Thứ Hai, 23 tháng 3, 2020

Cổ Thi Tác Dịch



THÁI THUẬN
Còn gọi là Sái Thuận, nhà thơ lớn thời Hậu Lê, sinh năm 1440, ngày mất không rõ. Đỗ tiến sĩ 1475, quê ở Siêu Loại, Bắc Ninh, được Lê Thánh Tông đặc cách ban phong “Tao Đàn Phó nguyên súy” (tức chỉ sau vua trong câu lạc bộ thơ nổi tiếng thời bấy giờ). Ông tổ của dòng họ Thái Bá ở Nghệ An về sau, mà dịch giả Thái Bá Tân của tập thơ này là một hậu duệ. Tác phẩm có “Lã Đường di cảo thi tập”, được dịch in ở miền Nam trước giải phóng, năm 1972, và ở miền bắc năm 1974 và 1990. Thơ Thái Thuận tinh tế, tao nhã, rất được người đương thời ca tụng. Trong tập Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ có hẳn một truyện nói về ông.


605. Bến Hoàng Giang

Hoàng Giang, thuyền ghé bến.
Nhà tranh khói bập bồng.
Trẻ con, ba bốn đứa
Tìm bắt cáy ven sông.


606. Tiễn biệt

Sớm - oanh hót vườn cấm.
Chiều - yến bay gần xa.
Đầu hè chơi thỏa thích,
Chợt muốn về vườn nhà


607. Oán mùa xuân ở Tây Hồ

Đêm đêm thấm lạnh ánh trăng tà.
Không thuộc nhà nào, xuân cứ qua.
Cuộc vui đã hết, buồn ngơ ngác,
Buồn không ai đến hỏi mua hoa.


608. Đi thuyền trên sông La, ngẫu nhiên làm thơ

Trên sông trăng gió gọi xa xa.
Chong đèn bên sách thức mình ta.
Chim cuốc từ đâu kêu da diết.
Muốn ngủ nằm mơ thấy ở nhà.


609. Nhìn khói xuân buổi sáng sớm

Nguyệt lặn, xa xa hửng sáng dần.
Hoa lồng bóng nguyệt múa ngoài sân.
Theo mặt trời lên, trăng xạm tối,
Trao hàng liễu biếc cái sầu xuân.


610. Làng ven núi

Mưa tạnh, đường làng ngập xác hoa.
Nhao nhác quạ bay giữa nắng tà.
Ông lão bạc đầu hờ hững quét
Cánh đỏ cánh vàng chẳng xót xa.


611. Chiều muộn bên sông

Bãi sông, nhân nước ngập,
Nhà nông tranh thủ cày,
Giục trâu đi, cò trắng
Giật mình, nháo nhác bay.


612. Đêm thu

Như nước, trời xanh ngỡ rất gần.

Ngô đồng không gió, rụng đầy sân.
Một mình ngồi ngắm cầu ô thước,
Thuyền thơ cập bến giữa sông Ngân.


613. Buổi sáng, xuất phát sớm từ làng ven sông

Xóm chài gà gáy rộn đâu đây.
Trăng mờ khói nước phía trời tây.
Gió thổi bờ lau, thu vạn dặm.
Mờ mờ bãi cát cánh chim bay.


614. Đêm xuân

Trăng chiếu qua rèm, trắng lẫn đen.
Không người dệt gấm để hàn huyên.
Chợt tỉnh, như nghe ai khẽ gọi.
Sau bụi cúc vàng, tiếng đỗ quyên.


615. Xóm nhỏ ven sông

Trên sông triều rút, lộ cát lầy.
Từng đàn chim trắng rủ nhau bay.
Một chiếc áo tơi che khói lạnh.
Trên trời gió thổi, cuốn sông mây.


616. Trên đường Bồn Man lúc đi chinh tây

Xuống lên, đường núi một màu xanh.
Hoàn toàn im lặng bốn xung quanh.
Chỉ tiếng mùa thu đang lặng lẽ
Rơi theo từng nhịp trống quân hành.


617. Trào lộng

Giữ mình, luôn đóng cửa phòng the.
Kín đáo rèm châu phủ bốn bề.
Nhưng sao giữ được trăng và gió
Lọt vào tình tự lúc đêm khuya?


618. Đầu xuân

Năm cũ hết rồi, sương mới tan.
Đào chưa ra nụ, liễu yếu tàn.
Đa tình đám cỏ ngoài sân vắng
Đã kịp xanh rờn, chạy trước xuân.


619. Ngày hè

Công danh, phú quí chẳng bền lâu.
Rượu ngon hãy uống để xua sầu.
Chín chục ngày hè râm mát lạ.
Gió trời ai thổi, đến từ đâu ?


620. Đêm thứ năm tại nhà trực Kim Phong

Tiếng chày đập vải phía xa xa.
Bên hiên chênh chếch mảnh trăng tà.
Gối lạnh đêm khuya không ngủ được.
Vạn Xuân, man mác nỗi nhớ nhà.

621. Lui triều

Chuông lầu Ngũ Phượng vọng về đây.
Nhà ngọc, chầu tan, đợi suốt ngày.
Mùa đông giá lạnh, mây sà thấp.
Xế chiều gió thổi, cánh mai bay.


622. Nhớ nhà

Phía đông, sông Nhị đợi người về.
Quán trọ một mình, buồn ủ ê.
Thêm một mùa xuân đành lỗi hẹn,
Phụ tình chim cuốc gọi về quê.


623. Buổi chiều ở Tân Yên, nhìn ra xa

Mờ mờ nắng tắt phía trời tây.
Điếm canh như thấp, khác thường ngày.
Đất khách cái buồn còn trĩu nặng,
Thêm buồn trăng gió kéo vào đây.


624. Ngắm cảnh xuân ở Thuận An

Như gấm, khói giăng bụi trúc già.
Cây cam, khóm mía mọc bên nhà.
Ngắm cảnh thái bình vui mắt thật.
Một làn gió thổi, nở muôn hoa.


625. Trên đường Thái Nguyên

Thưa thớt dân cư, cỏ mọc dày.
Đất cằn, gió nóng sém rừng cây.
Ngày trước tai nghe, nay mắt thấy,
Làm gì để giúp đất này đây ?


626. Ngày thu lên chùa trên núi ở Đông Triều

Mưa tạnh, mây tan, nắng xế tà.
Mái chùa thấp thoáng phía xa xa.
Vài tiếng chim kêu, rừng tịch mịch.
Thu về, cây quế đã ra hoa.


627. Đêm thu ở thành Thanh Hoa

Đêm vắng một mình bên góc sân
Ngắm cầu Ô Thước bắc sông Ngân.
Một vành trăng sáng soi thiên hạ.
Chày vải đêm thu rộn cõi trần.


628. Ngày đông ở Chí Linh

Xế chiều, mai nở trắng khắp nơi.
Rượu nhạt mà ngon, uống ấm người.
Sương giá mùa đông chưa kịp tới,
Bốn bề cây cối vẫn xanh tươi.


629. Tạm đậu thuyền ở Bình Hà

Tháng Tám, trời trong, rộn tiếng gà.
Thuyền thơ đậu tạm bóng cây đa.
Ruộng lúa, bãi dừa, ăm ắp nước.
Triều dâng, trời hửng phía xa xa.


630. Đến bến đò Đại Than

Cây đa soi bóng nước xanh trong.
Bâng khuâng đi hết quãng đường đồng.
Tù túng mười năm ngồi một chỗ,
Bây giờ có dịp ngắm non sông.


631. Đề thơ ở đình Bến Chiền

Bụi đời chưa sạch, sáng hôm nay
Nhàn, buộc thuyền thơ ở bến này.
Núi sông cảnh đẹp lên thăm thú.
Chắc gì có dịp lại về đây!


632. Thơ để lại ở quan phủ Hải Dương

Chiều bến Bình Than, tiếng sáo thuyền.
Đêm chùa Phả Lại, Phật chong đèn.
Quan khách tới đây, thăm với viếng,
“Lo trước vui sau” mấy bậc hiền?


633. Thơ đề am Vân Tiên

Xuyên rừng, đường nhỏ uốn quanh quanh.
Lơ lửng trên cao, sáng một vành.
Gặp sư muốn hỏi mà không hỏi -
Ngại làm xáo động chốn rừng xanh.

634. Thơ đề tức cảnh chùa Tùng Nghiêm

Chuông chiều, trong núi quạ kêu ran.
Trùng điệp núi xanh, cây bạt ngàn.
Nhà chùa thanh đạm, không tơ trúc,
Chỉ tiếng thông reo như tiếng đàn.


635. Xuất phát từ Đại Than,
làm thơ lưu biệt các bạn ở Hải Dương

Kinh đô phía trước, vệt mờ xa.
Thuyền con một chiếc, chẳng nề hà.
Thân thiết như nhau, nam với bắc.
Nước ở Đại Than giống Nhị Hà.


636. Đầu xuân

Năm cũ qua rồi, thôi giá lạnh.
Hoa đào hé nụ, liễu chưa xanh.
Đám cỏ ngoài vườn, xuân mới đến,
Mà đã xanh tươi, thật hữu tình.


637. Sáng sớm, đi Đông Triều

Gà còn chưa báo sáng,
Thuyền đã đi, lúc này
Triều đang lên, nước đục,
Nhợt nhạt mảnh trăng gầy.
Gió lạnh thổi ngoài bãi.
Bến cá chìm trong mây.
Khúc Thương Lang ai hát,
Chim giật mình trên cây.


638. Thương xuân

Mặt trời lặng lẽ chạy về tây.
Chín chục thiều quang còn mấy ngày.
Oanh sầu, yến thảm thôn Hoa Rụng.
Bến đò, bãi cỏ phủ đầy mây.
Giấc mộng Nam Hoa 1) thường dễ mắc.
Ai như Bắc 2) Hải ở đời này?
Mờ mịt khói sông, trời chạng vạng.
Ngoái lại nhìn đời, buồn lắm thay.

1. Nam Hoa là tên sách của Trang Chu. Trong sách có chuyện Trang Chu mộng thấy mình hóa thành bướm bay nhởn nhơ rất thích, khi tỉnh ngỡ ngàng không biết mình hóa thành bướm hay ngược lại.
2. Bắc Hải  là hiệu của Khổng Dung, người đời hậu Hán, hào hoa phong nhã, trong nhà lúc nào cũng có khách, chén rượu không mấy lúc trống không.


639. Chiều xuân

Bèo nổi thân này, nghĩ xót xa.
Xuân đến, xuân đi, ai chẳng già.
Dưới cầu nước chảy, buông tơ liễu,
Trên sông não ruột tiếng đa đa.
Vô cớ, tán cây lồng bóng nguyệt.
Gió quyện hương thơm vẫn mặn mà.
Thiều quang chín chục không còn nữa.
Thẹn lòng hiếu thảo kẻ đi xa.


640. Đi sớm

Ra đi trời chưa sáng,
Trăng gặp người trên sông.
Ảo mờ như trong mộng.
Mây là là trên đồng.
Trước hoa đỗ quyên hót.
Đo đỏ đèn bãi nông.
Đi qua hết chợ cũ
Mới nghe chuông chùa Bồng.


641. Đầu xuân

Ba tháng đông qua, xuân lại về.
Khí trời chuyển ấm, gió se se.
Giá lạnh còn vương trên mặt nước,
Sắc xuân trên lá đã tràn trề.
Liễu lại xanh tươi, oanh chửa hót.
Chớm nụ hoa đào, vắng tiếng ve.
Hoàng hôn, ngoái lại nhìn quê cũ,
Du tử bùi ngùi những tái tê.


642. Đêm thu ở Tràng An

Tiếng chày đập vải vọng từ đâu.
Một mình quán trọ giữa thu thâu.
Khí mát đầy sân, cơn gió thổi.
Lạnh lẽo trăng soi nửa gác lầu.
Tù và rền rĩ trên thành vắng.
Dế khóc buồn buồn ngoài bãi dâu.
Trăm mối cảm thương không nén được.
Chỉ sợ sáng mai bạc trắng đầu.


643. Chiều xuân ở Tràng An

Tự biết tài hèn, chẳng dám khoe.
Tràng An 1) sống uổng, phí đam mê.
Nhà quan buồn vắng như nhà sãi.
Mùa đông vất vả giống mùa hè.
Thương con bướm múa nơi vườn uyển.
Phụ lòng chim cuốc gọi về quê.
Mua rượu, trong lưng tiền chẳng có.
Vợ con cơm cháo khổ trăm bề.

1. Còn gọi Trường An, tên đất thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Bắt đầu từ đời Hán các vua Trung Hoa đều đóng đô ở Tràng An. Sau này chữ Tràng An được dùng để chỉ thủ đô, cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.


644. Quán khách đêm thu

Nhà tranh che khuất vệt sao mờ.
Tiếng dế kêu hoài, buồn vẩn vơ.
Lá rụng một sân, thu sắp hết.
Nửa gối gió lùa, tỉnh giấc mơ.
Kẻ bắc người nam, nhiều nước mắt.
Trời đất xưa nay luôn hững hờ.
Bao bận tương tư, thi hứng tắt.
Cảm hoài, quán khách chẳng thành thơ.


645. Thơ đề ở chùa Phổ Lại

Núi đến đây gặp suối.
Núi chạy từ phía đông.
Tiếng chuông xuôi về biển.
Trăng thu soi xuống sông.
Rồng ngâm nước ngoài bãi.
Cò đứng ngủ bên song.
Thỉnh thoảng sư thức giấc
Vì tiếng sáo ngư ông.


646. Đêm thu tức sự

Mưa tạnh, sân đường hết bụi nhơ.
Đang đêm thu hứng đến bất ngờ.
Ngô đồng lá úa bay theo gió.
Lưa thưa bóng liễu dưới trăng mờ.
Sương lạnh, tiếng trùng như thấm nước.
Không cháy thành tro, cỏ đốt hờ.
Bắt chước người xưa Đào Bành Trạch 1),
Ngắm hoa, uống rượu, hứng - làm thơ.

1. Tức Đào Tiềm (365 - 427), người Đông Tấn, tự Uyên Minh, biêt hiệu Ngũ Liễu Tiên Sinh, nổi tiếng tài ba lỗi lạc, là nhà thơ lớn, thích uống rượu ngắm hoa cúc, tính tình phóng đạt.


647. Núi Vọng Phu

Đầu non hóa đá, ngày lại ngày
Chờ gặp lại chồng, chồng có hay?
Mỏi mắt bao năm nhìn phía trước,
Để hồn lặng lẽ thấm vào mây.
Sương đọng trong hoa như nước mắt.
Như tiếng thở dài, khói trên cây.
Nếu biết có người đau khổ thế,
Tương Phi 1) chắc đến khóc nơi này.

1. Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh khóc ở sông Tương, nước mắt rơi xuống làm sông đỏ rực. Người đời sau gọi hai bà là Tương Phi.


648. Chinh phụ ngâm

Cỏ đã lại xanh, lúa trĩu bông.
Bao lâu mới hết cảnh chờ chồng?
Một tiếng quyên kêu, rơi nước mắt.
Nửa rèm trăng úa, lạnh đêm đông.
Bóng nhạn cút côi bên ải bắc.
Sông nam xuân héo, nước xuôi dòng.
Mấy bận tương tư trong giấc mộng,
Thiếp đến với chàng, chàng biết không?


649. Nhìn mây trắng

Lớp lớp quê nhà mây trắng bay.
Động lòng thương nhớ, ngắm từ đây.
Quê hương nghìn dặm, nhìn heo hút.
Trăm năm mẫu tử một tình này.
Gạt lệ, tự tin ngày báo đáp.
Ai người múa áo ngũ sắc đây?
Vẹn tròn trung hiếu xưa nay hiếm.
Trời xanh chứng kiến tấm lòng ngay.


650. Cây chuối

Cao, với không đến ngọn
Vươn lên trời bao la.
Lớp lớp xanh biếc lá.
Tầng tầng đỏ rực hoa.
Đêm mưa nghe lọp độp.
Sột soạt gió thổi qua.
Đứng sít nhau thành dãy.
Cây non giống cây già.


651. Tiễn quan vệ úy người phủ Thiên Trường về quê

Nghe nói Sơn Nam mười mấy phủ,
Thiên Trường - phủ lớn, đẹp xưa nay.
Nhà công bên suối, nhiều tôm cá.
Xóm làng gần núi, trái đầy cây.
Giao Thủy, chuông chùa vương vệt nắng.
Phổ Minh, vạc cũ thấm sương dày.
Bác đi chuyến này vui là chính.
Cánh buồm man mác giữa trời mây.


652. Lên chùa núi Yên Tử

Hoa đồng, gió núi, mây phiêu diêu.
Lối đi cỏ mọc, đá xanh rêu.
Không mộng công danh, sư lánh tục.
Trúc già, vân đẹp tựa hoa thêu
Đắc đạo, đứng xem nhâm bụt nở.
Tĩnh tâm ngồi ngắm áng mây chiều.
Có tiếng người nào đang tiễn khách,
Xen tiếng hổ gầm, tiếng vượn kêu.


653. Tiễn quan kiểm thảo họ Ngô về Gia Lâm

Ngựa hý, chồn chân trước cổng thành.
Nắng hửng trên sông, én lượn quanh.
Đỗ quyên cánh đỏ nhờ hoa đỏ.
Cây xanh soi bóng, nước thêm xanh.
Bạn bè cũ mới cùng nâng chén.
Tà áo phất phơ, gió mát lành.
Đừng quên thân phụ đang chờ đợi.
Dặm trường ghềnh thác, nhớ về nhanh.


654. Trong thuyền, ở Nghệ An

Bầu trời xanh ngắt, khói mây bay.
Chơ vơ, tít tắp cánh buồm gầy.
Ganh đua, sông núi thi nhau chạy.
Buồn buồn sóng biển, gió heo may.
Trời già, luống thẹn thuyền câu nhỏ.
Sóng lặng, tiết trời ít đổi thay.
Vùng biển đông nam nhiều cá nhám,
Ngon như gỏi ngọc ở nơi này.


655. Chơi núi ở Thanh Giang 1)

Chẳng ngại hùm beo, núi chọc trời,
Sáng ngồi kiệu nhỏ, đến đây chơi.
Lối đi rừng rậm in chân thú.
Đường nhỏ đầy rêu, vắng bóng người.
Từ cao suối đổ, mang hơi lạnh.
Cây khẽ uốn mình, gió lả lơi.
Hành dinh Thánh Tổ cao vòi vọi,
Lưu danh thắng giặc đến muôn đời.

1. Tên cũ huyện Thanh Chương ngày nay ở Nghệ An.


656. Ở ẩn

Mỏi mệt, buồn lo, lấm bụi trần,
Chọn rừng lập xóm để nương thân.
Núi sông là cảnh, hoa là khách.
Không người, không ngựa đợi ngoài sân.
Đồng Giang 1) câu cá, quên cung Hán.
Chí Lĩnh 2) cày mây, lánh nạn Tần.
Bắt chước Đào Tiềm, xong việc lớn,
Ngũ Hồ du ngoạn thật nhàn thân.

1. Một con sông phát nguyên từ Tứ Xuyên. Nghiêm Tử Lang là vị cao hiền đời Hán, không chịu xuất sĩ, hàng ngày ngồi câu cá bên sông làm vui.
2. Tên núi ở Giang Tây. Giang Vạn Lý đời Tống bị kẻ nịnh gièm pha phải mất chức, đến núi Chí Lĩnh đào ao, làm vườn, vui sống ẩn dật.


657. Dậy sớm

Tam Thiên 1) giấc mộng vẫn còn đây.
Mùi thơm sách cổ vấn vương bay.
Dế khóc ngoài vườn, sương đã tạnh.
Dưới hồ trăng sáng, nước lung lay.
Chủ khách trước đèn lưu luyến mãi.
Hão huyền danh vọng chẳng hề hay.
Thôn nam, thôn bắc gà đang gáy.
Ngước mắt nhìn sao, đã rạng ngày.

1. Phật gọi vũ trụ là Tam Thiên Thế giới. Ở đây ý nói vừa chợt giấc, như đang trong mộng.


658. Tiễn Đỗ Minh Phủ 1)

Áo mỏng, quạt lông, đã mấy lần
Tây Hồ tôi bác dạo chơi xuân.
Đình viện đu tiên, hoa với bướm.
Lâu đài tiếng sáo, tiếng đàn ngân.
Một sớm gió mưa, thành cách biệt.
Đôi ngả hai người sông núi ngăn.
Hôm nay ngoái lại, thầm đau xót:
Đình Châu chỉ có bãi rau tần.

1. Không rõ là ai.


659. Hoàng Giang 1) tức cảnh

Sóng yên, tĩnh lặng một dòng sông.
Mắt nhìn trời đất rộng mênh mông.
Làng quê đây đó đèn le lói.
Hai phía triều dâng ngập lút đồng.
Bãi lau trăng chiếu, thuyền đơn độc.
Bến đò tiếng sáo nhẹ như không.
Lữ khách ngả lưng, vừa chợp mắt,
Canh ba giấc mộng đã say nồng.

1. Tên khúc sông Hồng ở địa phận Hà Nam.


660. Cầu Mặc Động 1)

Khe sâu, cầu ván bắc ngang qua,
Gần con đường nhỏ chạy bên nhà.
Trên núi trăng lên, tre đổ bóng.
Trong làng gió vẳng tiếng đàn ca.
Như thể bờ đi, thuyền đứng lặng.
Nước trong như muối, chảy hiền hòa.
Con cáy dưới cầu đang nghịch cát,
Dút dát, thấy người, vội lánh xa.

1. Chưa rõ nơi nào.


661. Sáng sớm, qua cửa biển Trầm Hào

Côi cút ngọn đèn ở bến sông.
Gió yên, mây đứng lặng trên không.
Sóng gợn lăn tăn, cây khói nhạt.
Như mưa, mờ mịt cỏ trên đồng.
Khua nhẹ mái chèo, tôm cá quẫy.
Đàn cò quần tụ cạnh ngư ông.
Đầu thuyền uống rượu, quên không rót,
Ngồi xem nước cuộn, chảy về đông.


662. Thành Thuận Hóa 1) tức sự

Thuyền thuyền cập bến những miền xa.
Cửa sông cầu mống bắc ngang qua.
Mùi thơm sóng biển hòa trong gió.
Núi núi liền nhau giữa nắng tà.
Chợ chiều đông khách, quần áo đẹp.
Sáo vẳng thuyền đêm, tiếng mượt mà.
Dẫu không biết chuyện Giang Nam hận,
Người thổi thổi bài Lạc Mai Ba 2).

1. Thuộc tỉnh Thừa Thiên hiện nay.
2. Tên một khúc hát buồn. Lý Bạch có thơ: Hoàng Hạc lầu trung xuy ngọc địch/ Giang thành ngũ nguyệt Lạc Mai Ba. Hai câu cuối bai này ngụ ý chê bọn vong quốc chỉ biết hưởng thụ trước mắt mà quên hận nước nhà.


663. Buổi chiều đến Triều Tân, xúc cảm thành thơ

Chiều buông, gió lạnh thổi trên không.
Ở đây lắm chuyện ngẫm đau lòng.
Mất mùa, dân đói, làng xơ xác.
Lâu ngày nắng hạn, đất khô cong.
Mây bay từng tụm như lông phượng.
Ruộng hoang khói bốc, giống râu rồng.
Gặp ta, ba bốn ông già hỏi:
Ngày nào trở lại đất Thăng Long?


664. Hoa cúc

Thu muộn, một mình với gió sương,
Mấy bông cúc nở đẹp bên đường.
Bãi cỏ đêm đêm đom đóm lượn.
Thập thò bụi trúc giống chồn hương.
Hoa đẹp thường không quen giá lạnh.
Một lòng hoa cúc đợi Trùng Dương1).
Ngắm hoa, chợt nhớ Đào Bành Trạch,
Tự nhiên thanh thản thật khác thường.

1. Tết Trùng Dương ngày chín tháng Chín âm lịch.


665. Sáo chài

Không màng phú quí lẫn công danh,
Chỉ cần ống sáo giữa đêm thanh.
Ba khúc thổi lên, thu héo lá.
Một tiếng du dương, xuân thắm cành.
Tha hương, chim nhạn về bến cũ.
Nhớ quê người đứng, nắng xuyên mành.
Không biết về đâu, thi hứng hết.
Nước vẫn xuôi dòng, núi vẫn xanh.


666. Cảm xúc mùa xuân

Giận mình từ thuở mới sinh ra
Chưa thể làm gì giúp mẹ cha.
Mười mấy tầng lầu xây mộng ảo.
Ba ngàn thế giới úa tàn hoa.
Gió ấm không tan sương trắng tóc.
Đêm mưa đôi mắt lệ thêm nhòa.
Không lẽ thân này như thế mãi?
Chiếc thuyền vô định giữa sông xa.


667. Chiều xuân

Cây đứng so le, khói biếc lồng.
Bóng chiều bảng lảng, có mà không.
Trong tiếng sáo đàn, mưa lất phất.
Hoa rụng ngoài vườn theo gió đông.
Sách vở làm ta say giống rượu.
Thời gian khiến tóc rối tơ mòng.
Nghĩa lớn mẹ cha chưa báo được,
Từ quê chợt thấy cánh chim hồng.


668. Cảnh mùa đông

Ba tháng mùa đông mưa, tuyết bay.
Phòng khách âm u mở suốt ngày.
Chị Hằng lạnh lẽo soi hương án,
Dì Gió hững hờ xua lá cây.
Hoa mai nở sát pho Kinh Dịch,
Lá trúc xùm xòa chạm cánh tay.
Dung hòa mọi lẽ, ngồi im lặng.
Lư hương sợi khói vật vờ bay.


669. Phòng khuê đêm thu

Canh năm chuông điểm, ánh trăng mờ.
Mưa gió xen vào cả giấc mơ.
Gối lẻ, đèn tàn, thu lạnh lẽo,
Cái buồn ly biệt gửi vào thơ
Không dám lên lầu trông mỏi mắt.
Phong thư đã viết vẫn nằm chờ.
Ngàn vạn đóa hoa tươi, lại héo.
Gió lạnh sen tàn, cọng xác xơ.


670. Mừng mưa

Nhờ vua cầu khẩn bấy lâu nay,
Trời đổ cơn mưa, nước chảy đầy.
Ruộng dưới, nương trên tràn ngập nước.
Cái nóng không còn, vui sướng thay.
Cây cối, con người đều nhẹ nhóm,
Hỉ hả nhà nông lại cấy cày.
Xúc động, khách thơ lòng cả thẹn,
Góp vui, ngẫu hứng mấy câu này.


671. Con người thông đạt

Không tính được thua sống ở đời.
Tuân theo số mệnh, hợp ý trời.
Rượu ngon một chén xua sầu muộn.
Sách hay dăm quyển đọc mà chơi.
Không để tên mình nhơ sử sách.
Cố sống làm sao giống mọi người.
Nhàn nhã, trăng hoa cùng mây gió.
Hứng, sai mang cáng cáng đi chơi.


672. Thơ đề trên vách nhà ở phường Toản Viên 1)

Kinh đô xe ngựa chạy đêm ngày.
Như nhà ẩn sĩ ngôi nhà này.
Không màng cửa Bắc 2) lo danh lợi.
Cho thơ đã có sóng Hồ Tây.
Chìm nổi kiếp đời ta sống tạm,
Thành người lánh ẩn ở nơi đây
Những muốn hẹn cùng Trần xử sĩ.
Xuân về, hoa nở, bướm ong bay.

1. Tên một phường ở Hà Nội xưa.
2. Ý nói cửa quan.


673. Tự thuật ở Toản Viên

Mười năm giấc mộng đất Thăng Long,
Lỗi hẹn lời thề với núi sông.
Sáng dậy theo chuông kêu Cửa Bắc,
Chiều ngóng Hồ Tây ráng rực hồng.
Tin quê thường đọc, khuya chong nến.
Hàng ngày mây lượn sát bên song.
Chạnh nhớ những lần chơi bãi liễu.
Chắc giờ hoa nở, lựu đâm bông.


674. Tiếng cuốc kêu

Nước Thục mất từ lâu
Mà lòng vẫn còn đau.
Cuối tháng Ba, hoa rụng,
Tiếng cuốc kêu gợi sầu.
Khách nghe, không ngủ được,
Trằn trọc mãi hồi lâu.
Cuốc kêu, nhớ quê cũ,
Không dám bước lên lầu.


675. Đêm đậu thuyền ở Đông Triều

Đuốc hồng, gió lặng, sóng bình yên.
Bếp lửa hiu hiu phía mũi thuyền.
Tiệc vãn, ba lần cùng cạn chén.
Thuyền đi, chèo rẽ sóng hai bên.
Nhìn núi, biết trăng đang hé mọc.
Đêm nằm nghe nước, đoán triều lên.
Bên sông bên biển, tình lưu luyến,
Thêm nữa sáng mai xa bạn hiền.


676. Tiếng dế đêm thu

Sương thu lạnh lẽo, sắp sang đông.
Tiếng dế trong đêm thật não lòng.
Lúc kêu ri rỉ thềm trăng sáng,
Lúc rên ai oán sát khuê phòng.
Quán trọ, khách xa, buồn tỉnh dậy
Ngẫm đời đơn độc, kiếp long đong.
Chạnh nhớ Âu Dương 1) xưa cảm xúc,
Chờ sao Ngọc Thắng xuống bên song 2).

1). Âu Dương Tu, nhà thơ lớn đời Tống, tác giả bài Thu Thanh (Tiếng mùa thu) rất nổi tiếng.
2). Tên một chòm sao ở phương Bắc, khi gần sáng xuống thấp tận chân trời.


677. Dậy sớm ở Tân Minh

Thủy triều đang xuống, nước bao la.
Te tác đó đây mấy tiếng gà.
Từ đảo Bồng Lai thuyền cập bến,
Trăng chiếu trên cao, biển sáng lòa.
Đàm đạo, thẹn mình thua Lý Bạch,
Chẳng kém Hy Văn việc nước nhà.
Chỉ mấy bông mai nơi phố huyện
Mà sương và gió quyện mùi hoa.


678. Bến đò Chiền 1)

Bến đò rậm rạp hướng về đông.
Gió thổi áo bay giữa ráng hồng.
Nhà thuyền căng chiếu thay buồm vải.
Gáo dừa múc rượu, quán bên sông.
Sông biển thông nhau nên nước mặn.
Lũ quạ tranh ăn, kêu giữa đồng.
Nhân  nhắc chuyện xưa mà chợt nhớ
Tham chính Phạm, Bùi, cả hai ông.

1. Bến đò thuộc vùng giáp ranh giữa Kinh Bắc và Hải Dương. gần triền sông Lục Bầu.


679. Cảnh chiều ở Lão Nhạn 1)

Triều biển đang lên, sông nước đầy.
Chiều thu, tiếng sáo thổi đâu đây.
Chim trắng, ráng hồng, thơ với  rượu.
Nước xanh, thuyền khách lướt như bay.
Chim sáng rủ nhau sang Phạo Xá.
Chiều về Suối Chiện 2), vượt đò mây.
Có tiền muốn đến Dương Châu ngắm.
Chắc gì Dương Châu đã hơn đây?

1. Tức vụng Lão Nhạn, sau goi Triều Dương, gần bến đò Chiền, nay thuộc huyện Chí Linh.
2. Phạo Xá, Suối Chiện - tên địa danh gần đấy.
3. Tên một châu nổi tiếng phồn hoa nhiều cảnh đẹp ở Giang Tô Trung Quốc ngày xưa.


680. Đêm đậu thuyền, ngủ lại ở Lão Nhạn

Triều dâng, trời rét, nước tràn trề.
Lưng tựa mui thuyền, ngắm thỏa thuê.
Mây phủ núi xanh, cây đứng lặng,
Thuyền trăng, sương trắng, bến đò quê.
Trăm năm còn nhớ Hồng Đô khách 1),
Nửa đời Xích Bích2) vẫn còn mê.
Tiếng sáo đâu đây đang vọng lại,
Xao xuyến vang xa đến Thủy Tề.

1. Khách Hồng Đô, tức Vương Bột, nhà thơ lớn đời Đường, thời trẻ dự tiệc ở Đằng Vương các tại đất Hồng Đô, viết bài Đằng Vương Các Tự được lưu truyền mãi về sau.
2. Tô Đông Pha đời Tống có viết bài Phú Xích Bích nổi tiếng khi thả thuyền chơi trên sông. Ở đây Thái Thuận mượn tích này nói mình muốn được phóng khoáng, thư nhàn như Tô Đông Pha.


681. Ngủ đêm ở xã Hạo Xã, huyện Chân Phúc

Ánh lửa đồng sâu tiễn nắng tà.
Trên giậu co ro mấy chú gà.
Sóng biển âm vang ngay sát gối.
Mờ mờ trên núi ả Hằng Nga.
Kính cẩn xông hương vua mới tặng.
Luôn tay rót rượu khách chơi nhà.
Đêm khuya tỉnh giấc, trời như nước.
Mây trời năm sắc phía đằng xa.



LÊ HIẾN TÔNG

Sinh năm 1497 mất 1504. Tên húy là Tăng, con đầu lòng của vua Lê Thánh Tông, bản tính khoan hòa, đức độ, tuân giữ phép tắc của triều trước. Lên ngôi lúc 8 tuổi, thọ 44 tuổi, táng ở Dụ Lăng, Lam Sơn, Thanh Hóa.


682. Theo xa giá về Tây Kinh, vâng họa bài thơ ngự chế:
“Buổi sớm khởi hành ở sông Thiên Vực”

Mờ mờ ánh nắng, lúa xôn xao.
Nước sông dào dạt sóng hoa đào.
Trai gái Nam Dương 1) nô nức đón
Miền Tây sông biếc, núi thanh cao.
Ba năm, theo lệ, đi tuần thú,
Để biết người dân sống thế nào.
Lam Sơn sắc núi xanh muôn thuở.
Công đức Cao Hoàng 2) thật lớn lao

1). Nam Dương, đất khởi nghiệp của Quang Vũ Đế nhà Đông Hán, Trung Quốc. Ở đây chỉ người dân Tây Kinh, Thanh Hóa.
2). Tức Lê Lợi.


683. Thơ đề động Lục Vân 1)

Chon von vách đá, nắng long lanh.
Nước Nam sông núi đẹp, yên lành.
Trước nhớ theo vua, ba lần đến.
Nay về, xe sáu ngựa phi nhanh.
Núi cao, trời ấm, màu hoa đỏ.
Đường đi ẩm ướt, phủ rêu xanh.
Bình yên đâu chỉ nơi nhà Phật -
Khắp nước nhân dân hưởng thái bình.

1). Tên một đông đá trong dãy núi Tam Điệp.


684. Thơ đề núi Bàn A 1)

Năm Cảnh Thống thứ tư, Tân Dậu (1501), tiết Hoa Triêu 2),
có việc đi Tây Kinh, lên chơi đề thơ

Dãy núi như đê, uốn lượn vòng
Vây quanh dải đất rộng mênh mông.
Còn bận việc nhân, lo nghĩa nước,
Chưa về vui thú với non sông.
Xuống nước, dong thuyền nghe vượn hót.
Lên non đứng ngắm mặt trời hồng.
Thời nay văn vận đang hưng thịnh,
Cứ việc đề thơ, chớ bận lòng.

1). Tên một ngọn núi thuộc xã Đại Khánh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, có nhiều cảnh đẹp được các thi nhân ngâm vịnh, đề thơ lên đá. Ngô Thì Sĩ, cha Ngô Thì Nhậm thời cuối Lê có mười bài thơ khắc vào đá ở đây, gọi là Bàn A Thập Vịnh.
2). Hoa Triêu - buổi sáng của hoa. Đời Đường lấy ngày rằm tháng Hai là ngày Hoa Triêu.



LÝ TỬ CẤU

Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Hạ Trai, người làng Hồng Châu (Hải Dương) đậu tiến sĩ. Hồ Quý Ly lên ngôi, mời ông giữ chức Thái tử hữu dự đức nhưng ông từ chối. Quân Minh sang chiếm nước ta, muốn dùng ông làm quan cũng không đươc. Hồi đầu Lê, mặc dù được Nguyễn Mộng Tuân hết sức tiến cử, ông vẫn quyết tâm ở ẩn. Khí tiết thanh cao của ông rất được người đương thời tôn trọng.


685. Tự nói lòng mình

Chẳng rừng, chẳng chợ chẳng khanh công.
Chẳng học Tô Tần 1) áo rách bong.
Ngâm thơ - nguồn hứng đầy trăng gió.
Bè bạn cùng vui cảnh núi sông.
Nghiên mực Tang Quân 2) không chịu đổi.
Bài thơ Vương Xán 3) nhớ ghi lòng.
Người đời chê trách, ta không giận,
Cầm bằng không giận chiếc thuyền không 4).

1. Một thuyết khách đời chiến quốc. Ông rất nghèo, luôn mặc chiếc áo cừu rách, về nhà bị vợ và chị dâu hắt hủi.
2. Tức Tang Duy Hàn, người tỉnh Hà Nam thời Ngũ Đại ở Trung Quốc. Ông học giỏi nhưng quan trường không thích tên họ của ông (cây dâu) nên đánh hỏng. Ông đúc một chiếc nghiên lớn bằng sắt, bảo khi nào chiếc nghiên thủng mới thôi học. Sau này ông đậu tiến sĩ, làm quan to.
3. Người đời Tam Quốc, lánh nạn ở nước Ngụy, làm bài phú Đăng Lâu nổi tiếng nói về nỗi nhớ nhà.
4. Thuyền không - hư chu, nghĩa là thuyền không có người. Trang Tử nói: Chiếc thuyền có người va phải mình thì mắng. Thuyền không người thì cho qua, không giận.


686. Gửi Trình Sư Mạnh 1) tiên sinh ở Từ Liêm

Từng nuôi chí lớn đã bao ngày.
Việc hỏng, giờ già, thật tiếc thay.
Không màng lương bổng, đua quan chức,
Bầu bạn suốt ngày với cỏ cây.
Gặp lúc trời mưa, che nón lá.
Tô Tần áo rách, bụi không giây.
Hẹn đến mùa xuân mang áo mới
Thưởng ngoạn hai người khắp đó đây.

1. Xem tiểu sử của ông ở phần sau.



TRÌNH SƯ MẠNH

Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Chúc Lý Tử, người vùng Từ Liêm (nay thuộc Hà Nội). Buổi đầu Lê ở ẩn không ra làm quan.


687. Cảnh thu ngoài phía thành nam

Mùa thu trăng sáng, gió hây hây.
Phía nam thành phố mù giăng dày.
Khói lam biêng biếc trôi theo sóng.
Lá ngả màu hồng trên khóm cây.
Mờ mờ sông núi như tranh vẽ
Thấm đượm mùa thu của tháng ngày.
Thi hứng trào dâng, ngâm chẳng được.
Buồn buồn đơn độc đám mây bay.



LÊ THIẾU DĨNH

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Tử Kỳ, người xã Mộ Trạch, huyện Đường An (Hưng Yên ngày nay). Ông là con Lê Cảnh Tuân, từng được Lê Thái Tổ cho sang nhà Minh cầu phong, làm đến chức Tham tri Viện sự, sau vì can gián trái ý vua bị giáng xuống làm Bộ viên ngoại lang. Tác phẩm có tập Tiết  Trai.


688. Lễ chùa trên núi

Khe vắng, ngôi chùa cổ.
Mây trắng bay trên cao.
Khách đến, sư không nói.
Gió tự đẩy cửa vào.


689. Lời cung nhân

Hoa rụng cho hoa nở.
Bỏ người để yêu người.
Muốn vua yêu mình mãi,
Phải trang điểm thật tươi.


690. Chùa trên núi

Buổi sáng một mình lên núi chơi.
Tay bám dây leo, leo tận trời.
Chìm trong mây trắng, chùa không thấy.
Nghe tiếng chuông rơi, biết có người.


691. Vườn cũ ở thôn Trạch 1)

Cảnh cũ quê nhà, kia núi sông.
Mồ mả ông bà viếng, sửa xong.
Cây tang, cây tử 2) còn xanh tốt.
Vẫn lá xùm xòa mấy gốc thông.
Muôn thuở xuân qua rồi lại đến,
Sao cứ than hoài sự nghiệp công?
Trăm kế sinh nhai quên, thật lạ,
Sót lại thương quê một nỗi lòng.

1). Tức làng Mộ Trạch ở quê tác giả.
2). Cây tang, tức cây dâu, để nuôi tằm. Cây tử gỗ tốt làm nhà. Thường được ví để chỉ quê hương cha mẹ.



NGUYỄN PHU TIÊN

Năm sinh, năm mất không rõ, hiệu Tân Kiều tiên sinh, người làng Vĩnh Đông, huyện Khoái Châu (Hưng Yên ngày nay). Làm quan đến Hàn lâm Học viện thừa chỉ, Thẩm hình viện sứ.


692. Họa vần thơ Trạch Thôn 1)

Rời kinh thành năm ngoái,
Lều tranh ẩn nơi đây.
Thời trẻ vô tích sự,
Giờ già lười chảy thây.
Theo ông Đào 2) mài bút,
Học ông Vũ 3) cầm cày.
Nhìn người xe tíu tít,
Thương phù du đời này.

1. Tức Lê Thiếu Dĩnh.
2. Chỉ Đào Tiềm, một danh sĩ đời Tấn, làm quan được ít ngày rồi bỏ về nhà, vui cảnh gia đình và đồng quê.
3.Vua Vũ nhà Hán, người có công trị thủy ở Trung Quốc thời xưa.


693. Về thăm quê cũ
Bài một

Còn sống, thăm quê lúc cuối đời.
Khác trước - đìu hiu cảnh lẫn người.
Quyên kêu khắc khoải cành cây lạnh.
Ngoài đồng hoa rụng, bướm chơi vơi.
Sên leo, viết chữ trên tường đất.
Kiến bò, dàn trận giữa sân phơi.
Giận không về được, về càng giận.
Trời tối lúc nào, giọt lệ rơi.


694. Về thăm quê cũ
Bài hai

Gạt lệ, rẽ gai tìm lại nhà.
Không tìm thấy cả ngói, rui xà.
Ao khô, cầu đá rêu xanh phủ.
Thềm đầy cỏ dại, vườn không hoa.
Ngõ hẻm chỉ vừa chân ngựa bước.
Ruộng cằn, vất vả chuyện nông gia.
Mong ngày trở lại miền thôn dã
Cày ruộng dưới trăng với bạn già.



BÙI CÔNG SOẠN

Sinh 1381, mất 1458, tức Tân Khanh, người làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ (Hưng Yên ngày nay). Khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa, ông ra đón quân nhà vua. Ông ba lần đi sứ Trung Quốc, làm đến chức Thượng Thư hành khiển, tính tình ôn hậu và liêm khiết, thọ 78 tuổi.


695. Cảm hứng đêm trừ tịch

Thỏ trắng, quạ đen 1) cứ lại qua.
Xuân đến, nhớ ngày vui đạp ca 2).
Học văn không bằng học làm ruộng.
Không có thuốc tiên chữa bệnh già.
Nhân tình bền chặt khi thanh đạm.
Mai rụng chờ ngày lại mọc hoa.
Cứ việc uống say, không cần biết
Suốt đêm gió thổi trước hiên nhà.

1). Chỉ mặt trời và mặt trăng.
2). Dẫm chân làm nhịp hát phong tục ngày xưa, mỗi khi có dịp vui mọi người tập họp ca hát, dẫm chân làm nhịp.


696. Ngày xuân đến thăm bạn không gặp

Lần theo bụi rậm dọc bờ khe.
Hoa trên đất ướt, cỏ xum xuê.
Khói xuân ấm áp, dâu xanh tốt.
Ruộng sâu mạ bén, gió se se.
Giúp bạn, hiếm người như Bảo Thúc 1).
Lưu An 2) giờ ít, nghĩ buồn ghê.
Viết thơ gửi lại trên tàu chuối,
Dưới trăng bạn đọc lúc quay về.

1. Bả Thúc Nha, người nước Tề thời Xuân Thu, làm bạn với Quản Trọng. Quản Trong nghèo, thường được ông giúp đỡ.
2. Người đời Hán, cháu vua Cao Tổ, thường học đạo thần tiên tu luyện, tác giả cuốn Hoài Nam Tử.



HOÀNG ĐỨC LƯƠNG

Không rõ năm sinh, năm mất, người huyện Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội, làm đến chức tham nghị, có đi sứ Trung Quốc. Ông viết thơ theo khuôn thước thơ Đường, tuyển chọn thơ hay từ thời Trần đến thời Lê, làm thành tập Trích Diển 15 quyển.


697. Suy nghĩ trên đường

Người đời đi bất tận.
Không kết thúc, bắt đầu.
Người nay đi chưa nghỉ.
Người xưa đang ở đâu?


698. Cảnh nông thôn

Tằm đang ngủ trên nong.
Mái nhà én làm tổ.
Lão nông mệt, ngừng cày.
Tu hú kêu chính ngọ.


699. Cảnh nông thôn
Bản dịch hai

Én nuôi con trên mái.
Lão nông vai vác bừa.
Trên nong dâu tằm ngủ.
Tu hú kêu giữa trưa.


700. Trên thuyền, sáng sớm trời lạnh ở Yên Khánh

Ôm chăn nhìn lên bờ.
Đã nhiều người qua lại.
Chủ quán rượu bên sông
Đang quét sân uể oải.


701. Chơi chùa núi Kính Chủ 1)

Từng thấy nhiều cảnh đẹp.
Chùa này nên đề thơ.
Làm quan, luôn đây đó,
Chưa dám hẹn với sư.

1). Chùa ở xã Kính Chủ, huyện Giáp Sơn, Hải Dương, cũng còn gọi là núi Xuyên Châu, quê hương Phạm Sư Mạnh.


702. Cảm hứng mùa đông

Việc đời luôn bề bộn.
Hết thu lại đến đông.
Báo tin mùa xuân tới,
Mai đã nở vài bông.


703. Tự diễu mình

Tính khác thường, gàn dở.
Lo nghĩ chuyện đâu đâu.
Được câu thơ tâm đắc,
Đêm dậy, gọi thằng hầu.
                                            

704. Đi dạo bên sông Dương Tử 1)

Nhà chài đửng rải rác.
Bóng liễu che cổng tre.
Đường bên sông, chiều muộn.
Đâu cũng thấy người về.

1). Cũng là sông Trường Giâng. Bài này viết khi tác giả đi sứ sang Trung Quốc.
                                                

705. Thơ đề trên lầu Trích Tiên 1) ở Thái Thạch 2)

Từng đến Phượng Hoàng, nhưng đã lâu.
Buồn bã chòi canh, sông đục ngầu.
Trích tiên người cũ giờ đâu nhỉ,
Làm ai tư lự, muốn lên lầu.

1). Trích tiên - chỉ người thanh cao siêu việt như tiên trời giáng xuống.
2). Tên bến đò ở tỉnh An Huy, Trung Quốc, tương truyền Lý Bạch cưỡi cá kình ở đây.


706. Chiều đứng nhìn núi, ngẫu nhiên thành thơ

Thảnh thơi, nhàn nhã dạo, cuối ngày,
Mắt nhìn cánh nhạn hướng về tây.
Mênh mông trời rộng như vô tận.
Một áng mây buồn côi cút bay.


707. Chơi chùa Thiên Phúc trên núi Phật Tích

Nhìn cảnh đẹp ngất ngây
Quên cái mệt trong ngày.
Khách đến, sư không biết.
Giữa núi nhặt trái cây.
Thu muộn, gối trên đá.
Ngủ lúc nào không hay.
Không người mà chợt tỉnh.
Sân rộng, lá rơi đầy.



NGUYỄN HÚC

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Dần Tân, người Kệ Sơn, Đông Triều, làm quan tới chức Tri phủ. Thơ có tập Cưu Đài Tập.


708. Chơi chùa Trung Thiết 1)

Lên núi gặp sư, như thể hẹn.
Sư ngồi, trên áo bóng hoa rơi.
Đàn chim vội vã bay về tổ.
Mang tấm màn đêm phủ đất trời.

1). Chưa rõ chùa này ở đâu.


709. Thanh nhàn ở xóm núi

Ao trong nửa mẫu, trời bao la.
Long lanh ánh nước tận hiên nhà.
Việc lớn không màng, kê gối ngủ.
Sen nở hây hây giữa nắng tà.



PHÙNG THẠC

Không rõ năm sinh, năm mất,tự Hoàng Phủ, hiệu Phúc Trai, người La Giang, nay thuộc La Sơn, Hà Tĩnh, từng làm Chủ bạ ở phủ Kiến Xương. Tác phẩm có tập Vong Hài.


710. Thơ đề tranh “Nhạn kêu sương”

Sông lạnh, nước không chảy.
Trăng sáng như ban ngày.
Tiếng thu buồn man mác.
Doi cát chìm trong mây.



PHÙ THÚC HOÀNH

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Nhiệm Nhân, người làng Phù Xá, huyện Kim Hoa, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, từng giữ chức giáo thụ dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám, sau làm Hàn lâm học sĩ.


711. Ý xưa

Lá sen xanh như lọng.
Hoa đỏ như má đào.
Nhớ người chưa gặp mặt,
Thơ thẩn mãi bên ao.


712. Đi dạo trên đồng

Mưa tạnh, núi xanh ngắt.
Rừng tối, suối nước trong.
Cầu gẫy, người qua ít.
Nghe có tiếng gà đồng.



ĐỖ CẬN

Sinh 1433, năm mất không rõ, tự Hữu Khác, người Phổ Yên, Thái Nguyên, đỗ tiến sĩ năm 1478 đời Lê Thánh Tông. Bài này ông làm khi đi sứ nhà Minh.


713. Chiều tối, đậu thuyền ở bến Thái Thạch 1)

Lý Bạch rời trần lên cõi tiên.
Khách xa gối lẻ thức bên đèn.
Phong vị người xưa còn phảng phất.
Vò rượu làm tan nỗi cảm phiền.

(1) BÕn n­ưíc ë bªn nói Ch©u Ng­ư trªn s«ng Tr­ưêng Giang, n¬i nghe ®ån Lý B¹ch ngåi uèng r­ưîu ng¾m tr¨ng, say ng· xuèng s«ng chÕt ®uèi. Ch÷ "k×nh" trong nguyªn b¶n lµ chØ Lý B¹ch. ¤ng cßn cã biÖt hiÖu "H¶i thưîng kþ k×nh kh¸ch". Tư­¬ng truyÒn «ng ®· ®­ưîc mét con c¸ k×nh ®­ưa lªn trêi.


714. Chim én mùa xuân

Ngoài sân gió thổi, trúc la đà.
Tha bùn làm tổ dưới hiên nhà.
Bên song tư lự, nhà không khách.
Chợt hứng lòng xuân giữa nắng tà.



NGUYỄN THIÊN TÍCH

Không rõ năm sinh, năm mất, người huyện Tiên Du, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ năm Thuận Thiên thứ 4. Đời vua Trần Thái Tông đi sứ nhà Minh hai lần, sau được thăng chức Thị Độc, rồi bổ vào làm Nội Mật viện phó sứ. Làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư. Thơ có tập Tiên Sơn.


715. Cảm hứng tản mạn

Bóng nắng trên cành hoa.
Chim hót, gió hiền hòa.
Ngày xuân dài, lều cỏ,
Vui cái thú ngâm nga.


716. Thơ làm trong thuyền ở dịch trạm Hoài Trạch

Trăng sáng, trời bao la.
Tuyết lạnh rơi như hoa.
Khách xa trên thuyền nhỏ
Đêm nào cũng nhớ nhà.


717. Cảnh cuối xuân ở Diễn Châu 1)

Buồn buồn bụi rậm tiếng đa đa
Nhìn mãi trời mây, chẳng thấy nhà.
Vất vả ba năm, đầu tóc bạc.
Lênh đênh nghìn dặm, đường còn xa.
Cái kiếp làm quan như ngựa nghẽo.
Xơ xác thân tàn, giống xác hoa.
Hư danh làm hại đời trai trẻ.
Nhớ chuyện trồng dưa 2), lòng xót xa.

1. Tên huyện ở Nghệ An.
2. Ngày xưa ông Thiêu Bình đời nhà Tần, Trung Quốc, làm quan đến chức Đông Lăng hầu. Nhà Tần mất, ông bỏ đi ở ẩn, trồng dưa ở cửa đông thành Tràng An.


718. Lên chùa Hồng Ân 1)

Bụi trần nhuốm bẩn bấy lâu nay.
Giờ đến rừng thiền, cảnh đẹp thay.
Thấp cao ruộng nếp, màu thu muộn.
Xanh đỏ đền chùa vương khói bay.
Chạnh lòng nghĩ đến miền tang tử 2),
Bừng bừng chí lớn - ngắm trời mây.
Tựa mãi lan can, nhìn chẳng chán.
Bồng Lai quả thật đúng nơi này.

1). Chùa ở xã Cao Đức, huyện Gia Lương, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
2). Tang tử - cây dâu và cây tử, chỉ quê hương mẹ cha.


719. Đêm trừ tịch, ngẫu nhiên thành thơ

Khỏi bàn việc lớn chuyện ngày qua.
Vui được hôm nay đang ở nhà.
Một đĩa dầu lan đêm lạnh lẽo.
Vài ly rượu trúc uống nguôi ngoa.
Giấy văn dán cửa, toàn vô dụng.
Đời người bèo bọt kiếp phù hoa.
Gió đông sưởi ấm cành mai nở.
Một mình đợi sáng, gượng ngâm nga.



CUNG Ý CUNG

Sinh năm 1520, mất 1614, họ Bùi, tự Chuyết Phu, hiệu Tô Xuyên, người làng Định Công, Thanh Trì, Hà Nội. Làm quan tới chức Thượng thư, mất năm 93 tuổi, được phong thụy là Cung Ý.

720. Tiễn Thừa chánh sứ tỉnh Thanh Hóa Mai Nham
        Phùng Khắc Khoan nhậm chức vụ đi làm chánh sứ

Mừng bác được vua giao chánh sứ.
Lại mừng vua quí bác, tin yêu.
Các bậc đại nho luôn hữu dụng,
Dẫu đi công cán, hoặc trong triều.



NGUYỄN ĐÌNH TRỤ

Sinh năm 1627, mất 1703, người huyện Thanh Trì, Hà Nội, đậu tiến sĩ năm 1624, từng giữ chức Hiến sát sứ Kinh Bắc.


721. Tiễn học trò người huyện Chương Đức
        Đặng Đình Tướng vâng mệnh đi sứ phương Bắc

Đang trẻ, tài cao, đỗ đại khoa.
Vốn quê Chương Đức, gốc Nho gia.
Ngựa béo thắng yên vì quốc sĩ.
Tiết lễ đề cao, phụng nước nhà.
Để vua phương Bắc nhìn, kính phục,
Trời Nam danh tiếng mãi vang xa.
Đi sứ lần này lo trọng trách,
Mong về lên chức, sớm thăng hoa.



NGUYỄN BÀNH

Không rõ năm sinh, năm mất, hiệu Mai Lý, người huyện Đường An, tỉnh Hải Dương ngày nay. Làm quan đến chức giáo thụ Quốc Tử giám.


722. Sư già ở chùa trên núi

Trên chùa ông sư trọc
Sống tu hành thảnh thơi.
Một mình giữa mây núi,
Quanh năm không bóng người.



DOÃN HÀNH

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Công Thuyên, hiệu Mộc Trai, người huyện Thương Phúc, nay thuộc Thường Tín, Hà Tây. Đậu khoa Bác học hoành từ, làm quan đến chức Bác sĩ Quốc Tử giám. Thơ có tập Văn Biểu.


723. Đom đóm

Đom đóm sau mưa như ánh lửa.
Đêm khuya nhấp nháy lượn quanh nhà.
Biết ta không phải là Xa Dận 1),
Không hề lo sợ, chúng bay qua.

1. Người Nam Bình, đời Tấn, thuở nhỏ nhà nghèo phải bắt đom đóm làm đèn học, sau đỗ đạt làm tới chức thượng thư bộ lại.


724. Rêu

Sau mưa, rêu ẩm mọc đầy sân.
Nắng rọi, vườn cây sạch bụi trần.
Chủ nhà mỗi sáng nhìn rêu mọc
Như những đồng xu, cứ lớn dần.



NGUYỄN MẬU

Năm sinh, năm mất không rõ, chỉ biết người làng La Phù, huyện Thanh Hà, nay thuộc Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm 1502, làm quan đến chức Đô ngự sử. Sau ông làm quan cho nhà Mạc, được thăng chức Thượng Thư bộ Công.


725. Gửi bạn đồng niên

Mấy gian nhà nhỏ phía Nam thành.
Duyên nặng, tình sâu nay gặp anh.
Làm quan vất vả, thường lo nghĩ.
Vô lo ở ẩn, túp lều tranh.
Trong nhà sách vở luôn đầy giá.
Cửa không ai gõ, ngủ ngon lành.
Một đời kinh sử thành vô bổ.
Thẹn từng giảng sach ở Diên Anh.




NGUYỄN NHƯ ĐỔ

Sinh năm 1423, mất 1525, tự Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, người châu Đại Lan, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội, dòng dõi nhà Nho. Năm 19 tuổi ông thi đậu bảng nhãn, ba lần đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, thọ 93 tuổi (Sách Đăng khoa lục chép ông thọ 103 tuổi).


726. Ngày xuân tức sự

Ngày đẹp, du xuân tiết tháng Ba.
Khách chơi toàn trẻ, ít người già.
Ngẫm mình ngỗ ngược, tuy đầu bạc,
Vẫn cưỡi ngựa gầy đi ngắm hoa.


727. Tiết xuân trong thư phòng

Xuân đến phía nam thành.
Cửa sài đóng, nhà tranh.
Bên thềm, rêu biêng biếc.
Ngoài vườn cỏ mướt xanh.
Khách tới, vừa tỉnh giấc.
Chim kêu, hoa lìa cành.
Mài son chấm Kinh Dịch,
Suốt ngày nhàn một mình.


728. Sau tết Thanh Minh, tặng quan chuyển vận sứ Trần Văn Huy
và hỏi thăm quan giáo thụ xứ Tràng An Nguyễn Tử Tấn.

Mừng gặp được ông, hội gió mây.
Tiếc rằng ly biệt bấy lâu nay.
Nắng mưa, thời tiết luôn thay đổi.
Nghĩa cũ tình xưa chẳng đổi thay.
Thương tôi chức nhỏ thành vô dụng.
Tiếc ông trăm dặm, phụ tài hay.
Cho gửi lời thăm ông quản giáo.
Không thơ, im tiếng đã nhiều ngày.


729. Vườn ở phía nam thành

Dọn đến nam thành đã mấy xuân.
Ruộng rau, vườn thuốc mở mang dần.
Chẳng sao lối hẻm gần xa lộ.
Dậu thấp, nhưng vui, tránh bụi trần.
Ao đục sau mưa vang tiếng ếch.
Cây rậm, chim trời hót trước sân.
Hết buổi chầu triều, về, thanh thản
Ngồi ngắm trúc mai, hưởng thú bần.



LƯƠNG NHƯ HỘC

Sinh năm 1420, mất 1501, tự Tường Phủ, người xã Hồng Liễu, huyện Trường Tân, nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Năm 1442 ông đậu Thám hoa, làm quan đến chức Đô ngự sử. Ông là người đầu tiên đem nghề khắc ván in ở Trung Quốc về truyền bá trong nước. Dân làng Liễu Lăng, huyện Gia Lộc thờ ông là ông tổ nghề in sách.


730. Nghỉ lại ở cửa sông Tứ Kỳ

Sao Ngọc Thằng 1) xuống thấp.
Khe cạn, trăng mờ mờ.
Triều rút, lộ bờ đá.
Chim nước kêu vu vơ.

1). Tên một ngôi sao phía bắc sao Ngọc Hành. Ngọc Hành là sao thứ năm trong chùm sao Bắc Đẩu.



LÊ TÔ

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Minh Phục, hiệu Dung Khê, người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đậu Bác học Hoành từ, làm quan đến chức Hàn lâm viên hiệu thảo, sau được bổ làm tri phủ Tân Hưng.


731. Ngẫu hứng thành thơ sau cơn say

Nóc lầu vương mây mỏng.
Nắng dát vàng mái nhà.
Khi ông lười tỉnh rượu,
Sân ngập đầy xác hoa.


732. Cảm hứng tức thời trước tiết đông chí

Mặt trời chưa lên núi.
Vũng nước lạnh ven đường.
Nhìn cành mai đủ biết
Trời ấm tháng Nhất Dương 1).

1). Tức tháng mười một âm lịch.


733. Tả cảnh ở phòng sách

Ngoài cửa sổ trăng sáng.
Trên mái tóc - ánh đèn.
Đang bí vần, bất chợt
Chuông chùa nào gióng lên.



VƯƠNG SƯ BÁ

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Trọng Khuông, hiệu Nham Khê, người huyện Đông yên (Hưng Yên), ham mê đạo Phật, tính dễ dãi, ít khi thể hiện vui giận ra mặt. Làm quan đến chức tri phủ. Có lưu lại một tập thơ.


734. Mùa xuân

Lặng lẽ sân trưa bóng liễu rơi.
Trướng rủ, rèm che, én nghỉ ngơi.
Ngồi tựa lan can, suy sự vật,
Ngẫm theo hình sắc, đoán lòng trời.


735. Đêm thu

Sương ướt đẫm màn the.
Đèn mờ khói, vàng khè.
Nửa mành cuốn, trăng xế.
Trên ao, đóm lập lòe.



LÊ QUYỀN

Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ông là cháu một vị công thần triều Lê, từng giữ chức Phụ mã đô úy, rồi được thăng chức Tả đô đốc, tước Tử Nham Bá.


736. Thơ đề động Dương Nham, núi Thạch Môn

Núi xanh như ngọc, đứng ven sông.
Chùa chìm trong lá, trời xanh trong.
Phủi rêu ngồi xuống, nghe chim hót.
Đường đá xen hoa, sạch bụi hồng.



ĐÀM VĂN LỄ

Sinh năm 1452, mất 1505, tự Hoàng Kính, hiệu Chân Trai, người làng Lam Sơn, huyện Quế Dương (Bắc Ninh), 18 tuổi đậu tiến sĩ, làm quan đến chức thương thư. Khi Lê Hiến Tông mất, ông theo tờ di chiếu phù lập Túc Tông, bị Uy Mục Đế căm giận, đày vào Quảng Nam, đến Nghệ An thì gieo mình xuống sông tự tử.


737. Mùa xuân, khúc hát trong cung

Ngày trôi chầm chậm, gió trên lầu.
Trước thềm đứng ngắm liễu vờn nhau.
Không cần gì nữa ngoài đàn nguyêt.
Quyển thơ ngự chế chép từ lâu.


738. Khúc hát trong cung

Điện im lìm, trời lạnh.
Sương mù giăng khắp nơi.
Dưới cây, trên rêu ẩm
Cúi nhặt cánh hoa rơi.


739. Chiều ba mươi Tết, ngẫu hứng thành thơ

Năm mới đến, người ta
Liền quên năm cũ qua.
Chẳng trách người tráo trở
Luôn thay đổi, phù hoa.


740. Ngắm trúc

Khóm trúc xanh mờ khói.
Sân rộng, gió hây hây.
Tựa lan can, ngắm trúc -
Người bạn cũ lâu ngày.


741. Chim trắng bên sông

Xanh xanh bãi cỏ, nước mênh mông.
Triều lên, tư lự đứng bên sông.
Thấy người, bất chợt con chim trắng
Bay vụt theo thuyền, đỗ bãi nông.



NGUYỄN BẢO

Sinh năm 1452, mất 1502, người huyện Vũ Tuyên, nay là Vũ Thư, Thái Bình, đậu tiến sĩ năm 1472. Dưới triều Lê Thánh Tông được đặc cách vào tòa Đông Các rồi thăng chức Tả tư giảng, trực tiếp dạy thái tử, sau này là vua Lê Hiến Tông. Ông làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư. Tác phẩm có tập thơ Châu Khê.
                  

742. Cuối năm, tả nỗi lòng

Đêm thường mơ quê cũ.
Cuối năm càng nhớ nhà.
Cảnh buồn, ai hiểu được?
Một năm, một tuổi già.

743. Ngày xuân tức sự

Sống tạm chùa hoang giữa cánh đồng.
Xuân mới mà sao cảnh não lòng.
Đám cỏ trước thềm, tươi lẫn héo.
Vạt khói trên cây, nhạt lại nồng
Nửa tốt, nửa cằn, trơ khoảnh đất.
Không rét tiết trời, ấm cũng không.
Đọc sách trên giường, nghe chim dục,
Muốn gặp già làng học việc nông.


747. Xuân muộn ở thôn Trừng Mai

Mây xám, mưa phùn lất phất rơi.
Cày ruộng theo trâu, mặc áo tơi.
Nàng dâu gieo hạt, đi làm sớm.
Dẫy cỏ, chồng cô tận tối trời.
Bên dậu, mía non mơn mởn lá.
Ngoài vườn xanh biếc bụi mồng tơi.
Sống cảnh điền viên vui thú thật.
Vất vả, thanh bần, nhưng thảnh thơi.


748. Tiễn quan thừa chỉ họ Thân 1) về quê.

Lo bề thảo chiếu giúp vương quân.
Được vua thăm hỏi rất ân cần.
Nay vua ân sủng, cho về phép
Thăm làng quê cũ, gặp người thân.                                
Mọi người trong xứ ra nghênh đón.
Khách lạ nhìn theo xe khuất dần.
Hẳn người trong xóm đang bàn tán:
Vinh hiển, nhưng ông chẳng khó gần!

1. Tức Thân Nhân Trung.


749. Tiễn quan hình khoa họ Phạm 1)
        vâng mệnh đi sứ phương Bắc

Biết bác ở bộ Lễ
Nay vâng chiếu lên đường.
Đón xuân núi Ngũ Lĩnh 2),
Ngắm trăng bên sông Tương 3).
Học văn, hỏi Nhan, Khổng  4),
Tìm thánh, có Hạo vương 5).
Bác uyên thâm, học hỏi
Bao điều nơi dặm đường.

1). Chưa rõ là ai.
2)  và 3). Tên các địa danh nổi tiếng đẹp ở Trung Quốc.
4). Tức Nhan Hồi, Khổng Tử.
5). Tức Thái Hạo Phục Hy, một vị hoàng đế thời thượng cổ Trung Quốc.



VŨ QUỲNH

Sinh năm 1453, mất 1516, tên tự là Thủ Phác, hiệu Đốc Trai, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (Hải Dương), đậu Hoàng Giáp năm 1468, làm đến chức Binh Bộ Thượng Thư kiêm Sử quán Tổng Tài. Ông soạn sách Việt Giám thông khảo. Về hưu ở làng, bị giặc cướp giết hại.


750. Đề chùa Phong Công ở núi Kim Âu 1)

Núi vắng, mây đầy trời
Mái đỏ én đùa chơi.
Khách thăm chùa, vãn cảnh,
Nhớ núi, không nhớ người.

1). Tên núi ở xã Kim Âu, nay thuộc  huyện Vĩnh Lộ, Thanh Hóa.


751. Chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử

Núi cao Yên Tử, cảnh thần tiên.
Chùa đẹp mây bay giữa cõi thiền.
Sương như châu ngọc trên hoa nở.
Thông già, hang lạnh, núi bình yên.




TRẦN CẢNH

Không rõ năm sinh, năm mất và quê quán, đậu hương cống (cử nhân), làm tri phủ từ 1470 đến 1498, sau cáo quan về ở ẩn.


752. Đêm chơi thuyền trên sông Ninh Giang 1)

Thuyền đơn, chèo ngắn, trời xanh trong.
Nhìn phía kinh đô nhuốm bụi hồng.
Ba chục năm qua lầm lẫn quá,
Để mình trăng sáng giữa dòng sông.

1. Sông Ninh Giang, phía trên tiếp cửa sông Hát Giang (Sông Đáy), dưới đổ vào Châu Giang, phía hạ lưu hợp với sông Hoàng Giang ở Nam Định.


753. Tiễn ông Lê Năng Nhượng 1)

Mưa nhiều, cỏ tốt bến Ninh Giang.
Lơ thơ cò trắng lượn quanh làng.
Những muốn cùng ông về dưới ấy.
Lưng trời tiếng sáo vọng mênh mang.

1. Con trai đại công thần Lê Văn Linh thời khởi nghĩa Lam Sơn, quê Thọ Xuân, Thanh Hóa. Làm quan đến chức Thượng thư bộ lễ và Thượng thư bộ công thời Lê Thánh Tông.


754. Gửi quan thị lang Nghiêm Nhân Thọ 1)

Ta đã yên bài sống thảnh thơi.
Cày ruông, lều tranh vui với đời.
Bè bạn nhớ ta mà có hỏi,
Hãy bảo tìm người mặc áo tơi.

1. Chưa rõ là ai.


755. Họa thơ đạo sĩ Nam Hoa

Nhà tranh tựa vách núi.
Suối reo như tiếng đàn.
Mặt trời soi khung cửa.
Mây trắng phủ núi ngàn.



PHÙNG THẠC

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Hoàng Phủ, hiệu Phúc Trai, người La Giang, nay là La Sơn, Hà Tĩnh, làm chủ bạ ở phủ Kiến Xương. Thơ có tập Vong Hài.


756. Đề tranh “Nhạn kêu sương”

Khuya, vành trăng rất sáng.
Sông lặng phủ mây mù.
Đảo mờ bên doi cát.
Rầu rĩ một tiếng thu.



ĐẶNG MINH KHIÊN

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Trinh Dư, hiệu Thoát Hiên, người làng Mạo Phố, huyện Sơn Vi, Sơn Tây, là chắt của Đặng Dung, nguyên quán Hà Tĩnh. Đậu Nhị Giáp Tiến sĩ năm Hồng Đức 18, làm đến chức Thượng thư, kiêm Sử quán. Cuối năm Quang Thiệu theo vua Chiêu Tông chạy vào Chiêm Hóa, thọ hơn bảy mươi tuổi.


757. Chu Văn An

Dâng sớ không thành 1), treo áo quan.
Về sống Chí Linh, hưởng cái nhàn
Khí tiết thanh cao, lòng đức độ.
Gương sáng nghìn năm tựa Thái San 2).

1. Đời Dụ Tông, Chu Văn An dâng sứ chém bảy tên gian thần, vua không nghe. Ông từ chức về sống ở núi Chí Linh.
2. Tức núi Thái Sơn.


758. Nguyên Phi Ỷ Lan 1)

Giúp gái thôn quê lấy được chồng.
Niệm Phật, xây chùa, lo tích công.
Hơn bảy chục người bà nỡ giết 2).
Phúc kia chuộc được tội này không?

1. Bà họ Lê, người làng Thổ Lôi, tỉnh Bắc Ninh. Vua Lý Thánh Tông muộn con, thường đi chơi các đền chùa cầu tự. Một hôm vua đến làng ấy, mọi người đổ xô đi xem, chỉ mình bà lặng lẽ hái dâu, coi như không. Vua thấy lạ, mời về cung, phong làm Ỷ Lan phu nhân (Ỷ Lan là đứng tựa cây dâu). Bà sinh được con trai là Kiến Đức. Vua mừng lắm, lập làm thái tử, phong bà làm Nguyên Phi, đổi tên làng Thổ Lôi thành Siêu Loại, hiện nay ở Thuận Thành, Bắc Ninh.
2.  Vua Thánh Tông mất, Kiên Đức lên ngôi, tức Nhân Tông, lúc mới bảy tuổi. Bà Dương Hậu, vợ cả Thánh Tông giữ quyền chính, Ỷ Lan không được tham dự. Bà ngầm gièm pha với vua Nhân Tông. Vua bắt Dương Hậu và bảy mươi sáu người hầu gái phải chết theo Thánh Tông. Sau ân hận, Nguyên Phi Ỷ Lan cố làm việc đức, giúp các cô gái nghèo bị gán nợ lấy chồng, lấy những người góa vợ, và xây nhiều đền chùa.


759. Tiết phụ họ Kim 1)

Phải đứa con hư 2), mẹ lánh xa.
Cơm ăn, áo mặc tự làm ra.
Vua Đường biết chuyện, ban ân huệ,
Còn cho phụng dưỡng lúc về già.

1). Theo Liệt Nữ Truyện đời Đường, bà tiết phụ họ Kim người Giao Châu, tức Việt Nam ngày nay, là mẹ tướng cướp Đào Tề Lượng. Bà lấy nhân nghĩa khuyên không nghe, bèn từ con, tự mình cày ruộng, dệt vải sinh sống. Vua Đường biết chuyện, cấp cho bà hai người chăm lo lúc tuổi già và ra lệnh các quan chức địa phương phải thường xuyên đến thăm hỏi.


760. Bà Mỵ Ê 1)

Nước mất nhà tan, vẫn nặng lòng.
Chiếu vua lại giục, khó mà không.
Đành tạ ơn vua cho được chết,
Bà quấn chăn cừu, nhảy xuống sông.

1). Xem bài Huyền Trân Công chúa.



HOÀNG TRỪNG

Không rõ năm sinh, năm mất, người ở Bình Lộ, huyện La Giang, nay là xã Nhân Thọ, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. đậu Hoàng Giáp năm Cảnh Thống thứ hai, làm quan đến chức Đông Các Đại học sĩ, sau nhân việc Mạc Đăng Dung thoán đoạt, ông cáo quan về nhà.

761. Thuật ý mình, gửi cho bạn.

Mây trắng, trời cao gợi thoáng buồn.
Buồn đời trái ý, đổi thay luôn.
Trò nghèo làm việc nơi quan các,
Lận đận mười năm, phụ vợ con.
Những muốn về quê mà sống ẩn,
Không màng danh lợi chốn vàng son.
Chạnh nhớ quê nhà, nơi ruộng tốt,
Cá vược, rau tần, gạo lại ngon.



NGUYỄN DỮ

Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Đỗ Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, đậu cử nhân, thi huyện trúng Tam Trường, làm tri phủ huyện Thanh Tuyền, nay là huyện Bình Tuyền, được một năm thì từ chức về nuôi mẹ và không ra chốn thành thị lần nào nữa. Tác giả bộ Truyền Kỳ Mạn Lục.


762. Làm thay nữ học sĩ Kim Hoa 1), đề núi Vệ Linh

Vệ Linh mây trắng, trời xanh trong.
Mùa xuân muôn tía điểm nghìn hồng.
Ngựa sắt lên trời, danh để lại,
Anh linh lừng lẫy khắp non sông.

1. Tức bà Nguyễn Hạ Huệ, người Mai Khê, huyện Yên Lạc, vợ ông Phù Thúc Hoành người huyện Kim Hoa, nay là Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc. Bà giỏi văn thơ, thời Hồng Đức được tặng danh hiệu Phù Gia Nữ Học Sĩ. Núi Vệ Linh ở huyện Kim Hoa, tương truyền Phù Đổng cưỡi ngựa bay lên trời từ núi này.
                                                

763. Làm thay Từ Thức, đề bức bình phong
        tại nơi ở của nàng tiên Giáng Hương
Bài một

Lư hương nguội lạnh, phải thay hương.
Đặt thêm lời mới điệu Nghê Thương 1).
Lời mới đặt xong, không dám hát,
Những sợ đất trời nổi gió sương.

1. Tên một khúc ca. Tương truyền vua Minh Hoàng nhà Đường đi chơi cung trăng nghe nhạc, lúc trở về bắt chước đặt ra cung này.


764. Làm thay Từ Thức, đề bức bình phong
        tại nơi ở của nàng tiên Giáng Hương
Bài hai

Doi cát xa xa giữa khói mờ.
Đẹp như Mân, Quế 1), cảnh nên thơ.
Một màu sông biếc, trời xanh thẳm.
Trời chiều, cánh nhạn vỗ vu vơ.

1). Tên hai tỉnh phía nam Trung Quốc ngày xưa, nơi nổi tiếng nhiều phong cảnh đẹp.


765. Mây núi, trăng núi

Khí lạnh bao trời đất.
Cây xanh biếc một màu.
Trăng khuyết treo vách núi.
Sao nhấp nháy trên đầu.
Chiều tối, cửa sài vắng.
Gió mát thổi hàng dâu.
Ngắm cảnh đẹp đâu cứ
Phải đến tận Nam Lâu 1).

1). Tên một lầu ở Võ Xương, Trung Quốc, nơi có thê ngắm nhiều cảnh đẹp.



ĐẶNG ĐÌNH TƯỚNG

Sinh năm 1649, mất 1763, hiệu Chúc Ông, người làng Lương Xá, huyện Cương Đức nay thuộc tỉnh Hà Tây. Đậu tiến sĩ năm 22 tuổi, làm quan đến chức Bồi tụng Thị lang,sau đổi sang làm quan võ, trấn thủ ở Sơn Nam. Con cháu ông có bốn người được gả cho hoàng tộc. Nghỉ hưu được ban hiệu Quốc Lão, tước Ứng Công, thọ hơn 80 tuổi.


766. Qua mộ Thái Sư Tỷ Can 1) đời nhà Ân, thoáng nhìn thấy tấm bia       khắc bốn chữ “Ân Tỷ Can Mộ”. Nghe nói đó là chữ viết của Tuyên    Thánh (Khổng Tử), bèn dừng kiệu, xuống xem bia, cúi đầu rạp vái.

Sau rặng tùng xanh, dải núi mờ.
Mộ người nhân đức phải nằm trơ.
Trái tim bảy lỗ sao soi sáng.
Trang nghiêm linh khí tận bây giờ.

1. Tỷ Can là người hiền tài thời thượng cổ ở Trung Quốc. Ông can gián vua Trụ. Vua không nghe, còn nói: “Ta nghe nói tim thánh nhân có bảy lỗ, đúng thế không?” Bèn cho mổ tim Tỷ Can xem.


767. Ngày lập xuân, tức sự

Muôn dặm bụi trần lẫn gió sương.
Đón tiết lập xuân đúng giữa đường.
Thềm hoa, bệ ngọc luôn mong nhớ,
Về Nam cúi rạp, lạy quân vương.



KHUYẾT DANH


768. Đi sứ phương Bắc, đề thơ ở dịch trạm Quế Lâm
          Bài một

Cành dương vẫy tiễn sứ đi xa.
Bên sông, thành cổ, gió hiền hòa.
Khách lạ gặp nhau, nhìn chẳng nói.
Nỗi niềm day dứt một mình ta.
Khuây khỏa nhớ quê trong mộng điệp.
Một bầu tâm sự gửi đa đa.
Lần này đi sứ, thành hay bại?
Đường đi chắc chắn lắm phiền hà.


769. Đi sứ phương Bắc, đề thơ ở dịch trạm Quế Lâm
          Bài hai

Cuối năm mà nóng tựa mùa hè.
Phanh áo ngồi chờ ngọn gió se.
Trước sân cúc nở như trong mộng.
Ngoài ngõ buồn lòng rộn tiếng ve.
Ngâm thơ, uống rượu bên sông núi.
Gửi gắm tâm tư đến bạn bè.
Không phải ngẫu nhiên đêm mưa lớn.
Khách sứ nằm nghe thêm nhớ quê.



TRẦN LÂU

Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Đông Ngạn, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ đời nhà Hồ, giữ chức giáo thụ.


770. Qua cửa Hàm Tử

Từng nghe trận đánh ở nơi này.
Bây giờ có dịp được về đây.
Ào ào sóng vỗ như chiêng trống.
Tre ngà nghiêng ngả tựa cờ bay.
Vua Nam trở lại, cây tươi tốt.
Giặc Hồ tháo chạy, lạnh trời mây.
Toa Đô bị chém nơi nào nhỉ?
Nước biếc non xanh rộng tháng ngày.



NGUYỄN MỘNG TUÂN

Chưa rõ năm sinh, năm mất, tên thật là Văn Nhược, tự Cúc Pha, người huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, đậu tiến sĩ năm Canh Thìn đời Hồ. Ông gia nhập nghĩa quân Lê Lợi và được tin dùng. Để lại tập thơ Cúc Pha.


771. Cửa Hàm Tử

Biết bao cuộc chiến ở nơi này.
Người đời truyền tụng mãi xưa nay.
Hồ Đỗ thiêm văn 1) - loài chuột chũi.
Tướng Trần, Quang Khải - đúng rồng bay.
Lòng sông đóng cọc, bờ xanh biếc,
Đầu lâu gọi nguyệt, sóng đêm ngày.
Bất cần hưng thịnh, trên thuyền nhỏ
Ngư ông nằm ngủ giấc nồng say.

1. Thiêm văn, một chức quan đời nhà Hồ. Hồ Đỗ giữ chức ấy, đem quân chống quân Minh ở cửa Hàm Tử, thua chạy, hèn nhát như loài chuột.
         


VŨ MỘNG NGUYÊN

Năm sinh, năm mất không rõ, người huyện Tiên Du, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ khoa Canh Dần, năm Thánh Nguyên thứ 2, đời Hồ Quí Ly. Từng giữ chức Tế Tửu Quốc Tử Giám.


772. Cây tùng trồng trong chậu

Vốn xưa tấc gốc ở rừng già.
Nay rồng trong chậu, cạnh sân nhà.
Thân tuy còi cọc vài ba thước,
Nhưng cành có vẻ muốn vươn xa.
Che suối, phủ rừng không đủ sức,
Vẫn thầm khao khát trời bao la.
May được chủ nhân thương, chăm sóc,
Hàng ngày đối mặt vịnh, ngâm nga.


773. Tiễn ông Lê Cảnh Lược, giáo thụ Quốc Tử Giám về nghỉ hưu

Ơn vua nay bác được hưu nhàn.
Làng quê ngày tháng sống bình an.
Gió mát trăng thanh, tôm cá béo.
Nước thịnh, được mùa, đủ cái ăn.
Khen bác biết dừng như Lão Tử.
Khổng Tử sách kinh khéo luận bàn.
Lỗi hẹn với nhau, nào cạn chén.
Chúng mình sớm muộn cũng từ quan.



LÊ THIẾU DĨNH

Chưa rõ năm sinh, năm mất, tự Tử Kỳ, người huyện Đường An (Hưng Yên), con Lê Cảnh Tuân. Ông được Lê Thái Tổ cử sang triều Minh cầu phong, trở về được bổ chức Thiêm tri Viện sự, sau vì can gián trái ý vua, bị giáng xuống làm bộ viên ngoại lang. Thơ có tập Tiết Trai.


774. Cổ ý

Mùa đông trời thật rét.
Ngày ngắn, đêm lại dài.
Đêm càng dài càng thích -
Thỏa lòng thương nhớ ai.



LÊ THÚC HIẾN

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Tử Triệu, là em Lê Thiếu Dĩnh, từng làm tri phủ Tràng An rồi Tuyên phủ sứ trấn Lạng Gian.


775. Cảm hoài ngày xuân

Nhìn mây, lòng chợt hứng,
Thả hồn bay bốn phương.
Đi các nơi đã thích,
Huống gì về quê hương.



NGUYỄN PHU TIÊN

Chưa rõ năm sinh, năm mất, người làng Kim Động, Khoái Châu (Hưng Yên), hiệu Tân Kiều Tiên sinh, làm quan đến chức Hàn lâm viện thừa chỉ, Thẩm hình viện sứ.


776. Thuyền đậu cửa biển, lên núi Biện Sơn 1) chơi,
        họa vần thơ ông ký thất họ Đồng.


Việc quan luôn mỏi mệt,
Bỏ đi chơi nơi này.
Giữa mênh mông trời nước
Đôi chim côi cút bay.
Nhớ nhà, lên lầu ngóng
Nhuc nước tính sao đây?
Chí lớn chưa toại nguyện,
Ngắm gươm báu hàng ngày.

1. Một hòn đảo ở ven biển phía nam Thanh Hóa.




VƯƠNG BANG HÀNH

Năm sinh, năm mất không rõ, người phủ Trường Tân, Hạ Hồng, nay là huyện Bình Giang, Hải Dương, hiệu Liễu Khê, làm quan đến chức Đồng tu Quốc sử kiêm Thái tử thuyết thư.


777. Thơ đề núi Dục Thúy, họa theo vần
       Thiếu bảo đời Trần, Trương Hán Siêu

Chùa cổ không thay đổi.
Sát núi cánh buồm nâu.
Dòng sông như dải lụa.
Mây che động sẫm màu.
Đá còn thơm hương biển.
Tháp xưa không thấy đâu.
Phục ông Trương 1) ngày trước -
Xong việc lớn, đi câu!

1. Tức Trương Hán Siêu.



NGUYỄN KHẮC HIẾU

Năm sinh, năm mất không rõ, người xã Bình Lục, huyện Lý Nhân, Hà Nam, đậu tiến sĩ năm 1429, làm quan đến chức Hàn lâm trực học sĩ.


778. Lên chơi gác Thông Minh ở huyện Nam Xương 1)

Hai mươi năm trước đến nơi này.
Neo thuyền, giờ lại bước lên đây.
Cuối trời mưa đổ, thuyền về bến.
Lên cao, khách ngắm nước dâng đầy.
Đầm phá bỏ hoang, rồng quẫy mạnh.
Xong lò thuốc luyện, ngựa tiên bay.
Thăm lại Thông Minh, lầu gác ngọc,
Mà lòng chắp cánh vút trời mây.

1. Tên một huyện ở Hà Nam xưa.



NGUYỄN THIÊN TÚNG

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Ước Phủ, người huyện Đông Ngạn (Bắc Ninh), đậu tiến sĩ năm 1429, làm quan đến chức Quốc tử giám trợ giáo.


779. Giếng nước

Giếng nước trong nho nhỏ
Dân uống mãi vẫn đầy.
Giá lấy được nước giếng
Làm mưa tưới đất này.


780. Ngày xuân tức sự

Cam phận làm mọt sách.
Nhân nghĩa đều thế thôi.
Không ham danh, phú quí,
Ngắm núi cũng đủ rồi.



CHU XA

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Khí Phủ, người làng Yên Phụ (nay là Yên Phong, Bắc Ninh), đậu trúng cách năm 1433, từng đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Thị ngự sử.


781. Buổi chiều, từ trong thuyền nhìn ra

Mặt trời chiều đang lặn.
Vệt ráng nhạt xa xa.
Thuyền trôi trên sông vắng.
Người đi làm về nhà.
Chao lượn đôi chim nhỏ.
Ngồi câu - một ông già.
Trời tối, vành trăng mọc,
Vẫn còn muốn nhìn ra.



NGUYỄN ĐÌNH MỸ

Không rõ năm sinh, năm mất, tự Triệu Phủ, người làng Chi Long, huyện Kim Hoa, nay là Sóc Sơn, Hà Nội, làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư, vì bàn việc trái ý vua nên bị giáng xuông chức Tả thị lang. Ông từng đi sứ nhà Minh năm lần.


782. Buổi chiều, trên đê Yên Khánh 1)

Gió thổi buồm căng, nắng xế tà.
Bầu trời như vẽ, nước bao la.
Mạn Bắc quanh co sông cuộn chảy.
Làng xóm bờ Nam lác đác nhà.
Mưa tạnh, núi xanh, cây ẩn hiện.
Chim soi bóng nước chảy hiền hòa.
Trăng lên, về muộn, nguồn thơ cạn.
Trống làng thong thả điểm canh ba.

1. Tên một con đê thuộc địa phận Ninh Bình.



NGUYỄN THÌ TRUNG

Năm sinh, năm mất không rõ, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, theo học đạo Nho, nhân gặp loạn nhà Hồ, ông mang sách vở lên làng Nghĩa Hưng, huyện Thạch Thất và sống ẩn tại đó. Triều Lê Thái Tông ông được mời giữ chức Thư khố ở Quốc tử giám, sau thăng chức Giáo thụ.


783. Thơ đề am Hương Hải

Con đường nhỏ ven núi.
Chùa đứng cạnh hang sâu.
Động xưa, thu đến sớm.
Ao rộng, trăng lên mau.
Cá dỡn đùa dưới nước.
Chim bay lượn trên đầu.
Không ngoái nhìn mây trắng,
Sư ông thiền đã lâu.



NGUYỄN TRỰC

Sinh năm 1417, mất 1477, tự Công Đình, con danh sĩ Nguyễn Thì Trung, đậu Trạng Nguyên năm 1442. Khi Lê Nhân Tông bị giết, ông cáo bệnh về ở ẩn. Lê Thánh Tông quí tài ông, mời ra làm Hàn lâm viện thừa chí, kiêm Tế tửu Quốc tử giám. Ông để lại tập thơ Xư Liêu tập, được Thân Nhân Trung khen là mực thước và thông tuệ.


 784. Thơ đề ở chùa Cực Lạc

Chùa hiện trong mây trắng.
Mấy lần đến nơi này.
Chân Phật in trên đá.
Nhà sư tựa rừng cây.
Nơi xa vắng, ít bụi.
Trên núi nhiều trăng, mây.
Sư luộc khoai, pha nước,
Mời khách ngủ nơi này.



VŨ LÃM

Năm sinh, năm mất không rõ, người xa Tân Cầu, huyện Vĩnh Động (Hưng Yên), đậu tiến sĩ năm 1442, làm quan đến chức Ngự tiền học sinh, thường được cùng vua Lê Thánh Tông bàn luận văn chương.


785. Chơi núi Lạn Kha

Chống gậy một mình lên núi chơi.
Lớp lớp mây bay rợp kín trời.
Rừng nhuốm màu thu se gió lạnh.
Khe sâu róc rách nước đầy vơi.
Bàn cờ bỏ trống, tiên đi vắng.
Xương Phật phơi khô, vật đổi dời.
Xưa nay bao kẻ từng sinh, chết,
Mấy ai để lại tiếng cho đời?


786. Qua núi Yên Định
         (Làm trong khi tòng quân ở phủ Thanh Hóa)

Dãy núi xanh mờ, đứng sát sông.
Sương mù bao phủ, có như không.
Nước lên, chảy mạnh, cây xanh biếc.
Tia nắng đan xen, sóng nhuộm hồng.
Sáo thổi, xé tan mù mấy lớp.
Cờ bay, ngăn cản gió trên sông..
Đi lính xưa nay là viêc lớn.
Không biết lần này ai lập công?




LÊ HOẰNG DỤC

Không rõ năm sinh, năm mất, người xã Hải Lịch, huyện Lôi Dương ,nay là Thọ Xuân, Thanh Hoa, làm quan đến chức Thượng Thư và Đô đốc, được phong tước Tung Quận công. Có đi sứ Trung Quốc.


787. Đi trên sông, ngẫu nhiên thành thơ

Bao la thi hứng, nước bao la.
Dừng đàn, tư lự ngước nhìn ra.
Cỏ xanh - dễ thấy chim cò trắng.
Cây rậm - khôn che bóng xế tà.
Bên mạn thuyền con nghe sóng vỗ.
Buồm nâu một cánh, gió hiền hòa.
Bao nhiêu dấu cũ trôi theo nước.
Bốn bề thấp thoáng núi xa xa.



KIẾN VƯƠNG

Không rõ năm sinh, năm mất, tên húy là Tân, con thứ vua Lê Thánh Tông. Con ông là vua Tương Dực (1509 - 1516). Tác phẩm có Lạc Uyển Dư Nhàn Tập.


788. Phụng họa thơ vua khi theo vua đi thăm Tây Kinh,
        bài “Buổi sớm, xuất phát trên sông Thiên Vực”

Bãi dâu khói biếc, ráng mai hồng.
Long lanh giọt nắng mạn thuyền rồng.
Mùa xuân rực rỡ màu cây lá.
Xanh thắm muôn trùng, núi với sông.
Mưa trên hoa đỏ trong vườn hạnh
Gió ngoài rặng liễu thổi vào song.
Lam Sơn trước mặt, gần gang tấc.
Chơt nhớ Cao Hoàng 1) khởi nghiệp công.

1. Tức Lê Lợi.



PHÚC VƯƠNG

Sinh năm 1467, mất 1500, tên húy là Tranh, con thứ sáu của vua Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ hai được phong tước Phúc Vương. Ông ham đọc sách, nhất là Kinh Dịch, làm thơ hay và viết chữ rất đep.


789. Đêm xuân

Hương thơm, đêm vắng, lặng như tờ.
Đọc xong Kinh Dịch, ngẫm duyên cơ.
Trăng soi phòng sách, hoa còn ướt.
Trống điểm canh chầy, liễu phất phơ.
                                                                                    

790. Phụng họa thơ vua, bài “Buổi sớm, xuất phát trên sông Thiên Vực”

Rạng sáng, mênh mông nước chói lòa.
Bên sông đỏ rực một bờ hoa.
Màu xuân thấm đượm màu sông núi.
Giữa dòng cá nhảy với chim sa.
Cờ xí tung bay trong gió sớm.
Thuyền vua háo hức chuyến đi xa.
Tiểu thần vinh dự theo, hầu việc,
Nhớ đức vua xưa dựng nước nhà.



LƯƠNG VƯƠNG

Năm sinh, năm mất không rõ, tên húy là Thuyên, con thứ vua Lê Thánh Tông.

791. Phụng họa thơ vua, bài “Buổi sớm, xuất phát trên sông Thiên Vực”

Xuân mới ngất ngây tựa rượu nồng.
Sông xanh uốn khúc, mặt trời hồng.
Khói lam nhàn nhạt che bờ cỏ.
Bầy chim ríu rít lượn trên không.
Nhè nhẹ sóng vờn trong gió sớm.
Đoàn thuyền lướt giữa mù trên sông.
Nhớ công trời biển Cao Hoàng đế,
Ngong ngóng Lam Sơn, mỏi mắt trông.



THÂN NHÂN TRUNG

Sinh năm 1418, mất 1499, tự Hậu Phủ, người làng Yên Ninh, huyện Đông Dũng (Bắc Ninh), đậu tiến sĩ năm 1469, làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ, Lễ bộ Thương thư, vì có tài văn thư nên được vua Lê Thánh Tông phong làm Tao Đàn phó nguyên súy. Ông nổi tiếng nhờ câu: “Nhân tài là nguyên khí quốc gia”.


792. Kính họa thơ vua khi theo vua chơi động Lục Vân,
        ngày 17 tháng Ba, năm Hồng Đức thứ 25

Thanh u động cổ giữa tầng không.
Xinh tươi cảnh sắc tựa tiên bồng.
Sau mưa, rêu phủ xanh đường đá.
Tiếng đàn gió thổi rộn hàng thông.
Ba sinh hương hỏa 1) duyên bền chặt.
Một gối hà yên 2) tỉnh giấc nồng.
Ngâm vịnh thơ vua, lòng tĩnh lặng.
Ngoài sân hoa nở, ánh trăng lồng.

1. Hương hỏa - hương và lửa. Người xưa khi ăn thề với nhau thường đốt hương để khấn, gọi là duyên hương hỏa.
2. Hà yên - ráng đỏ và khói, chỉ cảnh tiên.


793. Kính họa thơ vua, bài “Đến thăm Kiến Thụy Đường”

Nhà tiên, thật đẹp cảnh nơi này.
Như chốn Bồng Lai, nước với mây.
Mưa rơi lạnh lẽo, xanh đồng lúa.
Hoa hồng dưới bãi, đỏ hàng cây.
Thờ phụng tổ tiên, gương hiếu thảo.
Tích phúc cơ đồ, gắng dựng xây.
Theo hầu xa giá, dâng bài phú,
Chỉ tiếc bất tài, ý chẳng hay.



ĐỖ NHUẬN

Sinh năm 1445, mất chưa rõ năm nào, người huyện Kim Hoa, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội, đậu tiến sĩ năm Quảng Đức thứ 7, làm quan đến chức Thượng thư, được vua Lê Thánh Tông ban hiệu là Tao Đàn phó nguyên súy.

794. Phụng họa thơ vua khi theo ngài đi chơi động Lục Vân

Nữ Oa đẽo đá thành hang động.
Uy nghiêm, sừng sững giữa trời mây.
Phong cảnh hữu tình, cơn gió thổi.
Cổng hờ, khách tục ít vào đây.
Chim hạc đã đi, rêu vẫn mọc.
Hang lạnh mà mưa vẫn suốt ngày.
Lo toan đời tục làm ta mệt.
Thảnh thơi thấy lại ở nơi này.



LƯƠNG THẾ VINH

Sinh năm 1441, mất năm nào không rõ, người huyện Thiên Bản, nay là Vụ Bản, Nam Định. Từ nhỏ ông đã thông minh khác thường, đậu trạng nguyên năm 23 tuổi. Dưới triều vua Lê Thánh Tông ông giữ chức Hàn lâm thừa chỉ chưởng viện sư, nổi tiếng nhờ những công trình nghiên cứu toán học và Phật học.

795. Theo vua đi đánh miền Tây, phụng họa bài
        “Tướng sĩ nhớ nhà” của vua.

Muốn vẹn cả hai, nước lẫn nhà.
Trời đầy mây trắng phía xa xa.
Quán khách đêm nằm nghe trống điểm.
Hơi thu lành lạnh bám vào da.
Ngựa hý não lòng muôn dặm đất.,
Một vùng chim nhạn ít bay qua.
Mong sớm đến ngày xong việc lớn
Trở lại kinh đô, nước thái hòa.



ĐÀO CỬ

Không rõ năm sinh, năm mất, người ở Siêu Loại, nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh, đỗ tiến sĩ năm 1466, lúc mới 18 tuổi, làm quan đến chức Đông các Đại hoc sĩ, sau phong Thượng thư.

796. Vâng họa thơ vua, bài “Buổi sáng,
        khởi hành từ sông Thiên Vực”.

Lò hương nghi ngút, khói thơm nồng.
Mặt trời đỏ rực giữa dòng sông.
Cờ xí tung bay trong gió sớm.
Núi non muôn dặm, trời xanh trong.
Mũ áo uy nghi, ơn mưa móc.
Thấp thoáng làng quê, lúa bén đòng.
Mừng nước thái bình, vua thịnh trị.
Chợt nhớ Cao Hoàng 1) lập nghiệp công.

  1. Tức Lê Lợi.


797. Phụng họa thơ vua, bài
       “Tưởng nhớ công đức hai vị thánh”.

Lòng vua tĩnh lặng giữa đêm thanh.
Thuyền lầu vua ngự suốt năm canh.
Tưởng nhớ tổ tiên gây nghiệp lớn.
Nghĩ lo cuộc sống của dân lành.
Chân trời nhàn nhạt, trăng mờ ảo.
Cuốc gọi buồn buồn khóm liễu xanh.
Bốn bể yên bình, yêu khí hết.
Xin cầm bút lớn 1) chép công danh.

1. Theo Vương Tuân truyện trong Tấn Thư thì Vương Tuân mơ thấy có người đưa cho ông một chiếc bút lớn như xà nhà. Tỉnh dậy, ông nói: “Đây là điềm sẽ có việc đại thủ bút”. Về sau, khi vua mất, mọi văn bản quan trọng trong triều đều do ông thảo.



NGUYỄN XUNG XÁC

Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Kim Đôi, huyện Vũ Ninh, nay là Quế Võ, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ năm 1469, làm quan đến chức Chưởng Hàn lâm viện, Lễ bộ Hữu thị lang.


798. Vâng họa thơ vua, bài “Động Lục Vân”.

Vách núi xanh cao, vút tận trời.
Động vắng, bốn bề cây tốt tươi.
Phòng sư yên tĩnh, mây trên gối.
Nhà Phật canh khuya, trăng sáng ngời.
Lung linh nhũ đá khoe muôn sắc.
Rừng thông gió thổi, lá vàng rơi.
Nhân duyên hương lửa còn chưa tắt.
Ghen với sư già sống thảnh thơi.



LÊ NGẠN TUẤN

Không rõ năm sinh, năm mất, người xã Vĩnh Bảo, huyện Tế Giang, nay là Văn Giang, Hưng Yên. Ông đỗ tiến sĩ năm 1472, từng đi sứ Trung Quốc và giữ chức Hộ bộ Thượng thư.

799. Phụng họa thơ vua, bài “Bái yết Sơn Lăng”.

Trời quang, cảnh đẹp, gió hây hây.
Làng xa thấp thoáng giữa rừng cây.
Tường dậu bao quanh lăng mộ cổ.
Tinh kỳ phấp phới, gió tung bay.
Mềm mại dòng sông như dải lụa.
Núi cao sừng sững tựa tường dày.
Lam Sơn trước mặt gần gang tấc.
Khí đẹp bao trùm năm sắc mây.



NGÔ LUÂN

Không rõ năm sinh, năm mất, người huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ năm 1475 và rất được vua Lê Thánh Tông yêu mến. Làm quan đến chức thượng thư.

800. Phụng họa thơ vua, bài “Tướng sĩ nhớ nhà”

Việc nước, việc riêng khó vẹn toàn.
Cô đơn giấc mộng chốn quan san.
Da diết tình quê, thu ảm đạm.
Nhuệ khí tăng thêm, rượu uống tràn.
Tin nhạn gió đưa, thư chẳng thấy.
Buồn thênh đất khách, mảnh trăng tàn.
May được vua thương, ban lệnh hứa
Đến tiết Thương Canh về Trường An.




KHUYẾT DANH


801. Cửa biển Thần Phù

Đường đi xuyên núi, lẫn vào mây.
Thêm chuyến chơi xa đến đất này.
Vào sâu trong đất, sông nhiều nhánh.
Sát biển, cheo veo núi với cây.
La Viện 1) neo thuyền, chờ sóng lặng.
Lấp cảng, Hoàng Chương 2) đá xếp đầy.
Ba mươi chín cửa, đi đường biển
Đến được Ô Châu mất mấy ngày?

1. Người huyện Thuận Lộc, Thanh Hóa, tương truyền là một đạo sĩ giỏi đời Hùng Vương. Khi Hùng Vương đi thuyền đánh vào phía nam, gặp gió to, vua sai Lã Viện đi trước yểm bùa, tự nhiên biển yên gió lặng.
2. Tức Hồ Quý Ly. Khi nghe tin quân Minh đem quân đánh nước ta, Hồ Quý Ly sai chở đá lấp cửa Lầm Cảng để chặn đường.



NGUYỄN VĂN THÁI

Không rõ năm sinh, năm mất, người xã Tiên Liệt, Vĩnh Lai, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đậu Thám Hoa năm Canh Thống thứ 5, làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ. Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, ông giúp nhà Mạc và được thăng chức Lễ bộ Thượng thư, sau bị Đạo Nguyên Bá ghen ghét, buộc phải đi sứ và không được quay về nữa.


802. Họa theo vần, tặng bạn.

Nhớ buổi cùng khoa, đỗ với ông.
Rộng mở đường đời, thỏa ước mong.
Biết lẽ tự nhiên, theo chữ Lễ.
Không nói, gật đầu, lòng hiểu lòng.
Giường chiếu liền nhau nên chẳng lạ.
Soi gương, cùng hẹn lập danh công.
Cây tùng, cây bách luôn là bạn,
Một màu xanh tốt giữa mùa đông.



PHẠM KHIÊM BÍNH

Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Lãm Sơn, Quế Dương, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, đỗ tiến sĩ năm 1502, làm quan đến chức thượng thư, đời nhà Mạc bị giáng xuống thành hữu thị lang.


803. Làm theo vần, tặng bạn

Tài năng uổng phí, tuổi năm mươi
Cái nghèo ập đến, trớ trêu đời.
Mới chỉ dăm năm, tiền bạc hết.
Trên người chấy rận thấy khắp nơi.
May rủi việc đời không hối tiếc.
Lành dữ ra sao - chuyện của trời.
Giương cặp mắt xanh nhìn bạn hữu,
Thử hỏi hôm nay có mấy người?



KHUYẾT DANH


804. Tự thuật lòng mình

Nghèo đói cùng đường, lại chiến tranh.
Vốn liếng nhiều năm bỗng mất nhanh.
Vất vả lo ăn không đủ bữa.
Gió rét che thân, áo chẳng lành.
Tủi phận, vợ con hay cáu bẳn.
Người quen xa lánh, việc không thành.
Những muốn giang hồ cho khuất mắt,
Nhưng vướng người thân nên chẳng đành.


805. Than cảnh mưa xuân

Xuân ấm mà sao lạnh thế này!
Mưa nhỏ dầm dề suốt cả ngày.
Hoa rơi lặng lẽ trên thềm gạch.
Bên ngoài, nước sẫm ướt hàng cây.
Quán trọ ven sông, giường lạnh lẽo.
Khách xa thiếu áo khoác thân gầy.
Chắc đến cuối cùng mưa cũng tạnh.
Mặt trời lại sáng giống xưa nay.



PHÙ THÚC HOÀNH

Không rõ năm sinh, năm mất, người làng Phú Xá, Kim Hoa, nay thuộc Sóc Sơn, Hà Nội. Ông có học vấn uyên thâm nhưng không đi thi, được làm Hàn lâm học sĩ, dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám.


806. Đi trên đường núi

Mưa tạnh, núi xanh biếc.
Suối trong, cây lòa xòa.
Cầu gãy, rừng vắng vẻ.
Thỉnh thoảng có tiếng gà.


807. Ý xưa

Lá sen như chiếc lọng.
Hoa hồng như mặt người.
Nhớ chàng, chưa được gặp.
Đi dạo, lòng rối bời.



PHÙNG KHẮC KHOAN

Sinh năm 1528, mất 1613, tự Hoằng Phu, hiệu Nghị Toai, người huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây; đậu Hoàng Giáp năm 1580, đi sứ Trung Quốc năm 1597. Trong thời gian đi sứ sáng tác nhiều thơ, xướng hoạ và ứng đối rất giỏi, được các sứ thần nước ngoài thán phục. Làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư, tước Mai Quận công.


808. Viết trả lời người mang rượu đến xin thơ

Còn hơn cả rượu, hứng thơ say.
Ngang vò rượu quý bài thơ này,
Thơ đã làm xong, rượu uống hết.
Trùm thơ, trùm rượu là ta đây!


809. Ở công quán, làm thơ tức sự

Đêm về bầy quạ lượn bay quanh.
Sáo ai não ruột thổi đầu thành.
Trời Nam ngong ngóng, tìm Nam Đẩu, 1)
Nhớ nhà, trằn trọc suốt năm canh.

(1) Tªn mét chßm sao s¸u ng«i phÝa Nam, ë ®©y chØ vua n­ưíc Nam. Bµi nµy viÕt khi t¸c gi¶ ®i sø sang Trung Quèc.


810. Qua rừng lim

Rừng lim cao khỏe, đỡ chống trời,
Cứng cỏi, coi thường sương tuyết rơi.
Giữa lúc nước nhà cần trụ cột,
Sao ở nơi sâu, xa lánh đời?


811. Thơ tức sự ở công quán

Tuổi già, đi sứ đến Yên Kinh. 1)
Đế đô cảnh vật thật thanh bình.
Gió thổi qua cây như tiếng suối.
Trong vườn, xuyên lá, nắng lung linh.

(1) Tøc B¾c Kinh ngµy nay.


812. Thơ tức sự ở công quán

Bầy quạ bay quanh ngọn liễu già.
Sao Lỗ ai người thổi xót xa.
Ngoái nhìn Thiên Tân 1), tìm Nam Đẩu,
Không ngủ suốt đêm bởi nhớ nhà.

(1) Mét tØnh ë phÝa B¾c Trung Quèc.


813. Bến Bành Thành
    Viết ở sông Tuy Thủy, huyện Bành Thành, Từ Châu, vốn là chỗ đóng đô của Hạng Vũ,
    có đài Hý Mã và đền Bành Tử.

Hý Mã đài xưa dấu vẫn còn.
Nhà khách bên đường, rặng liễu non.
Tuy Thủy, Bành Thành nguyên như cũ,
Công danh Hán Sở đã phai mòn.


814. Tự thuật
    Viết năm Quý mão (1543), lúc 16 tuổi.

Tự biết mình non, tuổi học hành,
Đêm ngày phải học để thành danh.
Quý nhất trong nhà là quyển sách.
Chiếc cày là bút vẽ nên tranh.
Sự nghiệp phải đi đường ngay thẳng.
Làm người phải biết trọng thanh danh.
Làm con trước hết thờ cha mẹ,
Rồi sau mới nghĩ chuyện tung hoành.


815. Ngày đầu xuân
          Viết năm Mậu Thân, lúc 21 tuổi.

Vua mới ban cho lịch Mậu Thân.
Vậy là lần nữa lại mùa xuân.
Lộc nhú, hoa tươi, gì cũng mới.
Lá biếc, non xanh, mây trắng ngần.
Năm mới, mọi người thay cái cũ.
Đất trời vạn vật rất quen thân.
Xuân đến, điều lành mong sẽ đến.
Cần chi cắt lụa giống đời Tần 1).

(1) Tôc lÊy lôa ®em c¾t ®Ó trang hoµng nhµ cöa lóc ®ãn xu©n ®êi nhµ TÇn, Trung Quèc.


816. Nguyên đán
        Viết năm Bính Thìn, lúc 29 tuổi.

Xuân đi, xuân đến tự xoay vần.
Lòng người háo hức với mùa xuân.
Núi sông cảnh đẹp như tranh vẽ.
Cỏ cây thay sắc đã bao lần.
Say đất, say trời, ta uống rượu.
Ngồi nhàn quán trọ viết thơ văn.
Cưỡi ngựa ngắm hoa là thú thích,
Hơn nhiều gà chọi ở Tràng An.


817. Từ xa gửi cho bạn

Từ khi xa bác đến bây giờ,
Chẳng viết thư nhiều, chỉ viết thơ.
Muốn bẻ cành mai 1), mai chửa mọc,
Bạn bè gặp mặt chỉ trong mơ.
Giang sơn xa cách tuy nghìn dặm,
Tấm lòng trung nghĩa chẳng thờ ơ.
Tài lớn cần dùng vào việc lớn.
Kẻ sĩ sao cam mãi đợi chờ?

(1) Ngµy xư­a ë Trung Quèc ng­ưêi ta thư­êng bÎ cµnh mai ®Ó tÆng lóc chia tay, hoÆc tá lßng th­ư¬ng nhí nhau.


818. Đêm ba mươi tết

Đêm ba mươi tết, thức làm thơ.
Không ngủ suốt đêm, cứ thẫn thờ.
Trong thành đây đó đèn thắp sáng.
Ngoài ngõ nơi nơi rợp bóng cờ.
Nửa đêm khí lạnh còn chưa hết.
Canh ba trời bỗng ấm bất ngờ.
Mai nở bên thềm như báo lịch.
Quả rằng Thiệu Tử giỏi thiên cơ 1).

(1) Tøc ThiÖu Khang TiÕt, mét ng­ưêi th«ng minh næi tiÕng ®êi Tèng, viÕt cuèn "Hoa mai dÞch sè" ®o¸n vÒ sù biÕn ®æi cña vËn sè.


819. Đêm thu hoài cảm
Bài một

Đồng hồ chảy chậm, mới canh ba.
Nỗi lòng ai hiểu thấu cho ta.
Đầu tháng thuyền trăng treo trước cửa.
Cuối năm gió lạnh thổi sau nhà.
Lo nghĩ giúp đời không ngủ được,
Hết ngồi đọc sách lại nhìn hoa.
Cái chí làm trai lo việc lớn,
Chứ đâu vui thú với đàn bà.


820. Đêm thu hoài cảm
   Bài hai

Lòng lo trăm mối cả ban ngày,
Huống gì đêm vắng giống đêm nay.
Lo hết sự đời, dân với nước,
Lo tình phụ mẫu báo sao đây.
Ôm gối Ôn Công 1) lo học tập,
Trong đầu chao nhẹ cánh chim bay.
Cái chí làm trai luôn vẫn vậy,
Phải lo gây nghiệp lớn sau này.

(1) Tøc Tư­ M· Quang, cã chiÕc gèi trßn ®ªm dïng ®Ó gèi ®Çu, nÕu ngñ quªn, gèi l¨n ®i ®Ó ®¸nh thøc dËy tiÕp tôc häc.


821. Đêm thu hoài cảm
Bài ba

Gặp hứng, bất ngờ một ý văn
Lớn lên, theo bút cứ tuôn dần.
Đọc sách thấy người xưa xuất hiện.
Ngồi ngắm trăng tàn, nhớ bạn thân.
Sách mở mà rồi toan gập lại.
Duỗi chân, ngại rét, lại co chân.
Giá có được tài như tạo hóa,
Xua hết mùa đông để đón xuân!


822. Leo núi buổi sớm

Sáng sớm vào rừng leo núi chơi.
Bình minh nhuốm đỏ phía chân trời.
Lau lách xếp hàng, đầu khẽ cúi.
Hoa nở, chim ca đợi đón người.
Cây cỏ thân quen như bạn cũ.
Mây gió gợi tình, phút thảnh thơi.
Nào quản hang sâu, khe đá hiểm,
Ta quyết leo cao, đứng giữa trời.


823. Nghe sáo thổi giữa hoàng hôn

Nắng chiều nhuốm đỏ núi, chim bay.
Bất ngờ nghe sáo thổi đâu đây.
Du dương trong gió, khoan rồi nhặt,
Thổi "Lạc mai hoa" báo hết ngày.
Tiếng sáo làm vui lòng tráng sĩ,
Xua tan cái mệt của dân cày.
Nếu sáo đủ tài lui được giặc,
Chắc rằng vua sẽ thưởng cho ngay.


824. Sáng sớm qua Tây Đô 1)

Đô thành, trời rạng, sáng xa xa.
Cảm hứng dạt dào khi ghé qua.
Tường đá bám rêu, xanh ẩm mốc.
Long lanh suối nước, liễu la đà.
Năm tháng trôi đi, còn vết cũ.
Cảm hứng non sông vẫn mặn mà.
Cha con họ Hồ giờ không thấy,
Chỉ thấy gió vờn trên mặt ta.

(1) §« thµnh do Hå Quý Ly x©y dùng, ë An T«n, VÜnh Léc, Thanh Hóa.


825. Tự thuật

Thẹn mình tài đức chẳng bằng ai,
Mà lộc cha ông cứ hưởng hoài.
Đầy hòm sách quí, hơn vàng bạc.
Ba đời đạo sáng, chẳng mờ phai.
Vận nước hết suy rồi lại thịnh.
Đời người giờ khổ, sướng ngày mai.
Xưa nay vẫn thế - người có học.
Làm nên khanh tướng, bậc hiền tài.


826. Thương đời loạn

Đời dẫu đổi thay, nhưng Đạo không.
Thịnh suy, suy thịnh, cứ xoay vòng.
Chợ họp rồi tan, đâu họp mãi.
Hết kỳ xuân hạ, đến thu đông.
Kẻ ác vô vàn, không giết hết.
Người ngay ôm hận để trong lòng.
Nhưng bậc thánh nhân còn trở lại,
Giúp Đời hưng thịnh, Đạo thành công.


827. Khuyên người đi học

Chăm lo việc học phải do mình.
Trời không can dự việc nho kinh.
Người giỏi, dạy con thường đã khó,
Dễ gì đọc sách lúc đao binh.
Học rộng, lòng thông như suối chảy.
Cái tham tự bớt, sống yên bình.
Khi ít đam mê, lòng sẽ nhẹ,
Cần gì bổng lộc với quang vinh?


828. Hiếu

Hiếu là đạo lớn khắp gần xa.
Trăm điều đức hạnh đó mà ra.
Cái đạo làm con là báo hiếu,
Phụng dưỡng, tôn thờ bậc mẹ cha.
Chu Công, Ngưu Thuấn là gương tốt.
Đại hiếu, đại trung, nước lẫn nhà.
Còn ta, thật tiếc dù tâm niệm,
Chưa thể làm tròn đạo của ta.


829. Đi qua chỗ nước xiết ở Quảng Bình

Vâng mệnh nhà vua đi việc công,
Gặp nơi nước xiết chẳng sờn lòng.
Muôn dặm đường xa không ngại khổ.
Trèo đèo vượt suối cứ như không.
Gánh vác trên vai là việc nước.
Treo đầu ngọn bút núi và sông.
Khi nước thái bình, mong hậu thế,
Lưu lại công danh được mấy dòng.


830. Ở nhà trọ gặp mưa, chờ tạnh

Định lên đường sớm, lúc tinh mơ,
Bỗng đâu mưa lớn, phải ngồi chờ.
Mưa tạnh, trong rừng chim líu ríu.
Ngoài đồng bò gặm cỏ non tơ.
Mây vương đầu núi, trời trong vắt.
Chân ngựa quen đường, bước nhởn nhơ.
Trời sáng thế này, điềm tốt đẹp,
Báo thời Nho thịnh, phát văn thơ.


831. Năm mới

Được mất ở đời, đều tại thiên.
Nuôi dưỡng lúc nhàn khí hạo nhiên.
Ngâm vịnh khác xưa, năm mới đến.
Bất ngờ mai nở trắng ngoài hiên.
Hương hỏa ba sinh duyên kiếp trước
Muôn quyển Thi Thư, ấy bạn hiền.
Mừng thời vận tốt, mừng năm mới,
Thêm một tuổi xuân, một tuổi tiên.


832. Tháng Ba

Bốn mùa thay đổi, đến rồi qua,
Nhưng đẹp hơn nhiều là tháng Ba.
Mưa rụng hoa vàng, hồng hạnh đỏ.
Liễu xanh, huệ nở trắng sau nhà.
Dưới chân đàn Vũ 1) lòng thư thái.
Trước đình Tu Hệ 2), lễ bày ra.
Cây xanh đổ bóng, trưa râm mát.
Ve sầu bất chợt khúc ngân nga.

(1) §µn Vò ®­ưîc lËp ®Ó cÇu mư­a. T¨ng §iÒm, häc trß Khæng Tö, tõng nãi «ng -muèn thanh nhµn, cuèi xu©n (th¸ng Ba) ®i t¾m ë s«ng Nghi vµ lªn hãng m¸t ë ®µn Vò.
2) Tu HÖ, lÔ cuèi th¸ng Ba nh»m trõ yªu tµ vµ ®iÒm xÊu.



833. Cây chuối

Mọc trên đất tốt sát bờ hiên,
Hàng chuối thật yêu và thật hiền.
Như châu lộp độp, mưa trên lá.
Đung đưa cánh quạt, xóa ưu phiền.
Công danh, bổng lộc không tơ tưởng,
Nuôi chí trong lòng, đức với duyên.
Lại thấm ân trời và lộc đất,
Hàng đàn con cháu cứ vươn lên.


834. Tự xướng, tự họa

Kinh Thi chưa kịp đọc nhiều lần,
Đi sứ bất tài, thật khó khăn.
Nhưng được vua giao, dù tuổi tác,
Lên đường, không gợn chút băn khoăn.
Thành đô ngoái lại nhìn lưu luyến,
Thẹn mình chưa hiểu hết thơ văn.
Cố đem trung nghĩa làm nên việc,
Để có hòa bình, đỡ khổ dân.


835. Đêm đông ở công quán

Thu qua, đông đến, luật xoay vòng.
Đêm vắng lầu cao chợt chạnh lòng.
Tình nghĩa, dẫu xa, trăng vẫn dọi.
Chuông chùa làm tỉnh mộng đêm đông.
Phương Bắc tuyết tan, xuân sắp đến.
Trời Nam mây trắng ngoái về trông.
Ân vua như biển chưa đền đáp,
Thầm hô "vạn tuế" tỏ lòng trung.


836. Qua hồ Bà Dương 1)

Lư Sơn trùng điệp, núi nhấp nhô.
Bà Dương hồ rộng, sóng lô xô.
Trời nước mênh mông trong nắng nhạt.
Soi bóng hoa sen, những chiếc đò.
Họ Lã 2) qua đây trên cánh hạc.
Ông già họ Phạm 3) mái chèo to.
Ai lòng nông cạn, nhìn không rộng,
Không biết say mê cảnh núi hồ.

(1) Hå ë huyÖn Hå KhÈn, tØnh Giang T©y, Trung Quèc.
(2) ChØ L· §éng T©n ngư­êi ®êi §ư­êng, tu tiªn ®¾c ®¹o th­ưêng c­ưìi h¹c ®i ch¬i c¸c hå lín.
(3) ChØ Ph¹m L·i, ngư­êi ®· gióp ViÖt V­ư¬ng C©u TiÔn  diÖt nhµ Ng«. Xong viÖc, «ng tõ quan, chÌo thuyÒn ®i chu du Ngò Hå.


837. Mừng năm Bính Tuất

Vâng chiếu nhà vua đi sứ xa.
Nay đúng mùa xuân, trở lại nhà.
Theo gót anh tài đi đây đó,
Mở mày, mở mặt với người ta.
Mới biết mùa đông, tùng khí phách,
Và mai đẹp nhất các loài hoa.
Nay việc đã xong, chào thiên tử,
Ta lại trở về nước Nam ta.


838. Thơ đáp lại sứ thần Triều Tiên

Trọn tình, vẹn nghĩa sẽ bền lâu.
Đọc sách thánh hiền đến thuộc lầu.
Việt Triều hai nước dù xa cách
Nhưng cùng gốc rễ bám rất sâu.
Bang giao phải lấy tình làm gốc.
Muốn xây nghiệp lớn - nghĩa làm đầu.
Sứ bộ mai kia về cố quốc,
Hãy ngắm nhìn mây lúc nhớ nhau.



NGUYỄN TIẾN SÁCH

Sinh 1638, mất không rõ năm nào, người huyện Bạch Hạc, Phú Thọ, đỗ tiến sĩ năm 1670. Làm phó sứ trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1690; hai bài thơ này làm trong thời gian ấy.


839. Đi trong cảnh tuyết rơi ở An Túc

Ngựa đi, kiếm vỗ, tiếng lanh canh.
Tuyết rơi, cảnh đẹp tựa trong tranh.
Bốn phía là đồng, như sóng biển.
Xa xa núi xõa mái đầu xanh.


840. Tức sự ngày lập xuân

Vất vả bao ngày cảnh gió sương.
Bất chợt đón xuân, vui dọc đường.
Nhớ ơn đức vua và cha mẹ,
Cúi đầu quỳ lạy, hướng quê hương.



KHUYẾT DANH


841. Cảnh Tây Hồ 1)

Một khóm dương vàng, mấy khóm hoa.
Trong quán người say, trẻ lẫn già.
Đất Việt cái vui không giống vậy -
Xuân về khắp chốn rộn lời ca.

(1) Theo Lª Quý §«n trong "KiÕn v¨n tiÓu lôc" th× ®©y lµ bµi th¬ cña mét sø thÇn Giao ChØ lµm khi tíi T©y Hå. Cã ng­ưêi xÕp bµi th¬ nµy vµo thêi TrÇn.



LÊ QUANG VIÊN

Không rõ năm sinh, năm mất, bài thơ này được viết khi đi sứ sang triều Thanh năm 1773. Tác phẩm có tập "Hoa trình ngẫu bút lục".


842. Cảm nghĩ trên sông Tây Ninh

Châu Thành thuyền ghé bến ban trưa.
Đối diện lầu cao, buồn bâng quơ.
Tổ quốc thì xa, đường heo hút,
Đã thế ban đêm trời lại mưa.



ĐOÀN NGUYỄN TUẤN

Không rõ năm sinh, năm mất, hiệu Hải Ông, người làng Hải An, nay thuộc huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình; làm quan thời Tây Sơn. Sau chiến thắng Đống Đa 1789, ông được cử đi sứ Trung Quốc. Hai bài thơ này của ông viết trong thời gian ấy. Tác phẩm có "Hải Ông thi tập".


843. Lá thu

Cây lá, thu về, gặp gió sương,
Héo khô, rơi xuống sát bên giường.
Đất Nam khác hẳn, mùa thu đến
Vạn vật xanh rờn, vẫn ngát hương,


844. Phòng thu

Gió thu níu áo, nước đang đông.
Cô đơn, lạnh lẽo chốn khuê phòng.
Chữ gấm dệt xong 1), tin cá vắng 2)
Đêm bói đèn hoa, đỡ nhớ chồng.

(1) Ch÷ gÊm: nh¾c chuyÖn nµng T« HuÖ, dÖt th¬ trªn gÊm råi d©ng vua xin cho chång ®i thó n¬i xa ®­ưîc vÒ.
(2) Mư­în ch÷ trong cæ thi: Hå ®ång phanh lý ưng­, trung h÷u xÝch tè th­ư, (B¶o trÎ mæ c¸ chÐp, trong cã bøc thư­ dµi) - c¶ c©u nµy ý nãi ngư­êi vî mong nhí chång.



NGUYỄN NHÂN AN

Năm sinh, năm mất không rõ, người xã Vĩnh Kỳ, huyện Từ Liêm, nay là thôn Vĩnh Kỳ, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, Hà Tây. Ông thi đỗ Đệ tam đồng giáp tiến sĩ xuất thân năm 1556, từng được cử đi sứ và làm quan đến chức Thị lang, tước Phúc Diễn hầu, khi mất được phong tặng Thượng thư. Tác phẩm chỉ còn hai bài trong "Toàn Việt thi lục".


845. Qua Lam Sơn, họa vần thơ của trạng nguyên Giáp Tiết Trại

Chín mươi ngọn núi uốn quanh quanh.
Đất trời bốn phía đẹp như tranh.
Nhấp nhô đá xếp như bầy hổ.
Như rồng đang cuốn, suối long lanh.
Hoa nở bên đường, sương lấp lánh.
Bờ kênh rặng liễu đứng buông cành.
Thành xưa miếu cổ đang còn đó.
Thông già vẫn bạn với mai xanh.


846. Họa vần bài trước

Mây chiều che núi, suối bao quanh.
Trong rừng thấp thoáng mấy lều tranh.
Rồng in trên đá còn lưu lại.
Hình voi soi bóng nước long lanh.
Bụi cỏ bên đường đùa với gió.
Dẫu lạnh, hoa mai nở kín cành.
Quân tử tới đây nhiều việc bận,
Chưa ngồi ngâm vịnh dưới cây xanh.



NGUYỄN NĂNG NHƯỢNG

Sinh 1536, mất không rõ năm nào, người xã Kim Đôi, nay thuộc huyện Quế Võ, Bắc Ninh. Năm 1562 đời Mạc Phúc Nguyên ông thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc năm 1584, làm quan đến chức thượng thư, tước Đạo phái hầu. Còn 24 bài trong "Toàn Việt thi lục".


847. Thơ đề ở Mai Quan 1)

Mai nở trên cành, đậm sắc xuân.
Thông già tỏa bóng, sóng lăn tăn.
Cột đồng, Thành kiến 2) không còn nữa,
Nhưng khí phách xưa cảm thấy gần.

(1)i Mai Quan ë nói Dò Linh, n¬i tiÕp gi¸p hai tØnh Qu¶ng §«ng vµ Qu¶ng T©y. Th¬ viÕt trong khi ®i sø phư¬ng B¾c.
(2) Cét ®ång, thµnh kiÕn (x©y kiªn cè vµ tinh vi nhu­ tæ kiÕn, lµ biÓu tưîng cña khÝ ph¸ch hµo hïng ®êi xưa.


848. Cây mai nở muộn ở Hoành Phố

Trên đường Lĩnh Kiện ghé Mai Quan.
Tháng Hai trời rét, cánh mai tàn.
Chủ khách quý nhau, mời ở lại.
Tiếc rằng gió giục đến Tràng An.


849. Cảnh chiều ở Thủy Khê

Trời trong, sóng lặng, gió hây hây.
Thuyền đi sáng sớm, nước dâng đầy.
Tháng Hai, cảnh đẹp như tranh vẽ.
Khắp rừng hoa nở, cánh chim bay.


850. Đêm tạnh trời, đậu thuyền ở bên Tiêu Than

Thuyền đậu Tiêu Than, chỗ nước nông.
Trời ấm mà sao vẫn lạnh lòng.
Trằn trọc nhớ quê không ngủ được,
Hoa đèn nhìn mãi, mắt chong chong.
Văng vẳng sáo chài từ núi bắc.
Trời nam chấp chới cánh chim hồng.
Vâng mệnh nhà vua, không tiếc sức,
Mong ngày trở lại, việc thành công.



ĐẶNG ĐỀ

Năm sinh, năm mất không rõ, tự Hồi Khanh, hiệu Tùng Pha, người làng Uông Thượng nay thuộc tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 1565, đời Mạc Phúc Nguyên, được cử đi sứ Trung Quốc năm 1584, lúc về được thăng chức Thượng thư và phong tước Tùng Linh bá. Ông nổi tiếng học rộng, thơ hay. Tác phẩm có "Tùng Pha thi tập", bốn quyển hiện còn thất lạc. "Toàn Việt thi lục” có 44 bài.


851. Trạm Nhân Lý

Qua hết Thượng Cường, giờ tới đây.
Xem núi Mẹ Con ở xứ này.
Dẫu nhớ song thân mà chẳng dám
Ngoái nhìn chốn ấy dưới trời mây. 1)

(1) DÞch Nh©n KiÖt ®êi §­ưêng cã viÖc ph¶i ®i xa, mçi lÇn nhí cha mÑ ®Òu nh×n vÒ phÝa ®¸m m©y tr¾ng mµ than r»ng: "Nhµ cña cha mÑ ta ë dưíi ®¸m m©y tr¾ng kia!"


852. Tảng sáng xuất phát từ thành Lạng Sơn

Lên đường sáng sớm, lúc tinh mơ.
Hơi núi, sương đêm thấm ướt cờ.
Không dám ngoái nhìn vì biết rõ
Dưới mây nơi ấy đất thành đô.


853. Buổi tối nghỉ ở trại Mạc Phủ

Gặp mưa, đi sớm, lại đường xa.
Xe sứ đến đây đã xế tà.
Đêm ngủ, đang mơ về cố quốc,
Nghe gà te tái gáy xa xa.


854. Đi sứ phương bắc, xuất phát sớm tại sông Nhị Hà

Sáng sớm ra đi bến Nhị Hà.
Nhiều người đưa tiễn khách đi xa.
Màu áo lẫn màu mây buổi sáng.
Hai bên đường trạm nở đầy hoa.
Đi sứ, áo lông cùng ngựa béo,
Nguyện gắng sức mình giống Tử Hoa 1).
Mong  lúc quay về, thời tiết tốt,
Hoa nở, mùa xuân khắp mọi nhà.

 (1) Häc trß cña Khæng Tö, th­ưng ®­ưîc sai ®i sø. Khi ®i sø Tö Hoa hay "thõa phi m· ý khinh cÇu" (cưìi ngùa bÐo mÆc, ¸o l«ng cõu). §êi sau th­ưêng dïng h×nh tư­îng nµy chØ sù ®i sø.


855. Đêm đậu thuyền ở bến Tiêu Than

Ngày xuân thuyền đậu bến Tiêu Than.
Hết mưa, sương giá vẫn chưa tan.
Lấp lóe lửa chài soi ánh nước.
Trên bãi, nhao nhao vịt gọi đàn.
Văng vẳng tiếng chuông xen tiếng sóng.
Đồng hồ nước cạn, báo đêm tàn.
Nhớ quê, khách sứ lòng da diết,
Thả hồn theo mộng tới Trường An.


856. Tiết hàn thực trên đất khách

Xuân muộn, bây giờ đã tháng Ba.
Buồn buồn lòng khách ở nơi xa.
Theo gió, xinh xinh con bướm lượn.
Mưa nhiều, xơ xác những cành hoa.
Thoang thoảng đâu đây mùi cháo hạnh.
Ai kia nhóm lửa, bận trong nhà.
Thời gian luân chuyển, dù xuân muộn,
Cũng uống rượu mừng, ta với ta.



NGUYỄN QUÍ ỨNG

Chưa rõ năm sinh, năm mất, hiệu Trác Phong, làm quan cuối đời Trần và từng đi sứ Trung Quốc. Tác phẩm lưu được một bài bốn câu và bài này.


857. Qua Châu Hoành 1), họa vần thơ của Vương Bồng Trai 2)

Thuyền buộc mé sông, nắng xế ngày.
Khách bước lên lầu, lòng ngất ngây.
Việc cũ, bè sao trôi theo nước,
Vách tường thành cổ vẫn còn đây.
Lúc đi xuân sớm, thuyền men núi.
Trăng sáng Châu Hoành ngủ tối nay.
Không có thời gian ngồi uống rượu,
Làm tạm bài thơ vịnh cảnh này.

(1) Thuéc phñ Nam Ninh, tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) Ngư­êi Trung Quèc, chưa râ lµ ai.




DOÃN ÂN PHỦ

Chưa rõ năm sinh, năm mất. Chỉ biêt ông người tỉnh Hưng Yên ngày nay. Tác phẩm chỉ có bài này trong Toàn Việt thi lục.


858. Phụng mệnh đi sứ, từ biệt em trai

Người đi phương bắc, kẻ về nam.
Xế chiều, dừng ngựa chúc bình an.
Hồng nhạn 1) lẻ loi ngoài ải vắng.
Gọi bạn Tích linh 2)   phía cuối ngàn.
Bao đêm mưa gió cùng trò chuyện.
Muôn hộc tình quê chén rượu khan.
Người giữ tiết mao, người gối quạt,
Trung hiếu xưa nay khó vẹn toàn.

1) Loµi chim sèng d­ưíi n­ưíc, khi bay thư­êng con lín bay tr­ưíc, con bÐ theo sau rÊt trËt tù, v× vËy ngưêi x­a th­ưêng vÝ loµi chim nµy víi t×nh anh em trong nhµ.
(2) Mét gièng chim nhá như­ chim Ðn.




TRẦN LÔ

Sinh 1470, mất 1540, người thôn Bình Vọng, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây ngày nay. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ năm 1502, đời vua Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Hiến sát sử. Năm 1505 được cử đi sứ Trung quốc. Tác phẩm chỉ còn lại vài bài thơ.


859. Qua cửa ải, bày tỏ nỗi lòng

Vua sai đi sứ, những lo thầm.
Nhưng chẳng chối từ việc khó kham.
Ngày giục ngựa đi lên phía Bắc.
Đêm nằm mơ nhớ cõi trời Nam.
Lòng trung báo nước luôn suy nghĩ.
Mưu kế lợi nhà chẳng để tâm.
Chỉ mong xong việc, khi quay lại,
Nước nhà yên ổn, thịnh nghìn năm.



VŨ CÁN

Sinh năm 1480, mất năm nào không rõ, tự là Tùng Hiên, người làng Mộ Trạch, nay thuộc huyện Cẩm Bình, Hải Dương. Vũ Cán là con tiến sĩ Vũ Quỳnh. Ông thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân đời Lê Hiến Tông, làm quan với nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Hình. Từng đi sứ Trung Quốc, nổi tiếng văn tài, xuất khẩu thành chương. Bảy mươi tuổi, ông về hưu và nghỉ ở quê nhà cho đến lúc qua đời. Tác phẩm có "Tùng Hiên thi tập"  và "Tứ lục bị lãm".


860. Ngắm trăng ở Đông Quán 1)

Dòng sông nho nhỏ với cây cầu.
Trăng treo trên núi, người trên lầu.
Nhà cửa, lâu đài trông sạch sẽ.
Đúng lúc rượu ngon có một bầu.
Như thể được ngồi xe Tử Tấn 2).
Đông Pha 3) thi hứng đến trong đầu.
Đây cảnh thần tiên, sông núi đẹp,
Lâm Kiều 4) còn phải kiếm đâu đâu!

1. Một địa danh ở Trung Quốc. Bài này viết khi tác giả đi sứ.
2. Chưa rõ là ai.
3. Tức Tô Thức, nhà thơ nổi tiếng đời Tống.
4. Một địa danh nổi tiếng phong cảnh đẹp ở Trung Quốc.


861. Cây đa ở khe Đồng Cách

Bên khe Đồng Cách, cạnh bờ đê
Có cây đa lớn lá xum xuê.
Nhờ ơn mưa móc, luôn xanh tốt.
Mọi người được hưởng bóng cây che.
Khách nghỉ đường xa, xua cái mệt.
Đồng vắng con chim có chỗ về.
Vốn thích sông Nghi cùng gió Vũ, 1)
Ta nay chợt hứng, viết thơ đề.

(1) S«ng Nghi - mét con s«ng ë tØnh S¬n §«ng, Trung Quèc; Giã Vò - giã m¸t ë ®µn cÇu mư­a.


862. Năm mới viết chơi

Quanh năm sách vở chất đầy phòng.
Tính lười, sống nhạt giống sư ông.
Muốn về ở ẩn mà chưa được.
Chức quan nho nhỏ vẫn đèo bòng.
Nhà chẳng có gì, không sợ trộm.
Hợp đời, hợp đạo dễ thành công.
Ơn vua như núi, tài không có.
Chưa báo đền xong, thẹn với lòng.


863. Trầu cau

Mở đầu câu chuyện miếng trầu con.
Nước đỏ trên môi, miệng cay dòn.
Đậm nhạt mùi đời từng biết hết.
Nóng lạnh tình ai, vị vẫn còn.
Dẫu đắng và cay, đời vẫn quý.
Tiếng tốt lưu truyền với nước non.
Ở ẩn, làm quan, chung cảnh ngộ,
Trước sau như một tấm lòng son.


864. Sự thận trọng

Việc mình không nói lộ ai hay.
Đạo Nho vẫn dạy thế điều này.
Rằng nên thận trọng, nên im lặng,
Cả khi sống ẩn giữa rừng cây.
Chính nó giúp người làm việc lớn.
Công thành, danh toại cũng từ đây.
Không tự dối lòng, không hấp tấp,
Là người quân tử, đạo người ngay.

.

NGUYỄN THIỆN

Sinh 1495, mất 1557, hiệu Cảo Xuyên, quê làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai. Ông đậu trạng nguyên năm 1532, làm quan triều Mạc tới chức Thượng thư bộ Lại kiêm đồ ngự sử. Về sau cùng Lê Bá Ly quay lại phò tá nhà Lê, được phong tước Quận công. Ông là bạn thân với Nguyễn Bỉnh Khiêm, đỗ trước một khóa. Còn lại năm bài trong "Toàn Việt thi tập".


865. Ngày xuân, họa vần thơ Mạc Đăng Doanh

Mùa xuân nắng dịu, bướm và hoa.
Chúa xuân mang lộc đến muôn nhà.
Khí thuận, gió hòa, trời ấm áp,
Bốn bề chim chóc líu lo ca.
Giữa độ "Tam Dương" 1)  thời tiết đẹp.
Muôn loài  hưởng lộc khắp gần xa.
Nước thịnh, vua minh, đang vận tốt,
Dân chúng nơi nơi hưởng thái hòa.

(1) ChØ th¸ng Giªng ©m lÞch.


866. Tiễn Đào Nghiễm đi sứ bắc

Trông bác chưa già, khoảng sáu mươi.
Góp sức hai ta gánh việc đời.
Tôi thẹn, trước mình thi nhất bảng.
Giờ bác ra đi sứ nước người.
Gặp nguy lòng dạ không thay đổi.
Trung hiếu đôi đường vẹn cả đôi.
Việc thành mong bác ngày quay lại,
Lưu truyền tiếng tốt khắp muôn nơi.



LÊ BÁ LÝ

Sinh 1476, mất 1557, người làng Cự Phạm, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, là võ tường dưới quyền chỉ huy của Mạc Đăng Dung, sau được phong làm Thái Tế. Do bị Phạm Quỳnh dèm pha, Mạc Phúc Nguyên định hại ông, nên ông buộc phải chống lại nhà Mạc và quy phục nhà Lê, rất được trọng dụng. Chỉ còn lại một bức thư chữ Nôm và bài thơ chữ Hán dưới đây.


867. Tiễn quan thiếu sự Trần Tiên Sinh 1) hưu trí

Đức ông như biển rộng bao la.
Cùng tôi gánh vác việc sơn hà.
Trong giúp triều đình yên xã tắc.
Ngoài lo biên giới được yên hòa.
Công lớn sách ghi, gương còn đó.
Giờ ông bảy chục, sống quê xa.
Hẹn ông có dịp Kỳ Anh hội, 2)
Chống gậy nói cười, ta với ta.

(1) Tøc TrÇn Ph× (1479-1557), ng­ưêi huyÖn Chư­¬ng §øc, lµm quan triÒu M¹c, tư­íc L¹i quËn c«ng.
(2) Héi nh÷ng nh©n sÜ cao tuæi, thµnh lËp tõ thêi B¾c Tèng, do V¨n Ng¹n B¾c vµ Tư­ M· Quang ®øng ®Çu.



BÙI BÁ CHIẾN

Chưa rõ năm sinh năm mất, giữ chức tri phủ rồi đến chức Doanh tán lý thụ ty luân ở huyện Giao Thủy triều Mạc, người làng Ôn Khê nay thuộc Lạng Sơn. Tác phẩm còn năm bài thơ trong "Toàn Việt thi lục"


868. Tết Nguyên Đán

Sáng hô vạn tuế chúc nhà vua.
Chiều dạo ngắm xuân, vãn cảnh chùa.
Thiếp vàng dâng chúc người thi đỗ, 1)
Mâm đồng ngày tết chỉ tua rua. 2)
Đất nước thanh bình, thời vận tốt.
Muôn loài gợi hứng cứ tranh đua.
Uống chúc mọi người nay mạnh khỏe.
Ai người mai uống rượu đồ tô? 3)

(1) §êi §ưêng, ngưêi thi ®ç tiÕn sÜ thư­êng ®­îc chóc mõng b»ng nh÷ng danh thiÕp in hoa vµng.
(2) Theo tôc cæ, tÕt Nguyªn §¸n ngư­êi ta th­ưêng dïng chØ hång ®Ó trang trÝ nh÷ng m©m hoa qu¶ cÇu mong vËn may trong n¨m.
(3) Tªn mét lo¹i rư­îu quÝ ngµy x­ ưa.



ĐÀO NGHIỄM

Sinh 1496, mất năm nào không rõ. Tự Nghĩa Xuyên, người làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Năm 28 tuổi thi đỗ Hội nguyên đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, đời vua Lê Cung Hoàng. Ông làm quan cho nhà Mạc, từng làm chánh sứ sang Trung Quốc, sau về được phong chức Tả thị lang bộ Binh, kiêm Đông các đại học sĩ. Tác phẩm có "Nghĩa Xuyên quan quang". "Toàn Việt thi lục" có 27 bài.


869. Thơ đi sứ

Lên đường đi sứ phía thành đông.
Bình minh như nước, trời xanh trong.
Người đi, ngựa hý qua cầu liễu.
Bến đò, gió thổi áo choàng lông.
Bạn bè uống tiễn vài ba chén.
Trời quang, đường rộng thảnh thơi lòng.
Dừng ngựa ngoái nhìn, gần trước mặt,
Tràng An chìm giữa đám mây hồng.


870. Trên đường qua Lạng Sơn

Bốn bề rừng núi một màu xanh.
Đường dài, trống đã điểm sang canh.
Áo gấm dưới trăng trông lấp lánh.
Ngựa quí xông pha, rẽ lá cành.
Vẫn tự nhắc mình không ngại khổ,
Không quản đường xa, miễn việc thành.
Thầm mừng thấy trúc bên bờ suối
Như báo cho ta điềm tốt lành.


871. Qua Liễu Châu nhớ Liễu Tông Nguyên 1)

Đường qua Ngũ Lĩnh 2) uốn quanh quanh.
Bỗng buồn man mác, núi xanh xanh.
Cây sậy bên khe sương lấp lánh.
Mé rừng quả quýt nắng long lanh.
Đường tới Hà Đông 3) xa tít tắp.
Trên lầu đứt ruột, thức năm canh.
Liễu Tông Nguyên chết, đời buồn hẳn.
Thành hoang, mây nước vẫn nguyên lành.

(1) Tªn mét ch©u ë tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc. Tªn nµy cã tõ ®êi §­ưêng, ®ưîc gäi theo tªn cña v¨n hµo LiÔu T«ng Nguyªn sau khi «ng bÞ ®µy tíi ®©y.
(2) Tªn n¨m ngän nói ë ®©y.
(3) Quª hư­¬ng LiÔu T«ng Nguyªn, tØnh S¬n T©y, Trung Quèc.


872. Đi thuyền trên đất Tư Minh

Ngẫu nhiên có việc, ghé Tư Minh.
Thuyền lướt trên sông, thật gợi tình.
Nước trắng một dòng như giải lụa.
Như chiếc trâm cài vệt núi xanh.
Mây nhởn nhơ bay theo cánh nhạn.
Gió đưa tiếng vượn hót bên ghềnh.
Làm trai nghĩa lớn đi đây đó,
Vẫy vùng cho thỏa chí bình sinh.


873. Nghỉ đêm ở trạm Pha Lũy

Hết núi rồi sông, ngày lại ngày.
Người ngựa dừng chân nghỉ lại đây.
Tiếng suối rì rầm xen giấc ngủ.
Ngoài thềm trăng chiếu, lạnh hàng cây.
Lòng trung với nước xin trời biết.
Không dám kêu ca lạnh xứ này.
Giấc mộng quẩn quanh về cố quốc.
Đến tự nơi nào cơn gió tây?



GIÁP HẢI

Sinh năm 1507, mất 1581, còn gọi là Giáp Trừng, hiệu Tiết Trai, tự Tiêm Phu, người xã Định Kế huyện Phượng Nhân nay thuộc huyện Lạng Giang tỉnh Hà Bắc. Năm 32 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên). Từng đi sứ Trung Quốc, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ. Ông là bạn thân của Nguyễn Bỉnh Khiêm, và là một danh sĩ có tài hết lòng phù giúp cho cơ đồ nhà Mạc. Tác phẩm có "Cổ kim ứng đáp bang giao tập" và khoảng vài chục bài thơ chữ Hán.


874. Thăm Lam Sơn 1) ngẫu hứng làm thơ
Bài một

Đi đến Lam Sơn, kiệu với thuyền.
Thành quách một bên, làng một bên.
Gặp phường dệt vải đang tìm việc.
Thấy hồ xanh biếc mọc đầy sen.
Cổ kính đất trời, cây hạc đậu.
Ngày dài tháng rộng, phượng bay lên.
Nhìn tấm bia mòn, buồn, tưởng nhớ
Công đức bình Ngô bậc thánh hiền.

(1) Quª h­ư¬ng Lª Lîi, Thanh Hãa.


875. Thăm Lam Sơn, ngẫu hứng làm thơ
   Bài hai

Trở lại thăm quê bậc đế vương.
Người Kinh ở lẫn với Mán Mường.
Miếu cũ oanh kêu, chim nhạn lượn.
Rừng già cây cỏ nức mùi hương.
Sông bồi, núi lở luôn thay đổi,
Đất trời sống mãi với quê hương.
Tìm mãi cảnh xưa mà chẳng thấy,
Chỉ thấy bông mai nở cạnh đường.


876. Họa vần đáp lại Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài một

Giúp vua mưu lược bấy lâu nay,
Như các anh hào Hán trước đây.
Vốn chẳng tham danh cùng phú quý,
Thích cảnh thiên nhiên với cỏ cây.
Thơ xuân bút họa nằm trên án.
Đàn ngọc đêm trăng, chén rượu đầy.
Vời vợi công lao như núi lớn,
Làm gương thiên hạ mãi sau này.


877. Họa vần đáp lại Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài hai

Vẹn cả ba đường: đức, tuổi, công. 1)
Cúi xuống, nhìn lên chẳng thẹn lòng.
Chí khí oai phong xua kẻ ác.
Văn thơ tài rộng tựa dòng sông.
Sôi kinh nấu sử, thơ hàng tập.
Nhà tre thanh đạm, nguyệt bên song.
Đại lã, Hoàng chung vang vọng mãi, 2)
Muôn thuở lưu danh đức với công.

(1) Theo M¹nh Tö, ba ®iÒu ®¸ng quý nhÊt lµ ®øc ®é, tuæi t¸c vµ c«ng lao.
(2) §¹i l·, tªn mét nh¹c luËt ®êi cæ. Hoµng chung - luËt thø nhÊt trong 12 nh¹c luËt cæ, thanh ®iÖu oai phong, hïng tr¸ng.


878. Qua Lam Sơn, ngẫu hứng làm thơ

Leo núi Lam Sơn, tay gạt mây.
Thu trong tầm mắt cảnh miền tây.
Phía trước lâu đài như phượng múa.
Sông hồ bên phải tựa rồng bay.
Bốn mùa xuân sắc, mưa xanh liễu.
Phảng phất hương sen suốt cả ngày.
Ngẫm việc ngày qua thi hứng gợi,
Bần thần ngắm cảnh, tựa thân cây.



VŨ CẨN

Sinh năm 1522, mất năm nào không rõ, tự Đôn Phu, người làng Lương Xá, huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh. Ông là em trạng nguyên Vũ Kính, đỗ tiến sĩ năm 1556 triều Mạc Phúc Nguyên. Từng đi sứ Trung Quốc, sau về được phong chức Thượng thư, tước Xuân Giang hầu. Tác phẩm có "Tinh thiều kỷ hoành" và 100 bài thơ trong "Toàn Việt thi lục".


879. Trạm Pha Lũy

Sắp qua Pha Lũy, ngựa phi nhanh.
Để lại dấu chân các cổng thành.
Suối chảy hai dòng, vang tiếng ngọc.
Vạn trùng núi biếc một màu xanh.
Sáng gà gáy giục đoàn đi tiếp.
Chưa gặp người xe, chim lượn quanh.
Mừng thấy đường thông, mong trở lại,
Mang được tin vui, việc tốt lành.


880. Trạm Minh Giang

Tư Minh, thị trấn ở Bắc Yên.
Ra đi, tính đã mấy ngày liền.
Uốn khúc, dòng sông như dát bạc.
Non cao, núi đẹp tựa thần tiên.
Dân cư trù phú, nhà đông đúc.
Tấp nập người xe khắp mọi miền.
Mới ngủ một đêm nơi quán khách,
Sáng mai vội vã lại lên thuyền.


881. Trạm Đà Sài

Khi tới đây, mặt trời đang chiếu sáng, gió nhẹ thổi từ phía Tây Bắc, bỗng nghe tiếng nước chảy từ xa vẳng tới, bèn ngẫu hứng làm bài thơ này.

Đi qua Đà Phác, đến Đà Sài.
Sương mù dày đặc buổi ban mai.
Ánh nắng mùa đông vàng, yếu ớt.
Gió mùa Tây Bắc lạnh lòng ai.
Vòng quanh, suối chảy xuôi về núi,
Như đàn thanh thót vẳng bên tai
Làm khách đường xa thơ chợt hứng,
Rót rượu bâng khuâng đứng thở dài.


882. Trạm Phủ Môn ở Tầm Dương

Phủ Môn, trạm nhỏ ở Tầm Dương.
Bốn phía bao quanh những lớp tường.
Dưới sông chèo gỗ khua nhè nhẹ,
Trong làng mờ ảo bóng hàng dương.
Chợ sớm đông người, nhiều gấm vóc.
Xe ngựa chen nhau những nẻo đường.
Để lại đời sau gương thánh đạo,
Còn lưu bia đá miếu Quân Tường.


883. Chùa Phi Lai

Trên đỉnh núi có chùa Sư Tử đá, bên phải chùa có suối Định Tâm, đá tạc thành miệng rồng đang phun nước. Đình Âp Tuyền có biển đề thơ Tô Đông Pha. Nhiều khách sứ thần Nam Bắc cũng đề thơ ở vách núi này.

Chùa cổ Phi Lai thật tĩnh yên.
Bụi trần không vướng, lạ mà quen.
Núi đỏ, nước xanh nơi thượng giới.
Rêu xám, sơn son chốn cửa thiền.
Lặng lẽ con rồng phun nước lạnh.
Quanh chùa đá tựa hổ chồm lên.
Bên tên Tô Thức đề trên vách,
Nhiều người qua lại cũng đề tên.


884. Trạm Hoàng Thạch Ky

Buổi sáng lên thuyền đi dọc sông.
Vạt áo khách xa gió thổi phồng.
Nước cạn và trong, không thấy cá.
Núi cao vắng nhạn, trời xanh trong.
Phía hang Dương Cốc 1) bình minh mọc.
Bên núi Thái Hàng 2) mây bập bồng.
Tấm lòng tận tụy trời soi xét.
Mong ngày trở lại, việc thành công.

(1) Theo thÇn tho¹i Trung Quèc, phư­¬ng §«ng cã hang Dư­¬ng Cèc lµ n¬i mÆt trêi mäc.
(2) §Þch Nh©n KiÖt ®êi nhµ §ư­êng ®i lµm quan phư­¬ng xa, tr«ng lµn m©y tr¾ng trªn nói Th¸i Hµng, ch¹nh lßng nhí cha mÑ mµ buét miÖng than r»ng: "Song th©n cña ta ë d­ưíi ®¸m m©y kia!"


885. Qua Lĩnh Trung, cảm tác

Trạm có biển đề "Dũ Lĩnh phân xuân", nghĩa là núi Dũ Lĩnh chia mùa xuân thành hai. Dọc đường đi có nhiều thông, trước Mai Quan có chùa Quải Giác và đình Tức Kiên.

Nơi núi chia xuân là Lĩnh Trung. 1)
Từ xưa đã thuộc phủ Nam Hùng.
Mai Quan dấu ngựa in trên tuyết.
Lối nhỏ nắng xiên rợp bóng tùng.
Tức Kiên đình cổ hây hây gió.
Quải Giác chùa cao mây trập trùng.
Ngoái trông đất Việt xa nghìn dặm,
Chỉ thấy bâng khuâng một áng hồng.

(1) Mét trong nh÷ng d·y nói ë Dò LÜnh, n»m ë ranh giíi Qu¶ng §«ng vµ Qu¶ng T©y, cã rõng mai nªn cßn gäi lµ Mai LÜnh. PhÝa B¾c khÝ hËu l¹nh mai në muén. PhÝa Nam trêi Êm, mai në sím h¬n, v× vËy ®ưîc gäi lµ nói chia xu©n.


886. Trạm Tiểu Khê

Nhìn xuống bờ khe rợp bóng cây,
Cả thành Bách Tính chìm trong mây.
Bướm hồng, rêu xám, nhà đông đúc.
Chim oanh hót giữa tán cây dày.
Dưới sông nước lặng, thuyền san sát.
Ùn ùn mây kéo phía trời tây.
Xe vừa tới trạm nhưng nhỡ chuyến,
Đành ở lại đây thêm nửa ngày.


887. Trạm Kim Xuyên

Bờ sông bên hữu đối diện với trạm là thành Tân Kim. Mé đông thành có nhà đọc sách của Đào Khản với tấm bia đá còn lưu lại.

Đường từ Ngọc Giáp đến Kim Xuyên,
Xuân về, cảnh đẹp tựa thần tiên.
Biển đồng còn đó nhà quan huyện,
Tấn thư bia đá vẫn lưu truyền.
Sáo chài văng vẳng đêm trăng sáng.
Vạn dặm sông xuân nhẹ lướt thuyền.
Mong được bình an, xong việc lớn,
Trở về, dân chúng sống bình yên.


888. Trạm Triết Giang

Từ Hội Giang thuyền đi Triết Giang.
Ruộng xanh tít tắp, nước mênh mang.
Buồm căng, gió thổi thuyền trôi nhẹ.
Bên ngoài, triều lớn sóng âm vang.
Trên núi chuông chùa lay bóng nguyệt.
Dưới sông phơi lưới, nắng ươm vàng..
Buông chèo, nhìn phía Hàng Châu phố.
Hoa sen mười dặm thoảng mùi hương.


889. Trạm Cô Tô

Phía tây có chùa Hàn Sơn, phía nam có hồ Thái Hồ thuộc đất Đông Ngô xưa.

Hùng vĩ núi đồi đứng nhấp nhô..
Ba sông vững mạnh dựng cơ đồ.
Lan can khảm ngọc, cầu như vẽ.
Gác phượng lầu son đẹp đất Ngô.
Nửa đêm chuông ngọc Hàn Sơn điểm 1)
Quyện với trăng khuya nước Thái Hồ.
Danh thắng Bắc Yên về mọi mặt,
Đầu tiên phải kể đến Cô Tô.

(1) ChØ th­ư viÖn cña bÒ t«i nhµ TÊn.


NGUYỄN THỨC

Sinh năm 1555, mất 1637, hiệu Tiết Trai, tự Phác Phù, người làng Vân Điềm, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội. Ông thi đỗ đình nguyên năm 1595, giữ chức Đô cấp sự Hộ khoa, rồi Hồng lô tự khanh. Năm 1606 làm chánh sứ thứ hai sang Trung quốc. Lúc về được thăng Tả thị lang bộ Lễ, tước Phượng lan hầu. Năm 1617 làm thượng thư bộ Hình kiêm Hàn lâm thị độc. Năm 1367 được tôn làm Quốc lão tham dự triều chính. Theo Phan Huy Chú, ông là người tiết độ, trong sạch, xứng đáng danh thần. Tác phẩm có 17 bài trong "Toàn Việt thi lục".

890. Ngắm cảnh chiều giữa sông

Thuyền qua bến Tứ, 1) cảnh thần tiên.
Trời nước xanh trong một giải liền.
Chim xếp thành hàng bay lặng lẽ.
Phao chài trên sóng, nước bình yên.
Nguyên Long 2) chí lớn như sông biển,
Tư Mã 3) chu du khắp mọi miền.
Sắp đến kinh thành, nghe tiếng hát,
Khách nghe xao xuyến, phải dừng thuyền.

(1) Tªn mét bÕn ë s«ng Tø Hµ, ch¶y qua lµng Khóc Phô, quª cña Khæng Tö.
(2) Tªn hiÖu cña TrÇn §¨ng thêi §«ng H¸n, mét ngư­êi cã chÝ khÝ lín.
(3) Tøc Tư­ M· Thiªn, sö gia næi tiÕng thêi H¸n, vèn chu du rÊt nhiÒu ®Ó quan s¸t vµ thu thËp tµi liÖu viÕt sö.


NGUYỄN DANH THẾ

Sinh 1572, mất 1645, người làng Xuân Hội huyện Chương Đức, nay thuộc tỉnh Hà Tây, thi đỗ tiến sĩ năm 1595, lúc mới 24 tuổi. Nhà Mạc mời mấy lần nhưng ông không chịu ra làm quan. Sau làm Hiến sát sứ Sơn Tây cho Trịnh Tùng, rồi được thăng làm Đô cấp sự trung trong phủ chúa. Năm 1606 đi sứ Trung Quốc, về được thăng Hữu thị lang bộ Lại, rồi Thượng thư bộ Công và cuối cùng là Đường quận công. Tác phẩm còn 4 bài trong "Toàn Việt thi lục".


891. Tự thuật lúc lên đường đi sứ phương Bắc,
họa vần thơ của chánh sử Nguyễn Phác Phủ

Đời thịnh, thi tài đậu đại khoa,
Lại được vua cho đi sứ xa.
Cưỡi ngựa đường Chu, phong cảnh đẹp.
Dong thuyền sông Hán, nước lồng hoa.
Ngựa béo, người no, lòng phấn chấn.
Gắng sức cùng lo việc nước nhà.
Chữ hiếu, chữ trung mong giữ trọn,
Nhọc nhằn, nguy hiểm chẳng kêu ca.



NGUYỄN ĐĂNG

Sinh 1576, mất 1657, người làng Đại Toán (làng Tỏi), nay thuộc huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Năm 26 tuổi đã đỗ đầu chế khoa, nổi tiếng học vấn sâu rộng, thơ văn được người đương thời truyền tay nhau chép lại. Năm 1613 được cử làm chánh sứ thứ hai sang Trung Quốc, làm nhiều thơ được các quan Trung Quốc và Triều Tiên rất khen ngợi. Về nước, ông được phong làm Tả thị lang bộ Hộ, mấy năm sau về hưu, mở lớp dạy học tại làng. Học trò ông có nhiều người hiển đạt. Tác phẩm lưu được gồm một bài phú và bốn bài thơ. Hiện còn ngôi đền thờ ông ở quê nhà và được xếp hạng di tích lịch sử.


892. Hoạ bài thơ "Trông trúc trước cửa sổ"
của Lý Đẩu Phong, sứ thần nước Triều Tiên

Thoát tục, nhẹ nhàng, dạn gió sương,
Khoáng đạt, thanh cao, thật khác thường.
Gió thổi xạc xào như tiếng ngọc.
Trăng vàng dát lá, hứng văn chương.
Cành cao phượng đậu, cành thêm đẹp.
Măng mọc như rồng, trăng dễ thương.
Đức hạnh, cao sang và quân tử,
Hàng trúc xanh xanh đứng vệ đường.



PHẠM CÔNG TRỨ

Sinh năm 1600, mất 1675, người xã Liêu Xuyên, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Mỹ Vân, tỉnh Hải Dương. Đậu tiến sĩ năm 27 tuổi, được bổ làm quan tham tán trấn Sơn Nam, rồi thăng dần lên chức Tể Tướng cai quản sáu bộ. Ông là người sâu sắc, trầm tính, giản dị, có tài chính sự, uyên bác văn sử địa. Tác phẩm có "Đại Việt sử ký bản kỳ tục biên", nhiều văn bia. Hiện còn 17 bài thơ trong tập 'Toàn Việt thi lục".


893. Nhớ Chương Dương xưa 1)

Cờ bay phấp phới, nước bao la.
Từ thuyền, mở cửa hé nhìn ra.
Cồn bãi 2) còn đây, nghìn năm trước.
Lẫy lừng chiến trận hóa bài ca.
Cảm khách, lên người cây hắt bóng.
Đền 3) đứng trầm ngâm giữa nắng tà.
Chuyến này nhất quyết trừ gian tặc,
Thu lại Ô Châu, giúp nước nhà.

(1) Bµi nµy viÕt khi t¸c gi¶ hé gi¸ Chóa TrÞnh vµo ThuËn Hãa (¤ Ch©u), ®¸nh NguyÔn Phóc Lan. Chư¬ng Dư­¬ng lµ bÕn ®ß cæ ë h÷u ng¹n s«ng Hång (nay thuéc huyÖn Th­ưêng TÝn, Hµ T©y)
(2) Tøc lµ b·i Tù Nhiªn næi gi÷a s«ng n¬i qu©n ViÖt ®· chiÕn th¾ng qu©n Nam H¸n vµ qu©n Nguyªn.
(3) §Òn thê Chö §ång Tö vµ Tiªn Dung ë b·i Tù Nhiªn.


NGUYỄN DANH NHO

Sinh năm 1638, mất 1699, hiệu Sần Hiên, người xã Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Năm 33 tuổi đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, đời Lê Huyền Tông. Từng được cử đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Bồi tụng hữu thị lang, tước Nam. Tác phẩm hiện còn 12 bài chép trong "Toàn Việt thi lục".


894. Cảm tác cuối xuân

Ba tháng mùa xuân, tháng thứ ba
Thời tiết ấm hơn, hợp tuổi già.
Mưa tạnh, núi rừng khoe sắc đẹp.
Sông không gợn sóng, nước hiền hòa.
Buổi trưa tựa cửa nghe chim hót.
Chiều xế ra vườn nhặt xác hoa.
Không cần tranh luận, không thương tiếc.
Đời là sống gửi, cứ cho qua.


895. Lầu Hoàng Hạc

Hoàng Hạc lầu xưa ai đã xây?
Như nơi tiên giới, vượt tầng mây,
Soi bóng xuống sông, kình, sấu sợ,
Chim trời thường đến nghỉ nơi đây.
Đình Táo 1) có vần thơ Bạch Tuyết, 2)
La Phù 3) hương khói lẫn hương cây.
Người xưa cưỡi hạc về đâu nhỉ, 4)
Để khách trầm ngâm đứng chốn này?

(1) C¹nh lÇu Hoµng H¹c cã c©y t¸o, bªn c¹nh lµ ng«i ®×nh, gäi lµ §×nh T¸o.
(2) Tªn mét khóc h¸t ®êi x­ưa rÊt hay. Nh÷ng bµi th¬ hay th­ưêng ®­ưîc vÝ nh­ư B¹ch TuyÕt.
(3) Tªn d·y nói ®Ñp ë Qu¶ng §«ng, tư­¬ng truyÒn C¸t Hång nhµ §«ng TÊn tu luyÖn ®¾c ®¹o ë ®©y, ý ca ngîi lÇu Hoµng H¹c ®Ñp như­ c¶nh tiªn.
(4) PhÝ V¨n Phi häc ®ư­îc phÐp tiªn, c­ưìi h¹c vµng ®Õn ®Ëu ë Vò Xư­¬ng. N¬i «ng dõng ch¬i sau nµy ®ưîc x©y lÇu Hoµng H¹c ®Ó kû niÖm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét