Truyện Ngắn
NGƯỜI
BÁN TUỔI
-
Chú mày không còn gì nữa thật à?
-
Vâng. Đúng thế, - hắn đáp.
-
Vậy sao còn đến hiệu cầm đồ?
Hắn
lúng túng đứng im vì chẳng biết nói gì.
Hắn
còn trẻ, trẻ lắm, chính xác là hai mươi tuổi. Mới cách đây một tuần hắn kỷ niệm
cái tuổi ấy ở quán nước cùng vài thằng bạn như hắn, bằng nước chè chén và kẹo
lạc. Chỉ thế thôi vì lúc ấy trong túi không đứa nào có tiền.
Hắn
là sinh viên năm thứ ba một trường đại học "con ông cháu cha" ở Hà
Nội, mặc dù ông bà cha mẹ hắn bao đời nay chỉ là nông dân nghèo, lại ở tỉnh xa.
Hắn vào được trường này đơn giản vì học giỏi, vào thẳng, nhờ trước đó đoạt giải
cao trong một lần thi toán quốc tế và ba lần giải nhất nhì trong nước. Hắn khá
đẹp trai, lại thông minh và có dáng rất trí thức. Cả con người hắn toát lên
điều đó, ai thoạt nhìn cũng nhận thấy ngay. Đôi mắt hắn thật sáng và luôn hấp
háy sau cặp kính trắng hình ô-van gọng mạ kền hợp mốt mà không hiểu hắn đeo vì
cận thật hay chỉ để tôn thêm cho khuôn mặt vốn đã rất ưa nhìn của mình. Hắn có
thói quen chốc chốc đưa ngón tay trỏ nâng cặp kính trên chiếc mũi thon thẳng,
dù chẳng mấy khi nó tụt xuống. Da hắn trắng và mịn. Đôi môi chúm chím, mọng và
hồng hồng như môi con gái. Dáng điệu và cách nói năng, cư xử của hắn cũng lịch
sự. Tóm lại, cả phần trong lẫn phần ngoài, hắn là một người gần như hoàn thiện.
Hắn luôn ý thức điều ấy, kể cả việc rất nhiều cô gái để ý đến hắn.
Chỉ
tội mỗi cái là hắn nghèo. Sinh viên tỉnh lẻ ai chẳng nghèo? Hẳn thế. Nhưng với
người khác thì đó là "khó khăn tài chính", còn với hắn thì vấn đề
nghiêm trọng hơn nhiều. Hắn muốn có cuộc sống vật chất (tức sinh hoạt, chi tiêu
và nhất là giao du với bạn bè) tương xứng với một người thông minh, đẹp trai và
lịch lãm như hắn. Hắn tiếc chứ không oán giận bố mẹ. Hắn biết thân phận mình
nên không bao giờ chủ động viết thư xin tiền. Có thì các cụ cho, không thì tự
lo lấy. Hắn nghĩ thế và đã tìm mọi cách để có tiền. Toàn những cách lương thiện
và sạch sẽ - làm gia sư, viết hộ luận án cho người khác, học giỏi để được nhận
học bổng và tham gia các đề tài nghiên cứu, các chương trình, dự án. Nhưng để
có được cách sống như hắn mong muốn thì các khoản thu nhập ấy không đủ, dù hắn
đã rất cố.
Là
người tự trọng, hắn không mua chịu cái gì và cũng không hỏi vay tiền ai, kể cả
bạn bè thân thiết. Mà đã tự trọng thì dễ thành sĩ diện. Thế là hắn tìm đến hiệu
cầm đồ với cảm giác xấu hổ và chua xót. Đầu tiên hắn cầm chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ
chính hiệu được tặng lần đi thi ở nước ngoài, để có tiền mua quà sinh nhật cho
một cô bạn gái con nhà giàu yêu hắn và cũng được hắn yêu lại. Tiếp đến là chiếc
nhẫn vàng hai chỉ do một bà cô nghèo ở Sài Gòn đã khóc vì mừng và tự hào đưa
cho hắn khi được vào thẳng đại học. Có thể dễ dàng đem bán những thứ ấy nhưng
hắn không làm thế vì không muốn chia tay với những vật kỷ niệm có ý nghĩa. Hắn
từng đem cầm và chuộc lại chúng mấy lần, cho đến khi chẳng kiếm đâu ra tiền để
chuộc. Cách đây ba tháng hắn phải đem cái duy nhất còn lại có thể mang tới hiệu
cầm đồ này là chiếc xe máy không tốt lắm nhưng cũng chẳng đến nỗi cà tàng, để
có tiền hoàn thành dự án do một công ty tư nhân thuê hắn và hai đứa bạn khác
làm nhưng không được ứng trước đồng nào. Hắn tin làm xong sẽ có tiền không chỉ đủ
chuộc lại xe mà cả những thứ khác. Nhưng cái công ty ấy vỡ nợ, do vậy đẩy hắn
vào thế tuyệt vọng.
Chẳng
hiểu vì sao hôm nay hắn đến đây, một khi không có tiền để chuộc lại cái đã cầm.
Hắn lờ mờ nghĩ số tiền hắn vay chỉ già nửa giá trị chiếc xe, biết đâu lão chủ
hiệu cầm đồ thương tình đưa thêm chút ít nữa chăng. Tuy nhiên hắn không muốn
hỏi xin điều ấy, vì hắn biết rõ tính lão và mức lãi lão bắt hắn trả. Thành ra
hắn cứ nấn ná nửa muốn ở lại, nửa muốn về ngay để khỏi phải nhìn con người hắn
đang căm ghét.
-
Vậy là quả thật cậu không còn gì nữa? - lão hỏi lại cái câu vừa hỏi lúc nãy.
-
Thì tôi đã nói là không rồi! Ông điếc à? - Tự nhiên hắn nổi cáu. Từ trước tới
nay hắn luôn lịch sự "bác cháu" với lão, nhưng giờ thì hắn chuyển
sang "ông tôi".
Lão
giả vờ không nhận thấy thái độ ấy của hắn, vẫn nhỏ nhẹ:
-
Tôi thấy hình như cậu vẫn còn cái để cầm hoặc bán cho tôi đấy. Quý và đắt tiền
nữa là khác...
-
Ông ỡm ờ, lảm nhảm gì thế? - Hắn vẫn chưa hết cáu. - Tôi mà không biết mình
đang có gì sao? Hay ông biết, ông nói thử tôi nghe. Tôi đang cần tiền.
-
Rất cần?
-
Vâng, rất cần.
-
Cần ngay bây giờ?
-
Cần ngay bây giờ.
Lão
già chủ hiệu cầm đồ húng hắng ho. Từ nãy đến giờ lão ngồi sau chiếc quầy gỗ cáu
bẩn, trên chiếc ghế tròn cao bằng sắt có thể xoay đi xoay lại như ở quầy bar,
còn hắn thì đứng cạnh. Lão thong thả bước xuống, pha ấm trà mới rồi mời hắn
ngồi xuống bộ xa-lông cũng già nua và nhăn nheo như lão.
-
Mời cậu uống nước và hút thuốc, - lão nói, tay chìa bao ba số.
Đây
là lần đầu lão đối xử tử tế với hắn. Hắn thầm ngạc nhiên nhưng chỉ lặng lẽ chờ
xem lão định giở trò gì.
-
Xin được nhắc lại: Cậu không biết cậu còn một cái rất quý mà tôi đang cần. Nếu
cậu muốn, ta có thể thương lượng...
-
Cái gì? - hắn tò mò hỏi.
-
Thì cậu hãy uống nước, hút thuốc đi đã. Việc này quan trọng, không vội được, -
lão nói, nhìn thẳng vào mắt hắn, một cái nhìn sắc lạnh và đáng sợ, đến mức
không chịu nổi, hắn phải cúi mặt. - Thế này nhé, - lão lên tiếng sau hồi lâu
hai người im lặng, - cậu đang có cái quý nhất của con người, đó là tuổi trẻ.
Cậu có thể đem nó cầm ở cửa hàng tôi, hay tốt nhất là bán hẳn cho tôi, được
không?...
-
Ông nói gì cơ? Tuổi trẻ? Bán tuổi trẻ của tôi cho ông? - hắn thốt lên, lúc đầu
ngạc nhiên, sau phì cười: - Ông điên à?
-
Chính xác năm nay cậu bao nhiêu tuổi nhỉ? - lão hỏi như không nghe hắn vừa nói
gì.
-
Hai mươi.
-
Cái tuổi thật đẹp mà tôi rất muốn có, dù phải trả giá đắt. Cậu đồng ý bán nó
cho tôi chứ?
"Lão
già này điên thật rồi, - hắn thầm nghĩ. - Lão nói lảm nhảm gì vậy không
biết".
-
Cứ cho là tôi muốn bán đi, nhưng ông cần nó làm gì, và... việc mua bán này thực
hiện như thế nào? Đây không phải chiếc xe máy hay một đồ vật cụ thể. Ông hiểu ý
tôi chứ?
-
Hiểu, rất hiểu, - lão già gật đầu. - Tôi sẽ cho anh biết sau. Biết về các điều
kiện mua bán ấy mà. Bây giờ chỉ cần anh nói anh có đồng ý không đã.
"Hay
lão ta là phù thuỷ?" hắn tự hỏi rồi mỉm cười, buột miệng thành tiếng:
-
Ông nói cứ như ông là phù thủy không bằng.
-
Nếu muốn, anh có thể coi tôi là phù thủy cũng được. Không sai nhiều lắm đâu, -
lão thản nhiên đáp.
Hắn
bắt đầu thấy câu chuyện trở nên thú vị, dù chẳng tin chút nào những điều lão
nói. Với hai chữ "phù thủy" lởn vởn trong đầu, hắn đưa mắt nhìn lão
một lượt từ đầu đến chân và thấy lão cũng hơi hơi giống phù thủy thật.
Người
lão bé choắt, khuôn mặt gầy, đen xỉn lại đầy những nếp nhăn sâu, đặc biệt trên
trán và hai bên khóe mắt. Nhìn lão, cái đập vào mắt trước tiên và dễ nhận thấy
nhất là một nốt ruồi to, hồng hồng như hạt đậu đỏ với mấy sợi lông không hiểu
sao lão không cắt mà cứ để mọc dài, trông rất khó chịu. Chiếc mũi lão nhọn, kéo
xuống gần miệng nhưng không khoặm. Trên mũi là chiếc kính trắng mắt tròn và nhỏ
như kính thầy bói. Các ngón tay lão dài, chỉ còn da bọc xương nhưng khá sạch và
không có móng nhọn như phù thủy. Còn đôi môi lão thì đúng là môi phù thuỷ -
mỏng, nhỏ, bên ngoài xám ngoét nhưng càng sâu vào trong càng đỏ, đỏ như máu. Cả
đôi mắt và giọng nói cũng đúng của phù thủy. Ở chúng có cái gì đấy độc ác và
đáng sợ.
Hắn
thầm ngạc nhiên sao mãi bây giờ mới nhận thấy những điều này ở lão. Cũng có thể
do bị ám ảnh nên hắn mới thấy thế chăng? Hắn đảo mắt nhìn qua căn nhà. Đúng là
hang phù thủy. Nó ở trong một con hẻm sâu hun hút. Một phần bên ngoài lão dùng
làm cửa hiệu, hay đúng hơn là nơi giao dịch của cửa hiệu; các bức tường cáu bẩn
đến mức không thể nhận ra nó từng được quét bằng loại vôi ve gì, trên đó có
treo một cặp sừng nai cong queo, một con đồi mồi, một chiếc mặt nạ màu đen bằng
gỗ với đôi nanh trắng hếu, một con chồn nhồi đang bám vào tường và... một giấy
chứng nhận gia đình văn hóa mới được lồng trong khung kính. Hắn bĩu môi khi
thấy cái vật quá ư đời thường, lạc lõng này. Tất cả đều bị phủ một lớp bụi dày
đen xỉn. Hắn chưa bao giờ vào phòng trong, nhưng đoán biết nó rất dài, không có
chút ánh sáng nào lọt vào, là nơi cất giữ những thứ người ta đem đến cầm cố, và
chắc chắn phải có đủ dụng cụ hành nghề của một lão phù thủy. Hình như lão sống
một mình. Ít ra xưa nay hắn chưa hề gặp ai khác ở đây, ngoài khách hàng của
lão.
-
Thời này không còn phù thủy nữa, tất nhiên,- hắn nhận xét. - Nhưng thực tình
tôi thấy ông chẳng khác phù thủy mấy.
-
Thì tôi chính là phù thủy thật mà. Tôi biết anh không tin, nhưng quả đúng thế.
-
Tôi không ngờ ông là người thích đùa. Đã vậy, tôi cũng xin đùa theo. Tôi đồng ý
bán tuổi trẻ của tôi cho ông. Xin cho biết cách thức và giá cả cụ thể!
-
Nhưng đây không phải chuyện đùa. Chuyện nghiêm túc đấy.
-
Ừ, thì nghiêm túc. Ông nói đi.
Lão
già im lặng một lúc như suy ngẫm điều gì.
-
Được, vậy là anh năm nay hai mươi tuổi. Anh có thể nhượng lại cho tôi số tuổi
này dưới dạng cầm đồ... trong trường hợp này là cầm tuổi, lúc nào có tiền anh
chuộc lại. Nhưng tôi muốn và cũng khuyên anh nên bán đứt cho tôi thì được lợi
hơn nhiều, lại đỡ rắc rối sau này...
-
Tôi đồng ý theo cách thứ hai. Rồi sao nữa?
-
Tốt lắm. Bây giờ ta bàn giá cả. Đây là mặt hàng ít mua bán nên không có giá
chung. Tôi định trả cho anh mỗi năm tuổi mười triệu đồng, anh thấy thế nào?
-
Mười triệu một năm tuổi! - hắn khẽ thốt lên, không hiểu vì nghĩ như thế là quá
đắt hay quá rẻ. - Vâng, cứ cho là tôi chấp nhận giá ấy. Tiếp theo là gì?
-
Là coi như vụ mua bán này xong xuôi. Hai người sẽ kí hợp đồng. Anh giao hàng,
tôi trao tiền. Thế thôi. Như các vụ mua bán bình thường khác ấy mà.
-
Giao hàng, nhận tiền? - hắn lại ngạc nhiên và mỉa mai hỏi tiếp: - Thế cái bản
hợp đồng ấy có phải đem ra ủy ban phường hoặc phòng công chứng xác nhận không?
-
Kể làm được thế thì tốt hơn, nhưng mà thôi, không cần. Tôi là người tử tế và hi
vọng anh cũng vậy. Vả lại phù thủy chúng tôi có luật riêng của mình, - lão nói
một cách rất nghiêm túc.
Bỗng
nhiên hắn ngồi thừ người, im lặng hồi lâu. Hắn vẫn nghĩ lão già chỉ đùa, nhưng
hắn không thích kiểu đùa này, nhất là với một người như lão. Cuối cùng hắn hỏi:
-
Chuyện gì sẽ xảy ra với tôi sau khi bán tuổi cho ông?
-
Sao một người thông minh như anh còn phải hỏi tôi điều ấy? - Lão cười to thành
tiếng. - Cái người ta đã bán tất nhiên sẽ không còn thuộc về mình nữa. Anh bán
hai mươi năm tuổi trẻ của anh cho tôi thì nghĩa là anh sẽ mất đi hai mươi năm
tuổi trẻ ấy. Anh vẫn chưa hiểu à? Nôm na là ngay sau khi nhận tiền, anh trở
thành người bốn mươi tuổi chứ không phải hai mươi như bây giờ. Tuy nhiên, để
tránh đột ngột và không gây bất tiện cho anh trong cuộc sống, tôi và anh nên
thỏa thuận mua bán từ từ thôi, một tháng một tuổi chẳng hạn. Anh sẽ không bị
già đi quá nhanh, lại không phải có quá nhiều tiền một lúc, là điều mang tai
họa chứ chẳng phải ích lợi.
-
Được, cứ cho là thế, nhưng ông sẽ làm gì với tuổi trẻ của tôi sau khi mua nó?
-
Lại một câu hỏi ngốc nghếch nữa. Để tôi được trẻ thêm hai mươi tuổi chứ còn gì.
- Lão già lại cười, lần này to và có vẻ thích thú.
-
Tôi đoán năm nay ông khoảng sáu mươi lăm. Vậy ông sẽ thành một người đàn ông
bốn mươi lăm tuổi. Sao ông không chọn mua tuổi của ai đấy ba mươi, bốn mươi để
được trẻ hơn?
-
Ồ, cái gì cũng phải có giới hạn, anh bạn trẻ ạ. - Lão lại cười. Bây giờ hắn
thấy tiếng cười của lão thật đáng ghét. - Anh nghĩ xem, từ một ông già lọm khọm
thế này, bỗng dưng tôi thành thằng trai tơ, người ngoài trông vào khó coi lắm.
-
Tôi hỏi ông câu cuối cùng: Vì sao ông chọn mua tuổi của tôi chứ không phải của
người khác?
-
Đơn giản thôi. Vì anh thông minh, khỏe mạnh và quan trọng nhất là chưa nhiễm
những thói xấu không thể tha thứ. Nói anh biết, chứ bọn nghiện ma túy và trộm
cướp, có cho không tôi tuổi trẻ của chúng tôi cũng chẳng thèm. Là người mua,
tôi phải biết chọn hàng. - Lão ngừng nói, tợp một ngụm nước rồi nhìn thẳng vào
mắt hắn: - Vậy là ta nhất trí?
Thay
cho lời đáp mà rõ ràng lão chủ hiệu cầm đồ đang nóng lòng muốn nghe, hắn đứng
dậy, cố tình tỏ vẻ chậm chạp, uể oải để che giấu những ý nghĩ đang rối lên
trong đầu.
-
Thôi, đùa thế đủ rồi. Ông xem tôi như con nít không bằng. Tôi về đây, - hắn
nói.
-
Ấy, gượm đã! - Lão vội chặn hắn lại. - Việc mua bán chẳng ai ép ai, hẳn thế.
Nhưng tôi xin nhắc lại rằng đây là chuyện nghiêm túc. Rất nghiêm túc...
-
Nghiêm túc? - hắn kéo dài giọng một cách mỉa mai. - Ông thử giải thích tôi nghe
cái nghiêm túc ấy của ông xem nào. Làm sao trong thời đại tàu vũ trụ và
Internet hiện nay bỗng chốc tôi già đi hai mươi tuổi chỉ vì câu đùa ngu ngốc
nào đó của một lão già khốn khổ như ông?
-
Thì đã nói rằng tôi là phù thủy...
-
Phù thủy với cái này treo trên tường? - Hắn chỉ tay vào khung kính có tấm bằng
gia đình văn hóa mới.
-
Anh cứ chuyện nọ xọ chuyện kia, - lão già đáp, giọng nhún nhường. Rõ ràng lão
không muốn mất khách. - Cái ấy chẳng liên quan gì đến việc chúng ta đang bàn.
Còn chuyện trẻ ra hay già thêm bằng cách nào thì anh khỏi lo. Đó là việc của
tôi. Chỉ cần anh đồng ý là xong, ta sẽ kí hợp đồng...
-
Như hợp đồng giữa Faust và Mephisto trong vở kịch thơ của ông Goethe người
Đức...
-
Vâng, vâng, đúng thế. Quả tôi chọn người không nhầm. Thời buổi này mà một sinh
viên trẻ tuổi như anh còn có thì giờ tìm đến tác phẩm này thì kể cũng hiếm. Có điều, Faust bán linh hồn
cho Mephisto, còn anh chỉ bán tuổi trẻ của anh mà thôi. Nhân tiện xin được tiết
lộ điều này, một khi anh nhắc đến
Mephisto. Tôi là hậu duệ của một trong những đồ đệ của ông ta đấy...
-
Nghĩa là ông sống trên đời này đã lâu, rất lâu. - hắn ngắt lời lão. - Xin hỏi,
ông đã gạ mua tuổi trẻ của bao nhiêu người rồi?
-
Anh tò mò quá đấy, anh bạn trẻ ạ. Tất nhiên anh không phải người đầu tiên và
chắc cũng chẳng là người cuối cùng, cho đến lúc tôi phải chết vì một lý do ngớ
ngẩn nào đó. Tôi biết trước số phận của mình mà. Nhưng thôi, ta quay lại với vở
kịch Faust kia của ông Goethe. Anh có nhớ dàn đồng ca của bầy phù thủy trong
cảnh Đêm hội quỷ ở miền rừng núi giữa Siec và Elen không, với hai câu kết rất
ấn tượng là Qua đá, qua ghềnh; Phù thủy đánh rắm, dê già thối inh? Các cụ kị
của tôi đấy. Công bằng mà nói, cái ông phó giáo sư, phó tiến sĩ Đức Soạn nào đó
đã dịch Faust ra tiếng Việt cũng thối inh chẳng kém gì mùi rắm tổ tiên chúng
tôi. - Nói đến đây, lão già nhăn mũi như ngửi thấy mùi thối thật. - Mà thôi,
chuyện ấy không quan trọng. Vì như tôi đã nói, đây là việc nghiêm túc, anh có
thể suy nghĩ thêm trước khi trả lời dứt khoát. Tôi chờ anh quyết định. Anh vẫn
cần tiền đấy chứ?
-
Vẫn, - hắn đáp cộc lốc. - Cần để sống cho ra sống và làm việc tốt hơn.
-
Tốt. Xin nhắc lại: Tôi sẵn sàng mua hai mươi tuổi xuân của anh, với giá mười
triệu đồng một tuổi. Mỗi tháng giao hàng, nhận tiền một lần. Lần đầu tôi có thể
ứng luôn cho anh hai chục triệu để anh vừa chuộc lại xe, vừa có tiền tiêu.
Trường hợp cần tiền, nếu anh muốn, trong một tháng tôi có thể mua cho anh hai
tuổi hoặc hơn thế. Hi vọng với số tiền lớn này anh sẽ có điều kiện sinh hoạt và
làm việc tốt hơn như anh nói. Là người thông minh và cần cù, tôi tin anh sẽ
thành tài. Muốn thành tài, ai cũng phải trả giá. Cái giá của anh kể cũng có
đắt, nhưng chưa hẳn đã đắt lắm nếu so với nhiều người khác. Vậy nhé. Tôi chờ
anh...
*
Đang
đói tin giật gân, báo chí Hà Nội bỗng vớ được dịp may hiếm thấy để tăng số
lượng xuất bản. Các báo tranh nhau đưa tin về một hiện tượng "xưa nay chưa
từng thấy" xảy ra ở ngay thủ đô. Vì là tin hiếm nên người ta cố tình kéo
dài, mỗi ngày chỉ hé cho bạn đọc một số thông tin nhất định, hôm sau li kì hơn
hôm trước.
Ngoài
đường, trên tất cả các phố, đội quân bán báo rong vừa đạp xe vừa vặn to hết cỡ
những chiếc micro rè chạy pin của họ, dài dòng kể chuyện ở trường nọ không hiểu
sao trong vòng một năm (có báo nói mấy tháng, có báo nói hai năm) một sinh viên
năm thứ ba bỗng biến thành một "ông già lụ khụ" sáu bảy mươi tuổi
(cũng có báo nói chỉ bốn hoặc năm mươi). Rằng chàng sinh viên-ông cụ ấy đã bị y
tế nhà trường dùng vũ lực đưa đến một loạt các bệnh viện, kể cả Viện lão khoa
trung ương, nơi các chuyên gia đầu ngành khẳng định chàng mắc chứng già trước
tuổi, một căn bệnh nan y rất hiếm nhưng không phải không có, mặc dù chàng khăng
khăng tuyên bố không hề đau ốm gì. Cái lý do "học thi nhiều nên chóng
già" chàng đưa ra để giải thích trường hợp có một không hai này đã bị cả
giới khoa học lẫn bạn bè thẳng thừng bác bỏ, cho là "không nghiêm túc và
phi lý".
Tiếp
đến là những bài báo dài, nói một cách chi tiết, cặn kẽ (chắc không tránh khỏi
đôi chút phóng đại) về những nỗi khổ đau, phiền toái trong đời sống thường ngày
của anh chàng hai mươi tuổi bỗng chốc thành "ông cụ sinh viên râu ria xồm
xoàm" bị người yêu bỏ, bị bạn bè cười giễu, bị từ chối và đuổi thẳng về
nước không được tham dự một cuộc thi tin học quốc tế dành cho sinh viên, với lý
do khai man tuổi. Thậm chí chàng suýt bị khai trừ khỏi đoàn thanh niên, cũng vì
tuổi tác và bộ râu rậm đã lốm đốm nhiều sợi bạc.
Suốt
mấy năm sau đó báo chí còn đều đều đưa tin về "cụ sinh viên" này. Có
tờ còn coi "cụ" như niềm tự hào dân tộc. Có tờ nêu vấn đề mời đại
diện Guiness tới Việt Nam để tận mắt chứng kiến và đưa hiện tượng này vào sách
kỷ lục thế giới.
Cũng
qua báo chí, người ta biết được rằng "cụ" đã tốt nghiệp xuất sắc
trường đại học của mình, đủ tiêu chuẩn nhận học bổng du học ở Mỹ để lấy bằng
tiến sĩ. Tuy nhiên, lại lần nữa vì tuổi tác, "cụ" bị từ chối không
được nhập trường, dù phía Việt Nam đã xuất trình giấy khai sinh gốc được chính
quyền địa phương xác nhận bằng dấu tròn màu đỏ. Là nhà khoa học đầy triển vọng,
"cụ" được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Nay cụ đã là một giáo
sư tiến sĩ đáng kính, niềm tự hào của trường và của cả đất nước.
"Cụ"
đã lập gia đình, với người vợ hơn mình hai mươi tuổi. Ấy thế mà có kẻ độc mồm
còn dám nói sau lưng họ: "Trông cứ như bố con!" Sinh viên rất quý
"cụ", cả về kiến thức lẫn đạo đức. Có điều họ hơi lấy làm lạ là hầu
như buổi học nào "cụ" cũng nhắc họ một điều chẳng mấy ăn nhập chương
trình giảng dạy: "Các em phải luôn nhớ rằng trên đời này không gì quý bằng
tuổi trẻ, và bất luận trường hợp nào các em cũng không được để mất nó, cũng như
không được đánh đổi nó lấy bất kì cái gì khác!"
*
Cách
đây không lâu, có tờ báo ở Sài Gòn đưa tin một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi
hay hơn một tí, có nốt ruồi lớn màu hồng hồng bên má trái, bị tai nạn giao
thông ở Gò Vấp lúc mười giờ đêm, may được bác xích lô tốt bụng đưa vào bệnh
viện. Mặc dù được các bác sĩ hết lòng cứu chữa, người này đã chết một giờ sau
đó. Điều đáng nói là lúc ông ta tắt thở, các bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy
toàn thân ông ta rữa ra và bốc hơi rất nhanh, cuối cùng chỉ còn lại ít xương
mủn trên chiếc giường bệnh trải ga trắng ông ta vừa nằm. Câu chuyện quá kì dị
nên người ta không tin, và chỉ coi đó như một trong vô số trò tung tin giật gân
câu khách của tờ báo vốn bị nhiều tai tiếng này.
Hà Nội, 20. 2. 2001
VẼ
ÁC
Chiếc
hồ nhỏ nằm ngay dưới chân núi Tam Đảo. Nước phẳng lặng, trong xanh, một thứ màu
xanh lẫn lộn của nước, bầu trời tháng Tám và rừng thông mọc gần sát nước cả bốn
phía, trừ phía đông, nơi có một chỗ thưa với con đường đất màu đỏ nhạt ngoằn
ngoèo dẫn xuống hồ. Một vẻ đẹp thanh bình và cảm động, đến mức ông đứng ngây ra
nhìn hồi lâu dù ở cái tuổi năm mươi của mình, ông đã đi nhiều và được chiêm
ngưỡng nhiều cảnh sắc thiên nhiên kỳ thú. Chốc chốc, từ sau những bụi cây rậm
rạp xuất hiện vài chú hươu ngơ ngác. Hươu nhà, tất nhiên, nhưng không vì thế mà
giảm phần nguyên sơ hoang dã. Cách đấy không xa, cũng khuất sau những tán cây
rậm, ông thấy lác đác có mấy ngôi nhà với làn khói chiều mỏng tang vấn vương
trên mái. Một cảnh điền viên hiếm thấy. Khó tin rằng chỉ mấy chục cây số đâu đó
phía dưới là cảnh phố phường chật hẹp, ngột ngạt với trăm nghìn cái bon chen,
lo lắng.
Cãi
nhau với vợ, chán nản với công việc và bạn bè, ông bỏ Hà Nội lên đây tìm nơi
yên tĩnh và có vẻ như cái hồ này là chỗ lý tưởng. Ông là một họa sĩ đã đứng
tuổi, có tài, học hành rất bài bản, vẽ nhiều và vẽ giỏi, đặc biệt sở trường tả
thực. Tuy nhiên, khó có thể nói ông nổi tiếng trong giới. Người ta biết, nể
phục nhưng chẳng bao giờ đề cao ông, có lẽ một phần vì họ không làm được cái
ông làm, là vẽ rất tỉ mỉ rất giống thật. Giữa thời nhố nhăng thật giả này, ông
bị coi là cổ lỗ, là “thợ nhiếp ảnh”. Hiền lành nhưng yếu bản lĩnh, có thể nói
nhu nhược, ông đâm ra hận mình, hận đời, có khi đến mức độc ác. Ông thất vọng
cả việc đến người thân duy nhất trong nhà là bà vợ cũng không hiểu ông nốt.
Chính vì cãi nhau với bà (không phải lần đầu) mà ông lên đây.
Hôm
qua vợ ông đã dùng con dao thái thịt đâm mấy nhát vào bức sơn dầu khổ lớn ông
mới vẽ xong, miêu tả vua Agamênôn, thống lĩnh quân đội Hy Lạp đang tự tay cầm
kiếm dí vào cổ con gái yêu của mình là Iphighênia làm vật tế thần trong cuộc
chiến tranh T’roa. (Ông say mê thần thoại Hy Lạp, La Mã và vẽ nhiều tranh khai
thác từ nguồn này. Đấy cũng thêm một lý do khiến người ta không thích ông - lai
Tây và xa lánh cuộc sống).Thành ra, theo truyền thuyết thì các thần ở đỉnh
Ôlimpơ thương tình cứu sống Iphighênia, nhưng giờ đây nàng lại bị chính tay bà
vợ ông đâm chết. Đâm đúng tim. Khi đau xót nhìn kỹ, ông có cảm giác như trái
tim nàng đang rỉ máu thật.
Bị
căn vặn vì sao, bà vợ ông chỉ đáp:
“Kinh
lắm! Tôi không chịu nổi.”
“Nhưng
đây là nghệ thuật.”
“Nghệ
thuật hay không thì cảnh chém giết cũng đáng kinh tởm. Ông không biết vẽ gì tử
tế hơn à?”
Ông
không đáp, chỉ lẳng lặng xách túi ra đi.
Quanh
hồ chỉ có một xóm nhỏ độ hơn chục nóc nhà, cũng sống yên bình, lặng lẽ như
quang cảnh nơi này, bằng nghề nông và gần đây thêm nghề nuôi hươu lấy nhung.
Ông dễ dàng tìm được nơi ông muốn. Đó là nhà một một cặp vợ chồng già, con cái lên thành phố
làm việc nên thừa một phòng trống. Họ bảo ông cứ ở đấy, bao lâu cũng được. Nếu
muốn, họ nấu riêng cho ông, còn không thì “mời bác ăn với vợ chồng tôi, thêm
bát thêm đũa cho vui. Chuyện tiền nong không quan trọng.”
Hai
ngày đầu ông dạo lang thang quanh hồ và khu rừng lân cận. Mọi cái tuyệt vời,
chẳng bị ai quấy rầy, thế mà thật lạ, sau phút choáng ngợp ban đầu, chiếc hồ và
quang cảnh nên thơ nơi này chẳng làm ông thanh thản chút nào. Hình như ông còn
thấy khó chịu, giận dữ một cách vô cớ. Có thể vì nó quá tương phản với tâm
trạng ông chăng? Nhưng trở về Hà Nội thì ông không muốn vì ở đấy còn khó chịu
hơn.
Sang
ngày thứ ba ông bắt tay vào vẽ, một cách hậm hực, cay cú và giận dữ. Lại đề tài
khai thác từ thần thoại Hy Lạp. Ông vẽ cảnh Prômêtê bị xiềng trên vách núi đá
Côcadơ, và một con chim khổng lồ màu đen đang xé ngực moi tim chàng. Tuy nhiên,
đáng lẽ vách núi dựng đứng phải ở bên bờ biển sóng vỗ dữ dội, thì không hiểu
sao ông lại thay vào đó bằng chiếc hồ con yên tĩnh, thơ mộng này. Mà lại vẽ rất
giống, rất chi tiết, có cả mấy con hươu, mấy hòn đá xếp thành hàng từ ngôi nhà
ông đang trọ dẫn xuống hồ. Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh,
được ông dành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân
vào ngực Prômêtê, xòe hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng
tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng. Ba giọt máu tươi rơi phía dưới.
Màu đen lông chim và màu đỏ của máu thật tương phản nhau. Đôi mắt con chim tròn
xoe, hau háu và hung dữ. Còn chàng Prômêtê cao thượng bị thần Dớt bắt chịu hình
phạt này vì tội dám lấy trộm lửa thần mang xuống cho loài người thì chịu đựng
một cách dũng cảm. Tay chân chàng bị xích vào vách núi bằng những sợi xích
khổng lồ. Người chàng cuồn cuộn các bắp cơ, đôi mắt mở to kiêu hãnh, nhưng
trong đấy cũng bộc lộ một nỗi đau ghê gớm. Nỗi đau của trái tim bị cái kìm nhọn
mỏ chim cấu rứt từng mẩu.
Tất
cả những chi tiết này được ông vẽ sinh động như thật. Chính ông cũng tự hài
lòng với nghệ thuật của mình. Ông có cảm giác như nghe được hơi thở của
Prômêtê, ngửi thấy mùi tanh của máu và bị đôi cánh khổng lồ của con chim chạm
vào tay áo. Trong khi đấy, phía dưới lại là chiếc hồ con yên ả quen thuộc, có
thật và nằm ngay dưới chân núi Tam Đảo, nơi ông vẫn hàng ngày đi dạo. Tất nhiên
ông biết sự trái khoáy của hai cảnh đó. Trong hội họa bố cục như vậy không chấp
nhận được. Ông biết, nhưng đang bực mình, đang muốn phá phách, ông bất chấp
điều ấy. Thậm chí ông còn lấy thế làm thích. Từ trong tranh con chim đen nhìn
ông tán thưởng. Còn đôi mắt Prômêtê thì đầy vẻ đau đớn. Ông không dám nhìn lâu
vào đôi mắt ấy vì hình như chúng oán trách ông. Cả chiếc hồ con cũng oán trách
ông.
-
Ấy chết, sao tay bác đầy máu thế? - Ông lão chủ nhà hỏi khi vào mời khách ăn
trưa, cũng là lúc ông vừa thích thú ngắm bức tranh lần cuối và đang định bước
ra ngoài.
-
Đâu có, - ông họa sĩ cười. - Sơn vẽ đấy.
Rồi
ông xòe cả hai tay cho ông lão xem. Trên các ngón tay ông quả thật máu chứ
không phải sơn. Loãng hơn, tươi hơn. Ở đầu ngón trỏ tay phải có một giọt lớn
sắp rơi xuống. Ông giật mình, vội chùi cả hai tay vào chiếc tạp dề trước bụng.
-
Bác vẽ gì trông kinh thế này? - ông lão chủ nhà lại hỏi. - Sao để cho chim moi
ruột gan người ta thế? Kinh quá!
Ông
không đáp, chỉ gượng gạo cười vì vẫn chưa hết ngỡ ngàng với bàn tay dính máu.
-
Bác vẽ cả chiếc hồ của chúng tôi nữa đấy à?
-
Vâng. Cụ thấy có giống không?
-
Có. Giống, nhưng... nhưng nó thế nào ấy. Nước ở đây bao giờ cũng trong xanh chứ
không đỏ. Bác để máu rơi xuống hồ chúng tôi rồi. Tôi sợ lắm.
Ông
họa sĩ lại giật mình ngạc nhiên. Chỗ nước phía dưới Prômêtê quả có màu đỏ thật,
dù ông nhớ không hề vẽ như thế.
*
Chiều
hôm đó ông dạo lâu hơn thường lệ, và lúc trở về do mệt, ông đi ngủ sớm. Trước
khi lên giường, ông nhìn kỹ bức tranh lần nữa. Chỗ nước hồ đỏ ông vẽ lại mấy
lần, cố bôi xanh thật nhiêu nhưng không hiểu sao chỉ lát sau lại hiện lên màu
cũ. Prômêtê đang oán trách ông. Con chim đen trâng tráo nhìn ông với vẻ thích thú
không che giấu. Nó là hiện thân Cái ác do chính ông tạo ra, thế mà giờ đây ông
cảm thấy sờ sợ nó. Cảm giác sợ hãi mơ hồ ấy len cả vào giấc ngủ.
Trằn
trọc mãi hồi lâu mới thiếp đi, bỗng ông chợt tỉnh vì nghe có tiếng động lạ.
Tiếng phành phạch như tiếng quạt nan đập vào tường. Ông lấy làm lạ nhưng vẫn
nằm yên. Hình như tiếng chim vỗ cánh, loại chim lớn, mà ngay bên cạnh. Sao lại
thế được nhỉ? Chim nào vào đây và vào cách nào khi các cửa đều đóng kín? Tiếng
động còn kéo dài thêm mấy giây nữa rồi im bặt, như thể con chim, nếu quả đúng
đó là chim, đã bỏ bay đi.
Ông
rón rén nhỏm dậy bật đèn và không tin vào mắt mình. Nơi trước đây là hình con
chim đen bây giờ trơ toan trắng. Ông ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, lặng người
không biết phải làm gì. Nỗi sợ âm ỉ suốt ngày lúc này làm đầu đầu óc ông tê
cứng. Một chuyện phi lý không thể tin nổi, nhưng cái chuyện phi lý ấy đang xẩy
ra trước mặt và ông không thể không tin. Ông ghé mắt nhìn lại, sờ cả tay vào
lớp vải. Vâng, chỉ lớp vải trắng thô ráp. Thân hình lực lưỡng của Prômêtê bây
giờ bị rách thêm một miếng to, trông càng dễ sợ. Cuối cùng, như chợt hiểu ra
điều gì, ông vội lấy bút, pha màu rồi cắm cúi vẽ. Bộ ngực lực lưỡng của Prômêtê
được chắp vá lại dần cho đến khi trên tranh chỉ còn lại mình chàng nguyên vẹn.
Không có con chim Thần ác, không có trái tim bị xé vụn và những dòng máu đỏ.
Ông cảm thấy đỡ sợ phần nào. Prômêtê nhìn ông với đôi mắt biết ơn.
Hôm
sau, trời mới rạng, cả hai ông bà chủ nhà đã đến đập mạnh cửa phòng ông.
-
Bác họa sĩ! Dậy đi! Bác họa sĩ! Đêm qua nhà chúng tôi mất hai con hươu.
-
Việc này liên quan gì đến tôi? - Ông khó chịu nói, khi ra mở cửa cho họ. - Hay
hai cụ nghi tôi ăn trộm?
-
Ăn trộm thì không, nhưng liên quan thì có đấy.
-
Tôi không hiểu...
-
Tôi nghi con này! - ông lão bước thêm mấy bước, chỉ vào bức tranh. Con chim đen
xuất hiện trở lại từ bao giờ trên chính bức tranh mới vẽ lại đêm qua.
Cố
giấu ngạc nhiên, ông hoạ sĩ hỏi:
-
Vì sao?
-
Vì ở đây xưa nay chưa bị mất trộm cái gì. Vì đêm qua tôi nghe tiếng nó kêu, bay
lượn quanh nhà. Bây giờ ngoài hồ còn sót lại ít thịt nó ăn chưa hết, in rõ móng
vuốt của nó. Bác theo tôi ra xem thì biết.
Vẫn
bộ quần áo ngủ nhàu nát trên người, ông họa sĩ theo họ ra hồ. Một góc hồ nước
đỏ lòm vì máu của một phần ba con hươu chưa ăn hết nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
-
Suốt đêm qua tôi không ngủ được, - bà già luôn im lặng, bây giờ lên tiếng. -
Tim tôi đau nhói, cứ như bị ai lấy kìm rứt từng tí một...
-
Cả bà cũng thế à? - ông chồng vội quay sang phụ theo. - Tôi cũng không ngủ
được. Cũng bị đau ngực. Chính là do con chim đó! Chính nó!
*
Trưa
hôm ấy, khi ăn xong trở lại phòng, ông họa sĩ thấy bức tranh đã bị ai lấy dao
cắt nát, đúng chỗ con chim đen. Miếng vải bị cắt gấp xuống, làm thân hình nó
méo mó, cổ bị chém đứt cùng chiếc mỏ sắc nhọn và đôi mắt háu đói độc ác.
Ông
họa sĩ đứng im nhìn tác phẩm của mình, thờ ơ, không thương xót.
Một
lúc sau ông già lại xuất hiện. Ông có vẻ bình tĩnh hơn, thậm chí hơi chút
ngượng nghịu. Ông lúng túng ngồi xuống, tự tay pha ấm trà, rót vào chén đưa cho
khách rồi hắng giọng hai lần, nói:
-
Dân quê chúng tôi quen nói thẳng. Có gì không phải, bác bỏ quá cho. Số là...
thực tình chúng tôi không muốn bác ở lại đây thêm nữa. Xin bác dọn đi nơi khác
thật xa và càng sớm càng tốt. Bác biết đấy, nơi này vốn yên bình, giản dị, thế
mà bác đến làm xáo trộn hết bằng những cái khủng khiếp kia. - Ông hất đầu về
phía bức tranh.
-
Vâng, hai cụ đã có ý thế thì tôi xin đi, tất nhiên. Tôi đi ngay bây giờ. Có
điều, xin hai cụ hiểu cho, tôi là người hiền lành, chưa làm ác điều gì với ai
bao giờ. Tôi chỉ là anh họa sĩ vẽ vời nhăng nhít, một việc làm thiết tưởng cũng
vô hại.
Ông
già trầm ngâm một chốc rồi nói, giọng buồn buồn:
-
Nhưng ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần như làm việc ác vậy.
*
Leo
ngược hết con đường quanh co màu đỏ gạch, ông dừng lại thở, đưa mắt nhìn lần
cuối chiếc hồ nhỏ xinh đẹp phía dưới. Nó đã lấy lại được vẻ thanh bình thơ mộng
vốn có. Cạnh ngôi nhà nhỏ không xa mặt nước có hai chấm đen nhỏ. Đó là ông bà
già đã cho ông ở nhờ nửa tháng qua. Có thể họ đang vẫy tay tiễn ông. Cũng có
thể họ đứng đấy canh chừng có phải ông thực sự đi chưa. Rồi ông quay người,
chậm chạp bước về phía đường nhựa, nơi có xe về Hà Nội. Trong đầu ông chẳng có
gì ngoài nỗi buồn mơ hồ và cảm giác xấu hổ của người vừa làm điều xấu bị người
khác đuổi đi. Bên tai văng vẳng câu nói chất phác mà chua cay của ông già:
“Nhưng
ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần như làm việc ác vậy.”
Hà Nội, 2003
EROSTRAT
Lúc
ấy là giữa tháng Tám năm 1994.
Trước
khi vào cảng, con tàu "Renaissance" rú lên hồi còi dài chào thành phố
Istanbul. Hành khách kéo nhau lên boong khi nó chui qua chiếc cầu nồi liền châu
Âu và châu Á. Nó là con tàu khách sang trọng của một công ty du lịch biển Hy
Lạp đang thực hiện chuyến đi vòng quanh Địa Trung Hải, xuất phát từ Athens, ghé
một số cảng ở Nga, Bungari, Rumani, và bây giờ
sắp đổ khách lên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Nó được thuê bao toàn bộ cho cuộc hội
thảo nhà văn thế giới kéo dài hai mươi ngày và được tổ chức ngay trên tàu. Tôi
cũng có mặt trong số những người tham dự. Các hoạt động liên quan đến hội thảo
thực ra rất ít, chủ yếu du ngoạn trên biển và tham quan các cảng tàu ghé vào.
Theo
lịch, tàu chỉ dừng ở Istanbul một ngày rưỡi, sau đó sẽ quay về cảng xuất phát ở
Athens, thủ đô Hy Lạp, rồi từ đó tất cả đi xe buýt tới đền thờ Đenphi cách cả
trăm cây số, là nơi hội thảo sẽ bế mạc bằng nghi lễ tế thần Dớt vĩ đại. Tuy
nhiên, thời tiết đột ngột trở xấu và biển động mạnh. Chờ thêm mấy giờ, cuối
cùng chúng tôi được thông báo sẽ phải ở lại Thổ Nhĩ Kỳ bốn ngày. Chương trình
tham quan Istanbul chỉ một ngày là xong. Để khách khỏi buồn trong khoảng thời
gian còn lại, người ta đưa ra danh sách một loạt các điểm du lịch hấp dẫn cả
trong và ngoài thành phố. Ai không thích cứ lên tàu ăn, ngủ. Tôi chọn tour đi
Ephes, cách Istanbul không xa lắm.
-
Ephes từng là một thành phố cảng và là trung tâm buôn bán rất nổi tiếng của Hy
Lạp cổ đại, - người hướng dẫn, một chàng trai thông minh, nhanh nhẹn có tên là
Uphus nói khi xe sắp đến nơi. - Nó được xây dựng vào thế kỷ mười một trước công
nguyên, trên cửa sông Cayster mà bây giờ gọi là sông Menderes. Ephes từng trải
qua nhiều cuộc xâm lược của người Ba Tư, người La Mã và một số bộ tộc man rợ từ
phương bắc. Sau mỗi lần như thế, thường thành phố bị hủy diệt và xây mới hoàn
toàn. Năm 614 sau công nguyên, một trận động đất lớn đã vùi cả thành phố trong
đống đổ nát. Tới đầu thế kỷ thứ 14, do cảng bị bồi cạn và dòng sông đổi hướng,
Ephes trở thành hoang phế. Thành phố này nổi tiếng một thời nhờ các hoạt động
thương mại, văn hóa và vô số các công trình kiến trúc, điêu khắc có một không
hai của nó.
Uphus
hạ giọng, có vẻ luyến tiếc cho sự huy hoàng của một thành phố đã chết. Sự luyến
tiếc ấy lây sang người nghe. Điều ấy dễ hiểu, vì trước mắt chúng tôi bây giờ
không có gì ngoài một bãi trống lổn nhổn đá trắng và những nhát cắt khảo cổ
nhằm tìm kiếm dấu vết của cái một thời được gọi là thành Ephes. Nổi bật nhất là
một nhà hát kiêm đấu trường lớn hình chảo còn
khá nguyên vẹn. Nó được xây dựng cuối thế kỷ thứ tư đầu thế kỷ thứ năm,
với các dãy ghế bằng đá bao quanh và một con đường rộng lát đá cẩm thạch trắng
chạy từ nhà hát tới nơi ngày xưa là bến cảng. Rải rác xung quanh là những hố
khai quật cho thấy các cửa hàng, nhà ở bị vùi sâu dưới đất. Các cung điện vua
chúa bây giờ chỉ còn lại mấy cột đá, một bức tường chi chít phù điêu và một
chiếc cổng có vẻ như mới được dựng lại.
-
Đây là nhà vệ sinh của giới quí tộc, - Uphus nói, chỉ tay xuống một dãy những
phiến đá cẩm thạch có khoét lỗ tròn ở giữa. Sâu phía dưới là một con suối nhỏ
bây giờ khô cạn, nhưng trước đây luôn có nước chảy để dẫn chất bẩn ra biển. -
Khi từ Ai Cập sang thành La Mã, nghỉ ở đây, nữ hoàng Clêôpát có thể đã sử dụng
nhà vệ sinh này. Có điều không biết cụ thể phiến đá nào. Có ai muốn thử ngồi
xuống đây không? - anh cười hỏi.
Khách
tản đi xem mỗi người một nơi, tôi nói với Uphus:
-
Anh có thể chỉ tôi xem đền thờ nữ thần Artemis ở đâu không? Nó là một trong bảy
kỳ quan của thế giới cổ đại. Ngôi đền bị Êrôstrat đốt vào năm 356 trước công
nguyên ấy mà.
Uphus
có vẻ hơi ngạc nhiên.
-
Tôi quan tâm tới các nền văn minh cổ đại, - tôi nói thêm, - nên có biết đôi
chút về thành Ephes cùng ngôi đền Artêmis nổi tiếng của nó. Chắc anh phải biết
rất rõ...
-
Tôi là sinh viên năm cuối khoa sử trường Đại học tổng hợp Istanbul, sắp bảo vệ
luận án về lịch sử thành phố cổ đại này. Bây giờ nghỉ hè, tôi làm thêm nghề
hướng dẫn du lịch để kiếm tiền. Có lẽ tôi có thể cho ông biết tất cả những gì
ông muốn biết về nó.
-
Cả đền thờ Artemis và Êrôstrat ?
-
Hy vọng là thế.
So
với các công trình khác, những gì sót lại từ đền thờ Artêmis còn ít hơn, mặc dù
sau khi bị Êrôstrat đốt, nó còn được xây mới và tu bổ lại nhiều lần.
-
Như ông biết, - Uphus nói khi chúng tôi đi khá xa đến một bãi trống không khác
mấy những nơi khác, - ngôi đền thờ Artêmis, nữ thần săn bắn và Mặt trăng theo
huyền thoại Hy Lạp, có từ rất lâu dưới dạng một bức tượng đơn sơ đặt trong hốc
cây cổ thụ. Tới giữa thế kỷ thứ sáu sau công nguyên người ta mới quyết định xây
một ngôi đền thật lộng lẫy và phải hơn một trăm năm sau mới xây xong. Kỳ quan
thế giới toàn bằng đá hoa cương ấy tọa lạc trên một nền đất dài 127 mét, rộng
73 mét, cao mười bậc, có 127 cột đá khổng lồ xếp thành hai hàng cao 19 mét đỡ
các phiến đá rộng làm mái. Trong đền là tượng nữ thần Artêmis tuyệt đẹp, cũng
bằng đá nguyên khối...
-
Nhưng nếu toàn bằng đá như anh nói thì làm sao nó cháy được? - tôi hỏi.
-
Đó cũng là câu hỏi nhiều nhà sử học nêu ra. Khoa học đã lý giải điều này. Trong
đền có nhiều thứ dễ cháy. Sức nóng ngọn lửa làm chất axit cacbonit trong đá bốc
hơi như bất kỳ loại đá vôi nào, tạo thành một quá trình cháy âm ỉ bên trong.
Kết quả là đá hoa cương cũng bị nung chín thành vôi, sau một trận mưa vôi biến thành bụi đất.
-
Theo anh, tại sao cái thằng Êrôtrat ấy lại quyết định đốt đền thờ Artemis?
-
Để trở thành nổi tiếng, như chắc ông đã biết.
-
Vâng, tôi biết. Nhưng có thể còn vì những nguyên nhân khác. Dẫu sao hắn cũng là
một công dân tự do của thành Ephes và phải tự hào về ngôi đền đó.
-
Chẳng có lý do nào khác ngoài việc muốn được mọi người nhắc tên, lúc ấy và mãi
mãi sau này. Chẳng phải bây giờ tôi và ông đang nhắc đến cái tên Êrôstrat đáng
nguyền rủa ấy đó sao, tức là chúng ta đã mắc mưu hắn.
-
Có ông nhà văn Nga viết một vở kịch rất hay, gọi là "Vụ án người đốt
đền" về chuyện này, anh biết không không? Nó được dựng ở Hà Nội cách đây
vài chục năm và từng một thời làm xôn xao dư luận.
-
Tôi đọc tất cả những gì người ta viết về Ephes và ngôi đền, nhưng vở kịch này
thì chưa.
-
Theo tác giả, có thể là hư cấu, sau khi đốt đền và bị giam vào ngục, Erôstrat
đã bán bản thảo hồi ký của hắn về việc làm tội lỗi ấy. Thế mà có nhiều người
mua nó, kể cả những người quyền quí và không hẳn chỉ vì tò mò. Không ít người
còn ngưỡng mộ hắn, thậm chí coi hắn là con thần Dớt. Cũng vì muốn được
"bất tử" như hắn, hoàng hậu Clêmentine vào tận nhà tù trao thân cho
hắn, một gã lái buôn tầm thường không xu dính túi, một tên tội phạm đầy tham
vọng bệnh hoạn, với điều kiện hắn tuyên bố với mọi người rằng hắn đốt đền nữ
thần Artêmis chỉ vì quá yêu nàng mà không được nàng đáp lại. Còn chồng nàng,
quốc vương Tisaphec, thì bị hắn thuyết phục không giết, với ý định lợi dụng hắn
vào những âm mưu chính trị của ông ta. Anh xem, cái ác lần nữa lại thắng và sắp
sửa gây những tội lỗi mới. May có quan tòa Clêôn là người dũng cảm dám đấu
tranh vì công lý. Ông bị Tisaphec cách chức bắt làm lính cai ngục, nhưng cuối
cùng Êrôstrat đã bị chính bàn tay ông giết. Nghĩa là rốt cục cái ác vẫn bị
trừng trị. Đó cũng là chủ đề của vở kịch. Tuy nhiên vở kịch hay không vì chủ đề
nhàm chán này, mà nhờ tính cách con người Êrôstrat. Tôi muốn biết trong thực tế
hắn là người thế nào và chuyện gì đã xẩy ra với hắn sau đó.
Uphus
im lặng một lúc mới đáp:
-
Những gì bây giờ người ta biết về hắn đều rất lờ mờ. Trong chừng mực nào đấy
cũng là một dạng hư cấu như vở kịch ông vừa nói. Hai nghìn năm trăm năm chứ đâu
ít. Theo tài liệu đáng tin cậy nhất, sau khi đốt đền vì động cơ quái gở trên,
Erôstrat bị đám đông giận dữ giết chết như một con chó ghẻ ở quảng trường thành
phố. Rồi mọi người bị cấm không ai được nhắc tên hắn. Theo tôi, đó là một lệnh
cấm ngu ngốc, vì thói thường càng cấm người ta càng quan tâm. Thế là trúng ý
hắn. Hắn trở thành nổi tiếng. Hắn, kẻ châm lửa đốt một kỳ quan thế giới hàng
vạn người xây dựng suốt mấy trăm năm, thế mà đang được tôi và ông bây giờ nhắc
đến. Và hắn sẽ còn được người ta nhắc đến nhiều năm nữa. Trong khi chúng ta xưa
nay không ai biết gì về những con người đã lặng lẽ làm nên kỳ quan ấy.
-
Tôi và anh không ngưỡng mộ mà đang lên án hắn.
-
Hẳn thế. Nhưng hắn đã để lại được dấu ấn trong lịch sử. Hắn là một nhân vật
lịch sử, mặc dù chỉ là kẻ tầm thường, một tên tội phạm không hơn không kém. Cái
trớ trêu là ở chỗ ấy.
-
Dẫu sao cũng không thể để mãi thế được. Cần phải làm cái gì đó. Anh nghĩ phải
làm gì?
-
Chẳng làm gì cả. Cứ để sự thật tồn tại như nó vốn có, không cắt bỏ hoặc thêu
dệt thêm. Cũng không nhất thiết phải khẳng định cái thiện luôn thắng cái ác, lẽ
phải luôn thắng bất công. Thực tế không phải lúc nào cũng đúng vậy. - Uphus
triết lý. - Vấn đề ở chỗ mỗi chúng ta cần có cách nhìn riêng về chuyện này,
cũng như về Êrôstrat. Tôi đọc khá nhiều truyện hư cấu đại loại như vở kịch kia
của ông người Nga. Có người viết hắn đã hối lỗi và tự sát. Cũng có người viết
hắn bị chính vợ con giết chết, hoặc bị các thần linh oai nghiêm trừng trị, hoặc
bị các công dân Ephes đáng kính không cho chết, mà bắt sống suốt đời với tấm
biển "Kẻ đốt đền Artêmis" nhục nhã trước ngực. Là nhà văn, ông cũng
có thể phịa ra một đoạn kết ông cho là thích hợp. Mà thôi, - Uphus nhìn đồng
hồ. - Đã đến lúc phải quay lại với đoàn.
-
Anh đi trước đi, - tôi nói. - Tôi muốn ở đây thêm chút nữa. Anh thực sự nghĩ
chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc để cái tên Êrôstrat ấy tiếp tục tồn
tại một cách đắc thắng như thế sao?
-
Hắn không phải là người chiến thắng. Hắn phạm tội và đã bị trừng trị thích
đáng. Còn việc ai đó nhắc tên hắn hay thậm chí viết về hắn thì là chuyện riêng
của người ấy. Còn tôi, tôi thấy hắn chẳng đáng cho tôi quan tâm thêm nữa, -
Uphus nói rồi bỏ đi.
*
Lúc
ấy mới hơn mười giờ sáng nhưng trời đã nóng gay gắt. Không một làn gió nhẹ dù
biển nằm ngay bên cạnh. Theo lịch, còn hai giờ nữa mới lên xe trở về Istanbul.
Mọi người đang tỏa đi khắp nơi xem cái mình quan tâm. Một số vào ngôi nhà một
tầng duy nhất - nơi đón tiếp khách tham quan - để giải khát hoặc nghỉ ngơi.
Tôi
lửng thững dạo thêm hồi lâu quanh nơi xưa kia là đền Artêmis, vẫn không thôi bị
ám ảnh bởi cái tên Êrôstrat kia. Tôi cố không nghĩ đến hắn nhưng vô ích, do vậy
cứ vấn vương đủ chuyện chẳng mấy vui vẻ, về sự độc ác, phù phiếm, bất lực và
ngu ngốc của con người. Tôi căm ghét hắn, cái gã lái buôn tầm thường, cái tên
phá hoại văn hóa xảo quyệt và trâng tráo ấy. Tôi cũng khó chịu với cả chính
mình vì cứ luôn nghĩ về hắn.
Cuối
cùng, tôi ngồi xuống nghỉ bên gốc cây nhỏ hiếm hoi cạnh đấy, và thiếp đi lúc nào không biết.
Trong
trạng thái nửa tỉnh nửa mê ấy, cảm thấy như có ai đang trừng trừng nhìn mình.
Tôi mở mắt và thấy một người trạc bốn mươi tuổi với bộ trang phục giống người
Hy Lạp cổ. Ông ta đi dép da dê, tấm vải lớn màu đỏ vắt qua vai, bên hông đeo
thanh kiếm bằng vàng, đầu đội vòng nguyệt quế. Trông ông ta uy nghi lẫm liệt
chẳng khác một vị thần, nhưng nét mặt thì lộ vẻ ngạo mạn, xấc xược và xảo
quyệt.
-
Ngươi đang làm quái gì ở đây thế này? - ông ta nghiêm mặt hỏi.
Tôi
bối rối một lúc rồi rụt rè đáp, không phải không thoáng sợ hãi.
-
Chẳng làm gì cả. Tôi nghỉ. Còn ông là ai?
-
Ta là Êrôstrat, thần Êrôstrat. Ngươi có biết ngươi đang ngồi ở đâu không? Ở
chính phòng giam mà mấy tên quan ngu ngốc của thành Ephes ngày xưa đã ném ta
vào sau vụ đốt đền lịch sử. Đó cũng chính là nấc thang đưa ta lên bậc thánh. Vì
vậy ta không muốn một kẻ trần tục như ngươi làm ô uế nó. Hãy cút đi! - ông ta
quát, giọng vang như sấm, đúng giọng một vị thần.
"Ra
là hắn! Lại còn tự xưng là thần! Thật vớ vẩn!" tôi nghĩ nhanh trong đầu.
Sự phẫn nộ làm tôi trở nên dũng cảm. Tôi vẫn ngồi yên, lưng tựa vào gốc cây như
không hề nghe lời quát đầy hăm doạ của hắn.
-
Tôi không là tội phạm, do vậy không phải đang ngồi trong nhà tù. Đây là ngôi
đền thờ thiêng liêng của nữ thần Artêmis.
-
Nhảm nhí! - hắn bĩu môi khinh bỉ. - Ngươi đang ngồi trong nhà tù mà tưởng là
điện thờ. Riêng điều ấy đủ thấy ngươi và những người đương thời như ngươi nhầm
lẫn, ngu ngốc thế nào. Đền thờ có vinh dự được ta đốt cháy ở tít đằng kia kìa!
- Hắn nhấn mạnh chữ "vinh dự" và "được", tay chỉ về phía
trái.
-
Có thể thời gian làm người ta nhầm, - tôi đập lại, - nhưng một điều không thể
nhầm được, rằng ông là một tên tội phạm trâng tráo đáng kinh tởm. Và ông đã bị
người ta giết chết như giết một con chó.
-
Lại càng nhầm. - Hắn phá lên cười. - Ta phải chết để phù hợp với quan niệm trẻ con
của các người, rằng kẻ ác sẽ bị trừng trị chứ gì? Thật buồn cười. Chẳng ai giết
ta cả. Quan tòa Clêôn và đám đông phẫn nộ kia chỉ là sự tưởng tượng ngu ngốc.
Đừng nói ngươi biết rõ điều này hơn ta. Ngươi, một anh chàng vô danh tiểu tốt
sinh sau những hai nghìn năm trăm năm, lại ở cách đây cả chục nghìn cây số. Ta
là Êrôstrat, người đốt đền Artêmis, nhờ đó ta trở thành bất tử. Hơn thế, ta là
một vị thần...
-
Vị thần của cái ác! - tôi ngắt lời hắn.
-
Thần ác hay thần thiện thì cũng là thần. Do vậy, ta được tôn thờ và hiện hữu
khắp nơi. Đừng giả bộ thánh thiện. Ta có mặt cả trong ngươi nữa đấy. Chính
ngươi cũng biết rõ điều đó...
-
Nói láo! - tôi quát vào mặt hắn, thầm ngạc nhiên sao mình có thể dũng cảm đến
thế.- Trong tôi không có chỗ cho một người như ông.
-
Nhưng rõ ràng ngươi thường nghĩ đến ta.
-
Chỉ để nguyền rủa và nhắc mình, nhắc người khác né tránh ông. Đáng lẽ thay cho
việc cấm nhắc tên ông, người ta nên dựng tượng ông để mọi người đi qua phỉ nhổ,
lấy roi quất vào mặt ông như người Trung Hoa từng làm với một cặp vợ chồng gian
thần ở nước họ.
-
Ngươi thật quá thơ ngây, hoặc giả vờ thơ ngây. - Vẫn thản nhiên, hắn đáp không
mảy may tỏ ra khó chịu. - Ta đã được dựng tượng từ lâu, không phải ngoài quảng
trường mà trong lòng người. Không phải để phỉ báng, ném đá, mà để tôn thờ. Hay
ngươi định nói người ta xưa nay không tôn thờ cái ác?
-
Đúng thế. Chỉ kẻ ác mới tôn thờ cái ác. Những người lương thiện chiếm số đông
trên trái đất này luôn đấu tranh chống lại cái ác...
-
Thôi nào, người nói cứ như một mụ già dạy con nít. Cái thiện và cái ác không
phải lúc nào cũng rạch ròi và dễ phân biệt như ngươi tưởng. - Hắn hạ giọng nói
thêm: - Có phải ngươi đang giấu trong túi một viên đá vừa lấy cắp ở đây không?
Mặc dù ngươi đã thấy biển qui định cấm du khách không được mang khỏi đây bất kỳ
cái gì, kể cả đất đá. (Quả thật tôi đang giấu một hòn đá như thế trong túi). Ta
đoán nếu không vì cái tên Êrôstrat ngươi luôn nguyền rủa ấy, ngươi đã chẳng đến
đây cũng như chẳng chịu vất vả mang viên đá vớ vẩn ấy về nhà. Chắc ngươi sẽ
không vất nó đâu đó trong xó bếp, đúng không? Chẳng phải bằng cách ấy ngươi
đang vô tình tôn thờ ta đấy ư? Và rồi, cũng vô tình như thế, dần dần ngươi sẽ
tôn thờ những cái khác lớn hơn, xấu xa hơn...
-
Không, không bao giờ. Nó là vật sót lại từ ngôi đền thiêng liêng,- tôi thét
lên, cho tay vào túi, túm lấy hòn đá rồi đem hết sức mình ném vào hắn.
Êrôstrat
không né tránh. Hình như hòn đá trúng người hắn. Hắn chỉ cười, khinh khỉnh đáp:
-
Người Hy Lạp cổ có câu ngạn ngữ thế này: "Ném đá vào người khác thì sướng
tay, nhưng tay có thế đau đấy."
Nghe
thế, tôi càng tức giận hơn, vội vùng dậy chạy bổ đến hắn, dù chưa biết định làm
gì. Thật lạ lùng, hắn vẫn đứng yên cho tôi túm áo giật mạnh, và chỉ khinh khỉnh
cười như trước.
*
Uphus
đang đứng trước mặt, nhẹ nhàng gỡ tay tôi khỏi vạt áo anh.
-
Mọi người đang chờ ông, - anh nói. - Trời nóng thế mà ông ngủ được. Xem kìa, mồ
hôi ra đầm đìa.
Tôi
lặng lẽ theo anh đi về phía có chiếc xe buýt lớn đang nổ máy. Mấy ngày tiếp
theo cánh tay phải của tôi bỗng nhiên đau nhức, vất vả lắm mới giơ nổi khi ăn
uống. Tất nhiên điều này không liên quan gì đến Êrôstrat. Tay tôi thỉnh thoảng
vẫn đau như thế, và chắc chỉ ít hôm sẽ khỏi.
Hy
Lạp - Thổ Nhĩ Kỳ, 1994
ÔNG
TƯỢNG ĐÁ
Thơ
cổ Triều Tiên có một bài thâm thúy, khiến đọc xong ta cứ suy nghĩ lan man mãi.
Một ông mù
Dắt một ông mù khác qua cầu.
Cầu thì hẹp, sông thì sâu
Nhiều lần suýt ngã.
Thế mà bên đường, ông tượng đá
Còn ngửa mặt lên cười.
Tôi
cũng thế. Không chỉ vì tôi là người đọc mà còn là người dịch nó ra tiếng Việt
cách đây mấy chục năm. Thỉnh thoảng đọc lại, tôi thường nghĩ lan man đủ chuyện,
tùy hoàn cảnh và tâm trạng lúc đó. Lúc đầu tôi nghĩ về sự không hoàn thiện của
cuộc đời, về sự nhạo báng trâng tráo của con người với nỗi đau đồng loại. Rồi
tôi nghĩ có thể ông tượng đá chỉ cười trời, cười chính bản thân mình, hay đơn
giản bỗng dưng thích thì cười chứ chẳng liên quan gì đến việc hai ông già mù
dắt nhau qua chiếc cầu chênh vênh, phía dưới là dòng nước xiết. Còn hôm nay đọc
lại lần nữa trước khi đưa bài thơ yêu thích vào cuốn sách sắp in, tôi chợt thấy
những kiểu suy luận trên chỉ mang tính chủ quan áp đặt. Thay vào đó, nó bỗng
gợi tôi nhớ, không hiểu sao mãi đến giờ tôi mới nhớ, rằng ở quê tôi, ngay đầu
làng cũng có một ông tượng đá như thế. Cũng ngửa mặt lên trời và cười. Cũng bên
chiếc cầu và dòng sông.
Thực
ra gọi sông thì hơi quá. Nó chỉ là con kênh nhỏ, Kênh Nhà Lê, chạy suốt từ phía
nam Thanh Hóa tới Hà Tĩnh. Lòng kênh hẹp, lại nông nên chỉ khi nước lên thuyền
mới đi lại được. Đoạn chảy qua làng tôi có những hai chiếc cầu, cầu Thượng và
cầu Hạ. Cầu Thượng được đổ xi măng từ lâu để ô tô ngược lên các huyện phía
trên. Còn cầu Hạ trước chỉ là chiếc cầu khỉ với dăm cây phi-lao bắc ngang trên
những thanh ray cắm đứng xuống nước làm giá đỡ. Gần đây nó được xây lại, có hai
trụ hẳn hoi, nhưng lòng cầu chỉ rộng khoảng mét rưỡi.
Ông
tượng đá đứng không xa cầu Hạ, trên nền một ngôi đền cổ bị người ta phá làm trụ
sở ủy ban xã cái thời rộ lên phong trào chống mê tín dị đoan. Có lẽ trước đây
ông mang một ý nghĩa thiêng liêng nào đó, một vị thần hay phật mà bây giờ đời
sống mới chẳng ai còn nhớ. Dân làng, nhất là bọn trẻ, chỉ đơn giản gọi ông là
"ông tượng đá". Cạnh ông có một con voi, một con ngựa cũng bằng đá
nguyên khối. Cả ba cùng hướng về dòng sông và chiếc cầu. Đó là tất cả những gì
sót lại từ ngôi chùa mà người ta không thể hoặc chưa kịp đập đi lấy đá xây nhà.
Sau này, khi có chủ trương khôi phục lại chùa chiền, lễ hội, người ta định đưa
ông cùng con voi, con ngựa về đặt trên sân trụ sở ủy ban xã làm vật trang trí,
nhưng thấy nặng quá nên thôi.
Con
voi và con ngựa trông thật buồn, dường như chúng đang thiu thiu ngủ và chẳng
mấy quan tâm đến thời cuộc, cũng chẳng khó chịu khi bọn trẻ trong làng hàng
ngày cưỡi, ném đất bùn hay vẽ bậy lên người chúng. Con voi ở tư thế quì, cụt cả
hai ngà, bên hông phải có vết sứt lớn. Con ngựa thì đứng, cái đuôi cụp vào bụng
do vậy còn nguyên, hai tai vểnh lên, lại mảnh nên tất nhiên bị mất từ lâu. Ông
tượng đá cũng bị bôi bẩn đầy người. Chim còn đến ỉa cả lên đầu. May người ông
cao vượt quá tầm với, đứng khoanh tay ôm chiếc bụng phệ, mũi lại tẹt nên còn
nguyên vẹn, ngoại trừ ít vết xước nhỏ phía dưới.
Ở
ông, ít ra trong tình trạng hiện nay, chẳng toát lên điều gì linh thiêng. Mọi
người chỉ coi ông là phiến đá dựng đứng có hình người ngồ ngộ. Nếu quả linh
thiêng thần thánh thì chắc ông đã chẳng cho phá ngôi đền thờ ông, hoặc chí ít
cũng cưỡi lên voi ngựa bỏ đi từ lâu để khỏi chịu cảnh ngày đêm mưa nắng và lũ
dân làng vô lễ xúc phạm. Cũng có thể ông từ bi, thoát tục đến mức không thèm để
ý những điều vụn vặt ấy, nên chỉ ngửa mặt lên trời mà cười. Cười gì thì không
ai biết, có lẽ cả người tạc ra ông cũng vậy. Trông ông có vẻ hiền, không xỏ
xiên thâm ác. Ít ra ông không cười những người đi qua cầu Hạ chẳng may rơi
xuống sông. Ngày xưa điều này thường xảy ra, đặc biệt với lũ trẻ chúng tôi khi
mỗi ngày hai lần đi học phải qua nó. Được cái cầu không cao, nước lại nông nên
chẳng đứa nào chết đuối.
Tôi
chưa đến Cămpuchia để biết nụ cười bí ẩn của tượng đá Bayon thế nào, chứ cái
cách cười của ông tượng đá làng tôi thì chẳng có gì đặc biệt. Thậm chí nhạt
phèo. Có kẻ tục tĩu còn bảo cười đểu. Ai nghĩ gì, mặc, bao năm nay ông đã và
chắc sẽ còn tiếp tục nhiều năm nữa đứng đấy, và cười. Chẳng sao. Người ta tạc
ông để cười thì ông cứ việc cười. Một nụ cười vô hại. Dần dần chẳng mấy ai quan
tâm đến ông, kể cả việc vì sao ông cứ ngửa mặt lên trời mà cười mãi.
Vậy
mà ở làng tôi lại có người luôn bị ám ảnh và khó chịu bởi nụ cười vô hại ấy.
Đó
là lão Kền. Lão sống một mình không vợ con, thân thích, không nhà cửa và ăn
uống cũng không nốt. Vì lão sống bằng rượu. Không thể để trong làng có người
chết đói, người ta dựng cho lão chiếc chòi giữa đồng để trông hoa màu và ao cá
hợp tác. Hàng tháng lão đến ủy ban xã nhận mấy cân gạo, gọi là tiền công cũng
được mà trợ cấp nghèo đói cũng được. Phần lớn số gạo ấy lão đem đổi lấy rượu ở
cửa hàng mụ Tám Béo. Cần thức ăn, lão xuống sông mò hến, bắt tôm. Không có gạo
thì lão ra cánh đồng mà lão được giao nhiệm vụ canh giữ để bẻ ngô, moi khoai về
ăn. Vì vậy lão cứ sống bình yên như mọi người lương thiện khác.
Gọi
là "lão" vì vẻ ngoài tiều tụy và lối sống bê tha chứ không hẳn vì
tuổi tác. Lão chưa đến năm lăm, tức cùng tuổi tôi và từng cùng tôi học hết cấp
hai. Sau đó tôi lên tỉnh học tiếp, còn lão thì ở nhà giúp ông bố làm ruộng. Mẹ
lão chết từ lâu, để bố lão, cũng nghiện rượu nặng, sống một mình với thằng con
duy nhất. Trước lão cũng bình thường như bao người khác, không hiểu do đâu nên
cơ sự này. Có người bảo vì lão không lấy được cô Mật làng bên mà thất tình, đâm
ra rượu chè. Có người lại nói lão bị quỷ ám, bằng chứng là không chỉ bê tha mà
còn dở người, thường nói những câu rất kì cục. Lão thích trích dẫn lời người
xưa và rất mê đọc sách, một việc lạ với những người như lão ở một vùng quê heo
hút thế này. Nhưng có một nguyên nhân hiển nhiên mà ai cũng biết, đó là cái
chết của bố lão. Mà lão thì yêu bố lắm. Sau khi bố chết, dường như lão không
muốn sống nữa và bắt đầu buông thả.
Thỉnh
thoảng về quê, tôi có gặp lão. Theo phép lịch sự, tôi thường dừng lại chuyện
trò với lão một chốc. Dẫu sao cũng là bạn học cũ với nhau. Lão còn học giỏi hơn
tôi cơ đấy. Lão hay nói, không ít câu chí lý. Thực tình tôi thấy ở lão chẳng có
gì khác thường ngoài mùi rượu, mùi mồ hôi nồng nặc và đôi mắt lúc đờ đẫn lúc
chợt lóe sáng như mắt người điên. Một lần lão mời tôi "vào nhà" uống
rượu, và tôi đã ngồi với lão trong cái chòi chơ vơ giữa đồng cả tiếng đồng hồ.
Lão thắp nến, rót rượu ra hai chiếc bát mẻ. Lúc ấy mới xế chiều và trời còn
nắng. Tôi hỏi sao phải thắp nến, lão bảo thế uống rượu ngon hơn, mới đúng kiểu
người xưa. Chúng tôi chỉ nói chuyện tào lao. Tôi né tránh đời riêng của lão,
còn lão thì cố lái câu chuyện sang văn chương. Hóa ra lão biết khá nhiều điển
tích cũ, cả ta lẫn tàu, không hiểu đọc được ở đâu. Thấy vậy, tôi tặng lão tập
Thơ cổ phương Đông tôi mới in, làm lão cuống lên vì mừng. Bài thơ cổ Triều Tiên
kia lão đọc từ đấy, và cũng từ đấy mới xảy ra những chuyện rắc rối sau này.
Chắc
bài thơ phải tác động lên lão mạnh lắm. Suốt ngày hôm ấy và liên tiếp mấy ngày
sau lão chỉ đọc và suy nghĩ về nó. Lão nghĩ tới cái đêm xa xưa nọ, khi bố lão
uống rượu say đi qua cầu Hạ ngã xuống sông chết đuối, mấy ngày sau người ta mới
thấy xác nổi lên. Lão hình dung hai ông già mù trong bài thơ Triều Tiên cũng có
thể dễ dàng rơi xuống sông và chết như bố lão. Rồi lão nghĩ tới sự đểu cáng của
ông tượng đá thấy vậy còn "ngửa mặt lên cười". "Đồ mất dạy, -
lão lầm bầm. - Ông mà ở đó thì ông đập vỡ mặt, xem còn cười nữa không".
Bỗng dưng lão nghĩ tới ông tượng đá bên cầu Hạ cách chòi của lão không xa. Cũng
chiếc cầu, dòng sông. Cũng ông tượng đá ngửa mặt cười. Chỉ khác là bố lão không
mù và một mình khi qua cầu. Nhưng bố lão lại chết. Thế mà thằng người đá này
còn cười. Đến bây giờ vẫn cười. "Đồ đểu! Đồ bất nhân! - lão chửi to thành
tiếng. - Không biết từ ngày ấy đến nay bố mày khổ chưa đủ hay sao mà mày còn
cười?"
Rồi
lão ngất ngưỡng ra sông, đến đứng trước bức tượng. Để tỏ thái độ khinh bỉ, lão
tụt quần tè luôn một bãi, còn cố vẩy thật cao cho nước đái té lên. Nhưng ông
tượng đá không thèm để ý, vẫn ngửa mặt lên trời cười như bao năm nay. Điều này
càng làm lão thêm tức. Trên trời là khoảng không bao la màu xám chẳng có gì
đáng cười.
-
Mày cười bố mày đó hả? - lão quát to vào cái mặt phè phè, má xệ, mũi tẹt và cái
miệng cười ngoác đến mang tai của ông tượng. Ông không thèm đáp. Lão lần nữa
nhắc lại câu hỏi hỗn xược của mình, trừng trừng nhìn lên với vẻ đầy hăm dọa.
Bất chợt lão thấy bức tượng khẽ nhíu mày gật đầu. Lão giật mình. Hay lão nhầm?
- Sao, mày thật sự cười bố mày đó hả? - lão lại hỏi, cốt để kiểm tra điều vừa
phát hiện. Thật lạ lùng, lần này lão cũng thấy bức tượng gật đầu.
Lão
đứng đớ người một lúc, không biết phải làm gì. Rồi như một thằng điên thực sự,
lão vừa luôn tay ném đất đá vào ông tượng, vừa chửi bới ầm ĩ:
-
Được lắm. Thế thì cười đi, cười nữa đi này! Chắc ngày xưa mày cũng cười đểu như
thế khi bố tao rơi xuống sông! Này, này, cười nữa đi! Không khéo chính mày làm
bố tao chết. Thế mà giờ còn dám ngửa mặt cười.
Một
lúc sau, phần vì thấm mệt, phần tỉnh rượu không còn hăng như trước, lão hổn hển
bỏ về chòi, vẫn không ngớt lảm nhảm chửi. Bây giờ thì lão tin chắc cách này hay
cách nọ thằng người đá kia có liên quan đến cái chết của bố lão.
Đêm
ấy lão đem hai cân gạo cuối cùng đến cửa hàng mụ Tám Béo đổi lấy rượu, uống say
khướt rồi lại ra sông. "Chuyến này phải cho hắn biết tay!" Lão thủ
sẵn chiếc gậy tre khá dài. Tới nơi, sau khi quát hỏi lại những câu ban chiều và
tưởng (vì trời tối lão không nhìn thấy) ông tượng đá vẫn gật đầu, lão liền lấy
gậy vụt lia lịa, chốc chốc dừng lại chửi rủa hoặc nhổ nước bọt vào ông, hệt như
ngày xưa người ta đánh và nhổ nước bọt vào tượng đồng vợ chồng Tần Cối trong tư
thế quì trước mộ Nhạc Phi cạnh chân núi Thê Hà ở Hàng Châu bên Trung Quốc.
Tượng Tần Cối được dựng lên để người đời làm nhục tên gian thần. Còn người ta
tạc ông người đá này để ông cười, thế mà lão lại đánh ông.
Suốt
mấy đêm liền lão đánh ông như thế, nhưng sáng nào ra nhìn, lão vẫn thấy ông
thản nhiên cười như không có gì xảy ra. Mặc dù tự lão cũng nhận thấy phần nào
sự phi lí của việc mình làm, nhưng lâu dần thành quen, lão cứ bị nụ cười hồn
nhiên kia ám ảnh và ngày càng tức giận một cách vô lối. Cuối cùng một tối nọ,
thay cho việc mang gậy như mọi lần, lão đem theo một chiếc búa và cứ nhè vào
cái miệng đang cười của ông tượng mà đập. "Cho mày hết cười nhé! Hết cười
con nhé!"
Hôm
sau lão dậy sớm ra xem thế nào. Ông tượng đá tội nghiệp đã bị đánh một trận nên
thân. Cái miệng bao năm nay cười vô tư đến thế bây giờ bị dập nát, rách một
miếng sâu nghiêng xuống bên phải, trông như ông đang khóc. Mà quả thật ông đang
khóc. Vậy là ông tượng cười bị lão biến thành ông tượng khóc. Ngửa mặt lên trời
mà khóc. Suốt đời phải khóc.
-
Cười nữa đi con! Cứ cười nữa cho bố mày xem nào! - lão nói với vẻ thích thú cay
độc.
Lão
hả hê lắm. Nụ cười mà lão cho là cười đểu nay không còn ám ảnh lão nữa. Thậm
chí lão coi như trả được món thù cho bố. Lão tụt quần, tè một bãi lên người ông
rồi loạng choạng bước về chòi.
Lũ
trẻ chăn trâu là những người đầu tiên phát hiện ra ông tượng khóc. Lúc đầu
chúng thấy buồn cười, sau đoán có chuyện nghiêm trọng, bèn chạy báo với ông
công an xã. Ông này nhanh chóng tìm ra thủ phạm là lão Kền.
Một
chốc sau thì gần nửa làng có mặt, tò mò ngắm nhìn ông tượng với nụ cười quen
thuộc bây giờ đang khóc. Trông ông thật tội. Cảnh vật xung quanh ông, cả con
voi và con ngựa đá vì thế mà trở nên buồn hơn rất nhiều. Dân làng cũng vậy. Họ
bắt đầu nguyền rủa lão già gàn dở. Có người đề nghị đập nát mặt lão. Mụ Tám Béo
thì tuyên bố từ nay không cho lão uống rượu nữa. Bây giờ mọi người mới nhận
thấy việc hàng chục hay thậm chí hàng trăm năm nay có ông tượng đá đứng cười
trên đất làng mình kể cũng vui, chí ít chẳng hại gì. Nay bỗng dưng ông ấy khóc,
khóc một cách thê thảm, lại không biết bao năm nữa mới thôi, mà ở ngay trên
chính mảnh đất vốn chẳng có nhiều điều vui này. Thế thì thật không ổn. Không
coi được. Đó là điềm gở. Biết đâu tai họa sẽ chẳng thi nhau ập xuống làng?
Để
trừng phạt lão Kền cái tội "Phá hoại di tích văn hóa tín ngưỡng",
người ta quyết định từ tháng tới sẽ cắt phần gạo trợ cấp cho lão. Nhưng lão
chẳng sống đến cái "tháng tới" ấy để chịu hình phạt nghiêm khắc của
làng. Chưa đầy mười ngày sau người ta thấy lão nằm chết còng queo trên cầu Hạ
(chứ không phải rơi xuống sông, vì hai bên cầu có thanh chắn). Bà y sĩ trưởng
trạm y tế xã đến khám, kết luận lão đột tử khoảng mười hai giờ đêm tối hôm
trước do uống quá nhiều rượu và bị cảm lạnh đột ngột. Cô hộ lý đi cùng bà, về
đồn khắp làng rằng lúc chết, miệng lão méo xệch, giống hệt miệng ông tượng đá. Có thể đúng thế thật, mà
cũng có thể cô phịa ra để răn đe mọi người đừng làm điều ác, ít ra cũng đừng
bao giờ tìm cách xóa đi một nụ cười. Ấy là người ta suy diễn thế thôi chứ cô
này, với học vấn lớp bảy cộng hai, chưa chắc có được cách tư duy triết lý kiểu
ân oán như vậy.
Phần
tôi, tôi cũng thấy mình ít nhiều có lỗi trong việc này. Đáng lẽ tôi không nên
tặng lão Kền tập thơ kia để đầu óc bệnh hoạn của lão có cớ suy luận theo cách
tai hại ấy. Suy cho cùng, đó chỉ là một trong rất nhiều bài thơ khác trong tập.
Nó là tác phẩm xinh xắn, đẹp một cách cổ điển và gợi đôi chút triết lý nhẹ
nhàng và chẳng đáng suy diễn những điều đao to búa lớn, lại càng chẳng đáng vì
nó mà để mất một nụ cười, dù chỉ là nụ cười của một ông tượng đá. Các bạn thử
đọc lại xem nhé:
Một ông mù
Dắt một ông mù khác qua cầu.
Cầu thì hẹp, sông thì sâu,
Nhiều lần suýt ngã.
Thế mà bên đường, ông tượng đá
Còn ngửa mặt lên cười.
Hà Nội, 8. 3. 2001
SÀNH
ĐIỆU
Khoảng
chục năm trở lại đây, trong xã hội dần dần xuất hiện và càng ngày càng đông
thêm một lớp người có thể nói đặc biệt và khá nổi bật. Đó là những nam thanh nữ
tú làm việc cho các văn phòng đại diện và công ty nước ngoài. Họ có trình độ,
giỏi ngoại ngữ, mặc những bộ đồng phục đẹp, suốt ngày ngồi trong phòng máy lạnh
sạch sẽ với đủ các thiết bị hiện đại. Họ ăn lương nước ngoài, cách cư xử, sinh
hoạt cũng phảng phất chất nước ngoài với nghĩa tốt của từ này. Ra đường, người
ta dễ nhận ra họ qua chiếc điện thoại di động thời thượng, chiếc cặp da, qua
kiểu ăn mặc - nam com-lê, ca-vat, đầu chải bóng, nữ bận váy bó nhã màu, son
phấn vừa độ. Họ nói năng lịch sự, có tiền mà không đua đòi mua sắm. Tóm lại, họ
là dấu hiệu đáng mừng của đất nước thời mở cửa và hội nhập, sự khởi đầu của một
thế hệ công chức mới mà những người thiện tâm thấy họ, không thể không lấy làm
mừng.
Phi
Hùng là một người như thế. Anh làm việc cho đại diện một công ty luật nổi tiếng
đã ba năm nay, vừa được tăng lương thăng chức sau khóa bồi dưỡng nghiệp vụ ở
Mỹ. Anh đẹp trai, da trắng, dáng thư sinh, lại có năng lực nên nhanh chóng trở
thành đối tượng mơ ươc của nhiều cô gái. Nhưng như phần lớn những người khác
cùng địa vị, anh vẫn sống một mình trong căn hộ thuê ở một chung cư hiện đại.
Thoạt nhìn ít ai ngờ chỉ mấy năm trước anh còn là một sinh viên nông thôn
nghèo. Có lẽ chút “chất quê” còn lại trong anh là tính bẽn lẽn, thật thà một
cách dễ thương và ít từng trải. Anh là người nhạy cảm, dễ xúc động, ít giao du
và ít (hay không biết) “ăn chơi”. Một người chỉn chu, nghiêm túc, chỉ chuyên
tâm vào công việc. Tóm lại, anh không thuộc loại “sành điệu”, cái thuật ngữ
dành cho những người trẻ tuổi biết chơi và chịu chơi.
Một
chiều chủ nhật nọ, đang đi giữa đường, Phi Hùng, con người nhút nhát và rất
không sành điệu ấy đã gặp một đại diện điển hình của giới ăn chơi sành điệu Hà
Thành. Đó là Long, bạn sinh viên cùng khóa, cùng lớp và cùng chia hai ngôi nhất
nhì khi tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Quốc gia. Sau đó hai người đi theo
hai ngã và cùng thành đạt theo cách riêng của mình.
Vốn
thông minh và có đầu óc kinh doanh, Long nhanh chóng từ bỏ công việc được coi
là rất triển vọng ở một cơ quan nhà nước để thành lập công ty riêng, tay trắng
và không một đồng vốn. Thế mà làm ăn phất, lúc đầu bằng môi giới, chỉ trỏ, rồi
dần dần chuyển sang kinh doanh, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Còn bây giờ thì
đường đường là giám đốc công ty Bình Long, chuyên nhập thiết bị xây dựng hạng
nặng đã qua sử dụng từ Hàn Quốc.
Như
Phi Hùng, Long vẫn độc thân, có thể vì mải làm giàu hoặc chưa tìm được ai vừa
ý. Tuy nhiên ở tuổi chưa đầy ba mươi, anh ta có vẻ quá già dặn trong đời trường
và quá sành điệu trong hưởng thụ. Bằng chứng là lớp da bì bì do thường xuyên
hấp thụ quá nhiều bia rượu và các chất béo bổ, đôi mắt lờ đờ thiếu ngủ sau
những đêm nhậu nhẹt triền miên và cả bộ ria “a la Fur” như Hitle được tỉa tót
rất cẩn thận. Gần đây bạn bè đặt thêm cho cái tên tương xứng với vẻ ngoài ấy -
Long Mỡ. Long Mỡ là tip người khác hẳn cậu thư sinh mảnh mai Phi Hùng.
-
Lâu lắm mới gặp nhau, chúng mình phải đi chơi một trận mới được. - Long Mỡ hồ
hởi nói.
-
Đi chơi? Chơi gì?
-
Cậu rõ tẩm. Trước sinh viên khổ mãi, bây giờ có điều kiện phải “sành điệu” một
chút. Chơi gì cũng chiều. Tớ bao!
-
Vấn đề không phải tiền, - Phi Hùng có vẻ lúng túng. - Nhưng quả thực tớ không
hiểu lắm. Mà rồi cũng không có nhu cầu...
-
Cậu vẫn cù lần như ngày nào. Thôi được, cậu không thích em út thì ta đi ăn
nhậu, nhưng phải là thứ đặc biệt, đúng cách ăn nhậu của dân sành điệu.
-
Tớ chưa thật hiểu...
-
Thì cứ đi, khắc hiểu. Thôi, không dài dòng nữa. Nào đi!
Phi
Hùng miễn cưỡng đi theo. Họ từng là bạn thân với nhau, lại cùng quê. “Ừ thì đi
cho biết,” anh nghĩ, mặc dù không thích nơi đông người, bia rượu và những bữa
ăn kéo dài.
Lúc
ấy khoảng bảy giờ tối. Long Mỡ đưa bạn đến một phố nhỏ ở khu trung tâm, ngoằn
ngoèo mãi, cuối cùng dừng lại trước một ngôi nhà cũ kỹ khuất trong hẻm mờ tối.
Thấy bạn có ý thắc mắc, anh ta nói ngay:
-
Yên tâm. Tớ đưa cậu đến nơi cần đến. Vào khách sạn Tây mà ăn nhậu chỉ phí tiền,
dù ở đó rẻ hơn nhiều. Đây là nơi dành cho giới chọn lọc. Chọn lọc, hiểu không
ông tẩm?
Phi
Hùng gật đầu dù chẳng hiểu gì, rồi lặng lẽ bước lên một cầu thang gỗ hẹp. Anh
nghe loáng thoáng có người nói với nhau bằng tiếng Tàu. Tầng hai hóa ra rất
rộng, có nhiều phòng nhỏ riêng biệt. Một ông lùn bước ra, ngưòi béo mập, đầu
hói nhẵn lấp lánh dưới ánh điện màu hồng tù mù. Ông này chào Long Mỡ bằng tiếng
Việt lơ lớ với sự niềm nở chỉ dành cho những khách quen nhiều tiền, rồi dẫn hai
người vào một phòng khá tươm tất. Giữa phòng kê chiếc bàn phủ khăn trắng hồ
cứng có để sẵn đồ uống và chiếc lẩu bằng i-nốc sáng loáng.
-
Hôm nay mình ăn gì? - Phi Hùng tò mò hỏi.
-
Chốc nữa sẽ biết. Tất nhiên phải là món đặc biệt. Món ăn của vua chúa. Mà không
phải vua chúa nào cũng được ăn và ăn được. Ở Việt Nam chỉ hai nơi có món này,
là đây và Quận Năm Sài Gòn. Bây giờ cứ tự nhiên khai vị bằng các món phụ đã.
Món độc chiêu ấy chỉ được đưa ra vào cuối bữa tiệc. Đừng sốt ruột.
Hai
người bắt đầu nhâm nhi những thứ các cô gái Tàu, hoặc giả Tàu, mặc quần rộng áo
chẽn màu đỏ, liên tục mang lên. Họ ôn lại “một thời sinh viên gian khổ” hoặc
nói chuyện làm ăn hiện nay. Thời gian cứ thế trôi qua, có lẽ đã hơn một tiếng.
Phi Hùng ăn uống rất ít. Nếu không tò mò muốn biết cái món “độc chiêu của vua
chúa” kia là gì, chắc anh đã dục bạn về từ lâu. Chiếc lẩu i-nốc chưa được sử
dụng vẫn kiên nhẫn chờ trên bàn.
Cuối
cùng thì “nó” cũng đến. Với vẻ trịnh trọng duyên dáng, hai cô gái bê vào một
chiếc cũi nhỏ, bốn xung quanh che bằng kính trong suốt. Phi Hùng ngơ ngác không
hiểu. Anh cúi xuống nhìn thì thấy trong cũi có con khỉ lông vàng đã được tắm
rửa sạch sẽ. Chiếc cũi thấp, đè chặt nó xuống không cựa quậy nổi. Nắp cũi rất
phẳng, cũng bằng i-nốc sáng loáng, chính giữa có một lỗ hổng rộng, làm chỗ cho
chỏm đầu con khỉ (đã được cạo sạch lông) nhô lên, um um như chóp quả dừa.
-
Cái gì thế này? - Phi Hùng ngạc nhiên hỏi, lờ mờ đoán ra đôi điều. Anh lấy mu
bàn tay lau mồ hôi trán. Từ trong cũi, ở cái thế không thể cựa quậy nổi ấy,
chắc con khỉ biết trước tai họa sắp đến. Nó nhìn anh bằng đôi mắt van xin tha
chết. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nỗi kinh hoàng và nỗi sợ không nói nên lời.
Như đứa trẻ yếu đuối, nó chắp hai bàn tay bé xíu đầy lông, liên tiếp vái lạy.
Phi Hùng quay mặt, khẽ kêu lên:
-
Thả nó ra. Trời ơi, thả nó ra! Cái quái gì thế
này?
-
Con khỉ và chiếc cũi đựng nó, cậu thấy rồi đấy, thưa cậu tẩm. - Long Mỡ nói,
không dấu vẻ tự hào đắc thắng. - Hôm nay chúng ta sẽ dùng món óc khỉ tươi. Đúng
kiểu Từ Hy thái hậu ngày xưa chiêu đãi các sứ thần nước ngoài. - Rồi hắn giơ
chiếc dao Thái Lan to bản, mỏng dính ngang tầm chém, nghiêng ngươi và...
Người
viết câu chuyện này xin phép không đi vào chi tiết những gì xẩy ra sau đó, vì
một việc làm man rợ, một sự suy đồi đạo đức như vậy của những kẻ tự xưng sành
điệu, xưa hay nay cũng vậy, chỉ đáng bị chúng ta phỉ nhổ. Chỉ cần nói thêm rằng
với vẻ thích thú, điêu luyện, hắn liệng một nhát dao, và chóp sọ con khỉ tội
nghiệp bay ra, để lộ mớ óc trắng bầy nhầy. Trong tiếng kêu ai oán của con vật,
Long Mỡ, cũng thích thú và điêu luyện không kém, thản nhiên múc từng thìa nhỏ
óc khỉ, nhúng vào chiếc lẩu đang sôi rồi cho vào miệng ăn ngon lành. Trong suốt
thời gian ấy con khỉ vẫn sống, vẫn không ngớt kêu khóc mỗi lần hắn chọc thìa
múc óc nó. Điều này càng làm hắn thích thú và ăn ngon miệng hơn. “Bổ! Đại bổ
đấy! Nào, ăn đi cậu!” - hắn bảo Phi Hùng khi anh vừa nôn mửa vừa chạy về phía
cửa, nhưng cửa đã bị chốt từ bên ngoài. Cả điều này cũng làm hắn thích thú.
“Không sao. Rồi dần sẽ quen. Lúc đầu tớ cũng vậy. Ăn chơi phải tàn bạo, đúng
không? Nào, thử một tí. Nào...” Hắn dí chiếc thìa với chút óc bầy nhầy vào sát
miệng Phi Hùng. Anh ngả người về phía sau, mặt tái nhợt, thở không ra hơi và
đang định giang tay tát vào mặt hắn thì ngã xuống sàn, bất tỉnh trong tiếng
cười khả ố của thằng bạn.
*
Khi
tỉnh dậy, Phi Hùng ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên chiếc đi-văng trong phòng
khách căn hộ của mình, vẫn nguyên quần áo và giày dép cùng mùi tởm lợm của thức
ăn nôn ọe dính trên đó. Anh rùng mình nhớ lại những gì vừa xẩy ra. Sự sợ hãi và
kinh tởm khiến anh không thể gượng dậy tắm rửa, thay quần áo hoặc xem đồng hồ.
Anh đoán chắc đã khuya. Xung quanh yên tĩnh khác thường. Không một tiếng động
nhỏ. Không tiếng muỗi vo ve. Không cả tiếng xe đều đều quen thuộc từ xa vọng
lại như mọi ngày. Anh nằm bất động rất lâu, miên man suy nghĩ tại sao người ta,
cụ thể là thằng bạn thân của anh, ít ra một thời từng thân, có thể “sành điệu”
đến mức ăn uống theo cách ghê tởm ấy. Hơn thế, người ta còn muốn kéo anh vào.
Vì sao Long, một thằng nhà quê chất phác như anh, một sinh viên giỏi, một trí
thức, một nhà kinh doanh thành đạt, lại trở thành người như anh thấy hôm nay?
Vì sao anh ta có thể làm nổi một việc như vậy?
Đó là tội ác, là thú tính, là phi đạo đức, là...
Bất
chợt Phi Hùng nghe có tiếng động rất khẽ. Hình như tiếng bước chân rón rén. Anh
chú ý lắng nghe. Không, không có gì thêm. Xung quanh vẫn là sự im lặng tuyệt
đối. Đầu anh ong ong, đau nhức. “Chắc mình tưởng tượng thế thôi. Cửa có chốt tự
động, đóng vào là tự khóa luôn. Không người nào, con vật nào, dù nhỏ, có thể
lọt vào được.” Yên tâm phần nào, vẫn ở tư thế nằm ngửa bất động, anh trân trân
nhìn lên trần nhà tối om và lại miên man suy nghĩ. Một chốc sau, tiếng bước
chân rất nhẹ và bí ẩn kia lại xuất hiện. Hơn thế, mỗi lúc một rõ hơn, nghe gần
hơn. Hình như nó đang bước lại chỗ anh nằm. Chắc chắn như vậy, không thể nhầm
được. Tim anh đập loạn xạ, các ý nghĩ như bị tê liệt. Lấy hết can đảm, anh
ngoảnh đầu nhìn về phía cửa ra vào, nơi có núm điện công-tắc đang đỏ hồng hồng
một cách yếu ớt. Tuy nhiên, trong căn phòng tối om nó cũng đủ sáng để anh nhìn
thấy một bóng đen nhỏ, thấp tròn đang di động chậm chạp. Gặp cái nhìn của anh,
nó dừng lại và chắc cũng đang chăm chú nhìn anh.
-
Ai đấy? - anh hỏi to. Không có tiếng đáp lại. Cái bóng đen bé nhỏ vẫn đứng im.
Rồi nó bước lại gần anh, một bên vai sệ xuống. Kiểu đi cà nhắc của người thọt
hoặc đau chân. - Ai? Ai đấy? - Anh kêu
to lần nữa, rồi trong cơn hoảng sợ tột độ, anh vùng dậy, chạy bổ về phía chiếc
công-tắc đèn.
-
Ôi!..
Phi
Hùng ôm mặt thảng thốt khi dưới ánh đèn sáng rực chợt nhìn thấy một con khỉ nhỏ
đang đứng trước mặt mình. Chính con khỉ ở nhà hàng người Tàu. Con khỉ bị chém
mất chỏm đầu với hộp sọ bây giờ trống rỗng, và một chân, chân phải, đã bị chặt
cụt gần hết cả bàn. Nó không hề có vẻ dữ tợn, không có ý định làm hại ai, là
điều khiến anh thấy đỡ sợ. Nó chỉ đứng yên nhìn anh, cũng cái nhìn van xin ấy
như ở nhà hàng, chỉ thêm nỗi đau, nỗi đau của con vật tội nghiệp. Chỉ van xin
và nỗi đau. Không có tức giận hoặc trả thù. Nó vái anh mấy cái rồi chìa bàn tay
để ngửa trước mặt, kiên nhẫn chờ. “Nó xin mình cái gì chăng?” anh nghĩ. Bây giờ
sự sợ hãi đã biến mất, thay vào đó là lòng thương và nỗi đau, nỗi đau của con
người đang hoảng sợ và bất lực. Đau cho con vật bé bỏng bị con người bắt làm
vật hy sinh để thỏa mãn thú chơi đê tiện của mình. “Nhưng nó xin gì? Mình có
thể cho nó gì ?”
Lúng
túng và một cách vô ý thức, Phi Hùng cho hai tay vào túi áo vét. Chiếc áo mới,
là phẳng phiu và chẳng bao giờ anh để gì trong túi, thế mà lúc này chúng hơi
cồm cộm. Anh ngạc nhiên lôi cái cồm cộm ấy ra, rồi ngay lập tức vứt chúng xuống
sàn nhà. Một bàn chân khỉ còn dính máu và phần chóp hộp sọ bị dao chém sắc gọn
còn nguyên vẹn. Thì ra như thể trêu anh thế chưa đủ, thằng Long Mỡ còn lén giấu
vào túi áo bạn hai thứ này để làm anh phải khiếp sợ lần nữa.
Trong
khi anh bàng hoàng đứng đờ người thì con khỉ nhanh nhẹn nhặt chóp sọ đặt lên
đầu và chắp bàn chân cụt vào chỗ cũ. Nó nhìn anh biết ơn, lạy ba cái rồi lặng
lẽ đi ra khỏi phòng, chân không còn cà nhắc. Chỉ lúc này anh mới nhận thấy cánh
cửa đã bị mở từ bao giờ.
*
Ngày
hôm sau Phi Hùng được đưa vào bệnh viện. Sau đó một tháng thì anh bị chuyển tới
một nhà thương điên của thành phố. Điên nặng, đến mức người ta phải xích hoặc
có chế độ giám sát đặc biệt. Thế mà mấy lần anh khôn khéo trốn khỏi bệnh viện.
Từ
một thanh niên có học dễ thương, một công chức đầy triển vọng được bạn bè kính
nể, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Phi Hùng bỗng trở thành một thằng điên
quần áo rách rưới bẩn thỉu, ăn bụi nằm bờ, lang thang hết nơi này đến nơi khác,
khiến ai nhìn cũng lấy làm ái ngại, đặc biệt các đồng nghiệp và những người
quen biết.
Người
ta ngạc nhiên nhận thấy thằng điên này hay la cà bãi chợ để nhặt những chiếc
mỏm gáo dừa, luôn quấy rầy các cửa hàng thịt chó, năn nỉ xin chân chó. Hai thứ
này, chẳng hiểu để làm gì, nó kiếm được khá nhiều, chất đầy chiếc bị cói luôn
đeo bên hông. Ai hỏi, nó nhất định không nói, chỉ cười, nhe hàm răng trắng hếu.
Nó cười mà trông như khóc. Tội nghiệp.
Còn
Long Mỡ thì sao? Hắn có ý thức được rằng chính hắn và cái thói sành điệu tai ác
kia của hắn đã đẩy bạn đến nước này không? Có thể có mà cũng có thể không. Tính
hắn hay quên, nhất là quên việc hắn đã làm và các hậu quả của nó. Mà rồi cũng
có thể hắn lập luận sự việc theo cách riêng của mình. Nhưng một điều có thể xác
minh được. Đó là việc hắn cũng thương thằng điên này, một thời từng là bạn thân
của hắn. Cụ thể là có lần bất chợt gặp nó, hắn đã hào phóng đãi nó một bữa cơm
bụi. Muốn ăn gì thì ăn, sướng chưa! Lúc chia tay, hắn còn dúi cho nó mấy nghìn
tiền lẻ, khiến thằng kia mừng run, vừa đi vừa cười. Một nụ cười mếu máo.
Còn
Long Mỡ thì đứng nhìn theo, buông một câu:
-
Cái thằng này hóa ra thế mà độc đáo. Sống điên. Làm thằng điên. Sành điệu ra
phết!
Hắn
vẫn tiếp tục làm ăn phát đạt. Vẫn đều đặn tham dự các hội nghị tuyên dương
những nhà kinh doanh trẻ. Nghe nói hắn còn là nhà từ thiện lớn. Thỉnh thoảng
hắn vẫn đến phố người Tàu kia, có lúc dẫn thêm bạn để khai sáng cho họ đôi chút
về cái thuyết ăn chơi sành điệu của hắn. Cũng có thể hắn đã làm nhiều người
khác nữa phát điên như Phi Hùng mà chúng ta biết.
Hà Nội, 8. 7. 2002
TRÒ
ĐÙA CỦA SỰ NGẪU NHIÊN
Xét
về mọi phương diện, ông Lộc là người may mắn và thành đạt. Khi nói về ông,
người ta hay bảo: Cái số lão ấy sướng!
Ông
mới bước qua tuổi năm mươi và suốt chừng ấy năm, bất chấp chiến tranh, bất chấp
khó khăn chung của đất nước và thời cuộc, đời ông diễn ra suôn sẻ và quá ư tốt
đẹp. Cứ như có thần hộ mệnh luôn bên cạnh để che chở và lái con đường cuộc đời
ông theo hướng may mắn. Nếu có khổ thì cũng chỉ những năm còn nhỏ, ấy là cái
khổ của ăn chưa no lắm, mặc chưa đẹp lắm và một ngày hai buổi vắt vẻo trên lưng
trâu hoặc chơi khăng ngoài đồng cùng bọn trẻ, vì ông sinh ở nông thôn. Bù lại,
nhà ông được xếp vào loại nghèo nhất dù chẳng kém nhà nào trong làng, nên
nghiễm nhiên ông được ưu đãi mọi bề. Không phải thi chuyển cấp từ cấp hai lên cấp
ba, sau đó đúng năm tốt nghiệp phổ thông, năm 1967, thì có chủ trương không
phải thi đại học. Nhờ “thành phần cơ bản”, ông được chọn đi học nước ngoài, tất
nhiên đi nước xịn nhất thời bấy giờ là Liên Xô và học trường xịn nhất là
Lômônôxôp ở ngay thủ đô Matxcơva. Học cái môn ông không thật giỏi lắm là toán.
Thế mà ông được học tiếp thành phó tiến sĩ, rồi tiến sĩ, ngẫu nhiên chỉ vì lúc
ấy ít sinh viên Việt Nam và bạn muốn đào tạo “cán bộ đầu ngành” cho ta. Lúc ông
về nước thì chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Trước đấy ông chỉ tận mắt thấy máy
bay Mỹ bay qua làng vài lần, còn bom nổ thì chưa lần nào.
Với
tấm bằng tiến sĩ từ Liên Xô, đương nhiên ông được đặt vào chức vụ xứng đáng,
lúc đầu là tổ trưởng bộ môn toán ở một trường đại học danh tiếng của thủ đô,
sau cứ thế mà tiến - phó khoa, trưởng khoa rồi giáo sư, còn bây giờ thì ông
đang ngấp nghé chức phó hiệu trưởng của chính cái trường ấy. Một ước mơ trong
tầm với, và trước khi về hưu chắc ông phải được ngồi ở ghế hiệu trưởng ít năm.
Ông tin như thế, mọi người cũng tin như thế. Biết đâu ông chẳng còn tiến xa
hơn. Vậy chắc phải giỏi chuyên môn lắm? Không hẳn. Tất nhiên ông không dốt, vì
quá dốt cũng như quá giỏi, ông đã chẳng được như ông ngày nay.
Các
mặt khác, ông cũng may mắn và thành đạt không kém. Bà vợ xinh đẹp nết na vốn là
sinh viên của ông, được chồng nâng đỡ nay đã là trưởng phòng khoa học. Hai đứa
con gái đang học đâu đó bên Âu Mỹ, tất nhiên theo diện học bổng toàn phần nhờ
quan hệ riêng của vợ chồng ông với đồng nghiệp nước ngoài. Còn kinh tế thì khỏi
nói, ngay từ thời khó khăn nhất ông đã được cấp một căn hộ kép tầng một ngay
trong trường. Tiền bạc cứ rủ nhau theo ông vào nhà, qua các chuyến công tác
nước ngoài khá thường xuyên (cái thời đi nước ngoài được coi là cách làm giàu
nhanh và dễ nhất), qua vụ ông vào Miền Nam lập chi nhánh trường ngày mới giải
phóng, khi ra khuân bao nhiêu là đồ, cộng một ngôi nhà ở quận Hai ông xin được
với danh nghĩa cho trường nhưng thực ra là của ông. Thời mở cửa thì ông mở lớp
dạy thêm, rồi mở trung tâm luyện thi đại học. Đấy là chưa nói ông trúng đậm mấy
quả kinh doanh bất động sản, cả những năm 93 - 94 và mới vừa rồi. Tóm lại, hiện
giờ ông là người giàu, rất giàu, đến mức nhiều khi chính ông cũng không tin
mình có thể giàu đến mức ấy...
Vậy
quả đúng ông Lộc là người may mắn và thành đạt mọi bề. Ông hài lòng với mình,
với cuộc sống đang có. Sự hài lòng ấy thể hiện qua tạng người béo tốt, cử chỉ
tự tin và qua cả nụ cười bao dung, dễ dãi. “Cái số lão ấy sướng!” ông thường
nghe người ta nói sau lưng như vậy, không phải không chút ghen tị, nhưng ông
chả giận vì đang tràn trề hạnh phúc, do vậy đứng cao hơn sự chấp nhặt của người
đời. Ông thành thật tin những gì ông đạt được là nhờ đầu óc thông minh và lao
động chân chính của mình. Nghĩ thế cũng đúng, vì công bằng mà nói, ông thuộc
loại người tử tế và chưa làm điều gì thất đức để lương tâm phải cắn rứt.
“Chẳng
có số phận nào hết. Tất cả đều do nỗ lực bản thân,” ông hãnh diện nói với mình
và với người khác, rồi tự lúc nào không biết ông bắt đầu có cái nhìn như kiểu
từ trên nhìn xuống với những người nghèo và kém thành đạt hơn. Thậm chí ông còn
động lòng thương hại họ.
*
-
Lúc nãy giáo sư nói thế chưa hẳn đúng hoàn toàn.
Ông
Lộc quay sang nhìn. Đang thong thả bước bên ông là một ông già bé nhỏ ăn mặc
lịch sự tuy hơi cổ lỗ, đặc biệt chiếc mũ phớt nhăn nhúm trên đầu dù đang mùa
hè, và chiếc khăn trắng dắt lé một cách kiểu cách trên túi áo vét.
-
Xin lỗi, nhưng tôi đã nói gì cơ ạ?
-
Về chuyện có hay không có số phận ấy mà. Và về cả cái lập luận “nỗ lực cá nhân”
của giáo sư nữa.
Ông
Lộc khẽ à một tiếng. Chả là lúc nãy, như thường lệ vào các chiều chủ nhật, ông
cùng mấy người bạn ngồi uống bia, chuyện gẫu với nhau suốt buổi ở đầu phố Tông
Đảng. Ông mới tập uống bia vài năm nay, và tự cho phép mình mỗi tuần một lần
được thư giản theo cách ấy. Nhân hôm qua truyền hình chiếu những cảnh thương
tâm về các nạn nhân chất độc màu da cam, lần này họ sôi nổi nói đề tài ấy. Là
những trí thức tâm huyết với đời, ai cũng tỏ vẻ xúc động chân thành, không tiếc
lời lên án bọn Mỹ vô nhân đạo và vô trách nhiệm. “Âu cũng là cái số mà họ phải
chịu!” một người chép miệng. Thế là đề tài câu chuyện quay sang số phận. Như
thường lệ, ông Lộc hăng hái bảo vệ quan
điểm “nỗ lực cá nhân” của mình, theo kiểu anh lười, tức là không chịu lao động,
học hành tử tế thì không thể thành đạt, cũng như người không chú ý nhìn đường
thì có thể dễ dàng rơi xuống hố. Về buổi truyền hình hôm qua, theo ông, người
ta có thể chủ động tránh được phần nào những cảnh đau lòng ấy. Thí dụ, những ai
sống và chiến đấu ở vùng bị rải chất độc đáng lẽ phải đi khám bác sĩ xem có bị
nhiễm không, nếu có thì phải tìm cách giải độc. Y học hiện đại chắc làm được
điều ấy. Hoặc nếu đã trót sinh đứa con dị tật thì đừng sinh tiếp những đứa dị
tật khác. Thậm chí cả khi lâm vào cảnh ấy, “nếu cố gắng, hết sức cố gắng, người
ta cũng có thể vượt qua số phận. Khối người bệnh tật hiểm nghèo mà vẫn trở
thành nổi tiếng đấy sao?” Đại khái ông
nói như vậy, và người khác, dẫu không tán thành nhưng cũng không bác bẻ được.
Ông
Lộc tò mò nhìn ông già lạ mặt. Chắc ông ta cũng có mặt ở quán bia lúc ấy và đã
nghe hết câu chuyện của họ. Tính ông không thích bắt chuyện với người lạ, nhưng
lúc này ông đang vui, đang hưởng cái thú được đi bộ về ngôi biệt thự cổ xinh
xắn của mình ở xóm Hạ Hồi. Một quãng đường xa nhưng ông thích đi bộ hơn ô-tô
(ông có ô-tô riêng, thuê hẳn một người lái trực 24 trên 24). Đi bộ là cách thư
giãn mà chỉ những người thật giàu như ông mới kham nổi.
-
Nghĩa là... - ông ngập ngừng không biết nên xưng hô thế nào, ông hay bác . -
Nghĩa là bác cũng tin vào số phận?
-
Cả có mà cũng cả không. - Ông kia đáp. - Theo kiểu nói dân gian thì là số phận,
nhưng dưới góc độ khoa học, có thể gọi theo cách khác.
-
Theo bác thì gọi là gì ? - Ông Lộc hỏi, cảm thấy ông già kỳ quặc này có thể là
người nói chuyện thú vị.
-
Tôi cùng đường với giáo sư.
“Cùng
đường với mình? Ông ta biết mình đi đâu mà bảo cùng đường?” Ông Lộc thầm ngạc
nhiên nhưng không nói gì.
-
Tôi có việc tới ga Hàng Cỏ. - Ông già nói tiếp. - Nếu giáo sư không phản đối,
ta vừa đi vừa nói chuyện. Hôm nay quả là một ngày đẹp trời.
Ông
già nheo nheo mắt sau cặp kính tròn bé tí treo trên đầu mũi, kiểu kính các trí
thức cũ Hà Nội ưa dùng cách đây năm, sáu chục năm.
-
Cái mà chúng ta vẫn gọi là số phận ấy mà, theo tôi đơn giản chỉ là trò đùa ngẫu
nhiên. Sự ngẫu nhiên, ở các mức độ khác nhau, chi phối mọi cái trên đời này, cả
ở cấp vĩ mô là vũ trụ, lịch sử thế giới, lẫn cấp vi mô là cuộc sống của từng
con người chúng ta. Như giáo sư biết, nếu trái đất không bị thiên thạch ngẫu
nhiên va đập mạnh cách đây sáu mươi lăm triệu năm, ắt loài khủng long đã không
tuyệt chủng, mặt đất không bị băng hà xâm chiếm, và sự phát triển của sự sống
hành tinh chúng ta có thể đã đi theo một hướng khác. Pascal từng nói một câu
nổi tiếng: “Tướng Cromwell sắp tàn phá cộng đồng Cơ Đốc giáo. Hoàng gia Anh đã
sụp đổ và dòng họ Cromwell sẽ đời đời hùng mạnh nếu không vì một hạt sạn nhỏ
nằm trong đường tiết niệu của ông. Ngay cả nhà thờ La Mã cũng khiếp sợ trước
ông, nhưng chỉ vì hạt sạn bé nhỏ ấy mà ông qua đời, dòng họ Cromwell cũng suy
sụp theo. Mọi việc lại tiếp diễn theo cách cũ của mình, và một vị vua mới lại
lên ngôi.” Giáo sư thấy đấy, tất cả chỉ vì một hạt sạn ngẫu nhiên. Lại nữa, ai
biết được lịch sử châu Âu cận đại sẽ thế nào nếu khi còn là một sĩ quan pháo
binh trẻ tuổi ở đảo Corse, Napoleon không được một người đàn bà bình thường
ngẫu nhiên cứu khỏi cái chết trong gang tấc? Điều này có nói đến trong tác phẩm
của Maupassant, chắc giáo sư đã đọc?
Ông
Lộc khẽ gật đầu mặc dù ông ít đọc sách văn học, còn Maupasant thì ông đọc từ
hồi sinh viên, mà cũng chỉ mấy truyện. Cromwell ông cũng biết rất lờ mờ, mang
máng nhớ hình như ông ta là vị tướng lỗi lạc người Anh.
-
Thế còn cấp vi mô? - ông Lộc thực sự thấy câu chuyện trở nên thú vị.
-
Cũng thế cả, có điều ở qui mô nhỏ hơn, chỉ liên quan đến một người hoặc một
nhóm người. Trở lại vấn đề chất độc màu da cam. Việc Mỹ ném nó xuống Việt Nam
và gây hậu quả tai hại là một tất yếu. Chính quyền Mỹ phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm về điều đó. Trong chiến tranh, bị thương, chết chóc là sự tất yếu, nhưng
bị thương hoặc bị chết ở đâu, thế nào, lại thuộc phạm trù ngẫu nhiên. Gã con
trai của đô đốc Zumwalt (ông này trực tiếp ra lệnh rải chất độc điôxin xuống
đồng bằng sông Cửu Long năm 1966) ngẫu nhiên được sung vào lực lượng tuần tiễu
dọc các kênh rạch khu vực này nên bị chết. Hàng nghìn nạn nhân Việt Nam khác
như ta thấy hôm qua trên vô tuyến cũng vậy. Ngẫu nhiên có mặt lúc ấy ở thời
điểm ấy nên bị nhiễm. Ngẫu nhiên lấy phải người bị nhiễm, ắt sẽ sinh ra những
đứa trẻ dị tật tội nghiệp. Cả tôi và giáo sư cũng không là ngoại lệ. Nếu hoàn
cảnh đưa đẩy, tức là trò đùa của sự ngẫu nhiên ấy rơi vào chúng ta, tôi và giáo
sư, nhất là giáo sư, đều có thể dễ dàng nhiễm nó. Chúng ta cùng con cái, người
thân chúng ta sẽ bất hạnh như thế, thậm chí còn hơn...
-
Sao bác bảo nhất là tôi? - Ông Lộc tò mò hỏi, thoáng chút khó chịu.
-
Vì xác suất giáo sư gặp cái ngẫu nhiên đó lớn hơn tôi. Lúc ấy giáo sư mới hai
mươi tuổi, tuổi quân dịch, còn tôi đã gần sáu mươi. Vả lại suốt thời gian chiến
tranh tôi sống ở nước ngoài...
“Năm
66 đã sáu mươi, vậy bây giờ hơn một trăm? Lão già này hoặc mất trí, hoặc là một
lão phù thủy.” Ông Lộc nhíu mày, hỏi:
-
Xin lỗi, nhưng bác là ai?
-
Một đồng nghiệp của giáo sư. Người ta cũng gọi tôi là “giáo sư” đấy, mặc dù tôi
chưa bao giờ được chính thức phong tặng danh hiệu cao quí đó. Tôi là một nhà
nghiên cứu, chính xác hơn, một nhà phát minh độc lập. Ông đừng mất công bới lục
trí nhớ để biết tôi là ai. Ông không biết đâu. Vả lại điều ấy chẳng có ý nghĩa
gì. - Rồi nhìn ông Lộc bằng đôi mắt nheo nheo tinh nghich sau cặp kính, ông già
cười nói: - Giáo sư yên tâm. Tôi là người tử tế. Chí ít không có ý định xấu xa
nào. Hơn thế, bằng các phát minh của mình, tôi có thể chứng minh được đôi điều
đã nói. Cả những điều trực tiếp liên quan đến giáo sư, tất nhiên nếu giáo sư
muốn...
-
Liên quan đến tôi? - Ông Lộc buột miệng thốt lên. - Sao lại liên quan đến tôi?
Liên quan cái gì?
-
Cái trò đùa của sự ngẫu nhiên. Chẳng hạn, vì một sự ngẫu nhiên nào đó, nhỏ
thôi, nhỏ như hạt sạn trong đường tiết niệu của tướng Cromwell, cuộc đời của
giáo sư có thể đã thay đổi hoàn toàn. Chính xác là giáo sư tránh được một sự
ngẫu nhiên trong đời mình, nên mới là giáo sư, một người may mắn, thành đạt như
ngày nay. Nếu không thì...
-
Nếu không thì sao?
-
Giáo sư muốn biết à?
-
Vâng. Nhưng làm sao bác chứng minh... Làm sao bác chỉ cho tôi thấy được điều
ấy?
-
Đó là việc của tôi. Tôi là nhà phát minh và có đủ các phương tiện cần thiết để
làm việc ấy. Nếu giáo sư thực tình muốn thì hãy đi theo tôi. Ngay bây giờ càng
tốt vì tôi chẳng còn ở đây lâu nữa. - Thấy ông Lộc có vẻ do dự, ông già nói
thêm: - Đừng lo. Không có chuyện gì đâu, ngoài một cú sốc nhỏ về tinh thần, là
điều có thể có lợi cho giáo sư đấy.
-
Ta ngồi xuống đây nghỉ tí đã. - Ông Lộc chỉ chiếc ghế đá ở vườn hoa nhỏ cạnh
phố Tràng Thi. Ông đang bối rối trước một sự lựa chọn tế nhị. Ông tò mò muốn
biết cuộc đời suôn sẻ của ông mà ông coi như đương nhiên phải thế có thể trở
thành khác như thế nào. Tuy nhiên, vốn thận trọng, ông không thể không tính tới
những hậu quả chưa lường trước. - Tôi chưa thật hiểu lắm. Xin bác nói lại...
*
Khoảng
mười lăm phút sau, ông Lộc theo ông già lạ mặt đi dọc phố Hàng Trống rồi đến
một con hẻm nhỏ mờ tối trông rất lạ. Hình như các đường phố lân cận cũng khang
khác. Ông đưa mắt tìm biển phố nhưng không thấy. Căn phòng họ bước vào ở ngay
tầng một, nằm khuất bên trong. Nó khá rộng, ngổn ngang các dụng cụ thí nghiệm
và một đống sách báo phủ đầy bụi.
-
Tôi ít khi làm việc ở đây nên hơi bừa bộn, giáo sư thông cảm. Sẽ không mất
nhiều thời gian đâu. Thế này nhé, - ông già vừa nói vừa dẫn khách lại gần một
chiếc tủ kim loại hình vuông trong góc phòng. - Đây là phát minh mới nhất của
tôi. Nó có nhiều chức năng, có thể đưa ta trở lại quá khứ hoặc biết trước tương
lai. Hôm nay nó sẽ giúp giáo sư biết thêm một hướng phát triển khác của đời
mình...
-
Bằng cách nào?
-
Rất đơn giản. Phát minh ra chiếc máy này mới phức tạp chứ sử dụng nó thì đơn
giản lắm. Giáo sư chỉ việc ngồi lên chiếc ghế trong đó. Máy ly tâm sẽ quay với
vận tốc cực lớn và đưa ông sang một thế giới khác, trong trường hợp này là một
mảng đời khác có thể xẩy ra với ông. Giáo sư không cần ra ngoài, điều ấy có thể
nguy hiểm, chỉ cần nhìn qua tấm kính nhỏ là đủ. Đừng sợ, không ai nhìn thấy ông
đâu, không đau đớn hoặc nguy hiểm chút nào. Chiếc ghế được thiết kế đặc biệt để
không bị tác động bởi vòng quay máy ly tâm. Mười lăm phút sau hoặc lâu hơn nếu
giáo sư muốn, nhưng tôi nghĩ chừng ấy là đủ, nó sẽ đưa ông trở lại trạng thái
bình thường như bây giờ. Lúc ấy chúng ta sẽ nói chuyện tiếp, nếu cần, tôi sẽ
giải thích thêm đôi điều. Thế nào, ta thử chứ?
Ông
Lộc bối rối nhìn ông già vẻ dò xét, nhưng không thấy dấu hiệu mờ ám nào ở con
người kỳ cục này. Ông khẽ gật đầu rồi chui vào chiếc tủ sắt, ngồi xuống chiếc
ghế xoay có lưng tựa và hai tay vịn. Ông hít thở sâu và từ từ nhắm mắt...
Có
tiếng gì đó bắt đầu xoay êm êm. Ông Lộc lặng người, cảm thấy mình bị đưa đi đâu
đó rất xa, chẳng hiểu xa về thời gian hay khoảng cách. Ông không dám mở mắt, và
biết có mở cũng chẳng thấy gì ngoài một màu tối đen. Cuối cùng là im lặng. Sự
im lặng tuyệt đối. Không chuyển động. Không một âm thanh nhỏ. Mãi lúc sau ông
mới mở mắt nhìn vào ô kính trước mặt nhưng chẳng thấy gì ngoài một mảng nhờ
nhờ. Tuy nhiên, nhìn kỹ, mảng nhờ nhờ ấy bắt đầu tan dần và ông nhìn thấy cảnh
một gia đình nghèo, chắc là nông dân vì có hai chiếc hái gặt lúa treo trên
tường. Tường nhà bằng phên tre trát bùn, nhiều chỗ đã thủng. Nhà tuềnh toàng và
nghèo đến mức khó tin. Mấy chiếc xoong bẩn vứt ngổn ngang đầy ruồi bâu. Cả nhà
chỉ có một chiếc giường gỗ tạp mòn sứt, bừa bộn chăn màn, quần áo cũ. Lẫn giữa
đống giẻ ấy là một đứa bé oặt ẹo, dị dạng, vì thế ông không biết bao nhiêu
tuổi, có thể mười mà cũng có thể ba mươi. Cái đầu to quá cỡ với đôi mắt đần độn
vô hồn. Đôi chân khoèo bé tí, chắc không đi được nên phải nằm trên giường. Nó
chỉ có một tay, thỉnh thoảng lại giơ lên bắt những con ruồi bạo dạn trước mặt
rồi cho vào mồm, không bắt được cũng cho vào mồm. Rồi nhai, vẻ ngon lành. Tiếp
đến, bước vào nhà là một ông già mặc quần đùi, chân đất, da đen nhẻm, đầu tóc
bù xù bạc trắng. Chắc ông ta vừa đi làm hay đâu đó về, nét mặt quàu quạu, đau
khổ và tuyệt vọng.
Ông
Lộc giật thót mình khi nhận ra con người ấy chính là ông. Ông dụi mắt không tin
và nhìn kỹ lần nữa. Đúng. Ông. Khác lắm, nhưng chính là ông. Con người ta có
thể thay đổi nhiều nhưng những nét chính vẫn nhận ra được, nhất là bản thân
mình. Ông già kia kêu to cái gì đấy nhưng ông Lộc không nghe rõ. Ngồi ở đây ông
chỉ nhìn chứ không nghe được. Liền sau đó, một ông già khác đi vào. Cũng có thể
đó là một người còn trẻ, cũng dị tật nên không thể biết tuổi. Người này cổ ngẹo
một bên, miệng méo sang bên khác, hai tay lành lặn nhưng một chân teo nên phải
chống nạng. Khuôn mặt mang đầy đủ dấu hiệu của sự chậm phát triển trí tuệ. “Con
mình đấy. Cả đứa nằm trên giường cũng con mình!” Ông Lộc ôm mặt không dám nhìn
tiếp. Khi ông mở mắt thì thấy hai phụ nữ, một trẻ một già, ăn mặc tươm tất và
hoàn toàn bình thường, đang vừa nói gì đó vừa lễ phép chìa ra một chiếc phong
bì. Ông kia đỡ lấy nó bằng cả hai tay, miệng mấp máy rối rít, vẻ cảm động lắm.
Đúng
lúc ấy thì ông Lộc lại nghe có tiếng máy ly tâm quay, rồi ông đang bay ngược
trở lại. Bất giác ông thở phào nhẹ nhỏm, muốn trở về với cuộc sống thật hiện
tại của mình càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, ông vẫn kịp nhìn thấy thằng bé-ông
già con ông rút ra từ chiếc phong bì một tờ giấy bạc năm mươi nghìn đồng còn
mới. Mắt nó long lanh. Nó cười sung sướng. Một nụ cười méo trên khuôn mặt đần
độn. Còn ông, tức là ông già chân đất kia thì đứng cạnh, không hiểu sao lại
khóc...
*
-
Thưa giáo sư, ông thấy thế nào? Chắc ngạc nhiên lắm phải không? - Ông già bác
học hỏi với giọng thông cảm, nhưng nếu tinh, vẫn nhận thấy có chút diễu cợt
trong đó.
Ông
Lộc ngồi im, hai tay ôm mái đầu đã lốm đốm bạc. Ông ngồi như thế kể từ lúc trở
lại, mồ hôi vã đầy trán. Ông vẫn chưa hết bàng hoàng trước những gì mới tận mắt
chứng kiến.
-
Bây giờ giáo sư đang ở đây an toàn, chốc nữa sẽ lại có mặt trong căn biệt thự
cổ ở xóm Hạ Hồi với bà vợ xinh đẹp và những vật quen thân của mình. Thì tôi đã
nói trước rằng sẽ bị sốc chút ít. Tôi rất hiểu tình cảm giáo sư lúc này. Tôi
cũng biết giáo sư đang thắc mắc vì sao có thể như thế được. Đơn giản thôi mà.
Tất cả chỉ vì một sự cố ngẫu nhiên nhỏ, rất nhỏ. Có thể giáo sư còn nhớ, nhưng
tôi cứ nhắc lại. Cuối tháng Bảy năm 1967, chính xác là vào ngày 28, giáo sư,
lúc ấy mới tốt nghiệp phổ thông, nhận được giấy báo đi học nước ngoài. Tuy
nhiên, trước đó năm ngày, điều này chắc chắn giáo sư không biết, cậu Thịnh,
nhân viên bưu điện huyện Diễn Châu đã nhận từ Huyện Đội ba giấy gọi nhập ngũ
mang về xã Diễn Lộc, trong đấy có một giấy ghi tên giáo sư. Tiếc thay, cũng có
thể gọi may thay, đến Chợ Hôm cậu ấy bị một chiếc xe tải quệt phải, nhẹ thôi
nhưng phải nằm viện một tuần, khi đưa được giấy tới xã thì giáo sư đã ra tới Hà
Nội và đang chuẩn bị lên tàu liên vận đi Matxcơva. Cái ngã ba đường đời quan
trọng của giáo sư được bắt đầu từ Chợ Hôm, nơi cậu Thịnh ngẫu nhiên bị quẹt xe.
Vậy là thay cho ra chiến trường, giáo sư đi học nước ngoài và trở thành như
ngày nay. Giáo sư không phải băn khoăn điều ấy. Lương tâm giáo sư trong sạch.
Trước đó, như mọi học sinh khác trong lớp, giáo sư đã viết đơn tình nguyện ra
chiến trường. Tất cả đều do ngẫu nhiên. Những gì giáo sư vừa nhìn thấy là một
đường rẽ khác của cuộc đời, nếu không có cú quệt xe ngẫu nhiên kia. Bây giờ thì
chắc giáo sư dễ đoán những gì xẩy ra sau đó. Giáo sư đi bộ đội, vào Nam, bị
nhiễm chất độc màu da cam đâu đó chính giáo sư cũng không biết. Rồi hòa bình
trở về nhà làm anh nông dân, lấy vợ và sinh ra đứa con dị dạng. Hai vợ chồng
giáo sư đau buồn, năm năm sau cố đẻ thêm đứa nữa để bù đắp cho đứa kia. Không
ngờ đứa này còn dị dạng hơn. Vợ giáo sư quá đau buồn đổ bệnh rồi chết, chỉ
trách trời oan nghiệt chứ bà ấy, cả giáo sư nữa, lúc đó không có chút khái niệm
nào về hậu quả của thứ chất độc kia. Thời ấy người ta không nói đến nó nhiều
như bây giờ. Thành ra giáo sư phải một mình nuôi hai thằng con tật nguyền trong
cảnh đói nghèo và tuyệt vọng cùng cực về tinh thần. Vừa rồi giáo sư được tận
mắt chứng kiến điều ấy. Hôm nay ngẫu nhiên đúng ngày thương binh liệt sĩ nên
giáo sư mới thấy hai bà cán bộ xã kia đến thăm và cho tiền.
-
Bác biết trước như thế sao còn bắt tôi xem những cảnh đau lòng ấy? - Cuối cùng
ông Lộc lên tiếng nói, giọng yếu ớt.
-
Xin lỗi nếu tôi có làm giáo sư buồn, nhưng quả thực tôi đâu có bắt. Chính giáo
sư tò mò muốn biết đấy thôi. Mà tôi thì muốn chứng minh cho cái thuyết “ngẫu
nhiên” của tôi, như giáo sư từng nhiều lần hùng hồn chứng minh cho thuyết “nỗ
lực cá nhân” của mình.
-
Chắc bác muốn dạy tôi một bài học?
-
Ấy chết, đâu dám. Đúng như giáo sư vừa nói, đó là những cảnh thật đau lòng.
Biết bao con người ở đất nước này đang phải chịu cái đau ấy, không phải một
ngày, một tháng mà nhiều năm ròng, suốt đời. Cả xã hội, trong đó có giáo sư và
tôi đều thông cảm với họ, thương họ, quyên góp tiền giúp họ. Oái oăm thay, cái
đau ấy có thể rơi vào bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào và không một “nỗ lực cá nhân”
nào có thể giúp né tránh, vì đơn giản đó là kết quả của trò chơi ngẫu nhiên.
Lâm vào hoàn cảnh ấy, tôi nghĩ, chắc chúng ta sẽ có một cái nhìn khác, chân
thành và ưu ái hơn với đồng loại.
-
Bác là phù thuỷ?
Không
có tiếng đáp. Khi ông Lộc ngước lên nhìn thì không thấy ông kia đâu nữa. Không
thấy cả chiếc tủ sắt đáng sợ.
*
Nghe
nói sau đó, giáo sư Lộc, con người may mắn và thành đạt ấy, đã ốm nặng phải nằm
viện một tháng mới khỏi. Ông bỏ thói quen uống bia vào các chiều chủ nhật, bỏ
cả thói quen đi bộ, và dường như ông quan tâm tới các sách triết lý cổ nhiều
hơn việc làm sao được ngồi vào chiếc ghế hiệu trưởng suốt đời ông mong ước.
Hà Nội, 2002
NGƯỜI
LƯƠNG THIỆN
Có
thể mỗi ngày một ít đi, nhưng bây giờ vẫn còn nhiều người trung thực, tốt bụng
và thật thà đến mức gần như ngây ngô. Họ không biết làm điều ác, không biết nói
dối và luôn mặc cảm với cái bị nhiều người coi là thứ xa xỉ trong cuộc sống xô
bồ thực dụng hiện nay, là lương tâm. Cũng vì tốt và trung thực, họ dễ bị tổn
thương, nhiều khi thành nạn nhân của chính lòng tốt và sự trung thực ấy. Xét về
nhiều phương diện, nhân vật chính câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là một người
như thế. Một người lương thiện.
Nguyễn
Ngọc Tú là một bác sĩ trẻ giỏi nghề, hiền lành và bẽn lẽn như con gái, mặc dù
tuần nào cũng cầm dao mổ bụng người khác. Trong con mắt hàng xóm và đồng
nghiệp, anh là người hạnh phúc - kinh tế khá giả, cô vợ xinh đẹp, sắc sảo làm
việc cho một công ty nước ngoài và thằng con trai ba tuổi mũm mĩm như thiên
thần.
Một
chiều thứ bảy nọ, khi hai bố con đang chơi trò đánh nhau trên giường thì thằng
con thiên thần ấy bỗng cầm chiếc kìm nhỏ mạ trắng đâm mạnh một cái đúng nửa sau
bên trái đầu bố. Rồi cười sằng sặc. Còn bố nó thì nằm bất tỉnh đến mười phút,
vẫn bị thằng bé vừa reo hò vừa dùng kìm đánh khắp người.
Khi
Tú tỉnh lại thì chị vợ vừa đi đâu về. Thấy mặt chồng khác lạ, chị ta hỏi có
chuyện gì. Tú ngơ ngác mãi, cuối cùng mới mang máng nhớ ra. “Hình như thằng
Phúc đánh làm anh ngất”. Chị vợ chỉ cười, đùa bảo: “Cho chết,” rồi mắng thằng con một câu về tội nghịch
ngợm.
Phần
còn lại của ngày thứ bảy hôm ấy trôi qua bình thường. Cả chủ nhật hôm sau cũng
vậy. Chỉ Tú cảm thấy có cái gì là lạ trong đầu, không đau nhưng là lạ. Một cảm
giác khó tả.
Vốn
cẩn thận, lại là bác sĩ, ngay hôm sau anh đến nhờ đồng nghiệp về não khám.
Không thấy gì khác thường. Cái cảm giác là lạ trong đầu kia cũng mất dần. Anh
yên tâm và thôi không nghĩ đến chuyện này nữa.
Một
tuần sau, cũng vào thứ bảy, Tú lại ngồi chơi với con trên giường. Tất nhiên
chiếc kìm đã được giấu kỹ. Thằng bé hí húi xếp hình. Anh nhìn nó, bâng quơ nghĩ
nhảy cóc hết chuyện này đến chuyện khác. Bất chợt anh thấy người thằng con nhòe
ra, và trong khi nó vẫn ngồi đấy xếp hình thì có một hình khác của nó, mờ hơn,
hơi run run, từ từ đứng dậy, nhăn nhó kêu: “Bố ơi, con ị ra quần!”
Tú
dụi mắt. “Quái, mình dạo này thế nào ấy. Cứ nhìn gà hóa cuốc!” Anh thầm nghĩ
rồi vớ tờ báo đọc. Thằng con vẫn say mê chơi trò của nó. Một chốc sau nó đứng
dậy, nhăn nhó kêu: “Bố ơi, con ị ra quần!” Cả tiếng nói và điệu y bộ hệt như
anh nhìn thấy lúc nãy!
Anh
không có nhiều thời gian để ngạc nhiên vì phải vội giải quyết hậu quả của thằng
con dẫu đã lớn mà vẫn mắc cái chứng quái ác này. Sau đó thì anh ngồi thừ hồi
lâu, cố lý giải chuyện kỳ lạ vừa xẩy ra.
“Sao
đần mặt ra thế?” vợ anh hỏi.
“Không,
không sao cả.”
Anh
đáp và chăm chú nhìn vợ, lúc này đang cúi xuống giúp con một hình khó xếp. Anh
giật mình khi thấy vợ anh tách làm hai, một ngồi yên trên giường, một bắt đầu
đứng dậy, đi xuống bếp chuẩn bị bữa ăn. Anh nhìn nữa thì thấy cô suýt cắt phải
tay khi gọt khoai tây, rồi xào nấu, bê thức ăn lên bàn, gọi bố con vào ăn. Anh
thấy mình đang uể oải nhai, còn thằng bé thì vẫn lấy thìa gõ coong coong vào
bát như mọi ngày. Tò mò, anh tiếp tục chăm chú nhìn tiếp thì thấy vợ rửa bát,
đi vào nhà tắm, cởi quần áo, vừa lắc đầu vừa ngắm nghía thân hình đã bắt đầu
mập ra trong gương...
Anh
lặng lẽ bỏ vào phòng, chốt cửa rồi ngã vật xuống giường. “Đầu mình hình như có
gì không ổn,” anh lo lắng nghĩ và lờ mờ liên hệ nó với cú đập bằng kìm hôm nọ.
Là bác sĩ, anh biết rõ hậu quả các cú đập như thế. Sách báo vẫn hay nói về
những khả năng kỳ diệu của một số người bất ngờ bị chấn thương sọ não. Anh đã
đọc cuốn “Vùng Chết” của nhà văn Mỹ nổi tiếng Stephan King kể chuyện nhân vật
chính, John, ngày nhỏ chơi khúc côn cầu bị bạn đánh đúng đầu, sau đó bỗng có
khả năng nhìn thấy cả quá khứ lẫn tương lai. Vừa rồi anh nhìn thấy trước những
gì vợ con anh sắp làm. Liệu có biết được quá khứ như John không? Anh có thể
nhìn thấy tương lai xa đến đâu và liệu cái khả năng kỳ quặc này sẽ mang lại gì
cho anh, điều dữ hay điều lành?
Phòng
bên có tiếng nước chảy. Vợ anh tắm. Anh hình dung thấy vợ đang lắc đầu nhìn cơ
thể trần truồng của mình hệt như anh đã thấy trước đó. Cả bữa cơm cũng diễn ra
đúng như vậy. Anh cố đoán chiều nay vợ anh sẽ làm gì, nhưng không thể. Anh cũng
không biết tối nay thằng con chịu ngủ yên hay quấy nghịch. Anh đến đứng trước
gương, chăm chú nhìn mình để biết ba mươi phút, một tiếng nữa chuyện gì sẽ xẩy
ra với anh. Nhưng nhìn mãi, anh vẫn không thấy gì. Phép màu mất hiệu nghiệm.
Bán tín bán nghi, anh uống một lúc hai viên thuốc ngủ rồi lên giường.
Sáng
hôm sau, ngồi ăn sáng, Tú chăm chú nhìn vợ hồi lâu, đỏ bừng mặt.
“Anh
sao thế?”
“Không
sao cả”, anh lúng túng nói rồi cúi xuống đĩa thức ăn. Anh vừa thấy vợ ngày hôm
ấy ngồi suốt buổi sáng ở văn phòng với đống giấy tờ, đến giờ nghỉ trưa cô đi ra
ngoài, ngồi lên chiếc xe của một người đàn ông đang đợi (tiếc không nhìn rõ
mặt), rồi hai người đèo nhau đến một ngôi nhà như khách sạn vì có cô gái áo đỏ
ngồi sau quầy lễ tân. Họ vào phòng, bắt đầu thong thả cởi quần áo... Thong thả
chứ không vội, chứng tỏ họ quen làm điều này.
Anh
đứng dậy, phóng xe đi làm, đầu óc nóng bừng như đang lên cơn sốt. Vậy là Nhàn,
người vợ anh yêu và tin tưởng nhường ấy đã phản bội anh. Mà chắc không phải mới
bắt đầu. Lấy nhau năm năm nay, nói chung họ sống bình thường, mọi việc suôn sẻ.
Anh chưa một lần chạm tới người đàn bà nào khác ngoài vợ, cả trong ý nghĩ cũng
không. Tất nhiên anh cũng không nghĩ vợ có thể làm khác. Cô ấy là người tốt,
khéo lo toan, thương yêu chồng con, vậy mà... Là người hiền lành, anh không thể
và không muốn làm ầm ĩ. Khả năng kỳ diệu
mới giúp anh phát hiện một sự thật đau đớn, và bằng cách ấy lấy đi ở anh cái
hạnh phúc thư thái của một người chồng không biết bị vợ cắm sừng. Như thế là
tốt hay xấu hơn?
Ở
bệnh viện hôm ấy may anh không có ca mổ nào. Vốn quen với cuộc sống bằng phẳng
ít sự cố, lại bản tính hay rụt rè thụ động nên anh thực sự không biết phải xử
sự thế nào trong một tình huống bất ngờ và đầy kịch tính thế này. Đến giờ nghỉ
trưa, anh bấm số điện thoại di động của vợ. Máy bị tắt. Sợ nghi oan cho người
khác, anh vội đi tới cơ quan vợ. Người ta bảo cô đi ăn trưa. Anh ngồi chờ trong
quán nước ở góc phố gần đấy. Một tiếng sau vợ anh về, đến gần cơ quan thì xuống
đi bộ. Anh không nhìn thấy mặt gã đàn ông, mà cũng chẳng muốn nhìn. Hắn mặc
chiếc sơ-mi xanh da trời chứ không sẫm màu như anh thấy buổi sáng bên bàn ăn.
Chờ vợ vào hẳn trong nhà, anh mới buồn bã quay lại bệnh viện.
“Trưa
nay anh gọi điện cho em nhưng không được”, anh nói khi họ gặp nhau vào buổi
tối.
“Trưa
nay à? Lúc mấy giờ?”
“Mười
hai rưỡi”.
Chị
vợ nhìn chồng vẻ thăm dò rồi thản nhiên đáp:
“À,
lúc ấy em ngủ trong phòng làm việc. Tắt máy để khỏi bị quấy rầy. Có chuyện gì
vậy?”
“Không, không có gì đặc biệt. Anh chỉ
muốn rủ em đi ăn đâu đó”. Anh đáp, mặt thoáng đỏ vì không quen nói dối. Trong
khi cô vợ chẳng hề bối rối chút nào. Anh thấy ghê tởm sự dối trá thản nhiên ấy,
nhưng không nói gì thêm.
Hôm
sau, trước lúc đi làm, anh bảo vợ:
“Em
nên đội mũ bảo hiểm. Bây giờ bọn thanh niên đi ẩu lắm”.
“Vì
sao?”
“Vì
chốc nữa em sẽ ngã xe. Ở Ngã năm Lò Đúc. Một thằng choai choai tông vào em rồi
bỏ chạy. Không nguy hiểm lắm nhưng cứ đội mũ bảo hiểm vào, ngộ nhỡ đầu va xuống
đường”.
“Sao
anh biết chính xác như vậy? “ cô vợ ngạc nhiên hỏi. “Mấy hôm nay em thấy anh
khang khác thế nào. Anh nói kỳ lắm, cứ như biết trước hết mọi chuyện”.
Anh
định bảo “Vâng, đúng thế”, nhưng lại thôi.
“Dẫu
sao cũng nên cẩn thận”, anh nói thêm khi vợ ngồi lên xe, tất nhiên không chịu
đội mũ bảo hiểm.
Tối
hôm ấy, cơm nước và cho con ngủ xong, chị vợ bảo có chuyện muốn nói với anh,
mặt nghiêm túc và lo lắng.
“Em
quả không sao hiểu nổi! - Cô vào đề luôn, giọng run run và to hơn bình thường.
- Sáng nay đúng ở Ngã năm Lò Đúc em ngã xe. May chỉ sây sát đôi chút. Đúng một
thằng choai choai tông vào em rồi bỏ chạy như anh nói. Thế là thế nào? Anh giải
thích cho em biết đi? Anh là ma hay sao mà biết trước những gì sẽ xẩy ra?
“Ma
thì không, nhưng quả anh có cái khả năng ấy”, Tú thành thật đáp.
“Không,
như thế thì thật phi lý. Xưa nay anh cũng chỉ bình thường như em, như tất cả
mọi người. Làm sao bỗng nhiên anh có được khả năng kỳ cục ấy?”
Tú
bình tĩnh thuật lại việc anh bị thằng con đánh kìm vào đầu và giải thích những
hậu quả có thể có của nó theo góc độ y học. Chị vợ im lặng ngồi nghe, mặt tái
nhợt.
“Và
hôm qua anh gọi điện cho em cũng vì...”
“Vâng,
anh đã biết hết, thấy hết”.
“Trời
ơi, thế thì kinh khủng quá, kinh khủng quá!” Cô thốt lên, hai tay ôm mặt.
Một
tuần sau hai người cùng ký đơn li dị. Chính chị vợ chủ động yêu cầu, sau khi
thú thật với chồng mối quan hệ của mình với người đàn ông kia. “Vả lại, em
không thể tiếp tục sống với một người có cái khả năng kỳ cục và tai hại như
anh. Anh là người tốt. Em có lỗi. Nhưng sau tất cả những chuyện này chúng ta
không thể sống chung với nhau được nữa. Cả em và anh sẽ cảm thấy nặng nề”.
“Nhưng
anh sẽ không nhìn em để đoán biết những việc em làm. Nếu em còn thực sự yêu anh
thì hãy cắt đứt với người kia. Ta sẽ lại tiếp tục sống hạnh phúc như trước”,
anh nhẹ nhàng nói.
“Hắn
là một thằng vô lại, em biết và sẽ không bao giờ lấy hắn. Nhưng em thích gần
hắn. Ít ra hắn là thằng đàn ông thực thụ với cá tính mạnh mẽ, quyết liệt. Còn
anh thì ngược lại, anh hay mặc cảm, rụt rè như một mụ đàn bà ngu ngốc. Cái tên
của anh cũng tên đàn bà. Hơn thế, anh quá tốt, quá trung thực, quá chỉn chu,
đến mức nhiều khi em thấy nghẹt thở. Anh có thể hạnh phúc với em, nhưng em thì
không. Vậy nếu anh muốn em hạnh phúc như vẫn nói, thì chúng ta hãy chia tay
nhau. Anh đồng ý chứ?”
Tú
ngồi im một lúc rồi gật đầu. Thế là anh bắt đầu sống một mình. Chị vợ đưa con
về ở với bố mẹ. Bên ấy nhà rộng, chỉ còn hai ông bà già, trước họ cố bắt anh ở
rể nhưng không được. Họ chia tay thật nhẹ nhàng. Không một lời to tiếng, không
tranh chấp của cải, không cả suy tính thiệt hơn. Hàng xóm ai cũng trố mắt nhìn,
không hiểu chuyện gì đang xẩy ra.
Sau
đó là những ngày buồn bã, gần như tuyệt vọng đối với Tú. Chính anh cũng ngơ
ngác không hiểu sao bỗng chốc mọi việc lại thay đổi nhanh chóng như vậy. Sống
độc thân, anh có nhiều thời gian hơn để suy ngẫm và kiểm tra cái khả năng kỳ
quái kia mà cho đến nay chỉ anh và vợ anh biết. Sau nhiều lần thử, anh nhận
thấy nó không có hiệu lực với anh. Nghĩa là giả sử chỉ mươi phút nữa anh bị ô
tô cán chết, thì anh cũng bất lực không nhìn thấy trước điều đó. Anh chỉ có thể
biết trước chuyện của người khác, với điều kiện phải luôn nhìn vào người ấy.
Cùng với thời gian, hình ảnh sẽ trở nên mờ dần, muốn thấy rõ hơn, lâu hơn, phải
rất cố tập trung, là điều làm anh đau buốt trong đầu. Nhìn ai đó năm phút, anh
biết chuyện gì sẽ xẩy ra với người ấy sau nửa ngày, mười phút - sau một ngày,
cứ thế nhân lên, nhưng càng về sau hình ảnh càng mờ và anh càng mệt mỏi, đau
đớn.
Thoạt
đầu anh còn háo hức với các khám phá của mình, nhưng rồi chúng nhanh chóng làm
anh buồn, thậm chí hoảng sợ. Có thể do ngẫu nhiên, không hiểu sao anh chỉ thấy
toàn những điều chẳng mấy tốt đẹp. Một cô gái rất xinh, ăn diện đúng mốt đứng
cạnh Nhà Hát Lớn, chỉ mười phút sau trở thành kẻ ăn cắp hạ tiện ở Tràng Tiền
Plaza, lén lút nhét mấy thỏi son vào chỗ kín rồi đi ra với vẻ đẹp ngây thơ
trâng tráo. Một quan chức nhà nước oai nghiêm lớn tiếng chống tham nhũng ở hội
nghị, thế mà tối lại hẹn mấy bác dân quê đến nhà riêng đưa hối lộ để hắn chạy
cho con họ một suất đi lao động nước ngoài. Những cô điếm đứng co ro bên đường
giữa trời mưa gió, gần sáng trở về không có tiền cho bọn ma cô, bị chúng đánh
thâm tím mặt mày. Một đứa bé mặc đồng phục nhà trường, cổ quàng khăn đỏ đạp xe
đi giữa phố trông thật dễ thương thế mà mấy phút sau lại chui vào nhà xí công
cộng để tiêm một mũi rồi đạp xe đi tiếp với vẻ mặt còn hồng hào, dễ thương
hơn... Tất cả những điều ấy trước đây anh không thấy vì chúng được che giấu,
bởi vậy anh nhìn đời lạc quan. Bây giờ thì khác hẳn. Bỗng nhiên anh phải đối
mặt với bao điều bỉ ổi của cuộc đời. Như những người trung thực, chất phác và
hiền lành khác, anh cảm thấy thật buồn, đến mức không dám nhìn ai lâu, nhất là
bạn bè và người thân. Anh sợ có thể phải thất vọng vì họ.
Ở
bệnh viện, các phát hiện của anh cũng kinh khủng không kém nhưng đáng buồn hơn,
vì đó là cái xấu của những người anh từng cùng làm việc và từng kính phục. Hóa
ra ông trưởng khoa chỉ tốt và đạo đức bề ngoài. Trong vòng một tuần Tú thấy ông
lôi một nữ bác sĩ trẻ (nổi tiếng đoan trang) và một nữ sinh thực tập vào phòng
làm việc của ông. Cả hai lần đều có cảnh cởi quần áo. Đến đây anh không dám
nhìn tiếp để biết chuyện gì xẩy ra sau đó. Anh ghê tởm vì có quá nhiều cảnh cởi
quần áo. Anh nhìn thấy không ít đồng nghiệp ăn tiền bệnh nhân, quát tháo, hạch
sách hoặc thông đồng với các dược sĩ để bán thuốc gấp đôi giá qui định. Có
người lúc khám còn sờ cả chỗ kín của họ.
Anh
thầm ngạc nhiên sao xưa nay không nhìn thấy, không nghĩ gì về chuyện này. Anh
thực sự bị sốc, mặt ngơ ngác như người mất hồn, khiến mọi người nghĩ anh đang
ốm. Biết không thể phẫu thuật trong trạng thái như thế, anh đã nhận lời ngay
khi trưởng khoa gợi ý có muốn nghỉ phép kéo dài một thời gian không. Trước khi
rời bệnh viện, anh moi hết các túi được hơn trăm nghìn đồng, đưa cho một bà mẹ
trẻ nông thôn có thằng bé ba tuổi chờ truyền máu nhưng hết tiền, định tối đến
ra bến xe bán thân cứu con.
Tú
đóng cửa nằm yên trong nhà suốt mấy ngày, suy ngẫm về những sự thật chua xót mà
cái khả năng nhìn thấy trước của anh mang lại. Chỉ toàn tai họa. Anh từng sống
hạnh phúc với vợ con, đồng nghiệp, mọi chuyện suôn sẻ, thế mà bây giờ phải nằm
đây một mình, không việc làm, sắp tới không cả tiền để sống. Anh sực nhớ câu
chuyện cổ tích ngày nhỏ về chiếc gương thần biết tố giác những người nói dối.
Nhưng rồi tất cả mọi người, kể cả người trung thực và người phát minh ra cái
gương kỳ diệu ấy, đã nhất trí đập vỡ nó. Phải chăng trong cuộc sống, sự dối trá
cũng cần như sự thật? Liệu xã hội sẽ thế nào khi hoàn toàn không có người nói
dối, không có tội ác, đói nghèo, không có những bà vợ, ông chồng lén lút ngoại
tình? Những câu hỏi ấy quả rất khó và anh không thể tìm được câu trả lời.
Sao
không thử dùng chiếc gương thần kia, cả khả năng kỳ diệu này của anh nữa, vào
những mục đích hữu ích, chỉ hữu ích mà thôi? Anh đang cần tiền. Liệu nó có thể
giúp anh kiếm tiền được không, tất nhiên chỉ bằng cách lương thiện? Cá cược và
số đề bị gạt ngay từ đầu vì thực chất đó là trò cờ bạc. Vậy chơi xổ số chăng,
xổ số hợp pháp của nhà nước? Cũng không được. Anh nhìn thấy trước con số trúng
giải đặc biệt một trăm triệu đồng, nhưng sau đó lại thấy một ông già nghèo khổ
run run bước lên nhận tiền trong tiếng vỗ tay vang dội. Ông cụ sung sướng đến
suýt ngất, đôi má nhăn nheo ướt đẫm nước mắt. Không, anh không thể đang tâm
cướp đi vận may của người khác. Anh có thể đi lùng mua chiếc vé có con số may
mắn kia và trở thành giàu, bề ngoài có vẻ chính đáng, nhưng thực chất cũng là
một trò gian lận.
Hay
giúp công an phát hiện tội phạm? Giúp các hãng hàng không biết trước tai nạn?
Giúp thế giới ngăn chặn khủng bố? Những ý tưởng thật cao đẹp, nhưng làm thế nào
thực hiện được? Chắc chắn người ta sẽ nhốt anh vào nhà thương điên nếu tự anh
đến đề nghị hợp tác. Cuối cùng anh quyết định giúp những người đang sống quanh
mình. Báo trước cho họ những tai nạn sắp xẩy ra chẳng hạn. Anh sẽ không nhìn,
không biết, không báo những việc xấu của người thân họ. Chỉ giúp những điều tốt
thôi. Tạm thời trước mắt chỉ vậy.
*
“Hôm
nay bác đừng cho thằng Thắng đi trượt pa-tanh. Nó sẽ ngã gãy chân đấy.” Anh bảo
bà hàng xóm khi đang ngồi uống nước ngoài sân. Hai nhà được ngăn bằng bờ rào
khung sắt có lưới mắt cáo. Thỉnh thoảng vào buổi sáng, trước giờ đi làm họ vẫn
trao đổi với nhau đôi câu chào hỏi.
Bà
kia ngạc nhiên:
“Sao
anh biết ?”
“À,
tôi linh cảm thấy thế. Dẫu sao, xin bà hãy nghe và đừng cho thằng Thắng đi.”.
Tuy
không tin, nhưng vốn mê tín, bà hàng xóm vẫn lặng lẽ giấu đôi giày của con
trai. Bà nghĩ bà đã có thêm một bằng chứng khẳng định lời đồn của nhiều người,
rằng “dạo này anh Tú thế nào ấy, cứ như người mất hồn. Không khéo lại mắc bệnh
tâm thần. Tội nghiệp.”
Một
hàng xóm khác - ông này làm nghề thầu xây dựng thuộc loại ít chữ nhiều tiền -
thì thẳng thừng đốp luôn khi anh bảo ông ta hôm nay cẩn thận kẻo dàn giáo đổ:
“Cậu
chỉ được cái nói gở! Tôi mà có chuyện gì, cậu phải chịu trách nhiệm đấy!” Rồi
phóng xe đi.
Tối
đến thấy có người đèo ông ta về. Quả ông ta có leo lên dàn giáo, và nó đã đổ,
may chỉ sái chân. “Cái thằng bác sĩ ấy điên thật rồi, - ông ta bảo một hàng xóm
khác. Chẳng trách bị vợ bỏ, bệnh viện bắt thôi việc.” Thế là dần dần người ta
tin Tú điên. Chí ít cũng tâm thần nặng. Tuy nhiên, từ đấy không hiểu sao trong
xóm ai cũng nghe theo lời dặn của thằng điên ấy, và nhờ vậy tránh được tai họa.
Một
hôm, ở quán cơm bụi, có cô gái ngồi cạnh anh, ăn xong đang thanh toán tiền với
bà chủ. Anh giật mình thấy cô lái xe đi theo bờ đê vắng người rồi bất ngờ bị
hai thanh niên đèo nhau ép vào vệ đường. Tiếp đến là tiếng kêu cứu, tiếng quát
của một trong hai thằng ấy. Còn thằng kia thì anh thấy cố dằng chiếc túi cô ôm
chặt trước ngực mãi không được, bèn giơ con dao sắc nhọn đâm cô.
“Này
cô, - anh vội nói. - Cô sắp bị cướp đấy. Chúng còn giết cô. Cô đừng đi nữa. Xin
cô hãy tin tôi!”
Cô
kia nhìn anh, vẻ nghi ngờ, tư lự một lúc rồi lên xe phóng đi.
“Đừng,
tôi nói thật mà. Đừng đi! Nguy hiểm lắm, xin cô đừng đi!”
Tú
liền vội vàng đặt bát đũa xuống, lên xe đuổi theo trước con mắt ngạc nhiên của
những người xung quanh. Đấy là phản xạ tự nhiên chứ lúc ấy anh không biết đi
theo để làm gì. Anh giữ khoảng cách khá xa, cốt không mất hút cô kia. Qua cầu
Chương Dương, cô gái rẽ trái theo đường Gia Thượng. Lúc ấy trời nhá nhem tối.
Đến đoạn gần Cầu Đuống thì bắt đầu xẩy ra cái việc anh đã nhìn thấy trước...
*
Hôm
sau báo đưa tin có hai người bị bọn cướp giết lấy tiền và xe ở địa bàn Gia Lâm.
Một trong hai người ấy là Tú. Quá lo lắng cho tính mạng người khác, con người
lương thiện ấy đã không có thời gian nhìn thêm mấy giây để thấy cảnh chính anh
sẽ bị giết. Cũng có thể nhìn thấy nhưng anh đã không coi trọng điều đó.
Hà Nội, 15. 6. 2002
ĐỔI
ĐỜI
Như
ta biết, trong khoa học đôi khi các sự việc tình cờ lại giúp con người có được
những phát minh vĩ đại. Xin hãy nhớ quả táo của Niutơn, cuộc chạy trần truồng
của Acsimet từ bờ sông về nhà và nhiều thí dụ khác. Trong cuộc sống hàng ngày,
chúng ta ai cũng từng gặp những trường hợp tương tự, khác chăng chỉ ở qui mô và
ý nghĩa. Và đây là trường hợp của Cái Tý. Một phát hiện giúp nó đổi đời, từ con
bé nhà quê chân đất thành “bà quí phái” lọc lõi chốn đô thành, nhiều tiền,
nhiều tình và do vậy nhiều cả quyền.
Năm
mười sáu tuổi, nó được đưa ra Hà Nội làm ô-xin cho một gia đình khá giả. Chỉ
mấy ngày sau, ông chủ, năm mươi tuổi, một người có học và vẻ ngoài rất tử tế,
giở trò tán tỉnh rồi cưỡng đoạt nó. Nó sợ tất nhiên, nhưng khốn nỗi nó cũng
thích. Thích nhất là sau đó được cho những một trăm nghìn đồng, nghĩa là nửa
tháng lương. Không bị quả táo ngẫu nhiên rơi đúng đầu, có thể Niutơn đã chẳng
phát minh được định luật vạn vật hấp dẫn. Không bị ông chủ giở trò, tất nhiên
nó không biết được nó đang có cái gì và phải khai thác cái ấy như thế nào. Một
phát hiện tuyệt vời, có thể nói vĩ đại. Mà khi đã thấy đường đi, biết cách làm
thì cứ thế thẳng tiến. Mỗi lần một trăm nghìn đồng ngon ơ, lại còn được thích.
Sau đó tuần nào nó cũng đều đều nhận vài lần một trăm nghìn như thế. Số tiền này
nó giấu riêng rồi đem gửi nơi khác, chẳng mấy chốc lên tới tiền triệu, rồi
nhiều triệu.
Một
hôm “xong việc”, chỉ đùa thôi chứ chẳng hề có chủ định gì, nó nói: “Cháu có
thai!” Ông kia sợ tái mặt, lúc đầu ngồi thần người rồi cuống quýt căn vặn,
cuống quýt gợi ý cách “giải quyết”. Nó bảo: “Không. Cháu muốn để nuôi!” Cũng
buột miệng nói cho vui. Nhưng khi thấy ông chủ hốt hoảng đến líu cả lưỡi thì nó
bắt đầu nghĩ. Mà nó nghĩ nhanh lắm, vì nó vốn là đứa thông minh, hay gọi là
ranh ma cũng được. Nó nghĩ một khi việc ấy đáng sợ đến thế đối với ông chủ thì
tại sao không nhân dịp này kiếm một vố. Một vố lớn chứ không kiểu cò con mỗi
lần một trăm nghìn. Rồi nó giả vờ đau khổ và khóc. Điệu bộ và tiếng khóc còn
vụng, vì đây mới là bước chập chững đầu tiên trên con đường nghệ thuật chài đàn
ông moi tiền rất thành công sau này. Tuy nhiên, sự vụng về ấy cũng đủ bắt ông
kia móc túi đưa luôn năm triệu để nó chịu “nạo thai”. Nó lấy làm tiếc không đòi
luôn mười triệu. Đến bệnh viện, nó dúi cho bà bác sĩ hai mươi nghìn rồi lại leo
lên xe ông chủ về nhà. “Người Hà Nội buồn cười thật, - nó nghĩ. - Ở quê mà thế
thì được hai mét vải lụa đã mừng rơn, không khéo còn bị đánh, bắt đi nạo”.
Nó
ngồi trước gương, suy nghĩ rất lung về việc vì sao có thể kiếm được nhiều tiền
một cách dễ dàng như vậy. Bỗng nhiên nó phát hiện thêm một điều bất ngờ nữa: Nó
xinh! Trời ơi, phải nói là rất xinh! Ông trời bắt đói ăn, làm lụng vất vả từ
bé, nay bù lại, ban cho nó một ngoại hình có thể gọi tuyệt mỹ, lại được hoàn
thiện thêm nhờ một năm làm đàn bà và ăn ngon. Mặc cũng đẹp hơn, dẫu chỉ quần áo
thừa của bà chủ. Người nó cao, tròn lẳn với những đường cong thật khêu gợi; da
trắng hồng, khuôn mặt xinh đẹp và thật dễ thương với vẻ thơ ngây hiếm có, thậm
chí cả vẻ có học, gia giáo kiểu con nhà lành. Chút việc còn lại phải làm là học
cách ăn nói, đi đứng, mồi chài và đưa con mồi vào bẫy. Một việc không khó với
nó.
Nó
sống thêm một thời gian nữa với ông chủ
mà thực chất bây giờ đã thành ô-xin của nó, đòi mỗi lần hai trăm chứ không phải
một trăm nghìn như trước. Mê sắc đẹp và cách chiều chuộng của nó, ông kia đành
chấp nhận. Cuối cùng, khi cảm thấy đủ lông đủ cánh và thời điểm chín muồi, nó
quyết định “ra đời làm ăn lớn”. Cái chức ô-xin và khoản thu nhập kia đã không
còn làm nó hài lòng.
Thế
là một hôm nó tống tiền ông chủ bằng cách dọa mách bà chủ rằng ông đã làm hại
cả đời con gái trinh trắng của nó. Tất nhiên nó lại thành công, cầm thêm năm
triệu đồng nữa rồi thuê xe ôm dọn đến căn hộ đầy đủ đồ đạc nó mua sẵn trước đó
mấy tháng. Ông kia còn tiếp tục đưa tiền cho nó bằng cách thỉnh thoảng đến
thăm, bây giờ đã ba trăm nghìn đồng mỗi lần nhưng nó chẳng quan tâm nhiều tới
ông, vì người sẵn sàng chịu chơi giá ấy không ít. Tự lúc nào không biết, nó đã
lên hàng “thượng lưu”, thậm chí “siêu thượng lưu”. Ý thức được giá trị bản
thân, cả về nhan sắc và nghệ thuật mồi chài, nó muốn một cái gì đấy sang hơn,
cao hơn và phải nhiều tiền hơn.
Cái
ấy chỉ có thể có được ở giới giám đốc loại cỡ tiêu tiền chùa. Tiếp cận đối
tượng này không khó. Nó thường nhắm trước con mồi, tìm hiểu kỹ tính tình, khả
năng tài chính rồi xin vào làm thư ký, tất nhiên với vẻ ngây thơ, bẽn lẽn và
gia giáo hết mực. Chưa hề có vị nào từ chối. Còn sau đó rút ruột ông ta, hay
đúng hơn, rút ruột nhà nước thì nó chỉ cho là chuyện vặt. Trong năm năm kể từ
ngày thôi chức ô-xin, nó kịp “làm thư ký riêng’ cho ba vị, kiếm được ba xe máy
xịn (nó có thể moi được cả ô tô nhưng không muốn), cộng với hai căn hộ, ba
chuyến du lịch nước ngoài và vô số quà cáp cùng một tài khoản “nho nhỏ” ở ngân
hàng. Một vị tỏ ý sẵn sàng bỏ vợ cưới nó nhưng nó chẳng dại. Vốn còn nhiều, cơ
hội làm ăn chưa hết, tội gì phải trói mình với ai. Khi nào cần mới rút, mà nó
biết rút đúng lúc và rất êm, nhờ biệt tài đoán gần như chính xác trăm phần trăm
lúc nào thủ trưởng sẽ sụp đổ.
*
Cái
Tý bây giờ đã là Diễm Hạnh (cái tên tự nó đặt sau khi quyết định ra đời “hành
nghề” độc lập, chắc hàm ý mình là người kiều diễm và hạnh phúc). Cô Diễm Hạnh,
bà Diễm Hạnh, con Diễm Hạnh, mụ Diễm Hạnh. Giới mày râu thường gọi là “nàng”.
Ta cũng tạm gọi “nàng” cho tiện, vì một người xinh đẹp, giàu có với vẻ ngoài
quí phái như thế mà gọi khác e bị coi là nhỏ nhen.
Mấy
hôm nay nàng vừa “cắt” một ông. Ông thứ tư. Cái ghế ông này còn lâu mới đổ
nhưng nàng ghét vì mụ vợ tỏ ra ghê gớm, còn ông thì keo kiệt đến mức vừa rồi
không chịu bỏ mấy nghìn đô mua cho nàng chiếc nhẫn kim cương. Vả lại, nàng phục
vụ ông và lấy của ông chừng ấy cũng có thể coi là đủ. Vậy giờ là lúc phải săn
con mồi mới. Nhưng nàng không vội. Nàng thừa điều kiện để tự cho phép mình nghỉ
ngơi chút ít, cả thể xác lẫn tâm hồn. Kia, nàng vừa bước ra khỏi tắc-xi (nàng
ít khi đi xe máy), và đang thơ thẩn dạo quanh Bờ Hồ. Nàng đẹp một cách sang
trọng, kín đáo và rất hợp mốt. Đố ai dám nghĩ khác rằng nàng không phải con nhà
quyền quí và trong sạch đến từng bước đi, ý nghĩ. Nàng thong thả, kiều diễm
lướt qua, thích thú với cảm giác biết bao con mắt ngưỡng mộ, thèm thuồng đang
dán lên người nàng.
Nàng
ghé vào Nhà Thủy Tạ, gọi một ly kem ngoại, châm thuốc hút rồi lơ đãng nhìn ra
mặt hồ buổi xế chiều thơ mộng. Tất cả đàn ông có mặt ở cửa hàng quay sang nhìn
nàng, trong đó có một người mới vào, chỉ sau nàng khoảng dăm phút. Người này
ngồi xuống chiếc bàn bên, cũng gọi một ly kem, châm thuốc và cũng bâng quơ nhìn
ra hồ. Kinh nghiệm cho biết điều này không ngẫu nhiên, nhưng nàng không thèm
nhìn sang lần nào, dù vẫn thấy hết, nghe hết. Một biệt tài chỉ những người siêu
hạng như nàng mới có.
Đó
là một người đàn ông khó đoán tuổi nhưng chắc chưa đến năm mươi, mặc toàn đồ
xịn, đang cố gắng một cách vụng về để tỏ ra vẻ thạo đời. Những dấu hiệu ban đầu
tốt đẹp. Để xem trong túi có đồng nào không đã. Khi cô nhân viên bê ly kem ra,
ông ta bo một tờ mười đô còn mới. “Khá. Chịu chơi đấy!” - Nàng nghĩ, biết chắc
tờ mười đô được chi hào phóng không vì cô kia mà vì nàng. Chỉ lúc này nàng mới
ban cho ông ta một cái nhìn vừa cao ngạo vừa e lệ.
Ông
này có khuôn mặt dễ coi, nước da tai tái nhưng may không sần sùi. Mặc dù ít
quan tâm đến hình thức con mồi, điều này cũng làm nàng dễ chịu. Đôi mắt ông
thật đặc biệt, đẹp, vừa sâu, buồn, đồng thời vừa có ánh đam mê mãnh liệt. Suốt
từ nãy đến giờ đôi mắt ấy luôn nhìn nàng, chủ yếu đoạn từ ngực đến đầu gối,
nhìn chằm chằm, khiến một người như nàng cũng thoáng chút ngượng ngùng. Bản
thân cái nhìn ấy chẳng có gì đáng nói. Xưa nay đàn ông vẫn chiêm ngưỡng nàng
cách ấy. Có điều nàng thấy lạ là đôi mắt ông giống hệt mắt một cụ già bảy, tám
mươi tuổi nàng gặp hôm kia khi cùng đi thang máy lên tầng hai Tràng Tiền Plaza.
Ông cụ cũng nhìn nàng đúng như vậy - sâu, buồn, rực lửa, và cũng chỉ từ ngực
tới đầu gối. “Chết đến đít rồi mà còn dê!” lúc ấy nàng nghĩ, mặc dù không ghét
cụ chút nào. Đàn ông có “dê” thì nàng mới sống được. Thậm chí cả khuôn mặt hai
người cũng có cái gì giông giống. Buồn cười thật, không hiểu sao nhìn ông này,
nàng cứ vẩn vơ nghĩ tới cụ già lẩm cẩm đó. Sự quan tâm của nàng tới “con mồi”
gia tăng hẳn khi một thanh niên bước vào hỏi ông kia còn phải chờ lâu nữa không
để đem ô tô đến bãi gửi. Ông kia bảo còn lâu.
Cân
nhắc thêm một chốc, nàng quyết định hành động. Nàng liếc sang bàn bên và...
Nửa
giờ sau, nói cười như quen nhau đã lâu, hai người đi bộ tới khách sạn Phú Gia
ăn tối. Ăn xong, xe đưa nàng về nhà ông. Rồi một tuần sau, khoảng thời gian cần
thiết để không bị chê là quá dễ dãi, nàng dọn đến ở hẳn với ông. Mọi cái đều
tốt đẹp. Mọi cái đều đúng như nàng mong muốn. Chỉ tiếc ngôi nhà lớn sang trọng
họ đang ở không phải của ông mà nhà thuê, vì theo lời ông, ông là giám đốc một
công ty tư nhân ở miền nam có mối làm ăn rộng nên ít khi được ở lâu một chỗ. Về
nhiều phương diện, có thể nói đây là con mồi “ngon nhất” của nàng từ trước đến
nay. Li dị vợ, nhiều tiền, dễ bảo, mỗi tuần chỉ về nhà một hoặc hai lần. Hơn
thế “lão” lại rất yêu, có thể nói si mê nàng một cách chân thành. Điều này lúc
đầu có làm nàng chút ít bối rối vì nó nằm ngoài kế hoạch, nhưng sau nghĩ kỹ
thấy cũng chẳng sao. Cùng lắm có thể dừng lại ở bến này và lấy “lão” làm chồng
nếu “lão” thực sự giàu. Còn trong khi chưa chắc điều ấy thì nàng phải tranh thủ
moi càng nhiều càng tốt. Khoản này thì nàng đã thành nghề điêu luyện.
Sống
với ông chưa đầy một năm, nàng đã kịp moi được khối thứ, khối tiền. Có lẽ ông
giàu thật. Ông chi tiền thoải mái, có khi một lần mấy chục triệu, vì ông thực
sự yêu và không thể sống thiếu nàng. Thậm chí không hỏi nàng cần tiền làm gì.
Chỉ thỉnh thoáng, khi phải cho nàng một khoản lớn, ông cười, nói: “Em tiêu tiền
vậy thì anh chỉ chóng chết mà thôi!” Nàng không hiểu và không muốn hiểu ông nói
thế nghĩa là gì, thường chỉ ngăn lại bằng một nụ hôn khêu gợi vào cái miệng
đang kêu chết ấy cùng vô số những cử chỉ âu yếm khác. Tuần trước nàng đánh
“quả” lớn nhất và quyết định nhất, là xin ông mua ngôi nhà họ đang thuê, tất
nhiên đứng tên nàng. Ông chững lại mấy giây, rồi buồn rầu đáp: “Em đang xô anh
đến chỗ chết đấy!..” Nàng đã chuẩn bị để nghe câu ấy, cũng như các ngón đòn
nàng sẽ tấn công sau đó. Cuối cùng thì nàng cũng đạt được mục đích, chỉ ông hơi
buồn, thậm chí nàng thấy như ông gầy sọp và già hẳn đi. Nàng cũng phần nào ái
ngại cho ông, nhưng cuối cùng lại nghĩ: “Cho chết. Dại gái cho chết, anh yêu
ạ”.
Hôm
nay, như để bù cho món quà hậu hĩnh ấy, nàng tỏ ra yêu thương ông hơn hẳn mọi
lần. Đêm khuya, bốn xung quanh yên tĩnh. Hình như ông đã ngủ, hơi thở nhẹ đều
đều, một tay để trên ngực nàng, còn nàng thì nằm bên, mỉm cười hài lòng với số
phận và cũng thiếp đi lúc nào không biết.
Gần
sáng, chợt tỉnh vì tiếng xe máy rú ngoài đường, nàng quay người, âu yếm xoa
ngực ông nhưng liền rút tay lại như bị điện giật. Có cái gì ươn ướt, nhơm nhớp.
Có cả mùi tanh lợm. Nàng hoảng sợ nhảy ra khỏi giường, bật đèn rồi đứng đớ
người, hai tay ôm miệng: người đàn ông nàng ôm ấp suốt đêm đang nằm kia, dưới
ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn chùm hai chục bóng. Nhưng lúc này ông ta là một
xác chết đang thối rữa, thối rữa rất nhanh và ngay trước mắt nàng. Da thịt ông
ngã xám, chương phình rồi từ từ rữa ra, xẹp xuống để nhô hai gò má cao, hai hố
mắt sâu dần và chừng năm phút sau chỉ còn lại chiếc sọ dừa trắng hếu. Bộ xương
ngực, các xương tứ chi dài ngoẵng cũng trắng như thế. Không bám tí thịt nào.
Dần dần mùi tanh lợm cũng biến mất. Cảnh tượng hãi hùng và bất ngờ đến mức một
người lõi đời như nàng cũng phải bỏ chạy sang phòng bên, khóa chặt cửa ôm mặt
khóc.
*
Rạng
sáng hôm sau, có người đến gõ cửa nhà nàng. Vẫn co ro ngồi trong phòng riêng,
nàng cuống quýt chạy sang phòng ngủ định lấy cái gì che bộ xương, thì ngạc
nhiên sao, không thấy nó đâu nữa. Trên giường chỉ còn tấm ga trắng nhàu nát và
chiếc chăn rơi một nửa xuống sàn. Tiếng gõ cửa nghe to và có vẻ sốt ruột.
Khách
là một ông già nhỏ thó vẻ đáng ngờ, người gầy đét, có con mắt xoi mói và gian
xảo.
-
Bà là Nguyễn Thị Tý?
-
Bà Diễm Hạnh.
-
Cũng thế cả. Xin lỗi bà, tôi đến đây để đòi nợ...
-
Đòi nợ? Ai nợ, nợ ai? - Nàng ngạc nhiên nhưng cố tỏ ra bình tĩnh và đáo để
trước con người mà nàng thấy trước là không phải tay vừa.
-
Ông Lương bạn bà có nợ tôi một khoản tiền lớn. Chắc bà không biết, nhưng tôi sẽ
chứng minh...
-
Ông ấy mà thèm nợ ông? Nếu quả có nợ, sao không tìm ông ấy mà đòi? Hiện giờ ông
ấy không có đây.
-
Với tôi, bà không cần giấu diếm điều gì. Ông ấy có ở đây, chính xác là cho tới
nửa đêm hôm qua. Còn bây giờ thì ông ấy đang ở chỗ cần phải ở, tức là nghĩa
trang Văn Điển. Vì ông ấy đã chết cách đây một năm...
-
Ông nói gì tôi không hiểu.
-
Cũng đúng thôi. - Lão già thích thú nhìn bộ mặt ngơ ngác, bối rối của người
đứng trước lão. - Chuyện nghe hơi kỳ, nhưng đúng là có thật. Tôi và ông Lương
là chỗ bạn bè thân thiết. Năm ngoái gặp bà ở Tràng Tiền Plaza, ông ấy bị bà hớp
hồn. Ông là ngưòi tốt, chỉ tội hơi yếu đuối trước phụ nữ, nhất là một người
quyến rũ như bà. Khốn nỗi lúc ấy ông đã trên bảy mươi, lại đang ung thư sắp
chết. Ông đến gặp tôi, năn nỉ giúp đỡ - chả là tôi có chút tài vặt mà. Ông thực
sự yêu bà, ngưỡng mộ bà, vì sao thì tôi quả không hiểu. Tôi lựa lời khuyên ngăn
nhưng ông không nghe. Thôi thì đành giúp vậy. Chẳng dám dấu bà, tôi là thầy
thuốc, có loại thuốc làm cho người ta trẻ lại. Không chữa khỏi bệnh, nhưng trẻ
lại thì được. Trường hợp ông Lương hơi khó một chút. Ông mắc bệnh ung thư sắp
chết như đã nói, nhưng tôi vẫn giúp được ông kéo dài sự sống, dù chỉ sống ảo,
vì thực sự ông đã chết cách đây một năm, chính xác là chỉ vài tuần sau khi gặp
bà lần đầu. Hơn thế, tôi còn làm ông trẻ lại những ba mươi tuổi để tận hưởng
hạnh phúc với bà. Bà đang thắc mắc muốn biết bằng cách nào? Đơn giản thôi, một
tuần hai lần ông uống những viên thuốc đặc biệt do tôi bào chế để giữ cơ thể
không chỉ không phân hủy mà còn khỏe mạnh thành người tình của bà. Làm được
loại thuốc này tốn kém lắm, và dẫu bạn bè thân thiết, ông Lương vẫn phải trả
tôi rất nhiều tiền. Ông giàu, bà biết điều ấy, nhưng thậm chí cả khi giàu như
ông, đó cũng là một số tiền lớn khó có thể kham nổi trong một thời gian dài.
Hơn nữa, bà lại tham lam moi của ông ấy nhiều quá. Ông ấy chẳng bảo bà đang đẩy
nhanh ông ấy đến chỗ chết là gì. Nhất là cái vụ bắt mua ngôi nhà này. Vì quá
yêu bà, ông ấy không thể từ chối nhưng đồng thời cũng không thể không uống
thuốc của tôi, thành ra ông lâm vào cảnh nợ nần, và khi tôi ngừng cấp thuốc thì
ông chết, ngay trên giường với bà như bà đã biết. Hôm nay tôi đến đòi lại số
tiền thuốc ông ấy còn nợ. Có giấy ghi chép đầy đủ cả đây...
-
Nhưng ông ấy đã chết, và tài sản hiện chẳng còn gì.
-
Còn đấy, thưa bà, ngôi nhà này chẳng hạn, và nhiều thứ khác.
-
Ngôi nhà này đứng tên tôi và là của tôi! - Nàng giận dữ kêu lên.
-
Bà nghĩ thế à?
-
Tất nhiên. Và đừng hòng ai cướp nổi nó. Đây, ông xem đi, rồi mời ông ra khỏi
đây ngay! - Nàng vội móc túi lấy tờ giấy chứng nhận sở hữu ngôi nhà mà nàng
luôn giữ chặt bên mình. - Ông đọc đi!
Nàng
dí tờ giấy tận mặt lão già.
-
Thì nó ghi tên tôi đấy thôi, xin bà hãy xem lại. - Ông kia thản nhiên đáp, rồi
đến lượt mình chỉ ngón tay vào tên người sở hữu trên tờ giấy. Nàng trố mắt ngạc
nhiên khi thấy đó không phải tên mình mà là một cái tên lạ hoắc. - Thôi, đã đến
lúc tôi phải đi, - lão già vừa nói vừa cho tờ giấy vào túi. - Tôi nghĩ ba ngày
đủ để bà dọn đi nơi khác. Trường hợp sớm hơn, xin bà báo tôi biết theo địa chỉ
này... - Lão đưa cho nàng mẩu giấy có ghi số nhà và một tên phố.
Chờ
lão già ra khỏi, nàng chạy bổ vào phòng, run rẩy móc từ chỗ cất giấu một bọc
tiền lớn, giở ra chỉ thấy toàn những tập giấy bạc âm phủ. Thử các dây chuyền và
nhẫn vàng, cả chiếc có hạt kim cương lớn, cũng thấy chỉ đồ giả. Xót của, nàng
kêu to một tiếng rồi ngất xỉu...
*
Sau
đấy nghe nói nàng ốm một trận phải vào viện nằm cả năm trời chưa khỏi. Có người
bảo nàng hóa điên, xé quần áo, bôi đen mặt đi giữa phố. Cả lúc ấy, vẻ đẹp trời
cho vẫn hiện ra lồ lộ, và nàng đã mấy lần bị bọn lưu manh lôi vào bụi rậm. Có
người lại bảo, điều này nghe có lý hơn cả, rằng mấy năm sau, khi thấy mình
không còn trẻ, nàng đã tìm đến lão già kia mua thuốc, nhưng vì vô tình, cũng có
thể cố ý, nàng uống quá liều nên lại biến thành Cái Tý tuổi mười sáu đúng như ngày
nó lên thành phố làm ô-xin năm nào. Lần này không may nó phải hầu hạ một bà già
góa giàu có không con cái, do vậy nó không bị ai cưỡng hiếp nên không có điều
kiện biết được cách kiếm tiền dễ dàng. Bà này nổi tiếng nghiêm khắc và thương
người. Bà dạy nó đủ điều hay lẽ phải, lại cho tiền ăn học tử tế như con. Vậy là
nó đổi đời, từ con bé nhà quê đến ăn không đủ no thành cô tiểu thư thành phố
nết na, xinh đẹp. Nó thi đậu đại học, thành hoa khôi trường, hoa hậu thành phố
rồi làm kế toán trong một cơ quan nhà nước. Nó, tức là cô Tý, mới lấy chồng năm
kia, sinh đứa con rõ xinh và cô có vẻ hạnh phúc lắm. Cô cũng loáng thoáng nghe
người ta nói về câu chuyện ly kỳ của một mụ đàn bà xinh đẹp, hư hỏng nào đó tên
là Diễm Hạnh, nhưng vì bận việc công, việc nhà, cô chẳng hơi đâu quan tâm tới
mụ.
Hà Nội, 22. 8. 2002
NGƯỜI
ĐÀN BÀ TRÙM KHĂN ĐEN
Cảnh
thật buồn và ảm đạm. Khu đồng Mồ những ngày cuối năm nước cạn, không trong cũng
chẳng ra đục, cứ lờ lờ một màu vô cảm. Ruộng có nơi chưa cấy, chỏng chơ những
mô đất nhỏ, có nơi mới cấy xong lúa chưa bén rễ, vàng úa như những sợi râu ngô
héo. Trên bờ đê con mương dẫn nước từ đập Xuân Dương về chỉ lèo tèo vài con bò
đang gặm cỏ, nếu còn có cỏ để gặm. Vì cỏ ít trâu bò nhiều nên thân đê từ lâu bị
bào mòn, không xanh mà bạc thếch.
Đã
bắt đầu nhá nhem. Bầu trời u ám, không mưa nhưng ẩm lạnh và vì là nơi đồng
trống nên gió khá mạnh. Làng Xuân Tình gần nhất cách chưa đầy cây số bây giờ
chỉ là một vệt mờ mờ, còn xã Diễn Thọ phía Tây thì từ lúc nào đã chìm trong
sương mù.
Ở
một trong vô số vũng nước nông dọc bờ đê, lão Mục đang hý hoáy mò tôm, những
con tôm chỉ bé bằng đầu đũa. Vũng nước được tát cạn, những gì nổi phía trên lão
đã nhặt hết, bây giờ mò bắt những con khôn ngoan lẫn dưới lớp bùn nhẽo. Chiếc
giỏ rộng miệng không đeo bên hông mà để trên bờ, thỉnh thoảng lão ném vào một
con gì đấy mới mò được, có khi cả bùn. Lão thầm ngạc nhiên ở đây còn tôm cá cho
lão bắt. Lão là người đánh dậm chuyên nghiệp, nghĩa là chỉ sống bằng cái nghề
ấy. Lão sống một mình trong trạm bơm bỏ hoang sát Kênh Nhà Lê vốn là nơi làm ăn
chính của lão. Mấy hôm nay nước lớn, lão ngược lên mạn trên rồi tình cờ phát
hiện những vũng nước này. Lão không có khái niệm về thời tiết hoặc tâm trạng
vui buồn. Thời gian cũng chẳng mấy khi được lão nghĩ đến. Chỉ cần đâu có cá là
lão tới, tranh thủ bắt càng nhiều càng tốt. Hôm qua lão được cả giỏ đầy. Hôm
nay cũng khá, đáng lẽ có thể về rồi nhưng vì tham nên lão cứ nấn ná bắt thêm.
Lão không lo nhỡ chợ vì bất kỳ lúc nào cũng có thể đem hàng bán cho mụ Thắm ở
làng Song Yên bên kia đường tàu, dù mụ này láu lỉnh thường bắt bí ép giá lão.
Cứ
thế lão Mục cắm cúi bới bới hai bàn tay già nua nhăn nheo trong lớp bùn nhẽo,
không để ý trời đang tối dần và đã bắt đầu xuất hiện những giọt mưa li ti trên
mái tóc rối bạc quá nửa. Lão đang nghĩ về việc tối nay có tiền không chỉ đủ mua
xịn rượu loại ngon mà còn cả ít dồi chó ở quán cạnh chợ Hôm. Lão hay rượu, chưa
đến mức nghiện nặng nhưng thích uống và uống luôn. Thường đi đâu lão cũng giấu
một be nhỏ trong túi, thỉnh thoảng tu một ngụm. “Đời có tí chất cay mới gọi là
đời, không thì sống làm đếch gì,” lão thường tự an ủi như vậy. Đang lúc rửa qua
một tay định cho vào túi lấy be rượu thì lão bỗng cảm thấy như có ai đứng trên
đê chăm chú nhìn mình. Không ngước lên nhưng lão biết. Ai ấy nhỉ?
Đó
là một người đàn bà còn trẻ đầu trùm chiếc khăn đen chỉ chừa lại khuôn mặt. Một
khuôn mặt khá xinh nhưng nhợt nhạt đến trắng bệch. Thực ra cô ta không nhìn lão
Mục mà nhìn giỏ cá. Chỉ lặng lẽ đứng nhìn. Lão cũng im, phần vì đớ ra chẳng
biết nói gì. Về khoa nói lão vốn rất kém và rất ít nói. Trời chưa tối hẳn nên
lão nhìn thấy rõ đôi mắt cô ta mở to, mũi nhọn, hai má hơi hóp, dấu hiệu rõ
ràng của sự đói ăn lâu ngày. Cô ta gầy, lão biết chắc như thế qua làn áo ẩm ướt
cũng màu đen bám sát người. Gầy đến mức lão có cảm giác nếu gió thổi mạnh, cô
ta có thể bay lên không và biến mất. Có phải vì gầy và nhẹ như chiếc bóng nên
cô ta đến đứng cạnh từ lâu mà lão không biết chăng?
Người
đàn bà trẻ nhìn vào miệng chiếc giỏ, nơi một vài con tôm đang ngọ nguậy, rồi
quay sang phía lão Mục. Qua vẻ cầu xin trong đôi mắt đẫn đờ ấy, lão hiểu. Cô ta
muốn xin một ít. Xưa nay chẳng bao giờ chịu cho không ai cái gì, thế mà bây giờ
không hiểu sao lão suy nghĩ một chốc rồi gật đầu. Cô kia vẫn đứng im. Lão gật
đầu lần nữa, thầm ngạc nhiên về sự hào phóng của mình. Chỉ lúc ấy cô mới cúi
xuống bốc một ít cho lên lòng tay. Chỉ một ít thôi và lão Mục lấy thế làm mừng.
Cô nhìn lão với ánh mắt biết ơn rồi lặng lẽ bước nhanh về phía làng Xuân Tình.
Tiếng chân cô khẽ đến mức lão có cảm giác như không phải bước mà đang lướt bay
trên mặt đường. Lão cũng chẳng nói gì, chỉ đứng ngây, nhếch mép cười một cách
đần độn.
Khi
người kia biến mất trong làn sương mù lúc này đã dày đặc, lão rửa tay xách giỏ
ra về, quên cả ngụm rượu định uống. “Còn trẻ thế mà đi ăn xin, thật không biết
xấu hổ!” lão lẩm bẩm một mình, không hẳn vì tiếc mấy con tôm cá. Trong giỏ còn
nhiều chán. Lão chỉ thấy hơi kỳ kỳ thế nào. Đây là lần đầu có người xin lão,
bình thường thì bao giờ người ta cũng mua, mặc cả từng xu một nhưng mua chứ
không xin.
Trời
tối hẳn. Mưa bắt đầu nặng hạt. Chợt thấy lạnh và đói, lão rảo bước đi nhanh về
phía làng Song Yên, vẩn vương suy nghĩ về điều vừa xẩy ra, nhưng rồi cuối cùng
trong đầu chỉ còn lại mụ Thắm và chai rượu nhờ mụ mà có.
Kênh
Nhà Lê nước còn lớn, nên hôm sau lão Mục lại đến đồng Mồ, cũng ở đoạn đê này,
chỉ vũng nước khác. Lão luôn đi làm vào buổi chiều, vì sáng dậy muộn, lại kề cà
thuốc nước và kiếm cái nhét vào bụng. Bầu trời vẫn u ám, lất phất mưa như hôm
qua. Và rồi khi chạng vạng tối, người đàn bà kia lại đến, đến lúc nào lão không
hề biết. Cô ta lặng lẽ nhìn giỏ cá rồi nhìn lão. Cũng cái nhìn van xin ấy. Đôi
mắt mở to có vẻ như sâu hơn, mặt nhợt nhạt hơn, người vốn đã gầy giờ càng gầy
hơn, đến mức trông chỉ còn như chiếc bóng. Lão Mục thoáng bối rối. Lão định
quát to đuổi đi, vì suy cho cùng lão còng lưng cả ngày thế này đâu phải để đem
cho người khác. Thậm chí lão còn định mắng nhiếc vài câu về cái thói trơ trẽn
ngửa tay ăn xin. Thế mà lão cứ nhìn trân trân như bị thôi miên. Trái tim cằn
khô của lão tự nhiên mềm ra, có cái gì đấy rân rân nơi cuống họng. Lão không
biết chuyện gì đang xẩy ra với mình, chỉ thấy buồn. Cuối cùng, như cái máy, lão
khẽ gật đầu. Cô kia cúi xuống, lấy ra ít cá, đúng bằng hôm qua, vội vã đi về
phía làng Xuân Tình và chẳng bao lâu sau thì biến mất.
Việc
này còn lặp lại mấy lần nữa. Vẫn cái giờ ấy cô ta tìm đến, dù lão Mục đã cố
tình chuyển đi chỗ khác xa hơn một chút. Cả hai vẫn chẳng ai nói với ai câu
nào. Kể lão Mục cũng muốn bắt chuyện nhưng không nói lên được. Bây giờ thì lúc
nào lão cũng bị ám ảnh bởi người đàn bà trùm khăn đen bí ẩn ấy. Lão thử hình
dung đủ chuyện mà cuối cùng vẫn chẳng đi đến đâu. Nhưng hôm nay thì lão đã có
một ý định, có thể nói là kế hoạch được trù tính kỹ từ trước. Lão sẽ lén theo
về nhà cô ta xem thế nào. Chỉ tò mò thôi chứ chẳng vì lý do nào khác. Không là
người thông minh, nhưng việc này thì chắc lão làm được, làm khéo nữa là khác.
Lão
thấy lạ là dù đã đi rất nhanh, gần như chạy mà vẫn không theo kịp người kia.
May không bị mất hút vì xung quanh chỉ toàn đồng trống. May nữa là cô ta không
một lần ngoái lại nên không biết có người đi theo. Cũng có thể biết nhưng giả
vờ không.
Tới
đầu làng Xuân Tình, người đàn bà trẻ rẽ vào một ngôi nhà tranh có chuối mọc um
tùm bao quanh. Làng này người ta trồng nhiều chuối. Trước đây lão có đến mấy
lần để bán cá, nhưng chẳng quen ai. Lão chợt đứng khựng lại không biết làm gì
tiếp khi cô kia vào khuất trong nhà. Không thể cứ đường đột vào thẳng nhà người
ta, lão nghĩ. Trời gần tối hẳn, trong nhà có ánh đèn dầu tù mù, dưới bếp hình
như có ai đang nấu ăn. Lão tần ngần hồi lâu rồi ngập ngừng bước vào, dẫu xưa
nay không là người nhút nhát. Thì cứ hỏi người ta có mua cá không, việc gì phải
ngại.
Thấy
có người, một bà già tập tễnh từ trong bếp đi ra, tay cầm chiếc que kều lửa.
Ngôi nhà trống hoác, tuềnh toàng không có cửa. Lão Mục ngạc nhiên không thấy cô
gái kia đâu. Hay mình nhầm nhà? Không thể được. Chính mắt lão nhìn thấy cô ta
vừa rẽ vào đây mà.
-
Bác hỏi ai ạ? - bà già lên tiếng.
-
Tôi bắt được ít cá, vào hỏi xem nhà ta có mua không, - lão đáp, tự lấy làm hài
lòng với sự lưu loát của mình.
-
Không. Chẳng giấu gì bác, nhà tôi nghèo không có tiền. - Bà lão thở dài. - Đến
bát gạo ăn còn phải đi xin người ta thì lấy đâu ra tiền mà mua cá.
Nói
đoạn, bà lão định bỏ vào bếp nhưng thấy khách chần chừ chưa đi, bèn nói thêm:
-
Hay bác vào trong nhà uống chén nước đã?
Trên
chiếc chõng tre ọp ẹp chính giữa nhà, lão Mục ngồi, bê bằng cả hai tay bát nước
vối đầy rồi tu một hơi hết sạch, dù không khát. Nhà đang có tang, lão thoáng
nghĩ khi nhìn lên chiếc bàn thờ cũng bằng tre có mấy nén hương đang cháy sau
lớp vải màn mỏng ám khói. Trên bát hương là bức ảnh người chết, không lớn, và
mặc dù đèn tù mù, lão vẫn nhận ra ngay đấy chính là cô gái đến xin cá mấy ngày
vừa rồi. Lão ngạc nhiên đến giật thót cả người. Nếu bát nước chưa kịp đặt xuống
thì chắc đã rơi xuống đất. Lão bỗng thấy sợ hãi, sợ đến tái mặt. May bà chủ nhà
không nhìn thấy.
-
Con dâu tôi đấy. - Bà già nói khi thấy khách để ý nhìn bàn thờ. - Chưa đầy ba
chục tuổi mà trời đã bắt chết. Ngày mai là vừa tròn ba tháng. Chồng nó còn bị
trời bắt chết sớm hơn, khi hai đứa vừa lấy nhau được một năm. Chẳng hiểu sao
ông trời ác độc thế. Thành ra bây giờ tôi, một thân già què quặt nuôi mình
không nổi còn nuôi thêm đứa cháu năm tuổi... Có hôm phải nhịn vì chẳng có
gì ăn, vậy bác bảo tiền đâu mà cá với
chả thịt...
Đúng
lúc ấy một đứa bé gái từ ngoài vườn đi vào, tay chân còn lấm bùn.
-
Có bắt được con nào không cháu? - bà nó hỏi.
-
Dạ có, - nó đáp rồi xòe hai bàn tay.
Lão
Mục nhìn xuống thì thấy chính những con cá lão vừa cho cô gái lúc nãy.
-
Thế thì để bà xuống nấu cho mà ăn. Kho mặn, ăn với khoai luộc chắc ngon lắm. -
Bà già nói rồi tập tễnh bước ra ngoài.
Lão
Mục cũng đứng dậy, chào bà chủ ra về.
-
Kể cũng lạ, - bà nói khi tiễn khách, - vũng nước tí xíu như chỗ trâu đầm sau
nhà mà cũng có cá bác ạ. Không nhiều nhưng ngày nào cũng có. Âu cũng do trời
phật muốn giúp bà cháu tôi, phải không bác?
Lão
Mục không đáp vì lúc ấy đã ra đến cửa. Lão đi như chạy một mạch về nhà, không
một lần dám ngoái đầu nhìn lại.
Đêm
ấy lão bán vội giỏ cá cho mụ Thắm chẳng thèm cò kè một xu nào. Bao nhiêu tiền
lão đem mua rượu hết, uống say mèm rồi ngủ mê mệt đến tận quá trưa hôm sau mới
dậy. Xế chiều, lão lại xách giỏ đến đồng Mồ. Tuy thầm sợ, lão vẫn cố ý chờ
nhưng mãi không thấy cô kia tới. Liên tiếp mấy ngày sau cũng vậy. “Chắc mình
làm cô ta sợ, lão nghĩ. Ma mà thấy động sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trở lại”.
Lão chẳng biết thế là tốt hay xấu, nhưng bỗng nhiên lão lại thấy buồn. Chẳng vì
sao mà vẫn buồn, cái buồn mơ hồ, âm ỉ, day dứt và khó chịu. Có thể nói đây là
lần đầu tiên trong cả cuộc đời dài chẳng lấy gì làm vui vẻ của mình, lão có cái
cảm giác kỳ lạ ấy. Lão đâm ra hay rượu hơn và cũng hay suy nghĩ vẩn vơ hơn, đủ
các chuyện chẳng đâu vào đâu.
Khoảng một tuần sau, khi phần nào bình
tĩnh trở lại, chọn lúc trời tối hẳn, ngày nào lão cũng tìm đến ngôi nhà tranh
kia ở mép làng Xuân Tình, lén bỏ một ít tôm cá lão bắt được vào “vũng trâu đầm”
sau vườn, rồi lén lút bỏ đi như tên trộm thực thụ. Cứ thế kéo dài mấy tháng cho
đến khi lão chết cách đây không lâu. Nghe nói vì uống rượu say cảm gió. Cũng có
người nói lão bị ma ám, nhưng chắc không phải thế.
Hà Nội, 8. 8. 2002
CẦU
VỒNG
Lúc
ấy đã xế chiều. Một cơn giông ngắn vừa ập qua, mặt đất và không khí còn ẩm mùi
mát lạnh. Đang trên đường từ làng Xuân Tình về nhà, đến giếng nước ăn ở cách
đồng Chùa, lão Nhất Lợn bỗng cảm thấy như mình được chiếu sáng đột ngột. Lão
đứng lại, ngơ ngác nhìn quanh. Trong thứ ánh sáng kì lạ đó, lão thấy những giọt
nước li ti đang nhảy múa. Kì lạ hơn nữa, chúng có màu, đủ xanh vàng tím đỏ. Để
kiểm tra, lão xòe hai tay trước mặt. Cả hai bàn tay nhăn nheo, xạm đen vì cáu
bẩn của lão cũng có màu như vậy. Vô cùng ngạc nhiên, lão ngước nhìn lên cao và
thấy một hình cung khổng lồ nửa xanh nửa đỏ. Một đầu của hình cung đó cắm đúng
mỏm núi có ngôi đền thờ An Dương Vương linh thiêng. Nó vươn lên cao, vượt qua
hai xã Diễn Trung và Diễn An, vượt qua cả cái làng Xuân Nho của lão, cuối cùng
cắm đầu còn lại xuống...
Ôi,
bây giờ thì lão hiểu - Cầu Vồng! Cầu Vồng rơi đúng vào người lão, một lão già
khốn khổ là lão Nhất Lợn!...
*
Lão
năm nay đã ngoài bảy mươi và bị bệnh hen xuyễn nặng, khuôn mặt bé choắt đầy
những vết nhăn chằng chịt. Lão sống một mình không vợ con, không cả người thân
thích. Suốt đời, hay ít ra cũng hai, ba mươi năm nay lão sống bằng một nghề duy
nhất và cũng khá độc đáo, là nuôi lợn đực cho thuê giống. Cái tên Lợn được gắn
cho lão cũng vì thế. Lão là người tính khí lạ lùng, đặc biệt rất mê tín, mộ
đạo, tuy không hề theo tôn giáo nào. Trong nhà lão, nếu có thể gọi túp lều lão
ở là nhà, không có cả một góc nhỏ làm nơi thờ cúng. Nhưng bữa ăn nào, trước khi
cầm đũa lão cũng chắp tay vái ba cái rồi lẩm bẩm đọc vài câu gì đó không ai
hiểu. Lão ăn mặc lôi thôi lếch thếch, sống hết sức kham khổ. Được cái lão vô lo
và hiền lành. Ai cười chê nghèo khổ hay định bày bảo điều gì, lão thường nói
cái câu lão yêu thích: "Không sao, đời người ta ăn nhau ở cái hậu, mà cái
hậu của tôi thì tốt lắm, rồi mọi người sẽ biết".
Nghề
nuôi lợn đực cho thuê giống thoạt nhìn tưởng nhàn rỗi, dễ sinh lợi nhưng thực
ra lại rất vất vả và phức tạp. Hình như ở đây có bí quyết nào đó chỉ mình lão
biết, nên bao năm nay có thể nói lão chiếm độc quyền cái nghề này không những
trong xã mình mà còn cả một vài xã lân cận, dù nhiều người từng quyết tâm sống
chết cạnh tranh với lão.
Tuy
nhiên, độc quyền một nghề như thế cũng chẳng lấy gì làm vinh quang, nhất là với
lão, một người không vợ. Vì nó mà lão bị đem làm trò chế giễu. Vốn hiền lành,
lão chỉ cười, bỏ ngoài tai những lời đùa châm chọc của người khác. Lão chẳng
cáu giận ai bao giờ, họa chăng chỉ với chính con lợn đực của lão. Lão chăm bẵm
nó, lo cho nó ăn, tắm rửa sạch sẽ và sống dựa vào nó. Thế mà thật lạ, lão cứ
thấy nó vừa đáng ghét vừa đáng khinh thế nào, nhất là những ngày nó hăm hở đi
làm cái việc mà lão gọi là "đê tiện" kia. Lão luôn gọi nó là
"thằng đểu".
Những
ngày ấy, từ sáng sớm "thằng đểu" được ăn theo chế độ đặc biệt. Rồi
lão và nó ra đi. "Thằng đểu" đi trước. Đó là một con lợn cao và dài,
hông hóp, lông đen cứng. Nó bước đi chậm chạp, đôi mắt hùm hụp nhìn xuống đất
như tìm kiếm cái gì, hòn dái to thõng luôn đập bên này bên kia theo nhịp bước
chân. Lão Nhất thong thả đi phía sau, tay cầm chiếc gậy dài màu đen nhẵn bóng.
Chốc chốc lão lại vô cớ mắng con lợn và thẳng tay nện xuống lưng nó những cú
khá đau. Vốn quen với sự bất công của chủ, nó nhẫn nhục chịu đựng, chỉ khe khẽ
kêu vài tiếng ụt ịt rồi đủng đỉnh đi tiếp...
Mới
ba năm tuổi nhưng với dáng dấp nặng nề, với những nếp nhăn sâu trên mặt và đôi
má xệ theo kiểu lợn, trông nó cũng già nua như chủ.
Những
trưa hè nắng gắt hay những chiều đông âm u, thật khó mà hình dung được cái gì
đấy buồn bã, chua xót hơn cảnh lão Nhất và con lợn của lão đi bên nhau trên
những con đường gồ ghề, heo hút nối liền làng này với làng khác.
...
Xưa nay chẳng biết ốm đau là gì, không hiểu sao mùa đông này lão Nhất thấy sức
khoẻ mình yếu sút hẳn, đặc biệt hai tuần vừa rồi. Toàn thân lão đau âm ỉ, các
khớp xương như bị tháo rời, mỗi lần trở lưng lại kêu răng rắc. Lão nằm đắp chăn
tùm hum trên gường, một ngày chỉ dậy hai lần để nấu ăn cho con lợn và nhân thể
cho cả lão. Đêm lão trằn trọc mãi, và lúc thiếp đi thường mơ những giấc mơ rất
kì dị. Lúc lão thấy được ông tiên nào đó đưa lên trời bằng chiếc xe ba con rồng
phun lửa kéo. Chiếc xe lướt nhanh qua những đám mây xốp nhẹ đủ màu sặc sỡ. Quần
áo lão cũng được dệt bằng những sợi vàng bạc lấp lánh và đính đầy ngọc. Lão
ngồi trên xe, hồng hào, đẹp đẽ chẳng kém ông tiên bên cạnh. Đang ngây ngất vì
sung sướng thì bỗng có cái gì cọ cọ vào chân. Lão cúi xuống nhìn và thấy đó là
con lợn xấu xí của lão. Con lợn há cái mõm bẩn thỉu cắn vào ống quần lão kéo
lùi trở lại. Còn lão thì cố níu giữ một cách bất lực, cho đến khi cuối cùng bị
kéo tuột khỏi xe và rơi tít trên cao xuống đúng chiếc giường tre lão đang nằm.
Có
lúc lão mơ thấy mình có vợ. Tất nhiên vợ lão xinh đẹp, dịu dàng, và hai vợ
chồng sống hạnh phúc. Thế mà ở đúng đỉnh cao hạnh phúc ấy, lão nhìn kĩ hóa ra
vợ lão lại vẫn con lợn khốn kiếp. Sau những giấc mơ như thế, lão rất buồn. Hơn
lúc nào hết, bây giờ lão mới thấm thía hết sự cô đơn, bất lực của mình. Ý nghĩ
về một cái chết lạnh lẽo, không người vuốt mắt, không tiếng khóc ngậm ngùi,
ngày càng ám ảnh lão. Suốt đời mình lão sống lương thiện, chịu bao nhiêu đau đớn,
khổ sở, không lẽ chết còn chịu thêm cái nhục như thế? Không lẽ mọi hi vọng về cái hậu tốt đẹp của
cuộc đời mà lão luôn tự an ủi mình và khoe với người khác, cuối cùng chỉ là
những hi vọng hão không bao giờ đạt được?
Mấy
hôm nay trời bắt đầu ấm lại. Nắng ngoài sân rực rỡ hoe vàng. Tuy còn yếu và
mệt, sáng nay lão Nhất vẫn rời khỏi gường ra thềm ngồi sưởi nắng suốt cả buổi.
Đến chiều, lão quyết định "đi làm", tức là dẫn lợn lên làng Xuân Tình
theo yêu cầu của bà Ba, một người bạn cũ và cũng là khách hàng thường xuyên của
lão.
Đến
nơi, như thường lệ, lão cho "thằng đểu" vào chuồng làm cái việc
"đê tiện" của nó, còn lão thì đủng đỉnh bước vào nhà, nơi bà Ba đang
ngồi đợi lão trên chiếc chõng tre với hai bát nước chè xanh mới nấu và một cơi
trầu.
-
Dạo này ông ốm đấy à? - bà Ba hỏi, thay cho lời chào.
-
Ừ, sơ sơ, - lão đáp, vẫn theo kiểu nhát gừng như mọi khi, rồi đỡ lấy bát nước
bà Ba đưa cho, uống một hơi hết sạch.
Tiếp
đến hai người chẳng biết nói gì thêm.
Chủ
nhà là một bà già nhỏ nhắn, tóc bạc gần hết, quần áo sạch sẽ, chiếc miệng móm
bao giờ cũng nhai trầu. Trước bà làm nghề buôn vặt, hàng ngày gánh đôi thúng
xuống chợ Hôm bán dăm ba thứ đồ hàng xén. Độ mươi năm gần đây do sức yếu, bà
chuyển sang nuôi lợn nái và bỏ công chăm chút cái vườn. Như lão Nhất, bà sống
một mình không con cái, không họ hàng thân thích, và cũng là dân ngụ cư, có
điều bà từ Quỳnh Lưu vào, còn lão thì từ Yên Thành xuống. Nghe nói ngày xưa có
thời hai người từng mê nhau ghê gớm, không hiểu sao chuyện không thành. Từ đó
đến nay họ vẫn có cảm tình với nhau, tuy không ai lộ ra ngoài, nhất là lão
Nhất. Tại sao trong chừng ấy năm họ không nghĩ đến chuyện quay lại thành vợ
thành chồng như người khác, ít ra để nương tựa nhau những lúc già yếu thế này?
Đấy là điều bí ẩn không ai hiểu, ngoài họ.
-
Vừa rồi bà đẻ được mấy con? - lão hỏi.
Bà
Ba ngừng nhai trầu, lấy bộ nghiêm khắc đáp:
-
Không phải tôi mà con nái nhà tôi. Mười con. Ông lại định chọc tôi đấy à?
Lão
cười:
-
Thì tôi hỏi là hỏi về con lợn đấy chứ? Bà xem giống của tôi có tốt không?
Chủ
nhà nhíu mày nhìn ông nhưng không nói gì. Một lúc sau bà mới lên tiếng:
-
Già như ông mà làm cái nghề này, ông không thấy xấu hổ à?
-
Sao phải xấu hổ? - lão Nhất cao giọng. - Tôi xấu hổ thì ai đưa đực đến đây cho
bà? (chủ nhà lại nhìn khách cảnh cáo). Nó cũng là một cái nghề bình thường như
bao nghề khác. Có điều quanh năm vất vả với nó mà tôi chẳng kiếm được đồng nào
thừa. Nhưng không sao, đời người ta ăn nhau ở cái hậu, mà cái hậu của tôi thì
bà biết đấy...
Hai
người nói chuyện thêm lúc nữa, rồi xem chừng "thằng đểu" đã làm xong
việc của nó, lão Nhất cầm lấy chiếc nón rách, định đứng dậy ra về.
-
Khoan đã. Sắp có giông đấy, - bà Ba nói.
Lão
Nhất bước ra sân, ngửa mặt lên xem. Quả thế thật: bầu trời mới quang đãng lúc
nào bây giờ đã bị mây đen che phủ. Đâu đó vang lên những tiếng sấm ngắn và dòn.
Một vài giọt nước to và thưa bắt đầu rơi, để lại trên nền đất ẩm những chấm đen
như những đồng xu.
-
Năm nay giông sớm thật, - lão Nhất nói khi quay lại, miễn cưỡng ngồi xuống
giường. Bà Ba đưa cho lão bát nước nữa. Cả lần này lão cũng uống một hơi hết
sạch.
Chưa
đầy hai mươi phút sau, lão Nhất và con lợn của lão lại đi trên đường làng. Cơn
giông đã tạnh hẳn, tuy trên trời vẫn sót lại vài mảnh mây tơi tả đang bay nhanh
về phía cầu Bùng. Treo lửng lơ trên những ngọn đồi thấp của xã Diễn Lợi, mặt
trời le lói chiếu những tia vàng lạnh lẽo. Con lợn vẫn đủng đỉnh đi trước. Nó
bị đánh đau và nhiều hơn cái mức đáng phải chịu. Bao giờ "xong việc".
nó cũng bị chủ đối xử bất công như thế.
*
Đang
trên đường từ làng Xuân Tình về nhà, đến giếng nước ăn ở cánh đồng Chùa, lão
Nhất bỗng thấy mình được chiếu sáng đột ngột. Lão đứng lại, ngơ ngác nhìn
quanh. Trong thứ ánh sáng kì lạ đó, lão thấy những giọt nước li ti đang nhảy
múa. Kì lạ hơn, chúng có màu, rất nhiều màu. Để kiểm tra, lão xòe hai tay trước
mặt. Cả hai bàn tay nhăn nheo, xạm đen và cáu bẩn của lão cũng có màu như vậy.
Vô cùng ngạc nhiên, lão ngước nhìn lên cao và chợt thấy một hình cung khổng lồ
nửa xanh nửa đỏ. Một đầu của hình cung đó cắm xuống đúng mỏm núi có ngôi đền
thờ An Dương Vương. Nó vươn lên cao, vượt qua cả hai xã Diễn An và Diễn Trung,
vượt qua làng Xuân Nho của lão rồi cuối cùng cắm đầu còn lại xuống...
Ôi!
Bây giờ thì lão hiểu: Cầu Vồng! Cầu Vồng rơi đúng người lão, lão Nhất Lợn, một
thằng già khốn khổ.
Phải
đến mấy phút lão đứng ngây không biết làm gì. Bất chợt một ý nghĩ kì lạ bỗng
xuất hiện trong đầu. Lão nhanh chóng vứt bỏ hết quần áo, và rồi hoàn toàn trần
truồng, như một người điên thực sự, lão bắt đầu nhảy múa, tắm táp trong thứ ánh
sáng kì diệu đó. Người lão được chiếu sáng rực rỡ, luôn đổi từ màu này sang màu
khác. Những giọt nước li ti xanh đỏ tím vàng bám quanh lão, tạo thành một đường
viền kì ảo. Lão vò đầu, xoa tay, xoa chân, kì cọ khắp người. Lão nằm cả xuống
mặt đường lởm chởm đá nhọn và cát nhẽo sau cơn giông. Có lúc lão ôm mặt khóc hu
hu, có lúc lại cười to điên dại, miệng không ngớt xuýt xoa những câu gì đó về
Cầu Vồng, về Trời Phật và về cái hậu của đời lão.
Đêm
ấy lão Nhất bị cảm nặng. Hôm sau, gần trưa, khi bà Ba đến tìm lão trả tiền công
quên chưa lấy, bà thấy lão đã chết, nằm ngay ngắn trên giường. Bà cúi xuống,
nhẹ nhàng vuốt lên hai mắt nhắm như ngủ say của lão. Sau đó bà lặng lẽ tìm bộ
quần áo sạch, đun nước tắm rửa rồi thay cho người chết. Làm xong tất cả những việc
ấy, bà ngồi xuống chiếc chõng tre, và khóc.
Lão
Nhất nằm bên, sạch sẽ và thanh thản. Mặt lão hồng hào, hồng hào một cách khác
thường. Bà Ba đã không nhận thấy điều ấy. Có thể vì bà đang quá xúc động, cũng
có thể bà nghĩ đó là do ánh sáng mặt trời lọt qua chỗ dột trên mái nhà phản
chiếu lại.
Diễn
Châu - Đà Lạt, 1985 - 1987
BÀ
TÔI
1
Ngày
xưa có ông vua tên là Đế Thích, lên ngôi chưa được bao lâu thì bỗng có giặc
ngoại xâm kéo đến. Thế yếu, vua phải đem cả hoàng tộc xuống biển rồi từ đó lên
thuyền chạy vào phía Nam. Đi một mạch ba ngày ba đêm không nghỉ, đến vùng biển
xứ Nghệ thì gặp bão, thuyền chìm, chỉ ba người thoát chết nhờ may mắn được sóng
đánh dạt vào một hòn đảo. Đó là hoàng hậu và hai công chúa còn nhỏ.
Hòn
đảo ấy gần đất liền, nhưng vì nhỏ và toàn đá nên không có người, trừ một nhà sư
trẻ đêm ngày tụng kinh niệm Phật mong đắc đạo. Được nhà sư giúp đỡ, chăm sóc,
ba người phụ nữ nhanh chóng bình phục. Trong khi đó, không hiểu sao nhà sư bỗng
trở nên bần thần và hay suy nghĩ vẩn vơ. Sống tách biệt lâu ngày, lần đầu tiên
được gặp những người phụ nữ đẹp, lại trong hoàn cảnh họ bất lực và ở một nơi
hẻo lánh như thế, dần dần dù không muốn, trong đầu nhà sư đã nẩy ra những ý
nghĩ mờ ám. Và rồi một hôm, khi hai công chúa đã ngủ, ông lẻn đến với hoàng hậu,
định giở trò chim chuột. Dù biết ơn và kính trọng nhà sư, hoàng hậu một mực từ
chối. Cuối cùng, khi thấy nhà sư rút dao dọa giết, bà toan đập đầu vào đá tự tử
để giữ tròn trinh tiết. Thấy thế, nhà sư hoảng sợ. Khi cơn bột phát tình cảm
lắng xuống, ông rất đỗi xấu hổ và hối hận.
-
Ôi, nhục nhã thay! Cùng một lúc ta đã phạm ba tội lớn. - Nhà sư ngửa mặt lên
trời kêu to. - Là sư, ta không lo tu thân đắc đạo mà để quỉ dữ xác thịt cám dỗ,
đó là tội thứ nhất. Tội thứ hai là cưỡng ép một người đàn bà bị nạn đang được
mình che chở. Cuối cùng là có ý định giết người!... - Rồi sẵn con dao trong
tay, ông tự đâm vào cổ mình và chết.
Hoàng
hậu cũng hối hận không kém. Bà cho rằng đáng lẽ phải trả ơn, chính bà đã giết
chết ân nhân mình. Bà ôm xác nhà sư than khóc hồi lâu rồi cũng cầm dao tự tử
theo. Sáng hôm sau hai công chúa tỉnh dậy đoán hiểu hết mọi chuyện. Vô cùng đau
xót, họ nắm tay nhau cùng nhảy xuống biển.
Về
sau, để nêu gương tuẫn tiết của hoàng hậu, người ta lập một ngôi đền ở làng
Kình, nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trên mỏm một núi đá nhìn thẳng
ra hòn đảo nhỏ nơi xảy ra tấn bi kịch. Trong đền có cả tượng nhà sư cùng hoàng
hậu và hai công chúa.
2
Đó
là câu chuyện về sự tích đền Kình mà ngày bé bà ngoại thường kể tôi nghe. Sau
này lớn lên, đọc trong "Truyện cổ dân gian Việt Nam" của Nguyễn Đổng
Chi, tôi cũng thấy có chuyện ấy, chỉ khác ở câu chữ và cách diễn đạt. Rất có
thể chính bà tôi đã kể cho nhà văn nghe khi ông đến đây thu thập tài liệu.
Bà
tôi làm nghề buôn bán, nổi tiếng là người có bản lĩnh và táo tợn. Nghe nói có
thời bà từng là chủ của mấy chiếc thuyền lớn chuyên chở cá và nước mắm từ làng
Kình vào tận Hà Tĩnh bán, khi ra chở đầy cau khô và mít, bưởi... Ông ngoại tôi
chết sớm, việc buôn bán trở nên thua lỗ, tính tình bà cũng thay đổi theo, dần
dần trở thành người nghiệt ngã và đặc biệt rất mê tín.
Ngoài
mẹ tôi, bà còn có một người con nữa là cậu tôi. Đó là một người cao lớn, đẹp
trai, tốt bụng và vui tính nhưng nghị lực yếu đuối và là "thứ bỏ đi"
như bà tôi vẫn nói. Quen được nuông chiều từ nhỏ, lớn lên quả đúng cậu tôi là
người thế thật - dễ thích, dễ chán, chẳng bao giờ đủ kiên nhẫn làm xong việc
gì, thêm vào đó lại sớm nhiễm thói rượu chè, cờ bạc. Chưa đầy bốn mươi, cậu tôi
đã kịp thay đổi bốn đời vợ. Một hôm, khi đánh bạc đâu đó về khuya, chờ mãi
không thấy đò, lại đang say rượu, thế mà cậu tôi dám liều lĩnh bơi qua sông
Hoàng Mai giữa mùa nước lớn và tất nhiên đã chết đuối, hai ngày sau xác mới nổi
lên, bị sóng đánh dạt lên bậc đá sát chân đền Kình.
Tuy
bốn đời vợ nhưng cậu tôi chẳng để lại cho bà đứa cháu nào. Thế là vô tình tôi
trở thành người được bà yêu và quan tâm nhất. Chẳng hiểu vì sao bà chọn tôi
trong khi tôi còn một đàn em cả trai lẫn gái, không ít đưa thông minh và ngoan
hơn. Có lẽ đó là một trong những đặc điểm không lý giải nổi của người già. Có
điều, tôi chẳng lấy thế làm thích. Tôi miễn cưỡng tiếp nhận sự chiều chuộng của
bà - đó là những chiếc vòng bạc đủ cỡ mà tôi phải đeo vào cổ, vào tay dù là con
trai; những bộ quần áo kỳ cục tự bà may và đương nhiên tôi phải mặc để bạn bè
tha hồ chế giễu.
Nhà
tôi ở Diễn Châu, cách làng Kình những năm mươi cây số, thế mà hè nào tôi cũng
phải ra ở với bà ít nhất một tuần hoặc nửa tháng. Còn vào ngày rằm tháng giêng
hàng năm thì bất luận thế nào cũng phải ở bên bà. Vào ngày ấy, bà đánh thức tôi
dậy rất sớm, tắm rửa sạch sẽ rồi mặc cho bộ quần áo đẹp nhất. Xong, hai bà cháu
cùng ra đền Kình. Bà dẫn tôi đi khắp một lượt trong đền, vừa đi vừa kể lại câu
chuyện nhà sư và hoàng hậu, không quên kèm theo những lời răn đe rùng rợn.
-
Cháu có sợ chết không? - bà hỏi khi đứng trước tượng ông sư.
-
Có ạ, - tôi rụt rè đáp.
-
Thế thì hãy nhớ lấy gương ông này!
Rồi
bà kể một thôi thật dài về những điều khủng khiếp mà con người đáng thương kia
phải gánh chịu khi bị đầy xuống địa ngục. Chẳng hiểu vì sao tôi còn nhỏ mà bà
phải răn đe những chuyện như thế. Cứ theo bà thì mọi tội lỗi và tai họa trên
đời đều từ cái thú xác thịt mà ra. Bà ghê tởm và tìm cách xa lánh nó như xa
lánh quỉ dữ. Tất nhiên bà cũng bắt đứa cháu yêu của mình có thái độ tương tự.
Mãi sau này tôi mới hiểu bà tôi phải nghĩ ra tất cả những điều ấy để giữ mình
trong suốt cuộc đời góa chồng kéo dài của bà.
Tiếp
đến là phần phóng chim lấy phước. Bà trịnh trọng thắp hương, quì trước tượng
hoàng hậu, hồi lâu lầm rầm cầu khấn gì đó. Còn tôi thì lặng lẽ quì bên cạnh.
Xong, bà ra giữa sân đền, trao cho tôi chiếc lồng có nhốt những con chim bồ câu
- bao giờ cũng màu trắng, vì sao tôi không biết, mà bà đã mua ngoài chợ từ ngày
hôm trước. Tự tay tôi phải mở lồng, bắt ra từng con rồi tung lên trời, bao nhiêu
con phụ thuộc vào số tuổi của tôi năm ấy.
Trong
khi tôi thong thả thực hiện cái lễ nghi mang tính tôn giáo và đầy huyền bí đó,
trông mặt bà thật long trọng, nghiêm khắc và căng thẳng. Bà hồi lâu nhìn theo
từng con chim được thả bay lên cao cho đến lúc mất hút trong không trung, thầm
hy vọng sẽ có ngày chúng mang lại điều tốt lành cho ân nhân mình.
Lần
thả chim sớm nhất còn nhớ được có lẽ khi tôi lên ba hoặc bốn và đang được bế
trên tay mẹ. Tiếp đến, việc này đều đặn lặp đi lặp lại hàng năm, cùng ngày, cùng
địa điểm và cùng những thủ tục bất di bất dịch. Khác chăng chỉ ở số lượng chim thả, nghĩa là mỗi năm thêm
một con cho phù hợp với tuổi.
Bà
tôi là người tuy tốt nhưng nghiệt ngã như đã nói, không những tôi mà cả mẹ tôi
cũng sợ. Vì vậy dù bận bịu việc đồng ruộng, dù xa xôi và nhiều khi chỉ đơn giản
không muốn, mẹ tôi vẫn phải đem tôi về quê ngoại. Những năm gặp lụt tàu không
chạy được, chúng tôi phải xin ô tô tải đi nhờ hoặc cuốc bộ cả năm mươi cây số,
nhẩy từng bước một trên những thanh tà vẹt bị mặt trời đốt nóng hừng hực. Người
nhỏ, chân ngắn, tôi thường tập tễnh đi
sau. Mệt quá, chốc chốc tôi ngồi phệt xuống đường ray, thút thít khóc. Những
lúc ấy, hoặc mẹ tôi phải ngồi xuống cùng nghỉ, giở cơm nắm ra cho ăn, hoặc cõng
tôi đi tiếp, vừa đi vừa dài dòng giải thích rằng chúng tôi phải vất vả như thế
không phải không có lý do, rằng tương lai và hạnh phúc của tôi phụ thuộc vào
bà, vào đền Kình và những con chim được phóng thích.
Ngày
nhỏ nhiều lần tôi nghe bà nói với mẹ về tôi, như thể sau này tôi sẽ "cháu
con đông đúc", "công thành danh toại", và "làm rạng rỡ cho
cả dòng họ"... Cũng vì thế mà bà đã không tiếc công sức, tiền của chăm lo
cho tôi sớm đạt được điều ấy. Là người cực đoan, bà rất tin vào suy nghĩ của
mình. Còn mẹ tôi thì rõ ràng có ý nghi ngờ. Mà nghi ngờ cũng có lý, vì nói
chung tôi là đứa trẻ bình thường, học không dốt nhưng lười, chỉ thích duy nhất
môt việc là đọc sách.
3
Dễ
đến mười năm nay tôi mới có dịp trở lại quê ngoại Quỳnh Lưu. Bà tôi chết cuối
năm 1968, trong một trận pháo Mỹ bắn từ biển vào. Bà con thân thích chẳng còn
ai, trừ một ông già năm nay gần tám mươi tuổi mà mẹ tôi nói tôi phải gọi là
cậu. Dĩ nhiên, một trong những việc tôi quan tâm đầu tiên là đền Kình.
-
Người ta phá đi rồi, - ông cậu tám mươi
tuổi đáp cộc lốc.
-
Nhưng vì sao ạ? - tôi vội hỏi, ngạc nhiên và lo lắng.
-
Ôi dào, ai mà biết được các ông ấy. Mấy ông lên xã họp hành cái phát động gì đó
vài buổi, thế là về bắt dân dỡ phá ngôi đền, nói để xây nhà văn hóa. Mà rồi ba
năm nay có thấy cái nhà ấy đâu.
-
Thế dân không phản đối à?
Cậu
tôi thở dài:
-
Dân thì biết gì mà phản với chẳng đối. Vả lại, họ bảo phá đền để chống cái
phong kiến, cái lạc hậu thì còn nói vào đâu được nữa.
-
Cả mấy cây si cũng bị chặt à? - tôi hỏi.
-
Thì anh cứ ra xem, khắc biết.
Ở
Diễn Châu, cách làng tôi chừng hai cây số về phía Nam có đền thờ An Dương
Vương. Ngày bé chúng tôi thường thả trâu dưới chân núi Mộ Dạ rồi leo lên chơi
trốn tìm trong đền. Về sự tích ngôi đền này, không cần nghe ai chúng tôi cũng
biết vì sách giáo khoa phổ thông có nhắc tới. Nhiều lần chúng tôi chụm đầu cùng
nhìn xuống đáy chiếc giếng giữa sân đền, cố tìm giọt máu của Mỵ Châu mà tương
truyền còn có trong đấy; hoặc vòng ra phía sau đền để đoán tìm nơi An Dương
Vương nhảy xuống biển tự tử. Biển bây giờ đã lùi xa hàng cây số xuống phía
đông.
Trong
suốt nhiều năm dài tuổi thơ và cả bây giờ, tôi vẫn thầm tự hào quê tôi có được
một lúc cả hai ngôi đền nổi tiếng, đến mức được viết thành sách và trong nước
ai ai cũng biết. Thế mà nay một trong hai ngôi đền ấy, ngôi đền làng Kình, đã
không còn nữa.
Tôi
thơ thẩn bước đi giữa lổn nhổn gạch vỡ và những túm cỏ dại mọc rải rác ở nơi
xưa là sân đền, lòng bâng khuâng mãi nỗi buồn khó tả. Tôi lan man suy nghĩ về
một thời xa xưa huyền bí, về những con người bất hạnh làm nên sự tích ngôi đền
và những con người thực dụng thô thiển sau này đã xóa bỏ nó một cách không
thương tiếc. Tất nhiên tôi cũng nghĩ về bà tôi, một người mà trong tiềm thức
của tôi bao giờ cũng là cái gì đấy không thể tách rời khỏi tuổi thơ và mảnh đất
tôi sinh trưởng. Cũng như quê tôi, con người ấy bắt rễ sâu vào quá khứ, khắc
khổ, vất vả nhưng hiền lành, và điều quan trọng nhất là suốt đời chỉ cầu mong
điều tốt cho tôi. Với tôi, bà luôn là người ít nói và khó hiểu. Mãi gần đây,
nhân có đợt phát động mua công trái, vô tình tôi được biết thời kháng chiến
chống Pháp có lần bà nổi tiếng là người mua công trái nhiều nhất huyện, nổi
tiếng về cả việc chính bà tự nguyện cho bộ đội cả hai con thuyền còn lại của
mình để làm phương tiện vận tải.
Giá
bây giờ sống lại, bà tôi sẽ nghĩ gì?
Lần
cuối cùng gặp bà, tôi đã mười bẩy tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông và sắp đi học
xa. Lần ấy, dù không là rằm tháng giêng, bà cũng dẫn tôi ra đền Kình và tôi lại
thả mười bảy con chim lên trời, với đúng cái thủ tục không thay đổi những năm
trước đó. Kể ra từ khi học cấp ba, do đã lớn và hay xấu hổ, bà có châm trước ít
nhiều phần nghi lễ, thí dụ tôi có thể không phải quì lạy, hoặc tránh không ra
đền vào lúc đông người. Phần mình, gặp lúc đói kém, bà đã chịu thay những con
chim bồ câu đắt tiền bằng chim sẻ hoặc chim gáy, nhưng nói chung những trường
hợp như thế không nhiều.
Một
lần, bà giao việc ra chợ mua chim cho cậu tôi. Đang cần tiền uống rượu, cậu tôi
đến một nhà trong xóm mượn tạm mấy con bồ câu mang về. Sáng hôm sau, từ đền
Kình chúng lại quay về với chủ cũ. Không hiểu thế nào chuyện lộ, bà đã thẳng
tay đuổi cậu tôi ra khỏi nhà, còn tôi thì suýt bị gọi ra Quỳnh Lưu để làm lại
lần nữa cái thủ tục buồn chán ấy.
Về
ước mong "cháu con đông đúc", chắc hẳn bà tôi sẽ thất vọng ghê gớm,
vì mãi tới nay tôi vẫn chưa vợ, dù đã ở cái tuổi ngày xưa bà có cháu đầu lòng
là tôi. Có thể bà sẽ hối hận vì quá răn đe tôi bằng tấm gương của ông sư kia
chăng? Còn chuyện "công thành danh toại" hay thậm chí "làm rạng
rỡ cả dòng họ" – chắc tôi cũng chẳng làm bà vui hơn bao nhiêu, tuy đã được
in mấy cuốn sách và thỉnh thoảng xuất hiện trên báo này, báo nọ. Nhiều khi,
nghĩ về những hy sinh mà bà chịu đựng và những hy vọng bà đặt vào tôi, tôi cứ
áy náy như mình là người mắc nợ lâu ngày chưa trả.
4
Sáng
hôm sau, rời làng Kình, tôi ra chợ Mụ mua một đôi bồ câu - tiếc không có màu trắng - nhét vào chiếc cặp da to
mà tôi vẫn xách đi công tác thay va-li, rồi lặng lẽ đi về phía mỏm núi đá nơi
trước đó từng có một ngôi đền nổi tiếng.
Buổi
sáng, trời thật đẹp. Biển lặng, gió nhẹ nhưng sóng vẫn vỗ mạnh vào những tảng
đá lớn nằm ngay sát chân. Tôi đứng lặng một phút, thầm cầu mong vong linh bà
tôi được yên nghỉ nơi chín suối. Như cậu bé rụt rè ngày nào, tôi mở cặp, nhẹ
nhàng giữ đôi chim trong lòng tay, giơ chúng lên cao và từ từ nới mở các ngón.
Được tự do, đôi chim ngơ ngác mở to mắt nhìn quanh mấy giấy mới đập cánh bay
đi...
Một
cái gì đấy tê tê, êm dịu chạy qua tim. Tôi chợt hiểu: cùng đôi chim ấy, tuổi
thơ vừa tuột khỏi tay tôi bay đi. Bay đi vĩnh viễn.
Trên
không, đôi chim biến mất từ lúc nào. Chỉ còn lại những chiếc lông tơ nhẹ màu
trắng đang nghiêng ngả lượn thành vòng trong gió.
Quảng Bá, 11.5.1985.
CÁI
GIÁ CỦA NIỀM TIN
Mùa
đông năm ngoái tôi có việc lên Cao Bằng công tác. Khi ô tô đến thị xã thì trời
đã tối và không còn xe đi Bảo Lộc, là huyện tôi phải đến. Đành thức chờ đến sáng vậy. Bến xe lúc này vắng
người. Tôi chọn một góc vắng, rồi trải tấm ni-lông xuống đất, thầm lo không
biết làm gì cho hết cái đêm lạnh lẽo, dài và buồn chán này.
Bên
cạnh, ngồi quay lưng về phía tôi là một đồng chí bộ đội mặc quần áo sĩ quan, mũ
kéo tùm hụp xuống tận mắt. Tôi tìm cách bắt chuyện. Một lát sau, vì không có
việc gì làm, chúng tôi đã thoải mái trò chuyện với nhau. Hóa ra anh đi cùng xe
với tôi từ Hà Nội lên và như tôi, cũng phải ngồi chờ sáng để đi tiếp, có điều
không phải đi Bảo Lộc mà về Hạ Lang, quê anh. Tuy không nhìn rõ mặt, không phân
biệt được quân hàm, quân hiệu, nhưng qua giọng nói tôi đoán anh là một sĩ quan
từng trải và có lẽ không dưới bốn mươi lăm tuổi. Tôi yêu cầu anh có chuyện gì
hay kể cho nghe, và anh đã kể. Trái với điều tôi mong đợi, chuyện anh kể không
về những kỉ niệm chiến đấu ở chiến trường, mà về những con chim hải âu hiền
lành sống trên những hòn đảo nhỏ xa tít ngoài đại dương mênh mông mà trong đợt
tổng tấn công mùa xuân năm 1975 anh và đồng đội được lệnh ra giải phóng.
*
"Mấy
ngày sau khi ta chiếm Dinh Độc Lập, chúng tôi được lệnh hỏa tốc ra đảo X. Trên
danh nghĩa, chúng tôi là một tiểu đoàn nhưng quân số thực tế chỉ hơn trăm
người, lại toàn lính mới chưa dày dặn sóng nước nên khi tới nơi, phần lớn phải
nằm bất động vì say sóng. Cũng may chẳng phải đánh đấm gì mấy, vì bọn địch chốt
trên đảo nghe tin đất liền thất thủ, tinh thần đã sa sút tột độ và chỉ chờ có
người đến để đầu hàng. Việc tiếp quản, ổn định cuộc sống trên đảo được tiến
hành nhanh chóng và thuận lợi..
Thật
khó nói hết sự ngỡ ngàng của chúng tôi những ngày đầu đặt chân lên đảo. Anh thử
tưởng tượng xem - những doi cát nhỏ nhoi giữa biển cả luôn có sóng lớn, còn gió
thì ngày đêm thổi mạnh như bão. Chúng tôi đã hốt hoảng thực sự khi đêm đầu tiên
ngủ dậy - như trong câu chuyện thần thoại - chợt thấy trước mặt mình nhú dần
lên những hòn đảo thoạt nhìn tưởng tàu địch. Thì ra ở đây có những hòn đảo quá
thấp, đến mức thủy triều lên bị ngập hẳn dưới nước và chỉ khi nước rút mới xuất
hiện trở lại.
Tuy
nhiên, điều làm chúng tôi ngạc nhiên và thú vị hơn cả là chim hải âu. Xưa nay
chúng ta chỉ thấy hải âu trong phim, trong các bài hát trữ tình, thế mà bây
giờ, kia, chúng kia, hàng nghìn, có thể hàng chục nghìn con đang bay nhao nhác
trước mặt. Chúng kêu những tiếng đơn điệu, nghe có cái gì buồn buồn trong đó.
Tôi có cảm giác như đây là điểm hội tụ của tất cả loài hải âu trên biển. Từ đây
chúng tỏa đi kiếm ăn khắp nơi, chao lượn không mỏi trên những ngọn sóng, khi
trở lại, chúng đậu kín bề mặt hòn đảo chúng tôi đang ở và cả những hòn nhỏ lân
cận. Vì đảo trần trụi không cây cối, không hang đá, nên chúng ngủ, làm tổ và đẻ
trứng ngay trên mặt cát, lẫn với những vón phân khô, những mẩu cá chúng ăn sót
lại, phảng phất mùi tanh nồng.
Như
anh biết, ở đất liền bao đời nay quan hệ giữa con người và con chim là thù
địch. Thấy chim, con người luôn tìm cách bắt, bẫy hoặc xua đuổi. Phần mình, như
phản xạ tự vệ hình thành qua hàng nghìn năm, thấy người là chim liền xa lánh.
Còn ở đây, trong tiềm thức những con chim hải âu này, cái phản xạ tự vệ ấy
không có, vì lí do đơn giản là không cần thiết, hay chính xác hơn là chúng chưa
bao giờ cảm thấy bất kỳ mối đe dọa nào từ phía những con người chúng gặp. Vâng,
đúng như thế. Chúng đậu ngay trước mặt chúng tôi, xung quanh chúng tôi, thậm
chí cả trên vai và đầu chúng tôi. Mà chúng tôi là ai thì anh đã biết. Sau những
phút ngỡ ngàng đầy thi vị ban đầu trước sự cả tin thơ ngây của bầy chim kì lạ,
chúng tôi nhanh chóng trở lại với thói quen bản năng thực dụng mang theo từ đất
liền.
Việc
đầu tiên là chúng tôi nhặt trứng luộc ăn. Không ngon lắm nhưng cũng tàm tạm, ít
nhất đối với những người luôn phải sống trong cảnh kham khổ. Tiếp đến là ăn
thịt chim. Rất đơn giản: một người đứng thẳng chìa tay về phía trước. Sẽ có một
con đến đậu với đôi mắt mở to háo hức nhìn xung quanh. Nó sẽ được bàn tay còn
lại của anh ta vỗ vỗ vào lưng, rồi vặn cổ, vứt sang cạnh cho người khác vặt
lông, đưa lên lửa nướng. Tiếp theo là con khác rồi một con khác nữa, cũng với
những đôi mắt mở to ươn ướt như thế. Và cũng như thế, chúng được vỗ vỗ vào
lưng, bị vặn cổ vứt xuống đất. Chứng kiến cái cảnh độc đáo ấy là chúng tôi,
những chàng trai vô tư ngồi quanh đống lửa vừa nhồm nhoàm nhai thịt chim, vừa
nói cười vui vẻ, quá ư vui vẻ.
Chẳng
bao lâu sau, cái trò ấy cũng chán, phần vì thịt chim hải âu tanh, khác hẳn thịt
các loài chim đất liền. Nhàn rỗi, chúng tôi lang thang đi trên đảo, dẫm nát
dưới gót giày những quả trứng màu xanh lơ xinh đẹp, hay tiện chân đá bay những
con chim khờ khạo nằm ngáng đường đi. Một cậu nổi tiếng tinh nghịch còn lấy gậy
đánh vào chúng. Ôi, những con chim ngu ngốc tội nghiệp. Anh biết không, cứ con
này bị đánh chết là con khác lại sa vào, không chút ý thức về mối nguy hiểm
đang đe dọa. Cũng rất vô tư, chúng tôi thi nhau trổ tài thiện xạ. Tất nhiên mục
tiêu vẫn lại là những con chim đang đậu phía trước, xa hay gần tùy khả năng
từng người.
Tiếng
súng quả có làm bầy chim hoảng sợ, nhưng là cái sợ mơ hồ không cắt nghĩa nổi.
Chúng giật mình bay lên cao, nghiêng ngó nhìn quanh rồi lại ngỡ ngàng đậu
xuống. Chúng chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Có thể lúc ấy trong chúng đã hình
thành mầm mống đầu tiên của sự ngờ vực đối với con người như cách đây hàng vạn,
hàng triệu năm tổ tiên loài chim trên đất liền xa xôi đã ngờ vực con người khi
con người bắt đầu đối xử thô bạo với chúng.
Hai
ngày tiếp theo, vẫn những cảnh ấy xảy ra.
Sang
ngày thứ tư thì một điều kỳ lạ đã đến. Anh có thể tin hoặc không, nhưng mờ sáng
hôm ấy, ngủ dậy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy trên hòn đảo chúng tôi
đóng quân không hề thấy bóng con chim nào. Xin nhắc lại: không một con nào! Dấu
vết duy nhất còn lại của chúng là những vỏ trứng vỡ ngổn ngang và những túm
lông chim gió thổi bay vật vờ trên cát. Đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy
ra thì bỗng có lệnh báo động. Sau đó là lệnh tập hợp toàn đơn vị. Chúng tôi
nhanh chóng đứng thành ba hàng, thấp thỏm chờ đợi.
Đại
úy tiểu đoàn trưởng Lâm của chúng tôi là người nhỏ bé, khắc khổ, đã trên năm
mươi tuổi. Ông ít nói, hiền từ (lúc vui chúng tôi quen gọi "Bố Lâm")
nhưng dễ nổi nóng. Bản chất nông dân, hàng ngày ông thích mặc xuềnh xoàng, dễ
dãi, nên hôm nay thấy ông bước ra trước hàng quân trong bộ đồ sĩ quan mới, đủ
giày mũ và quân hàm, chúng tôi biết có chuyện khác thường. Sau khi hô
"nghiêm" toàn đơn vị, ông bắt đầu nói, giọng trang nghiêm, run run vì
xúc động và giận dữ:
-
Các đồng chí... các đồng chí đã làm một việc cực kì nghiêm trọng... một việc
xấu xa. Các đồng chí đã làm cả đàn chim hoảng sợ bỏ đảo bay đi... Bao năm nay
chúng yên ổn sống hòa thuận với con người, với giặc, những tên lính ngụy, kẻ
thù của chúng ta, các đồng chí hiểu chưa, với kẻ thù của chúng ta, thế mà nay
các đồng chí, những chiến sĩ cách mạng... chỉ trong ba ngày, các đồng chí đã...
đã... Thật tôi không còn biết nói thế nào nữa. Tự các đồng chí phải hiểu
lấy...Thật xấu hổ! Xấu hổ! - Đôi mắt ông chớp chớp. Rồi im lặng một lúc, ông
nhìn thẳng vào chúng tôi, nói tiếp với vẻ cương quyết hiếm thấy: - Từ bây giờ,
tôi ra lệnh các đồng chí phải bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo. Thời hạn
một tuần! Giải tán!
Đấy,
anh xem, câu chuyện hóa ra thế đấy. Đến bây giờ chúng tôi mới ý thức hết việc
mình làm. Mọi người lặng lẽ ai về vị trí người ấy, xấu hổ không dám nhìn vào
mắt nhau. Liền sau đó, chi bộ họp. Là đảng viên, tôi có dự. Tiểu đoàn trưởng
hồi lâu nhắc lại những điều đã nói trước toàn đơn vị, và theo đề nghị của ông,
chi bộ đã thông qua những điểm sau (nguyên văn):
1
- Bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo trong thời gian ngắn nhất có thể.
2
- Các trung đội họp tự kiểm điểm một cách nghiêm túc.
3
- Từ nay cấm không được ăn thịt chim, trứng chim, cấm không được làm phương hại
đến chim và trứng chim dưới bất kì hình thức nào.
4
- Cấm không được nổ súng, trừ trường hợp chiến đấu.
5
- Báo cáo về đất liền.
Tiếp
đến là những ngày nặng nề, căng thẳng của chúng tôi. Toàn bộ sự chú ý của đơn
vị chỉ nhằm vào một việc là đưa đàn chim trở lại đảo. Nhưng bằng cách nào?
Chúng tôi đã thử mọi cách có thể nghĩ ra được. Trước hết là dọn sạch lông chim
và vỏ trứng vỡ. Tuyệt đối không gây một tiếng động nào có thể làm chim sợ và
hạn chế đến mức tối thiểu sự xuất hiện của người trên mặt đảo.
Anh
thử tưởng tượng xem, hơn trăm con người lặng lẽ, rón rén đi lại như những thằng
ăn trộm. Một trăm con người ấy, một trăm chiến sĩ từng vào sống ra chết trên
những chiến trường ác liệt nhất, một trăm chàng trai khỏe mạnh, đáng yêu và vô
tư - thậm chí quá vô tư đến mức đã có một hành động lầm lỡ, nay thực tình hối
hận muốn chuộc lỗi. Nếu cùng là người với nhau thì đơn giản hơn nhiều. Tôi cư
xử không tốt với anh ư? Thế thì xin lỗi, và chúng ta sẽ lại chung sống với nhau
như những người bạn. Còn nếu anh vì lí do nào đấy không thể tha thứ, ít ra cũng
cho được nói rằng tôi làm việc ấy hoàn toàn không vì xấu bụng, mà chỉ do lầm
lỡ. Đấy, với con người có thể nói với nhau như thế. Nhưng với con chim thì
không được. Chim chỉ hiểu chúng ta qua ngôn ngữ của hành động, mà hành động bao
giờ cũng chỉ bộc lộ ở bề nổi của nó, phần quan trọng hơn, phần nguyên nhân thì
không dễ nhận thấy nếu thiếu bộ óc suy diễn lô-gích. Chúng tôi đã làm một hành
động xấu, con chim hiểu điều đó và đã xa lánh chúng tôi, nhưng nay chúng tôi
đang có một hành động khác ngược lại, là sự hối hận và xấu hổ. Điều đó nằm sâu
trong suy nghĩ của con người. Làm sao chim thấy được?
Một
ngày, hai ngày rồi một tuần trôi qua mà vẫn không một con nào trở lại. Chúng
chen chúc nhau chật chội trên những hòn đảo bé nhỏ khác, hoặc cam chịu cảnh ướt
át bất tiện trên các doi cát khi ẩn khi hiện theo con nước. Kể ra câu chuyện sẽ
không trở nên quan trọng mức ấy, nếu tiểu đoàn trưởng không cho phát lệnh báo
động cả đơn vị. Chính việc đó làm thay đổi hẳn tính chất của vấn đề. Lúc này,
trong việc lấy lại niềm tin của bầy chim, chúng tôi hiểu còn có cái gì đấy trừu tượng nhưng to
lớn và quan trọng hơn.
Vẫn
không thấy bóng con chim nào xuất hiện. Mọi phương pháp, mọi mưu kế đều được
đem ra thử. Tôi, với tư cách người dân tộc có kinh nghiệm săn bẫy muông thú
cũng được hỏi ý kiến. Một anh chàng theo đạo Cơ Đốc được yêu cầu cầu Chúa cho
loài chim trở lại. Anh ta đã thành tâm cầu Chúa nhưng tạm thời lời cầu chưa màu
nhiệm. Một cậu còn đem cả bát cơm đang ăn tung lên nhử, quên rằng hải âu chỉ ăn
cá...
Bầy
chim vẫn lạnh lùng bay cao trên đầu chúng tôi, nghiêng ngó nhìn một cách cảnh
giác rồi xuống đậu các đảo lân cận, dù đảo chúng tôi là nơi khô ráo, thuận tiện
nhất, dù trên đó đang chờ đợi chúng là những con người đã hối cải, những người
bạn thật sự.
Thêm
một tuần, rồi một tuần nữa trôi qua...
Bỗng
một sáng nọ, có cậu vừa bước ra khỏi hầm đã kêu to sung sướng:
-
Kìa, chúng trở lại rồi kìa!
Cả
bọn chúng tôi ùa ra xem. Trên một mô đất cao cách chúng tôi ba trăm mét, quả có
mấy con đang đứng với nhiều tư thế khác nhau. Nhưng nhìn mãi vẫn thấy chúng
đứng yên, mọi người sinh nghi, bèn rón rén đến xem. Hóa ra đó là những con chim
nhồi. Mọi người nhìn nhau thở dài thất vọng. Nhưng ai đã làm những con chim
nhồi đó? Vì sao? Cả đơn vị căn vặn nhau mãi vẫn không tìm ra thủ phạm. Vâng,
thủ phạm, vì dù với mục đích gì chăng nữa, làm thế cũng là vi phạm lệnh giết
chim đã được công bố.
Tuy
thế, phải nói rằng chính nhờ những con chim nhồi kia chúng tôi mới thoát khỏi
cái thế bất lực khổ sở của mình. Bay trên cao, thấy có bạn đậu yên ổn trên đảo,
đàn chim hải âu bắt đầu thay đổi thái độ. Một vài con rụt rè bay xuống nhập
bọn. Núp trong hầm, chúng tôi nín thở theo dõi. Hôm sau số chim xuống đậu đã
nhiều. Hôm tiếp theo nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã có thể đi lại trên đảo, có
điều phải rất cẩn thận và nhất là phải thật tự nhiên như không hề quan tâm tới
chúng. Cuối cùng, sau hai tháng, tất cả trở lại như cũ, nghĩa là đàn chim lại
có thể đậu lên vai, lên tay chúng tôi mà không hề lo sợ. Chúng tôi thở phào nhẹ
nhõm. Anh biết không, ngoài ra chúng tôi còn có thêm cái cảm giác ấm áp của
tình bạn, vì suy cho cùng, sống chơ vơ một mình giữa biển trời, có được con
chim làm bạn mà nó bỏ đi, kể cũng buồn lắm chứ.
Toàn
bộ câu chuyện là thế. Nghĩ thật chua xót - chỉ trong vài ngày, mấy anh lính trẻ
vô tư đã dễ dàng đánh mất niềm tin của những con chim bé nhỏ vào con người, và
để lấy lại niềm tin ấy, cả một tiểu đoàn phải vất vả, khổ sở trong hai tháng
liền. Biết làm sao được... Cái cần trả giá phải được trả giá, không còn cách
nào khác!"
*
Anh
bộ đội ngừng kể. Chúng tôi cùng ngồi im hút thuốc. Cuối cùng tôi lên tiếng:
-
Tôi hỏi thật nhé, có phải anh nghĩ ra mấy con chim nhồi kia không?
-
Không, - anh đáp sau một phút trầm ngâm. - Đó là sáng kiến của “bố” Lâm.
"Bố" quê ở một vùng chiêm trũng Thanh Hóa. Ở đấy người ta hay bẫy cò,
nên "bố" mới biết cái kinh nghiệm ấy. Vả lại, hôm "bố" lén
lút chèo thuyền sang đảo khác bắt hải âu là hôm tôi trực gác, nên tôi nhìn thấy
hết. "Bố" bắt tôi thề không nói lộ với ai. Tôi không nghĩ
"bố" sợ bị xem là vi phạm lệnh cấm, mà chỉ sợ mang tiếng lừa dối
những con chim ngây thơ. Thế mà sau này, do tính bép xép, tôi đem kể hết với
mọi người. Tuy nhiên, vì sợ "bố" buồn, toàn tiểu đoàn ai cũng vờ như
chẳng hay gì. Có lẽ đến bây giờ "bố" vẫn nghĩ chỉ mình ”bố" và
tôi biết điều đó. Tội nghiệp ông già.
Cao Bằng, 1980
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét