trị quốc,
Vua sáu lần dấy binh
Đánh quân Chiêm quấy
phá,
Giữ biên giới yên
bình.
*
Vua Lê Đại Hành chết,
Để lại một giang sơn
Hùng cường và thống
nhất,
Nhưng thật tiếc, các
con
Lại tranh nhau ngôi
báu,
Lại huynh đệ tương
tàn,
Khiến bỏ bê chính trị
Và dân chúng lầm than.
Rồi đời Lê chấm dứt
Bằng ông vua xấu xa
Là Ngọa Triều Long
Đĩnh,
Gian ác và dâm tà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét