THÁI THUẬN
Còn gọi là Sái Thuận, nhà thơ lớn thời Hậu Lê, sinh năm 1440, ngày mất không rõ. Đỗ tiến sĩ 1475, quê ở Siêu Loại, Bắc Ninh, được Lê Thánh Tông đặc cách ban phong “Tao Đàn Phó nguyên súy” (tức chỉ sau vua trong câu lạc bộ thơ nổi tiếng thời bấy giờ). Ông tổ của dòng họ Thái Bá ở Nghệ An về sau, mà dịch giả Thái Bá Tân của tập thơ này là một hậu duệ. Tác phẩm có “Lã Đường di cảo thi tập”, được dịch in ở miền Nam trước giải phóng, năm 1972, và ở miền bắc năm 1974 và 1990. Thơ Thái Thuận tinh tế, tao nhã, rất được người đương thời ca tụng. Trong tập Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ có hẳn một truyện nói về ông.
605. Bến
Hoàng Giang
Hoàng Giang, thuyền ghé bến.
Nhà tranh khói bập bồng.
Trẻ con, ba bốn đứa
Tìm bắt cáy ven sông.
606. Tiễn
biệt
Sớm - oanh hót vườn cấm.
Chiều - yến bay gần xa.
Đầu hè chơi thỏa thích,
Chợt muốn về vườn nhà
607. Oán mùa xuân ở Tây Hồ
Đêm đêm thấm lạnh ánh trăng tà.
Không thuộc nhà nào, xuân cứ qua.
Cuộc vui đã hết, buồn ngơ ngác,
Buồn không ai đến hỏi mua hoa.
608. Đi
thuyền trên sông La, ngẫu nhiên làm thơ
Trên sông trăng gió gọi xa xa.
Chong đèn bên sách thức mình ta.
Chim cuốc từ đâu kêu da diết.
Muốn ngủ nằm mơ thấy ở nhà.
609. Nhìn
khói xuân buổi sáng sớm
Nguyệt lặn, xa xa hửng sáng dần.
Hoa lồng bóng nguyệt múa ngoài sân.
Theo mặt trời lên, trăng xạm tối,
Trao hàng liễu biếc cái sầu xuân.
610. Làng
ven núi
Mưa tạnh, đường làng ngập xác hoa.
Nhao nhác quạ bay giữa nắng tà.
Ông lão bạc đầu hờ hững quét
Cánh đỏ cánh vàng chẳng xót xa.
611. Chiều
muộn bên sông
Bãi sông, nhân nước ngập,
Nhà nông tranh thủ cày,
Giục trâu đi, cò trắng
Giật mình, nháo nhác bay.
612. Đêm
thu
Như nước, trời xanh ngỡ rất gần.
Ngô đồng không gió, rụng đầy sân.
Một mình ngồi ngắm cầu ô thước,
Thuyền thơ cập bến giữa sông Ngân.
613. Buổi
sáng, xuất phát sớm từ làng ven sông
Xóm chài gà gáy rộn đâu đây.
Trăng mờ khói nước phía trời tây.
Gió thổi bờ lau, thu vạn dặm.
Mờ mờ bãi cát cánh chim bay.
614. Đêm
xuân
Trăng chiếu qua rèm, trắng lẫn đen.
Không người dệt gấm để hàn huyên.
Chợt tỉnh, như nghe ai khẽ gọi.
Sau bụi cúc vàng, tiếng đỗ quyên.
615. Xóm
nhỏ ven sông
Trên sông triều rút, lộ cát lầy.
Từng đàn chim trắng rủ nhau bay.
Một chiếc áo tơi che khói lạnh.
Trên trời gió thổi, cuốn sông mây.
616. Trên
đường Bồn Man lúc đi chinh tây
Xuống lên, đường núi một màu xanh.
Hoàn toàn im lặng bốn xung quanh.
Chỉ tiếng mùa thu đang lặng lẽ
Rơi theo từng nhịp trống quân hành.
617. Trào
lộng
Giữ mình, luôn đóng cửa phòng the.
Kín đáo rèm châu phủ bốn bề.
Nhưng sao giữ được trăng và gió
Lọt vào tình tự lúc đêm khuya?
618. Đầu
xuân
Năm cũ hết rồi, sương mới tan.
Đào chưa ra nụ, liễu yếu tàn.
Đa tình đám cỏ ngoài sân vắng
Đã kịp xanh rờn, chạy trước xuân.
619. Ngày
hè
Công danh, phú quí chẳng bền lâu.
Rượu ngon hãy uống để xua sầu.
Chín chục ngày hè râm mát lạ.
Gió trời ai thổi, đến từ đâu ?
620. Đêm
thứ năm tại nhà trực Kim Phong
Tiếng chày đập vải phía xa xa.
Bên hiên chênh chếch mảnh trăng tà.
Gối lạnh đêm khuya không ngủ được.
Vạn Xuân, man mác nỗi nhớ nhà.
621. Lui
triều
Chuông lầu Ngũ Phượng vọng về đây.
Nhà ngọc, chầu tan, đợi suốt ngày.
Mùa đông giá lạnh, mây sà thấp.
Xế chiều gió thổi, cánh mai bay.
622. Nhớ
nhà
Phía đông, sông Nhị đợi người về.
Quán trọ một mình, buồn ủ ê.
Thêm một mùa xuân đành lỗi hẹn,
Phụ tình chim cuốc gọi về quê.
623. Buổi
chiều ở Tân Yên, nhìn ra xa
Mờ mờ nắng tắt phía trời tây.
Điếm canh như thấp, khác thường
ngày.
Đất khách cái buồn còn trĩu nặng,
Thêm buồn trăng gió kéo vào đây.
624. Ngắm cảnh xuân ở Thuận An
Như gấm, khói giăng bụi trúc già.
Cây cam, khóm mía mọc bên nhà.
Ngắm cảnh thái bình vui mắt thật.
Một làn gió thổi, nở muôn hoa.
625. Trên đường Thái Nguyên
Thưa thớt dân cư, cỏ mọc dày.
Đất cằn, gió nóng sém rừng cây.
Ngày trước tai nghe, nay mắt thấy,
Làm gì để giúp đất này đây ?
626. Ngày
thu lên chùa trên núi ở Đông Triều
Mưa tạnh, mây tan, nắng xế tà.
Mái chùa thấp thoáng phía xa xa.
Vài tiếng chim kêu, rừng tịch mịch.
Thu về, cây quế đã ra hoa.
627. Đêm
thu ở thành Thanh Hoa
Đêm vắng một mình bên góc sân
Ngắm cầu Ô Thước bắc sông Ngân.
Một vành trăng sáng soi thiên hạ.
Chày vải đêm thu rộn cõi trần.
628. Ngày
đông ở Chí Linh
Xế chiều, mai nở trắng khắp nơi.
Rượu nhạt mà ngon, uống ấm người.
Sương giá mùa đông chưa kịp tới,
Bốn bề cây cối vẫn xanh tươi.
629. Tạm
đậu thuyền ở Bình Hà
Tháng Tám, trời trong, rộn tiếng gà.
Thuyền thơ đậu tạm bóng cây đa.
Ruộng lúa, bãi dừa, ăm ắp nước.
Triều dâng, trời hửng phía xa xa.
630. Đến
bến đò Đại Than
Cây đa soi bóng nước xanh trong.
Bâng khuâng đi hết quãng đường đồng.
Tù túng mười năm ngồi một chỗ,
Bây giờ có dịp ngắm non sông.
631. Đề
thơ ở đình Bến Chiền
Bụi đời chưa sạch, sáng hôm nay
Nhàn, buộc thuyền thơ ở bến này.
Núi sông cảnh đẹp lên thăm thú.
Chắc gì có dịp lại về đây!
632. Thơ để lại ở quan phủ Hải Dương
Chiều bến Bình Than, tiếng sáo thuyền.
Đêm chùa Phả Lại, Phật chong đèn.
Quan khách tới đây, thăm với viếng,
“Lo trước vui sau” mấy bậc hiền?
633. Thơ đề am Vân Tiên
Xuyên rừng, đường nhỏ uốn quanh
quanh.
Lơ lửng trên cao, sáng một vành.
Gặp sư muốn hỏi mà không hỏi -
Ngại làm xáo động chốn rừng xanh.
634. Thơ đề tức cảnh chùa Tùng Nghiêm
Chuông chiều, trong núi quạ kêu ran.
Trùng điệp núi xanh, cây bạt ngàn.
Nhà chùa thanh đạm, không tơ trúc,
Chỉ tiếng thông reo như tiếng đàn.
635. Xuất
phát từ Đại Than,
làm thơ lưu biệt các bạn ở Hải Dương
Kinh đô phía trước, vệt mờ xa.
Thuyền con một chiếc, chẳng nề hà.
Thân thiết như nhau, nam với bắc.
Nước ở Đại Than giống Nhị Hà.
636. Đầu
xuân
Năm cũ qua rồi, thôi giá lạnh.
Hoa đào hé nụ, liễu chưa xanh.
Đám cỏ ngoài vườn, xuân mới đến,
Mà đã xanh tươi, thật hữu tình.
637. Sáng
sớm, đi Đông Triều
Gà còn chưa báo sáng,
Thuyền đã đi, lúc này
Triều đang lên, nước đục,
Nhợt nhạt mảnh trăng gầy.
Gió lạnh thổi ngoài bãi.
Bến cá chìm trong mây.
Khúc Thương Lang ai hát,
Chim giật mình trên cây.
638. Thương
xuân
Mặt trời lặng lẽ chạy về tây.
Chín chục thiều quang còn mấy ngày.
Oanh sầu, yến thảm thôn Hoa Rụng.
Bến đò, bãi cỏ phủ đầy mây.
Giấc mộng Nam Hoa 1) thường dễ mắc.
Ai như Bắc 2) Hải ở đời này?
Mờ mịt khói sông, trời chạng vạng.
Ngoái lại nhìn đời, buồn lắm thay.
1.
Nam Hoa là tên sách của Trang Chu. Trong sách có chuyện Trang Chu mộng thấy
mình hóa thành bướm bay nhởn nhơ rất thích, khi tỉnh ngỡ ngàng không biết mình
hóa thành bướm hay ngược lại.
2.
Bắc Hải là hiệu của Khổng Dung, người đời
hậu Hán, hào hoa phong nhã, trong nhà lúc nào cũng có khách, chén rượu không
mấy lúc trống không.
639. Chiều
xuân
Bèo nổi thân này, nghĩ xót xa.
Xuân đến, xuân đi, ai chẳng già.
Dưới cầu nước chảy, buông tơ liễu,
Trên sông não ruột tiếng đa đa.
Vô cớ, tán cây lồng bóng nguyệt.
Gió quyện hương thơm vẫn mặn mà.
Thiều quang chín chục không còn nữa.
Thẹn lòng hiếu thảo kẻ đi xa.
640. Đi
sớm
Ra đi trời chưa sáng,
Trăng gặp người trên sông.
Ảo mờ như trong mộng.
Mây là là trên đồng.
Trước hoa đỗ quyên hót.
Đo đỏ đèn bãi nông.
Đi qua hết chợ cũ
Mới nghe chuông chùa Bồng.
641. Đầu
xuân
Ba tháng đông qua, xuân lại về.
Khí trời chuyển ấm, gió se se.
Giá lạnh còn vương trên mặt nước,
Sắc xuân trên lá đã tràn trề.
Liễu lại xanh tươi, oanh chửa hót.
Chớm nụ hoa đào, vắng tiếng ve.
Hoàng hôn, ngoái lại nhìn quê cũ,
Du tử bùi ngùi những tái tê.
642. Đêm
thu ở Tràng An
Tiếng chày đập vải vọng từ đâu.
Một mình quán trọ giữa thu thâu.
Khí mát đầy sân, cơn gió thổi.
Lạnh lẽo trăng soi nửa gác lầu.
Tù và rền rĩ trên thành vắng.
Dế khóc buồn buồn ngoài bãi dâu.
Trăm mối cảm thương không nén được.
Chỉ sợ sáng mai bạc trắng đầu.
643. Chiều
xuân ở Tràng An
Tự biết tài hèn, chẳng dám khoe.
Tràng An 1) sống uổng,
phí đam mê.
Nhà quan buồn vắng như nhà sãi.
Mùa đông vất vả giống mùa hè.
Thương con bướm múa nơi vườn uyển.
Phụ lòng chim cuốc gọi về quê.
Mua rượu, trong lưng tiền chẳng có.
Vợ con cơm cháo khổ trăm bề.
1.
Còn gọi Trường An, tên đất thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Bắt đầu từ đời Hán
các vua Trung Hoa đều đóng đô ở Tràng An. Sau này chữ Tràng An được dùng để chỉ
thủ đô, cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.
644. Quán
khách đêm thu
Nhà tranh che khuất vệt sao mờ.
Tiếng dế kêu hoài, buồn vẩn vơ.
Lá rụng một sân, thu sắp hết.
Nửa gối gió lùa, tỉnh giấc mơ.
Kẻ bắc người nam, nhiều nước mắt.
Trời đất xưa nay luôn hững hờ.
Bao bận tương tư, thi hứng tắt.
Cảm hoài, quán khách chẳng thành
thơ.
645. Thơ
đề ở chùa Phổ Lại
Núi đến đây gặp suối.
Núi chạy từ phía đông.
Tiếng chuông xuôi về biển.
Trăng thu soi xuống sông.
Rồng ngâm nước ngoài bãi.
Cò đứng ngủ bên song.
Thỉnh thoảng sư thức giấc
Vì tiếng sáo ngư ông.
646. Đêm
thu tức sự
Mưa tạnh, sân đường hết bụi nhơ.
Đang đêm thu hứng đến bất ngờ.
Ngô đồng lá úa bay theo gió.
Lưa thưa bóng liễu dưới trăng mờ.
Sương lạnh, tiếng trùng như thấm
nước.
Không cháy thành tro, cỏ đốt hờ.
Bắt chước người xưa Đào Bành Trạch 1),
Ngắm hoa, uống rượu, hứng - làm thơ.
1.
Tức Đào Tiềm (365 - 427), người Đông Tấn, tự Uyên Minh, biêt hiệu Ngũ Liễu Tiên
Sinh, nổi tiếng tài ba lỗi lạc, là nhà thơ lớn, thích uống rượu ngắm hoa cúc,
tính tình phóng đạt.
647. Núi
Vọng Phu
Đầu non hóa đá, ngày lại ngày
Chờ gặp lại chồng, chồng có hay?
Mỏi mắt bao năm nhìn phía trước,
Để hồn lặng lẽ thấm vào mây.
Sương đọng trong hoa như nước mắt.
Như tiếng thở dài, khói trên cây.
Nếu biết có người đau khổ thế,
Tương Phi 1) chắc đến khóc
nơi này.
1.
Vua Thuấn băng hà, hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh khóc ở sông Tương, nước mắt
rơi xuống làm sông đỏ rực. Người đời sau gọi hai bà là Tương Phi.
648. Chinh
phụ ngâm
Cỏ đã lại xanh, lúa trĩu bông.
Bao lâu mới hết cảnh chờ chồng?
Một tiếng quyên kêu, rơi nước mắt.
Nửa rèm trăng úa, lạnh đêm đông.
Bóng nhạn cút côi bên ải bắc.
Sông nam xuân héo, nước xuôi dòng.
Mấy bận tương tư trong giấc mộng,
Thiếp đến với chàng, chàng biết
không?
649. Nhìn
mây trắng
Lớp lớp quê nhà mây trắng bay.
Động lòng thương nhớ, ngắm từ đây.
Quê hương nghìn dặm, nhìn heo hút.
Trăm năm mẫu tử một tình này.
Gạt lệ, tự tin ngày báo đáp.
Ai người múa áo ngũ sắc đây?
Vẹn tròn trung hiếu xưa nay hiếm.
Trời xanh chứng kiến tấm lòng ngay.
650. Cây
chuối
Cao, với không đến ngọn
Vươn lên trời bao la.
Lớp lớp xanh biếc lá.
Tầng tầng đỏ rực hoa.
Đêm mưa nghe lọp độp.
Sột soạt gió thổi qua.
Đứng sít nhau thành dãy.
Cây non giống cây già.
651. Tiễn
quan vệ úy người phủ Thiên Trường về quê
Nghe nói Sơn Nam mười mấy phủ,
Thiên Trường - phủ lớn, đẹp xưa nay.
Nhà công bên suối, nhiều tôm cá.
Xóm làng gần núi, trái đầy cây.
Giao Thủy, chuông chùa vương vệt
nắng.
Phổ Minh, vạc cũ thấm sương dày.
Bác đi chuyến này vui là chính.
Cánh buồm man mác giữa trời mây.
652. Lên
chùa núi Yên Tử
Hoa đồng, gió núi, mây phiêu diêu.
Lối đi cỏ mọc, đá xanh rêu.
Không mộng công danh, sư lánh tục.
Trúc già, vân đẹp tựa hoa thêu
Đắc đạo, đứng xem nhâm bụt nở.
Tĩnh tâm ngồi ngắm áng mây chiều.
Có tiếng người nào đang tiễn khách,
Xen tiếng hổ gầm, tiếng vượn kêu.
653. Tiễn
quan kiểm thảo họ Ngô về Gia Lâm
Ngựa hý, chồn chân trước cổng thành.
Nắng hửng trên sông, én lượn quanh.
Đỗ quyên cánh đỏ nhờ hoa đỏ.
Cây xanh soi bóng, nước thêm xanh.
Bạn bè cũ mới cùng nâng chén.
Tà áo phất phơ, gió mát lành.
Đừng quên thân phụ đang chờ đợi.
Dặm trường ghềnh thác, nhớ về nhanh.
654. Trong
thuyền, ở Nghệ An
Bầu trời xanh ngắt, khói mây bay.
Chơ vơ, tít tắp cánh buồm gầy.
Ganh đua, sông núi thi nhau chạy.
Buồn buồn sóng biển, gió heo may.
Trời già, luống thẹn thuyền câu nhỏ.
Sóng lặng, tiết trời ít đổi thay.
Vùng biển đông nam nhiều cá nhám,
Ngon như gỏi ngọc ở nơi này.
655. Chơi
núi ở Thanh Giang 1)
Chẳng ngại hùm beo, núi chọc trời,
Sáng ngồi kiệu nhỏ, đến đây chơi.
Lối đi rừng rậm in chân thú.
Đường nhỏ đầy rêu, vắng bóng người.
Từ cao suối đổ, mang hơi lạnh.
Cây khẽ uốn mình, gió lả lơi.
Hành dinh Thánh Tổ cao vòi vọi,
Lưu danh thắng giặc đến muôn đời.
1.
Tên cũ huyện Thanh Chương ngày nay ở Nghệ An.
656. Ở
ẩn
Mỏi mệt, buồn lo, lấm bụi trần,
Chọn rừng lập xóm để nương thân.
Núi sông là cảnh, hoa là khách.
Không người, không ngựa đợi ngoài
sân.
Đồng Giang 1) câu cá, quên cung Hán.
Chí Lĩnh 2) cày mây, lánh nạn Tần.
Bắt chước Đào Tiềm, xong việc lớn,
Ngũ Hồ du ngoạn thật nhàn thân.
1.
Một con sông phát nguyên từ Tứ Xuyên. Nghiêm Tử Lang là vị cao hiền đời Hán,
không chịu xuất sĩ, hàng ngày ngồi câu cá bên sông làm vui.
2.
Tên núi ở Giang Tây. Giang Vạn Lý đời Tống bị kẻ nịnh gièm pha phải mất chức, đến
núi Chí Lĩnh đào ao, làm vườn, vui sống ẩn dật.
657. Dậy
sớm
Tam Thiên 1) giấc mộng vẫn
còn đây.
Mùi thơm sách cổ vấn vương bay.
Dế khóc ngoài vườn, sương đã tạnh.
Dưới hồ trăng sáng, nước lung lay.
Chủ khách trước đèn lưu luyến mãi.
Hão huyền danh vọng chẳng hề hay.
Thôn nam, thôn bắc gà đang gáy.
Ngước mắt nhìn sao, đã rạng ngày.
1.
Phật gọi vũ trụ là Tam Thiên Thế giới. Ở đây ý nói vừa chợt giấc, như đang
trong mộng.
658. Tiễn
Đỗ Minh Phủ 1)
Áo mỏng, quạt lông, đã mấy lần
Tây Hồ tôi bác dạo chơi xuân.
Đình viện đu tiên, hoa với bướm.
Lâu đài tiếng sáo, tiếng đàn ngân.
Một sớm gió mưa, thành cách biệt.
Đôi ngả hai người sông núi ngăn.
Hôm nay ngoái lại, thầm đau xót:
Đình Châu chỉ có bãi rau tần.
1.
Không rõ là ai.
659. Hoàng
Giang 1) tức cảnh
Sóng yên, tĩnh lặng một dòng sông.
Mắt nhìn trời đất rộng mênh mông.
Làng quê đây đó đèn le lói.
Hai phía triều dâng ngập lút đồng.
Bãi lau trăng chiếu, thuyền đơn độc.
Bến đò tiếng sáo nhẹ như không.
Lữ khách ngả lưng, vừa chợp mắt,
Canh ba giấc mộng đã say nồng.
1.
Tên khúc sông Hồng ở địa phận Hà Nam.
660. Cầu
Mặc Động 1)
Khe sâu, cầu ván bắc ngang qua,
Gần con đường nhỏ chạy bên nhà.
Trên núi trăng lên, tre đổ bóng.
Trong làng gió vẳng tiếng đàn ca.
Như thể bờ đi, thuyền đứng lặng.
Nước trong như muối, chảy hiền hòa.
Con cáy dưới cầu đang nghịch cát,
Dút dát, thấy người, vội lánh xa.
1. Chưa
rõ nơi nào.
661. Sáng
sớm, qua cửa biển Trầm Hào
Côi cút ngọn đèn ở bến sông.
Gió yên, mây đứng lặng trên không.
Sóng gợn lăn tăn, cây khói nhạt.
Như mưa, mờ mịt cỏ trên đồng.
Khua nhẹ mái chèo, tôm cá quẫy.
Đàn cò quần tụ cạnh ngư ông.
Đầu thuyền uống rượu, quên không
rót,
Ngồi xem nước cuộn, chảy về đông.
662. Thành
Thuận Hóa 1) tức sự
Thuyền thuyền cập bến những miền xa.
Cửa sông cầu mống bắc ngang qua.
Mùi thơm sóng biển hòa trong gió.
Núi núi liền nhau giữa nắng tà.
Chợ chiều đông khách, quần áo đẹp.
Sáo vẳng thuyền đêm, tiếng mượt mà.
Dẫu không biết chuyện Giang Nam hận,
Người thổi thổi bài Lạc Mai Ba 2).
1.
Thuộc tỉnh Thừa Thiên hiện nay.
2.
Tên một khúc hát buồn. Lý Bạch có thơ: Hoàng Hạc lầu
trung xuy ngọc địch/ Giang thành ngũ nguyệt Lạc Mai Ba. Hai câu cuối bai này ngụ ý chê bọn vong quốc chỉ biết hưởng
thụ trước mắt mà quên hận nước nhà.
663. Buổi
chiều đến Triều Tân, xúc cảm thành thơ
Chiều buông, gió lạnh thổi trên
không.
Ở đây lắm chuyện ngẫm đau lòng.
Mất mùa, dân đói, làng xơ xác.
Lâu ngày nắng hạn, đất khô cong.
Mây bay từng tụm như lông phượng.
Ruộng hoang khói bốc, giống râu
rồng.
Gặp ta, ba bốn ông già hỏi:
Ngày nào trở lại đất Thăng Long?
664. Hoa
cúc
Thu muộn, một mình với gió sương,
Mấy bông cúc nở đẹp bên đường.
Bãi cỏ đêm đêm đom đóm lượn.
Thập thò bụi trúc giống chồn hương.
Hoa đẹp thường không quen giá lạnh.
Một lòng hoa cúc đợi Trùng Dương1).
Ngắm hoa, chợt nhớ Đào Bành Trạch,
Tự nhiên thanh thản thật khác
thường.
1.
Tết Trùng Dương ngày chín tháng Chín âm lịch.
665. Sáo
chài
Không màng phú quí lẫn công danh,
Chỉ cần ống sáo giữa đêm thanh.
Ba khúc thổi lên, thu héo lá.
Một tiếng du dương, xuân thắm cành.
Tha hương, chim nhạn về bến cũ.
Nhớ quê người đứng, nắng xuyên mành.
Không biết về đâu, thi hứng hết.
Nước vẫn xuôi dòng, núi vẫn xanh.
666. Cảm
xúc mùa xuân
Giận mình từ thuở mới sinh ra
Chưa thể làm gì giúp mẹ cha.
Mười mấy tầng lầu xây mộng ảo.
Ba ngàn thế giới úa tàn hoa.
Gió ấm không tan sương trắng tóc.
Đêm mưa đôi mắt lệ thêm nhòa.
Không lẽ thân này như thế mãi?
Chiếc thuyền vô định giữa sông xa.
667. Chiều
xuân
Cây đứng so le, khói biếc lồng.
Bóng chiều bảng lảng, có mà không.
Trong tiếng sáo đàn, mưa lất phất.
Hoa rụng ngoài vườn theo gió đông.
Sách vở làm ta say giống rượu.
Thời gian khiến tóc rối tơ mòng.
Nghĩa lớn mẹ cha chưa báo được,
Từ quê chợt thấy cánh chim hồng.
668. Cảnh
mùa đông
Ba tháng
mùa đông mưa, tuyết bay.
Phòng
khách âm u mở suốt ngày.
Chị Hằng
lạnh lẽo soi hương án,
Dì Gió
hững hờ xua lá cây.
Hoa mai nở
sát pho Kinh Dịch,
Lá trúc
xùm xòa chạm cánh tay.
Dung hòa
mọi lẽ, ngồi im lặng.
Lư hương
sợi khói vật vờ bay.
669. Phòng
khuê đêm thu
Canh năm
chuông điểm, ánh trăng mờ.
Mưa gió
xen vào cả giấc mơ.
Gối lẻ, đèn
tàn, thu lạnh lẽo,
Cái buồn
ly biệt gửi vào thơ
Không dám
lên lầu trông mỏi mắt.
Phong thư đã
viết vẫn nằm chờ.
Ngàn vạn đóa
hoa tươi, lại héo.
Gió lạnh
sen tàn, cọng xác xơ.
670. Mừng
mưa
Nhờ vua
cầu khẩn bấy lâu nay,
Trời đổ
cơn mưa, nước chảy đầy.
Ruộng
dưới, nương trên tràn ngập nước.
Cái nóng
không còn, vui sướng thay.
Cây cối,
con người đều nhẹ nhóm,
Hỉ hả nhà
nông lại cấy cày.
Xúc động,
khách thơ lòng cả thẹn,
Góp vui,
ngẫu hứng mấy câu này.
671. Con
người thông đạt
Không tính được thua sống ở đời.
Tuân theo số mệnh, hợp ý trời.
Rượu ngon một chén xua sầu muộn.
Sách hay dăm quyển đọc mà chơi.
Không để tên mình nhơ sử sách.
Cố sống làm sao giống mọi người.
Nhàn nhã, trăng hoa cùng mây gió.
Hứng, sai mang cáng cáng đi chơi.
672. Thơ
đề trên vách nhà ở phường Toản Viên 1)
Kinh đô xe ngựa chạy đêm ngày.
Như nhà ẩn sĩ ngôi nhà này.
Không màng cửa Bắc 2) lo danh lợi.
Cho thơ đã có sóng Hồ Tây.
Chìm nổi kiếp đời ta sống tạm,
Thành người lánh ẩn
ở nơi đây
Những muốn
hẹn cùng Trần xử sĩ.
Xuân về,
hoa nở, bướm ong bay.
1.
Tên một phường ở Hà Nội xưa.
2. Ý
nói cửa quan.
673. Tự
thuật ở Toản Viên
Mười năm
giấc mộng đất Thăng Long,
Lỗi hẹn
lời thề với núi sông.
Sáng dậy
theo chuông kêu Cửa Bắc,
Chiều
ngóng Hồ Tây ráng rực hồng.
Tin quê thường
đọc, khuya chong nến.
Hàng ngày
mây lượn sát bên song.
Chạnh nhớ
những lần chơi bãi liễu.
Chắc giờ
hoa nở, lựu đâm bông.
674. Tiếng
cuốc kêu
Nước Thục
mất từ lâu
Mà lòng
vẫn còn đau.
Cuối tháng
Ba, hoa rụng,
Tiếng cuốc
kêu gợi sầu.
Khách
nghe, không ngủ được,
Trằn trọc
mãi hồi lâu.
Cuốc kêu,
nhớ quê cũ,
Không dám
bước lên lầu.
675. Đêm
đậu thuyền ở Đông Triều
Đuốc hồng,
gió lặng, sóng bình yên.
Bếp lửa
hiu hiu phía mũi thuyền.
Tiệc vãn,
ba lần cùng cạn chén.
Thuyền đi,
chèo rẽ sóng hai bên.
Nhìn núi,
biết trăng đang hé mọc.
Đêm nằm
nghe nước, đoán triều lên.
Bên sông
bên biển, tình lưu luyến,
Thêm nữa
sáng mai xa bạn hiền.
676. Tiếng
dế đêm thu
Sương thu
lạnh lẽo, sắp sang đông.
Tiếng dế
trong đêm thật não lòng.
Lúc kêu ri
rỉ thềm trăng sáng,
Lúc rên ai
oán sát khuê phòng.
Quán trọ,
khách xa, buồn tỉnh dậy
Ngẫm đời đơn
độc, kiếp long đong.
Chạnh nhớ
Âu Dương 1) xưa cảm xúc,
Chờ sao
Ngọc Thắng xuống bên song 2).
1).
Âu Dương Tu, nhà thơ lớn đời Tống, tác giả bài Thu Thanh (Tiếng mùa thu) rất
nổi tiếng.
2).
Tên một chòm sao ở phương Bắc, khi gần sáng xuống thấp tận chân trời.
677. Dậy
sớm ở Tân Minh
Thủy triều
đang xuống, nước bao la.
Te tác đó đây
mấy tiếng gà.
Từ đảo
Bồng Lai thuyền cập bến,
Trăng chiếu
trên cao, biển sáng lòa.
Đàm đạo,
thẹn mình thua Lý Bạch,
Chẳng kém
Hy Văn việc nước nhà.
Chỉ mấy
bông mai nơi phố huyện
Mà sương
và gió quyện mùi hoa.
678. Bến
đò Chiền 1)
Bến đò rậm
rạp hướng về đông.
Gió thổi
áo bay giữa ráng hồng.
Nhà thuyền
căng chiếu thay buồm vải.
Gáo dừa
múc rượu, quán bên sông.
Sông biển
thông nhau nên nước mặn.
Lũ quạ
tranh ăn, kêu giữa đồng.
Nhân nhắc chuyện xưa mà chợt nhớ
Tham chính
Phạm, Bùi, cả hai ông.
1.
Bến đò thuộc vùng giáp ranh giữa Kinh Bắc và Hải Dương. gần triền sông Lục Bầu.
679. Cảnh
chiều ở Lão Nhạn 1)
Triều biển
đang lên, sông nước đầy.
Chiều thu,
tiếng sáo thổi đâu đây.
Chim
trắng, ráng hồng, thơ với rượu.
Nước xanh,
thuyền khách lướt như bay.
Chim sáng
rủ nhau sang Phạo Xá.
Chiều về
Suối Chiện 2), vượt đò mây.
Có tiền
muốn đến Dương Châu ngắm.
Chắc gì Dương
Châu đã hơn đây?
1.
Tức vụng Lão Nhạn, sau goi Triều Dương, gần bến đò Chiền, nay thuộc huyện Chí
Linh.
2.
Phạo Xá, Suối Chiện - tên địa danh gần đấy.
3.
Tên một châu nổi tiếng phồn hoa nhiều cảnh đẹp ở Giang Tô Trung Quốc ngày xưa.
680. Đêm
đậu thuyền, ngủ lại ở Lão Nhạn
Triều
dâng, trời rét, nước tràn trề.
Lưng tựa
mui thuyền, ngắm thỏa thuê.
Mây phủ
núi xanh, cây đứng lặng,
Thuyền trăng,
sương trắng, bến đò quê.
Trăm năm
còn nhớ Hồng Đô khách 1),
Nửa đời
Xích Bích2) vẫn còn mê.
Tiếng sáo đâu
đây đang vọng lại,
Xao xuyến
vang xa đến Thủy Tề.
1.
Khách Hồng Đô, tức Vương Bột, nhà thơ lớn đời Đường, thời trẻ dự tiệc ở Đằng Vương
các tại đất Hồng Đô, viết bài Đằng Vương Các Tự được lưu truyền mãi về sau.
2. Tô
Đông Pha đời Tống có viết bài Phú Xích Bích nổi tiếng khi thả thuyền chơi trên
sông. Ở đây Thái Thuận mượn tích này nói mình muốn được phóng khoáng, thư nhàn
như Tô Đông Pha.
681. Ngủ
đêm ở xã Hạo Xã, huyện Chân Phúc
Ánh lửa đồng
sâu tiễn nắng tà.
Trên giậu
co ro mấy chú gà.
Sóng biển
âm vang ngay sát gối.
Mờ mờ trên
núi ả Hằng Nga.
Kính cẩn
xông hương vua mới tặng.
Luôn tay
rót rượu khách chơi nhà.
Đêm khuya
tỉnh giấc, trời như nước.
Mây trời năm
sắc phía đằng xa.
LÊ HIẾN TÔNG
Sinh
năm 1497 mất 1504. Tên húy là Tăng, con đầu lòng của vua Lê Thánh Tông, bản
tính khoan hòa, đức độ, tuân giữ phép tắc của triều trước. Lên ngôi lúc 8 tuổi,
thọ 44 tuổi, táng ở Dụ Lăng, Lam Sơn, Thanh Hóa.
682. Theo xa giá về
Tây Kinh, vâng họa bài thơ ngự chế:
“Buổi
sớm khởi hành ở sông Thiên Vực”
Mờ mờ ánh nắng, lúa xôn xao.
Nước sông dào dạt sóng hoa đào.
Trai gái Nam Dương 1) nô nức đón
Miền Tây sông biếc, núi thanh cao.
Ba năm, theo lệ, đi tuần thú,
Để biết người dân sống thế nào.
Lam Sơn sắc núi xanh muôn thuở.
Công đức Cao Hoàng 2) thật lớn lao
1). Nam Dương, đất
khởi nghiệp của Quang Vũ Đế nhà Đông Hán, Trung Quốc. Ở đây chỉ người dân Tây
Kinh, Thanh Hóa.
2). Tức Lê Lợi.
683. Thơ đề động
Lục Vân 1)
Chon von vách đá, nắng long lanh.
Nước Nam sông núi đẹp, yên lành.
Trước nhớ theo vua, ba lần đến.
Nay về, xe sáu ngựa phi nhanh.
Núi cao, trời ấm, màu hoa đỏ.
Đường đi ẩm ướt, phủ rêu xanh.
Bình yên đâu chỉ nơi nhà Phật -
Khắp nước nhân dân hưởng thái bình.
1). Tên một đông đá
trong dãy núi Tam Điệp.
684. Thơ đề núi Bàn
A 1)
Năm Cảnh Thống thứ
tư, Tân Dậu (1501), tiết Hoa Triêu 2),
có việc đi Tây
Kinh, lên chơi đề thơ
Dãy núi như đê, uốn lượn vòng
Vây quanh dải đất rộng mênh mông.
Còn bận việc nhân, lo nghĩa nước,
Chưa về vui thú với non sông.
Xuống nước, dong thuyền nghe vượn hót.
Lên non đứng ngắm mặt trời hồng.
Thời nay văn vận đang hưng thịnh,
Cứ việc đề thơ, chớ bận lòng.
1).
Tên một ngọn núi thuộc xã Đại Khánh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, có nhiều cảnh
đẹp được các thi nhân ngâm vịnh, đề thơ lên đá. Ngô Thì Sĩ, cha Ngô Thì Nhậm
thời cuối Lê có mười bài thơ khắc vào đá ở đây, gọi là Bàn A Thập Vịnh.
2).
Hoa Triêu - buổi sáng của hoa. Đời Đường lấy ngày rằm tháng Hai là ngày Hoa
Triêu.
LÝ TỬ CẤU
Năm
sinh, năm mất không rõ, hiệu Hạ Trai, người làng Hồng Châu (Hải Dương) đậu tiến
sĩ. Hồ Quý Ly lên ngôi, mời ông giữ chức Thái tử hữu dự đức nhưng ông từ chối.
Quân Minh sang chiếm nước ta, muốn dùng ông làm quan cũng không đươc. Hồi đầu
Lê, mặc dù được Nguyễn Mộng Tuân hết sức tiến cử, ông vẫn quyết tâm ở ẩn. Khí
tiết thanh cao của ông rất được người đương thời tôn trọng.
685. Tự nói lòng
mình
Chẳng rừng, chẳng chợ chẳng khanh công.
Chẳng học Tô Tần 1) áo rách bong.
Ngâm thơ - nguồn hứng đầy trăng gió.
Bè bạn cùng vui cảnh núi sông.
Nghiên mực Tang Quân 2) không chịu đổi.
Bài thơ Vương Xán 3) nhớ ghi lòng.
Người đời chê trách, ta không giận,
Cầm bằng không giận chiếc thuyền không 4).
1. Một thuyết khách
đời chiến quốc. Ông rất nghèo, luôn mặc chiếc áo cừu rách, về nhà bị vợ và chị
dâu hắt hủi.
2. Tức Tang Duy Hàn, người tỉnh Hà Nam thời Ngũ Đại ở Trung Quốc. Ông học giỏi nhưng quan trường không thích tên họ của ông (cây dâu) nên đánh hỏng. Ông đúc một chiếc nghiên lớn bằng sắt, bảo khi nào chiếc nghiên thủng mới thôi học. Sau này ông đậu tiến sĩ, làm quan to.
2. Tức Tang Duy Hàn, người tỉnh Hà Nam thời Ngũ Đại ở Trung Quốc. Ông học giỏi nhưng quan trường không thích tên họ của ông (cây dâu) nên đánh hỏng. Ông đúc một chiếc nghiên lớn bằng sắt, bảo khi nào chiếc nghiên thủng mới thôi học. Sau này ông đậu tiến sĩ, làm quan to.
3. Người đời Tam
Quốc, lánh nạn ở nước Ngụy, làm bài phú Đăng Lâu nổi tiếng nói về nỗi nhớ nhà.
4. Thuyền không -
hư chu, nghĩa là thuyền không có người. Trang Tử nói: Chiếc thuyền có người va
phải mình thì mắng. Thuyền không người thì cho qua, không giận.
686. Gửi Trình Sư
Mạnh 1) tiên sinh ở Từ Liêm
Từng nuôi chí lớn đã bao ngày.
Việc hỏng, giờ già, thật tiếc thay.
Không màng lương bổng, đua quan chức,
Bầu bạn suốt ngày với cỏ cây.
Gặp lúc trời mưa, che nón lá.
Tô Tần áo rách, bụi không giây.
Hẹn đến mùa xuân mang áo mới
Thưởng ngoạn hai người khắp đó đây.
1. Xem tiểu sử của
ông ở phần sau.
TRÌNH SƯ MẠNH
Năm sinh, năm mất
không rõ, hiệu Chúc Lý Tử, người vùng Từ Liêm (nay thuộc Hà Nội). Buổi đầu Lê ở
ẩn không ra làm quan.
687. Cảnh thu ngoài
phía thành nam
Mùa thu trăng sáng, gió hây hây.
Phía nam thành phố mù giăng dày.
Khói lam biêng biếc trôi theo sóng.
Lá ngả màu hồng trên khóm cây.
Mờ mờ sông núi như tranh vẽ
Thấm đượm mùa thu của tháng ngày.
Thi hứng trào dâng, ngâm chẳng được.
Buồn buồn đơn độc đám mây bay.
LÊ THIẾU DĨNH
Năm
sinh, năm mất không rõ, tự Tử Kỳ, người xã Mộ Trạch, huyện Đường An (Hưng Yên
ngày nay). Ông là con Lê Cảnh Tuân, từng được Lê Thái Tổ cho sang nhà Minh cầu
phong, làm đến chức Tham tri Viện sự, sau vì can gián trái ý vua bị giáng xuống
làm Bộ viên ngoại lang. Tác phẩm có tập Tiết
Trai.
688. Lễ chùa trên
núi
Khe vắng, ngôi chùa cổ.
Mây trắng bay trên cao.
Khách đến, sư không nói.
Gió tự đẩy cửa vào.
689. Lời cung nhân
Hoa rụng cho hoa nở.
Bỏ người để yêu người.
Muốn vua yêu mình mãi,
Phải trang điểm thật tươi.
690. Chùa trên núi
Buổi sáng một mình lên núi chơi.
Tay bám dây leo, leo tận trời.
Chìm trong mây trắng, chùa không thấy.
Nghe tiếng chuông rơi, biết có người.
691. Vườn cũ ở thôn
Trạch 1)
Cảnh cũ quê nhà, kia núi sông.
Mồ mả ông bà viếng, sửa xong.
Cây tang, cây tử 2) còn xanh tốt.
Vẫn lá xùm xòa mấy gốc thông.
Muôn thuở xuân qua rồi lại đến,
Sao cứ than hoài sự nghiệp công?
Trăm kế sinh nhai quên, thật lạ,
Sót lại thương quê một nỗi lòng.
1). Tức làng Mộ
Trạch ở quê tác giả.
2). Cây tang, tức
cây dâu, để nuôi tằm. Cây tử gỗ tốt làm nhà. Thường được ví để chỉ quê hương
cha mẹ.
NGUYỄN PHU TIÊN
Năm
sinh, năm mất không rõ, hiệu Tân Kiều tiên sinh, người làng Vĩnh Đông, huyện Khoái
Châu (Hưng Yên ngày nay). Làm quan đến Hàn lâm Học viện thừa chỉ, Thẩm hình
viện sứ.
692. Họa vần thơ
Trạch Thôn 1)
Rời kinh thành năm ngoái,
Lều tranh ẩn nơi đây.
Thời trẻ vô tích sự,
Giờ già lười chảy thây.
Theo ông Đào 2) mài bút,
Học ông Vũ 3) cầm cày.
Nhìn người xe tíu tít,
Thương phù du đời này.
1. Tức Lê Thiếu
Dĩnh.
2. Chỉ Đào Tiềm,
một danh sĩ đời Tấn, làm quan được ít ngày rồi bỏ về nhà, vui cảnh gia đình và
đồng quê.
3.Vua Vũ nhà Hán,
người có công trị thủy ở Trung Quốc thời xưa.
693. Về thăm quê cũ
Bài
một
Còn sống, thăm quê lúc cuối đời.
Khác trước - đìu hiu cảnh lẫn người.
Quyên kêu khắc khoải cành cây lạnh.
Ngoài đồng hoa rụng, bướm chơi vơi.
Sên leo, viết chữ trên tường đất.
Kiến bò, dàn trận giữa sân phơi.
Giận không về được, về càng giận.
Trời tối lúc nào, giọt lệ rơi.
694. Về thăm quê cũ
Bài
hai
Gạt lệ, rẽ gai tìm lại nhà.
Không tìm thấy cả ngói, rui xà.
Ao khô, cầu đá rêu xanh phủ.
Thềm đầy cỏ dại, vườn không hoa.
Ngõ hẻm chỉ vừa chân ngựa bước.
Ruộng cằn, vất vả chuyện nông gia.
Mong ngày trở lại miền thôn dã
Cày ruộng dưới trăng với bạn già.
BÙI CÔNG SOẠN
Sinh 1381, mất
1458, tức Tân Khanh, người làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ (Hưng Yên ngày nay).
Khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa, ông ra đón quân nhà vua. Ông ba lần đi sứ Trung Quốc,
làm đến chức Thượng Thư hành khiển, tính tình ôn hậu và liêm khiết, thọ 78
tuổi.
695. Cảm hứng đêm
trừ tịch
Thỏ trắng, quạ đen 1) cứ lại qua.
Xuân đến, nhớ ngày vui đạp ca 2).
Học văn không bằng học làm ruộng.
Không có thuốc tiên chữa bệnh già.
Nhân tình bền chặt khi thanh đạm.
Mai rụng chờ ngày lại mọc hoa.
Cứ việc uống say, không cần biết
Suốt đêm gió thổi trước hiên nhà.
1). Chỉ mặt trời và
mặt trăng.
2). Dẫm chân làm nhịp hát phong tục ngày xưa, mỗi khi có dịp vui mọi người tập họp ca hát, dẫm chân làm nhịp.
2). Dẫm chân làm nhịp hát phong tục ngày xưa, mỗi khi có dịp vui mọi người tập họp ca hát, dẫm chân làm nhịp.
696. Ngày xuân đến
thăm bạn không gặp
Lần theo bụi rậm dọc bờ khe.
Hoa trên đất ướt, cỏ xum xuê.
Khói xuân ấm áp, dâu xanh tốt.
Ruộng sâu mạ bén, gió se se.
Giúp bạn, hiếm người như Bảo Thúc 1).
Lưu An 2)
giờ ít, nghĩ buồn ghê.
Viết thơ gửi lại trên tàu chuối,
Dưới trăng bạn đọc lúc quay về.
1. Bả
Thúc Nha, người nước Tề thời Xuân Thu, làm bạn với Quản Trọng. Quản Trong
nghèo, thường được ông giúp đỡ.
2. Người
đời Hán, cháu vua Cao Tổ, thường học đạo thần tiên tu luyện, tác giả cuốn Hoài
Nam Tử.
HOÀNG ĐỨC LƯƠNG
Không rõ năm sinh,
năm mất, người huyện Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội, làm đến chức tham nghị, có đi
sứ Trung Quốc. Ông viết thơ theo khuôn thước thơ Đường, tuyển chọn thơ hay từ
thời Trần đến thời Lê, làm thành tập Trích Diển 15 quyển.
697. Suy
nghĩ trên đường
Người đời đi bất tận.
Không kết thúc, bắt đầu.
Người nay đi chưa nghỉ.
Người xưa đang ở đâu?
698. Cảnh
nông thôn
Tằm đang ngủ trên nong.
Mái nhà én làm tổ.
Lão nông mệt, ngừng cày.
Tu hú kêu chính ngọ.
699. Cảnh nông thôn
Bản
dịch hai
Én nuôi con trên mái.
Lão nông vai vác bừa.
Trên nong dâu tằm ngủ.
Tu hú kêu giữa trưa.
700. Trên thuyền,
sáng sớm trời lạnh ở Yên Khánh
Ôm chăn nhìn lên bờ.
Đã nhiều người qua lại.
Chủ quán rượu bên sông
Đang quét sân uể oải.
701. Chơi chùa núi
Kính Chủ 1)
Từng thấy nhiều cảnh đẹp.
Chùa này nên đề thơ.
Làm quan, luôn đây đó,
Chưa dám hẹn với sư.
1). Chùa ở xã Kính
Chủ, huyện Giáp Sơn, Hải Dương, cũng còn gọi là núi Xuyên Châu, quê hương Phạm
Sư Mạnh.
702. Cảm hứng mùa
đông
Việc đời luôn bề bộn.
Hết thu lại đến đông.
Báo tin mùa xuân tới,
Mai đã nở vài bông.
703. Tự diễu mình
Tính khác thường, gàn dở.
Lo nghĩ chuyện đâu đâu.
Được câu thơ tâm đắc,
Đêm dậy, gọi thằng hầu.
704. Đi dạo bên
sông Dương Tử 1)
Nhà chài đửng rải rác.
Bóng liễu che cổng tre.
Đường bên sông, chiều muộn.
Đâu cũng thấy người về.
1). Cũng là sông
Trường Giâng. Bài này viết khi tác giả đi sứ sang Trung Quốc.
705. Thơ đề trên
lầu Trích Tiên 1) ở Thái Thạch 2)
Từng đến Phượng Hoàng, nhưng đã lâu.
Buồn bã chòi canh, sông đục ngầu.
Trích tiên người cũ giờ đâu nhỉ,
Làm ai tư lự, muốn lên lầu.
1). Trích tiên -
chỉ người thanh cao siêu việt như tiên trời giáng xuống.
2). Tên bến đò ở
tỉnh An Huy, Trung Quốc, tương truyền Lý Bạch cưỡi cá kình ở đây.
706. Chiều đứng
nhìn núi, ngẫu nhiên thành thơ
Thảnh thơi, nhàn nhã dạo, cuối ngày,
Mắt nhìn cánh nhạn hướng về tây.
Mênh mông trời rộng như vô tận.
Một áng mây buồn côi cút bay.
707. Chơi chùa
Thiên Phúc trên núi Phật Tích
Nhìn cảnh đẹp ngất ngây
Quên cái mệt trong ngày.
Khách đến, sư không biết.
Giữa núi nhặt trái cây.
Thu muộn, gối trên đá.
Ngủ lúc nào không hay.
Không người mà chợt tỉnh.
Sân rộng, lá rơi đầy.
NGUYỄN HÚC
Không rõ năm sinh,
năm mất, tự Dần Tân, người Kệ Sơn, Đông Triều, làm quan tới chức Tri phủ. Thơ
có tập Cưu Đài Tập.
708. Chơi chùa
Trung Thiết 1)
Lên núi gặp sư, như thể hẹn.
Sư ngồi, trên áo bóng hoa rơi.
Đàn chim vội vã bay về tổ.
Mang tấm màn đêm phủ đất trời.
1). Chưa rõ chùa
này ở đâu.
709. Thanh nhàn ở
xóm núi
Ao trong nửa mẫu, trời bao la.
Long lanh ánh nước tận hiên nhà.
Việc lớn không màng, kê gối ngủ.
Sen nở hây hây giữa nắng tà.
PHÙNG THẠC
Không rõ năm sinh,
năm mất,tự Hoàng Phủ, hiệu Phúc Trai, người La Giang, nay thuộc La Sơn, Hà
Tĩnh, từng làm Chủ bạ ở phủ Kiến Xương. Tác phẩm có tập Vong Hài.
710. Thơ đề tranh
“Nhạn kêu sương”
Sông lạnh, nước không chảy.
Trăng sáng như ban ngày.
Tiếng thu buồn man mác.
Doi cát chìm trong mây.
PHÙ THÚC HOÀNH
Không rõ năm sinh,
năm mất, tự Nhiệm Nhân, người làng Phù Xá, huyện Kim Hoa, nay thuộc ngoại thành
Hà Nội, từng giữ chức giáo thụ dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám, sau làm Hàn lâm
học sĩ.
711. Ý xưa
Lá sen xanh như lọng.
Hoa đỏ như má đào.
Nhớ người chưa gặp mặt,
Thơ thẩn mãi bên ao.
712. Đi dạo trên
đồng
Mưa tạnh, núi xanh ngắt.
Rừng tối, suối nước trong.
Cầu gẫy, người qua ít.
Nghe có tiếng gà đồng.
ĐỖ CẬN
Sinh
1433, năm mất không rõ, tự Hữu Khác, người Phổ Yên, Thái Nguyên, đỗ tiến sĩ năm
1478 đời Lê Thánh Tông. Bài này ông làm khi đi sứ nhà Minh.
713. Chiều tối, đậu thuyền ở bến Thái Thạch 1)
Lý Bạch rời trần lên cõi tiên.
Khách xa gối lẻ thức bên đèn.
Phong vị người xưa còn phảng phất.
Vò rượu làm tan nỗi cảm phiền.
(1) BÕn nưíc ë bªn nói Ch©u Ngư trªn s«ng Trưêng Giang, n¬i nghe
®ån Lý B¹ch ngåi uèng rưîu ng¾m tr¨ng, say
ng· xuèng s«ng chÕt ®uèi. Ch÷ "k×nh" trong nguyªn b¶n lµ chØ Lý B¹ch.
¤ng cßn cã biÖt hiÖu "H¶i thưîng kþ k×nh
kh¸ch". Tư¬ng truyÒn «ng ®· ®ưîc mét con c¸ k×nh ®ưa lªn trêi.
714. Chim én mùa
xuân
Ngoài sân gió thổi, trúc la đà.
Tha bùn làm tổ dưới hiên nhà.
Bên song tư lự, nhà không khách.
Chợt hứng lòng xuân giữa nắng tà.
NGUYỄN THIÊN TÍCH
Không
rõ năm sinh, năm mất, người huyện Tiên Du, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ năm Thuận
Thiên thứ 4. Đời vua Trần Thái Tông đi sứ nhà Minh hai lần, sau được thăng chức
Thị Độc, rồi bổ vào làm Nội Mật viện phó sứ. Làm quan đến chức Binh bộ Thượng
thư. Thơ có tập Tiên Sơn.
715. Cảm hứng tản
mạn
Bóng nắng trên cành hoa.
Chim hót, gió hiền hòa.
Ngày xuân dài, lều cỏ,
Vui cái thú ngâm nga.
716. Thơ làm trong
thuyền ở dịch trạm Hoài Trạch
Trăng sáng, trời bao la.
Tuyết lạnh rơi như hoa.
Khách xa trên thuyền nhỏ
Đêm nào cũng nhớ nhà.
717. Cảnh cuối xuân
ở Diễn Châu 1)
Buồn buồn bụi rậm tiếng đa đa
Nhìn mãi trời mây, chẳng thấy nhà.
Vất vả ba năm, đầu tóc bạc.
Lênh đênh nghìn dặm, đường còn xa.
Cái kiếp làm quan như ngựa nghẽo.
Xơ xác thân tàn, giống xác hoa.
Hư danh làm hại đời trai trẻ.
Nhớ chuyện trồng dưa 2), lòng xót xa.
1. Tên huyện ở Nghệ
An.
2. Ngày xưa ông
Thiêu Bình đời nhà Tần, Trung Quốc, làm quan đến chức Đông Lăng hầu. Nhà Tần
mất, ông bỏ đi ở ẩn, trồng dưa ở cửa đông thành Tràng An.
718. Lên chùa Hồng
Ân 1)
Bụi trần nhuốm bẩn bấy lâu nay.
Giờ đến rừng thiền, cảnh đẹp thay.
Thấp cao ruộng nếp, màu thu muộn.
Xanh đỏ đền chùa vương khói bay.
Chạnh lòng nghĩ đến miền tang tử 2),
Bừng bừng chí lớn - ngắm trời mây.
Tựa mãi lan can, nhìn chẳng chán.
Bồng Lai quả thật đúng nơi này.
1). Chùa ở xã Cao
Đức, huyện Gia Lương, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
2). Tang tử - cây
dâu và cây tử, chỉ quê hương mẹ cha.
719. Đêm trừ tịch,
ngẫu nhiên thành thơ
Khỏi bàn việc lớn chuyện ngày qua.
Vui được hôm nay đang ở nhà.
Một đĩa dầu lan đêm lạnh lẽo.
Vài ly rượu trúc uống nguôi ngoa.
Giấy văn dán cửa, toàn vô dụng.
Đời người bèo bọt kiếp phù hoa.
Gió đông sưởi ấm cành mai nở.
Một mình đợi sáng, gượng ngâm nga.
CUNG Ý CUNG
Sinh
năm 1520, mất 1614, họ Bùi, tự Chuyết Phu, hiệu Tô Xuyên, người làng Định Công,
Thanh Trì, Hà Nội. Làm quan tới chức Thượng thư, mất năm 93 tuổi, được phong
thụy là Cung Ý.
720. Tiễn
Thừa chánh sứ tỉnh Thanh Hóa Mai Nham
Phùng Khắc Khoan nhậm chức vụ đi làm
chánh sứ
Mừng bác được vua giao chánh sứ.
Lại mừng vua quí bác, tin yêu.
Các bậc đại nho luôn hữu dụng,
Dẫu đi công cán, hoặc trong triều.
NGUYỄN ĐÌNH TRỤ
Sinh
năm 1627, mất 1703, người huyện Thanh Trì, Hà Nội, đậu tiến sĩ năm 1624, từng
giữ chức Hiến sát sứ Kinh Bắc.
721. Tiễn
học trò người huyện Chương Đức
Đặng Đình Tướng vâng mệnh đi sứ phương
Bắc
Đang trẻ, tài cao, đỗ đại khoa.
Vốn quê Chương Đức, gốc Nho gia.
Ngựa béo thắng yên vì quốc sĩ.
Tiết lễ đề cao, phụng nước nhà.
Để vua phương Bắc nhìn, kính phục,
Trời Nam danh tiếng mãi vang xa.
Đi sứ lần này lo trọng trách,
Mong về lên chức, sớm thăng hoa.
NGUYỄN BÀNH
Không rõ năm sinh,
năm mất, hiệu Mai Lý, người huyện Đường An, tỉnh Hải Dương ngày nay. Làm quan
đến chức giáo thụ Quốc Tử giám.
722. Sư già ở chùa
trên núi
Trên chùa ông sư trọc
Sống tu hành thảnh thơi.
Một mình giữa mây núi,
Quanh năm không bóng người.
DOÃN HÀNH
Không
rõ năm sinh, năm mất, tự Công Thuyên, hiệu Mộc Trai, người huyện Thương Phúc,
nay thuộc Thường Tín, Hà Tây. Đậu khoa Bác học hoành từ, làm quan đến chức Bác
sĩ Quốc Tử giám. Thơ có tập Văn Biểu.
723. Đom đóm
Đom đóm sau mưa như ánh lửa.
Đêm khuya nhấp nháy lượn quanh nhà.
Biết ta không phải là Xa Dận 1),
Không hề lo sợ, chúng bay qua.
1. Người Nam Bình,
đời Tấn, thuở nhỏ nhà nghèo phải bắt đom đóm làm đèn học, sau đỗ đạt làm tới
chức thượng thư bộ lại.
724. Rêu
Sau mưa, rêu ẩm mọc đầy sân.
Nắng rọi, vườn cây sạch bụi trần.
Chủ nhà mỗi sáng nhìn rêu mọc
Như những đồng xu, cứ lớn dần.
NGUYỄN MẬU
Năm
sinh, năm mất không rõ, chỉ biết người làng La Phù, huyện Thanh Hà, nay thuộc
Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm 1502, làm quan đến chức Đô ngự sử. Sau ông làm quan
cho nhà Mạc, được thăng chức Thượng Thư bộ Công.
725. Gửi bạn đồng
niên
Mấy gian nhà nhỏ phía Nam thành.
Duyên nặng, tình sâu nay gặp anh.
Làm quan vất vả, thường lo nghĩ.
Vô lo ở ẩn, túp lều tranh.
Trong nhà sách vở luôn đầy giá.
Cửa không ai gõ, ngủ ngon lành.
Một đời kinh sử thành vô bổ.
Thẹn từng giảng sach ở Diên Anh.
NGUYỄN NHƯ ĐỔ
Sinh
năm 1423, mất 1525, tự Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, người châu Đại Lan, huyện
Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội, dòng dõi nhà Nho. Năm 19 tuổi ông thi đậu
bảng nhãn, ba lần đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, thọ 93
tuổi (Sách Đăng khoa lục chép ông thọ 103 tuổi).
726. Ngày xuân tức
sự
Ngày đẹp, du xuân tiết tháng Ba.
Khách chơi toàn trẻ, ít người già.
Ngẫm mình ngỗ ngược, tuy đầu bạc,
Vẫn cưỡi ngựa gầy đi ngắm hoa.
727. Tiết xuân
trong thư phòng
Xuân đến phía nam thành.
Cửa sài đóng, nhà tranh.
Bên thềm, rêu biêng biếc.
Ngoài vườn cỏ mướt xanh.
Khách tới, vừa tỉnh giấc.
Chim kêu, hoa lìa cành.
Mài son chấm Kinh Dịch,
Suốt ngày nhàn một mình.
728. Sau tết Thanh
Minh, tặng quan chuyển vận sứ Trần Văn Huy
và
hỏi thăm quan giáo thụ xứ Tràng An Nguyễn Tử Tấn.
Mừng gặp được ông, hội gió mây.
Tiếc rằng ly biệt bấy lâu nay.
Nắng mưa, thời tiết luôn thay đổi.
Nghĩa cũ tình xưa chẳng đổi thay.
Thương tôi chức nhỏ thành vô dụng.
Tiếc ông trăm dặm, phụ tài hay.
Cho gửi lời thăm ông quản giáo.
Không thơ, im tiếng đã nhiều ngày.
729. Vườn ở phía
nam thành
Dọn đến nam thành đã mấy xuân.
Ruộng rau, vườn thuốc mở mang dần.
Chẳng sao lối hẻm gần xa lộ.
Dậu thấp, nhưng vui, tránh bụi trần.
Ao đục sau mưa vang tiếng ếch.
Cây rậm, chim trời hót trước sân.
Hết buổi chầu triều, về, thanh thản
Ngồi ngắm trúc mai, hưởng thú bần.
LƯƠNG NHƯ HỘC
Sinh
năm 1420, mất 1501, tự Tường Phủ, người xã Hồng Liễu, huyện Trường Tân, nay là
huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Năm 1442 ông đậu Thám hoa, làm quan đến chức Đô
ngự sử. Ông là người đầu tiên đem nghề khắc ván in ở Trung Quốc về truyền bá
trong nước. Dân làng Liễu Lăng, huyện Gia Lộc thờ ông là ông tổ nghề in sách.
730. Nghỉ lại ở cửa
sông Tứ Kỳ
Sao Ngọc Thằng 1) xuống thấp.
Khe cạn, trăng mờ mờ.
Triều rút, lộ bờ đá.
Chim nước kêu vu vơ.
1). Tên một ngôi
sao phía bắc sao Ngọc Hành. Ngọc Hành là sao thứ năm trong chùm sao Bắc Đẩu.
LÊ TÔ
Năm sinh, năm mất
không rõ, tự Minh Phục, hiệu Dung Khê, người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đậu Bác
học Hoành từ, làm quan đến chức Hàn lâm viên hiệu thảo, sau được bổ làm tri phủ
Tân Hưng.
731. Ngẫu hứng
thành thơ sau cơn say
Nóc lầu vương mây mỏng.
Nắng dát vàng mái nhà.
Khi ông lười tỉnh rượu,
Sân ngập đầy xác hoa.
732. Cảm hứng tức
thời trước tiết đông chí
Mặt trời chưa lên núi.
Vũng nước lạnh ven đường.
Nhìn cành mai đủ biết
Trời ấm tháng Nhất Dương 1).
1). Tức tháng mười
một âm lịch.
733. Tả cảnh ở
phòng sách
Ngoài cửa sổ trăng sáng.
Trên mái tóc - ánh đèn.
Đang bí vần, bất chợt
Chuông chùa nào gióng lên.
VƯƠNG SƯ BÁ
Không rõ năm sinh,
năm mất, tự Trọng Khuông, hiệu Nham Khê, người huyện Đông yên (Hưng Yên), ham
mê đạo Phật, tính dễ dãi, ít khi thể hiện vui giận ra mặt. Làm quan đến chức
tri phủ. Có lưu lại một tập thơ.
734. Mùa xuân
Lặng lẽ sân trưa bóng liễu rơi.
Trướng rủ, rèm che, én nghỉ ngơi.
Ngồi tựa lan can, suy sự vật,
Ngẫm theo hình sắc, đoán lòng trời.
735. Đêm thu
Sương ướt đẫm màn the.
Đèn mờ khói, vàng khè.
Nửa mành cuốn, trăng xế.
Trên ao, đóm lập lòe.
LÊ QUYỀN
Không rõ năm sinh,
năm mất, người làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, nay là huyện Thọ Xuân, Thanh
Hóa. Ông là cháu một vị công thần triều Lê, từng giữ chức Phụ mã đô úy, rồi
được thăng chức Tả đô đốc, tước Tử Nham Bá.
736. Thơ đề động
Dương Nham, núi Thạch Môn
Núi xanh như ngọc, đứng ven sông.
Chùa chìm trong lá, trời xanh trong.
Phủi rêu ngồi xuống, nghe chim hót.
Đường đá xen hoa, sạch bụi hồng.
ĐÀM VĂN LỄ
Sinh
năm 1452, mất 1505, tự Hoàng Kính, hiệu Chân Trai, người làng Lam Sơn, huyện
Quế Dương (Bắc Ninh), 18 tuổi đậu tiến sĩ, làm quan đến chức thương thư. Khi Lê
Hiến Tông mất, ông theo tờ di chiếu phù lập Túc Tông, bị Uy Mục Đế căm giận,
đày vào Quảng Nam, đến Nghệ An thì gieo mình xuống sông tự tử.
737. Mùa xuân, khúc
hát trong cung
Ngày trôi chầm chậm, gió trên lầu.
Trước thềm đứng ngắm liễu vờn nhau.
Không cần gì nữa ngoài đàn nguyêt.
Quyển thơ ngự chế chép từ lâu.
738. Khúc hát trong
cung
Điện im lìm, trời lạnh.
Sương mù giăng khắp nơi.
Dưới cây, trên rêu ẩm
Cúi nhặt cánh hoa rơi.
739. Chiều ba mươi
Tết, ngẫu hứng thành thơ
Năm mới đến, người ta
Liền quên năm cũ qua.
Chẳng trách người tráo trở
Luôn thay đổi, phù hoa.
740. Ngắm trúc
Khóm trúc xanh mờ khói.
Sân rộng, gió hây hây.
Tựa lan can, ngắm trúc -
Người bạn cũ lâu ngày.
741. Chim trắng bên
sông
Xanh xanh bãi cỏ, nước mênh mông.
Triều lên, tư lự đứng bên sông.
Thấy người, bất chợt con chim trắng
Bay vụt theo thuyền, đỗ bãi nông.
NGUYỄN BẢO
Sinh năm 1452, mất 1502, người huyện Vũ Tuyên, nay là Vũ
Thư, Thái Bình, đậu tiến sĩ năm 1472. Dưới triều Lê Thánh Tông được đặc cách
vào tòa Đông Các rồi thăng chức Tả tư giảng, trực tiếp dạy thái tử, sau này là
vua Lê Hiến Tông. Ông làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư. Tác phẩm có tập thơ
Châu Khê.
742. Cuối năm, tả
nỗi lòng
Đêm thường mơ quê cũ.
Cuối năm càng nhớ nhà.
Cảnh buồn, ai hiểu được?
Một năm, một tuổi già.
743. Ngày
xuân tức sự
Sống tạm chùa hoang giữa cánh đồng.
Xuân mới mà sao cảnh não lòng.
Đám cỏ trước thềm, tươi lẫn héo.
Vạt khói trên cây, nhạt lại nồng
Nửa tốt, nửa cằn, trơ khoảnh đất.
Không rét tiết trời, ấm cũng không.
Đọc sách trên giường, nghe chim dục,
Muốn gặp già làng học việc nông.
747. Xuân
muộn ở thôn Trừng Mai
Mây xám, mưa phùn lất phất rơi.
Cày ruộng theo trâu, mặc áo tơi.
Nàng dâu gieo hạt, đi làm sớm.
Dẫy cỏ, chồng cô tận tối trời.
Bên dậu, mía non mơn mởn lá.
Ngoài vườn xanh biếc bụi mồng tơi.
Sống cảnh điền viên vui thú thật.
Vất vả, thanh bần, nhưng thảnh thơi.
748. Tiễn
quan thừa chỉ họ Thân 1) về quê.
Lo bề thảo chiếu giúp vương quân.
Được vua thăm hỏi rất ân cần.
Nay vua ân sủng, cho về phép
Thăm làng quê cũ, gặp người thân.
Mọi người trong xứ ra nghênh đón.
Khách lạ nhìn theo xe khuất dần.
Hẳn người trong xóm đang bàn tán:
Vinh hiển, nhưng ông chẳng khó gần!
1.
Tức Thân Nhân Trung.
749. Tiễn quan hình
khoa họ Phạm 1)
vâng mệnh đi sứ phương Bắc
Biết bác ở bộ Lễ
Nay vâng chiếu lên đường.
Đón xuân núi Ngũ Lĩnh 2),
Ngắm trăng bên sông Tương 3).
Học văn, hỏi Nhan, Khổng
4),
Tìm thánh, có Hạo vương 5).
Bác uyên thâm, học hỏi
Bao điều nơi dặm đường.
1). Chưa rõ là ai.
2) và 3). Tên các địa danh nổi tiếng đẹp ở Trung
Quốc.
4).
Tức Nhan Hồi, Khổng Tử.
5).
Tức Thái Hạo Phục Hy, một vị hoàng đế thời thượng cổ Trung Quốc.
VŨ QUỲNH
Sinh
năm 1453, mất 1516, tên tự là Thủ Phác, hiệu Đốc Trai, người làng Mộ Trạch,
huyện Đường An (Hải Dương), đậu Hoàng Giáp năm 1468, làm đến chức Binh Bộ
Thượng Thư kiêm Sử quán Tổng Tài. Ông soạn sách Việt Giám thông khảo. Về hưu ở
làng, bị giặc cướp giết hại.
750. Đề chùa Phong
Công ở núi Kim Âu 1)
Núi vắng, mây đầy trời
Mái đỏ én đùa chơi.
Khách thăm chùa, vãn cảnh,
Nhớ núi, không nhớ người.
1). Tên núi ở xã
Kim Âu, nay thuộc huyện Vĩnh Lộ, Thanh
Hóa.
751. Chùa Hoa Yên
trên núi Yên Tử
Núi cao Yên Tử, cảnh thần tiên.
Chùa đẹp mây bay giữa cõi thiền.
Sương như châu ngọc trên hoa nở.
Thông già, hang lạnh, núi bình yên.
TRẦN CẢNH
Không rõ năm sinh,
năm mất và quê quán, đậu hương cống (cử nhân), làm tri phủ từ 1470 đến 1498,
sau cáo quan về ở ẩn.
752. Đêm chơi
thuyền trên sông Ninh Giang 1)
Thuyền đơn, chèo ngắn, trời xanh trong.
Nhìn phía kinh đô nhuốm bụi hồng.
Ba chục năm qua lầm lẫn quá,
Để mình trăng sáng giữa dòng sông.
1. Sông Ninh Giang,
phía trên tiếp cửa sông Hát Giang (Sông Đáy), dưới đổ vào Châu Giang, phía hạ
lưu hợp với sông Hoàng Giang ở Nam Định.
753. Tiễn
ông Lê Năng Nhượng 1)
Mưa nhiều, cỏ tốt bến Ninh Giang.
Lơ thơ cò trắng lượn quanh làng.
Những muốn cùng ông về dưới ấy.
Lưng trời tiếng sáo vọng mênh mang.
1. Con trai đại
công thần Lê Văn Linh thời khởi nghĩa Lam Sơn, quê Thọ Xuân, Thanh Hóa. Làm quan
đến chức Thượng thư bộ lễ và Thượng thư bộ công thời Lê Thánh Tông.
754. Gửi quan thị
lang Nghiêm Nhân Thọ
1)
Ta đã yên bài sống thảnh thơi.
Cày ruông, lều tranh vui với đời.
Bè bạn nhớ ta mà có hỏi,
Hãy bảo tìm người mặc áo tơi.
1. Chưa rõ là ai.
755. Họa thơ đạo sĩ
Nam Hoa
Nhà tranh tựa vách núi.
Suối reo như tiếng đàn.
Mặt trời soi khung cửa.
Mây trắng phủ núi ngàn.
PHÙNG THẠC
Không rõ năm sinh,
năm mất, tự Hoàng Phủ, hiệu Phúc Trai, người La Giang, nay là La Sơn, Hà Tĩnh,
làm chủ bạ ở phủ Kiến Xương. Thơ có tập Vong Hài.
756. Đề tranh “Nhạn
kêu sương”
Khuya, vành trăng rất sáng.
Sông lặng phủ mây mù.
Đảo mờ bên doi cát.
Rầu rĩ một tiếng thu.
ĐẶNG MINH KHIÊN
Không rõ năm sinh,
năm mất, tự Trinh Dư, hiệu Thoát Hiên, người làng Mạo Phố, huyện Sơn Vi, Sơn
Tây, là chắt của Đặng Dung, nguyên quán Hà Tĩnh. Đậu Nhị Giáp Tiến sĩ năm Hồng
Đức 18, làm đến chức Thượng thư, kiêm Sử quán. Cuối năm Quang Thiệu theo vua
Chiêu Tông chạy vào Chiêm Hóa, thọ hơn bảy mươi tuổi.
757. Chu Văn An
Dâng sớ không thành 1), treo áo quan.
Về sống Chí Linh, hưởng cái nhàn
Khí tiết thanh cao, lòng đức độ.
Gương sáng nghìn năm tựa Thái San 2).
1. Đời Dụ Tông, Chu
Văn An dâng sứ chém bảy tên gian thần, vua không nghe. Ông từ chức về sống ở
núi Chí Linh.
2. Tức núi Thái
Sơn.
758. Nguyên Phi Ỷ
Lan 1)
Giúp gái thôn quê lấy được chồng.
Niệm Phật, xây chùa, lo tích công.
Hơn bảy chục người bà nỡ giết 2).
Phúc kia chuộc được tội này không?
1. Bà
họ Lê, người làng Thổ Lôi, tỉnh Bắc Ninh. Vua Lý Thánh Tông muộn con, thường đi
chơi các đền chùa cầu tự. Một hôm vua đến làng ấy, mọi người đổ xô đi xem, chỉ
mình bà lặng lẽ hái dâu, coi như không. Vua thấy lạ, mời về cung, phong làm Ỷ
Lan phu nhân (Ỷ Lan là đứng tựa cây dâu). Bà sinh được con trai là Kiến Đức.
Vua mừng lắm, lập làm thái tử, phong bà làm Nguyên Phi, đổi tên làng Thổ Lôi
thành Siêu Loại, hiện nay ở Thuận Thành, Bắc Ninh.
2. Vua Thánh Tông mất, Kiên Đức lên ngôi, tức
Nhân Tông, lúc mới bảy tuổi. Bà Dương Hậu, vợ cả Thánh Tông giữ quyền chính, Ỷ
Lan không được tham dự. Bà ngầm gièm pha với vua Nhân Tông. Vua bắt Dương Hậu
và bảy mươi sáu người hầu gái phải chết theo Thánh Tông. Sau ân hận, Nguyên Phi
Ỷ Lan cố làm việc đức, giúp các cô gái nghèo bị gán nợ lấy chồng, lấy những
người góa vợ, và xây nhiều đền chùa.
759. Tiết phụ họ
Kim 1)
Phải đứa con hư 2), mẹ lánh xa.
Cơm ăn, áo mặc tự làm ra.
Vua Đường biết chuyện, ban ân huệ,
Còn cho phụng dưỡng lúc về già.
1).
Theo Liệt Nữ Truyện đời Đường, bà tiết phụ họ Kim người Giao Châu, tức Việt Nam
ngày nay, là mẹ tướng cướp Đào Tề Lượng. Bà lấy nhân nghĩa khuyên không nghe,
bèn từ con, tự mình cày ruộng, dệt vải sinh sống. Vua Đường biết chuyện, cấp
cho bà hai người chăm lo lúc tuổi già và ra lệnh các quan chức địa phương phải
thường xuyên đến thăm hỏi.
760. Bà Mỵ Ê 1)
Nước mất nhà tan, vẫn nặng lòng.
Chiếu vua lại giục, khó mà không.
Đành tạ ơn vua cho được chết,
Bà quấn chăn cừu, nhảy xuống sông.
1). Xem bài Huyền Trân Công chúa.
HOÀNG TRỪNG
Không rõ năm sinh,
năm mất, người ở Bình Lộ, huyện La Giang, nay là xã Nhân Thọ, huyện Đức Thọ, Hà
Tĩnh. đậu Hoàng Giáp năm Cảnh Thống thứ hai, làm quan đến chức Đông Các Đại học
sĩ, sau nhân việc Mạc Đăng Dung thoán đoạt, ông cáo quan về nhà.
761. Thuật ý mình,
gửi cho bạn.
Mây trắng, trời cao gợi thoáng buồn.
Buồn đời trái ý, đổi thay luôn.
Trò nghèo làm việc nơi quan các,
Lận đận mười năm, phụ vợ con.
Những muốn về quê mà sống ẩn,
Không màng danh lợi chốn vàng son.
Chạnh nhớ quê nhà, nơi ruộng tốt,
Cá vược, rau tần, gạo lại ngon.
NGUYỄN DỮ
Không rõ năm sinh,
năm mất, người làng Đỗ Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, đậu cử nhân, thi
huyện trúng Tam Trường, làm tri phủ huyện Thanh Tuyền, nay là huyện Bình Tuyền,
được một năm thì từ chức về nuôi mẹ và không ra chốn thành thị lần nào nữa. Tác
giả bộ Truyền Kỳ Mạn Lục.
762. Làm thay nữ
học sĩ Kim Hoa 1), đề núi Vệ Linh
Vệ Linh mây trắng, trời xanh trong.
Mùa xuân muôn tía điểm nghìn hồng.
Ngựa sắt lên trời, danh để lại,
Anh linh lừng lẫy khắp non sông.
1. Tức bà Nguyễn Hạ
Huệ, người Mai Khê, huyện Yên Lạc, vợ ông Phù Thúc Hoành người huyện Kim Hoa,
nay là Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc. Bà giỏi văn thơ, thời Hồng Đức được tặng danh
hiệu Phù Gia Nữ Học Sĩ. Núi Vệ Linh ở huyện Kim Hoa, tương truyền Phù Đổng cưỡi
ngựa bay lên trời từ núi này.
763. Làm thay Từ
Thức, đề bức bình phong
tại nơi ở của nàng tiên Giáng Hương
Bài
một
Lư hương nguội lạnh, phải thay hương.
Đặt thêm lời mới điệu Nghê Thương 1).
Lời mới đặt xong, không dám hát,
Những sợ đất trời nổi gió sương.
1. Tên một khúc ca.
Tương truyền vua Minh Hoàng nhà Đường đi chơi cung trăng nghe nhạc, lúc trở về
bắt chước đặt ra cung này.
764. Làm thay Từ
Thức, đề bức bình phong
tại nơi ở của nàng tiên Giáng Hương
Bài
hai
Doi cát xa xa giữa khói mờ.
Đẹp như Mân, Quế 1), cảnh nên thơ.
Một màu sông biếc, trời xanh thẳm.
Trời chiều, cánh nhạn vỗ vu vơ.
1). Tên hai tỉnh
phía nam Trung Quốc ngày xưa, nơi nổi tiếng nhiều phong cảnh đẹp.
765. Mây núi, trăng
núi
Khí lạnh bao trời đất.
Cây xanh biếc một màu.
Trăng khuyết treo vách núi.
Sao nhấp nháy trên đầu.
Chiều tối, cửa sài vắng.
Gió mát thổi hàng dâu.
Ngắm cảnh đẹp đâu cứ
Phải đến tận Nam Lâu 1).
1). Tên một lầu ở
Võ Xương, Trung Quốc, nơi có thê ngắm nhiều cảnh đẹp.
ĐẶNG ĐÌNH TƯỚNG
Sinh
năm 1649, mất 1763, hiệu Chúc Ông, người làng Lương Xá, huyện Cương Đức nay
thuộc tỉnh Hà Tây. Đậu tiến sĩ năm 22 tuổi, làm quan đến chức Bồi tụng Thị
lang,sau đổi sang làm quan võ, trấn thủ ở Sơn Nam. Con cháu ông có bốn người
được gả cho hoàng tộc. Nghỉ hưu được ban hiệu Quốc Lão, tước Ứng Công, thọ hơn
80 tuổi.
766. Qua mộ Thái Sư
Tỷ Can 1) đời nhà Ân, thoáng nhìn thấy tấm bia khắc bốn chữ “Ân Tỷ Can Mộ”. Nghe nói đó
là chữ viết của Tuyên Thánh (Khổng
Tử), bèn dừng kiệu, xuống xem bia, cúi đầu rạp vái.
Sau rặng tùng xanh, dải núi mờ.
Mộ người nhân đức phải nằm trơ.
Trái tim bảy lỗ sao soi sáng.
Trang nghiêm linh khí tận bây giờ.
1. Tỷ
Can là người hiền tài thời thượng cổ ở Trung Quốc. Ông can gián vua Trụ. Vua
không nghe, còn nói: “Ta nghe nói tim thánh nhân có bảy lỗ, đúng thế không?”
Bèn cho mổ tim Tỷ Can xem.
767. Ngày lập xuân,
tức sự
Muôn dặm bụi trần lẫn gió sương.
Đón tiết lập xuân đúng giữa đường.
Thềm hoa, bệ ngọc luôn mong nhớ,
Về Nam cúi rạp, lạy quân vương.
KHUYẾT DANH
768. Đi
sứ phương Bắc, đề thơ ở dịch trạm Quế Lâm
Bài một
Cành dương vẫy tiễn sứ đi xa.
Bên sông, thành cổ, gió hiền hòa.
Khách lạ gặp nhau, nhìn chẳng nói.
Nỗi niềm day dứt một mình ta.
Khuây khỏa nhớ quê trong mộng điệp.
Một bầu tâm sự gửi đa đa.
Lần này đi sứ, thành hay bại?
Đường đi chắc chắn lắm phiền hà.
769. Đi
sứ phương Bắc, đề thơ ở dịch trạm Quế Lâm
Bài hai
Cuối năm mà nóng tựa mùa hè.
Phanh áo ngồi chờ ngọn gió se.
Trước sân cúc nở như trong mộng.
Ngoài ngõ buồn lòng rộn tiếng ve.
Ngâm thơ, uống rượu bên sông núi.
Gửi gắm tâm tư đến bạn bè.
Không phải ngẫu nhiên đêm mưa lớn.
Khách sứ nằm nghe thêm nhớ quê.
TRẦN LÂU
Không
rõ năm sinh, năm mất, người làng Đông Ngạn, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ đời nhà Hồ,
giữ chức giáo thụ.
770. Qua
cửa Hàm Tử
Từng nghe trận đánh ở nơi này.
Bây giờ có dịp được về đây.
Ào ào sóng vỗ như chiêng trống.
Tre ngà nghiêng ngả tựa cờ bay.
Vua Nam trở lại, cây tươi tốt.
Giặc Hồ tháo chạy, lạnh trời mây.
Toa Đô bị chém nơi nào nhỉ?
Nước biếc non xanh rộng tháng ngày.
NGUYỄN MỘNG TUÂN
Chưa
rõ năm sinh, năm mất, tên thật là Văn Nhược, tự Cúc Pha, người huyện Đông Sơn,
Thanh Hóa, đậu tiến sĩ năm Canh Thìn đời Hồ. Ông gia nhập nghĩa quân Lê Lợi và
được tin dùng. Để lại tập thơ Cúc Pha.
771. Cửa
Hàm Tử
Biết bao cuộc chiến ở nơi này.
Người đời truyền tụng mãi xưa nay.
Hồ Đỗ thiêm văn 1) - loài chuột chũi.
Tướng Trần, Quang Khải - đúng rồng
bay.
Lòng sông đóng cọc, bờ xanh biếc,
Đầu lâu gọi nguyệt, sóng đêm ngày.
Bất cần hưng thịnh, trên thuyền nhỏ
Ngư ông nằm ngủ giấc nồng say.
1. Thiêm
văn, một chức quan đời nhà Hồ. Hồ Đỗ giữ chức ấy, đem quân chống quân Minh ở
cửa Hàm Tử, thua chạy, hèn nhát như loài chuột.
VŨ MỘNG NGUYÊN
Năm sinh, năm mất
không rõ, người huyện Tiên Du, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ khoa Canh Dần, năm Thánh
Nguyên thứ 2, đời Hồ Quí Ly. Từng giữ chức Tế Tửu Quốc Tử Giám.
772. Cây
tùng trồng trong chậu
Vốn xưa tấc gốc ở rừng già.
Nay rồng trong chậu, cạnh sân nhà.
Thân tuy còi cọc vài ba thước,
Nhưng cành có vẻ muốn vươn xa.
Che suối, phủ rừng không đủ sức,
Vẫn thầm khao khát trời bao la.
May được chủ nhân thương, chăm sóc,
Hàng ngày đối mặt vịnh, ngâm nga.
773. Tiễn
ông Lê Cảnh Lược, giáo thụ Quốc Tử Giám về nghỉ hưu
Ơn vua nay bác được hưu nhàn.
Làng quê ngày tháng sống bình an.
Gió mát trăng thanh, tôm cá béo.
Nước thịnh, được mùa, đủ cái ăn.
Khen bác biết dừng như Lão Tử.
Khổng Tử sách kinh khéo luận bàn.
Lỗi hẹn với nhau, nào cạn chén.
Chúng mình sớm muộn cũng từ quan.
LÊ THIẾU DĨNH
Chưa rõ năm sinh, năm mất, tự Tử Kỳ, người huyện Đường An
(Hưng Yên), con Lê Cảnh Tuân. Ông được Lê Thái Tổ cử sang triều Minh cầu phong,
trở về được bổ chức Thiêm tri Viện sự, sau vì can gián trái ý vua, bị giáng
xuống làm bộ viên ngoại lang. Thơ có tập Tiết Trai.
774. Cổ
ý
Mùa đông trời thật rét.
Ngày ngắn, đêm lại dài.
Đêm càng dài càng thích -
Thỏa lòng thương nhớ ai.
LÊ THÚC HIẾN
Năm
sinh, năm mất không rõ, tự Tử Triệu, là em Lê Thiếu Dĩnh, từng làm tri phủ
Tràng An rồi Tuyên phủ sứ trấn Lạng Gian.
775. Cảm
hoài ngày xuân
Nhìn mây, lòng chợt hứng,
Thả hồn bay bốn phương.
Đi các nơi đã thích,
Huống gì về quê hương.
NGUYỄN PHU TIÊN
Chưa
rõ năm sinh, năm mất, người làng Kim Động, Khoái Châu (Hưng Yên), hiệu Tân Kiều
Tiên sinh, làm quan đến chức Hàn lâm viện thừa chỉ, Thẩm hình viện sứ.
776. Thuyền
đậu cửa biển, lên núi Biện Sơn 1)
chơi,
họa vần thơ ông ký thất họ Đồng.
Việc quan luôn mỏi mệt,
Bỏ đi chơi nơi này.
Giữa mênh mông trời nước
Đôi chim côi cút bay.
Nhớ nhà, lên lầu ngóng
Nhuc nước tính sao đây?
Chí lớn chưa toại nguyện,
Ngắm gươm báu hàng ngày.
1.
Một hòn đảo ở ven biển phía nam Thanh Hóa.
VƯƠNG BANG HÀNH
Năm
sinh, năm mất không rõ, người phủ Trường Tân, Hạ Hồng, nay là huyện Bình Giang,
Hải Dương, hiệu Liễu Khê, làm quan đến chức Đồng tu Quốc sử kiêm Thái tử thuyết
thư.
777. Thơ
đề núi Dục Thúy, họa theo vần
Thiếu bảo đời Trần, Trương Hán Siêu
Chùa cổ không thay đổi.
Sát núi cánh buồm nâu.
Dòng sông như dải lụa.
Mây che động sẫm màu.
Đá còn thơm hương biển.
Tháp xưa không thấy đâu.
Phục ông Trương 1) ngày trước -
Xong việc lớn, đi câu!
1. Tức Trương
Hán Siêu.
NGUYỄN KHẮC HIẾU
Năm
sinh, năm mất không rõ, người xã Bình Lục, huyện Lý Nhân, Hà Nam, đậu tiến sĩ
năm 1429, làm quan đến chức Hàn lâm trực học sĩ.
778. Lên
chơi gác Thông Minh ở huyện Nam Xương 1)
Hai mươi năm trước đến nơi này.
Neo thuyền, giờ lại bước lên đây.
Cuối trời mưa đổ, thuyền về bến.
Lên cao, khách ngắm nước dâng đầy.
Đầm phá bỏ hoang, rồng quẫy mạnh.
Xong lò thuốc luyện, ngựa tiên bay.
Thăm lại Thông Minh, lầu gác ngọc,
Mà lòng chắp cánh vút trời mây.
1. Tên
một huyện ở Hà Nam xưa.
NGUYỄN THIÊN TÚNG
Năm
sinh, năm mất không rõ, tự Ước Phủ, người huyện Đông Ngạn (Bắc Ninh), đậu tiến
sĩ năm 1429, làm quan đến chức Quốc tử giám trợ giáo.
779. Giếng
nước
Giếng nước trong nho nhỏ
Dân uống mãi vẫn đầy.
Giá lấy được nước giếng
Làm mưa tưới đất này.
780. Ngày
xuân tức sự
Cam phận làm mọt sách.
Nhân nghĩa đều thế thôi.
Không ham danh, phú quí,
Ngắm núi cũng đủ rồi.
CHU XA
Năm
sinh, năm mất không rõ, tự Khí Phủ, người làng Yên Phụ (nay là Yên Phong, Bắc
Ninh), đậu trúng cách năm 1433, từng đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Thị
ngự sử.
781. Buổi
chiều, từ trong thuyền nhìn ra
Mặt trời chiều đang lặn.
Vệt ráng nhạt xa xa.
Thuyền trôi trên sông vắng.
Người đi làm về nhà.
Chao lượn đôi chim nhỏ.
Ngồi câu - một ông già.
Trời tối, vành trăng mọc,
Vẫn còn muốn nhìn ra.
NGUYỄN ĐÌNH MỸ
Không
rõ năm sinh, năm mất, tự Triệu Phủ, người làng Chi Long, huyện Kim Hoa, nay là
Sóc Sơn, Hà Nội, làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư, vì bàn việc trái ý vua
nên bị giáng xuông chức Tả thị lang. Ông từng đi sứ nhà Minh năm lần.
782. Buổi
chiều, trên đê Yên Khánh 1)
Gió thổi buồm căng, nắng xế tà.
Bầu trời như vẽ, nước bao la.
Mạn Bắc quanh co sông cuộn chảy.
Làng xóm bờ Nam lác đác nhà.
Mưa tạnh, núi xanh, cây ẩn hiện.
Chim soi bóng nước chảy hiền hòa.
Trăng lên, về muộn, nguồn thơ cạn.
Trống làng thong thả điểm canh ba.
1. Tên
một con đê thuộc địa phận Ninh Bình.
NGUYỄN THÌ TRUNG
Năm sinh, năm mất không rõ, người xã Bối Khê, huyện Thanh
Oai, theo học đạo Nho, nhân gặp loạn nhà Hồ, ông mang sách vở lên làng Nghĩa
Hưng, huyện Thạch Thất và sống ẩn tại đó. Triều Lê Thái Tông ông được mời giữ
chức Thư khố ở Quốc tử giám, sau thăng chức Giáo thụ.
783. Thơ
đề am Hương Hải
Con đường nhỏ ven núi.
Chùa đứng cạnh hang sâu.
Động xưa, thu đến sớm.
Ao rộng, trăng lên mau.
Cá dỡn đùa dưới nước.
Chim bay lượn trên đầu.
Không ngoái nhìn mây trắng,
Sư ông thiền đã lâu.
NGUYỄN TRỰC
Sinh năm 1417, mất 1477, tự Công Đình, con danh sĩ Nguyễn
Thì Trung, đậu Trạng Nguyên năm 1442. Khi Lê Nhân Tông bị giết, ông cáo bệnh về
ở ẩn. Lê Thánh Tông quí tài ông, mời ra làm Hàn lâm viện thừa chí, kiêm Tế tửu
Quốc tử giám. Ông để lại tập thơ Xư Liêu tập, được Thân Nhân Trung khen là mực
thước và thông tuệ.
784. Thơ đề ở chùa Cực Lạc
Chùa hiện trong mây trắng.
Mấy lần đến nơi này.
Chân Phật in trên đá.
Nhà sư tựa rừng cây.
Nơi xa vắng, ít bụi.
Trên núi nhiều trăng, mây.
Sư luộc khoai, pha nước,
Mời khách ngủ nơi này.
VŨ LÃM
Năm
sinh, năm mất không rõ, người xa Tân Cầu, huyện Vĩnh Động (Hưng Yên), đậu tiến
sĩ năm 1442, làm quan đến chức Ngự tiền học sinh, thường được cùng vua Lê Thánh
Tông bàn luận văn chương.
785. Chơi
núi Lạn Kha
Chống gậy một mình lên núi chơi.
Lớp lớp mây bay rợp kín trời.
Rừng nhuốm màu thu se gió lạnh.
Khe sâu róc rách nước đầy vơi.
Bàn cờ bỏ trống, tiên đi vắng.
Xương Phật phơi khô, vật đổi dời.
Xưa nay bao kẻ từng sinh, chết,
Mấy ai để lại tiếng cho đời?
786. Qua
núi Yên Định
(Làm trong khi tòng quân ở phủ Thanh
Hóa)
Dãy núi xanh mờ, đứng sát sông.
Sương mù bao phủ, có như không.
Nước lên, chảy mạnh, cây xanh biếc.
Tia nắng đan xen, sóng nhuộm hồng.
Sáo thổi, xé tan mù mấy lớp.
Cờ bay, ngăn cản gió trên sông..
Đi lính xưa nay là viêc lớn.
Không biết lần này ai lập công?
LÊ HOẰNG DỤC
Không
rõ năm sinh, năm mất, người xã Hải Lịch, huyện Lôi Dương ,nay là Thọ Xuân,
Thanh Hoa, làm quan đến chức Thượng Thư và Đô đốc, được phong tước Tung Quận
công. Có đi sứ Trung Quốc.
787. Đi
trên sông, ngẫu nhiên thành thơ
Bao la thi hứng, nước bao la.
Dừng đàn, tư lự ngước nhìn ra.
Cỏ xanh - dễ thấy chim cò trắng.
Cây rậm - khôn che bóng xế tà.
Bên mạn thuyền con nghe sóng vỗ.
Buồm nâu một cánh, gió hiền hòa.
Bao nhiêu dấu cũ trôi theo nước.
Bốn bề thấp thoáng núi xa xa.
KIẾN VƯƠNG
Không
rõ năm sinh, năm mất, tên húy là Tân, con thứ vua Lê Thánh Tông. Con ông là vua
Tương Dực (1509 - 1516). Tác phẩm có Lạc Uyển Dư Nhàn Tập.
788. Phụng
họa thơ vua khi theo vua đi thăm Tây Kinh,
bài “Buổi sớm, xuất phát trên sông
Thiên Vực”
Bãi dâu khói biếc, ráng mai hồng.
Long lanh giọt nắng mạn thuyền rồng.
Mùa xuân rực rỡ màu cây lá.
Xanh thắm muôn trùng, núi với sông.
Mưa trên hoa đỏ trong vườn hạnh
Gió ngoài rặng liễu thổi vào song.
Lam Sơn trước mặt, gần gang tấc.
Chơt nhớ Cao Hoàng 1) khởi nghiệp công.
1. Tức
Lê Lợi.
PHÚC VƯƠNG
Sinh
năm 1467, mất 1500, tên húy là Tranh, con thứ sáu của vua Lê Thánh Tông, năm
Hồng Đức thứ hai được phong tước Phúc Vương. Ông ham đọc sách, nhất là Kinh Dịch,
làm thơ hay và viết chữ rất đep.
789. Đêm xuân
Hương thơm, đêm vắng, lặng như tờ.
Đọc xong Kinh Dịch, ngẫm duyên cơ.
Trăng soi phòng sách, hoa còn ướt.
Trống điểm canh chầy, liễu phất phơ.
790. Phụng
họa thơ vua, bài “Buổi sớm, xuất phát trên sông Thiên Vực”
Rạng sáng, mênh mông nước chói lòa.
Bên sông đỏ rực một bờ hoa.
Màu xuân thấm đượm màu sông núi.
Giữa dòng cá nhảy với chim sa.
Cờ xí tung bay trong gió sớm.
Thuyền vua háo hức chuyến đi xa.
Tiểu thần vinh dự theo, hầu việc,
Nhớ đức vua xưa dựng nước nhà.
LƯƠNG VƯƠNG
Năm
sinh, năm mất không rõ, tên húy là Thuyên, con thứ vua Lê Thánh Tông.
791. Phụng
họa thơ vua, bài “Buổi sớm, xuất phát trên sông Thiên Vực”
Xuân mới ngất ngây tựa rượu nồng.
Sông xanh uốn khúc, mặt trời hồng.
Khói lam nhàn nhạt che bờ cỏ.
Bầy chim ríu rít lượn trên không.
Nhè nhẹ sóng vờn trong gió sớm.
Đoàn thuyền lướt giữa mù trên sông.
Nhớ công trời biển Cao Hoàng đế,
Ngong ngóng Lam Sơn, mỏi mắt trông.
THÂN NHÂN TRUNG
Sinh năm 1418, mất 1499, tự Hậu
Phủ, người làng Yên Ninh, huyện Đông Dũng (Bắc Ninh), đậu tiến sĩ năm 1469, làm
quan đến chức Đông các Đại học sĩ, Lễ bộ Thương thư, vì có tài văn thư nên được
vua Lê Thánh Tông phong làm Tao Đàn phó nguyên súy. Ông nổi tiếng nhờ câu:
“Nhân tài là nguyên khí quốc gia”.
792. Kính
họa thơ vua khi theo vua chơi động Lục Vân,
ngày 17 tháng Ba, năm Hồng Đức thứ 25
Thanh u động cổ giữa tầng không.
Xinh tươi cảnh sắc tựa tiên bồng.
Sau mưa, rêu phủ xanh đường đá.
Tiếng đàn gió thổi rộn hàng thông.
Ba sinh hương hỏa 1) duyên bền chặt.
Một gối hà yên 2) tỉnh giấc nồng.
Ngâm vịnh thơ vua, lòng tĩnh lặng.
Ngoài sân hoa nở, ánh trăng lồng.
1.
Hương hỏa - hương và lửa. Người xưa khi ăn thề với nhau thường đốt hương để
khấn, gọi là duyên hương hỏa.
2. Hà
yên - ráng đỏ và khói, chỉ cảnh tiên.
793. Kính
họa thơ vua, bài “Đến thăm Kiến Thụy Đường”
Nhà tiên, thật đẹp cảnh nơi này.
Như chốn Bồng Lai, nước với mây.
Mưa rơi lạnh lẽo, xanh đồng lúa.
Hoa hồng dưới bãi, đỏ hàng cây.
Thờ phụng tổ tiên, gương hiếu thảo.
Tích phúc cơ đồ, gắng dựng xây.
Theo hầu xa giá, dâng bài phú,
Chỉ tiếc bất tài, ý chẳng hay.
ĐỖ NHUẬN
Sinh năm 1445, mất chưa rõ năm nào, người huyện Kim Hoa,
nay thuộc Đông Anh, Hà Nội, đậu tiến sĩ năm Quảng Đức thứ 7, làm quan đến chức
Thượng thư, được vua Lê Thánh Tông ban hiệu là Tao Đàn phó nguyên súy.
794. Phụng
họa thơ vua khi theo ngài đi chơi động Lục Vân
Nữ Oa đẽo đá thành hang động.
Uy nghiêm, sừng sững giữa trời mây.
Phong cảnh hữu tình, cơn gió thổi.
Cổng hờ, khách tục ít vào đây.
Chim hạc đã đi, rêu vẫn mọc.
Hang lạnh mà mưa vẫn suốt ngày.
Lo toan đời tục làm ta mệt.
Thảnh thơi thấy lại ở nơi này.
LƯƠNG THẾ VINH
Sinh năm 1441, mất năm nào không rõ, người huyện Thiên
Bản, nay là Vụ Bản, Nam Định. Từ nhỏ ông đã thông minh khác thường, đậu trạng
nguyên năm 23 tuổi. Dưới triều vua Lê Thánh Tông ông giữ chức Hàn lâm thừa chỉ
chưởng viện sư, nổi tiếng nhờ những công trình nghiên cứu toán học và Phật học.
795. Theo
vua đi đánh miền Tây, phụng họa bài
“Tướng sĩ nhớ nhà” của vua.
Muốn vẹn cả hai, nước lẫn nhà.
Trời đầy mây trắng phía xa xa.
Quán khách đêm nằm nghe trống điểm.
Hơi thu lành lạnh bám vào da.
Ngựa hý não lòng muôn dặm đất.,
Một vùng chim nhạn ít bay qua.
Mong sớm đến ngày xong việc lớn
Trở lại kinh đô, nước thái hòa.
ĐÀO CỬ
Không
rõ năm sinh, năm mất, người ở Siêu Loại, nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh, đỗ
tiến sĩ năm 1466, lúc mới 18 tuổi, làm quan đến chức Đông các Đại hoc sĩ, sau
phong Thượng thư.
796. Vâng
họa thơ vua, bài “Buổi sáng,
khởi hành từ sông Thiên Vực”.
Lò hương nghi ngút, khói thơm nồng.
Mặt trời đỏ rực giữa dòng sông.
Cờ xí tung bay trong gió sớm.
Núi non muôn dặm, trời xanh trong.
Mũ áo uy nghi, ơn mưa móc.
Thấp thoáng làng quê, lúa bén đòng.
Mừng nước thái bình, vua thịnh trị.
Chợt nhớ Cao Hoàng 1) lập nghiệp công.
- Tức Lê Lợi.
797. Phụng
họa thơ vua, bài
“Tưởng nhớ công đức hai vị thánh”.
Lòng vua tĩnh lặng giữa đêm thanh.
Thuyền lầu vua ngự suốt năm canh.
Tưởng nhớ tổ tiên gây nghiệp lớn.
Nghĩ lo cuộc sống của dân lành.
Chân trời nhàn nhạt, trăng mờ ảo.
Cuốc gọi buồn buồn khóm liễu xanh.
Bốn bể yên bình, yêu khí hết.
Xin cầm bút lớn 1) chép công danh.
1.
Theo Vương Tuân truyện trong Tấn Thư thì Vương Tuân mơ thấy có người đưa cho
ông một chiếc bút lớn như xà nhà. Tỉnh dậy, ông nói: “Đây là điềm sẽ có việc
đại thủ bút”. Về sau, khi vua mất, mọi văn bản quan trọng trong triều đều do
ông thảo.
NGUYỄN XUNG XÁC
Không
rõ năm sinh, năm mất, người làng Kim Đôi, huyện Vũ Ninh, nay là Quế Võ, Bắc
Ninh, đậu tiến sĩ năm 1469, làm quan đến chức Chưởng Hàn lâm viện, Lễ bộ Hữu
thị lang.
798. Vâng
họa thơ vua, bài “Động Lục Vân”.
Vách núi xanh cao, vút tận trời.
Động vắng, bốn bề cây tốt tươi.
Phòng sư yên tĩnh, mây trên gối.
Nhà Phật canh khuya, trăng sáng
ngời.
Lung linh nhũ đá khoe muôn sắc.
Rừng thông gió thổi, lá vàng rơi.
Nhân duyên hương lửa còn chưa tắt.
Ghen với sư già sống thảnh thơi.
LÊ NGẠN TUẤN
Không
rõ năm sinh, năm mất, người xã Vĩnh Bảo, huyện Tế Giang, nay là Văn Giang, Hưng
Yên. Ông đỗ tiến sĩ năm 1472, từng đi sứ Trung Quốc và giữ chức Hộ bộ Thượng
thư.
799. Phụng
họa thơ vua, bài “Bái yết Sơn Lăng”.
Trời quang, cảnh đẹp, gió hây hây.
Làng xa thấp thoáng giữa rừng cây.
Tường dậu bao quanh lăng mộ cổ.
Tinh kỳ phấp phới, gió tung bay.
Mềm mại dòng sông như dải lụa.
Núi cao sừng sững tựa tường dày.
Lam Sơn trước mặt gần gang tấc.
Khí đẹp bao trùm năm sắc mây.
NGÔ LUÂN
Không rõ năm sinh, năm mất, người huyện Đông Ngàn, nay là
huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, đậu tiến sĩ năm 1475 và rất được vua Lê Thánh Tông
yêu mến. Làm quan đến chức thượng thư.
800. Phụng
họa thơ vua, bài “Tướng sĩ nhớ nhà”
Việc nước, việc riêng khó vẹn toàn.
Cô đơn giấc mộng chốn quan san.
Da diết tình quê, thu ảm đạm.
Nhuệ khí tăng thêm, rượu uống tràn.
Tin nhạn gió đưa, thư chẳng thấy.
Buồn thênh đất khách, mảnh trăng
tàn.
May được vua thương, ban lệnh hứa
Đến tiết Thương Canh về Trường An.
KHUYẾT DANH
801. Cửa
biển Thần Phù
Đường đi xuyên núi, lẫn vào mây.
Thêm chuyến chơi xa đến đất này.
Vào sâu trong đất, sông nhiều nhánh.
Sát biển, cheo veo núi với cây.
La Viện 1) neo thuyền, chờ sóng lặng.
Lấp cảng, Hoàng Chương 2) đá xếp đầy.
Ba mươi chín cửa, đi đường biển
Đến được Ô Châu mất mấy ngày?
1. Người huyện Thuận Lộc, Thanh Hóa, tương truyền là một
đạo sĩ giỏi đời Hùng Vương. Khi Hùng Vương đi thuyền đánh vào phía nam, gặp gió
to, vua sai Lã Viện đi trước yểm bùa, tự nhiên biển yên gió lặng.
2. Tức Hồ Quý Ly. Khi nghe tin quân Minh đem quân đánh
nước ta, Hồ Quý Ly sai chở đá lấp cửa Lầm Cảng để chặn đường.
NGUYỄN VĂN THÁI
Không rõ năm sinh, năm mất, người xã Tiên Liệt, Vĩnh Lai,
nay thuộc tỉnh Hải Dương, đậu Thám Hoa năm Canh Thống thứ 5, làm quan đến chức
Đông các Đại học sĩ. Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, ông giúp nhà Mạc và được thăng
chức Lễ bộ Thượng thư, sau bị Đạo Nguyên Bá ghen ghét, buộc phải đi sứ và không
được quay về nữa.
802. Họa
theo vần, tặng bạn.
Nhớ buổi cùng khoa, đỗ với ông.
Rộng mở đường đời, thỏa ước mong.
Biết lẽ tự nhiên, theo chữ Lễ.
Không nói, gật đầu, lòng hiểu lòng.
Giường chiếu liền nhau nên chẳng lạ.
Soi gương, cùng hẹn lập danh công.
Cây tùng, cây bách luôn là bạn,
Một màu xanh tốt giữa mùa đông.
PHẠM KHIÊM BÍNH
Không
rõ năm sinh, năm mất, người làng Lãm Sơn, Quế Dương, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh,
đỗ tiến sĩ năm 1502, làm quan đến chức thượng thư, đời nhà Mạc bị giáng xuống thành
hữu thị lang.
803. Làm
theo vần, tặng bạn
Tài năng uổng phí, tuổi năm mươi
Cái nghèo ập đến, trớ trêu đời.
Mới chỉ dăm năm, tiền bạc hết.
Trên người chấy rận thấy khắp nơi.
May rủi việc đời không hối tiếc.
Lành dữ ra sao - chuyện của trời.
Giương cặp mắt xanh nhìn bạn hữu,
Thử hỏi hôm nay có mấy người?
KHUYẾT DANH
804. Tự
thuật lòng mình
Nghèo đói cùng đường, lại chiến
tranh.
Vốn liếng nhiều năm bỗng mất nhanh.
Vất vả lo ăn không đủ bữa.
Gió rét che thân, áo chẳng lành.
Tủi phận, vợ con hay cáu bẳn.
Người quen xa lánh, việc không
thành.
Những muốn giang hồ cho khuất mắt,
Nhưng vướng người thân nên chẳng
đành.
805. Than
cảnh mưa xuân
Xuân ấm mà sao lạnh thế này!
Mưa nhỏ dầm dề suốt cả ngày.
Hoa rơi lặng lẽ trên thềm gạch.
Bên ngoài, nước sẫm ướt hàng cây.
Quán trọ ven sông, giường lạnh lẽo.
Khách xa thiếu áo khoác thân gầy.
Chắc đến cuối cùng mưa cũng tạnh.
Mặt trời lại sáng giống xưa nay.
PHÙ THÚC HOÀNH
Không
rõ năm sinh, năm mất, người làng Phú Xá, Kim Hoa, nay thuộc Sóc Sơn, Hà Nội. Ông
có học vấn uyên thâm nhưng không đi thi, được làm Hàn lâm học sĩ, dạy Kinh Dịch
ở Quốc Tử Giám.
806. Đi
trên đường núi
Mưa tạnh, núi xanh biếc.
Suối trong, cây lòa xòa.
Cầu gãy, rừng vắng vẻ.
Thỉnh thoảng có tiếng gà.
807. Ý
xưa
Lá sen như chiếc lọng.
Hoa hồng như mặt người.
Nhớ chàng, chưa được gặp.
Đi dạo, lòng rối bời.
PHÙNG KHẮC KHOAN
Sinh
năm 1528, mất 1613, tự Hoằng Phu, hiệu Nghị Toai, người huyện Thạch Thất, tỉnh
Hà Tây; đậu Hoàng Giáp năm 1580, đi sứ Trung Quốc năm 1597. Trong thời gian đi
sứ sáng tác nhiều thơ, xướng hoạ và ứng đối rất giỏi, được các sứ thần nước
ngoài thán phục. Làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư, tước Mai Quận công.
808. Viết trả lời người mang rượu đến xin thơ
Còn hơn cả rượu, hứng thơ say.
Ngang vò rượu quý bài thơ này,
Thơ đã làm xong, rượu uống hết.
Trùm thơ, trùm rượu là ta đây!
809. Ở công quán, làm thơ tức sự
Đêm về bầy quạ lượn bay quanh.
Sáo ai não ruột thổi đầu thành.
Trời Nam ngong ngóng, tìm Nam Đẩu, 1)
Nhớ nhà, trằn trọc suốt năm canh.
(1) Tªn mét chßm sao
s¸u ng«i phÝa Nam, ë ®©y chØ vua nưíc Nam. Bµi nµy viÕt
khi t¸c gi¶ ®i sø sang Trung Quèc.
810. Qua rừng lim
Rừng lim cao khỏe, đỡ chống trời,
Cứng cỏi, coi thường sương tuyết rơi.
Giữa lúc nước nhà cần trụ cột,
Sao ở nơi sâu, xa lánh đời?
811. Thơ tức sự ở công quán
Tuổi già, đi sứ đến Yên
Kinh. 1)
Đế đô cảnh vật thật thanh
bình.
Gió thổi qua cây như
tiếng suối.
Trong vườn, xuyên lá,
nắng lung linh.
(1)
Tøc B¾c Kinh ngµy nay.
812. Thơ tức sự ở công quán
Bầy quạ bay quanh ngọn
liễu già.
Sao Lỗ ai người thổi xót
xa.
Ngoái nhìn Thiên Tân 1), tìm Nam Đẩu,
Không ngủ suốt đêm bởi
nhớ nhà.
(1)
Mét tØnh ë phÝa B¾c Trung Quèc.
813. Bến Bành Thành
Viết ở sông Tuy Thủy, huyện Bành Thành, Từ
Châu, vốn là chỗ đóng đô của Hạng Vũ,
có đài Hý Mã và đền Bành Tử.
Hý Mã đài xưa dấu vẫn
còn.
Nhà khách bên đường, rặng
liễu non.
Tuy Thủy, Bành Thành
nguyên như cũ,
Công danh Hán Sở đã phai mòn.
814. Tự thuật
Viết năm Quý mão (1543), lúc 16 tuổi.
Tự biết mình non, tuổi
học hành,
Đêm ngày phải học để
thành danh.
Quý nhất trong nhà là
quyển sách.
Chiếc cày là bút vẽ nên
tranh.
Sự nghiệp phải đi đường
ngay thẳng.
Làm người phải biết trọng
thanh danh.
Làm con trước hết thờ cha
mẹ,
Rồi sau mới nghĩ chuyện
tung hoành.
815. Ngày đầu xuân
Viết năm Mậu Thân, lúc 21 tuổi.
Vua mới ban cho lịch Mậu
Thân.
Vậy là lần nữa lại mùa
xuân.
Lộc nhú, hoa tươi, gì
cũng mới.
Lá biếc, non xanh, mây
trắng ngần.
Năm mới, mọi người thay
cái cũ.
Đất trời vạn vật rất quen
thân.
Xuân đến, điều lành mong
sẽ đến.
Cần
chi cắt lụa giống đời Tần 1).
(1)
Tôc lÊy lôa ®em c¾t ®Ó trang hoµng nhµ cöa lóc ®ãn xu©n ®êi nhµ TÇn, Trung
Quèc.
816. Nguyên đán
Viết năm Bính Thìn, lúc 29
tuổi.
Xuân đi, xuân đến tự xoay
vần.
Lòng người háo hức với
mùa xuân.
Núi sông cảnh đẹp như
tranh vẽ.
Cỏ cây thay sắc đã bao
lần.
Say đất, say trời, ta
uống rượu.
Ngồi nhàn quán trọ viết
thơ văn.
Cưỡi ngựa ngắm hoa là thú
thích,
Hơn nhiều gà chọi ở Tràng
An.
817. Từ xa gửi cho bạn
Từ khi xa bác đến bây
giờ,
Chẳng viết thư nhiều, chỉ
viết thơ.
Muốn bẻ cành mai 1), mai chửa mọc,
Bạn bè gặp mặt chỉ trong
mơ.
Giang sơn xa cách tuy
nghìn dặm,
Tấm lòng trung nghĩa
chẳng thờ ơ.
Tài lớn cần dùng vào việc
lớn.
Kẻ sĩ sao cam mãi đợi
chờ?
(1)
Ngµy xưa ë
Trung Quèc ngưêi ta thưêng bÎ cµnh mai ®Ó tÆng lóc chia tay, hoÆc
tá lßng thư¬ng nhí
nhau.
818. Đêm ba mươi tết
Đêm ba mươi tết, thức làm
thơ.
Không ngủ suốt đêm, cứ
thẫn thờ.
Trong thành đây đó đèn
thắp sáng.
Ngoài ngõ nơi nơi rợp
bóng cờ.
Nửa đêm khí lạnh còn chưa
hết.
Canh ba trời bỗng ấm bất
ngờ.
Mai nở bên thềm như báo
lịch.
Quả rằng Thiệu Tử giỏi
thiên cơ 1).
(1)
Tøc ThiÖu Khang TiÕt, mét ngưêi th«ng minh næi tiÕng ®êi Tèng, viÕt cuèn "Hoa mai
dÞch sè" ®o¸n vÒ sù biÕn ®æi cña vËn sè.
819. Đêm thu hoài cảm
Bài một
Đồng hồ chảy chậm, mới
canh ba.
Nỗi lòng ai hiểu thấu cho
ta.
Đầu tháng thuyền trăng
treo trước cửa.
Cuối năm gió lạnh thổi
sau nhà.
Lo nghĩ giúp đời không
ngủ được,
Hết ngồi đọc sách lại
nhìn hoa.
Cái chí làm trai lo việc
lớn,
Chứ đâu vui thú với đàn
bà.
820. Đêm thu hoài cảm
Bài
hai
Lòng lo trăm mối cả ban
ngày,
Huống gì đêm vắng giống
đêm nay.
Lo hết sự đời, dân với
nước,
Lo tình phụ mẫu báo sao
đây.
Ôm gối Ôn Công 1) lo học tập,
Trong đầu chao nhẹ cánh
chim bay.
Cái chí làm trai luôn vẫn
vậy,
Phải lo gây nghiệp lớn
sau này.
(1)
Tøc Tư M·
Quang, cã chiÕc gèi trßn ®ªm dïng ®Ó gèi ®Çu, nÕu ngñ quªn, gèi l¨n ®i ®Ó ®¸nh
thøc dËy tiÕp tôc häc.
821. Đêm thu hoài cảm
Bài ba
Gặp hứng, bất ngờ một ý
văn
Lớn lên, theo bút cứ tuôn
dần.
Đọc sách thấy người xưa
xuất hiện.
Ngồi ngắm trăng tàn, nhớ
bạn thân.
Sách mở mà rồi toan gập
lại.
Duỗi chân, ngại rét, lại
co chân.
Giá có được tài như tạo
hóa,
Xua hết mùa đông để đón
xuân!
822. Leo núi buổi sớm
Sáng sớm vào rừng leo núi
chơi.
Bình minh nhuốm đỏ phía
chân trời.
Lau lách xếp hàng, đầu
khẽ cúi.
Hoa nở, chim ca đợi đón
người.
Cây cỏ thân quen như bạn
cũ.
Mây gió gợi tình, phút
thảnh thơi.
Nào quản hang sâu, khe đá
hiểm,
Ta quyết leo cao, đứng
giữa trời.
823. Nghe sáo thổi giữa hoàng hôn
Nắng chiều nhuốm đỏ núi,
chim bay.
Bất ngờ nghe sáo thổi đâu
đây.
Du dương trong gió, khoan
rồi nhặt,
Thổi "Lạc mai
hoa" báo hết ngày.
Tiếng sáo làm vui lòng
tráng sĩ,
Xua tan cái mệt của dân
cày.
Nếu sáo đủ tài lui được
giặc,
Chắc rằng vua sẽ thưởng
cho ngay.
824. Sáng sớm qua Tây Đô 1)
Đô thành, trời rạng, sáng
xa xa.
Cảm hứng dạt dào khi ghé
qua.
Tường đá bám rêu, xanh ẩm
mốc.
Long lanh suối nước, liễu
la đà.
Năm tháng trôi đi, còn
vết cũ.
Cảm hứng non sông vẫn mặn
mà.
Cha con họ Hồ giờ không thấy,
Chỉ thấy gió vờn trên mặt
ta.
(1) §« thµnh do Hå Quý Ly x©y dùng, ë An T«n, VÜnh Léc,
Thanh Hóa.
825. Tự thuật
Thẹn mình tài đức chẳng
bằng ai,
Mà lộc cha ông cứ hưởng
hoài.
Đầy hòm sách quí, hơn
vàng bạc.
Ba đời đạo sáng, chẳng mờ
phai.
Vận nước hết suy rồi lại
thịnh.
Đời người giờ khổ, sướng
ngày mai.
Xưa nay vẫn thế - người
có học.
Làm nên khanh tướng, bậc
hiền tài.
826. Thương đời loạn
Đời dẫu đổi thay, nhưng
Đạo không.
Thịnh suy, suy thịnh, cứ
xoay vòng.
Chợ họp rồi tan, đâu họp
mãi.
Hết kỳ xuân hạ, đến thu
đông.
Kẻ ác vô vàn, không giết
hết.
Người ngay ôm hận để
trong lòng.
Nhưng bậc thánh nhân còn
trở lại,
Giúp Đời hưng thịnh, Đạo
thành công.
827. Khuyên người đi học
Chăm lo việc học phải do
mình.
Trời không can dự việc
nho kinh.
Người giỏi, dạy con
thường đã khó,
Dễ gì đọc sách lúc đao
binh.
Học rộng, lòng thông như
suối chảy.
Cái tham tự bớt, sống yên
bình.
Khi ít đam mê, lòng sẽ
nhẹ,
Cần gì bổng lộc với quang
vinh?
828. Hiếu
Hiếu là đạo lớn khắp gần
xa.
Trăm điều đức hạnh đó mà
ra.
Cái đạo làm con là báo
hiếu,
Phụng dưỡng, tôn thờ bậc
mẹ cha.
Chu Công, Ngưu Thuấn là
gương tốt.
Đại hiếu, đại trung, nước
lẫn nhà.
Còn ta, thật tiếc dù tâm
niệm,
Chưa thể làm tròn đạo của
ta.
829. Đi qua chỗ nước xiết ở Quảng Bình
Vâng mệnh nhà vua đi việc
công,
Gặp nơi nước xiết chẳng
sờn lòng.
Muôn dặm đường xa không
ngại khổ.
Trèo đèo vượt suối cứ như
không.
Gánh vác trên vai là việc
nước.
Treo đầu ngọn bút núi và
sông.
Khi nước thái bình, mong
hậu thế,
Lưu lại công danh được
mấy dòng.
830. Ở nhà trọ gặp mưa, chờ tạnh
Định lên đường sớm, lúc
tinh mơ,
Bỗng đâu mưa lớn, phải
ngồi chờ.
Mưa tạnh, trong rừng chim
líu ríu.
Ngoài đồng bò gặm cỏ non
tơ.
Mây vương đầu núi, trời
trong vắt.
Chân ngựa quen đường,
bước nhởn nhơ.
Trời sáng thế này, điềm
tốt đẹp,
Báo thời Nho thịnh, phát
văn thơ.
831. Năm mới
Được mất ở đời, đều tại
thiên.
Nuôi dưỡng lúc nhàn khí
hạo nhiên.
Ngâm vịnh khác xưa, năm
mới đến.
Bất ngờ mai nở trắng
ngoài hiên.
Hương hỏa ba sinh duyên
kiếp trước
Muôn quyển Thi Thư, ấy
bạn hiền.
Mừng thời vận tốt, mừng
năm mới,
Thêm một tuổi xuân, một
tuổi tiên.
832. Tháng Ba
Bốn mùa thay đổi, đến rồi
qua,
Nhưng đẹp hơn nhiều là
tháng Ba.
Mưa rụng hoa vàng, hồng
hạnh đỏ.
Liễu xanh, huệ nở trắng
sau nhà.
Dưới chân đàn Vũ 1) lòng thư thái.
Trước đình Tu Hệ 2), lễ bày ra.
Cây xanh đổ bóng, trưa
râm mát.
Ve sầu bất chợt khúc ngân
nga.
(1)
§µn Vò ®ưîc lËp
®Ó cÇu mưa. T¨ng
§iÒm, häc trß Khæng Tö, tõng nãi «ng -muèn thanh nhµn, cuèi xu©n (th¸ng Ba) ®i
t¾m ë s«ng Nghi vµ lªn hãng m¸t ë ®µn Vò.
2)
Tu HÖ, lÔ cuèi th¸ng Ba nh»m trõ yªu tµ vµ ®iÒm xÊu.
833. Cây chuối
Mọc trên đất tốt sát bờ
hiên,
Hàng chuối thật yêu và
thật hiền.
Như châu lộp độp, mưa
trên lá.
Đung đưa cánh quạt, xóa
ưu phiền.
Công danh, bổng lộc không
tơ tưởng,
Nuôi chí trong lòng, đức
với duyên.
Lại thấm ân trời và lộc
đất,
Hàng đàn con cháu cứ vươn
lên.
834. Tự xướng, tự họa
Kinh Thi chưa kịp đọc
nhiều lần,
Đi sứ bất tài, thật khó
khăn.
Nhưng được vua giao, dù
tuổi tác,
Lên đường, không gợn chút
băn khoăn.
Thành đô ngoái lại nhìn
lưu luyến,
Thẹn mình chưa hiểu hết
thơ văn.
Cố đem trung nghĩa làm
nên việc,
Để có hòa bình, đỡ khổ
dân.
835. Đêm đông ở công quán
Thu qua, đông đến, luật
xoay vòng.
Đêm vắng lầu cao chợt
chạnh lòng.
Tình nghĩa, dẫu xa, trăng
vẫn dọi.
Chuông chùa làm tỉnh mộng
đêm đông.
Phương Bắc tuyết tan,
xuân sắp đến.
Trời Nam mây trắng ngoái
về trông.
Ân vua như biển chưa đền
đáp,
Thầm hô "vạn
tuế" tỏ lòng trung.
836. Qua hồ Bà Dương 1)
Lư Sơn trùng điệp, núi
nhấp nhô.
Bà Dương hồ rộng, sóng lô
xô.
Trời nước mênh mông trong
nắng nhạt.
Soi bóng hoa sen, những
chiếc đò.
Họ Lã 2) qua đây trên cánh hạc.
Ông già họ Phạm 3) mái chèo to.
Ai lòng nông cạn, nhìn
không rộng,
Không biết say mê cảnh
núi hồ.
(1) Hå ë huyÖn Hå KhÈn, tØnh Giang T©y, Trung Quèc.
(2) ChØ L· §éng T©n ngưêi
®êi §ưêng,
tu tiªn ®¾c ®¹o thưêng cưìi h¹c ®i ch¬i c¸c hå lín.
(3)
ChØ Ph¹m L·i, ngưêi ®·
gióp ViÖt Vư¬ng C©u
TiÔn diÖt nhµ Ng«. Xong viÖc, «ng tõ
quan, chÌo thuyÒn ®i chu du Ngò Hå.
837. Mừng năm Bính Tuất
Vâng chiếu nhà vua đi sứ
xa.
Nay đúng mùa xuân, trở
lại nhà.
Theo gót anh tài đi đây
đó,
Mở mày, mở mặt với người
ta.
Mới biết mùa đông, tùng
khí phách,
Và mai đẹp nhất các loài
hoa.
Nay việc đã xong, chào
thiên tử,
Ta lại trở về nước Nam
ta.
838. Thơ
đáp lại sứ thần Triều Tiên
Trọn tình, vẹn nghĩa sẽ bền lâu.
Đọc sách thánh hiền đến thuộc lầu.
Việt Triều hai nước dù xa cách
Nhưng cùng gốc rễ bám rất sâu.
Bang giao phải lấy tình làm gốc.
Muốn xây nghiệp lớn - nghĩa làm đầu.
Sứ bộ mai kia về cố quốc,
Hãy ngắm nhìn mây lúc nhớ nhau.
NGUYỄN TIẾN SÁCH
Sinh
1638, mất không rõ năm nào, người huyện Bạch Hạc, Phú Thọ, đỗ tiến sĩ năm 1670.
Làm phó sứ trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1690; hai bài thơ này làm trong
thời gian ấy.
839. Đi trong cảnh tuyết rơi ở An Túc
Ngựa đi, kiếm vỗ, tiếng lanh canh.
Tuyết rơi, cảnh đẹp tựa trong tranh.
Bốn phía là đồng, như sóng biển.
Xa xa núi xõa mái đầu xanh.
840. Tức sự ngày lập xuân
Vất vả bao ngày cảnh gió sương.
Bất chợt đón xuân, vui dọc đường.
Nhớ ơn đức vua và cha mẹ,
Cúi đầu quỳ lạy, hướng quê hương.
KHUYẾT DANH
841. Cảnh Tây Hồ 1)
Một khóm dương vàng, mấy khóm hoa.
Trong quán người say, trẻ lẫn già.
Đất Việt cái vui không giống vậy -
Xuân về khắp chốn rộn lời ca.
(1) Theo Lª Quý §«n
trong "KiÕn v¨n tiÓu lôc" th× ®©y lµ bµi th¬ cña mét sø thÇn Giao ChØ
lµm khi tíi T©y Hå. Cã ngưêi xÕp bµi th¬ nµy vµo thêi TrÇn.
LÊ QUANG VIÊN
Không
rõ năm sinh, năm mất, bài thơ này được viết khi đi sứ sang triều Thanh năm
1773. Tác phẩm có tập "Hoa trình ngẫu bút lục".
842. Cảm nghĩ trên sông Tây Ninh
Châu Thành thuyền ghé bến ban trưa.
Đối diện lầu cao, buồn bâng quơ.
Tổ quốc thì xa, đường heo hút,
Đã thế ban đêm trời lại mưa.
ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Không
rõ năm sinh, năm mất, hiệu Hải Ông, người làng Hải An, nay thuộc huyện Quỳnh
Phụ, Thái Bình; làm quan thời Tây Sơn. Sau chiến thắng Đống Đa 1789, ông được
cử đi sứ Trung Quốc. Hai bài thơ này của ông viết trong thời gian ấy. Tác phẩm
có "Hải Ông thi tập".
843. Lá thu
Cây lá, thu về, gặp gió sương,
Héo khô, rơi xuống sát bên giường.
Đất Nam khác hẳn, mùa thu đến
Vạn vật xanh rờn, vẫn ngát hương,
844. Phòng thu
Gió thu níu áo, nước đang đông.
Cô đơn, lạnh lẽo chốn khuê phòng.
Chữ gấm dệt xong 1), tin cá vắng 2)
Đêm bói đèn hoa, đỡ nhớ chồng.
(1) Ch÷ gÊm: nh¾c
chuyÖn nµng T« HuÖ, dÖt th¬ trªn gÊm råi d©ng vua xin cho chång ®i thó n¬i xa ®ưîc vÒ.
(2) Mưîn ch÷ trong cæ
thi: Hå ®ång phanh lý ưng, trung h÷u xÝch
tè thư, (B¶o trÎ mæ c¸ chÐp, trong cã bøc thư dµi) - c¶ c©u nµy ý nãi ngưêi vî mong nhí chång.
NGUYỄN NHÂN AN
Năm sinh, năm mất không rõ, người xã Vĩnh Kỳ, huyện Từ
Liêm, nay là thôn Vĩnh Kỳ, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, Hà Tây. Ông thi đỗ Đệ
tam đồng giáp tiến sĩ xuất thân năm 1556, từng được cử đi sứ và làm quan đến
chức Thị lang, tước Phúc Diễn hầu, khi mất được phong tặng Thượng thư. Tác phẩm
chỉ còn hai bài trong "Toàn Việt thi lục".
845. Qua Lam Sơn,
họa vần thơ của trạng nguyên Giáp Tiết Trại
Chín mươi ngọn núi uốn quanh quanh.
Đất trời bốn phía đẹp như tranh.
Nhấp nhô đá xếp như bầy hổ.
Như rồng đang cuốn, suối long lanh.
Hoa nở bên đường, sương lấp lánh.
Bờ kênh rặng liễu đứng buông cành.
Thành xưa miếu cổ đang còn đó.
Thông già vẫn bạn với mai xanh.
846. Họa vần bài trước
Mây chiều che núi, suối
bao quanh.
Trong rừng thấp thoáng
mấy lều tranh.
Rồng in trên đá còn lưu
lại.
Hình voi soi bóng nước
long lanh.
Bụi cỏ bên đường đùa với
gió.
Dẫu lạnh, hoa mai nở kín
cành.
Quân tử tới đây nhiều
việc bận,
Chưa ngồi ngâm vịnh dưới
cây xanh.
NGUYỄN NĂNG NHƯỢNG
Sinh 1536, mất không rõ năm nào, người xã Kim Đôi, nay
thuộc huyện Quế Võ, Bắc Ninh. Năm 1562 đời Mạc Phúc Nguyên ông thi đỗ Đệ nhị
giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc năm
1584, làm quan đến chức thượng thư, tước Đạo phái hầu. Còn 24 bài trong
"Toàn Việt thi lục".
847. Thơ đề ở Mai Quan 1)
Mai nở trên cành, đậm sắc
xuân.
Thông già tỏa bóng, sóng
lăn tăn.
Cột đồng, Thành kiến 2) không còn nữa,
Nhưng khí phách xưa cảm
thấy gần.
(1)
¶i Mai Quan ë nói Dò Linh, n¬i tiÕp gi¸p hai
tØnh Qu¶ng §«ng vµ Qu¶ng T©y. Th¬ viÕt trong khi ®i sø phư¬ng B¾c.
(2)
Cét ®ång, thµnh kiÕn (x©y kiªn cè vµ tinh vi nhu tæ kiÕn, lµ biÓu tưîng cña khÝ ph¸ch hµo hïng ®êi xưa.
848. Cây mai nở muộn ở Hoành Phố
Trên đường Lĩnh Kiện ghé
Mai Quan.
Tháng Hai trời rét, cánh
mai tàn.
Chủ khách quý nhau, mời ở
lại.
Tiếc rằng gió giục đến
Tràng An.
849. Cảnh chiều ở Thủy Khê
Trời trong, sóng lặng,
gió hây hây.
Thuyền đi sáng sớm, nước
dâng đầy.
Tháng Hai, cảnh đẹp như
tranh vẽ.
Khắp rừng hoa nở, cánh
chim bay.
850. Đêm tạnh trời, đậu thuyền ở bên Tiêu Than
Thuyền đậu Tiêu Than, chỗ
nước nông.
Trời ấm mà sao vẫn lạnh
lòng.
Trằn trọc nhớ quê không
ngủ được,
Hoa đèn nhìn mãi, mắt
chong chong.
Văng vẳng sáo chài từ núi
bắc.
Trời nam chấp chới cánh
chim hồng.
Vâng mệnh nhà vua, không
tiếc sức,
Mong ngày trở lại, việc
thành công.
ĐẶNG ĐỀ
Năm sinh, năm mất không rõ, tự Hồi Khanh, hiệu Tùng Pha,
người làng Uông Thượng nay thuộc tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ tiến sĩ năm 1565,
đời Mạc Phúc Nguyên, được cử đi sứ Trung Quốc năm 1584, lúc về được thăng chức
Thượng thư và phong tước Tùng Linh bá. Ông nổi tiếng học rộng, thơ hay. Tác
phẩm có "Tùng Pha thi tập", bốn quyển hiện còn thất lạc. "Toàn
Việt thi lục” có 44 bài.
851. Trạm Nhân Lý
Qua hết Thượng Cường, giờ
tới đây.
Xem núi Mẹ Con ở xứ này.
Dẫu nhớ song thân mà
chẳng dám
Ngoái nhìn chốn ấy dưới
trời mây. 1)
(1)
DÞch Nh©n KiÖt ®êi §ưêng cã viÖc ph¶i ®i xa, mçi lÇn nhí cha mÑ
®Òu nh×n vÒ phÝa ®¸m m©y tr¾ng mµ than r»ng: "Nhµ cña cha mÑ ta ë dưíi ®¸m m©y tr¾ng kia!"
852. Tảng sáng xuất phát từ thành Lạng Sơn
Lên đường sáng sớm, lúc
tinh mơ.
Hơi núi, sương đêm thấm
ướt cờ.
Không dám ngoái nhìn vì
biết rõ
Dưới mây nơi ấy đất thành
đô.
853. Buổi tối nghỉ ở trại Mạc Phủ
Gặp mưa, đi sớm, lại
đường xa.
Xe sứ đến đây đã xế tà.
Đêm ngủ, đang mơ về cố
quốc,
Nghe gà te tái gáy xa xa.
854. Đi sứ phương bắc, xuất phát sớm tại sông Nhị Hà
Sáng sớm ra đi bến Nhị
Hà.
Nhiều người đưa tiễn
khách đi xa.
Màu áo lẫn màu mây buổi
sáng.
Hai bên đường trạm nở đầy
hoa.
Đi sứ, áo lông cùng ngựa
béo,
Nguyện gắng sức mình
giống Tử Hoa 1).
Mong lúc quay về, thời tiết tốt,
Hoa nở, mùa xuân khắp mọi
nhà.
(1) Häc trß cña Khæng Tö, thường ®ưîc sai ®i sø. Khi ®i sø Tö Hoa hay "thõa phi m· ý
khinh cÇu" (cưìi ngùa
bÐo mÆc, ¸o l«ng cõu). §êi sau thưêng dïng h×nh tưîng nµy chØ sù ®i sø.
855. Đêm đậu thuyền ở bến Tiêu Than
Ngày xuân thuyền đậu bến
Tiêu Than.
Hết mưa, sương giá vẫn
chưa tan.
Lấp lóe lửa chài soi ánh
nước.
Trên bãi, nhao nhao vịt
gọi đàn.
Văng vẳng tiếng chuông
xen tiếng sóng.
Đồng hồ nước cạn, báo đêm
tàn.
Nhớ quê, khách sứ lòng da
diết,
Thả hồn theo mộng tới
Trường An.
856. Tiết hàn thực trên đất khách
Xuân muộn, bây giờ đã
tháng Ba.
Buồn buồn lòng khách ở
nơi xa.
Theo gió, xinh xinh con
bướm lượn.
Mưa nhiều, xơ xác những
cành hoa.
Thoang thoảng đâu đây mùi
cháo hạnh.
Ai kia nhóm lửa, bận
trong nhà.
Thời gian luân chuyển, dù
xuân muộn,
Cũng uống rượu mừng, ta
với ta.
NGUYỄN QUÍ ỨNG
Chưa rõ năm sinh, năm mất, hiệu Trác Phong, làm quan cuối
đời Trần và từng đi sứ Trung Quốc. Tác phẩm lưu được một bài bốn câu và bài
này.
857. Qua Châu Hoành 1), họa vần thơ của Vương Bồng Trai 2)
Thuyền buộc mé sông, nắng
xế ngày.
Khách bước lên lầu, lòng
ngất ngây.
Việc cũ, bè sao trôi theo
nước,
Vách tường thành cổ vẫn
còn đây.
Lúc đi xuân sớm, thuyền
men núi.
Trăng sáng Châu Hoành ngủ
tối nay.
Không có thời gian ngồi
uống rượu,
Làm tạm bài thơ vịnh cảnh
này.
(1) Thuéc phñ Nam Ninh, tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2)
Ngưêi
Trung Quèc, chưa râ lµ
ai.
DOÃN ÂN PHỦ
Chưa rõ năm sinh, năm mất. Chỉ biêt ông người tỉnh Hưng
Yên ngày nay. Tác phẩm chỉ có bài này trong Toàn Việt thi lục.
858. Phụng mệnh đi sứ, từ biệt em trai
Người đi phương bắc, kẻ
về nam.
Xế chiều, dừng ngựa chúc
bình an.
Hồng nhạn 1) lẻ loi ngoài ải vắng.
Gọi bạn Tích linh 2) phía cuối ngàn.
Bao đêm mưa gió cùng trò
chuyện.
Muôn hộc tình quê chén
rượu khan.
Người giữ tiết mao, người
gối quạt,
Trung hiếu xưa nay khó
vẹn toàn.
1) Loµi chim sèng dưíi nưíc, khi bay thưêng
con lín bay trưíc, con bÐ theo sau
rÊt trËt tù, v× vËy ngưêi xa thưêng vÝ loµi chim nµy víi t×nh anh em trong nhµ.
(2)
Mét gièng chim nhá như chim
Ðn.
TRẦN LÔ
Sinh 1470, mất 1540, người thôn Bình Vọng, xã Văn Bình,
huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây ngày nay. Ông đỗ Đệ
tam giáp đồng tiến sĩ năm 1502, đời vua Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Hiến
sát sử. Năm 1505 được cử đi sứ Trung quốc. Tác phẩm chỉ còn lại vài bài thơ.
859. Qua cửa ải, bày tỏ nỗi lòng
Vua sai đi sứ, những lo
thầm.
Nhưng chẳng chối từ việc
khó kham.
Ngày giục ngựa đi lên
phía Bắc.
Đêm nằm mơ nhớ cõi trời
Nam.
Lòng trung báo nước luôn
suy nghĩ.
Mưu kế lợi nhà chẳng để
tâm.
Chỉ mong xong việc, khi
quay lại,
Nước nhà yên ổn, thịnh
nghìn năm.
VŨ CÁN
Sinh năm 1480, mất năm nào không rõ, tự là Tùng Hiên,
người làng Mộ Trạch, nay thuộc huyện Cẩm Bình, Hải Dương. Vũ Cán là con tiến sĩ
Vũ Quỳnh. Ông thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân đời Lê Hiến Tông, làm quan
với nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Hình. Từng đi sứ Trung Quốc, nổi tiếng văn
tài, xuất khẩu thành chương. Bảy mươi tuổi, ông về hưu và nghỉ ở quê nhà cho
đến lúc qua đời. Tác phẩm có "Tùng Hiên thi tập" và "Tứ lục bị lãm".
860. Ngắm
trăng ở Đông Quán 1)
Dòng sông nho nhỏ với cây cầu.
Trăng treo trên núi, người trên lầu.
Nhà cửa, lâu đài trông sạch sẽ.
Đúng lúc rượu ngon có một bầu.
Như thể được ngồi xe Tử Tấn 2).
Đông Pha 3) thi hứng đến trong đầu.
Đây cảnh thần tiên, sông núi đẹp,
Lâm Kiều 4) còn phải kiếm đâu đâu!
1.
Một địa danh ở Trung Quốc. Bài này viết khi tác giả đi sứ.
2.
Chưa rõ là ai.
3.
Tức Tô Thức, nhà thơ nổi tiếng đời Tống.
4.
Một địa danh nổi tiếng phong cảnh đẹp ở Trung Quốc.
861. Cây đa ở khe
Đồng Cách
Bên khe Đồng Cách, cạnh
bờ đê
Có cây đa lớn lá xum xuê.
Nhờ ơn mưa móc, luôn xanh
tốt.
Mọi người được hưởng bóng
cây che.
Khách nghỉ đường xa, xua
cái mệt.
Đồng vắng con chim có chỗ
về.
Vốn thích sông Nghi cùng
gió Vũ, 1)
Ta nay chợt hứng, viết
thơ đề.
(1)
S«ng Nghi - mét con s«ng ë tØnh S¬n §«ng, Trung Quèc; Giã Vò - giã m¸t ë ®µn
cÇu mưa.
862. Năm mới viết chơi
Quanh năm sách vở chất
đầy phòng.
Tính lười, sống nhạt
giống sư ông.
Muốn về ở ẩn mà chưa
được.
Chức quan nho nhỏ vẫn đèo
bòng.
Nhà chẳng có gì, không sợ
trộm.
Hợp đời, hợp đạo dễ thành
công.
Ơn vua như núi, tài không
có.
Chưa báo đền xong, thẹn
với lòng.
863. Trầu cau
Mở đầu câu chuyện miếng
trầu con.
Nước đỏ trên môi, miệng
cay dòn.
Đậm nhạt mùi đời từng
biết hết.
Nóng lạnh tình ai, vị vẫn
còn.
Dẫu đắng và cay, đời vẫn
quý.
Tiếng tốt lưu truyền với
nước non.
Ở ẩn, làm quan, chung
cảnh ngộ,
Trước sau như một tấm
lòng son.
864. Sự thận trọng
Việc mình không nói lộ ai
hay.
Đạo Nho vẫn dạy thế điều
này.
Rằng nên thận trọng, nên
im lặng,
Cả khi sống ẩn giữa rừng
cây.
Chính nó giúp người làm
việc lớn.
Công thành, danh toại
cũng từ đây.
Không tự dối lòng, không
hấp tấp,
Là người quân tử, đạo
người ngay.
.
NGUYỄN THIỆN
Sinh 1495, mất 1557, hiệu Cảo Xuyên, quê làng Canh Hoạch,
huyện Thanh Oai. Ông đậu trạng nguyên năm 1532, làm quan triều Mạc tới chức
Thượng thư bộ Lại kiêm đồ ngự sử. Về sau cùng Lê Bá Ly quay lại phò tá nhà Lê,
được phong tước Quận công. Ông là bạn thân với Nguyễn Bỉnh Khiêm, đỗ trước một
khóa. Còn lại năm bài trong "Toàn Việt thi tập".
865. Ngày xuân, họa vần thơ Mạc Đăng Doanh
Mùa xuân nắng dịu, bướm
và hoa.
Chúa xuân mang lộc đến
muôn nhà.
Khí thuận, gió hòa, trời
ấm áp,
Bốn bề chim chóc líu lo
ca.
Giữa độ "Tam
Dương" 1) thời tiết đẹp.
Muôn loài hưởng lộc khắp gần xa.
Nước thịnh, vua minh,
đang vận tốt,
Dân chúng nơi nơi hưởng thái hòa.
(1) ChØ
th¸ng Giªng ©m lÞch.
866. Tiễn Đào Nghiễm đi sứ bắc
Trông bác chưa già,
khoảng sáu mươi.
Góp sức hai ta gánh việc
đời.
Tôi thẹn, trước mình thi
nhất bảng.
Giờ bác ra đi sứ nước
người.
Gặp nguy lòng dạ không
thay đổi.
Trung hiếu đôi đường vẹn
cả đôi.
Việc thành mong bác ngày
quay lại,
Lưu truyền tiếng tốt khắp
muôn nơi.
LÊ BÁ LÝ
Sinh 1476, mất 1557, người làng Cự Phạm, huyện Đông Sơn,
Thanh Hóa, là võ tường dưới quyền chỉ huy của Mạc Đăng Dung, sau được phong làm
Thái Tế. Do bị Phạm Quỳnh dèm pha, Mạc Phúc Nguyên định hại ông, nên ông buộc
phải chống lại nhà Mạc và quy phục nhà Lê, rất được trọng dụng. Chỉ còn lại một
bức thư chữ Nôm và bài thơ chữ Hán dưới đây.
867. Tiễn quan thiếu sự Trần Tiên Sinh 1) hưu trí
Đức ông như biển rộng bao
la.
Cùng tôi gánh vác việc
sơn hà.
Trong giúp triều đình yên
xã tắc.
Ngoài lo biên giới được
yên hòa.
Công lớn sách ghi, gương
còn đó.
Giờ ông bảy chục, sống
quê xa.
Hẹn ông có dịp Kỳ Anh
hội, 2)
Chống gậy nói cười, ta
với ta.
(1) Tøc TrÇn Ph× (1479-1557), ngưêi huyÖn Chư¬ng §øc, lµm quan
triÒu M¹c, tưíc L¹i quËn c«ng.
(2)
Héi nh÷ng nh©n sÜ cao tuæi, thµnh lËp tõ thêi B¾c Tèng, do V¨n Ng¹n B¾c vµ Tư M· Quang ®øng ®Çu.
BÙI BÁ CHIẾN
Chưa rõ năm sinh năm mất, giữ chức tri phủ rồi đến chức
Doanh tán lý thụ ty luân ở huyện Giao Thủy triều Mạc, người làng Ôn Khê nay
thuộc Lạng Sơn. Tác phẩm còn năm bài thơ trong "Toàn Việt thi lục"
868. Tết Nguyên Đán
Sáng hô vạn tuế chúc nhà
vua.
Chiều dạo ngắm xuân, vãn
cảnh chùa.
Thiếp vàng dâng chúc
người thi đỗ, 1)
Mâm đồng ngày tết chỉ tua
rua. 2)
Đất nước thanh bình, thời
vận tốt.
Muôn loài gợi hứng cứ
tranh đua.
Uống chúc mọi người nay
mạnh khỏe.
Ai người mai uống rượu đồ tô? 3)
(1) §êi §ưêng, ngưêi thi ®ç tiÕn sÜ thưêng ®îc chóc mõng b»ng nh÷ng danh thiÕp in hoa vµng.
(2) Theo tôc cæ, tÕt Nguyªn §¸n ngưêi ta thưêng dïng chØ hång
®Ó trang trÝ nh÷ng m©m hoa qu¶ cÇu mong vËn may trong n¨m.
(3)
Tªn mét lo¹i rưîu quÝ
ngµy x ưa.
ĐÀO NGHIỄM
Sinh 1496, mất năm nào không rõ. Tự
Nghĩa Xuyên, người làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Năm 28 tuổi
thi đỗ Hội nguyên đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, đời vua Lê Cung Hoàng.
Ông làm quan cho nhà Mạc, từng làm chánh sứ sang Trung Quốc, sau về được phong
chức Tả thị lang bộ Binh, kiêm Đông các đại học sĩ. Tác phẩm có "Nghĩa
Xuyên quan quang". "Toàn Việt thi lục" có 27 bài.
869. Thơ đi sứ
Lên đường đi sứ phía
thành đông.
Bình minh như nước, trời
xanh trong.
Người đi, ngựa hý qua cầu
liễu.
Bến đò, gió thổi áo
choàng lông.
Bạn bè uống tiễn vài ba
chén.
Trời quang, đường rộng
thảnh thơi lòng.
Dừng ngựa ngoái nhìn, gần
trước mặt,
Tràng An chìm giữa đám
mây hồng.
870. Trên đường qua Lạng Sơn
Bốn bề rừng núi một màu
xanh.
Đường dài, trống đã điểm
sang canh.
Áo gấm dưới trăng trông
lấp lánh.
Ngựa quí xông pha, rẽ lá
cành.
Vẫn tự nhắc mình không
ngại khổ,
Không quản đường xa, miễn
việc thành.
Thầm mừng thấy trúc bên
bờ suối
Như báo cho ta điềm tốt
lành.
871. Qua Liễu Châu nhớ Liễu Tông Nguyên 1)
Đường qua Ngũ Lĩnh 2) uốn quanh quanh.
Bỗng buồn man mác, núi
xanh xanh.
Cây sậy bên khe sương lấp
lánh.
Mé rừng quả quýt nắng
long lanh.
Đường tới Hà Đông 3) xa tít tắp.
Trên lầu đứt ruột, thức
năm canh.
Liễu Tông Nguyên chết,
đời buồn hẳn.
Thành hoang, mây nước vẫn
nguyên lành.
(1) Tªn mét ch©u ë tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc. Tªn nµy cã tõ
®êi §ưêng, ®ưîc gäi theo tªn cña
v¨n hµo LiÔu T«ng Nguyªn sau khi «ng bÞ ®µy tíi ®©y.
(2) Tªn n¨m ngän nói ë ®©y.
(3)
Quª hư¬ng
LiÔu T«ng Nguyªn, tØnh S¬n T©y, Trung Quèc.
872. Đi thuyền trên đất Tư Minh
Ngẫu nhiên có việc, ghé
Tư Minh.
Thuyền lướt trên sông,
thật gợi tình.
Nước trắng một dòng như
giải lụa.
Như chiếc trâm cài vệt
núi xanh.
Mây nhởn nhơ bay theo
cánh nhạn.
Gió đưa tiếng vượn hót
bên ghềnh.
Làm trai nghĩa lớn đi đây
đó,
Vẫy vùng cho thỏa chí
bình sinh.
873. Nghỉ đêm ở trạm Pha Lũy
Hết núi rồi sông, ngày
lại ngày.
Người ngựa dừng chân nghỉ
lại đây.
Tiếng suối rì rầm xen
giấc ngủ.
Ngoài thềm trăng chiếu, lạnh
hàng cây.
Lòng trung với nước xin
trời biết.
Không dám kêu ca lạnh xứ
này.
Giấc mộng quẩn quanh về
cố quốc.
Đến tự nơi nào cơn gió
tây?
GIÁP HẢI
Sinh năm 1507, mất 1581, còn gọi là Giáp Trừng, hiệu Tiết
Trai, tự Tiêm Phu, người xã Định Kế huyện Phượng Nhân nay thuộc huyện Lạng
Giang tỉnh Hà Bắc. Năm 32 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh
(trạng nguyên). Từng đi sứ Trung Quốc, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại kiêm
Đông các đại học sĩ. Ông là bạn thân của Nguyễn Bỉnh Khiêm, và là một danh sĩ
có tài hết lòng phù giúp cho cơ đồ nhà Mạc. Tác phẩm có "Cổ kim ứng đáp
bang giao tập" và khoảng vài chục bài thơ chữ Hán.
874. Thăm Lam Sơn 1) ngẫu
hứng làm thơ
Bài một
Đi đến Lam Sơn, kiệu với
thuyền.
Thành quách một bên, làng
một bên.
Gặp phường dệt vải đang
tìm việc.
Thấy hồ xanh biếc mọc đầy
sen.
Cổ kính đất trời, cây hạc
đậu.
Ngày dài tháng rộng,
phượng bay lên.
Nhìn tấm bia mòn, buồn,
tưởng nhớ
Công đức bình Ngô bậc
thánh hiền.
(1)
Quª hư¬ng Lª
Lîi, Thanh Hãa.
875. Thăm Lam Sơn, ngẫu hứng làm thơ
Bài hai
Trở lại thăm quê bậc đế
vương.
Người Kinh ở lẫn với Mán
Mường.
Miếu cũ oanh kêu, chim
nhạn lượn.
Rừng già cây cỏ nức mùi
hương.
Sông bồi, núi lở luôn
thay đổi,
Đất trời sống mãi với quê
hương.
Tìm mãi cảnh xưa mà chẳng
thấy,
Chỉ thấy bông mai nở cạnh
đường.
876. Họa vần đáp lại Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài một
Giúp vua mưu lược bấy lâu
nay,
Như các anh hào Hán trước
đây.
Vốn chẳng tham danh cùng
phú quý,
Thích cảnh thiên nhiên
với cỏ cây.
Thơ xuân bút họa nằm trên
án.
Đàn ngọc đêm trăng, chén
rượu đầy.
Vời vợi công lao như núi
lớn,
Làm gương thiên hạ mãi
sau này.
877. Họa vần đáp lại Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài hai
Vẹn cả ba đường: đức,
tuổi, công. 1)
Cúi xuống, nhìn lên chẳng
thẹn lòng.
Chí khí oai phong xua kẻ
ác.
Văn thơ tài rộng tựa dòng
sông.
Sôi kinh nấu sử, thơ hàng
tập.
Nhà tre thanh đạm, nguyệt
bên song.
Đại lã, Hoàng chung vang
vọng mãi, 2)
Muôn thuở lưu danh đức
với công.
(1) Theo M¹nh Tö, ba ®iÒu ®¸ng quý nhÊt lµ ®øc ®é, tuæi t¸c
vµ c«ng lao.
(2)
§¹i l·, tªn mét nh¹c luËt ®êi cæ. Hoµng chung - luËt thø nhÊt trong 12 nh¹c
luËt cæ, thanh ®iÖu oai phong, hïng tr¸ng.
878. Qua Lam Sơn, ngẫu hứng làm thơ
Leo núi Lam Sơn, tay gạt
mây.
Thu trong tầm mắt cảnh
miền tây.
Phía trước lâu đài như
phượng múa.
Sông hồ bên phải tựa rồng
bay.
Bốn mùa xuân sắc, mưa
xanh liễu.
Phảng phất hương sen suốt
cả ngày.
Ngẫm việc ngày qua thi
hứng gợi,
Bần thần ngắm cảnh, tựa
thân cây.
VŨ CẨN
Sinh năm 1522, mất năm nào không rõ, tự Đôn Phu, người
làng Lương Xá, huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh. Ông là em trạng nguyên Vũ Kính,
đỗ tiến sĩ năm 1556 triều Mạc Phúc Nguyên. Từng đi sứ Trung Quốc, sau về được
phong chức Thượng thư, tước Xuân Giang hầu. Tác phẩm có "Tinh thiều kỷ
hoành" và 100 bài thơ trong "Toàn Việt thi lục".
879. Trạm Pha Lũy
Sắp qua Pha Lũy, ngựa phi
nhanh.
Để lại dấu chân các cổng
thành.
Suối chảy hai dòng, vang
tiếng ngọc.
Vạn trùng núi biếc một
màu xanh.
Sáng gà gáy giục đoàn đi
tiếp.
Chưa gặp người xe, chim
lượn quanh.
Mừng thấy đường thông,
mong trở lại,
Mang được tin vui, việc
tốt lành.
880. Trạm Minh Giang
Tư Minh, thị trấn ở Bắc
Yên.
Ra đi, tính đã mấy ngày
liền.
Uốn khúc, dòng sông như
dát bạc.
Non cao, núi đẹp tựa thần
tiên.
Dân cư trù phú, nhà đông
đúc.
Tấp nập người xe khắp mọi
miền.
Mới ngủ một đêm nơi quán
khách,
Sáng mai vội vã lại lên
thuyền.
881. Trạm Đà Sài
Khi tới đây, mặt
trời đang chiếu sáng, gió nhẹ thổi từ phía Tây Bắc, bỗng nghe tiếng nước chảy
từ xa vẳng tới, bèn ngẫu hứng làm bài thơ này.
Đi qua Đà Phác, đến Đà
Sài.
Sương mù dày đặc buổi ban
mai.
Ánh nắng mùa đông vàng,
yếu ớt.
Gió mùa Tây Bắc lạnh lòng
ai.
Vòng quanh, suối chảy
xuôi về núi,
Như đàn thanh thót vẳng
bên tai
Làm khách đường xa thơ
chợt hứng,
Rót rượu bâng khuâng đứng
thở dài.
882. Trạm Phủ Môn ở Tầm Dương
Phủ Môn, trạm nhỏ ở Tầm
Dương.
Bốn phía bao quanh những
lớp tường.
Dưới sông chèo gỗ khua
nhè nhẹ,
Trong làng mờ ảo bóng
hàng dương.
Chợ sớm đông người, nhiều
gấm vóc.
Xe ngựa chen nhau những
nẻo đường.
Để lại đời sau gương
thánh đạo,
Còn lưu bia đá miếu Quân
Tường.
883. Chùa Phi Lai
Trên
đỉnh núi có chùa Sư Tử đá, bên phải chùa có suối Định Tâm, đá tạc thành miệng
rồng đang phun nước. Đình Âp Tuyền có biển đề thơ Tô Đông Pha. Nhiều khách sứ
thần Nam Bắc cũng đề thơ ở vách núi này.
Chùa cổ Phi Lai thật tĩnh
yên.
Bụi trần không vướng, lạ
mà quen.
Núi đỏ, nước xanh nơi
thượng giới.
Rêu xám, sơn son chốn cửa
thiền.
Lặng lẽ con rồng phun
nước lạnh.
Quanh chùa đá tựa hổ chồm
lên.
Bên tên Tô Thức đề trên
vách,
Nhiều người qua lại cũng
đề tên.
884. Trạm Hoàng Thạch Ky
Buổi sáng lên thuyền đi
dọc sông.
Vạt áo khách xa gió thổi
phồng.
Nước cạn và trong, không
thấy cá.
Núi cao vắng nhạn, trời
xanh trong.
Phía hang Dương Cốc 1) bình minh mọc.
Bên núi Thái Hàng 2) mây bập bồng.
Tấm lòng tận tụy trời soi
xét.
Mong ngày trở lại, việc
thành công.
(1) Theo thÇn tho¹i Trung Quèc, phư¬ng §«ng cã hang Dư¬ng
Cèc lµ n¬i mÆt trêi mäc.
(2)
§Þch Nh©n KiÖt ®êi nhµ §ưêng ®i
lµm quan phư¬ng xa, tr«ng lµn m©y tr¾ng trªn nói Th¸i Hµng, ch¹nh
lßng nhí cha mÑ mµ buét miÖng than r»ng: "Song th©n cña ta ë dưíi ®¸m m©y kia!"
885. Qua Lĩnh Trung, cảm tác
Trạm có biển đề
"Dũ Lĩnh phân xuân", nghĩa là núi Dũ Lĩnh chia mùa xuân thành hai.
Dọc đường đi có nhiều thông, trước Mai Quan có chùa Quải Giác và đình Tức Kiên.
Nơi núi chia xuân là Lĩnh
Trung. 1)
Từ xưa đã thuộc phủ Nam
Hùng.
Mai Quan dấu ngựa in trên
tuyết.
Lối nhỏ nắng xiên rợp
bóng tùng.
Tức Kiên đình cổ hây hây
gió.
Quải Giác chùa cao mây
trập trùng.
Ngoái trông đất Việt xa
nghìn dặm,
Chỉ thấy bâng khuâng một
áng hồng.
(1)
Mét trong nh÷ng d·y nói ë Dò LÜnh, n»m ë ranh giíi Qu¶ng §«ng vµ Qu¶ng T©y, cã
rõng mai nªn cßn gäi lµ Mai LÜnh. PhÝa B¾c khÝ hËu l¹nh mai në muén. PhÝa Nam
trêi Êm, mai në sím h¬n, v× vËy ®ưîc gäi lµ nói chia xu©n.
886. Trạm Tiểu Khê
Nhìn xuống bờ khe rợp
bóng cây,
Cả thành Bách Tính chìm
trong mây.
Bướm hồng, rêu xám, nhà
đông đúc.
Chim oanh hót giữa tán
cây dày.
Dưới sông nước lặng,
thuyền san sát.
Ùn ùn mây kéo phía trời
tây.
Xe vừa tới trạm nhưng nhỡ
chuyến,
Đành ở lại đây thêm nửa
ngày.
887. Trạm Kim Xuyên
Bờ
sông bên hữu đối diện với trạm là thành Tân Kim. Mé đông thành có nhà đọc sách
của Đào Khản với tấm bia đá còn lưu lại.
Đường từ Ngọc Giáp đến
Kim Xuyên,
Xuân về, cảnh đẹp tựa
thần tiên.
Biển đồng còn đó nhà quan
huyện,
Tấn thư bia đá vẫn lưu
truyền.
Sáo chài văng vẳng đêm
trăng sáng.
Vạn dặm sông xuân nhẹ
lướt thuyền.
Mong được bình an, xong
việc lớn,
Trở về, dân chúng sống
bình yên.
888. Trạm Triết Giang
Từ Hội Giang thuyền đi
Triết Giang.
Ruộng xanh tít tắp, nước
mênh mang.
Buồm căng, gió thổi
thuyền trôi nhẹ.
Bên ngoài, triều lớn sóng
âm vang.
Trên núi chuông chùa lay
bóng nguyệt.
Dưới sông phơi lưới, nắng
ươm vàng..
Buông chèo, nhìn phía
Hàng Châu phố.
Hoa sen mười dặm thoảng
mùi hương.
889. Trạm Cô Tô
Phía tây có chùa
Hàn Sơn, phía nam có hồ Thái Hồ thuộc đất Đông Ngô xưa.
Hùng vĩ núi
đồi đứng nhấp nhô..
Ba sông vững mạnh dựng cơ
đồ.
Lan can khảm ngọc, cầu
như vẽ.
Gác phượng lầu son đẹp
đất Ngô.
Nửa đêm chuông ngọc Hàn
Sơn điểm 1)
Quyện với trăng khuya
nước Thái Hồ.
Danh thắng Bắc Yên về mọi
mặt,
Đầu tiên phải kể đến Cô Tô.
(1)
ChØ thư viÖn
cña bÒ t«i nhµ TÊn.
NGUYỄN THỨC
Sinh năm 1555, mất 1637, hiệu Tiết Trai, tự Phác Phù,
người làng Vân Điềm, nay thuộc Đông Anh, Hà Nội. Ông thi đỗ đình nguyên năm
1595, giữ chức Đô cấp sự Hộ khoa, rồi Hồng lô tự khanh. Năm 1606 làm chánh sứ
thứ hai sang Trung quốc. Lúc về được thăng Tả thị lang bộ Lễ, tước Phượng lan
hầu. Năm 1617 làm thượng thư bộ Hình kiêm Hàn lâm thị độc. Năm 1367 được tôn
làm Quốc lão tham dự triều chính. Theo Phan Huy Chú, ông là người tiết độ,
trong sạch, xứng đáng danh thần. Tác
phẩm có 17 bài trong "Toàn Việt thi lục".
890. Ngắm cảnh chiều giữa sông
Thuyền qua bến Tứ, 1) cảnh thần tiên.
Trời nước xanh trong một
giải liền.
Chim xếp thành hàng bay
lặng lẽ.
Phao chài trên sóng, nước
bình yên.
Nguyên Long 2) chí lớn như sông biển,
Tư Mã 3) chu du khắp mọi miền.
Sắp đến kinh thành, nghe
tiếng hát,
Khách nghe xao xuyến,
phải dừng thuyền.
(1) Tªn mét bÕn ë s«ng Tø Hµ, ch¶y qua lµng Khóc Phô, quª
cña Khæng Tö.
(2) Tªn hiÖu cña TrÇn §¨ng thêi §«ng H¸n, mét ngưêi cã chÝ khÝ lín.
(3)
Tøc Tư M·
Thiªn, sö gia næi tiÕng thêi H¸n, vèn chu du rÊt nhiÒu ®Ó quan s¸t vµ thu thËp
tµi liÖu viÕt sö.
NGUYỄN DANH THẾ
Sinh 1572, mất 1645, người làng Xuân Hội huyện Chương
Đức, nay thuộc tỉnh Hà Tây, thi đỗ tiến sĩ năm 1595, lúc mới 24 tuổi. Nhà Mạc
mời mấy lần nhưng ông không chịu ra làm quan. Sau làm Hiến sát sứ Sơn Tây cho
Trịnh Tùng, rồi được thăng làm Đô cấp sự trung trong phủ chúa. Năm 1606 đi sứ
Trung Quốc, về được thăng Hữu thị lang bộ Lại, rồi Thượng thư bộ Công và cuối
cùng là Đường quận công. Tác phẩm còn 4 bài trong "Toàn Việt thi
lục".
891. Tự thuật lúc
lên đường đi sứ phương Bắc,
họa
vần thơ của chánh sử Nguyễn Phác Phủ
Đời thịnh, thi tài đậu
đại khoa,
Lại được vua cho đi sứ
xa.
Cưỡi ngựa đường Chu,
phong cảnh đẹp.
Dong thuyền sông Hán,
nước lồng hoa.
Ngựa béo, người no, lòng
phấn chấn.
Gắng sức cùng lo việc
nước nhà.
Chữ hiếu, chữ trung mong
giữ trọn,
Nhọc nhằn, nguy hiểm
chẳng kêu ca.
NGUYỄN ĐĂNG
Sinh 1576, mất 1657, người làng Đại Toán (làng Tỏi), nay
thuộc huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Năm 26 tuổi đã đỗ đầu chế khoa, nổi tiếng học
vấn sâu rộng, thơ văn được người đương thời truyền tay nhau chép lại. Năm 1613
được cử làm chánh sứ thứ hai sang Trung Quốc, làm nhiều thơ được các quan Trung
Quốc và Triều Tiên rất khen ngợi. Về nước, ông được phong làm Tả thị lang bộ
Hộ, mấy năm sau về hưu, mở lớp dạy học tại làng. Học trò ông có nhiều người
hiển đạt. Tác phẩm lưu được gồm
một bài phú và bốn bài thơ. Hiện còn ngôi đền thờ ông ở quê nhà và được xếp
hạng di tích lịch sử.
892. Hoạ bài thơ
"Trông trúc trước cửa sổ"
của
Lý Đẩu Phong, sứ thần nước Triều Tiên
Thoát tục, nhẹ nhàng, dạn
gió sương,
Khoáng đạt, thanh cao,
thật khác thường.
Gió thổi xạc xào như
tiếng ngọc.
Trăng vàng dát lá, hứng
văn chương.
Cành cao phượng đậu, cành
thêm đẹp.
Măng mọc như rồng, trăng
dễ thương.
Đức hạnh, cao sang và
quân tử,
Hàng trúc xanh xanh đứng
vệ đường.
PHẠM CÔNG TRỨ
Sinh năm 1600, mất 1675, người xã
Liêu Xuyên, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Mỹ Vân, tỉnh Hải Dương. Đậu tiến
sĩ năm 27 tuổi, được bổ làm quan tham tán trấn Sơn Nam, rồi thăng dần lên chức
Tể Tướng cai quản sáu bộ. Ông là người sâu sắc, trầm tính, giản dị, có tài
chính sự, uyên bác văn sử địa. Tác phẩm
có "Đại Việt sử ký bản kỳ tục biên", nhiều văn bia. Hiện còn 17 bài
thơ trong tập 'Toàn Việt thi lục".
893. Nhớ Chương Dương xưa 1)
Cờ bay phấp phới, nước
bao la.
Từ thuyền, mở cửa hé nhìn
ra.
Cồn bãi 2) còn đây, nghìn năm trước.
Lẫy lừng chiến trận hóa
bài ca.
Cảm khách, lên người cây
hắt bóng.
Đền 3) đứng trầm ngâm giữa nắng tà.
Chuyến này nhất quyết trừ
gian tặc,
Thu lại Ô Châu, giúp nước
nhà.
(1) Bµi nµy viÕt khi t¸c gi¶ hé gi¸ Chóa TrÞnh vµo ThuËn Hãa
(¤ Ch©u), ®¸nh NguyÔn Phóc Lan. Chư¬ng Dư¬ng lµ bÕn ®ß cæ ë h÷u ng¹n s«ng Hång (nay thuéc huyÖn
Thưêng TÝn, Hµ T©y)
(2) Tøc lµ b·i Tù Nhiªn næi gi÷a s«ng n¬i qu©n ViÖt ®· chiÕn
th¾ng qu©n Nam H¸n vµ qu©n Nguyªn.
(3)
§Òn thê Chö §ång Tö vµ Tiªn Dung ë b·i Tù Nhiªn.
NGUYỄN DANH NHO
Sinh năm 1638, mất 1699, hiệu Sần Hiên, người xã Nghĩa
Phú, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Năm 33 tuổi đậu
Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, đời Lê Huyền Tông. Từng được cử đi sứ Trung
Quốc, làm quan đến chức Bồi tụng hữu thị lang, tước Nam. Tác phẩm hiện còn 12 bài chép
trong "Toàn Việt thi lục".
894. Cảm tác cuối xuân
Ba tháng mùa xuân, tháng
thứ ba
Thời tiết ấm hơn, hợp
tuổi già.
Mưa tạnh, núi rừng khoe
sắc đẹp.
Sông không gợn sóng, nước
hiền hòa.
Buổi trưa tựa cửa nghe
chim hót.
Chiều xế ra vườn nhặt xác
hoa.
Không cần tranh luận,
không thương tiếc.
Đời là sống gửi, cứ cho qua.
895. Lầu Hoàng Hạc
Hoàng Hạc lầu xưa ai đã
xây?
Như nơi tiên giới, vượt
tầng mây,
Soi bóng xuống sông,
kình, sấu sợ,
Chim trời thường đến nghỉ
nơi đây.
Đình Táo 1) có vần thơ Bạch Tuyết, 2)
La Phù 3) hương khói lẫn hương cây.
Người xưa cưỡi hạc về đâu
nhỉ, 4)
Để khách trầm ngâm đứng
chốn này?
(1) C¹nh lÇu Hoµng H¹c cã c©y t¸o, bªn c¹nh lµ ng«i ®×nh,
gäi lµ §×nh T¸o.
(2) Tªn mét khóc h¸t ®êi xưa rÊt
hay. Nh÷ng bµi th¬ hay thưêng ®ưîc vÝ như B¹ch TuyÕt.
(3) Tªn d·y nói ®Ñp ë Qu¶ng §«ng, tư¬ng truyÒn C¸t Hång nhµ §«ng TÊn tu luyÖn ®¾c ®¹o ë ®©y,
ý ca ngîi lÇu Hoµng H¹c ®Ñp như c¶nh tiªn.
(4)
PhÝ V¨n Phi häc ®ưîc phÐp
tiªn, cưìi h¹c
vµng ®Õn ®Ëu ë Vò Xư¬ng.
N¬i «ng dõng ch¬i sau nµy ®ưîc x©y lÇu Hoµng H¹c ®Ó kû niÖm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét