Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2020

Truyện Ngắn






Truyện Ngắn
BÔNG HỒNG CHƯA TẶNG

Tám giờ kém mười. Lần nữa chuông rung dài phía trong Nhà Hát Lớn.
Mấy người đến muộn đang vội vã leo lên các bậc đá lát để đi qua chiếc cửa sắt nhỏ có bà soát vé to béo đứng cạnh, vừa xé vé vừa giục họ nhanh lên vì buổi diễn sắp bắt đầu. Đúng tám giờ, chiếc cửa sắt bị khóa. Bà kia lui sang bên, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Cuối cùng, trước nhà hát chẳng còn ai ngoài mấy người bán hàng rong, một thanh niên mặc quần áo bộ đội vẫn ngồi trên yên xe đạp, chân chống xuống đất, một cô gái trẻ mặc áo khoác màu sáng luôn nhìn đồng hồ, đi lại vẻ sốt ruột, và tôi.
Tôi không đi lại, không sốt ruột vì chẳng chờ ai, chỉ buồn do không mua được vé vào nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sĩ pianô nổi tiếng người Nga mà tôi hâm mộ.
Đang cuối tháng Hai, mới Tết xong và trời còn khá lạnh. Lại thêm chút mưa phùn lất phất, nhỏ thôi, và chỉ nhận thấy qua ánh sáng vàng nhạt của mấy cột đèn gần đó.
Anh thanh niên đã đạp xe đi. Cô gái vẫn nấn ná chờ người nhỡ hẹn. Tôi thì đứng ngay dưới cánh cửa sắt vì còn hy vọng biết đâu ai đấy vào phút chót có thể thừa vé nhượng lại.
Cô gái không đội mũ. Mái tóc phi-dê cắt ngắn xới phồng với những giọt nước li ti bám phía trên. Tôi ngạc nhiên thấy chúng có màu khác nhau. Tế nhị không nhìn lâu, nhưng khi cô đi ngang tôi cũng kịp nhận thấy một khuôn mặt rất xinh, hơi gầy và thanh thoát, có lẽ nhờ chiếc mũi thẳng và đôi mắt sâu. Một vẻ đẹp cổ điển, sang trọng của người có văn hóa. Mấy lần tôi định nhưng không dám hỏi mua lại một trong hai chiếc vé mà tôi tin chắc nàng đang giữ trong chiếc ví đầm đeo bên hông.
Bất chợt nàng đi lại gần tôi và nói, rất thản nhiên, giản dị:
“Anh có muốn đi dạo với em một chốc không?”
Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, đã tập tãnh nghề văn và đang yêu. Tôi yêu một ca sĩ, nghiệp dư thôi nhưng đang nổi, ít ra mấy lần đoạt giải các cuộc thi văn nghệ phong trào. Nàng cũng xinh và chúng tôi yêu nhau thực sự. Có điều khác hẳn tôi, nàng không thích nhạc cổ điển nên chẳng bao giờ chúng tôi cùng vào Nhà Hát Lớn, mặc dù chiều nàng, tôi luôn có mặt ở những đêm ca nhạc tôi chẳng mấy thích thú.
Cô gái hơi lúng túng khi tôi, vì bối rối chưa biết trả lời thế nào. Tuy nhiên chi mấy phút sau chúng tôi đã sóng đôi đi dọc theo phố Tràng Tiền rồi vòng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm.
Thành phố ban đêm thật đẹp và yên tĩnh. Ánh điện hắt lên mặt hồ thành từng vùng tròn như những chiếc trứng tráng trong chảo. Phía nhà Thủy Tạ có mấy ngọn đèn xanh in ngược xuống nước thành hình những chiếc cọc, tất nhiên cũng màu xanh và run rẩy như muốn gãy khuỵu dưới sức nặng của chiếc quán hai tầng trên đó. Có tiếng kèn xắc-xô-phôn buồn buồn vọng lại, xuyên qua lớp sương mù màu trắng ẩm ướt.
Chúng tôi lặng lẽ đi một đoạn dài không ai nói gì. Cuối cùng tôi lên tiếng:
“Chị vừa chờ ai nhưng người ấy không tới?” 
“Em chờ chồng em”, nàng đáp, cũng rất tự nhiên. “Nhưng không sao,  em quen với cảnh này rồi”.
“Và để trả thù chồng, chị mời tôi, một người lạ đi dạo thế này?”
Nàng không đáp. Tôi cũng im, lấy làm tiếc đã hỏi điều đáng lẽ không nên hỏi. Tôi thấy lạ trước cách cư xử của nàng. Cứ như ở một nước phương Tây nào đó. Rõ ràng nàng không thuộc loại phụ nữ dễ dãi, chưa hẳn đã thích phiêu lưu, vì ở nàng tôi thấy có cái gì đó sạch sẽ và nghiêm túc. Thế thì sao nàng, một người có chồng như đã nói, lại chủ động mời tôi đi dạo? Có ẩn ý gì chăng? Nàng là ai và cần gì ở tôi?
Vì lúc ấy còn trẻ và đang bị trí tò mò kích thích, tôi chẳng băn khoăn nhiều với những câu hỏi như thế, chỉ thấy sung sướng được đi dạo cùng người đẹp trong một đêm Hà Nội mơ mộng.
Chúng tôi vào Thủy Tạ ăn kem, những hai suất. Nàng để tôi trả tiền không chút kiểu cách. Rồi chúng tôi thong thả đi thêm một vòng quanh hồ, sau khi quành sang phố Nhà Thờ, phố Hàng Trống và một đoạn phố Hàng Gai. Khi trở lại Nhà Hát Lớn thì vừa đúng mười giờ rưỡi, cũng là lúc buổi diễn kết thúc và lác đác đã có vài người đi ra. Tôi đề nghị được đưa nàng về nhà nhưng nàng lắc đầu.
Nàng chìa bàn tay nhỏ bé của mình cho tôi. Bàn tay mềm và ấm, lần đầu tôi được chạm vào nó.
“Anh dễ thương thật đấy. Suốt mấy tiếng đồng hồ không hỏi một câu ngốc nghếch nào. Em thích những người như vậy. Em cũng thích anh. Nếu anh hay đến nhà hát này thì chắc ta còn nhiều dịp gặp nhau. Tam biệt và cảm ơn!”
Rồi nàng bỏ đi, đến đứng chếch phía bên phải nhà hát. Lát sau có chiếc ô tô màu đen đi tới đưa nàng đi. Một cô gái kỳ lạ mà lúc ấy tôi chưa biết tên và cô cũng chưa biết tên tôi.
Không phải tôi không hỏi câu nào. Theo yêu cầu của tôi, nàng nói chồng nàng là một quan chức quan trọng, hơn nàng những hai mươi lăm tuổi. Và rằng nàng đồng ý lấy ông vì bố mẹ bắt thế chứ chẳng vì tình yêu. Tuy nhiên đó không phải lý do để nàng không quí trọng ông hoặc cảm thấy bất hạnh. Đơn giản nàng nghĩ một khi đã là vợ chồng thì phải cư xử theo đúng đạo vợ chồng. Xuất thân từ gia đình gia giáo, nàng nghĩ cần phải thế. Chỉ tiếc ông không hiểu và không coi trọng nghề nàng. Tôi hỏi nghề gì, nàng chỉ im lặng mỉm cười. Phần tôi, tôi nói đang yêu và cũng được yêu lại. Một cách xã giao và hơi kỳ cục, chúng tôi chúc nhau hạnh phúc. Ngoài ra không hỏi gì hơn về đời tư mỗi người.
Nửa tháng sau tôi lại vào Nhà Hát Lớn để xem vở ba-lê Giselle do một đạo diễn người Pháp giúp Việt Nam dàn dựng. Và lại gặp nàng. Không phải trước nhà hát mà trên sàn diễn. Hơn thế, trong vai chính, tức là nàng Giselle xinh đẹp phải chịu nhiều đau khổ trước khi tìm được hạnh phúc của mình như ở phần kết hầu hết các vở ba-lê khác.
Xem tờ rơi giới thiệu nội dung, tôi biết tên nàng là Lệ Trinh, một diễn viên trẻ đầy triển vọng của Nhà hát Nhạc, Vũ kịch Trung ương, mới tốt nghiệp trường ba-lê danh tiếng nhất Liên Xô, ở chính thành phố tôi từng học trước đó mấy năm. Với cảm giác ngạc nhiên và hơi chút ít lâng lâng, suốt buổi diễn tôi chỉ ngắm nhìn một mình nàng trong bộ đồ ba-lê trắng mỏng tinh khiết. Cả người nàng cũng trắng mỏng tinh khiết. Nàng thoăn thoắt bước đi trên hai đầu ngón chân bé nhỏ, xen những cú nhảy nhẹ tưởng như không trọng lượng. Nàng đẹp một cách lộng lẫy. Cái đẹp hoàn thiện, thoát tục, đến mức trong tôi chỉ còn lại cảm giác ngưỡng mộ như khi người ta ngưỡng mộ một nữ thần. Thật khó tin mới chỉ mấy ngày trước đó tôi được nữ thần ấy mời đi dạo, thậm chí được chạm tay nàng.
Sau buổi diễn, đứng khuất phía xa trước nhà hát, tôi nhìn thấy nàng, vẫn  chiếc áo khoác hôm nọ, đang cùng một người đàn ông cao to mặc com-lê đen âu yếm dẫn nàng đến chiếc ô tô màu đen đợi sẵn. Chiếc ô tô chở nàng lần trước. Trong vở diễn nàng được chàng hoàng tử nâng trên đôi tay khỏe mạnh của mình, còn ngoài đời, nâng đỡ nàng là chiếc ô tô của chồng, chức vụ và có lẽ cả đôi tay cũng rất khỏe của ông ta. Tôi thở dài, thầm mỉm cười với sự so sánh ngồ ngộ ấy.
Tôi thờ thẩn bước đi giữa phố, đúng lộ trình tôi và nàng đã đi lần trước. Lần này trời quang đãng và đầy sao. Những ngôi sao khá lớn chen chúc trên mặt nước hồ Hoàn Kiếm. Tôi đứng hồi lâu trên cầu Thê Húc, tay vịn vào thành cầu đẫm hơi sương nhưng không hiểu sao lám nhám những hạt cát nhỏ. Tôi lờ mờ thấy mình đang yêu. Đúng, yêu nàng, nhưng là thứ tình yêu khác hẳn với tình yêu đối với cô ca sĩ nghiệp dư đang nổi. Một tình yêu trừu tượng, vô vọng và pha chút mặc cảm tội lỗi vì nàng đã có chồng.
Xưa nay ngoài sách, nhạc cổ điển là đam mê lớn nhất của tôi, nên hầu như tôi không bỏ sót buổi hòa nhạc nào loại này ở Hà Nội. Thậm chí thời sinh viên tôi từng mơ ước trở thành nhạc sĩ hoặc chỉ huy dàn nhạc giao hưởng.
Mấy hôm sau tôi lại có mặt ở Nhà Hát Lớn để nghe một chương trình nhạc Beethoven, gồm các bản giao hưởng số Một, số Sáu và khúc dạo đầu (ouverture) Coriolant. Lần này may tôi mua được vé, tất nhiên chỉ đi một mình.
Nàng xuất hiện đúng lúc tôi sắp bước vào nhà hát, mặc quần jeans, đi giày da và khoác trên người chiếc áo len rộng màu xanh nhạt. Tôi có cảm giác mặt nàng đỏ ửng, hơi thở gấp, có lẽ do trước đó phải chạy một quãng.
“Chào Lệ Trinh,” tôi lên tiếng trước, cố giấu vẻ hồi hộp. “Hôm nay chồng chị lại nhỡ hẹn nữa à?”
Nàng không ngạc nhiên khi tôi gọi đúng tên.
“Không. Em đi một mình. Em đến đây vì anh,” nàng đáp, cũng tự nhiên và giản dị như lần trước. “Anh có sẵn sàng bỏ buổi hòa nhạc để đi dạo với em không?”
Chúng tôi lại đi theo các phố cũ, có ghé vào Thủy Tạ nhưng không ăn kem mà uống cà phê, vừa uống vừa ngắm mặt hồ ban đêm và ôn chuyện Liên Xô. Dường như đề tài này làm hai người tự nhiên, thân mật hơn. Tịnh không một lời về đời riêng của nhau. Sau đó như lần trước, tôi đưa nàng trở lại nhà hát chỉ mấy phút trước khi ông chồng đánh ô tô đến đón nàng về.
Những tháng tiếp theo tôi còn mấy lần được nàng rủ đi chơi như thế. Mấy lần thấy ông chồng cùng nàng vào nhà hát. Tuy nhiên nàng chẳng tỏ ra thân mật hơn trước, ngoài việc tôi có thể giữ tay nàng lâu hơn, thậm chí một lần còn nâng lên hôn mà không bị rút lại. Thỉnh thoảng như vô tình, nàng hỏi chuyện tình yêu của tôi với cô kia, và tôi nói mọi chuyện vẫn bình thường. 
“Phải chăng nàng cũng yêu tôi, hay chẳng qua đó chỉ là trò đùa của những người xinh đẹp, giàu có và rất hiểu rõ địa vị mình?” Câu hỏi ấy cứ làm tôi băn khoăn mãi. Vốn hay mặc cảm và không muốn rơi vào thế lố bịch, dẫu rất yêu, tôi vẫn luôn tỏ ra kiềm chế, vì dẫu sao nàng cũng đã có chồng.
Một lần tôi còn chuẩn bị sẵn một bông hồng giấu trong cặp định tặng nàng, nhưng khi gặp lại không đủ can đảm trao nàng bông hồng ấy.
Sau đó, một thời gian rất lâu tôi không thấy nàng xuất hiện, cả trên sàn diễn lẫn trước cửa Nhà Hát Lớn. Linh tính báo có chuyện khác thường. Tôi nhờ người dò hỏi và được biết chồng nàng bị bắt cách đấy không lâu (vì lý do gì không rõ), đang bị giam đâu đó tận Tây Nguyên, và nàng đã bỏ hẳn vào đấy để chăm sóc ông.
                                                           *  
   Từ đó tôi chẳng biết gì thêm về Lệ Trinh. Rồi mọi cái cũng qua đi, kể cả tình yêu của tôi với nàng, còn lại trong tôi chỉ là sự luyến tiếc mơ hồ như luyến tiếc một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy vợ, có con, không phải lấy cô ca sĩ xinh đẹp không yêu nhạc cổ điển, cũng không phải vài người nữa tôi yêu sau đó. Cuộc đời dần dần đi vào nếp ổn định. Tôi lấy thế làm hài lòng và chẳng có gì phải than phiền. Tôi vẫn đều đặn vào Nhà Hát Lớn nghe hòa nhạc hoặc xem ba-lê. Chỉ những lúc ấy tôi mới nhớ đến Lệ Trinh, đặc biệt hôm đầu tiên thấy nàng trên sàn diễn trong vai cô gái Giselle xinh đẹp, tinh khiết và dường như không trọng lượng. Tôi cũng nhớ cả những đêm được đi dạo bên nàng hoặc phải lang thang một mình giữa các phố Hà Nội cho đến tận sáng như mọi chàng trai si tình khác. Rồi tôi thương cho nàng đáng lẽ được ông chồng to khỏe, đạo mạo, đầy chức quyền kia nâng trên tay đi hết cuộc đời, thì lại phải vào tận chốn rừng núi hoang vu miền Nam để nuôi ông, nâng cái cơ thể to khỏe kia của ông bằng chính đôi tay bé nhỏ của nàng, trên đôi chân đi những bước nhỏ bằng ngón kiểu ba-lê của nàng. Bây giờ nàng thế nào và đang ở đâu?                                               
  *
Một hôm, bất ngờ tôi nhận được bức thư từ Mỹ. Thư của Lệ Trinh.
“Chắc anh không còn nhớ em và đang ngạc nhiên? Em là Lệ Trinh, người cùng anh mấy lần đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm cách đây đã nhiều năm.”
Nàng viết, vẫn bằng giọng tự nhiên, chân thành như xưa.
“Bây giờ, ở khoảng cách an toàn, rất xa cả về địa lý lẫn thời gian, em mới dám nói với anh điều này. Em yêu anh! Em đã rất yêu anh những ngày được gặp và không được gặp anh thời ấy. Anh không biết, hay đúng hơn, em không cho anh biết điều đó, vì em đã có chồng, còn anh thì đang yêu người khác. Dẫu mãnh liệt, tình cảm của em đối với anh đã không thắng được ý thức đạo nghĩa vợ chồng trong em. Vả lại em cũng không thể cho phép mình cướp đi hạnh phúc của cô gái anh yêu và yêu anh. Đối với em đó là những ngày hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Còn sau đó chỉ là một sự tồn tại, thuần túy một sự tồn tại theo các khuôn phép đạo đức do xã hội qui định.
Dù không yêu, em đã hết lòng tận tụy với chồng cho đến khi ông ấy chết bệnh trong tù. Sau đó em theo mấy người bạn vượt biên và hiện đang sống ở Mỹ. Em đã có chồng, có con, dường như có tất cả, chỉ trừ tình yêu. Anh là tình yêu duy nhất của em. Lẽ ra em đã có thể đến với anh nếu em đủ dũng cảm thoát khỏi những ràng buộc của qui ước xã hội.
Viết thư này, em không có mong muốn nào khác ngoài được bộc lộ với anh những suy nghĩ thầm kín của mình. Em những muốn, và đã cố, không bao giờ nói ra, nhưng không được.
Hãy tha thứ cho em.
Lệ Trinh.
PS. Xin anh đừng viết thư cho em. Điều ấy không cần thiết. Hơn thế, nó chỉ làm em thêm đau khổ.”
Bức thư đề ngày... tháng... năm 1989. Mười lăm năm kể từ đêm tôi nhìn thấy nàng lần cuối.
                                                         *     
Tháng Năm năm 2000, trong lần đi du lịch một tháng với vợ ở Mỹ, tôi tìm đến nhà nàng theo địa chỉ ghi trên bì thư. Tất nhiên một mình. Tôi không có ý định gặp hay trò chuyện với nàng vì nàng không muốn điều ấy. Đơn giản chỉ muốn được nhìn qua ngôi nhà nàng đang sống. Đứng từ xa mà nhìn. Đó là một ngôi nhà nhỏ, bình thường như bao ngôi nhà khác xung quanh ở ngoại ô thành phố Raleigh, tiểu bang North Carolina. Nhà đóng cửa, chỉ hai ô cửa sổ là không, nhưng được che bằng những chiếc mành trắng mỏng. Tôi thong thả đi hai lần qua ngôi nhà ấy, ngồi xuống cạnh gốc cây đối diện, hút hết một điếu thuốc rồi trở về khách sạn.
Tháng trước, tôi lại nhận được một bức thư nữa từ Mỹ. Bức thư chỉ mấy dòng, được viết bằng nét chữ đàn ông rắn rỏi, gần như tô từng nét.
“Theo yêu cầu của người đã khuất, tôi xin báo ông biết rằng vợ tôi, bà Lệ Trinh, đã từ trần ngày...vì nhồi máu cơ tim. Vợ tôi cũng nhờ nói lại rằng bà ấy đã nhìn thấy ông ngồi hút thuốc trước nhà chúng tôi cách đây hơn hai năm. John Nguyen Van Bach.”
                                                  *               
Đó là toàn bộ câu chuyện về Lệ Trinh mà chắc tôi sẽ không bao giờ viết ra nếu không nhận được bức thư ngắn này của chồng nàng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm, ngoài việc nếu có dịp tới Mỹ lần nữa, nhất định tôi sẽ tìm đến mộ nàng để đặt lên đó bông hồng năm nào tôi định tặng.
Hà Nội, 2004
                                                                     
           
LE VIEILLARD ET LE PIANO

Không khí thật điền viên, ấm áp. Như bà già trong bản sao khổ lớn bức tranh sơn dầu nổi tiếng "La jeune fille au piano" của danh họa Paul Cézanne treo trên tường, bà lặng lẽ ngồi đan trên chiếc ghế xa-lông da mềm và sâu. Con mèo mướp lười biếng nằm ngủ dưới ghế, đầu gối lên đôi chân đi tất len dày của bà. Chốc chốc nó duỗi mình, vươn thẳng tứ chi rồi lại khoanh tròn ngủ tiếp.
Đầu xuân, nhưng trời còn rét ngọt. Dù ở nhà, như thường lệ, bà vẫn mặc chiếc áo dài vải the mầu xẫm kiểu cổ thời trước cách mạng. Bà có khuôn mặt bình thản hình trái xoan, với chiếc mũi thanh tú, đôi môi nhỏ và dày. Một nốt ruồi to bên cạnh, na ná nốt ruồi nổi tiếng của ca sĩ nhạc pop Mađôna, càng tôn thêm cho bà cái duyên thầm rất ưa nhìn. Cặp kính lão mắt tròn (cũng kiểu cổ) treo sệ xuống đầu mũi, và bà thường nhìn trên kính chứ không qua mắt kính như người khác. Bất chấp những nếp nhăn sâu trên mặt và mái tóc phi-dê ngắn bạc gần hết, người ta vẫn dễ dàng đoán biết bà từng một thời là người xinh đẹp và xuất thân từ một gia đình rất nền nếp.
Nếu phải chọn ai đấy là dân Hà Nội gốc, tiêu biểu cho lớp trí thức cũ vừa lịch sự vừa bảo thủ, thì có lẽ bà là người thích hợp nhất. Có cảm giác như cuộc sống mới thực dụng và hiện đại một cách xô bồ bên ngoài không mảy may ảnh hưởng đến con người bà và căn phòng nhỏ bà đã sống suốt bảy mươi năm qua. Bản thân căn phòng cùng các đồ vật trong đó cũng cổ kính và trầm lặng như chủ nhân chúng.
Bà là một trong số rất ít các nghệ sĩ pianô ở lại với cách mạng sau ngày thủ đô giải phóng, là người thầy đầu tiên bộ môn này ở Nhạc viện Hà Nội. Bà đã dìu dắt nhiều thế hệ nghệ sĩ trưởng thành, có người dành được giải thưởng lớn trong các cuộc thi quốc tế. Bà nghỉ hưu đã mấy năm nay, với danh hiệu "nhà giáo nhân dân" và "nghệ sĩ ưu tú". Chồng bà là cán bộ cao cấp trong quân đội, một vị tướng chiến trường, hy sinh trong chiến dịch Khe Sanh. Họ không có con. Bấy lâu nay bà sống một mình với con mèo, với chiếc đàn pianô hiệu Bekker cũng già nua và quí phái như bà.
Khách đến nhà bà không nhiều. Bà thích thế. Mỗi tuần hai lần vào thứ ba và thứ bảy, bà dạy đàn cho đứa cháu gái mười tuổi của bà em. Nó có khiếu, tiếp thu nhanh. Bà muốn và có thể dạy nó thành nghệ sĩ pianô có tài. Nhưng nó lại không thích. Cái nó thích là nhai kẹo cao su - vừa tập đàn vừa nhai - và nhạc xập xình chứ không phải nhạc Mozart hay Schubert. Không nói ra nhưng bà buồn. Bà buồn cả việc nhiều học trò giỏi của bà tối tối vào các khách sạn hoặc quán bar chơi đàn cho đám thực khách thô lỗ. Khách của bà còn là những học trò cũ thỉnh thoảng đến thăm, nhất là vào ngày mồng Tám tháng Ba và ngày Hai mươi tháng Mười Một. Và cuối cùng là ông già đang ngồi chơi đàn trước mặt bà lúc này. Một vị khách không mời cũng đến, đều đặn mỗi tháng một lần đúng ngày rằm. Vì sao lại ngày rằm? Cả ông lẫn bà đều không biết. Đơn giản vì đến mấy lần vào ngày ấy rồi quen, sau cứ thế tiếp tục mãi đã hàng chục năm nay.
Ông là thợ (có người gọi nghệ sĩ) lên dây đàn pianô lâu năm nhất và cũng thuộc loại giỏi nhất ở Hà Nội. Ông đến để lên dây đàn cho bà, mặc dù gần đây bà ít chơi đàn và do vậy dây đàn ít sai để phải lên lại. Nhưng ông cứ đến và bà chẳng lấy thế làm khó chịu. Họ là bạn của nhau từ thời còn trẻ. Chiếc pianô luôn là chiếc cầu nối giữa họ. Thường sau mỗi lần chỉnh đi chỉnh lại những nốt đàn đã quá chính xác, ông thong thả cất bộ đồ nghề vào hộp, rồi cũng thong thả như thế, ông trang trọng ngồi xuống trước đàn, bắt đầu chơi bài "Fur Elise"(Gửi nàng Elise) của Beethoven, một bản nhạc đượm buồn ai oán mà tương truyền nhạc sĩ thiên tài người Đức này đã viết gửi một nàng Elise nào đó để bày tỏ mối tình vô vọng của mình. Tiếp đến là một bản etude chậm của Chopin mà theo chất nhạc, người ta đặt thêm cho cái tên là "Tristess" (nhạc buồn). Lần nào cũng chỉ hai bài ấy. Bà chẳng biết vì sao nhưng không bao giờ hỏi. Xong, ông cẩn thận đậy nắp đàn, lấy giẻ lau sạch bóng lần nữa, ngồi xuống cạnh bà, uống nước, trao đổi đôi ba câu vu vơ rồi ra về, cúi đầu chào thật thấp, thậm chí còn ngả mũ nghiêng mình nếu lúc ấy là mùa đông và ông đội chiếc mũ phớt dạ từ thời Pháp còn lại.
Tuy nhiên, hôm nay hình như ngoại lệ. Sau hai bài bất di bất dịch kia, ông chơi thêm một bản nocturne (dạ khúc) của Chopin, bản số 1, và hiện đang chơi bản sonnate "Les Adieux" (Vĩnh biệt) số 26 của Beethoven.
Bà hơi ngạc nhiên nhưng vẫn lặng lẽ ngồi nghe, không một lần ngước mắt khỏi que đan. Ông đàn không hay, không phải ở mức a-ma-tơ nhưng cũng chưa hẳn chuyên nghiệp. Xuất thân từ một gia đình tư sản sa sút, ngày xưa ông cùng học pianô một thời gian ở Paris với bà. Bà học giỏi, có tài, tiếp tục tiến lên, còn ông thì sau nhiều thăng trầm, tự biết không bao giờ có khả năng thành nghệ sĩ giỏi, cuối cùng tự chọn cho mình cái nghề lên dây đàn pianô, dẫu nó, trước kia cũng như bây giờ, hiếm ai lao vào và chưa bao giờ mang lại cho ông nhiều tiền. Đơn giản vì ông không thể sống thiếu cây đàn này. Không trực tiếp biểu diễn thì ông chăm chút, chuẩn bị nó cho người khác. Và ông lấy thế làm hài lòng. Bây giờ đến lượt ông đàn, lại một bài khó và dài như "Les Adieux", ông không khỏi lúng túng, ngượng ngập. Chiếc Bekker già nua, loại Grand piano, chiếm trọn nửa căn phòng, đang rên rỉ dưới những ngón tay cũng già nua không kém của ông. Những phím đàn màu trắng ngả vàng ngà như nhảy múa một cách miễn cưỡng. Tiếng của nó cũng không còn trong trẻo và sắc gọn như xưa.
Theo thói quen nghề nghiệp, thỉnh thoảng bà ngừng tay, gõ mạnh que đan vào thành ghế rồi nói to như trước bà là cậu học sinh chưa thuộc bài: "Forte! Forte!" (mạnh hơn, mạnh hơn nữa) hoặc "Tình cảm vào! Chậm thôi, chậm thôi!" Ông ngoan ngoãn làm theo, vấp một đôi lần rồi cuối cùng ngừng chơi, quay về phía người bạn già.
- Cây đàn của bà già lắm rồi, - ông thở dài.
Đó là một chiếc đàn tốt bố mẹ mua cho bà từ Pháp. Với tư cách là giảng viên lâu năm, sau này nhiều lần Nhạc Viện đề nghị cấp đàn mới nhưng bà không nhận mà vẫn giữ nó như kỷ niệm một thời.
- Còn ông thì không? - bà đáp, nửa châm chọc nửa trách móc như thể chiếc đàn bị chê một cách oan ức.
- Tôi cũng già rồi. Cả bà nữa. Cái gì phải đến sẽ đến thôi. - Ông lại thở dài. - Bà nghỉ dạy đã mấy năm. Bây giờ đến lượt tôi. Hôm nay là lần cuối cùng tôi lên dây đàn đấy. Tất nhiên cho chiếc đàn của bà. Bà và tôi gắn bó với nó bao nhiêu năm rồi nhỉ?
- Gần năm mươi năm. - Bà đáp, ngừng đan, ngạc nhiên hỏi: - Lần cuối cùng? Vì sao lại lần cuối cùng?
- Vì tai tôi hỏng rồi. Cũng đúng thôi. Tuổi tác mà. Hình như nó hỏng đã lâu nhưng vì người ta thương tôi, nể tôi nên không nói đấy thôi. Tháng trước Nhà Hát Lớn không nhờ tôi lên dây chiếc Steinway cho một nghệ sĩ Hà Lan biểu diễn, tôi đã lờ mờ đoán có chuyện không ổn. Chỉ hôm qua tình cờ tôi nghe có người nói bây giờ tai tôi không chính xác nữa, lên sai dây đàn mà tự mình không biết. Hóa ra mấy lần trước người ta bí mật nhờ cậu Hà chỉnh lại những chiếc đàn tôi đã lên dây ở Nhà Hát Lớn, Hội nhạc sĩ, phòng thu Đài phát thanh và phòng hòa nhạc của Nhạc Viện. (Hà là một trong những thợ học việc của ông, sau được gửi sang Tiệp luyện nghề hai năm, thời gian gần đây đang thay ông chăm sóc mấy chục chiếc đàn ở Nhạc viện. Tuy nhiên những chiếc đặc biệt dành cho các buổi biểu diễn quan trọng thì vẫn phải đích thân ông trực tiếp chuẩn bị). Bà biết đấy, nghề tôi chỉ nhờ vào đôi tai. Nay nó hỏng, coi như tôi mất nghề. Beethoven điếc vẫn viết nhạc được vì ông nghe thầm trong đầu. Còn tôi, tôi cần nghe rõ những âm thanh có thật. Không khéo lần trước tôi lên dây cho chiếc đàn này cũng sai, và như người khác, bà thương tôi nên không nói. Có đúng thế không?
Bà im lặng hồi lâu mới khẽ đáp:
- Không. Tôi thấy nó vẫn chính xác.
Bà ái ngại nhìn ông già, không đủ can đảm nói lên cái sự thật bà biết không phải tháng trước mà từ lâu trước đó, rằng đôi tai rất thính nhạy của ông đã bắt đầu không ổn. Tuy vậy bà vẫn không muốn bất kỳ ai khác chạm vào chiếc đàn yêu quí của bà. Bà hiểu ông tự hào và yêu nghề mình đến mức nào. Nó là hạnh phúc và cũng là ý nghĩa cuộc sống đối với ông. Suốt năm mươi năm qua người ta đánh nhau, cày cấy hoặc đổ mồ hôi trong nhà máy, hầm mỏ, còn ông thì luôn quanh quẩn bên những chiếc đàn pianô. Ngoài ra ông không biết một nghề nào khác. Xã hội cũng cần ông như chính ông cần những chiếc đàn pianô để sống, đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cũng suốt chừng ấy năm người ta thấy ông lọm khọm đạp chiếc xe cà tàng tới Nhạc Viện ở Ô chợ Dừa, phòng tập trường múa ở Mai Dịch và các phòng hòa nhạc, thu thanh khắp nơi trong thành phố. Nhiều lần ông còn được ô tô, máy bay đưa đón đến một thành phố xa nào đó chỉ để lên dây một chiếc đàn pianô. Thường sau khi xong việc, ông nán lại để được tận hưởng thành quả lao động của mình, tự hào và lâng lâng hạnh phúc lắng nghe các nghệ sĩ biểu diễn, hoặc ngắm nhìn những diễn viên ba-lê nhún nhẩy bước đi trên đầu ngón chân theo tiếng nhạc chiếc đàn ông đã nâng tới mức hoàn thiện. Ông thường giật mình cảm thấy như người có tội, dằn vặt mấy ngày liền nếu tình cờ phát hiện có dây đàn nào đấy lên chưa chuẩn lắm. Công bằng mà nói, người ngoài nghề it ai hiểu hết giá trị công việc ông làm. Các nghệ sĩ đích thực thì khác. Họ kính trọng ông, thân mật tôn ông thành Maestro (sư phụ). Sau buổi biểu diễn, nhiều danh cầm thế giới tự tìm đến bắt tay cảm ơn ông và tặng những món quà nho nhỏ được ông tập hợp thành bộ sưu tập bày nơi trang trọng nhất trong nhà mình.
Mươi năm gần đây đất nước mở cửa, kéo theo sự mở cửa của vô số các quán bar và khách sạn đua nhau làm sang mua pianô đắt tiền, thuê sinh viên Nhạc Viện biểu diễn để câu khách. Những chiếc đàn ấy cũng cần được định kỳ lên dây và chăm sóc, tất nhiên. Cũng theo mốt, người ta mời đích thân ông làm việc này nhưng thường ông bảo Hà và những người như anh ta làm hộ, dù ở đấy tiền công cao hơn. Âu cũng là một sự lẩm cẩm nữa của người già.
Ông cũng sống một mình. Hơn thế, suốt đời sống một mình. Vì sao - không ai rõ mà ông cũng chẳng chịu nói với ai. Nghe đồn ngày xưa ông yêu bà, yêu lắm, nhưng vì bà là người thành đạt, lại xinh đẹp, con nhà giàu, còn ông thì... nên ông biết phận mình, chưa một lần dám thổ lộ. Người ta hỏi cả hai có đúng thế không, nhưng lần nào họ cũng chỉ cười thay cho câu trả lời. Bản thân họ chưa bao giờ đả động đến chuyện đó. Bao năm nay họ quen đối xử với nhau như những người bạn và dường như cho thế là đủ.
- Bây giờ ông định thế nào? Không lên dây đàn thì ông làm gì ? - Bà hỏi.
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Có lẽ tôi không thể tiếp tục sống ở Hà Nội. Những chiếc đàn ở đây làm tôi buồn. Tôi có người bà con ở vùng trung du Phú Thọ, định về sống nốt tuổi già ở đấy, vui với mảnh vườn, bầy gà. Cũng được đấy nhỉ? Bà thấy thế nào?
- Tôi thấy ông lẩm cẩm. Không chỉ tai hỏng mà đầu óc cũng không ổn. - Bà cười đáp, không ra nghiêm túc cũng chẳng phải đùa. - Suốt đời ở thủ đô, nay ông tưởng về sống nông thôn dễ đấy à?
- Rồi bà xem.
- Tùy ông thôi. Nhưng có phải vì thế mà vừa rồi ông chơi bản "Les Adieux" không?
- Bà đoán đúng.
- Nhưng ông chơi tồi và bỏ giở giữa chừng...
- Đúng thế. - Ông buồn bã đáp. - Tại lâu ngày không đàn, tôi quên. Tại nó khó quá...
- Bao giờ ông đi?
- Tuần tới. Mọi thứ thu xếp xong rồi. Hôm nay tôi đến chia tay bà.
Hai người cùng ngồi im.
- Tôi muốn hỏi ông điều này. Tò mò thôi. Vì sao trong bao nhiêu năm ở nhà tôi ông chỉ đàn hai bài, là "Fur Elise" của Beethoven và "La Tristess" của Chopin?
- Bà chưa bao giờ thử đoán vì sao à? - ông hỏi lại, giọng nhỏ nhẹ và không ngước nhìn bà.
- Chưa, - bà đáp. - Mà sao tôi phải đoán. Ai muốn nói gì cứ nói thẳng ra chẳng hay hơn ư?
Họ lại im lặng, lần này còn lâu hơn. Cuối cùng ông rụt rè lên tiếng:
- Bà có thể đàn tôi nghe một bài được không? Bài gì cũng được. Chưa bao giờ bà đàn cho tôi, chỉ riêng một mình tôi...
Bà liếc nhìn ông với cái nhìn như muốn nói: "Ông có đòi hỏi nhiều quá không đấy?" Nhưng bà không nói gì, chỉ lặng lẽ đứng dậy, đài các bước về phía chiếc đàn, và cũng đài các như thế ngồi xuống ghế, như thể trước bà không phải ông bạn già mà cả nghìn khán giả am hiểu ở Nhà Hát Lớn. Bà đặt hai bàn tay nhăn nheo nhưng thon mảnh lên mặt phím đàn đã ngả màu vàng vì năm tháng, đầu hơi ngửa về phía sau một cách kiêu hãnh. Chiếc đàn cổ lại rung lên vì những nốt nhạc mạnh và dứt khoát. Thật khó tin một phụ nữ nhỏ bé, già nua như bà lại có thể tạo ra được những âm thanh mạnh mẽ và kỳ diệu đến thế. Bà say sưa đàn, mắt lim dim, dường như quên hết mọi thứ trên đời. Cả con người và tâm hồn bà đang hòa quyện vào tiếng nhạc lúc hùng tráng, lúc du dương quyến rũ.
"Bản Prelude và Fuge số 29 của Bach!' - ông nhận ra ngay từ những nốt nhạc đầu tiên. Đây là tác phẩm phức điệu khó biểu diễn cả về kỹ thuật lẫn thể hiện tình cảm. Chính vì nó mà ông bị đánh trượt không tốt nghiệp Nhạc Viện Paris vào một ngày đông giá lạnh ở nước Pháp năm nào. Những người sành nhạc đều yêu thích bản nhạc này. Ông thì coi nó là đỉnh cao sáng tác không chỉ của Bach mà cả nền âm nhạc pianô toàn thế giới.
Bà chơi xong phần Prelude hùng tráng, bây giờ đang chuyển sang phần Fuge trữ tình và theo ông là phần hay nhất của tác phẩm. Các bè nhạc lúc đan quyện vào nhau, lúc đối đáp như lời tâm tình không dứt. Những nốt nhạc tinh khiết, thần thánh làm ông lâng lâng. Tự lúc nào không biết, đôi mắt ông ngấn đầy lệ. Ông giật mình, thầm mừng bà bận đàn nên không thấy ông khóc.

                                                  *
Một tháng sau, đúng ngày rằm, từ Phú Thọ ông lại về Hà Nội và đến nhà bà.
- Công việc của ông trên ấy thế nào? - Bà hỏi, hình như không ngạc nhiên trước việc ông quay lại.
- Cũng bình thường. Ổn cả. Còn bà?
- Tôi thì có gì thay đổi được nữa. Ông không mang đồ nghề về à?
- Không. Tôi nhớ Hà Nội quá, nhớ đàn quá. Ghé về chơi một hôm rồi lại lên trên ấy.
- Thế thì tiếc thật.
- Sao vậy? Đàn lại sai dây à? - Ông hỏi rồi chợt thở dài. - Thật buồn rằng bây giờ tôi chẳng giúp được bà nữa. Tai tôi hỏng rồi, bà biết đấy. Để tôi bảo cậu Hà...
- Không, tai ông vẫn thính lắm, - bà ngắt lời. - Vả lại, cây đàn của tôi nó đã quen ông. Nó già yếu lắm rồi nên cần được chăm sóc thường xuyên. Thiếu ông, dường như nó chẳng còn là chiếc đàn như trước. Ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới điều ấy à?
Ông bối rối không biết đáp thế nào. Bà bước thêm một bước về phía trước, nhìn thẳng vào mắt ông và nói với giọng rất nghiêm túc:
- Tôi có một đề nghị thế này, ông thấy được thì chấp nhận, không thì thôi, tùy ông. Chiếc đàn của tôi hiện cần phải lên dây hàng ngày. Để đỡ vất vả, nếu muốn, ông có thể ở lại đây, ngay trong nhà tôi để làm việc đó. Ý ông thế nào?
Ông hiểu, nhưng vì quá bất ngờ, ông đứng lặng một lúc rồi ấp úng nói:
- Nhưng cả tôi và... chiếc đàn của bà đã già. Làm thế, e  nó thế nào ấy.
- Ông lại lẩm cẩm rồi. Tai ông còn tốt, chỉ đầu óc ông có vấn đề mà thôi.
Để ông khỏi lúng túng, bà ngồi xuống cạnh đàn, vẫn với vẻ đài các nghệ sĩ vốn có của mình.
- Bà vừa đàn bài gì lạ thế, hình như  tôi chưa nghe bao giờ, - ông hỏi khi bà đàn xong.
- Đó là bản "Le Vieillard et le Piano", khúc ngẫu hứng tôi viết riêng cho ông đấy. Lần đầu tiên tôi viết nhạc. Nghiệp dư, và vì hoàn cảnh bắt buộc. "Le Vieillard" là ông, một ông già lẩm cẩm đáng yêu. Còn "Le Piano" là ai thì tự ông đoán lấy. "Le Vieillard et le Piano", một cái tên cũng hay đấy nhỉ?
Hà Nội, 3. 1. 2001


MÙI SỮA
Tặng Nguyễn Thơm
                                                 
Người đàn ông, - một ông già sáu mươi, khô gầy với mái tóc bạc gần hết và nét mặt căng thẳng - từ từ kéo dây khóa chiếc áo len mỏng mịn của người đàn bà đang nằm trên giường, hai mắt nhắm chờ đợi, trán lấm tấm mồ hôi dù lúc ấy đã cuối thu và trời khá lạnh.
Bên trong là chiếc sơ-mi lụa sẫm màu với một dãy cúc dài bằng xà cừ lấp lánh. Tuy cố giữ bình tĩnh, những ngón tay thon dài của ông vẫn run run khi lần mở chiếc cúc thứ nhất sát cổ rồi chiếc thứ hai, thứ ba, để lộ dần làn da rất trắng và mịn. Các động tác của ông thong thả, dịu dàng như khi người ta nhâm nhi tách trà ngon, dù bản năng đàn ông đang rạo rực thôi thúc.
Bỗng một ý nghĩ ngồ ngộ xuất hiện trong đầu. Ông có cảm giác việc ông đang cởi quần áo người đàn bà này cũng giống như khi thận trọng mở hộp đàn vi-ô-lông. Đầu tiên là kéo khóa lớp vải cứng bọc ngoài, rồi mở chiếc hộp gỗ bên trong lót nỉ, cuối cùng bỏ tấm nhung mềm phủ kín chiếc đàn. Về hình dáng, không loại nhạc cụ nào đẹp bằng đàn vi-ô-lông, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ luôn được bọc dưới nhiều lớp vải.
Phải mất mấy phút ông mới đưa được chiếc đàn - người ra khỏi hộp quần áo của mình. Ông chợt sững sờ trước vẻ đẹp cơ thể trần truồng của người đàn bà, một cô gái trẻ, còn rất trẻ. Về cơ bản, nó có nhiều đường cong giống chiếc đàn, và chỉ vẻ đẹp của nó mới sánh được.
Mấy phút trước đó, cô gái trẻ ấy nói với ông:
“Sớm hoặc muộn con cũng thành đàn bà. Con muốn điều ấy xẩy ra với thầy.”
Rồi cô lặng lẽ lên giường nằm chờ, nhắm mắt để khỏi phải thấy ông  phản ứng thế nào. Có lẽ cả vì xấu hổ.
Ông đứng lặng, ngắm cô rất lâu. Cô gái vẫn nằm bất động. Hình như  đã thiếp đi. Có thể ngủ được trong những trường hợp thế này ư?
Cô đã hai mươi hai tuổi nhưng dường như cơ thể chưa phát triển hoàn toàn. Cặp vú nhỏ và nhọn, núm hồng hồng. Túm lông dưới bụng thưa, ngắn và mềm. Người cô nhỏ nhưng không gầy, có thể nói mũm mĩm, sự mũm mĩm của một đứa trẻ hơn một cô gái trưởng thành. Cả kiểu nằm ngoẹo đầu một bên, môi chúm lại phụng phịu cũng giống một đứa trẻ. Ông cúi xuống, giơ tay định chạm vào cái cơ thể trẻ con ấy nhưng bỗng bàn tay ông chững lại, treo lơ lửng trên người cô. Bàn tay xương xương, lốm đốm những nốt đồi mồi trở nên đen xạm, xấu xí trên nền trắng mịn của da thịt cô gái.
Ông là một giáo sư dạy vi-ô-lông. Cô gái là học trò yêu của ông hơn mười năm qua, từ sơ cấp cho đến hết đại học. Ngày mai cô đi Pari học cao học, có thể quay về mà cũng có thể không, cô bảo thế. Và hôm nay cô đến từ biệt ông.
Cô luôn là một học trò giỏi, thông minh, xinh đẹp và cũng rất cá tính. Con gái của người quen, một trí thức nổi tiếng. Ông đặc biệt cảm tình với cô, coi như con và đoán cô cũng nghĩ thế về ông. Khi còn nhỏ, đi đâu ông cũng đưa cô theo, có khi cả mấy ngày. Năm ngoái ông đi nghỉ Đồ Sơn một mình, cô cũng đòi theo. Ông thấy bất tiện nên từ chối, cô khóc xin, ông phải báo với bố mẹ cô và họ nhờ ông cho đi. Tất nhiên ông thuê phòng riêng và hai người đối xử với nhau như bố con.
Từ bé cô luôn gọi thầy xưng con. Ông cũng thế. Một mức thân mật hơn so với quan hệ thầy trò bình thường. Tuy nhiên khi trở thành cô gái, mối quan hệ trong sáng ấy bắt đầu có ít thay đổi, những thay đổi rất tinh tế và từ phía cô chứ không phải ông.
Cô trở nên hay rụt rè e thẹn. Đôi khi ông chợt bắt gặp cô nhìn ông với cái nhìn khác hẳn. Mãi sau này mới đoán hiểu cô yêu ông. Ông chỉ mỉm cười, tuy lúc đầu thoáng chút bối rối. Ông là người có tài, đáng kính về mọi mặt, tế nhị và hay mặc cảm. Sự tế nhị, mặc cảm ấy không cho phép ông vượt qua mức chênh lệch bốn mươi tuổi giữa hai người. Nhưng dường như cô thì không. Cô ngưỡng mộ, yêu ông một cách bồng bột, bất chấp tất cả, tất nhiên không bộc lộ ra ngoài. Chỉ do tinh tế ông mới nhận ra điều ấy. Nhận ra mà vờ như không nhận ra để khỏi làm cô bối rối và cũng để tự kiềm chế mình.
Hôm nay thì tự cô nói thẳng, lại còn nảy ra cái ý định xin được ông cho thành đàn bà. Cô đang nằm kia, hoàn toàn trần truồng, sau khi được ông cởi bỏ hết quần áo như cởi nhiều lần vải bọc chiếc đàn vi-ô-lông.
Ông bị bất ngờ trước lời đề nghị khác thường ấy. Tuy có tuổi nhưng còn là người đàn ông khỏe mạnh, sau chút ít do dự, ông đã buông mình cho tình cảm lôi cuốn. Vả lại ông nghĩ nếu làm khác, có thể cô sẽ thấy bị xúc phạm và đau khổ. Tất nhiên giữa hai người không thể có cái tình yêu theo nghĩa thông thường, nhưng lẽ nào ông không thể vượt qua mặc cảm để chiều cô và cũng là chiều mình một lần, chỉ một lần duy nhất trước khi hai người chia tay, có thể chia tay mãi mãi?
Đúng thế, trên nền da trắng của cô gái, bàn tay ông, vốn thon dài và đẹp như ở những nghệ sĩ vi-ô-lông khác, bỗng trở nên xấu xí, đen đủi. Như tay phù thủy, ông nghĩ và thầm ngạc nhiên với phát hiện mới của mình. Tuổi già. Chính tuổi già đã tạo nên sự tương phản ấy. Giá ông trẻ hơn hai, ba mươi tuổi thì chẳng sao. Lúc ấy chắc mọi việc sẽ diễn ra một cách tự nhiên, ông khỏi bị mặc cảm, bàn tay ông khỏi bị treo lơ lửng thế này. Ông có cảm giác như nếu chạm vào, nó sẽ để lại những vết đen bẩn và làm ô uế cơ thể thanh khiết của cô.
Cuối cùng, bàn tay ấy chỉ dám khẽ chạm mái tóc cô, âu yếm ve vuốt, nhất là phía sau gáy. Cô gái dường như đã thiếp đi thật. Cũng có thể còn thức nhưng cố tình nằm yên, mắt vẫn nhắm, hơi thở đều đều.
Ông cúi xuống định hôn cô, vẫn chưa quyết định sẽ hôn vào đâu - mắt, trán hay môi. Trước đây ông nhiều lần hôn lên trán và mắt cô, nhưng môi thì chưa lần nào. Cũng từng chạm vào người, cố tình chạm, vì điều đó mang cho ông một cảm giác thích thú khó tả. Thậm chí ông có thể làm hơn nếu muốn, nhưng ông đã luôn kìm mình để không bước qua cái vạch ngăn cách vô hình do ông đặt ra. Có thể lần này sẽ khác chăng?...
Khi cúi xuống sát mặt cô gái, lần nữa bất chợt ông chựng lại. Có mùi gì như mùi sữa. Mùi sữa từ miệng những đứa trẻ còn bú mẹ! Không hoi gắt, chỉ thoang thoảng dễ chịu, nhưng đúng là cái mùi ấy. Thật kỳ cục, ông thầm nghĩ. Cô gái này đã hai mươi hai tuổi và chỉ có thể uống sữa đặc, sữa tươi, sữa cốc-tây... Hay từ vú? Không, ở đấy chỉ có mùi thơm mát của da thịt và mùi tuổi trẻ.
Vẫn mặc nguyên quần áo, ông lặng lẽ nằm xuống cạnh cô gái. Sự ham muốn thôi thúc giảm nhiều từ khi không dám chạm tay vào người cô, giờ bị cái mùi kia làm tan biến. Vì sao, ông không hiểu và đang cố hiểu.
Mấy năm trước, trong một cuộc vui với bạn bè, bị hoàn cảnh đưa đẩy, ông đã bỏ tiền mua tình yêu của một cô gái. Ngậm vú cô, ông thấy trên lưỡi có cái gì ngòn ngọt. Khi được hỏi, cô kia bảo mới sinh, cần tiền nuôi con nên phải làm nghề này. Ông mất hết hứng thú, đứng dậy mặc quần áo, cho cô kia gấp đôi số tiền đã hứa rồi bỏ về nhà với cảm giác gần như tội lỗi. Sau đấy ông không bao giờ tới những chỗ tương tự.
Ông có đứa cháu ngoại còn bé và thường thích thú ẵm nó trên tay để ngửi mùi sữa mẹ thoang thoảng từ miệng nó. Sao cũng chính một mùi trong ba trường hợp lại có cái gì đấy vừa giống lại vừa khác hẳn nhau như vậy? Vô tình, ông liên tưởng cô gái đang trần truồng nằm bên với đứa cháu mà không ít khi ông cũng bế trần truồng như thế.
Mà sao cô học trò của ông lại làm thế nhỉ? Vì tình yêu? Hiến dâng vì ngưỡng mộ, biết ơn? Hay đơn giản chỉ là cơn bột phát của tuổi trẻ? Thanh niên bây giờ hiện đại thật. Nhiều người già bây giờ cũng hiện đại không kém. Họ tự cho phép mình những điều mà đáng lẽ vì tuổi tác và địa vị, họ không được phép làm. Còn ông, ông hiện đại hay cổ hủ? Ông có được phép cư xử với cô bé nằm bên như với một người đàn bà không? Có phải là sự sa đọa đạo đức không, khi một người già như ông hăm hở chiếm đoạt một cơ thể trẻ trung, trong trắng đến thế? 
Ông quay người, dịu dàng luồn tay vào mái tóc cô, đặt môi mình lên đôi mắt đang nhắm, hết mắt này đến mắt khác. Có vị mằn mặn. Vẫn phảng phất mùi sữa...
Ông nhớ đã đọc đâu đấy cuốn sách nói ở Nhật có những nhà nghỉ dành riêng cho các ông già bất lực. Ở đấy, họ vào những căn phòng có các cô gái chờ sẵn, trần truồng và đang ngủ. Họ chỉ cần được có cảm giác suốt đêm nằm cạnh một cô gái trẻ còn trinh tiết. Cô gái được cho uống thuốc ngủ đặc biệt, không thể tỉnh dậy trước giờ đã định, nên khách không bị mặc cảm về sự bất lực của mình. Các cô giúp họ sống lại những kỷ niệm thời trẻ, vui cũng như buồn, và lần nữa chiêm nghiệm cả cuộc đời dài mình đã sống. Cách giải trí này mang lại cho họ sự thư giãn lạ lùng. Nhiều người muốn được chết với một cô gái như thế bên cạnh. Trong truyện có một ông ngẫu nhiên chết thật, nhưng chủ nhà nghỉ kịp đưa ông ta đi nơi khác, còn cô gái thì, như những cô gái khác, sáng dậy không hề biết ai đã qua đêm với mình, không biết có người đã chết bên cô.
“Người Nhật lắm trò kỳ cục thật”, ông thầm nghĩ và chợt nhớ trong cuốn truyện ấy cũng có một ông già giống ông lúc này, chưa bất lực, suốt đêm nằm bên cô gái trinh tiết trần truồng mà không dám chạm tay vào người cô, sợ làm ô uế tuổi trẻ trong trắng. Ông ta cũng ngửi thấy mùi sữa từ hơi thở cô gái. Mùi hoi hoi sữa mẹ. Tiếc là đêm ấy, để được ngủ say bên cô, ông ta uống thuốc ngủ quá liều, và trong mơ đã bóp cổ cô gái. Xác chết bị đưa đi ngay, một cô khác được đem vào thế chỗ, và sáng ngủ dậy ông ta không hề biết mình đã phạm tội giết người. Thậm chí không nhận thấy có gì khác lạ.
Ông rùng mình khi nghĩ về chi tiết kinh khủng ấy. “Đáng lẽ ông nhà văn kia không nên viết nó, cả khi có thật những chuyện như thế.”
Cuối cùng ông nhỏm dậy, và lại hôn lên mắt cô gái. Vẫn có vị mằn mặn.
“Con ngủ à?” ông hỏi.
Cô gái khẽ gật đầu.
“Con chưa bao giờ hôn người đàn ông nào, và cũng chưa được hôn?”
Gật đầu.
Ông im lặng một lúc, vẻ bối rối:
“Thầy xin lỗi. Thầy mặc quần áo cho con nhé?”
Cô gái lại gật đầu, mắt vẫn nhắm.   
Ông bắt đầu mặc quần áo cho cô, từng cái một, thong thả và thận trọng như khi mỗi lần biểu diễn xong ông cho đàn vào hộp. Cô gái vẫn nằm yên, chỉ khẽ cử động những lúc cần giúp ông. Khi cơ thể tuyệt đẹp của cô lại được bọc trong chiếc hộp quần áo, ông có cảm giác như hẫng hụt điều gì.
Cô gái đứng dậy, nhìn ông với vẻ ngơ ngác rồi bất chợt bỏ chạy ra ngoài. Hình như cô khóc.
Sáng hôm sau ông ra sân bay tiễn cô. Đến lúc phải bước vào khu vực chỉ dành riêng cho hành khách, cô bỗng ôm chầm lấy ông, nước mắt dàn dụa:
“Em yêu anh!... Chính vì vậy mà em phải ra đi và sẽ không quay về nữa...”
Ông hôn nhẹ lên trán cô, định nói “Thầy cũng yêu con”. Một câu nói lấp lửng có thể hiểu theo hai cách - tình yêu giữa đàn ông đàn bà, và tình yêu giữa bậc cao tuổi với con cháu. Nhưng ông chỉ đứng im, lần nữa đặt môi lên mái tóc cô. Thật lạ, cả mái tóc cũng phảng phất mùi sữa.
Bất chợt, ông thấy mình như già hơn thêm chục tuổi.
Hà Nội, 2003

    
CÔ GÁI BÁN HOA

Thành phố đêm trăng. Đèn sáng rực khắp nơi nhưng không át được thứ ánh sáng huyền ảo có màu vừa bàng bạc vừa xanh lơ của trăng rằm tháng Sáu cao trên đầu. Trời không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ phía sông Hồng thật dễ chịu. Thậm chí phảng phất mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng hơn, có lẽ đó là mùi hạnh phúc.
Ông đang cảm thấy hạnh phúc, cái hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi nhiều ở đời. Chỉ mong muốn cho, nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành đến mức ngây thơ, do vậy nhiều khi lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt thường dễ tổn thương.
Đứng dưới vành trăng tròn vằng vặc ấy, ông thấy người lâng lâng  như bay lên được. Cảm giác này làm ông nhớ tới chuyện khoa học đã chứng minh rằng khi đứng đúng dưới trăng tròn, trọng lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ hơn bao nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún người, nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh, hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá khang trang, xe cộ bóng lộn nối đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ rằng ông và cả dân tộc đã phải chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để có được ngày hôm nay.
Khi hạnh phúc người ta dễ xúc động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn lao, phi thường, thật tốt cho người khác.
Nhân vật chính câu chuyện này của chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện gót giày đi dạo dọc theo một trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các bạn tò mò muốn biết người đó là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong truyện “Say Nắng” năm ngoái. Ông giáo sư thơ ngây, “mắc bệnh tim to” và độc thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm trời nắng đẹp quyết định dạo phố, tự cho phép mình hút thuốc ba con năm, uống rượu vang Pháp, vào hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi ông, vì “say nắng” để mình lọt vào vòng tay một cô gái trẻ rồi bị đưa lên đồn công an... Ông là bạn thân của tôi. Chuyện xẩy ra đúng như thế. Có điều ông không treo cổ tự tử khi bị báo nêu đích danh, mặc dù có ý định ấy, may tôi và mấy người bạn nữa kịp can ngăn. Thường vẫn thế, trong đời mọi việc không đơn giản và quyết liệt như trong truyện. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì cái kết phịa nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy là giáo sư N., lần này ban đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên đường phố thủ đô xinh đẹp. Có nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm. Ánh trăng làm người ông mềm ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người gầy nhom, lại giữa lúc thanh bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp ông thực hiện được ý tưởng đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến lúc bất chợt nhìn thấy một cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía trước. Người, xe đi ngang qua cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi, ban đêm ai mua hoa? Mà rồi hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu hoa gì, chỉ thấy trăng trắng một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt đẹp thế này, ở một thành phố cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này mà bất hạnh?
Giáo sư N. như khựng lại, nhăn trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô gái. Cơ hội thực hiện việc làm “vĩ đại” đã đến.
Ông móc túi lấy hết số tiền mình có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá), rồi cầm bó hoa héo lên tay. Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ duy nhất của thủ đô đêm nay, thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và hồn nhiên như đứa trẻ.
“Bác... Anh không mua hoa gì nữa à?”
Ông không hiểu, đứng đờ ra hồi lâu.
“Tôi già rồi. Cô gọi bác cho tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô rồi đấy thôi.”
“Em bán cả hoa kia nữa.” Cô kia ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa nào?”
Cô gái có vẻ lúng túng, chắc lần đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải đành nói thật:
“Em là gái bán hoa... Nếu thích, anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho em dăm chục nghìn. Ba chục cũng được.”
Giờ thì ông giáo sư già hiểu. Có cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô gái còn trẻ, chắc chưa đến hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật thà chất phác kiểu nhà quê.
“Bác từ quê lên à?” Cô gái hỏi, chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy. Quê em Thái Bình. Bác ở đâu?”
“Tôi người Hà Nội, sống ở đây sáu mươi năm rồi.” 
Ông đáp, vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao cháu không ở quê, lại lên đây làm nghề này?”
“Ôi, sao đàn ông người nào cũng hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói to, giọng khó chịu và thách thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người ta tới xó xỉnh nào đó. Tại sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người à? Hà Nội không cần những đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi, không cần dài dòng. Có muốn thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ cho cả hai loại hoa. Không phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng, sòng phẳng như ai.”
Giờ thì giáo sư N., nhà vật lý lý thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình trong căn hộ “hang chuột” ở một nhà chung cư kiểu cũ  hiểu cặn kẽ các hạt vật chất và phi vật chất vô hình, đang bối rối thực sự không hiểu cô gái trẻ con trước mặt đang nói gì, vì sao có thể nói như thế, và quan trọng hơn cả là ông phải làm gì bây giờ. Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm ngoái không giúp ông hiểu biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn thế, những người quá chân thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho mình.
Ông im lặng khá lâu, cho đến lúc suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả quyết:
“Thế thì đi.”
“Đi đâu?”
“Về nhà tôi.”
“Không sợ sư tử Hà Đông à?”
“Tôi sống một mình.”
“Được đấy. Vậy ta đi. Nhưng nhà anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời gian. Hôm nay chưa được khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi nhắc lại: Đừng xưng anh em. Bác cháu dễ nghe hơn.”
“Cũng được. Nhưng bác bác cháu cháu rồi làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa làm vừa hỏi có sướng không con. Kinh!”
“Sẽ không có chuyện ấy.”
“Không? Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác chỉ mong điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay bác định đưa cháu về đồn công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt một lần rồi...”
“Công an nào. Vớ vẩn. Thôi, không nói nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên cao trăng vẫn sáng, thơ mộng và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông không còn cái cảm giác lâng lâng lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi kết luận về sự giảm trọng lượng do sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người xe vẫn thế, nhưng bức tranh hạnh phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó ông phát hiện thấy một vết ố nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như mình có lỗi đã để nó xuất hiện. Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu một kế hoạch xóa sạch vết ố ấy. Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại” ông vẫn mong ước.
                                                  *
Bà hàng xóm to béo và tốt bụng rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm khuya - lúc ấy mười rưỡi và bà đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái được gửi từ quê ra nhờ nuôi hộ. Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không quen biết ngủ tạm, ít nhất cũng mấy tối.
“Người bà con bác à?”
“Không. Chỉ một cô gái bán hoa tôi gặp ngoài phố.”
Là người từng trải, bà hiểu đúng nghĩa của từ này.
“Trời! Lại còn dẫn về nhà? Nếu quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà hiểu sai rồi, tôi chỉ đơn giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp cách nào?”
“Tạm thời chưa rõ lắm, nhưng phải giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở đấy không tiện. Vậy mới nhờ đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai tôi nói hết mọi chuyện.”
Vậy là tối hôm ấy cô gái bán hoa ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại quí ông giáo sư nên đã nhận lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật kỹ. “Khi nào mòn hết nửa bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái thì dọc đường đi trước đó đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên tâm. Cô cũng kể nhiều về mình và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả những người tốt bụng có lòng trắc ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn không bao giờ thay đổi được sự cả tin ấy.
Sau đó ông gọi điện cho tôi, bảo phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn, tôi đồng ý mà không căn vặn điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi có lòng, ông có tiền. Vậy ta thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn tắt sự việc.
“Tôi cũng có lòng,” tôi đáp, hơi chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính bốc đồng. Không khéo lại chuốc vạ vào thân.”
“Thì đã sao? Suy cho cùng, những gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, cũng như cả trăm truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng cứu được một con người cụ thể như cô gái này...”
“Có thể như vậy, nhưng Lỗ Tấn bỏ nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một lúc giúp được nhiều người hơn.”
“Ông không ví mình với văn hào Lỗ Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi đùa thôi. Công bằng mà nói, truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta thấy yêu đời và còn muốn sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc ác, tục tĩu, toàn một màu đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông vẫn chỉ trên trang giấy, còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt và đang chờ ta kéo ra khỏi vũng bùn...”
“Nếu cô ta không muốn được kéo ra thì sao?”
“Không thể có chuyện ấy. Không ai muốn sống trong bùn nhớp nhúa” 
“Nếu cô ta lừa ông, hoặc sau bao nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì coi như tôi tính sai một con số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài mà. Vả lại, có sai mới có đúng.”
Tôi thấy đuối lý trước những lập luận giản dị ấy.
Hai ngày sau, với tiền của tôi (ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ đáng khâm phục của ông và cả sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở trong căn phòng mười lăm mét vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê ba trăm năm mươi nghìn đồng một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho cô những vật dụng cần thiết cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi cá kho lớn. Những thứ này do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống mình, ông thuê cho cô một góc cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy chục mét) thêm một triệu đồng làm vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết bán hoa chứ không cái gì khác, ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ lúc đầu. Bán hoa làm đẹp cho đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và đáng yêu.
Mọi việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn hở ra mặt. Tôi cũng vui lây với ông, một lần còn đi theo đến cửa hàng hoa và căn phòng mới thuê. Cô gái có vẻ chí thú và cũng ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng sau bỗng một thằng lẻo khẻo mặt đầy mụn và hay ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N. làm ầm lên, như thể ông “cướp vợ” hắn. Bà hàng xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn ra ngoài, nhưng cũng khối người trong chung cư nghi ông làm điều bất chính. Sau đó vài tuần thì ông chủ nhà đem tiền đến trả không cho thuê nữa, với lý do nhà ông bị biến thành nhà chứa, và rằng cô gái bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường “bán hoa” ở chỗ cũ, bắt được khách lại dắt về phòng mình.
Giáo sư N. nhất quyết không tin, đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế nào. Nể bạn, tôi phải đi theo. Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước vào thì hai anh công an khu vực đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu đó). Một anh nghiêm mặt nói: “Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng này...” May ông chủ nhà kịp đến thanh minh hộ.
Hôm sau thì cô gái bán hoa biến mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem theo được.
                                                  *
Nhiều bạn đọc cứ hỏi những gì tôi viết có đúng thật sự xẩy ra như thế không. Câu hỏi thật khó. Vừa đúng lại vừa không. “Văn nói láo, báo nói phét,” người đời hay nói thế. Viết văn là hư cấu, tất nhiên, nhưng không phải hoàn toàn. Muốn hay không, vẫn phải có một liều lượng sự thật nhất rồi từ đấy thêm thắt, khái quát thành câu chuyện còn thật hơn cả ngoài đời có thật. Không thì ai chẳng viết được văn, nếu đã học ngữ pháp và ít nhiều biết cách kể chuyện. Cứ tin tôi đi, nếu ai đó viết giả dối hoặc phịa hoàn toàn, sớm muộn người ta cũng phát hiện ra. Không một kỹ thuật nghề nghiệp nào che giấu được điều ấy. Ở những nét cơ bản, câu chuyện tôi kể trên đây là có thật, xẩy ra với ông bạn già của tôi là giáo sư N., và trong chừng mực nào đó, cả với tôi nữa. Vốn lạc quan và luôn tin vào sự tốt đẹp ở đời, tôi thích và thường viết những câu chuyện có hậu.
Thực tế cuộc sống còn có những người như cô gái bán hoa kia. Tôi nghĩ ít thôi nhưng vẫn có. Hay đúng hơn, tôi mong muốn nó ít. Vì vậy tôi đang vắt óc tìm một phần kết đẹp hơn cho truyện ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ai đó trong bạn đọc gợi ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý kiến cũng lắc đầu (Tôi có thói quen chuyện gì cũng hỏi vợ, cả chuyện viết lách). Bà ấy chỉ phán một câu, với cái giọng châm biếm không ác ý hàng ngày: “Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi không hỏi giáo sư N., thậm chí giấu không cho biết tôi viết truyện này. Ông vừa ở nhà tôi về xong. Như cú “say nắng” năm ngoái, lần “say trăng’ này cũng làm ông buồn. Vấn đề chẳng ở tiền bạc và công sức. Ông buồn vì cô kia bỏ đi không một lời nhắn lại. Ông bảo tôi chắc cô làm thế vì hoàn cảnh bắt buộc, và rằng nếu nói ra, có thể ông sẽ giúp được. Tính ông dễ buồn, nhưng buồn không lâu, và rồi cuối cùng bao giờ cái bản chất tin người, thương người cũng trội lên lấn át tất cả. Tôi dám chắc nay mai ông sẽ lại bị “say” lần nữa, và lần nữa ông lại hăm hở lao vào một việc nào đó “tốt và vĩ đại” để giúp người khác. Thì ông đã nói, nếu bị lừa, đó đơn giản cũng chỉ là phép tính ông tính sai. Sai thì tính lại. Cuộc đời là cả triệu phép tính, tính sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn tôi? Tôi cũng thừa giấy mực và nghị lực. Trót viết sai một câu thì viết lại. No problem, như người Anh thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi tính, tha hồ tẩy xóa, tha hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi. Dẫu không được như Lỗ Tấn, tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo trở nào đó mà buồn. Đời vẫn đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô ta cũng chỉ là con số sai trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề của tôi, một câu văn chưa chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là cả giáo sư N., tôi, và tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.
Hà Nội, 29. 5. 2003


NGÀY ĐẸP TRỜI

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Ông lão đã gần tám mươi. Con chó nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút. Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ  gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc. Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...
Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó, thì vẫn hơn.
Vậy là cả hai, con người và con chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.
- Cái giống chó nhà mày ấy mà, Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi còn ở chung, vợ chồng con  ông đặt cho cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì chết, chết đói thật đấy.
Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.
- Còn tao thì mày biết, tao đã kể bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung, tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê ấy mà, khối người về già bị con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?
Con chó già không đáp vì nó đang bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm  nó.
- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn đấy nhá!
Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự. Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng, nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.
Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm. Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều giống nhau.
- Mày làm sao thế, Vện? - ông lão mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy. Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng trước rét thế. May đêm ngủ  có mày, chứ không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?
Lúc này con chó già đã bị kéo ra tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá. Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.
Bình thường, dẫu già con Vện vẫn có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết nên hắn mới có thể làm mọi việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp. Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước, mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?
- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. - Vện! Vện! Mày đi đâu đấy?
- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm ngừng sửa xe, nói vọng sang.
- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là đi đâu?
- Là tới các quán thịt chó ở trên ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.
- Nhưng sao con Vện lại đến đấy và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.
- Không phải nó tự đến, mà bị bọn trộm bắt...
- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu để người khác bắt trộm?
Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng “trời” rồi ngồi im. Mãi lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;
- Sao bác biết, không ra giữ nó lại?
Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:
- Tôi bận chữa xe.
Rồi vô cớ, cho rú máy inh ỏi.
                                                    * 
Trên đời có những người làm điều ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc. Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật Tân.
Hắn có biết việc này là xấu không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết. Hắn chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục “hành nghề”, hết con này đến con khác, hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới. Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.
Câu chó và câu cá thì có khác gì nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống. Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng. Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật. Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn “đi làm”. Các chủ quán Nhật Tân thản nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do “bận chữa xe máy”. Anh con trai ông lão mù thản nhiên nói: “Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải khổ sở đến thế.” Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.                                                 
*
Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành, là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời, nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.
Cho đến tận lúc này tôi vẫn có cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và “hồn nhiên” nhất. Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...
Vậy là tôi đã làm hỏng truyện ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng “truyện ma”, tôi có thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.
PS.
Ông lão mù mới chết tuần trước. Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói, không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông hàng xóm “bận chữa xe” tiễn cụ tới tận nghĩa trang.
Chỉ tiếc không có con Vện.
Hà Nội, 8. 10. 2002
                                                 
 
ANH DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN

Ông Sêkhốp có một truyện, ngắn thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh Gầy". Câu chuyện đang viết đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được một cái tên vừa ý, vậy tôi xin bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng Cảm và anh Hèn".
Xin được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp, dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, cái bây giờ được gọi là "hiện tượng tiêu cực", và rất tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm nản mà thôi. Nhưng anh thì không, cương quyết không. Anh đã ba mươi lăm tuổi, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phép phát huy sở trường đó.
Hóa ra ở đời làm người tử tế và dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm ấy cũng không nhỏ. Từ chiến trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy khen và bằng dũng sĩ, anh được người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng chính "người ta" ấy đã khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh biết đấy mà không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ còn  là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và cũng vì quá dũng cảm.
Làm ruộng là một sở trường nữa của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không phải lúc nào chúng cũng liên quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào "đấu tranh", theo kiểu "đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ, trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết. Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Một hôm vợ anh lên cơn hen nặng, phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xẩy ra, ít thì một, nhiều có khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và biết phải làm gì.
Giống mọi lần, người ta cho vợ anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5 mg. Ba ống thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được và nếu không có gì nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là vậy.
Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ, họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang xuống giá.
Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ thục bất thành văn nào đó), vẫn thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những người ý thức rõ quyền lực và tầm quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này và luôn nhắc mình kiềm chế không "đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện cùng những "thiên thần áo trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả và từng cứu sống nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm người không cho phép lấy oán trả ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện và theo lệ chung, người ta làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác anh nhất định không bỏ qua. Tất nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh hỏi người thu tiền:
- Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh viện giá bốn mươi nghìn đồng một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn đồng một ống? Tức là một trăm nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
- Tôi không biết. - Người kia khó chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
- Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
- Tôi đã bảo không biết mà. Cứu được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo, rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình, một cách mềm mỏng và lịch sự.
- Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp, hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ. - Anh biết thế sao không ra hiệu thuốc mà mua để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Đã tiếc tiền sao còn đưa vợ đến đây cấp cứu?
Anh thấy nóng mặt tức giận vì thái độ hỗn xược của cô nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
- Nhưng chính chị chỉ cho tôi sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức qui định hay các chị tự đặt ra, thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
Thấy giọng anh có vẻ cứng rắn, lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ thoáng chút bối rối nhưng cố nói át:
- Thời buổi thị trường, mỗi nơi một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so đọ một vài chục nghìn. Tiếc đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
- Vậy là các người thông đồng với nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi là "giữa cái sống và cái chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những bệnh nhân nghèo, chủ yếu là những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt từng tiếng. Anh đã không còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn nhắc mình khi vào bệnh viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
- Anh nói sao? Anh dám bảo chúng tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
- Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng, cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại rằng cô, chính cô là một con ăn cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn cắp hết ngày này sang ngày khác, nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn công an để giải quyết như với những con ăn cắp chuyên nghiệp khác. Đi, bây giờ cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
- Ối làng nước ơi, cứu tôi với! - Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng mất dạy đang làm nhục tôi.
- Câm mồm! Nếu mày không phải đàn bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm!
Thấy động, mọi người nhanh chóng kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ điều họ đang ấm ức.
- Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng ai dám nói gì.
- Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm.
- Đồ mất dạy, phải trị cho chúng một trận.
- Trả tiền lại cho người ta, không nuốt được đâu.
- Nhưng mà cái ông kia cũng quá đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
- Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất vả thì người ta đã trả hai mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính xem, một người chúng ăn chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng cấp cứu bao nhiêu người, chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
- Đánh bỏ mẹ nó đi!
Một thanh niên mặc áo trắng hùng hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm chặt cổ tay.
- Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây rối à?
- Câm mồm. Nó thì tao không đánh, chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói, và bóp mạnh một cái vào vai hắn bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói thêm được lời nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp.
Rồi anh kéo cô bác sĩ, lúc này đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
- Chúng tôi là công an đây. Anh cần gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại gần, vừa nói.
- Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Anh vắn tắt kể lại những gì đã xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không? Cần nhiều đấy, không phải một đâu.
Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh lại nhao nhao tiếng đồng tình của nhiều người.
- Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh  kể cũng hơi quá...
- Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền của người ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực. Chưa nói đến tính cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông dân.
- Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết nói với anh thế nào được nhỉ?
- Các anh là người đại diện và bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào. - Anh Dũng Cảm hạ giọng. - Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh định giải quyết thế nào?
Một chốc sau họ, gồm anh Dũng Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
Ông giám đốc là một người nghiêm khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong ngành. Ông chăm chú nghe anh Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu, mặt ửng đỏ, một bên má dật dật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát. Cô bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất và vẫn còn khóc.
- Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, vì nói gì thì nói, đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống, hàng ngày, trắng trợn và đểu giả như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các nhân viên tôi.
Liền sau đó, ông cho người gọi trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang tiền chênh lệch trả lại cho người bị hại.
- Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
- Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
- Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui định của bộ.
- Nhưng đây là hành vi ăn cắp như chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo tôi biết, thì phải truy cứu hình sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
Đến lượt ông giáo sư lúng túng.
- Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh, thậm chí bênh vực anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người đang làm việc ở đây. Xin anh cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
Anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, sự tức giận cũng không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì hẫng hụt trong lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã lấy oán trả ân không?  Nếu con bé ăn cắp kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia đình nó? Càng nghĩ anh càng thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được tin báo của ông giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia, nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
Đấy, chuyện anh Dũng Cảm là như thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện anh Hèn thì sao?"
                                                               *
Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm dũng cảm đáng khen của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay "phịa" như người ta vẫn nói. Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
Cái sự thật đó là: Cách đây không lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá của họ là hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy ra thường xuyên, trước đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn, và có cớ xác đáng để hèn.
Chẳng ai đem cái hèn của mình ra khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người "hễ thấy bất công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất nhiên, cũng từng lãnh đủ, nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người có lúc" như các cụ nói.
Bây giờ tôi đã già, an phận với sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ như kéo tôi dính chặt vào chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là người thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không chịu đầu hàng, chừng nào còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn thế thôi.
Vì không muốn biến truyện ngắn của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các bạn thấy, tôi còn đủ dũng cảm để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.
Hà Nội, 10. 3. 2001

                                                           
ÔNG GIÁO LẬP DỊ
                                                                   
Ông Nguyễn Xuân Đoàn thuộc loại người vô tư và biết hài lòng với mình, với đời. Mà đời ông thì sống ở nước ngoài nhiều hơn trong nước. Ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, đã qua chức vụ trưởng một vụ ở bộ, hai nhiệm kỳ đại sứ ở Bắc Âu. Ông mới về hưu đầu năm nay, đúng tuổi sáu mươi, còn khỏe mạnh và tràn trề hạnh phúc. Sáng chơi ten-nít, chiều uống bia, tối đọc sách hoặc thậm chí làm thơ. Chắc chắn ông cũng hài lòng với những bài thơ ông viết.
Một hôm có ông bạn già ở trường ngoại ngữ đến nhờ ông Đoàn dạy hộ một lớp tiếng Anh nâng cao mà ông mở riêng đã mấy năm nay, giờ vợ chồng ra nước ngoài sống với con cháu.
“Bỏ thì tiếc, - ông nhà giáo nói. - Mà tôi thì chỉ có thể tin bác được thôi. Chẳng vất vả gì đâu. Mỗi ngày hai tiếng từ sáu đến tám giờ tối. Mọi việc cô Mai sẽ lo. Cô ấy tốt và tháo vát lắm. Bác chỉ dạy”.
Thấy bạn có ý lưỡng lự, ông nói thêm:
“Tôi biết với bác tiền không quan trọng, mặc dù phải nói rằng thu nhập lớp này cũng khá. Cái chính là bác sẽ được thay đổi không khí, sẽ cảm thấy hài lòng vì mình còn giúp được ít nhiều cho lớp trẻ”.
Một tuần sau ông Đoàn lên lớp, chủ yếu vì cái “thay đổi không khí” và “giúp thế hệ trẻ” ấy.
Lớp là một giảng đường đại học thuê bao cả năm. Khi đến, ông ngạc nhiên thấy học viên ngồi kín gần hết, dễ đến cả trăm người. Điều này chứng tỏ bạn ông phải là người rất giỏi và uy tín. Bản thân ông cũng giỏi, nói và viết tiếng Anh thuộc loại nhất nhì bộ. Cách thức tiến hành buổi học thì đã được bạn hướng dẫn kỹ. Cả con số một trăm người học kia cũng chẳng thành vấn đề, vì là lớp dịch không phải giao tiếp với từng người, không cần nói to vì cô Mai đã bố trí sẵn chiếc máy phóng thanh nhỏ trên bàn. Ông có thể đi lại thoải mái mà giọng vẫn vang to khắp phòng.
Buổi dạy đầu tiên diễn ra suôn sẻ. Các buổi sau cũng thế. Dường như người học cũng thích ông. Họ chủ yếu là sinh viên các năm cuối và cán bộ cơ quan có nhu cầu nâng cao ngoại ngữ. Bằng chứng là sĩ số không giảm mà còn tăng thêm. Không chú ý mấy đến việc cô Mai chăm chỉ thu học phí, kiểm tra thẻ, lo chuyện phấn bảng, ông đến lớp đúng giờ rồi hết giờ ra về, trang nghiêm và đạo mạo đúng kiểu một ông giáo có tuổi và giỏi nghề như ông cần có. Công việc mới mẻ này làm ông thích, có thể nói còn cuốn hút.
Cuối tháng cô Mai tìm đến nhà ông. Cô trạc ba lăm, hai con, nhân viên phòng quản trị của trường nơi ông đang dạy. Người cô đẫy đà, phúc hậu, tính cẩn thận, tháo vát và có vẻ đáng tin cậy như ông bạn giới thiệu. Cô rút ra tờ giấy chi chít tên người và các con số.
“Dạ, đây là tiền học phí của lớp tháng vừa rồi, sau khi trừ các khoản”. Cô lễ phép nói. “Mười ba triệu năm trăm mười nghìn đồng”.
“Nhiều thế cơ à?” Ông Đoàn ngạc nhiên hỏi.
“Cũng bình thường thôi ạ. Vào các tháng sau Tết và đầu năm học thường nhiều hơn”.
“Xưa nay vẫn thế?”
“Vâng ạ”.
“Lớp nào, thầy nào cũng thế?”
“Không. Trường này còn ba lớp tiếng Anh nữa, dạy thực hành, giáo viên trẻ, ít người học nên ít hơn nhiều. Còn các lớp luyện thi toán lý hóa thì có thể  nhiều hơn”.
Ông Đoàn ngồi im không nói gì.
“Thế cô được bao nhiêu?” Lúc sau ông hỏi.
“Dạ, sáu trăm nghìn như mọi khi. Trong giấy này em có ghi”. Cô Mai đáp rồi lễ phép chào ông ra về.
“Mười mấy triệu đồng một tháng. Mỗi ngày hai giờ dạy. Nhiều quá”.  Ông Đoàn nghĩ. “Hóa ra bao năm nay cái ông Năm nhà giáo này kiếm cũng khá.”
Đúng là ông không quan tâm đến khía cạnh kinh tế của việc dạy học. Dạy cho vui như ông vẫn nghĩ. Nhà ông khá giả, có thể nói giàu. Chỉ còn hai ông bà già sống với nhau, lương hưu cao. Hai đứa con đã trưởng thành, cũng giàu. Anh con cả hiện đang làm cho một liên doanh ở Sài Gòn, mấy năm trước còn biết đem tiền tiết kiệm của ông mua mảnh đất, vừa rồi sốt đất, đem bán lãi hơn một tỉ. Số tiền này ông bà đang gửi tiết kiệm, riêng lãi cũng thừa sống, nên khoản tiền mười mấy triệu một tháng kia càng trở nên nhiều, thậm chí quá nhiều. Ông là người như vậy, luôn suy nghĩ như vậy, chân thành và trong sáng.
Hôm sau học xong, ông bảo cô Mai ở lại, đề nghị cho ông biết rõ tình hình học sinh, học phí. Nghe xong, ông nói: 
“Cô xem có thể giảm học phí cho mọi người được không?”
Cô Mai ngơ ngác, đờ mặt nhìn ông hồi lâu:
“Dạ, em không thật hiểu...”
“Tôi nói giảm học phí. Tức là có thể hạ học phí từ mức mỗi người một tháng một trăm nghìn đồng xuống năm mươi hay bảy mươi nghìn chẳng hạn. Cô biết rõ nên giảm bao nhiêu. Thực sự tôi không cần nhiều như vậy. Tôi chắc trong số người học ở đây nhiều người cũng khó khăn, đặc biệt các em từ nông thôn. Cô hiểu rồi chứ?”
“Dạ hiểu”, cô Mai ấp úng. “Nhưng em thấy không thể làm thế được ạ”.
“Vì sao?”
“Vì... không thể được. Xưa nay người ta chỉ tăng chứ không giảm học phí...”
“Nhưng đây là lớp tư. Của tôi. Và tôi muốn giảm!” Ông Đoàn hơi cao giọng. Là nhà ngoại giao, ít khi ông cao giọng.
“Nhưng làm thế sẽ ảnh hưởng đến các lớp tiếng Anh khác. Có thể cả những lớp không phải tiếng Anh. Mọi người sẽ không hiểu, sẽ bàn tán, dị nghị, sẽ cho rằng thầy...”
“Tôi không cần biết người ta nghĩ gì về tôi. Đây là việc riêng, và tôi quyết định từ nay cô chỉ thu năm mươi nghìn đồng một tháng! Không bàn nữa. Cứ thế mà làm!”
Ông Đoàn thậm chí giật mạnh chiếc cặp trên bàn rồi bước ra khỏi phòng.
Tội nghiệp cô Mai. Cô bị sốc thật sự. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đã mười năm nay cô làm thêm nghệ quản lý các lớp dạy thêm, học thêm này, cho nhiều thầy, nhiều cô, nhưng chưa bao giờ cô gặp trường hợp nào tương tự. Ngoài đức tính quí báu là mẫn cán và trung thực, cô còn là người dễ xúc động và hay lo. Cô hình dung chuyện gì sẽ xẩy ra khi cô thông báo cái quyết định kỳ cục ấy. Người ta sẽ bảo lớp cô “phá giá” để chơi xỏ nhau, bảo ông thầy này điên, định tỏ ra này nọ. Người học chắc chắn sẽ lấy làm ngạc nhiên, đoán non đoán già không biết vì sao lớp bỗng dưng giảm học phí. Mà nào có ai kêu đâu. Lớp dạy chất lượng, so với nhiều nơi khác là còn rẻ, lại được bảo lưu, học bù thoải mái. Rồi họ sẽ quay sang nghi ngờ cả những chuyện kỳ cục nhất, như phải chăng ở đây đang có điều gì khuất tất? Hay thầy trót phạm tội lỗi nào đó nay lương tâm cắn dứt? Được giảm tiền cũng thích, tất nhiên, nhưng ý nghĩ học với một người tội lỗi thì chẳng thích thú gì. Rất có thể vì thế mà nhiều người sẽ bỏ học. Nhất định phải có chuyện gì đó. Nếu không ai bỗng dưng từ chối tiền, nhất là những đồng tiền chính đáng? Ừ, mà sao ông ấy làm thế nhỉ? Không thể nói vì giàu. Xưa nay càng giàu người ta càng muốn có thêm tiền để giàu hơn. Vậy thì vì cái gì? Cô Mai chịu không sao hiểu nổi. Hay thật sự có điều gì khuất tất? Hay biết đâu ông ta nói thế là nhắc khéo mình tăng chứ không phải giảm học phí?
Với những băn khoăn như thế, cô quyết định tạm thời cứ chờ một thời gian xem sao. Biết đâu đây chỉ là ý nghĩ bốc đồng thoáng qua và chẳng bao lâu nữa ông ấy sẽ thay đổi.
Những ngày tiếp theo ông Đoàn không đả động gì đến chuyện này, vẫn đều đều lên lớp, trang nghiêm và đạo mạo như trước, không mảy may chú ý tới cô Mai và những việc cô làm trong lớp.
Cuối tháng, cô lại đến gặp ông.
“Hóa ra cô không làm như tôi yêu cầu?” ông Đoàn hỏi khi cô đưa cho ông gói tiền với tờ giấy đủ các khoản diễn giải và con số gần mười lăm triệu đồng.
“Dạ vâng. Em xin lỗi”, cô ấp úng. “Em nghĩ có thể vì mới đến thầy chưa biết. Việc này không đơn giản như thầy nghĩ. Vả lại...”
“Thôi được rồi’, ông Đoàn ngắt lời không chút ngoại giao. “Nếu thế thì cứ mặc tôi.”
Đêm hôm ấy cô Mai lại mất ngủ. Cô thấy tiếc những năm làm việc đều đều không sự cố với thầy Năm, và cô lo lắng nghĩ tới việc ngày mai ông Đoàn sẽ nói “điều ấy” với cả lớp, một việc đáng lẽ cô làm nhưng ông không để cô làm. Tức là mọi người sẽ nghĩ có sự không ổn giữa ông và cô.
Nhưng cô ngạc nhiên khi hôm sau và mấy ngày tiếp điều cô lo vẫn không xẩy ra. Cô không biết rằng ông Đoàn đã đích thân ra phòng thuế quận xin nộp thuế thu nhập cá nhân. Ý tưởng mới mẻ và độc đáo này đến với ông khá bất ngờ, khi buổi sáng đi chơi ten-nít về, ông ngẫu nhiên nhìn thấy câu khẩu hiệu viết bằng sơn đỏ đã phai màu trên một bức tường vôi tróc loang lỗ: “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của công dân” Đúng! Mình là công dân, công dân gương mẫu, có thu nhập cao, tại sao không tự nguyện khai báo nộp thuế?
Ở phòng thuế, anh nhân viên trẻ sau khi nghe khách trình bày ý định của mình, thấy có sự lạ, bèn lễ phép mời ông sang phòng bên “gặp lãnh đạo”. “Lãnh đạo” là một ông già gầy đét đã ngồi ghế trưởng phòng hơn hai mươi năm nay, có tên là Chẩm, vừa nghe vừa chăm chú nhìn ông bằng đôi mắt nhà nghề đầy cảnh giác của một cán bộ ngành thuế dày dạn kính nghiệm.
Ông Chẩm hoan nghênh ý thức công dân cao của ông, mời ông uống nước, rồi thong thả nói:
“Vậy là bác đã về hưu, và chỉ dạy thêm tiếng Anh ‘cho vui’ như bác nói?”
“Vâng, đúng thế”.
“Và đây là lớp dạy tư chứ không phải trung tâm ngoại ngữ hành nghề có giấy phép và đăng ký với nhà chức trách?”
“Vâng”.
Ông Chẩm trầm ngâm suy nghĩ một chốc rồi thở dài:
“Rất tiếc tạm thời chưa có luật nào qui định những người như bác phải nộp thuế thu nhập từ các nguồn tương tự”.
“Nghĩa là cả khi muốn, tôi cũng không được nộp?”
“Cái này để tôi hỏi ý kiến lãnh đạo. Xin bác cho địa chỉ, sẽ có người đến báo bác sau”.
Khi khách ra khỏi phòng, ông Chẩm thấy như hẫng hụt điều gì, thậm chí có cảm giác bị xúc phạm. Xưa nay người ta chỉ đến gặp ông để kỳ kèo xin miễn giảm, hoặc tìm cách gian lận, thế mà bây giờ bỗng xuất hiện cái ông kỳ cục này.
“Theo tớ đây là trường hợp đáng ngờ,” ông quay sang bảo anh nhân viên nọ. “Nhất định phải có cái gì đấy mờ ám. Cậu nghĩ thế nào?”
“Em cũng nghĩ đúng như thủ trưởng ạ.” Anh kia hồ hởi đáp. “Có thể ông ta muốn tỏ ra mình lương thiện ở một việc nhỏ để che dấu một hành vi bất chính khác lớn hơn, như kiểu bọn tội phạm tự nguyện đầu thú tội ăn cắp vặt để trốn tội giết người ấy mà”.
“Vậy thì giao cho cậu điều tra vụ này. Phải làm thật khéo và thật kỹ. Đừng quên tìm hiểu cả bệnh án của ông ta. Biết đâu lại chẳng một lão già tâm thần làm mất thời gian cơ quan nhà nước.”
Một tuần sau ông Đoàn gọi điện thoại đến phòng thuế. Đích thân ông Chẩm trưởng phòng nhấc máy.
“Thú thật với bác là chúng tôi vẫn chưa tìm được mục nào trong các luật thuế hiện hành để có thể áp dụng cho bác nộp thuế”, ông nói, thân mật hơn một chút so với giọng điệu vẫn dùng hàng ngày. “Cái khó của trường hợp bác là ở chỗ bác đã nghỉ hưu, chỉ dạy tư tiếng Anh, thứ ngôn ngữ đang được khuyến khích, lại chỉ một lớp và chẳng thuê mướn ai. Nếu bác là một trung tâm đăng ký hẳn hoi thì lại là chuyện khác. Ừ mà sao bác không thành lập một trung tâm như thế để hợp pháp hóa việc nộp thuế nhỉ?.. Vâng... vâng... Bác nói đúng. Tôi biết bác chỉ dạy cho vui chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Thế mới khó cho chúng tôi. Dẫu sao thì người tự giác như bác hiện giờ có thể nói không nhiều. Vâng... Nhất định thế nào chúng tôi cũng tìm được cách giúp bác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình. Xin bác yên tâm chờ thêm một thời gian nữa. Không lâu đâu. Chào bác”.
“Không lâu đâu” là ý ông Chẩm muốn nói tới kết quả điều tra của anh nhân viên trẻ. Suốt cả tuần vừa rồi ông chẳng hề “báo cáo lãnh đạo”, cũng chẳng xem lại luật thuế như ông nói. Cú điện thoại vừa rồi càng khẳng định thêm ý kiến của ông, rằng người này nhất định phải có vấn đề. Nếu không đã chẳng hăng hái xin đóng thuế như vậy. Gần trọn đời trong nghề, ông tin chắc điều ấy. Nhưng vấn đề gì? Cậu nhân viên vẫn chưa tìm ra. Có lẽ phải nhờ đến công an. Ừ, phải báo công an biết và yêu cầu họ điều tra giúp. Ông Chẩm nghĩ, thầm hài lòng với chính mình.
Trong khi đó, ông Đoàn, với bản tính hồn nhiên trong sáng và lạc quan vốn có, vẫn tiếp tục cách sống ông yêu thích - sáng ten-nit, chiều uống bia, tối đi dạy rồi về đọc sách báo, thỉnh thoảng làm thơ. Thực ra ông chẳng cay cú lắm với cái việc tự nguyện làm giảm tiền của mình mà không thành. Đơn giản ông thấy “dạy chơi” mà được chừng ấy là quá nhiều, nên đề nghị hạ học phí hoặc xin đóng thuế. Dẫu vậy ông cũng chút ít ngạc nhiên khi người ta không cho ông làm cái việc tốt đẹp đó.
Tháng sau, vẫn không thấy động tĩnh gì, một hôm sau buổi học, ông tuyên bố trước cả lớp từ nay sẽ giảm một nửa học phí. Cho tất cả mọi người. Rồi ông thong thả xách cặp bước ra khỏi phòng, để cô Mai ở lại một mình giải thích thêm với đám học viên đang ngạc nhiên bàn tán.
Mấy ngày tiếp theo mọi người nhìn ông với con mắt tò mò, nghi kỵ, nhưng biết tính thầy nghiêm, không thích nói chuyện lạc đề nên không ai dám hỏi. Còn cô Mai thì vốn rụt rè ít nói, bây giờ hầu như chẳng bao giờ mở miệng. Không chủ ý, ông Đoàn vẫn nghe lõm bõm nhiều câu bình luận sau lưng. Rồi ông nhận được mấy lá thư nặc danh với những lời lẽ khiếm nhã đầy bóng gió. Kệ. Ông không quan tâm. Ông vẫn sống theo cách xưa nay từng sống. Ông hài lòng với ý nghĩ đã phần nào giúp được ai đó vấn đề tài chính mà ông chắc họ đang gặp khó khăn. Thậm chí ông ăn thấy ngon miệng hơn.

                                                                   *
Mấy lời nói thêm.
Tháng tiếp theo số người học không tăng như ông Đoàn tưởng mà còn giảm. Giảm rõ rệt. Cô Mai khốn khổ thực sự vì bị mấy ông phòng thuế và công an căn vặn về ông thầy “lập dị”. Người học cũng chất vấn cô không ít, đến mức cuối cùng cô xin thôi lớp ông, sang làm giáo vụ cho một trung tâm ngoại ngữ ở trường bên, dù lương ít hơn.
Thất vọng vì không phát hiện thấy điều gì mờ ám liên quan đến nhân thân ông Đoàn, cuối cùng nhà chức trách đi đến kết luận rằng việc mở lớp dạy tư thuê phòng của trường là vi phạm qui định quản lý giáo dục và đào tạo, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của khu vực. Vậy là lớp dịch tiếng Anh của thầy Đoàn bị đóng cửa. Cùng vạ lây theo nó là ba lớp tiếng Anh thực hành và mười lớp luyện thi đại học. Tất nhiên không ai trong số các nạn nhân cảm ơn ông điều này.
Còn ông thì sao? Ông vẫn thế, như xưa. Vẫn hàng ngày làm những việc ông ưa thích - thể thao, bia, sách báo và làm thơ. Bây giờ ông có thời gian nên làm nhiều hơn. Tuy nhiên, công bằng mà nói, sự trong sáng của ông dường như cũng bị gợn đục chút ít. Bằng chứng là một lần uống bia với nhau, giữa chừng ông trầm ngâm bảo tôi, cũng một người về hưu kiếm thêm bằng nghề dạy học, rằng nếu không có lý do thúc bách thì dẫu sao cũng không nên giảm tiền học phí hoặc tự nguyện xin nộp thuế. Tiếc là tâm lý xã hội tạm thời chưa chấp nhận một điều xa xỉ như vậy.
Hà Nội, 7. 2. 2003
                                                 

CHỈ LÀ MỤ ĐÀN BÀ
                                                 
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là hoàn toàn có thật. Nó xẩy ra đã lâu, từ cái thời còn đánh nhau với Mỹ cách đây những mấy chục năm. Một câu chuyện buồn và chứa đựng nhiều bí ẩn. Cả thời ấy lẫn bây giờ không ai, trừ những người trực tiếp liên quan, biết được sự thật về nó. Còn việc vì sao tôi biết thì lại là chuyện khác, thiết tưởng chẳng cần nói ra.
                                                 
*
Không ai biết chính xác lão từ đâu tới và tên là gì, chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật cũng chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị lão, Mù hay Chột thì cũng vậy, không quan trọng.
Khác những người hát xẩm xưa nay ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước da lão đen trũi, có thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ “lão” ở đây rõ ràng không vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.
Công bằng mà nói, từ ngày đến đây lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này, tức là việc lão không chịu “lạy ông lạy bà cho con xin...” cũng làm không ít người ghét lão.
Lão Xẩm sống trong chiếc miếu hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó, một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là “nhà Lão Xẩm”.
Tối nay, như những buổi tối mùa hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì không cần, vì biết chẳng có ai nhìn. “Càng mát!” lão nghĩ,  nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.
Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính  nhờ những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.
Việc này xẩy ra hầu như vào tất cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm. “Bọn này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng!” Khi nghe các cô cười bảo nhau “Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ”, lão giận dữ cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm: “Đây không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác. Đứa nào giỏi, muốn thử cứ lên đây". Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Để mặc chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống, dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh ách dưới bụng.
Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai  nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình như tiếng bước chân đang tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.
Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu lên nhưng cũng liền lúc ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một rồi sau hai, tự do mân mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn nữa.
Như trong cơn mơ, lão ngây ngất mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này và đã làm điều ấy không gặp chút chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng nói gì vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.
Xong, người kia vội vùng dậy bỏ đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không mặc quần và còn ươn ướt...
Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp. Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng cho lão.
Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại vác nhị xuống chợ như mọi ngày.
Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của lão ve vuốt khắp người và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi sau đó người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.
Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ, nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi  biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.
Việc này lặp đi lặp lại trong bốn tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi, vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.
Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí còn hơn. Điều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy. Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa, nhưng lão hy vọng và vẫn chờ. Đêm nào lão cũng chờ...
Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Đoạn sông ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy “cái ấy” của mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác với mọi lần, lần này lão phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút bỏ. Đang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng kêu thất thanh:
- Đừng! Chị Tâm! Đừng, đừng nhảy xuống sông!
Đó là tiếng một cô gái, giọng còn trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.
- Sao chị làm thế? Em van chị. Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...
Có tiếng người khóc tấm tức. 
- Em nói em biết, biết hết mọi chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.
- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.
- Vì lão mù, không biết chị là ai.
- Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại có tiếng khóc. Lần này to và lâu hơn.
- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại chửa hoang? Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao? Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ, chẳng điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng lại được...
- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà. Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng xấu...
- Đúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con quỉ tội lỗi trong người chị...
- Không. Không bao giờ! Chị phải về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà với em. Không lôi thôi gì nữa!
Im lặng một chốc, rồi có tiếng dằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi. Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai ngày sau, khi đang hát ngoài chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên, cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa. 

Lời nói thêm của người viết:
Anh Thoan, chồng chị Tâm  hy sinh trong đợt tổng tiến công Tết Mậu Thân 68 (một năm trước khi chị Tâm chết), nhưng mãi đến cuối năm 70 gia đình mới nhận được giấy báo tử. Bà cụ mẹ anh chết hai năm sau đó. Còn cô Vinh, em gái anh Thoan, hiện là một chuyên viên kinh tế giỏi làm việc tại một bộ quan trọng ở Hà Nội. Vì là người cùng làng, chúng tôi thường gặp nhau. Tuy không ngăn được chị dâu tự tử, nhưng cô đã giữ đúng lời hứa năm nào. Cô vẫn khăng khăng bảo tôi chị Tâm chết đuối, đúng như trong truyện tôi viết. Tôi cũng vờ tin như thế. Lần nào có dịp cùng về quê, tôi và Vinh cũng ra viếng mộ anh Thoa, chị Tâm. Có lần chúng tôi còn vào phòng truyền thống xã, nơi vẫn treo tấm bằng khen trung hậu đảm đang Hội phụ nữ huyện Diễn Châu tặng chị, đề ngày 30 tháng Năm năm 1967. Dù biết hết sự thật, tôi vẫn luôn nghĩ chị xứng đáng với danh hiệu cao quí đó. Còn về lão Xẩm thì tôi không biết thêm một tí gì. Vả lại, cũng chẳng quan tâm mấy đến lão. Không phải vì ghét, đơn giản vì tôi còn nhiều việc quan trọng hơn cần làm.        
Hà Nội, 2000       
                                                 

QUÀ TÌNH NGHĨA

Không đau gì cụ thể mà bà cụ Thu cảm thấy mình đang ốm. Ốm thực sự. Toàn thân rời ra từng mảnh. Chân tay nặng như chì, cứ như có ai cố tình kéo bà quị xuống đất. Hay mình bị cảm? - bà tự hỏi rồi đưa tay sờ trán. Không nóng lắm. Chỉ thấy khó thở hơn ngày thường chút ít. Vốn xưa nay khỏe mạnh, bà lấy làm lạ rồi lên giường nằm, hy vọng sáng mai ngủ dậy sẽ khỏi. Bữa cơm tối vất vả lắm mới chuẩn bị xong vẫn để nguyên trên bàn.
Nhưng bà nằm mãi không sao ngủ được, đến quá nửa đêm thì thôi không cố ngủ nữa. Bà cảm thấy yếu và mệt mỏi hơn, sức lực mất dần một cách nhanh chóng. "Thế là đến lượt mình, bà thầm nghĩ, bình thản và không chút lo sợ. Gần tám mươi rồi, còn gì... Ai chả đến lúc phải nhắm mắt xuôi tay?" Sau đó, như làm theo cái ý vừa nghĩ, bà duỗi thẳng hai tay dọc theo người và từ từ nhắm mắt, đợi cái chết mà bà tin chắc đang rình rập đâu đó rất gần...
Như từ đám sương mù dày đặc, những mảnh vỡ cuộc đời dài đầy đau buồn của bà hiện dần lên một cách chậm chạp. Toàn những mảng nhòe màu xám lộn xộn, cái nọ dính cái kia. Xung quanh yên tĩnh lạ lùng. Bà nghe rõ tiếng đập yếu ớt của trái tim và hơi thở khó khăn của mình, nhưng tiếng chân thần chết thì cố nghe mà mãi vẫn không thấy.
Bà cụ Thu là người nổi tiếng ở huyện trung du rộng lớn này, có thể  toàn tỉnh. Đơn giản vì bà là Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng có năm người thân là liệt sĩ: Ông Thu, chồng bà, cộng với bốn con trai. Xưa nay bà luôn sống một mình, không con cháu, cũng chẳng còn ai thân thích, trừ một người bà con xa đằng chồng gọi bà là cô, hiện làm chủ tịch xã nơi bà đang sống. Có thể một phần vì thế mà bà được chính quyền địa phương chăm sóc chu đáo. Thậm chí chu đáo hơn mức cần thiết. Tiền trợ cấp chế độ hàng tháng quá thừa cho nhu cầu sinh hoạt giản dị của bà. Đều đặn mỗi tuần một lần có người của xã ghé qua thăm hỏi đôi ba câu, đôi khi mang theo chút quà. Đó là chỉ thị của đích thân ông chủ tịch huyện. Dẫu sao toàn tỉnh chỉ mình bà là Mẹ anh hùng của năm liệt sĩ.
Huyện ông hàng chục năm nay luôn dẫn đầu phong trào "đền ơn đáp nghĩa", và ông nhất quyết không chịu để danh hiệu cao quí này rơi vào tay  huyện khác. Cũng theo chỉ thị của huyện, ngôi nhà xưa đằng chồng để lại, còn tốt, gỗ lim, mái ngói cong hẳn hoi, đã bị dỡ bỏ để xây thành mái bằng, y hệt các nhà tình nghĩa khác trong huyện. Bà Thu nài nỉ xin đừng nhưng người ta nhất định không chịu. Để một người như bà không có nhà tình nghĩa thì chẳng khác gì làm nhục cả huyện! Lễ gắn biển cho ngôi nhà bất đắc dĩ ấy được tổ chức to lắm, đủ mặt quan khách, có cả mấy phóng viên truyền hình tỉnh về quay phim, viết bài. Tất nhiên nổi bật nhất là cảnh bà Thu tay cầm chìa khóa nói lời cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương. Họ bày cho bà cách tra khóa vào ổ, nói gì, đi đứng thế nào và nếu được thì cố khóc một tí.
Là đơn vị điển hình, hàng năm, ít ra đã mười năm nay, cứ đúng ngày thương binh liệt sĩ, huyện lại cho ô tô về tận làng đón bà ra thị trấn tham dự buổi lễ long trọng và nhận quà.
Cùng một Mẹ anh hùng khác, bà luôn được mời ngồi ở hàng ghế đầu, bên cạnh ông chủ tịch huyện, cao hơn và đối diện với cả hội trường. Bà nghe mà chẳng chú ý hoặc chẳng hiểu gì mấy những gì người ta đang nói. Chỉ thấy chốc chốc mọi con mắt lại hướng về bà, làm bà vừa ngượng vừa chẳng biết nên xử sự thế nào. Rồi nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy, bà cũng quen, cuối cùng thì chẳng có cảm giác gì khác ngoài việc coi đó là một nghi lễ bắt buộc.
Bà chỉ thực sự lúng túng khi đến phần tặng quà. Nhiều người được nhận quà - chiếc phong bì đựng ít tiền mặt, bộ quần áo hay một vật dụng nào đó, tùy ngân sách huyện năm ấy. Bao giờ cũng đích thân ông chủ tịch huyện trao quà cho bà và bà Mẹ anh hùng kia. Phần quà của họ cũng đặc biệt, luôn được đựng trong những chiếc hộp bìa cứng bọc giấy đỏ, buộc dây vàng. Bà được năm hộp, bà kia ba, tương ứng với số người thân đã chết. Tất nhiên người ta có thể cho vào một túi chứ không tách riêng cầu kỳ như vậy, nhưng ban tổ chức nghĩ ra cách này để nhấn mạnh sự hy sinh, tức là sự đóng góp của từng người cho cách mạng.
Bà còn nhớ hôm lần đầu nhận quà kiểu này. Bà được mời lên trước, hẳn vậy. Khi ông chủ tịch trịnh trọng lần lượt đặt từng chiếc hộp màu đỏ lên đôi tay đang chìa sẵn của bà, mọi con mắt đều hướng nhìn lên chăm chú. Có người còn lộ vẻ ghen tị. Ông chủ tịch huyện nói câu gì đó khá hùng hồn, rồi cả hội trường vang dậy tiếng vỗ tay hồi lâu. Bà chẳng hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Bà lúng túng đứng yên. Bỗng một ý nghĩ sắc nhói như mũi dao chạy xuyên qua tim: Bà đang nâng trên tay không phải năm hộp quà mà là năm chiếc quan tài màu đỏ đựng xác chồng và bốn người con thân yêu của mình. Ý nghĩ ấy làm bà suýt ngã khuỵu. Mắt bà rưng rưng. Bà những muốn khóc, thậm chí khóc thật to. Đôi tay trở nên thật nặng, phải cố lắm bà mới không để rơi những hộp quà. Không đợi mời, bà vội vã quay lại chỗ ngồi, nóng lòng chờ buổi lễ kết thúc.  
Ngay chiều hôm ấy bà cho gọi anh cháu chủ tịch xã tới.
- Anh có thể bảo họ thôi cái trò ấy được không?
- Trò gì cơ ạ, cháu không hiểu, - anh kia ngơ ngác hỏi lại. - Và họ là ai ạ?
- Họ là mấy ông dưới huyện ấy. Còn cái trò là kiểu tặng tôi năm hộp quà như...như...- bà cụ chần chừ một chốc: - như năm chiếc quan tài! Giờ thì anh hiểu rồi chứ?
Anh chủ tịch hiểu. Anh đưa tay gãi gãi đầu, cố lựa lời:
- Cháu thấy chuyện ấy chẳng có gì không ổn. Chỉ tại cô nghĩ này nọ thêm rắc rối. Họ không gói thành một mà chia làm năm hộp như vậy là có ý đề cao thành tích... tức là gương hy sinh của cô. Để làm nổi bật cô với người khác...
- Tôi không thích kiểu đề cao như thế. - Bà cô khó chịu ngắt lời. - Tôi hỏi anh lần nữa: Anh có thể bảo họ thôi được không?
- Cháu sợ không. Cháu chỉ là cán bộ cấp xã. Vả lại, đó là nghi lễ, là chủ trương của trên. Đâu người ta cũng làm vậy.
 - Thôi được. Tôi nhờ anh việc khác vậy. Anh nói hộ với họ khi cho tôi quà, bảo người ta đừng vỗ tay hoan hô ầm lên thế. Hoan hô cái nhẽ gì cơ chứ? Vì tôi có chồng và bốn con trai đã chết? Cứ như tôi vinh dự lắm không bằng. Thế nào, anh giúp tôi điều này, hay cũng không nốt ?
Anh cháu bối rối, gãi tai còn lâu hơn.
- Cháu nghĩ không thể được, cô ạ. Người ta vỗ tay là để ca ngợi cô, một bà mẹ anh hùng, để... - anh bỗng ngừng lời vì thấy bà cô đang rưng rưng nước mắt.
- Anh thừa biết tôi anh hùng nỗi nào, - bà hạ giọng nói. - Anh có thấy xưa nay ai khổ như tôi chưa? Thời gian tôi được ở cạnh ông Thu nhà anh tổng cộng có lẽ chưa đầy vài tháng. Từ ngày lấy nhau năm 46 đến lúc mất năm 54, ông ấy chỉ về thăm tôi bốn lần, để lại bốn người con trai một mình tôi nuôi. Rồi cả bốn đứa con ấy cũng lần lượt bỏ tôi mà đi. Tôi khổ thế sao người ta còn vỗ tay? Anh nói tôi nghe xem nào. Mà thôi, anh không giúp được thì tôi chẳng nhờ nữa. Anh về đi.
Buổi tối, bà dọn lại bàn thờ, đặt lên đó năm hộp quà thành một hàng thẳng. Chiếc ở giữa bà thắp ba nén hương, còn lại mỗi chiếc một nén. Các năm tiếp theo, cứ vào ngày 27 tháng Bảy, bàn thờ nhà bà lại có thêm năm hộp quà mới. Kích thước và trọng lượng có thể khác nhau, nhưng luôn được gói bằng giấy đỏ buộc dây vàng y như lần đầu. Và lần nào cũng vậy, đêm ấy bà không sao ngủ được, vì hễ nhắm mắt là hình ảnh năm hộp quà tình nghĩa như năm chiếc quan tài màu đỏ ấy lại hiện lên, đè nặng lên đôi tay và bộ ngực lép kẹp của bà, đến mức bà thấy nghẹt không thở được.
Bà lặng lẽ khóc cho cuộc đời đau khổ và trớ trêu của mình. Bà khóc cho chồng và bốn người con trai, cho cả ngôi nhà tổ tiên bị thẳng tay đạp phá. Bà oán giận các ông dưới huyện vì cái thói khoa trương thành tích của họ. Bà chẳng cần quà và sự chăm sóc của họ. Chẳng cần gì ngoài được sống cuộc đời một mụ đàn bà nông thôn bình thường, nghèo khổ và chẳng được ai chú ý, chẳng cần ai phong làm anh hùng. Một mụ đàn bà có chồng ở nhà cùng mụ cày cấy ngoài đồng, có uống rượu, có đánh đập mình cũng được, miễn đừng đi biền biệt như thế rồi chết, rồi để lại chừng ấy thằng con trai mà chẳng có đứa cháu nào. Thà như mụ Hựu hàng xóm còn sướng hơn - một đống con cháu, đứa nào cũng nheo nhóc, không nuôi nổi mụ lại thỉnh thoảng còn mò đến ăn bám. Nào mụ có gì đâu mà bám với víu. Tám mươi tuổi vẫn phải hàng ngày ra đồng Chùa mò cua bắt ốc lấy tiền đong gạo. Nghe nói nhiều khi quẫn quá, bà lão tội nghiệp ấy còn bắt trộm gà người ta làm thịt, hoặc làm những việc xấu xa tương tự. Mụ cứ than vãn mãi với mọi ngưòi rằng có độc đứa con trai đi bộ đội thì lại chết bệnh nên không được hưởng chế độ liệt sĩ.
- Bà sướng thật đấy, những năm liệt sĩ! – Có lần mụ bảo bà cụ Thu, vẻ thèm thuồng không dấu diếm.
Thực ra, lúc đầu bà cụ Thu chỉ được công nhận có bốn thân nhân liệt sĩ. Số là thằng út nhà bà, vốn không thuộc diện nhập ngũ, lại chưa đủ tuổi, vẫn cứ theo bạn nằng nặc đòi đi bộ đội, bà cố giữ không được. Thế mà chưa đầy ba tháng sau đang đêm nó lén lút trốn về nhà. Nó bảo trận địa pháo của nó bị máy bay ném bom chết nhiều quá, nó sợ nên bỏ trốn. Lúc ấy nó còn kém một tháng mới đầy mười bảy tuổi, vẫn là đứa con nít, tối hôm ấy vẫn chui vào nách mẹ ngủ như trước ngày lên đường. Nó xin bà đừng báo công an, để chờ ít hôm đỡ sợ, tự nó sẽ quay lại đơn vị. Bà ôm nó khóc, chẳng trách mắng, cũng chẳng báo ai đến bắt. Được hai hôm, đang đêm có người từ  huyện về giải nó đi, lần này thì nó bị đưa tít vào tận Tây Nguyên và từ đó mất tăm luôn. Một năm sau bà nhận được giấy báo tử của nó. Giấy báo tử thứ ba, không kể của ông Thu từ thời chống Pháp. Còn giấy thứ tư, của người con cả, thì mãi sau hòa bình mới nhận được. Có người nói với bà chính mụ Hựu báo công an bắt thằng út. Bà chẳng giận mụ chuyện ấy, chỉ buồn vì sau đó người ta đã làm khổ bà khá lâu vì tội dung túng người con đào ngũ. 
Thời đó hai tiếng này đáng sợ lắm. Thường thì sau chuyện ấy chẳng ai dám vác mặt đi đâu, nhưng bà cứ thản nhiên như không, càng khiến người ta nghĩ bà cố ý thách thức chính quyền. Thực ra bà không có ý ấy. Bà nghĩ suy cho cùng, con bà chẳng làm gì nên tội. Nó còn con nít, sợ quá thì bỏ trốn về nhà với mẹ ít ngày rồi quay lại. Nó chẳng nói thế đó sao? Cùng lắm mắng một trận chứ đừng qui cho nó, và cả cho bà nữa, những tội tầy đình như vậy. Tuy nhiên, bà chẳng nói gì. Chẳng thanh minh, cũng chẳng oán trách. Sau những mất mát phải chịu, với bà dường như không còn gì quan trọng. Sau này, lúc đầu bà còn không được đề nghị phong tặng danh hiệu Bà mẹ anh hùng. Người ta lập luận rằng với bốn người thân liệt sĩ và một kẻ đào ngũ, bà chỉ đáng gọi là mẹ liệt sĩ. Thậm chí người ta còn định không cho bà hưởng bất kỳ một chế độ nào.
Bà vẫn thản nhiên im lặng. Nhưng anh cháu thì không. Anh ta lẳng lặng kêu kiện khắp nơi. Rồi một hôm người ta mời bà xuống huyện dự lễ phong tặng anh hùng, với tờ giấy ghi rõ có chồng và ba con trai liệt sĩ. Một thời gian sau, đích thân ông chủ tịch huyện đem đến tận nhà một tờ giấy khác, bổ sung thêm một liệt sĩ nữa.
Lần này thì chính Huyện đứng ra lo liệu để thằng út con bà thành liệt sĩ. Trong hồ sơ quân nhân của nó, chữ đào ngũ được chữa thành “tự ý bỏ về thăm nhà không xin phép”. Bản thân cán bộ huyện rất cần con số năm hiếm hoi kia, và họ đã toại nguyện.
Cái nghi lễ tặng quà bất di bất dịch kia cũng được bắt đầu từ đó. Mỗi năm một lần lên huyện, người ta tặng, bà nhận. Năm hộp quà bọc giấy đỏ buộc dây vàng. Năm chiếc quan tài xinh xắn. Bà lặng lẽ ôm trên tay. Lặng lẽ chất cao lên bàn thờ. Rồi đêm đến lặng lẽ khóc. Phải mất mấy ngày sau bà mới bình thường trở lại, thấp thỏm lo sợ ngày tặng quà năm tới. Vâng, năm nào cũng vậy, trừ một lần.
Chuyện đó xẩy ra cách đây ba năm. Lúc bà vừa ngồi vào ghế danh dự, anh chủ tịch xã cháu bà (người luôn đi theo trong những dịp long trọng) ghé tai cho bà biết buổi lễ năm nay rất đặc biệt vì có khách nước ngoài, và bà nhất thiết phải phát biểu, phải cảm ơn...
- Cảm ơn vì chồng con tôi chết ?
- Ấy, cô lại thế rồi. Cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và xã hội, tất nhiên. - Anh cháu chán nản đáp.
- Anh vừa nói khách nước ngoài là khách nào vậy?
- Mấy ông Mỹ cựu chiến binh. Trước đây họ đánh nhau với ta, bây giờ họ hối hận, sang giúp huyện ta xây lại cái công viên văn hóa. Cô hiểu chứ? - Thấy bà cô không nói gì, anh cháu yên tâm xuống chỗ ngồi của mình.
Đúng lúc long trọng nhất, khi ông chủ tịch huyện vừa nói xong một thôi về hòa hợp, hữu nghị gì đó và cả hội trường cùng mấy ông tây đang vỗ tay hoan hô thì bà cụ Thu nhỏm dậy. Ông phó chủ tịch ngồi cạnh hỏi:
- Dạ, cụ định đi đâu ạ?
- Tôi ra ngoài một tý.
- Nhưng bây giờ thì không được, thưa cụ. Cụ thấy đấy, đang có khách...      
Bà vẫn một mực đứng dậy. Ông phó chủ tịch cố giữ. Bà phát cáu, nói to:
- Ô hay cái anh này. Tôi đi ỉa cũng không được sao? Hay anh muốn tôi tương ra ngay chỗ này ?
Duy nhất lần ấy bà ra về tay không, không bằng ô tô của huyện, mà bằng xe ngựa của thằng Nhơn xóm trên. Thằng này ngày nào cũng đánh xe chở rau quả ra thị trấn, buổi chiều đánh xe không về.
Tối đến, anh cháu mang năm hộp quà đến cho bà, nét mặt có vẻ khó chịu nhưng biết tính cô nên đành im. Bà cũng lờ như không có gì xẩy ra. Khi anh cháu về, bà vứt cả năm chiếc hộp ra vườn. Mụ Hựu nhanh tay nhặt chúng đưa vào nhà mình. Nghe đồn lần ấy quà giá trị lắm, nhờ tiền huyện bớt từ dự án xây công viên của cựu chiến binh Mỹ. Có thể thế thật, vì mụ Hựu tỏ ra rất hỉ hả, còn mua được cả áo mới. Mấy ngày liền mụ cố tình tránh gặp bà.

                                                  *
Đêm yên tĩnh. Hình như trời sắp sáng, cũng có thể còn lâu. Chưa thấy con gà trống nhà bên gáy như thường lệ. Cũng có thể nó đã gáy mà bà không nghe. Bà không còn cảm biết điều gì, trừ một điều duy nhất là bà sắp chết, sắp được gặp chồng và bốn người con trai thân yêu của mình. Bà vẫn nằm yên bất động như khi mới lên giường để "nhắm mắt xuôi tay" như bà nghĩ. Đôi tay khẳng khiu vẫn xuôi theo người, nhưng mắt bà luôn mở, trân trân nhìn lên trần nhà tối om.
Lúc này, hình như chút sức lực cuối cùng giúp bà không nhắm mắt cũng đang chầm chậm rời bỏ bà. Cuối cùng, đôi mi từ từ khép lại. Thay cho màu đen bóng tối, bà thấy khắp nơi đều một màu đỏ rực. Màu đỏ của những hộp quà, những chiếc quan tài giấy đỏ buộc dây vàng...

                                                  *                                                         
Mãi chập tối hôm sau người ta mới biết bà chết. Chính mụ Hựu thấy có điều khác thường, đến báo với anh chủ tịch xã cháu bà.
Khi thắp hương tiễn bà cô về thế giới bên kia, anh này ngạc nhiên thấy trên bàn thờ có rất nhiều những chiếc hộp màu đỏ bằng giấy hình chữ nhật. Những hộp quà tình nghĩa, anh biết. Anh chỉ ngón tay vào từng chiếc và nhẩm đếm. Tổng cộng 54 hộp. Tất cả đều còn nguyên dây cột và hồ dán. Do dự một lát, anh thận trọng mở chúng ra xem.
Phần lớn đó là những hộp bánh kẹo bây giờ đã hỏng. Không ít những tấm vải, có tấm còn mới nguyên, cũng có tấm đã phai màu hoặc bị mối xông. Một it hộp có cả tiền. Những tờ giấy bạc mới, phẳng phiu mà một thời rất có giá trị nhưng bây giờ chỉ đủ mua chưa đầy cân gạo, hay thậm chí chén nước trà... "Từ lúc được phong anh hùng và nhận quà của huyện đến nay đã mười hai năm", anh chủ tịch xã thầm nghĩ. "Vậy tổng cộng phải có 60 hộp, sao chỉ 54?" Rồi anh chợt nhớ chuyện xẩy ra với năm hộp quà lần có đoàn Mỹ đến thăm. "Vậy còn một hộp nữa đâu?" Anh cúi nhìn xuống chân bàn thờ nhưng không thấy. "Có thể bà cụ lẩn thẩn để rơi đâu đó. Cũng có thể chuột đánh mùi thấy thức ăn tha đi mất".
Những chiếc hộp giấy được dọn khỏi bàn thờ. Trên đó, như trên những bàn thờ bình thường khác, hương đang thong thả cháy, tỏa khói xanh và mùi thơm dìu dịu. Bà cụ Thu nằm bên cạnh, khuôn mặt bất động như được làm bằng sáp.
Hà Nội, 10. 2. 2000

         
CÁI GIÁ CỦA TÌNH YÊU

Biết đêm nay khó lòng ngủ được, ông nhẹ nhàng bước xuống khỏi giường, cố không làm vợ thức giấc. Có thể vợ ông đã ngủ, cũng có thể còn thức nhưng giả vờ ngủ như mọi lần. "Kệ", ông thầm chậc lưỡi rồi lặng lẽ ra đứng ngoài ban-công.
Chắc đã khuya. Ông cố tình không xem đồng hồ để đỡ sốt ruột. Cả thành phố đang phập phồng trong giấc ngủ chập chờn. Từ trên cao nhìn xuống, thành phố như con quái vật khổng lồ sau một ngày săn đuổi và vật lộn với con mồi, bây giờ nó kiệt sức nằm bẹp xuống đất, duỗi trăm nghìn chiếc chân kỳ dị, phì phò thở một cách nặng nhọc. Thỉnh thoảng nó lại kêu lên thảm thiết bằng tiếng còi tàu rền rĩ kéo dài từ phía ga Hàng Cỏ.
Trời hơi lạnh. Ông tiếc đã không khoác thêm chiếc áo ngoài, bây giờ quay vào lấy thì lại ngại. Ông đang buồn, cái buồn nhàm chán vì nó xẩy ra quá thường xuyên. Thường xuyên đến mức gần như trở thành tâm trạng bình thường, khiến ông đôi khi cũng chẳng biết có thật ông buồn hay không.
Ông bật lửa hút thuốc, lơ đãng nhìn con quái vật nằm bất động phía dưới, và nghĩ:
                              Một chàng trai đem lòng yêu cô gái,
                              Nhưng cô kia yêu người khác, và rồi
                              Người khác ấy lại yêu cô gái khác,
                              Để nàng buồn và thất vọng khôn nguôi.

                              Còn sau đó, vì thất tình, cô gái
                              Không mảy may kén chọn, đã lấy chồng
                              Thành bất hạnh. Cả chàng trai cũng vậy,
                              Phải suốt đời đau khổ, phải chờ mong...

                              Câu chuyện trên không có gì mới lạ.
                              Bao đời nay thường vẫn thế... Có điều
                              Nếu xẩy ra với chính ta, ta sẽ
                              Hiểu thế nào là cái giá tình yêu.

Đúng, với người ngoài cuộc thì mọi việc có vẻ đơn giản, thậm chí nghe nhàm chán. Nhưng nếu cái điều ấy "xẩy ra với chính ta", như ông đây chẳng hạn, thì... Chà, cái ông nhà thơ Hainơ (1) người Đức ấy chỉ bằng mấy dòng đơn giản mà nói hết, nói đúng toàn bộ câu chuyện và nỗi buồn của ông. Mà ông ta sống cách đây những hai trăm năm, lại ở tít châu Âu. Hóa ra câu "trong tình yêu không ai đau khổ giống ai" người ta vẫn nói không hẳn hoàn toàn đúng. Ông nghĩ trường hợp của ông xưa nay chắc không hiếm, ta hay tây cũng vậy. Nó xẩy ra đúng như Hainơ đã viết.
Ông từng yêu một cô gái và lúc đầu cũng được cô yêu lại. Sau vì một chuyện hiểu nhầm vớ vẩn, rất vớ vẩn, cô tự ái và tuyên bố cắt đứt ông để yêu một người khác "cho ông biết tay". Nhưng cái anh "người khác" ấy lại không yêu cô, hay chính xác hơn, yêu với những suy tính nhỏ nhen. Thế là thất vọng, và cũng vì tự ái, loại tự ái kiểu trẻ con, đáng lẽ quay lại với ông, người vẫn yêu cô tha thiết và chắc còn được cô yêu, cô "không mảy may kén chọn, đã lấy chồng". Lấy chồng chỉ để lấy chồng. Thế thôi. Không tình yêu, không đắn đo để ông và anh chàng nhỏ nhen kia biết cô không sợ ế. Lại suy nghĩ kiểu trẻ con, và cô đã phải trả giá đắt cho hành động trẻ con ấy của mình.
Còn ông, ông không đến nỗi bồng bột, thiếu suy nghĩ như cô vì nhiều tuổi hơn và nói chung chín chắn hơn. Ông tìm mọi cách cứu vãn tình yêu nhưng vô ích. Cô gái ông yêu và yêu ông ấy đã không đủ sự tỉnh táo và dũng cảm cần thiết để vượt qua lòng tự ái bị phóng đại thái quá. Cuối cùng ông lấy vợ, một người tế nhị, có trình độ, lại xinh đẹp, xinh hơn cả cô người yêu cũ. Một người tốt mọi phương diện. Thế mà không có hạnh phúc. Không phải ông không yêu vợ. Ông có yêu, nhưng đó không còn là cái tình yêu ông từng trải qua với "người kia". Vì sao thì chính ông cũng không lý giải nổi. Tình yêu là thế, và có thế nó mới bí ẩn, kỳ diệu và làm người ta mê say. Ông buồn, một cách lặng lẽ và mơ hồ. Là người đứng đắn lại hay mặc cảm, ông thấy như thể mình phản bội vợ, vì dù không muốn, ông vẫn thường nghĩ tới "người kia", đặc biệt ngày lần đầu họ gặp nhau và yêu nhau "ngay từ cái nhìn đầu tiên". Vì sao? Cả hai đều không biết. Có lẽ đó cũng là một bí ẩn nữa của tình yêu.
Cái ngày ấy, thực ra nói đêm thì đúng hơn vì lúc đó là ban đêm, hai người ngẫu nhiên ngồi cùng ghế, cùng xe từ Sầm Sơn về Hà Nội sau đợt nghỉ mát một tuần. Trong một tuần ấy họ gặp nhau hàng ngày, ăn cùng nhà, tắm cùng bãi nhưng chưa nói chuyện lần nào. Cả hai để ý đến nhau, muốn làm quen nhưng lúng túng không biết cách nào. Thế mà giờ họ được ngồi cạnh nhau suốt cả chặng đường hàng trăm kilômét, lại vào một đêm đẹp trời, chẳng bị ai chú ý. Họ nói chuyện thú vị lắm, hợp nhau lắm, và khi gần đến Hà Nội, họ đã bắt đầu cầm tay nhau. Thế là yêu, hay ít ra cảm giác yêu yêu. Thật nhanh và cũng thật tự nhiên, cứ như họ được sinh ra để yêu nhau vậy.
Mười một giờ đêm hôm ấy, sau khi chia tay cô gái, ông thong thả đi bộ về nhà để tận hưởng những giây phút kỳ diệu vừa qua. Ông sung sướng đọc thành lời một bài thơ khác của nhà thơ Hainơ mà ông yêu thích:

                                        Anh và em không hẹn
                                        Cùng đi chuyến xe đêm.
                                        Hai đứa cùng vui vẻ -
                                        Chỉ mình anh với em.

                                        Sáng ra, ta kinh ngạc
                                        Thấy người khách thứ ba
                                        Là Tình Yêu lậu vé
                                        Lén vào ngồi bên ta.

          Lúc ấy, tức là cách đây hai mươi lăm năm, ông là một cán bộ trẻ của Viện nghiên cứu hạt nhân, còn cô đang học năm cuối khoa văn đại học tổng hợp, chênh nhau năm tuổi, độ chênh lý tưởng cho một tình yêu nghiêm túc. Chiều chiều ông đạp xe đến trường đón cô. Hai người hai xe. Những ngày thật đẹp và hạnh phúc. Dẫu làm khoa học, tâm hồn ông rất lãng mạn. Thậm chí ông còn làm thơ tặng cô. Tiếc rằng trong lĩnh vực này ông không thật giỏi nên cuối cùng, thay cho những bài thơ hì hục viết nhiều đêm liền, ông chép tặng cô một bài ông tưởng của Hainơ, nhưng mãi sau mới biết là của Vichto Huygô (2):

                                        Thơ anh rời trang giấy
                                        Bay đến đậu vườn em
                                        Nếu thơ anh có cánh,
                                        Đôi cánh của con chim.

                                        Thơ anh sẽ che chở
                                        Ngôi nhà em bình yên
                                        Nếu thơ anh có cánh,
                                        Đôi cánh của nàng tiên.

                                        Thơ anh sẽ chung thủy
                                        Bay theo em sớm chiều
                                        Nếu thơ anh có cánh,
                                        Đôi cánh của tình yêu.

Thời ấy ông nghèo nên chẳng có gì hơn để tặng ngoài thơ, mà lại thơ người khác. Cô cũng không mong đợi gì hơn ở ông. Một lần, khi đón cô ở cổng trường, ông tặng cô một bài thơ khác. Lần này thì đúng là thơ Hainơ, với hai khổ đầu và cuối như sau:

                                        Nhờ nàng thơ cất cánh,
                                        Em hãy đến cùng anh,
                                        Đến sông Hằng lấp lánh,
                                        Trời miền nam trong xanh.

                                        Ở đấy, nằm trên cỏ,
                                        Trong giấc mơ ban ngày
                                        Ta thả lòng theo gió
                                        Cùng tình yêu ngất ngây...

- Anh định đưa em đến sông Hằng Ấn Độ thật à? - cô cười hỏi khi ông đọc xong.
- Không, anh chỉ muốn mời em đi ăn kem ở nhà hàng Thủy Tạ. Và nếu em đồng ý, ngày mai ta đạp xe sang Cổ Loa chơi.
Họ ăn kem ở nhà hàng Thủy Tạ rồi hôm sau cùng đi Cổ Loa. Lần này hai người một xe. Chính trong cuộc dã ngoại đáng lẽ phải rất vui ấy, cái chuyện "vớ vẩn" kia đã xẩy ra. Hình như ông nói một câu ngu ngốc nào đó khiến cô tự ái. Chưa hết, nghĩ cô hiểu sai, ông cố cãi lại bằng những câu thậm chí còn ngu ngốc hơn, làm chuyện thêm nghiêm trọng. Thế là cái sự cố vớ vẫn ấy làm tình yêu của họ tan vỡ. Đơn giản thế thôi. Âu đó cũng là một điều ngớ ngẩn nữa của tình yêu.
Biết mình sai, ông tìm cách giảng hòa và xin lỗi, hy vọng mấy hôm sau đâu lại vào đấy. Nhưng ông nhầm. Cô gái vẫn cương quyết không chịu, là điều đến tận bây giờ ông không hiểu nổi. Hay ông đã vô tình chạm phải nỗi đau thầm kín nào của cô? Ông đã xúc phạm cô sâu sắc điều gì chăng? Cô không cho phép ông đưa đón hàng ngày như trước. Không gặp gỡ, không nói chuyện. Chấm hết. Cũng không một lời giải thích vì sao. Nhưng ông yêu cô và biết cô vẫn yêu ông. Thế thì tại sao lại như vậy?  "Chịu. Tình yêu là thế. Phụ nữ là thế!" ông buồn bã lắc đầu.
Suốt mấy tháng liền sau đó, thẫn thờ như người mất hồn, đêm nào ông cũng lang thang quanh nhà cô. Không dám vào mà cũng chẳng muốn vào. Có ngẫu nhiên thấy cô, ông cũng không tìm cách gặp. Ông đã bị từ chối, và ông là người tự trọng. Cái tự trọng cũng thuộc loại ngớ ngẩn mà ông không vượt qua được. Những hôm nhà cô có khách, từ dưới nhìn lên, ông lại nhớ đến Hainơ, và buồn rầu nghĩ:
                                        Nhà em có vũ hội,
                                        Thắp đèn xanh, đèn vàng.
                                        Anh nhìn lên cửa sổ
                                        Thấy bóng em đi ngang.

                                        Em không nhìn, không biết
                                        Anh đang đứng trong đêm,
                                        Và càng không thể biết
                                        Anh đang buồn vì em.

                                        Vì tình yêu, lần nữa
                                        Anh lại buồn đêm nay.
                                        Tim xốn xang... chỉ tiếc
                                        Em không biết điều này.

Tiếp đến, mọi chuyện diễn ra đúng như Hainơ nói. Cô yêu người khác. Một nhà thơ có tài xưa nay cô hâm mộ. Nhưng nhà thơ này yêu cô cũng như yêu bao cô sinh viên trẻ khoa văn lãng mạn giống cô. Khác chăng có yêu hơn một tí vì nhà cô giàu và có ông bố là cán bộ cao cấp. Cuối cùng, qua mai mối của bà mẹ, cô đồng ý làm vợ một phó tiến sĩ vừa ở nước ngoài về, một người tử tế, cũng con nhà cán bộ cao cấp như nhà cô. Từ buổi đầu gặp nhau cho đến ngày cưới chưa đầy hai tháng. Lúc này cô đã là một phóng viên, thỉnh thoảng có bài in ở các báo. Ông cũng được mời dự cưới. Ông đi, mang sẵn trong người một bài thơ khác của Hainơ để tặng cô, nhưng vào phút cuối nghĩ thế nào lại thôi. Bài thơ ấy ông còn giữ tới nay:

                              Em hãy nói cho anh nghe: vì sao
                              Giữa mùa xuân mà hoa hồng đã héo;
                              Và trước anh, do nguyên cớ thế nào
                              Bông hoa tím cúi đầu buồn lạnh lẽo?

Em hãy nói: vì sao chim họa mi
                              Hót buồn bã làm tim anh nhức nhối;
                              Sao anh nghe như mục nát cái gì
                              Trong hơi thở của rừng xanh, đồng nội?

                              Em hãy nói: sao suốt ngày mặt trời
                              Luôn giận dữ nhìn cánh đồng nhăn nhó?
                              Sao bóng đen luôn bao trùm khắp nơi,
                              Cả trái đất âm u như nấm mộ?
                             
                              Anh đau buồn, anh thất vọng, ủ ê -
                              Hãy giải thích cho anh nghe điều ấy.
                              Và em yêu, em hãy nói anh nghe:
                              Sao em nỡ bỏ anh đi như vậy?

Sau đó, với ông hầu như chẳng còn gì nữa. Rồi ông cũng lấy vợ, có con, việc công, việc nhà không có gì đáng phàn nàn. Gia đình ông sống bình thường như các gia đình công chức bình thường khác. Có phần còn khá hơn. Có thể nói hạnh phúc và bề ngoài nhìn vào, chắc không ít người ghen tị. Bản thân ông cũng tự thấy hài lòng. Vậy ông còn đòi gì hơn nữa? Bà vợ dịu dàng, yêu, hiểu chồng. Đứa con trai ngoan, học giỏi.
Vâng, tất cả đúng như vậy. Ấy thế mà sao ông vẫn thấy có cái gì thiếu vắng, một sự luyến tiếc mơ hồ, một nỗi đau âm ỉ không nói nên lời. Ông biết tất cả có thể chỉ do ông đa cảm hay nghĩ về mối tình đầu bất thành. Nhưng có phải lỗi ông đâu? Ai dám chắc nếu họ lấy nhau, cái cô gái hay tự ái ngày xưa ấy sẽ làm ông hạnh phúc hơn người vợ hiện nay của ông? Suy cho cùng đó chỉ là mối tình bồng bột với những kết luận cũng vội vàng và bồng bột không kém. Ông biết thế và đã cố nhiều lần xua đuổi những ý nghĩ vẩn vơ ấy trong đầu. Tuy nhiên lý trí là lý trí, tình yêu vẫn là tình yêu. Và sống bên bà vợ lý tưởng của mình, nhiều khi ông vẫn không thể không nghĩ tới người đàn bà kia. Người đàn bà nhẫn tâm, đồng bóng đã làm ông đau khổ. Vì người ấy mà ông nhiều đêm phải mát ngủ như đêm nay. Tình yêu là thế, biết làm thế nào được.
Còn "người ấy" thì sao? Bề ngoài có vẻ cũng bình thường. Từ ngày chia tay, họ chưa một lần gặp nhau. Cách đây đã lâu, khi cùng đưa con đến trường Lê Ngọc Hân, thỉnh thoảng họ nhìn thấy nhau nhưng chỉ gật đầu chào từ xa, họa hoằn lắm mới trao đổi đôi câu thông thường. Duy nhất một lần, khi cả hai người cùng đến quá sớm và biết còn phải chờ lâu, ông gợi ý cô vào quán cà phê đối diện ngồi tạm. Cô chỉ im lặng nhìn ông. Vẫn đôi mắt đẹp ngày xưa ấy nhưng bây giờ đượm buồn, rất buồn. Cuối cùng cô cúi đầu khẽ nói: "Em có lỗi với anh. Anh tha thứ cho em nhé". Rồi như sợ không dám đứng thêm với ông, cô vội vã phóng xe bỏ đi. Từ đó họ chẳng bao giờ gặp nhau nữa. Vậy là cô cũng chẳng hạnh phúc gì. Có thể như ông, cô cũng bị cái tình yêu kỳ diệu, lạ lùng, đam mê và bí ẩn ấy làm nhiều đêm mất ngủ. Biết đâu lúc này cô cũng đang đứng trên ban công nhà mình, bâng khuâng nghĩ về nó như ông...
          Con quái vật thành phố vẫn nằm xoãi dưới chân ông. Nhiều con mắt khác màu đã nhắm. Hơi thở và tiếng rên rĩ của nó hình như cũng lắng xuống. Ông khẽ rùng mình vì luồng khí lạnh bất chợt thổi từ phía sông Hồng. Ông lặng lẽ đi vào, nằm xuống cạnh vợ. Bây giờ thì vợ ông chắc chắn đã ngủ, tiếng thở nhẹ và đều. Nhờ ánh trăng chiếu qua cửa sổ, ông thấy khuôn mặt bà vừa thanh thản vừa như lo lắng điều gì.  Ông khẽ cầm tay bà đặt lên ngực mình. Tự nhiên ông thấy thương bà. Thương cho cả chính mình. Một lúc sau ông thiếp đi, bên tai vẫn văng vẳng bài thơ của Hainơ nhưng nghe như đâu đó từ xa, rất xa, và mỗi lúc một nhỏ dần...

                              Một chàng trai đem lòng yêu cô gái
                              Nhưng cô kia yêu người khác; và rồi
                              Người khác ấy lại yêu cô gái khác,
                              Để nàng buồn và thất vọng khôn nguôi.

                              Còn sau đó, vì thất tình, cô gái
                              Không mảy may kén chọn, đã lấy chồng
                              Thành bất hạnh; và chàng trai cũng vậy,
                              Phải suốt đời đau khổ, phải chờ mong...

                              Câu chuyện trên không có gì mới lạ.
                              Bao đời nay thường vẫn thế - Có điều
                              Nếu xẩy ra với chính ta, ta sẽ
                              Biết thế nào là cái giá tình yêu.                                                            

(1). Thơ Henric Hainơ (Henric Heine, Đức,  1797 - 1856).
(2). Thơ Vichto Huygô (Victor Hugo, Pháp, 1802 - 1885). Tất cả các bài thơ trong truyện này cũng như cả tập sách đều do tác giả dịch. Xem "Thái Bá Tân. Thơ dịch", NXB Lao Động, 2001.
Hà Nội, 9. 4. 2002


SA PA MÂY PHỦ

Họ đến Sa Pa lúc trời gần tối. Mặt trời tháng Ba khuất sau núi, ánh lên một vầng sáng màu da cam lạnh và buồn. Cả không khí cũng đượm buồn, cái buồn vắng người và vùng núi quá ư yên tĩnh. Từ ô tô nhìn xuống, một vài ngôi nhà mới xây mái đỏ tường trắng trông lạc lõng giữa một màu xanh thẫm sũng hơi sương.
Ngồi sau tay lái là một người đàn ông đứng tuổi đeo kính trắng mắt dày chứng tỏ ông cận nặng, nét mặt hiền hậu tuy khắc khổ. Vợ ông, một phụ nữ bé nhỏ còn giữ được vẻ đẹp thanh thoát thời trẻ, ngồi phía sau, lơ đãng nhìn ra ngoài. Cả hai có vẻ giàu có, đáng kính, thể hiện qua cách ăn mặc, điệu bộ, và cả chiếc Ford Mondeo màu đen bóng, loại ô tô Mỹ nổi tiếng mới thấy xuất hiện ở Hà Nội.
“Tôi không hiểu ông lên đây làm gì. Trời lạnh thế này.”
Bà nói khi hôm sau hai người ngồi ăn sáng ở khách sạn sang nhất của thị trấn trên một ngọn đồi. Mà quả rét thật. Bà ngồi co ro, quàng lên người chiếc khăn len to màu xanh nhạt. Như thường lệ khi ngủ dậy, bà trang điểm chút ít, đúng kiểu người già quen ăn diện nhưng ý tứ.
Ông lặng yên cầm chai rượu vang rót vào hai chiếc li chân cao, một lúc sau mới đáp:
“Có lẽ bà nói đúng, nhưng tôi không muốn đi nơi khác. Vả lại ở đây tôi có chút kỷ niệm...”
“Kỷ niệm? Sao ông không bao giờ kể tôi nghe?”
“Tại tôi nghĩ bà không cần biết, không muốn biết. Chuyện xưa ấy mà.”
“Hôm nay tôi thấy ông như buồn buồn điều gì. Chắc vì cái kỷ niệm ấy?”
Ông không đáp, lại rót rượu cho mình.
“Một thiên tình sử lãng mạn? Một thôn nữ xinh đẹp và hoang dã?” Bà khẽ cười, pha chút châm biếm.
“Ừ, không hoàn toàn nhưng cũng gần như thế. Một cô gái người Thái, xinh đẹp, nồng cháy và pha chút ít hoang dã như bà nói.”
“Sao ông không lấy cô ta làm vợ?”
“Vì tôi biết sẽ gặp bà, lấy bà”.
“Cảm ơn. Ông kể nghiêm túc cho tôi nghe với nào”. Khi thấy chồng cứ mân mê mãi ly rượu, bà nói thêm: “Hay đấy, tự mình khơi chuyện rồi lại im lặng không chịu nói gì nữa.”
“Thực ra chẳng có nhiều để nói. Vì chúng tôi quen nhau được ba tháng thì cô ấy chết. Thời gian yêu nhau còn ít hơn”.
“Chết?” Bà định hỏi vì sao nhưng lại thôi.
Ông cũng chẳng nói gì thêm.
Mặt trời đã nhô lên quá hàng cây trước khách sạn, vất vả lắm mới chui ra khỏi đám mây dày đặc. Gió se se thổi. Xa xa phía dưới, những mảng sương mù mỏng màu trắng đục như đứng yên một chỗ nhưng ông biết chúng đang trôi chầm chầm vì có gió. Còn ở đây thì không có sương mù, chỉ ẩm ướt, trên lá cây lấm tấm những giọt nước nhỏ. Không khí trong lành, thoang thoảng mùi gì đó ông không tìm được tên gọi.
“Tôi định tới đó.” Ông lại lên tiếng khi cô hầu bàn mặc áo dài màu hồng vừa bê bát đĩa đi, chỉ chừa lại chai rượu và hai chiếc cốc. “Bà có đi với tôi không?”
“Tới đó là tới đâu?”
“Bản Vẹo. Ngày xưa tôi được phân về dạy học ở đó, nơi tôi đã gặp và yêu cô ấy... Cách đây chỉ mươi cây số, nhưng đường xấu”.
“Không. Ông đi đi. Hôm nay tôi mệt”, bà nói rồi đứng dậy bỏ lên phòng.
Đã qua cái thời có thể ghen tuông, vả lại thực ra chẳng có gì để ghen, nhưng bà vẫn thấy ấm ức vô cớ. Bà sống với ông ba mươi năm nay, có thể nói yên ấm, hạnh phúc. Ông là người chồng tốt, chu đáo với vợ con, nhưng với nhạy cảm của người đàn bà tinh tế, bà biết hình như suốt chừng ấy năm vẫn có cái gì đấy, ai đấy đứng xen giữa vợ chồng họ. Bà nhiều lần cố đoán mà không đoán ra. Bây giờ bà biết người ấy là ai. Dẫu không nhỏ nhen cố chấp, bà vẫn không kìm được thái độ hờn dỗi của mình. Ông biết. Bản thân ông cũng không thực sự muốn vợ đi cùng, chỉ lờ mờ thấy như mình có lỗi.
Quả đường xấu thật, gồ ghề và nhão nhoét. Có lẽ hôm trước vừa có mưa. Chiếc ô tô lấm đầy bùn, và phải sau hơn một giờ mới tới được nơi cần tới.
Ông bước ra khỏi xe, ngồi phệt xuống phiến đá giữa đám cỏ ướt bên chiếc hồ nhỏ nước nông và trong, để lộ lớp đáy bùn màu gạch.

                                                  * 
Đó là một ngày mưa tầm tã vào đầu tháng Chín năm 1967, khi tốt nghiệp xong Đại học Sư phạm anh được phân về vùng này. Vì lý do sức khỏe, cụ thể mắt cận ba đi-ôp, người ta không gọi anh nhập ngũ như nhiều bạn cùng lớp.
Ra đi từ sáng sớm với chiếc ba lô con cóc toòng teng trên lưng, mãi gần tối mới đến được nơi cần đến, trường cấp ba Cẩm Yên, nhưng anh chẳng thấy ai trong mấy ngôi nhà nứa tuềnh toàng ở đấy, đành hỏi thăm nhà ông chủ tịch xã định xin ngủ qua đêm rồi sau hẵng hay. Lại phải đội mưa dẫm bùn thêm ba cây số nữa để đến nhà ông chủ tịch.
Hóa ra ông này đã biết anh sẽ đến và được giao nhiệm vụ tìm cho anh một nhà dân để ở trọ vì trường không có nhà riêng cho giáo viên. “Tìm nơi nào kha khá một chút. Tay này dân Hà Nội gốc, có thể khó tính đấy!”
Bản Vẹo của ông sống qui tụ, người Kinh nhiều hơn người Thượng do trước đây có nông trường chè gần đấy, nay đã giải thể. Ông người Thái, vợ ông vốn là một trong những cô gái từ dưới xuôi lên, làm việc ở nông trường ấy. Cả buổi chiều trước đó ông đau đầu không biết phải bố trí “anh chàng Hà Nội khó tính” này ở đâu. Trong bản nhà nào cũng nghèo. Thêm chiếc giường không khó, chỉ ăn uống, sinh hoạt, vệ sinh mới phiền. Lại thêm cái chuyện năm ngoái có anh giáo viên miền xuôi, cũng của trường Cẩm Yên, léng phéng với một cô gái trong bản, có chửa, bị đuổi việc rồi lặn đi đâu mất. Không khéo rồi anh chàng này cũng gây tai họa. Tuy nhiên, là người đứng đầu địa phương, lại vốn sĩ không muốn “người ta” khinh thường xã mình, cuối cùng ông quyết định cho anh ta sống ngay trong nhà ông, một gia đình tự ông đánh giá có văn hóa nhất và khá nhất trong cả xã. Tạm thời thế đã rồi sau ông sẽ dựng cho trường mấy gian nhà tranh làm chỗ ở của giáo viên.
Ngôi nhà “nhất xã” ấy có tường xây, trát vữa một mặt phía trong, mái ngói hẳn hoi dù đôi chỗ dột, đuồn đuỗn bốn gian nhỏ như nhà tập thể. Anh được ở gian trống cuối, nơi có chiếc cửa sổ không cánh che bằng vải nhựa nhìn ra một bãi sắn. Xa hơn tí nữa là chiếc hồ nhỏ bình thường nhưng với anh lại rất thơ mộng. Nhà ít người so với dân trong vùng, ngoài ông chủ tịch xã còn có vợ ông, một người đàn bà quê Hưng Yên, hơn bốn mươi tuổi, ít nói, có vẻ một thời xinh đẹp nhưng bây giờ gầy đét, da xám như người bị sốt rét lâu ngày. Anh thấy hai đứa trẻ, một cậu bé khoảng mười ba và đứa con gái thò lò mũi xanh. Nghe nói còn đứa nữa, đã lớn nhưng lúc anh đến không có nhà.
Anh tắm giặt, thay quần áo xong và đang ngồi uống nước, nói chuyện với ông bà chủ tịch thì có người bước vào nhà. Bên ngoài trời vẫn mưa nặng hạt. Lúc ấy đã tối hẳn và căn nhà được chiếu sáng bằng chiếc đèn bão to như quả dưa bở, bóng ám muội do lâu ngày không lau. Trong góc phòng thấy treo chiếc đèn măng-xông chắc chỉ dành cho những dịp long trọng phục vụ nhiều người.
“Cái Bình, con gái tôi đấy,” ông chủ nhà nói. Có vợ người Kinh, mấy năm đi bộ đội, lại làm chủ tịch xã xuống huyện hội họp thường xuyên nên ông đã bị “xuôi hóa” từ lâu, dễ nhận thấy qua cách cư xử, nói năng và cách đặt tên cho con. “Năm nay xong lớp mười, tốt nghiệp phổ thông còn chưa biết làm gì, đi đâu đây.” Rồi ông quay sang con gái: “Đây là thầy Thọ mới từ Hà Nội lên. Sẽ dạy trường con đấy.”
Cô gái lúng búng “chào thầy’’, quay sang nhìn anh, rùng mình hất mái tóc dài về phía sau rồi đi xuống bếp.
Dưới ánh đèn dầu tù mù anh kịp nhận thấy một khuôn mặt tuyệt đẹp, đẹp đến mức khiến anh sững sờ chốc lát. Nó khác hẳn vẻ đẹp thường thấy ở các cô gái đẹp thủ đô. Có cái gì đó mới mẻ, tinh khiết, bí ẩn, thậm chí hoang dã. Khuôn mặt xinh đẹp ấy đang ướt sũng nước mưa (không hiểu sao cô đi đâu về không mũ nón gì cả), bộ quần áo mỏng dính chặt cơ thể con gái mới lớn với những đường nết thật mềm mại và gợi cảm. Anh có cảm giác như nhìn thấy da thịt cô qua lớp vải ướt. Có thể cái nhìn ấy làm cô xấu hổ cúi mặt. Cũng có thể chỉ do anh tưởng tượng vì lúc đó đang ở trong một cơn sốc thực sự, sốc trước vẻ đẹp ngỡ ngàng, bất ngờ. Đôi chân cô để trần, cũng rất trắng và đẹp, theo đó, nước từ người chảy xuống thành vết loang lấp lánh dưới ánh đèn.
Đêm ấy và nhiều hôm sau anh còn bị ám ảnh mãi bởi cuộc gặp lần đầu này. Anh giật mình lo lắng khi phải tự thú rằng hình như anh yêu cô, yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên như người ta vẫn nói. Xưa nay anh không tin vào kiểu tình yêu sét đánh như thế. Anh nghĩ có lẽ do tính anh dễ xúc động, do bị choáng chút ít vì đi đường mệt và thời tiết, rồi mọi việc đâu sẽ vào đấy. Nhưng anh nhầm...
Trường cấp ba Cẩm Yên chỉ vẻn vẹn một lớp mười, hai lớp chín và ba lớp tám. Anh được phân dạy sử, kiêm luôn cả môn địa lớp tám và chín. Thời ấy không chỉ học sinh ít mà thầy cũng thiếu. Việc giảng dạy chẳng mấy vất vả. Chỉ buồn, cái buồn miền núi suốt ngày chẳng có gì làm, chẳng đi đâu, chẳng biết nói chuyện với ai. Thêm vào đó, trời hay mưa, không mưa thì sương mù dày đặc, da thịt luôn ẩm ướt như đổ mồ hôi mùa hè. Không khí có mùi gì như mùi mốc, lắm lúc thấy buồn nôn. May anh mang theo mấy cuốn tiểu thuyết, chủ yếu tiểu thuyết cổ điển Nga, trong đó có cuốn Tội ác và Trừng phạt của Đôtxtôiepxki, anh đọc nhiều lần đến mức bị ám ảnh muốn tự mình phạm một tội ác nào đó. Có cả cuốn Axia của Tuốcghênhép mà anh thấy Bình, cô con gái ông chủ tịch xã, na ná giống một nữ nhân vật trong đó.
Anh và Bình ít gặp nhau, ngoài một ngày hai bữa ăn trưa và tối, ít khi có ăn sáng. Buổi sáng đi học, buổi chiều hôm nào cô cũng theo mẹ lên đồi trồng gì ngoài ấy đến tối mới về. Trong bữa ăn, từ khi có anh, cô thường cúi mặt hoặc nhìn đi nơi khác. Nói chuyện thì hầu như không, ngoài những câu chào hỏi bắt buộc. Chính điều này khiến anh, có thể cả bố mẹ cô nữa, đoán hiểu cô không thờ ơ với anh. Đôi khi anh thấy Bình nhìn trộm mình, và lần nào ngẫu nhiên gặp nhau má cô cũng đỏ bừng. Còn anh thì bây giờ, được quan sát kỹ hơn, bình tĩnh hơn, anh càng thấy cô xinh đẹp và đặc biệt hấp dẫn, như con thú nhỏ vừa nhút nhát, vừa có cái gì đấy mãnh liệt vụng về che giấu bên trong.
Tất nhiên anh phải cố giữ kín tình cảm thật của mình, làm như không để ý tới cô, chỉ thỉnh thoảng giúp cậu em làm bài khi cần. Cậu này học dốt nhưng thích đọc sách, có thể do vậy nên rất quí anh, vì với cậu, anh là nguồn sách vô tận. Thỉnh thoảng, theo yêu cầu của bà mẹ, anh nói nếu Bình có gì không hiểu, anh làm giúp, nhưng lần nào cô cũng lặng lẽ lắc đầu. Anh chẳng hiểu ý bà thế nào. Có thể vô tình, cũng có thể lo xa, bà nghĩ tới cuộc hôn nhân tương lai giữa con gái bà và anh chàng thư sinh Hà Nội đẹp trai, lại là ông giáo, cái nghề rất được coi trọng ở vùng này. Suy cho cùng, điểm mặt tất cả, bà thấy ở đây chẳng ai xứng đáng hơn. Chắc bà cũng nhận thấy tình cảm của anh đối với Bình. Còn ông bố thì không quan tâm, hay ít ra tỏ vẻ không quan tâm. Có lẽ ông cũng không phản đối. Con ông đã mười tám, cái tuổi nên lo chuyện chồng con. Anh cũng mới hăm hai. Ông chỉ sợ như anh chàng năm ngoái, làm con người ta ễnh bụng rồi lặn mất tăm. Vậy là có vẻ như mọi chuyện thuận lợi, nhưng anh vẫn chưa dám. 
Một hôm đi đâu về, anh chợt thấy Bình chạy bổ từ trong nhà ra, bối rối và xấu hổ. Hình như từ phòng anh. Anh vội bước vào và thấy một mẩu giấy nhỏ trên bàn xé từ cuốn vở học trò. “Tối nay em chờ anh bên hồ”.
Anh ngồi thừ trên ghế, ngạc nhiên và mừng lo lẫn lộn.
Bữa ăn tối diễn ra như thường lệ. Bình không một lần nhìn anh. Ăn xong, cô bảo mẹ sang nhà bạn học bài rồi đi luôn. Vì thỉnh thoảng vẫn đi dạo vào buổi tối nên anh có thể ra đi mà không bị ai nghi ngờ. Khốn nỗi hôm ấy cậu em cứ nằng nặc nhờ giải giúp bài toán khó, nên khi anh rời khỏi nhà đã gần chín giờ.
Đầu tháng, trăng bàng bạc, mỏng và ẩm ướt. Bốn bề yên ắng, chỉ buồn buồn tiếng côn trùng đâu đó vọng lại. Anh bước nhanh qua bãi sắn về phía hồ, tim đập mạnh vì hồi hộp, thậm chí không nghĩ tới hậu quả, không nghĩ gì ngoài việc có người đang chờ anh bên hồ.
Bình ngồi trên tảng đá lớn trên bờ. Bên cạnh có tảng khác nhỏ hơn. Cả hai đều trơn nhẵn do mưa gió và cả do người ngồi. Anh từng nhiều lần ngồi lên đó, vào buổi chiều chứ không phải ban đêm thế này, và tất nhiên chỉ một mình. Cô ôm gối, đầu cúi gục, im lặng cả khi anh lên tiếng gọi. Anh lại gần, khẽ đặt tay lên vai cô và biết cô đang khóc. Anh ngồi xuống cạnh, hồi lâu không biết nói gì, cuối cùng nhẹ nhàng nâng đầu cô lên và hôn vào đôi mắt  ướt.
“Người ta nói con gái dân tộc mãnh liệt lắm”, anh nghĩ. “Nhưng để chủ động hẹn thế này thì chắc Bình phải yêu anh ghê gớm, đấu tranh ghê gớm và cũng bất chấp ghê gớm”.
“Anh yêu em! Yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên như trong tiểu thuyết.” Anh nói một cách giản dị rồi cười thành tiếng, cố lấy vẻ thật tự nhiên. Hình như tiếng cười này giúp cả hai vượt qua sự lúng túng ban đầu.  
Anh vòng tay ôm cô, xoay về phía mình. Người cô run lên như bị sốt.
“Em có yêu anh không?”
Cô khẽ gật đầu, áp mặt vào ngực anh. Hai người im lặng hồi lâu.
“Cũng từ cái nhìn đầu tiên?”
“Không. Phải mấy ngày sau. Rồi em trở thành như đứa mất hồn”, cô nói, cũng thật giản dị. “Anh không nhận thấy à?”
“Có”, anh đáp. Thực ra anh không nhận thấy gì, lại càng không biết cô “mất hồn” vì anh.
“Còn em, em có biết anh rất yêu em không, yêu ngay từ đầu?”
“Có. Và em chờ. Sao anh không nói gì với em? Sao anh bắt em chờ lâu thế, cho đến lúc không chờ được nữa...”
“Tại anh sợ. Dẫu sao cũng mới ba tháng. Anh sợ mọi người nghĩ anh như anh chàng năm ngoái. Nhưng ngay ngày mai anh sẽ nói chuyện với bố mẹ em...”
“Đừng. Khoan đã.” Cô ngước nhìn lên, nghiêm túc hỏi: “Anh sẽ cưới em chứ?”
“Tất nhiên.”
“Anh thề đi.”
“Không cần thề”, anh cười. “Anh cũng mất hồn vì em. Không phải mấy ngày sau mà ngay từ hôm đầu mới gặp. Tất nhiên anh sẽ lấy em. Còn em?”
“Em là con gái. Không cần hỏi”.
Hai người lại im lặng, rồi anh nói, thật thà đến mức ngây ngô nhưng không ai để ý đến sự ngây ngô ấy:
“Vậy là chúng ta yêu nhau và sẽ lấy nhau.”
“Vâng. Rồi anh sẽ đưa em về Hà Nội? Em thích được sống ở Hà Nội. Ở đây buồn lắm”.
“Anh sẽ đưa em về Hà Nội. Mà thôi, ta phải về kẻo mọi người nghi”.
Hai người đứng dậy. Chỉ lúc này họ mới hôn nhau. Một cái hôn vụng về. Anh thấy người cô nóng rực và run run.
“Mai ta lại ra đây nhé?”
“Ừ, mai.” Anh đáp, và hai người lại hôn nhau.
Trăng có vẻ mờ hơn, sương cũng nhiều hơn như muốn che họ khỏi những con mắt tò mò.
Những ngày tiếp theo đêm nào họ cũng hẹn gặp nhau bên hồ mà không ai biết, hoặc có thể biết nhưng giả vờ không. Tuy nhiên, bây giờ, khi nhà vắng người, họ có thể vui vẻ nói chuyện với nhau, hôn nhau trong niềm hạnh phúc ngây ngất.
Một tối nọ, khi hai người vừa ra tới hồ, cô bảo anh:
“Ta xuống tắm đi!”
Anh chưa kịp trả lời thì cô đã nhanh nhẹn cởi hết quần áo, ngay trước mặt anh mà không chút e thẹn, rồi một mình lội xuống nước.
“Con gái miền núi hồn nhiên thật.”
Anh thầm nghĩ và mỉm cười một mình, nhưng không xuống tắm, lại càng không muốn tắm truồng. Không hiểu sao anh thấy ngượng, dù ý nghĩ được tắm truồng với người yêu dưới đêm trăng thật hấp dẫn. Thích nhưng vẫn ngượng, vì tính anh vốn nhút nhát và hay cả thẹn.
Mười lăm phút sau, cô lên.
“Anh lau người cho em đi!” Cô nói rồi ôm ghì lấy anh để nước thấm hết cả quần áo.
Phải nói anh hơi thoáng chút bối rối. Tất nhiên anh hiểu cô muốn gì và anh có thể làm gì. Anh ôm chặt cô. Người anh cũng run lên, hừng hực. Nhưng một lúc sau anh từ từ buông cô ra:
“Em mặc quần áo vào kẻo lạnh”.
Cô ngoan ngoãn nghe theo, rồi họ ra về trong im lặng.
Ba hôm sau anh được biết cô đã viết đơn xung phong ra mặt trận và sắp lên đường.
“Trời! Sao em làm thế?” Anh kêu lên, gần như hoảng hốt.
“Cả lớp viết. Người ta chỉ chọn ba đứa. Em là lớp trưởng nên được chọn”.
“Em muốn bỏ anh mà đi thật à?”
“Không. Em không muốn đi. Nhưng em là lớp trưởng... Em muốn ở lại với anh.”
“Vậy sao xung phong?”
“Cả lớp xung phong...”
Cô thút thít khóc. Không biết nói gì hơn, anh ôm cô vào lòng như sợ buông ra, cô sẽ biến đi mất.
“Hay anh và em cùng bỏ trốn? Vào rừng chẳng hạn. Em biết một chỗ rừng rậm lắm, không ai tìm thấy đâu.” Cuối cùng cô ngước nhìn anh, giọng nghiêm túc.
Anh thấy buồn cười với ý nghĩ trẻ con ấy.
“Không được. Phải tìm cách khác. Không có em, anh chết mất. Mà em cũng có thể chết. Chiến tranh không đùa với ai đâu...”
“Em không sợ chết. Chỉ sợ xa anh”, cô trầm ngâm một lúc rồi nói: “Mà có chết cũng chẳng sao. Em sẽ chờ anh dưới ấy!”
“Em chỉ nói vớ vẩn. Chết thế nào được.”
“Em nói thật mà. Nếu ra đi và không may phải chết, em sẽ chờ anh dưới ấy. Chờ suốt đời. Em sẽ không yêu ai, không lấy ai cả. Anh không thích em làm thế sao?”
Anh không đáp, chỉ ôm chặt cô hơn và hôn tới tấp khắp mặt cô.
Hôm ấy là đêm cuối cùng trăng còn sáng. Trăng đang bị mây che khuất phía đằng tây. Không hiểu sao đám mây có màu vàng bệch và ung ủng.
Một tuần sau cô lên đường. Được nửa tháng thì có tin cô chết khi đoàn xe chở cô và những cô gái như cô bị trúng bom lúc đang vượt cầu Hàm Rồng.

                                                  *
“Ông nghĩ ngợi gì thế? Ăn đi kẻo nguội”. Bà nói bên bàn ăn sáng ngày hôm sau.
“Chẳng nghĩ gì cả”, ông thờ ơ đáp. “Hôm nay Sa Pa nhiều mây quá.”
“Sa Pa thì lúc nào chẳng vậy.”
“Ừ, nhưng hôm nay nhiều hơn. Bà không thấy thế sao?”
“Tôi thấy bình thường. Chỉ có ông không bình thường. Lại chuyện nàng kia, cái nàng người Thượng xinh đẹp và hoang dã ấy chứ gì?”
Ông lặng thinh rót đầy cốc rượu cho mình. Không hiểu đã là cốc thứ mấy. Đúng, ông đang nghĩ về Bình, mối tình đầu ngắn ngủi, đẹp đẽ và đau đớn. Thực ra suốt mấy mươi năm qua lúc nào ông cũng nghĩ đến nó. Chuyện chỉ có thế. Đơn giản mà thật chua xót. Đúng như ông nói với bà: quen nhau ba tháng, yêu nhau còn ít hơn. Thậm chí chưa có cả “chuyện ấy”. Thế mà với ông, nó là mối tình đẹp nhất, quan trọng nhất, có lẽ còn duy nhất. Ông cảm thấy sau khi người yêu chết, mọi chuyện trở nên vô nghĩa, cả chuyện sau này ông lấy vợ và sống “hạnh phúc” với bà trong con mắt của nhiều người. Đúng, có thể ông quá đa cảm, có thể quá nâng niu, thi vị hóa những kỷ niệm cũ, nhưng quả thực ông không thể nào quên dù nhiều lần đã cố.
Hôm qua ông ngồi gần như suốt ngày trên tảng đá nơi cô chủ động hẹn ông đến. Ông ngồi, nhớ lại lần đầu nhìn thấy cô trong cái đêm mưa gió ấy. Khuôn mặt xinh đẹp hớp hồn của cô. Đôi mắt to tròn. Bộ quần áo ướt mỏng dính bám sát cơ thể mảnh mai với những đường cong tuyệt mỹ dẫu chưa phát triển hoàn toàn. Ông nhớ những cái hôn, những trò đùa nghịch trẻ con. Nhớ lần cả hai đứa hốt hoảng giật bắn người khi đang hôn nhau thì bất chợt ông bố về, may chưa kịp nhìn thấy. Tất nhiên nhớ cả đêm trăng cuối cùng bên hồ, khi cô trần truồng trong vòng tay ông, sẵn sàng hiến dâng mà ông đã ngu ngốc chối từ. Điều này đặc biệt làm ông day dứt. Chắc lúc ấy cô xấu hổ và giận ông lắm. Ông thấy thương cho cô và cả cho mình rằng chuyện ấy đã không xẩy ra. Mà cô thì chỉ mấy ngày sau đã chết.
“Chắc hôm qua ông vào thăm gia đình cô ấy?” bà hỏi.
“Chẳng còn ai nữa. Hai năm sau cái chết của con gái, ông bố người Thái chết vì ung thư. Bà vợ người Kinh đưa hai con về quê cũ Hưng Yên. Thỉnh thoảng tôi có tới thăm, nhưng điều ấy chẳng liên quan gì đến chuyện này”.
“Ông chưa kể tôi nghe vì sao cô ấy chết?”
“Chưa à? Đơn giản thôi. Xung phong ra trận. Chưa đánh đấm gì thì cả xe chở mấy chục cô gái học sinh bị trúng bom ở Hàm Rồng. Chết hết. Đó là điều khủng khiếp nhất của chiến tranh. Bà hài lòng chưa?”
“Ông thô lỗ quá đấy!”
“Ừ, tôi xin lỗi”.
“Mà sao ông uống nhiều vậy? Từ nãy đến giờ tôi đếm được năm cốc rồi đấy.”
“Xin lỗi. Đây là cốc cuối cùng”.
“Không lẽ suốt mấy chục năm qua ông không thể nào quên được cô ấy?”
“Không.”
“Và vẫn yêu cô ấy?”
“Vẫn.”
“Tức là suốt chừng ấy năm ông sống với tôi mà luôn nghĩ đến người đàn bà khác?”
Không chờ câu trả lời, bà đột ngột đứng dậy bỏ lên phòng.
“Tôi xin lỗi bà. Không hẳn như vậy. Tôi cũng yêu bà. Nhưng đó là chuyện khác. Xin lỗi!” Ông nói khi chỉ còn lại một mình, với tay lấy chai rượu.
Buổi chiều hôm ấy họ trở về Hà Nội. Bà ngồi sau tay lái với lý do ông chưa tỉnh hẳn rượu. Ông ngồi phía sau, lờ đờ nhìn ra ngoài. Vẫn cảnh cũ Sa Pa mây phủ trắng. Bất chợt ông có cảm giác như đâu đó dưới những đám mây ẩm ướt kia có ai đang đứng chờ ông. Chờ đã lâu. Chờ một cách mòn mỏi và đau đớn.
“Em sẽ chờ anh dưới ấy”.
Cô Bình ngày xưa của ông đã nói như thế. Con gái miền núi kỳ lắm. Đã nói nhất định thế nào cũng làm.
Hà Nội, 21. 5. 2003
                                                           
          
CHỜ ĐỢI
                                       
Như rất nhiều những cặp vợ chồng khác thời chiến tranh, họ lấy nhau, ở với nhau một thời gian rồi mỗi người một nơi, chồng chiến trường, vợ hậu phương. Và cũng như hầu hết những người vợ khác cùng cảnh ngộ, nữ nhân vật câu chuyện của chúng ta phải chịu đựng tất cả những gì chiến tranh có thể bắt người phụ nữ chịu đựng. Một mình làm lụng nuôi mình, nuôi con, nhớ thương và chờ đợi. Chờ lặng lẽ, tấm tức, chờ cho tới khi cuối cùng chồng trở về, nếu may mắn còn sống để trở về, hoặc tới khi có người mang đến tờ giấy báo tử. Cũng chẳng gì lạ. Bao đời nay ngưòi phụ nữ Việt Nam vẫn phải chịu đựng như vậy. Ở nơi khác việc này có thể mang một ý nghĩa quan trọng hơn, có màu sắc bi thương hơn, nhưng ở Việt Nam nó là chuyện bình thường. Bình thường vì nó xẩy ra với quá nhiều người, quá thường xuyên, đến mức dần dần bị xem gần như việc đương nhiên. Thật chua xót và cũng thật đau đớn khi những bi kịch bị biến thành chuyện thường nhật, đến mức nhiều người không nhận thấy cái giá rất đắt người phụ nữ Việt Nam phải giả cho hai chữ chung thủy và đảm đang họ được nêu gương để cả thế giới khâm phục.
Nếu không là hàng xóm trực tiếp chứng kiến những gì xẩy ra, bản thân tôi cũng khó tin câu chuyện sắp kể là có thật, dù suy cho cùng nó vẫn chỉ là một trong vô số những trường hợp tôi vừa nói, bình thường và ít ai chú ý.

                                                                    *
Hai người đều dân Hà Nội gốc và thuộc con nhà gia giáo, có học. Họ cưới nhau chưa đầy một tháng thì cách mạng bùng nổ. Lúc đó anh vừa tốt nghiệp trường luật. Theo dự định, bố anh, một luật sư nổi tiếng và giàu có, sẽ gửi anh sang Pháp tập sự một thời gian rồi trở về làm việc ngay trong văn phòng ông, dưới sự che chở của chính ông. Trước đó mọi việc với anh đều suôn sẻ và chắc sẽ tiếp tục suôn sẻ như thế, nếu không có cách mạng.
Cách mạng biến anh từ một trí thức cậu ấm thành người chiến sĩ trung đoàn Thủ đô, rồi tháng Mười Hai năm 46 anh theo các đồng chí của mình lên chiến khu. Vợ anh ở lại Hà Nội trông coi một cửa hàng nữ trang nhỏ thay cho bố mẹ đẻ đã già. Chị xinh đẹp, nết na, được giáo dục theo lối phong kiến dù xuất thân từ một gia đình buôn bán đã mấy đời nay. Học xong tú tài, chị an phận thủ thường sống lặng lẽ với bố mẹ, chẳng có ước mơ, dự định nào cao xa ngoài mong ước yên bề gia thất, và chị đã được toại nguyện với người chồng chị cho là lý tưởng. Lúc ấy tất nhiên chị chưa thể hình dung nổi trong những năm dài phía trước cái gì đang chờ đợi chị, hay chính xác hơn, chị phải chờ đợi cái gì.
Như những người vợ khác có chồng đi bộ đội, tất nhiên chị chờ chồng. Chồng đi được mấy tháng thì chị sinh con, con gái. Bố mẹ chị lần lượt qua đời chẳng bao lâu sau đó, để lại hai mẹ con chị với cửa hàng ế ẩm thời chiến. Toàn bộ gia đình nhà chồng, phần thất vọng vì có anh con trai duy nhất theo Việt Minh, phần vì sợ chiến tranh nên đã sang Pháp sống từ trước. Họ có cho chị ít tiền gọi là "giúp nuôi cháu". Từ đấy chị chẳng biết tin gì về họ. Còn tin chồng thì thỉnh thoảng vẫn được các liên lạc từ chiến khu mang về. Thư cuối cùng nói anh được phân công tác mới và do vậy từ nay không trực tiếp chiến đấu nữa. Chị lấy thế làm mừng, hy vọng anh sẽ sống để trở về với vợ con khi chiến tranh kết thúc.
Sau chiến thắng ở Điện Biên, chị bắt đầu thấp thỏm chờ đợi, chờ hết ngày này sang ngày khác. Mỗi lần nghe có tiếng chân ngoài ngõ là chị lại cuống lên, bỏ cả việc đang làm chạy ra, để rồi lại thất vọng. Một hôm, khoảng hai tuần sau khi bộ đội vào tiếp quản thủ đô, có người đến đưa cho chị tờ giấy, báo tin "chồng chị đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ".
- Hy sinh? Tức là chết? - cầm tờ giấy trên tay, chị bàng hoàng hồi lâu không nói nên lời. - Nhưng chồng tôi có tham gia chiến đấu đâu mà hy sinh? Có lẽ các anh nhầm...
- Anh ấy hy sinh thế nào quả chúng tôi không biết, nhưng nhầm thì chắc chắn không. Chúng tôi không được phép nhầm trong những việc thế này. - Mấy người kia đáp.
- Các anh có thể cho biết thêm tin tức về chồng tôi được không ?
- Tiếc là không. Chúng tôi chỉ biết anh ấy là người rất tốt, rất dũng cảm, thông minh, rất...  Chị có thể tự hào về anh ấy. Người ta đang làm thủ tục tặng thưởng huân chương cho chồng chị. Lần nữa chúng tôi xin chân thành chia buồn với chị và gia đình. Tổ quốc, nhân dân sẽ không bao giờ quên ơn những người đã đóng góp xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chị hãy can đảm vượt lên mất mát, đau thương mà sống. Khó khăn, tổ chức sẽ giúp đỡ. Xin chào chị.
Mấy người kia ra đi, để chị đứng ngây giữa nhà với tờ giấy định mệnh trong tay. Có lẽ do đã hiểu được ý nghĩa câu chuyện, con gái chị chạy lại ôm áo mẹ khóc. Chị thì lúc này chưa khóc được, nhưng chưa tin hay chưa muốn tin những gì mới xẩy ra.
Mấy ngày sau, với sự hăng hái của một ngưòi đàn bà đang ấm ức muốn biết điều gì đó, chị tìm đến những nơi chị nghĩ cần đến để hỏi thêm về cái chết của chồng. Nếu không may đã hy sinh (là điều chị cảm thấy khó hiểu - anh ấy chẳng bảo đã chuyển công tác và không trực tiếp chiến đấu nữa đấy sao?) thì hy sinh như thế nào và ở đâu, để sau này còn tìm đến bốc mộ đưa về Hà Nội. Người ta không thể không biết điều ấy. Vốn ít nói, hay xấu hổ và rút rát, bây giờ chị như người khác hẳn, đôi khi còn to tiếng cả với người chị đến tìm hỏi. Tuy nhiên, ở đâu chị cũng chỉ nhận được những câu trả lời chung chung như đã nghe ở nhà. Chị đòi được gặp cấp cao nhất, và người ta cho chị gặp.
Đó là một ngưòi đàn ông đứng tuổi gầy đét với nét mặt khắc khổ, giọng dễ nghe và đặc biệt có nụ cười thật dễ mến. Chị hơi ngạc nhiên khi thấy ông ta không mặc quân phục mà chỉ mặc bộ đại cán bình thường, còn mới nhưng hơi rộng so với khổ người.
Ông lắng nghe chị một cách rất chăm chú, không ngắt lời lần nào, chốc chốc lại gật đầu tán thưởng. Được nụ cười dễ mến kia khích lệ, chị nói liền một mạch, nói thẳng hết những điều chị nghĩ rồi ngồi im chờ được giải thích.
Ông "cấp cao nhất" ấy không trả lời thẳng những câu hỏi của chị. Thay vào đó, ông lịch sự mời chị uống nước, lựa lời an ủi thật tế nhị. Rồi ông thong thả nói rất lâu về những thuận lợi và khó khăn của cách mạng trong giai đoạn mới, thậm chí cả về tình hình thế giới, cứ như ông đang thuyết giảng tại một khóa tập huấn chính trị nào đó.
Chị thất vọng, lơ đãng ngồi nghe về những cuộc chiến đấu công khai và bí mật, về việc trong chiến tranh nói riêng và hoạt động cách mạng nói chung điều gì cũng có thể xẩy ra, thậm chí cả những điều không ai nghĩ tới. Ông còn nói về sự hy sinh thầm lặng nào đó của người chiến sĩ, về lòng thủy chung và thái độ biết kiên nhẫn chờ đợi của người vợ... Khi nói những lời này, không hiểu sao ông dừng lại nhìn chị như ngụ ý điều gì.
"Không lẽ ông ta muốn bảo mình tiếp tục chờ đợi, - chị giật mình tự hỏi. - Chờ đợi ai và chờ đợi cái gì khi chính ông ta lúc nãy vừa nhắc lại rằng chồng mình đã hy sinh?" Chị định hỏi nhưng nghĩ thế nào lại thôi.
Tiễn khách ra tận cửa, ông kia đặt nhẹ bàn tay gầy gò của mình lên vai chị và nói thêm, gần như y nguyên câu nói chị đã nghe từ mấy người nọ hôm mang giấy báo tử đến nhà.
- Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi công những người đã hy sinh cho cách mạng. Chị hãy can đảm vượt lên đau thương, mất mát mà sống. Có gì khó khăn, chúng tôi sẽ giúp đỡ. Xin chị biết cho, chúng tôi luôn bên cạnh chị.
Chị  không thật hiểu ông ta nói thế nghĩa là gì. Cả những lời lúc nãy cũng không hiểu. Lúc đầu chúng quả có làm lóe lên đôi chút hy vọng, rằng biết đâu chồng chị có thể chưa chết nhưng vì lý do tế nhị nào đó người ta không muốn chị biết sự thật. Hay anh ấy mất tích, đào ngũ, hoặc thậm chí phản bội chạy sang phía giặc? Nếu vậy sao còn định tặng huân chương? Chị biết xưa nay gia đình những kẻ phản bội bị phân biệt đối xử rất nặng.
Lễ truy điệu và truy tặng huân chương cho chồng chị được tổ chức cùng một ngày, đủ đại diện các cấp, rất long trọng và đúng nghi thức. Chị cảm thấy hình như có chút phô trương cố ý.
Thất vọng vì sau khi đã gặp "cấp cao nhất" mà chẳng biết thêm điều gì, chị đành cam chịu không tìm hỏi nữa, dù chưa hết nghi hoặc. Rồi thời gian và cuộc sống vất vả và những lo toan hàng ngày cũng làm chị nguôi ngoai dần. Chị lặng lẽ sống cùng con gái như bao gia đình khác thời ấy. Với tư cách là vợ liệt sĩ, đều đặn mỗi năm hai lần, vào dịp tết âm lịch và ngày 27 tháng Bảy, chị đón khách đến thăm hỏi và tặng quà, trong đó có cả ông cấp cao với nụ cười dễ mến. Không bao giờ ông quên động viên chị "vượt lên đau thương mất mát để tiếp tục sống". Có lần ông còn nhắc đến cả hai tiếng chờ đợi. Nhưng chị đã không còn băn khuăn vì nó.
Qua mấy đợt cải tạo thương nghiệp, cửa hàng nữ trang nhỏ bé của chị vẫn được để yên như theo lệnh ai đó từ trên xuống. Tuy nhiên, do khó khăn vật chất thời hậu chiến và do cả lối sống mới xã hội chủ nghĩa khắc khổ, mặt hàng nữ trang trở thành thứ xa xỉ không cần thiết. Chị mấy lần định chuyển sang nghề khác mà chưa được. Không ít lúc chị lâm vào cảnh túng quẫn thực sự, và, thật kỳ lạ, những lúc ấy chị thường gặp may bất ngờ. Thí dụ đang khi cửa hàng ế ẩm nhất thì bỗng có ông khách đến mua với khối lượng lớn mà chẳng cần mặc cả. Hoặc đi trên đường, chị bất ngờ nhặt được chiếc ví đựng đầy tiền. Vốn trung thực, chị mang nộp đồn công an. Mấy ngày sau công an lại đem nó đến cho chị, bảo không tìm được người mất, chị cứ giữ  mà dùng.
Lúc đầu còn cho là chuyện ngẫu nhiên, nhưng sau nhiều lần, chị đâm nghi. Chị chợt nhớ những lời bóng gió "chúng tôi luôn ở bên chị và giúp đỡ khi cần thiết" người ta đã nói. Nếu vậy sao không đàng hoàng mà giúp lại phải dùng đến cách lén lút đáng ngờ ấy? Chị nhớ có lần đi chợ về, thấy một người đàn ông đánh rơi cái gì đó xuống đường, chị cúi nhặt lên. Lại chiếc ví đựng tiền. Chị vội vã kêu to, đạp xe theo người kia để trả lại, nhưng anh ta cố tình không nghe rồi phóng xe mất hút như bị ma đuổi.
Chị biết ơn những người giúp đỡ chị, tất nhiên, nhưng không thích và thực sự không muốn được tiếp tục giúp theo cách này. Nó có cái gì đấy bí ẩn, mờ ám và đáng sợ. Nhưng bất chấp ý muốn của chị, thỉnh thoảng chị vẫn có khách sộp, thỉnh thoảng vẫn nhặt được tiền. Có điều, chị không còn mang lên đồn công an nữa.
Năm tháng cứ thế lặng lẽ trôi qua. Chị cũng lặng lẽ hòa mình vào nhịp sống chung của toàn xã hội. Các kỷ niệm xưa cứ phai dần, phai dần. Thực tế nghiệt ngã bắt người ta phải sống bằng hiện tại, và chị đang sống với nó. Tự chị cũng lấy làm ngạc nhiên rằng càng ngày chị càng ít nghĩ về chồng. Bây giờ chị thực sự tin anh đã hy sinh và đã thôi chờ đợi. Điều này làm chị thanh thản. Thế mà đúng lúc chị tưởng đang được hưởng sự thanh thản ấy thì người ta lại đến để nhắc chị về anh, về cách mạng với những hy sinh cao cả mà nó đòi hỏi ở mọi người. Lần nữa người ta lại bóng gió nhắc đến hai chữ chờ đợi...
Một hôm, chị khó chịu hỏi thẳng ông "cán bộ cấp cao nhất" khi ông đến thăm và tặng quà như thường lệ:
- Có chuyện gì các anh cứ cho tôi biết hết cả đi, đừng úp mở mãi như thế. Có phải chồng tôi chưa chết và đang làm một nhiệm vụ gì đấy bí mật, đến mức các anh còn giấu cả tôi phải không?
Ông kia ngồi im hồi lâu, mãi đến khi đứng dậy ra về mới nói, giọng buồn buồn:
- Không, chồng chị đã hy sinh. Tôi khẳng định với chị điều này. Nhưng... Chào chị, tôi về.
Lúc con gái chị vừa học hết phổ thông, bỗng bà mẹ chồng từ Pháp về thăm quê trong một đoàn Việt Kiều yêu nước. Bà cụ, lúc này đã già và yếu lắm rồi, khẩn khoản xin chị cho mang cháu sang Pháp học đại học để sống cùng bà cho đỡ buồn vì ông chồng bà đã chết. Thoạt đầu, nghĩ đến việc phải xa con, chị hoảng sợ, vội vàng từ chối. Nhưng trước những lời van vỉ không phải không có lý của mẹ chồng và cũng vì tương lai của con, dần dần chị xiêu lòng. Thời ấy được đi nước ngoài khó lắm, chị biết thế, nên mặc dù đồng ý, chị vẫn thầm hy vọng người ta không cho nó đi. Thế mà nó được đi. Tất nhiên trước đó ông "cán bộ cấp cao" có đến gặp chị để hỏi chuyện này, và chị gật đầu.
Vậy là chỉ còn lại mình chị. Năm tháng tiếp tục trôi qua, lặng lẽ như chính cuộc đời cô đơn của chị. Có lẽ nó vẫn tiếp tục trôi qua như thế nếu không có một người đàn ông xen vào. Đó là ông một cán bộ miền nam tập kết góa vợ, trạc tuổi chị, lúc này đã ngoài bốn mươi. Chị làm quen với ông ở nhà một người bạn. Có thể ngẫu nhiên, cũng có thể do người bạn kia chủ ý sắp xếp. Họ cảm tình với nhau, thân nhau, và sau một thời gian ngắn, ông này "xin được cưới chị làm vợ, nếu chị không có gì phản đối". Ông nói nguyên văn như vậy. Chị thầm cười cách tỏ tình kiểu hành chính của ông, và đã không "không có gì phản đối". Một cuộc sống mới dường như đang mở ra trước chị. Thế mà bỗng nhiên con người vừa hăm hở muốn tổ chức lễ cưới càng sớm càng tốt ấy lại cố tình né tránh chị. Cảm thấy ít nhiều bị xúc phạm, chị quyết định hỏi cho ra nhẽ. Vất vả lắm chị mới tìm gặp được ông ta và hỏi luôn:
- Có người không cho anh lấy tôi à?
Ông kia không đáp, chỉ buồn rầu nhìn chị như người có lỗi. Thế là chị hiểu. Mối nghi ngờ lờ mờ trước đó đã được khẳng định.
Ngay hôm sau chị đến gặp ông "cán bộ cao cấp". Ông này dường như không ngạc nhiên khi thấy tự chị tìm đến, dù đây là lần đầu chị làm thế sau bao nhiêu năm.
- Tại sao các ông không cho tôi lấy chồng ?
- Chị bình tĩnh ngồi xuống, uống với tôi chén nước đã. - Ông kia thong thả đáp. - Chị biết đấy, chúng tôi không có quyền và không thể ngăn ai đó lấy vợ lấy chồng. Chuyện riêng tư mà...
- Nhưng các ông đã không cho anh ấy lấy tôi. Cũng thế cả.
- Anh ấy bảo với chị thế à? Mặc dù tôi chưa biết anh ấy là ai.
- Không, anh ấy không nói thế, nhưng...
- Chị thấy chưa, - đến lượt ông cán bộ ngắt lời chị. - Chúng tôi chỉ mong hạnh phúc cho chị, người vợ thủy chung của một chiến sĩ cách mạng, một phụ nữ...
- Ông nói thủy chung. Suốt đời tôi phải thủy chung với chồng tôi, người đã chết cách đây hai mươi năm hay sao?
Chị vừa nói vừa khóc rồi bỏ chạy ra ngoài. Chị cảm thấy căm ghét con người tốt bụng, bí ẩn và đáng sợ này. Suốt đêm hôm ấy chị nằm tấm tức mãi. Chị trách ông miền nam hèn, trách ông cán bộ độc ác, trách chồng sớm hy sinh, nếu thực sự đã hy sinh, để chị phải suốt đời đau khổ.
Mấy ngày sau, chị lại "tình cờ" nhặt được ví tiền. Không thèm giở ra xem, chị giận dữ vứt nó vào thùng rác bên cạnh.
Chưa đầy nửa năm, lần nữa tình yêu lại đến với chị. Hay đúng hơn, chị chủ động tìm nó. Vốn xinh đẹp, dẫu đã có tuổi, lại dịu dàng, tế nhị, đối với chị chuyện này không khó. Trong chị, sự ấm ức, chua xót của người đàn bà bị xúc phạm tự lúc nào dần dần biến thành sự phản kháng tự nhiên, gần như thách thức. Chị muốn được tự quyết định đời mình và sẵn sàng đấu tranh vì nó.
Người chị yêu và cũng rất yêu chị lần này là một nhà khoa học không hiểu sao bốn mươi lăm tuổi vẫn chưa vợ. Anh cận thị nặng, ít nói và thường hỏi những câu rất buồn cười. Chị thấy yêu yêu cặp kính dày cộp và những câu hỏi ngô nghê ấy. Anh sống độc thân trong căn phòng tập thể mười hai mét vuông, sách vở chiếm hơn nửa. Ấy là chị nghe nói vậy chứ chưa bao giờ đến nhà anh, và cũng không cho anh đến nhà mình.
Chị đã có kinh nghiệm và rất đề phòng. Hai người chỉ hẹn gặp nhau trong công viên hay một hàng kem nào đó. Thường chỉ vào buổi tối. Chị khéo léo che dấu tình yêu một thời gian khá lâu, cho đến một hôm, khi đang đi dạo cùng anh bên bờ hồ Thuyền Quang, linh tính mách chị hình như đang có ai theo dõi phía sau. Để kiểm tra, chị kéo anh ngồi xuống quán nước bên đường. Người kia cũng dừng lại, vờ lơ đãng nhìn quanh. Họ đi, anh ta cũng đi theo. Chị lo sợ, bảo nhà khoa học ngay sáng hôm sau xuống Hải Phòng, quê ngoại chị, và hai người sẽ làm lễ cưới ở đó. Anh kia không hiểu, chỉ lắc đầu cười chị có những ý nghĩ kỳ cục.
Mấy hôm sau, đến lượt nhà khoa học người yêu của chị tìm cách lánh mặt. Anh dài dòng viện đủ lý do thanh minh nhưng chị không muốn nghe. Chị cũng chẳng buồn tìm gặp để chất vấn ông "cán bộ cấp cao" kia nữa. Những năm tiếp theo chị còn vài lần thử tìm hạnh phúc cho mình nhưng lần nào cũng không thành do có sự can thiệp của bàn tay vô hình nào đó chị biết mà chẳng thể làm gì được. Cuối cùng, hoàn toàn mệt mỏi và thất vọng, chị đầu hàng buông theo số phận, nhẫn nhục sống trong đau khổ và "chờ đợi" như người ta mong muốn ở chị. Chờ đợi cái không bao giờ đến.
Nhưng chị nhầm...
                                                                      *
Cuối tháng Năm 1975, có một người đàn ông đến tìm chị, lúc này được gọi là bà. Từ lâu tiếng chân người lạ ngoài cửa đã không còn làm bà chú ý. Thui thủi một mình, bà sống vật vờ như chiếc bóng, như con sâu bị dẫm dưới đế giày không còn ngoi lên được. Có thể vì thế mà bà trông già hơn tuổi, thân hình khô đét, mái tóc bạc gần hết, và trên mặt có nhiều, rất nhiều những nếp nhăn.
- Ai cần gì thì vào đi, cửa mở, - bà thờ ơ nói.
Người ấy là chồng bà. Cả hai đứng lặng nhìn nhau hồi lâu. Họ đã nhận ra nhau, mỗi người đeo đuổi những ý nghĩ riêng và không ai dám lên tiếng trước. Cuối cùng ông nói, khẽ đến mức chính ông cũng không nghe rõ:
- Xin bà hãy tha lỗi cho tôi. Tôi biết bà phải chịu nhiều đau khổ. Tôi thương bà lắm nhưng chẳng giúp được bà điều gì. Bà biết đấy, tôi hoạt động bí mật trong lòng địch. Hoàn cảnh bắt buộc phải thế. Tổ chức cũng rất thương bà, nhưng...
- Không, ông đã lừa dối tôi. Tổ chức của ông cũng lừa dối tôi, hủy hoại cả cuộc đời tôi. Trời ơi, sao các ông ác thế! Tôi có tội tình gì mà các ông nỡ làm tôi khổ thế! - Đôi mắt bà từ nãy đến giờ nhìn trân trân, ráo hoảnh bỗng dàn dụa. Bà khóc. Khóc to mà không sợ hàng xóm nghe thấy.
Chồng bà đứng im, mắt cũng rưng rưng. Ông hiểu. Ông cứ để bà khóc, chừng nào còn nước mắt.
Rồi bà nhìn thẳng vào mắt ông, nói một thôi không nghỉ những gì bị nén trong lòng bao năm nay. Trông bà lúc ấy thật dễ sợ.
- Các ông không chỉ lừa dối mà còn coi thường tôi, khinh tôi. Tại sao người ta không cho tôi biết ông còn sống và đang làm cái việc ông vừa nói? Sợ tôi không giữ được bí mật sao? Sợ tôi tố giác với địch sao? Ông bảo người ta thương tôi. Thương kiểu ấy à? Họ cứ bóng gió bảo tôi chờ đợi. Chờ đợi ai? Chờ đợi cái gì và bao lâu?  Ông tưởng phụ nữ, cả khi trung hậu đảm đang và thủy chung như họ nghĩ, có thể suốt đời chịu đựng được điều ấy sao?  Nếu biết ông chưa chết, tôi sẵn sàng chờ ông, chờ ba mươi năm, năm mươi năm, chờ cho đến khi tôi chết mà không kêu một lời nào. Đằng này...
- Thì bây giờ tôi đã về đây với bà.- Ông rụt rè cắt ngang. - Bà chỉ phải chờ có ba mươi năm.
- Nhưng ba mươi năm qua không phải chờ đợi mà là ba mươi năm đau khổ, vì không biết phải chờ cái gì. Đúng hơn, đó là ba mươi năm không được chờ đợi. Các ông bảo các ông chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân. Tôi không là nhân dân sao? Sao các ông không nghĩ tới hạnh phúc của tôi?
- Thì nào tôi nào có sướng gì hơn bà. Tất cả tại chiến tranh.
Bà im lặng, lấy khăn lau nước mắt.
- Vâng, tôi biết. Ông cũng khổ, có thể còn khổ hơn tôi. Lại nguy hiểm nữa, nhưng ông không nghĩ rằng cả tôi và ông sẽ đỡ khổ hơn nếu tôi được biết sự thật?
- Vâng, có thể bà nói đúng, nhưng đây là nguyên tắc của ngành tình báo. Không ai được phép biết tôi còn sống ngoài chính bản thân tôi, ông bộ trưởng và lãnh đạo trực tiếp của tôi...
- Cái ông mặc áo đại cán, người gầy gầy?
- Vâng. Ông ấy là thủ trưởng ngành, một vị tướng.
- Một vị tướng thật đáng yêu!
Chồng bà lờ như không nghe lời nhận xét châm chọc của vợ. Người ta đã báo ông biết hết mọi chuyện.
Sau đó, bình tĩnh trở lại, hai người ngồi nói chuyện suốt đêm. Không biết họ nói với nhau những gì, chỉ thấy hôm sau ông chồng lại xách túi trở về cơ quan. Ở đấy, người ta bố trí cho ông một căn phòng vừa làm việc vừa làm nơi ở, với một chiến sĩ cần vụ lo việc nấu ăn, giặt dũ cho ông. It lâu sau ông xin nghỉ hưu vì lý do sức khỏe, dù mới được phong hàm đại tá. Còn bà thì vẫn ở nhà cũ của mình, tiếp tục sống như bao năm nay đã sống. Thỉnh thoảng ông có đến thăm bà, lần nào cũng mang theo những món quà nho nhỏ mà ông biết bà rất thích. Ông cư xử, ăn nói như một người khách và cũng được bà đáp lại theo cách ấy. Có thể thân mật hơn chút ít, đại khái như cách các cặp vợ chồng ly thân vẫn đối xử với nhau. Còn vị tướng nọ thì nghe nói một lần tới thăm, bà không tiếp, sau chẳng thấy đến nữa.
Cứ thế thời gian trôi qua, hết năm này đến năm khác. Bây giờ cả hai người đã là những cụ già đáng kính ở tuổi trên dưới tám mươi. Các cụ vẫn mạnh khỏe, minh mẫn, và thỉnh thoảng vẫn gặp nhau. Có lần người ta còn thấy hai cụ cùng chống gậy dạo quanh hồ Hoàn Kiếm. Nhưng những lần như thế hiếm lắm.
                                                                       *
Như đã nói, tôi ngẫu nhiên là hàng xóm của cụ bà. Thỉnh thoảng tôi được cụ nhờ đến nhà cụ ông nhắn tin hay mang chút quà vặt vãnh nào đó. Đôi khi chỉ là tấm bưu thiếp hay một bông hoa. Một chứ không phải cả bó, mà lại luôn là hoa hồng màu trắng. Vì sao tôi không biết và cũng chẳng bao giờ hỏi cụ.
Có lần tôi đùa nói:
- Cụ ghê thật. Thù dai thế. Cháu phục cụ đấy.
Cụ nhìn tôi không đáp. Tôi cứ tưởng sẽ bị cụ mắng. Nhưng không, cụ chỉ cười. Một nụ cười móm thật đáng yêu.
-        Cậu mới lớn, lại đàn ông, hiểu gì đàn bà mà đòi xen vào.
Hà Nội, 21. 12. 2000


BIỂN NHA TRANG

- Tôi vừa gặp ông lão nhà tôi đấy, cô ạ.
Người đàn bà ngồi bên không đáp. Mụ đang bận nhặt mớ rau muống già cho bữa cơm chiều. Qua ô cửa hẹp của căn phòng gác hai tường tróc loang lổ, những tia nắng vàng vọt yếu ớt rọi vào, khiến mụ vốn mắt kém, cứ  nhầm lẫn lá xanh với lá vàng. Vả lại cái câu nói ấy mụ nghe mãi rồi, đến chán không muốn nghe nữa. “Rõ lẩm cẩm. Chết thì chết quách đi cho xong, lại còn gặp với chả không. Cứ như uyên ương đang yêu nhau không bằng”.
- Rồi sao nữa? Chắc hai cụ hú hí với nhau thích lắm nhỉ? - cuối cùng mụ lên lên tiếng châm chọc.
Mụ ít học, thô lỗ và tham lam, nhưng không hẳn là người độc ác. Hoàn cảnh bắt mụ thành người như vậy. Mụ bán rau ở phố bên, có thằng con nghiện hút và lão chồng vừa vũ phu vừa nát rượu. Mụ được thuê trông coi bà lão hơn bảy mươi tuổi đang ốm nằm chờ chết trên giường bên cạnh. Nghe nói bà lão bị ung thư gì đó, ở bệnh viện hơn hai tháng, sống bằng đủ các loại chai lọ và ống nhựa, sau thấy tốn kém quá mà chẳng ích gì (riêng tiền giường đã hai trăm nghìn đồng một ngày), người ta đưa bà về nhà. Cứ tưởng rút mớ chai lọ và dây dợ kia là bà lão chết ngay, thế mà vẫn cứ sống, nghĩa là nằm bất động một chỗ, ăn uống đái ỉa một chỗ, và cũng ít khi tỉnh táo lại nói những câu ngớ ngẩn như lúc nãy.
Ở nhà, người ta đã lo sẵn mọi thứ cho đám tang, phân công cụ thể người nào làm việc gì, vậy mà mãi người bệnh chẳng chịu chết cho, khổ cả mình lẫn người khác. Lúc đầu còn có người đến thăm hỏi, chăm sóc, sau rồi thưa dần, thưa dần, cuối cùng còn lại mụ trông thuê này.
Bà lão chỉ có một anh con trai năm nay ngoài bốn mươi, vợ bỏ mang con đi theo. Còn chồng bà thì chết cách đây những ba chục năm. Anh con ở nhà trông mẹ được đúng một tuần thì bỏ đi làm, phần do công việc, phần  quá mỏi mệt vì chờ đợi, vì căn phòng chật hẹp, nặng nề và đầy mùi hôi thối. Anh ta đảo qua nhà mỗi ngày hai lần vào buổi trưa và chập tối, mà cũng chỉ mấy phút rồi đi ngủ đâu đấy ở nhà bạn, viện cớ bận. Mọi việc khoán trắng cho mụ bán rau. Tuy nhiên, mụ chẳng phải làm gì nhiều. Cái gọi là vệ sinh mụ chỉ làm qua quít, đủ để khỏi đến mức không chịu nổi. Còn ăn uống thì chẳng lo vì bà lão gần như không có nhu cầu. Quan trọng nhất là mụ phải luôn có mặt ở đây cả ngày lẫn đêm để khi chết thì gọi điện báo ngay cho anh con. Thế mà mụ vẫn bỏ đi lo công chuyện riêng một vài giờ là thường. Lúc đầu mụ được thuê hai mươi lăm nghìn đồng một ngày, sau bắt bí lên bốn mươi nghìn mà anh con vẫn phải chịu. Mụ mừng có được việc làm nhàn nhiều tiền, lại khỏi bị ông chồng say đánh đập, miễn là đều đặn đưa tiền cho hắn uống rượu. Thành ra mụ là người duy nhất mong bà lão sống lâu. Càng lâu càng tốt, nhưng không được khỏi bệnh để mụ mất việc.
- Tôi vừa gặp ông nhà tôi đấy, cô ạ, - bà lão lại nói, không hướng vào người nghe. Đây là lúc hiếm hoi bà tỉnh để có thể nói được, dù rất khó khăn.
- Thôi, cụ im đi cho khỏe. - Mụ trông thuê thô lỗ đáp. - Ông ấy chết từ đời tám hoánh nào, gặp quái được. Chỉ giỏi phịa.
- Không, tôi gặp thật mà. Gặp cái thời chúng tôi mới quen nhau ấy.
- Thế ông ấy nói gì với cụ?
- Chẳng nói gì cả. Chỉ lặng lẽ cởi quần áo của tôi thôi...
- Rõ dơ! - mụ hàng rau nhăn mặt. - Già chết đến đít mà còn đem chuyện khỉ ra kể. - Mụ cũng không hiểu vì sao tự nhiên mụ cáu kỉnh như vậy với bà già tội nghiệp đáng lẽ mụ phải mang ơn. Mụ còn trẻ, to béo, đang độ  xồn xồn mà anh chồng nghiện ngập của mụ chẳng được tích sự gì.- Rồi sau thì sao? Chắc thích lắm nhỉ?
Bà lão không nói nữa, có thể vì phật ý. Cũng có thể vì lại thiếp đi hoặc đang chìm vào cái quá khứ xa xăm kia, khi chồng bà lần đầu làm cái việc bị mụ bán rau cho là “dơ” ấy.
                                                            *
Thời mới hòa bình, một đơn vị bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc có đóng quân chừng một tháng ở làng Vĩnh Yên bên Kênh Nhà Lê. Cái làng nông thôn yên ả ấy bỗng một hôm trở nên sôi động hẳn lên khi đang đêm dân quân giải về một cô gái người làng và một anh bộ đội của đơn vị trên. Họ bị bắt quả tang “đang ngồi cạnh nhau trên Gò Chùa vào lúc mười một giờ rưỡi!”
Không biết anh kia thế nào, chứ cô gái thì bị cả tổ chức thanh niên và phụ nữ kiểm điểm suốt hai đêm liền. “Chúng tôi yêu nhau và không làm điều gì xấu cả”, cô yếu ớt cãi lại. “Yêu nhau sao không xin phép đoàn thể? Không làm gì sao phải ra tận Gò Chùa, lại vào lúc đêm hôm khuya khoắt? Nhất định phải có chuyên!” Cô chẳng biết nói gì thêm, mà có nói cũng không ai tin, nhưng quả đúng họ yêu nhau và tối ấy họ “không làm điều gì xấu” thật. Thậm chí không dám cầm tay nhau. Còn cái “chuyện dơ” kia thì mãi sau này mới xẩy ra, vào đêm cuối cùng trước khi đơn vị bộ đội lên đường, cũng ở Gò Chùa nhưng may không bị dân quân bắt gặp.
Đêm ấy hầu như chỉ mình anh nói, còn cô bẽn lẽn ngồi bên say sưa lắng nghe. Anh kể nhiều về quê hương anh ở Nha Trang với bãi biển cát trắng mịn, “còn nước thì xanh biếc, em tin không, xanh trong đến mức có thể nhìn thấy cả từng viên sỏi sâu hàng chục mét dưới đáy!” Tất nhiên cô tin và hình dung bãi biển Nha Trang của anh rất đẹp, đẹp hơn cả tờ tranh họa báo cắt dán trên tường nhà cô. “Hai năm nữa, sau tổng tuyển cử, anh sẽ đưa em về làm dâu quê anh và chúng ta sẽ tắm trên bãi biển ấy. Không phải mặc cả quần áo mà tắm như ở đây đâu. Mặc áo bơi cơ. Em thích không?” “Thích. Nhưng thế thì ngượng lắm”.
Quê cô cũng có biển, chỉ cách làng ba cây số về phía dưới, nước cũng trong nhưng không xanh, còn bãi biển thì bẩn, đầy rác rưởi, phân trâu bò và phân người. Cô chưa tắm biển bao giờ, mặc áo bơi mà tắm lại càng không. Cô ngượng, nhưng từ đó bắt đầu thầm mơ ước có ngày được cùng anh tắm ở bãi biển Nha Trang thần tiên ấy.
Trong đầu óc chất phác của cô gái nông thôn chưa bao giờ đi xa quá phố huyện này đã hình thành ngày càng rõ nét bãi biển ước mơ của cô, với những hàng dừa cao vút tận trời, với nước biển xanh như màu mực viết thằng bé nhà bên. Trời cũng xanh như thế. Nắng chói chang nhưng không gắt. Còn xa xa là chiếc cầu vồng rực rỡ đủ bảy màu như trong chuyện cổ tích. Cô biết trời nắng không có cầu vồng, thế mà lần nào nhắm mắt tưởng tượng, không hiểu sao cô vẫn thấy nó. Còn trên biển thì chẳng có ai ngoài cô và anh đang tắm, hạnh phúc như hoàng tử và công chúa. Chỉ những con cá nhỏ đủ màu lượn lờ quanh họ. Ớớc mơ ấy trở nên rất hiện thực, rất gần, tưởng có thể chạm tay vào được, và cô tin chẳng bao lâu nữa cô sẽ trở thành công chúa sống bên hoàng tử của mình trên bãi biển Nha Trang.
Tuy nhiên, trong khi chờ được nếm mùi hạnh phúc trên thiên đường, cô phải trải qua không ít khổ đau nơi địa ngục. Số là chỉ mấy tháng sau, cô bị đem ra cuộc họp chung của cả làng để mọi người xỉ vả về tội chửa hoang. Thời ấy tội này lớn lắm, trên tội ăn cắp, dưới tội giết người. Giết người, ăn cắp vào tù là yên, còn chửa hoang là vết nhục cả đời, của mình và cha mẹ, là cái gương xấu để người ta đem ra răn đe các cô gái trẻ. Lúc này người yêu cô đang ở tận Tây Bắc xa đến cả nghìn cây số.
Hay tin, anh viết ngay cho ủy ban xã một bức thư có xác nhận của đơn vị, khẳng định họ thực sự yêu nhau và nay mai anh sẽ xin về phép làm lễ cưới. Làng không chịu, cứ kiểm điểm, cứ phạt, ít ra về tội dám “ăn cơm trước kẻng” “không phù hợp đạo đức cách mạng và con người mới xã hội chủ nghĩa!” Mức phạt là tạ nếp và con lợn sáu mươi cân để tạ tội dân làng. Thế là nhẹ, chứ thời trước còn bị đánh đòn, cắt tóc bôi vôi và phải luôn đeo hai chữ chửa hoang trước bụng. “May cho mày đấy. Không nhờ cách mạng thì còn khốn!”
Cô chỉ thương bà mẹ già phải mang nhục vì mình (bố cô chết từ lâu trước đó), tiếc tạ nếp cùng con lợn, chứ phần cô, cô dửng dưng không sợ gì. Cô còn cố tình ưỡn cái bụng chửa hoang trước mặt mọi người. Điều này suýt nữa khiến người ta tăng gấp đôi mức phạt. Cô tin ở anh và giấc mơ biển Nha Trang của hai người. Tiếc rằng anh, vì nhiều lý do, mãi gần một năm sau mới về được để cưới cô làm vợ, lúc đứa con đã ra đời nhưng cũng chết ngay sau đó. Anh đưa cô lên Điện Biên làm cấp dưỡng trong đơn vị mình. Họ sống ở đấy cho đến năm 1970 khi anh được chuyển về Hà Nội và phân căn phòng mười tám mét ở khu phố cổ hiện nay.
Vậy là giấc mơ tắm biển Nha Trang của họ vẫn chưa thực hiện được. Họ hẹn chờ ngày đất nước thống nhất. Dẫu lúc ấy có thể đã già nhưng họ vẫn sẽ là công chúa và hoàng tử cùng nhau bơi trong làn nước xanh biếc có những con cá đủ màu vây quanh, có mặt trời ấm áp và cả chiếc cầu vồng rực rỡ như cô mong muốn. Họ sống vì nhau và vì ước mơ lãng mạn đó.
Tiếc thay anh không sống được đến năm bảy lăm để đưa vợ về thăm quê mình. Anh chết vào mùa đông 1972 vì một cơn nhồi máu cơ tim. Người con trai cô sinh ở Điện Biên lúc này đã lớn. Nếu muốn nó có thể đưa cô đi, hoặc cô tự đi một mình cũng được, nhưng một mình thì cô không muốn vì điều ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Trong ước mơ của cô luôn có hai người, nay một người không còn, do vậy cũng không còn ước mơ ấy nữa. Thực sự cô cũng không còn sống với đúng nghĩa của nó. Cô trở nên thờ ơ với mọi chuyện. Có thể vì thế mà cô đã không dạy dỗ đứa con duy nhất của họ đến nơi đến chốn chăng? Cô yêu con, tất nhiên, nhưng tình yêu ấy chẳng thấm gì so với tình yêu vợ chồng cô cùng mơ ước biển Nha Trang của họ...
                                                                *
- Tôi lại gặp ông nhà tôi đấy, cô ạ, - bà lão lại khẽ cựa mình. Chắc bà không biết và cũng chẳng muốn biết người đang nghe là ai.
Mụ hàng rau lúc này đang ăn vụng sữa của người bệnh, giật mình, vội chùi mép, nhẹ nhàng đặt hộp sữa đặc vào chỗ cũ. Mụ khó chịu, nói:
- Gặp gì mà nhiều thế. Lại cởi quần nhau nữa chứ gì?
- Không. Tôi và ông ấy bay trên biển Nha Trang...
- Còn vào tận đấy để bay lượn với nhau! Khéo vẽ chuyện. Thích chứ? - mụ mỉa mai, thầm hình dung bộ xương già khô héo đang chờ chết trên giường bay như thế nào giữa bao la trời biển.
- Thích lắm. Biển đẹp lắm. Chỉ toàn màu xanh và màu hồng. Cả đàn cá cũng bay với chúng tôi. Chúng tôi bay, bay mãi, cuối cùng ông ấy đỡ tôi ngồi lên chiếc cầu vồng sát chân trời. Sợ, nhưng mà thích lắm. Đẹp lắm cô ạ...
“Bà lão này điên mẹ mất rồi,” mụ kia lẩm bẩm, rồi yên tâm cầm hộp sữa mút chùn chụt.
Mặt trời còn lâu mới lặn, nhưng căn phòng nhỏ với chiếc cửa sổ duy nhất ngoảnh ra phố không đủ ánh sáng. Tiếng người rao tào phớ từ dưới đường vọng lên nghe vừa buồn cười vừa não ruột. Mụ trông thuê bật đèn, đang định bỏ ra ngoài thì bà lão khẽ gọi:
- Này cô.
- Lại chuyện gì nữa? Tè ra quần à? Chốc nữa thay luôn thể. - Mụ xẳng giọng đáp.
- Không, tôi muốn nhờ cô việc này.
- Việc gì?
- Cô làm ơn lấy hộ tôi chiếc lọ trên bàn thờ.       
- Lọ nào?
- Chiếc lọ sứ màu đen có nắp ấy. Cô đưa nó lại đây cho tôi.
Không biết bà lão cần nó làm gì, nhưng tò mò, mụ cũng làm theo. Chiếc lọ to bằng quả dưa hấu và khá nặng. Nghi bên trong có thể có đồ quí, mụ mở nắp cho tay vào sờ nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy tờ vàng mã và lưng lọ tro không mịn lắm.
- Cái quái gì thế này? - mụ hỏi khi trao chiếc lọ cho bà lão. Mụ còn ngạc nhiên hơn khi thấy bà lão ôm chặt nó vào ngực. Trên khuôn mặt nhăn nheo xuất hiện hai giọt nước mắt lớn màu đục. Bà vừa đưa cả hai tay xoa xoa khắp chiếc lọ, vừa mấp máy môi nói gì đó mụ nghe không rõ. Rồi bà mở nắp lọ lấy ra một nhúm tro, áp vào miệng. Sợ chiếc lọ nặng có thể làm bà lão nghẹt thở, vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xẩy ra, mụ kia vội dằng lấy nó, đặt lên bàn thờ như cũ.
- Bây giờ cô muốn đi đâu thì đi, -  bà lão yếu ớt nói rồi lại nằm thiếp đi, nét mặt thư thái.                                                        
... Đó là chiếc lọ đựng ít tro hài cốt của chồng bà. Không biết trước đó hai người có dặn dò gì nhau không, nhưng khi chồng chết, bà lão khăng khăng đòi thiêu xác. Thời ấy chưa có lò thiêu hiện đại như bây giờ ên người ta phải tẩm xăng mà đốt, cái gì chưa cháy hết thì đem dã nhỏ. Sau đó bà còn bắt cho một ít tro vào lọ để lên bàn thờ. Mọi người phản đối kịch liệt, đặc biệt anh con, với lý do như thế là điềm gở, có thể mang tai họa cho cả nhà. Cuối cùng mọi người vẫn phải nghe theo. Suốt mấy chục năm nay ngày nào bà cũng thắp hương, thì thầm trò chuyện với chồng, lần nào cũng không quên chạm tay vào chiếc lọ.
Một hôm có ông khách đến chơi. Vừa bước vào nhà ông ta đã nhíu mũi đưa mắt nhìn quanh: “Tôi thấy trong nhà này có sự hiện diện của người chết!” Bà lặng lẽ chỉ tay vào chiếc lọ trên bàn thờ. Ông kia hiểu, khuyên bà nên đem chôn thành mộ. Anh con nhân chuyện này càng thúc ép mẹ nhưng bà một mực không chịu. Mọi người bảo chính vì thế mà gia đình bà sa sút. Đứa con trai không hư nhưng cũng chẳng ngoan, công việc làm ăn trầy trật và đường vợ con chẳng ra gì. Bản thân bà thì ốm đau luôn, nhưng bà không tin tất cả đều do chiếc lọ ấy, và cứ bắt giữ nó trong nhà cho đến tận bây giờ.

                                                            *
Sáu giờ tối anh con trai mới đến thăm mẹ. Mụ trông thuê vẫn đi đâu  chưa về. Anh ta gắt om lên rồi quay sang hỏi, vồn vã một cách thiếu tự nhiên:
- Mẹ có đỡ hơn không ạ? Mẹ đã ăn gì chưa? Bây giờ mẹ thấy trong người thế nào?
Bà lão nằm yên, mở mắt và khẽ gật đầu. Anh con đã mấy lần khịt khịt mũi vẻ khó chịu, nhưng vẫn cố nán thêm chốc nữa, sốt ruột đi đi lại lại.
- Mẹ có cần con làm gì không ạ?
Bà lão muốn ngồi dậy nhưng không được, bèn ra hiệu kê thêm chiếc gối cho đầu cao lên.
- Con lấy ghế ngồi xuống đây. Mẹ có chuyện này muốn nói với con.
- Dạ, có gì xin mẹ cứ nói.
- Có lẽ mẹ sắp đi rồi. Mẹ muốn con hứa với mẹ một điều. Con hứa và sẽ làm đúng như thế. Con có hứa không?
- Có. Con xin hứa sẽ làm tất cả những gì mẹ dặn. - Anh con vội đáp, lần này thì thành thật vì biết đây là lời trăn trối cuối cùng của mẹ.
- Kia là chiếc lọ với ít tro hài cốt bố con. - Bà lão chỉ tay về phía bàn thờ. -  Bố con là người tuyệt vời, chỉ tiếc bỏ mẹ con mình ra đi sớm quá. Mẹ muốn sau khi chết con cho thiêu xác rồi trộn tro hài cốt của mẹ với của bố con. Sau đó con đem vào quê bố, đi thuyền ra biển thật xa rồi rắc xuống nước. Suốt đời mẹ và bố con chỉ có một ước mơ được cùng nhau tắm biển Nha Trang nhưng rồi con biết đấy, vì chiến tranh, vì bố con đi trước, nên cuối cùng ước mơ ấy đến nay vẫn chưa thực hiện được. Giờ chỉ còn cách như mẹ vừa nói. Vì vậy mẹ mới giữ chiếc lọ kia trong nhà bao năm nay. Chỉ thế thôi. Con giúp mẹ nhé. Nếu không, mẹ sẽ chẳng thể nào nhắm mắt nổi.
Anh con nâng bàn tay khô héo của mẹ áp vào má mình. Lúc này thực tình anh ta rất thương mẹ.
- Xin mẹ yên tâm. Con sẽ làm đúng như lời mẹ dặn.
- Thế thì mẹ chẳng còn mong gì nữa. Bây giờ con có thể đi được rồi. Cứ để mẹ một mình, không sao.
- Không, không, hôm nay con sẽ ở lại đây suốt đêm với mẹ. - Anh con vội nói, xúc động và chân thành.
Bà lão quay người, nhắm mắt, có vẻ như lại ngất xỉu.
Cuối cùng mụ bán rau cũng về. Anh con trách mụ mấy câu lấy lệ, nấn ná thêm chốc nữa rồi bảo ra ngoài ăn tối, lát sau quay lại. Nhưng vốn vô tâm, hời hợt, dễ xúc động và cũng dễ quên, anh ta đi rồi biệt tăm luôn.
                                                            *
Đêm hôm ấy bà lão chết. Chính xác lúc nào không rõ vì như mọi ngày, mụ trông thuê ngủ liền một mạch đến năm giờ sáng thì dậy. Theo thói quen, mụ đặt một ngón tay lên mũi bà lão. Không thấy thở. “Thôi, bỏ mẹ. Bà ta chết rồi!” Và mụ vội vã chạy đến chiếc máy điện thoại.
Xác bà lão được thiêu như mong muốn. Còn trộn tro hài cốt hai người để rắc xuống biển Nha Trang thì không, vì đã mười năm nay anh con giấu mẹ đem tro thi hài bố chôn thành mộ ở Bát Bạt. Còn tro trong chiếc lọ trên bàn thờ là đồ giả. Bà lão được chôn cạnh chồng. Hai ngôi mộ xinh xắn, có bia đá, có ảnh, và đều được đổ xi măng chắc chắn. Anh con lấy thế làm hài lòng, tự coi mình là người con có hiếu. Kể ra đôi khi cũng thấy lương tâm cắn dứt vì đã không làm đúng lời mẹ trăn trối, nhưng anh ta luôn tìm được lý do để an ủi mình.
“Các cụ già rồi mà còn lãng mạn. Quăng xuống biển cho cá nó ăn à? Rồi sau con cháu biết tìm đâu mà hương khói?
Hà Nội, 25. 5. 2001


MẤT NGỦ
                             
Như nhiều người già khác, ông Dụng mắc chứng mất ngủ, đặc biệt thời gian này, khi ông mới về hưu. Mấy chục năm ông làm ở ủy ban chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em của thành phố. Công việc nhàn, chẳng có gì lý thú, thậm chí “vô bổ” như nhiều khi ông nghĩ. Thế mà bỗng nhiên không còn được làm cái công việc tẻ nhạt và vô bổ ấy nữa, ông cảm thấy hụt hẫng, người cứ thế nào, thừa tay chân, thừa thời gian, thừa những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu, đáng lẽ cũng thừa cả ngủ vì ông nằm rất nhiều. Nhưng ông lại mất ngủ.
Vào một đêm mất ngủ như thế, lúc ấy đã khuya, chắc phải đến mười hai giờ, ông bỗng nghe con Mực nhà ông sủa gắt. Thường nó vẫn sủa vu vơ khi có ai trong xóm về khuya. Nhưng lần này thì tiếng nó khác. Tiếng sủa báo có kẻ gian. Nó khôn lắm, về mặt này có thể nói còn khôn hơn cả người. Rồi im. Chừng mười lăm, hai mươi phút sau lại sủa. Ông nghe nó nhảy xổ lên cánh cổng và hình dung thấy nó bám hai chân trước lên thanh sắt nhìn “kẻ gian” với vẻ hăm dọa, cái mõm đầy nanh sắc nhô ra ngoài.
Ngõ nhà ông tối, chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn tròn tù mù sáu mươi watt treo trước cổng nhà ông Hoạch cuối ngõ theo yêu cầu của tổ dân phòng, nhưng chắc con Mực nhìn rõ. Nghe nói không chỉ mũi mà mắt loài chó cũng tinh lắm. Con béc-giê của vợ chồng ông Bàn giàu nhất xóm này, chủ một quán nhậu lớn ở chân cầu Long Biên, cũng sủa gay gắt không kém. Ở đây nhiều nhà nuôi chó, vậy là chúng đua nhau đánh thức cả xóm dậy. Cả con chó Nhật bé bằng nắm tay nhà ông Hoạch cũng ti toe phụ họa. 
Ông Dụng đi ra ban-công, nhìn xuống và thấy hai thằng choai choai đang đèo nhau bằng xe đạp, tới nhà ông Hoạch kịch đường, chúng quay ra rồi biến mất. Bầy chó tiếp tục sủa chốc nữa rồi cũng im. Ngõ phố lại chìm trong im lặng. Đôi nhà còn đỏ đèn. Mọi người chắc đã ngủ, hoặc giả vờ ngủ, coi như không có gì xẩy ra. ít nhất đối với nhà mình. Đây là xóm mới, nằm khuất trong một ngõ cụt sát phố Nguyễn Văn Cừ, gồm mười tám căn nhà riêng biệt do thành phố xây để bán, ai có tiền thì mua, do vậy được coi là khu xịn, thậm chí trong giấy tờ bán nhà ghi là Khu biệt thự, mặc dù nhà cái nọ dính vào cái kia. Người mua là dân các nơi khác đến, thuộc loại khá giả, nhưng nhà ai biết nhà nấy và chỉ giao tiếp ở mức lịch sự vừa phải. Ông Dụng đưa mắt nhìn một vòng, chẳng thấy động tĩnh gì bèn quay vào nằm.
“Cái bọn choai choai này là ghê lắm đấy, - bà vợ ông thường nói. - Chúng nghiện ngập, cờ bạc, giết người như ngóe. Tốt nhất đừng dây, nhỡ gặp chúng phải tránh thật xa!” Ông thấy vợ nói đúng. Chuyện gì bà ấy nói cũng đúng. Cả xóm này mọi người nghĩ như bà. Có lẽ vì thế mà như nhiều hôm khác, hôm nay chẳng ai, kể cả ông trưởng xóm kiêm tổ viên tổ tuần tra mà ông ta không bao giờ tham gia, chạy ra đuổi chúng, chí ít hỏi chúng đêm hôm vào đây làm gì. Nhiều lần chúng ngang nhiên tụm ba tụm bảy đánh bạc hoặc tiêm chích cả ban ngày mà không người nào dám nói một câu. Coi như không thấy. Không biết. Không dây! Dây vào ngộ nhỡ chúng đâm cho một nhát mà chết à?
Lát sau chó lại sủa ran. Chắc hai thằng kia quay lại. “Kệ. Nhà mình không là đối tượng của chúng, - ông nghĩ. - Vả lại con Mực sẽ chẳng chịu để yên cho chúng muốn làm gì thì làm.” “Tao thách bọn mày vào đấy!” - Chắc đầu ngõ ông chủ quán nhậu có con béc-giê hung dữ cũng đang nghĩ như ông. Các nhà khác thì có lẽ cảm thấy yên tâm vì nhà mình kín cổng cao tường, cửa đóng chặt cả trên lẫn dưới.
Chó vẫn tiếp tục sủa và mỗi lúc một gay gắt. Con Mực nhảy chồm chồm lên tấm cửa sắt. Chắc có chuyện. Ông Dụng định dậy ra xem, nhưng không hiểu sao lại thôi. Nhiều người trong xóm lúc ấy có lẽ cũng chung tâm trạng như ông, và vẫn nằm yên trong nhà. Sau đấy bỗng có tiếng kêu thất thanh. Tiếng kêu cứu của một đứa bé. Bé gái. Hình như tiếng cái Hồng, con vợ chồng cậu Châu cách nhà ông một nhà về phía phải, sát nhà ông Hoạch.  Mọi người, trong đó có ông Dụng, chạy bổ ra ban công, và từ vị trí an toàn ấy, tất cả gần như đồng thanh kêu to: “Trộm! Có trộm!” Chủ yếu để bọn kia thấy động bỏ đi. Rồi mọi người xuống gác, cố nói thật to, cố mở khóa cổng thật chậm để biết chắc mình không là người đầu tiên bước ra nơi nguy hiểm. Nhiều người còn dắt theo cả chó, những con chó trước đấy bị nhốt sau song sắt.
Khi mọi người đổ ra ngõ thì tất nhiên bọn bất lương đã biến mất, vì ít nhất đã năm phút trôi qua kể từ lúc có tiếng kêu cứu, có thể còn lâu hơn. Người ta thấy cánh cổng nhà vợ chồng anh Châu mở toang, còn cháu Hồng, mười ba tuổi, con gái duy nhất của họ thì nằm chết ngay ở bậc tam cấp, máu me đầm đìa. Nó nằm ngửa, bị đâm một nhát khá lớn ở bụng, lòi cả một đống ruột ra ngoài. Đến bây giờ dân trong xóm mới biết nó ở nhà một mình đã ba hôm nay vì cả bố lẫn mẹ đang theo cơ quan Bộ ngoại giao nghỉ mát ở Cửa Lò, nó bận thi học sinh giỏi tin học toàn thành phố nên không đi. Sau này, khi công an bắt được thủ phạm - hai tên lưu manh choai choai ở khu tập thể nhà máy xe lửa Gia Lâm - người ta biết thêm rằng nó bị đâm chết khi vừa kêu cứu, vừa cố giữ chiếc vi tính xách tay bố mẹ mới tặng. Một trong hai thằng kia giật mãi không được, cáu tiết dùng con dao Thái đâm một nhát vào bụng, nó ngã gục làm vết đâm rộng thêm nên ruột mới trào ra. Thằng này sau bị kết án tử hình. Bạn hắn tù mười năm. Còn dân trong xóm thì bị chính lương tâm mình kết án, nặng nhẹ tùy sự nhạy cảm và cách nhìn nhận sự việc của từng người...
                                                  *                                       
Có lẽ người bị ‘kết án” nặng hơn cả là ông Dụng, vì ông hay mặc cảm và bị cái gọi là lương tâm dằn vặt nhiều hơn. Như những người khác, khi công an điều tra hỏi vì sao biết có kẻ gian mà không ra can thiệp ngay, ông nói bình thường chó vẫn sủa như vậy, và rằng ông già, khi tới nơi thì đã muộn. Ông biết ông nói dối. Chừng này tuổi mà còn nói dối một cách trơ trẽn. Ông đã có thể ra ban-công lần chó sủa rộ thứ hai, thứ ba, và nếu vẫn thấy hai thằng ấy mà ông biết chắc đến đây chỉ để ăn trộm, đáng lẽ ông phải ra hỏi chúng, đuổi chúng đi, cùng lắm gọi to mọi người dậy. Chắc chắn lúc ấy chúng không dám ra tay và cháu Hồng sẽ không bị giết một cách thảm thương như vậy. Nhưng ông đã hèn nhát không dám làm thế. Ông sợ bị chúng chém hoặc dùng kim chích ma túy đâm vào người. Sao ông không đi ra cùng con Mực? Chắc nó biết cách bảo vệ chủ. Ừ nhỉ, ông quên không nghĩ tới điều đó. Quên một phần vì “không muốn dây vào chúng”, vì đơn giản nghĩ con chó giữ riêng nhà ông đã đủ. Ông chủ cửa hàng nhậu có lần từng chỉ vào con béc-giê của mình, nói: “Lúc ấy mà tôi kịp thả con này ra thì hai thằng kia chỉ có chết!” nhưng ông ta đã không thả. Người khác cũng không. Lũ chó ngu ngốc, không khôn như người, nhất định chúng sẽ chịu chơi, chịu “dây” với bọn kia và do vậy chắc sẽ ngăn được vụ án mạng. Nếu có lương tâm, lương tâm lũ chó bây giờ trong sạch.
Càng nghĩ, ông Dụng càng buồn và thấy mình có tội. Không nghi ngờ gì nữa, trong cái chết của cháu Hồng ông chịu một phần trách nhiệm. Ông đã tính tới chuyện thú hết với công an, rằng chính ông và những người hàng xóm của ông mới là thủ phạm thực sự. Nhưng liệu tòa án có thể vì thế mà kết tội ông được không? Không có bộ luật nào kết tội những người không kịp ra cứu giúp người khác khi gặp nạn. Không ai bắt bẻ ông được. Vâng, không ai trừ lương tâm, mà lương tâm ông bây giờ đang cắn rứt. Ông đã có thể cứu được đứa bé nhưng ông hèn, ông sợ chết, ông quá khôn. Thế mà hàng chục năm trời ông được gọi là cán bộ bảo vệ trẻ em cơ đấy. Suốt mấy chục năm ấy và cả đời mình thực ra ông chẳng bảo vệ được ai. Việc ông làm chung qui chỉ là nói những lời đạo đức giả, tham dự các cuộc họp triền miên và mỗi năm vài lần trao những túi quà người ta chuẩn bị sẵn. Tên ông là Đinh Hữu Dụng mà thực sự ông là người vô dụng. Bạn bè, đôi khi cả chính ông, cũng nhiều lần nói đùa như thế.
Choáng váng vì cái chết của con gái, vợ chồng anh Châu xin đi làm tại một Đại sứ quán ở châu Phi, để lại ngôi nhà trống rỗng và khu xóm nhỏ đang bối rối dằn vặt với những gì mới xẩy ra. Không ai bảo ai, mọi người  cố tránh không nhắc đến chuyện này. Cũng chẳng ai lên tiếng tự bào chữa hay trách cứ mình.                                               
                                               *     
Chứng mất ngủ của ông Dụng ngày một thêm trầm trọng. Nhiều đêm liền ông không hề chợp mắt. Thậm chí ông bắt đầu xem nó là bệnh, đi khám bác sĩ và uống đủ các loại thuốc vợ ông mua về bắt uống. Dạo này bị công an truy quét, bọn nghiện ngập và tội phạm không dám đến đây nữa, cả ban ngày cũng như ban đêm. Chó cũng ít sủa hơn. Tuy nhiên, ba hôm nay ông nhận thấy một điều khác thường, là lúc gần sáng con Mực nhà ông cứ tru lên khe khẽ. Tiếng tru nghe rất lạ, như thể nó đang sợ hãi điều gì. Con chó Nhật ông Hoạch cũng ngứa mồm sủa theo. Các con chó khác, trong đó có con béc-giê hung dữ của ông chủ quán bia, không thấy lên tiếng. Cả ba hôm ông đều ra xem nhưng không thấy gì.
Đấy, bây giờ con Mực lại sủa đấy, hay đúng hơn, đang rên ư ử. Ông  nhìn đồng hồ. Ba giờ sáng. Trời tối, lại có gió lạnh. Xung quanh không tiếng động, trừ tiếng con Mực. Ông rón rén nhỏm dậy. Khác mọi lần, ông không ra hẳn ngoài ban-công mà chỉ đứng bên trong, vén rèm cửa sổ nhìn ra. Lối đi phía dưới vắng tanh. Ngọn đèn sáu mươi watt trước nhà ông Hoạch chiếu tù mù, nhưng cũng đủ sáng để nhìn thấy bất kỳ người nào, nếu có. Nhưng ông nhìn mãi mà chẳng thấy ai. Trong khi đó con Mực vẫn tiếp tục khẽ sủa một cách lo lắng và sợ hãi. Nghĩa là có chuyện. Không ngẫu nhiên nó sủa như thế. Nuôi nó mười năm nay, ông biết.
Ông khoác thêm chiếc áo, lặng lẽ đi xuống, lặng lẽ mở cửa rồi mở cổng bước ra ngoài, không quên mang theo chiếc gậy đề phòng bất trắc. Con Mực thấy ông, vẫy đuôi rối rít. Nó rón rén đi trước, tai cụp, đầu cúi sát đất. Có nó, ông thấy yên tâm hơn. Bên ngoài trời vẫn tối đen và ẩm ướt. Xung quanh yên ắng lạ thường. Bất chợt ông nhìn thấy có cái bóng mờ mờ trước mặt. Ông định kêu to đánh thức mọi người, nhưng nghĩ có thể nhìn nhầm nên lại thôi. Cái bóng nhỏ màu trăng trắng đứng co ro bên cửa nhà anh Châu, chỉ cách ông khoảng mươi mét. Trộm chăng? Hình như không, vì nếu thế nó đã bỏ chạy khi nghe ông cố tình hắng giọng. Vậy thì là cái gì? 
“Ai đấy?” - ông hỏi to rồi mạnh dạn bước lại gần. Con Mực đi theo, sủa lên một tiếng đầy hăm dọa. Cái bóng trắng vẫn đứng yên. Nó không có ý bỏ chạy hoặc sợ hãi. Khi lại gần, ông Dụng thấy hình như đó là một đứa trẻ. Nó đứng tựa lưng vào tường rào, hai tay ôm cái gì đấy trước bụng.
“Trời ơi, Hồng đấy à, cháu?” ông khẽ thốt lên, quên mất rằng con bé đã chết hai tháng nay.
Cái bóng gật đầu, không nói gì. Ông Dụng cúi xuống nhìn kỹ thì thấy đúng là nó. Nó đang đỡ mớ ruột bầy nhầy trên tay. Dưới ánh điện tù mù, ông thấy nó khóc, đôi mắt mở to đau đớn nhìn ông.
“Trời ơi!” - ông Dụng lại thốt lên, kinh hoàng nhìn mớ ruột. “Cái gì thế này?” Con bé im lặng, nhìn xuống chiếc bụng bị đâm thủng rồi nhìn ông, vẻ van nài. Con Mực không rên nữa. Nó cuống quýt chạy quanh chủ và cái bóng ma. Ông Dụng chẳng hiểu nó muốn gì. Ông đứng lặng, lúng túng hồi lâu. Cuối cùng ông ngồi xuống ngang tầm đưa bé, nhẹ nhàng nâng từng đoạn ruột bầy nhầy dính máu nhét lại vào bụng nó. Ông làm việc này thong thả, thận trọng như một bác sĩ phẫu thuật và bình tĩnh một cách lạ lùng. Thậm chí tay ông không run. Con bé vẫn lặng lẽ đứng yên, chỉ thỉnh thoảng khẽ co giật như bị đau. “Cháu gắng chịu chút nữa. Bác xong ngay bây giờ. Cháu ngoan lắm. Giỏi lắm!” - Ông dỗ nó như dỗ đứa cháu ngoại năm tuổi mỗi lần bắt uống thuốc đắng.
Con bé mấp máy môi điều gì đó khi ông làm xong, thận trọng đưa cả lòng bàn tay vuốt lại lần nữa như vá chỗ rách ở bụng nó. Ông kéo quần nó cao lên, cài cúc áo thật chặt cho nó rồi ngước mắt, có ý hỏi “Bây giờ cháu đỡ đau rồi chứ?” Con bé gật đầu nhìn ông và con Mực lần chót, rồi từ từ tan trong lớp sương mù ẩm ướt. Ông Dụng ờ lên một tiếng vì ngạc nhiên. Ông thực sự không hiểu chuyện vừa rồi là có thực hay chỉ một giấc mơ. Dạo này ông hay có những giấc mơ kỳ quái như vậy. Khi vào nhà bật đèn, ông thấy hai tay dính đầy máu...
Từ hôm ấy, đêm đêm vào lúc gần sáng, con Mực nhà ông thôi không sủa nữa. Hồn ma cái Hồng không quay lại thêm lần nào. Tuy vậy, chẳng vì thế mà ông Dụng đỡ mất ngủ. Bây giờ đến lượt ông, bị chứng mất ngủ hành hạ, cứ gần sáng ông lại ra khỏi nhà vật vờ đi đi lại lại trong ngõ. Lúc đầu lũ chó sủa ghê lắm, nhưng rồi dần dần chúng quen, không còn làm ầm ĩ bắt mọi người tỉnh dậy.
Hà Nội, 8. 8. 2002

                                                                                         
TIỂU ÁI

Antôn Sêkhốp, nhà văn Nga thế kỷ mười chín nổi tiếng về sở trường truyện ngắn, có lần nói với bạn bè một ý đại khái thế này, rằng nếu nhà văn thực sự có tài thì từ bất kì cái gì, thậm chí từ cái tầm thường, nhỏ nhặt nhất cũng có thể viết thành một truyện ngắn. Và để chứng minh cho quan điểm ấy của mình, ông đã viết truyện Cái đinh. Xuất phát điểm đơn giản chỉ là chiếc đinh gỉ trên tường, ngẫu nhiên các bạn nhìn thấy khi đứng dậy chia tay sau bữa ăn, rồi nửa đùa nửa thật họ yêu cầu ông thử viết về nó. Thế mà thành một truyện hay.
Hôm nọ, tình cờ tôi đem chuyện này kể với vợ. Bà ấy luôn là người đầu tiên đọc những gì tôi viết, đôi lúc có vài nhận xét xác đáng mà dẫu bảo thủ, tôi vẫn phải thừa nhận và lặng lẽ làm theo.
“Sao ông không thử làm như Sêkhốp?” - bà ấy thản nhiên nói.
“Tôi không phải Sêkhốp. Ông ấy là thiên tài. Vả lại, nghề của tôi như bà biết, không phải viết mà dịch”, - tôi nói với sự khiêm tốn chân thành. Mấy chục năm nay tôi chỉ dịch, dịch thơ, một nghề tôi cho không kém vinh quang so với sáng tác. Thỉnh thoảng lúc chán tôi mới viết truyện, rỗi thì viết chứ chẳng tham vọng gì nhiều.
“Đành thế, nhưng cứ thử, xem ông có là người “thực sự có tài” hay không”.
Máu tự ái tôi nổi lên:
“Thử thì thử! Thế bà muốn tôi viết về cái gì?”
Vợ tôi đưa mắt nhìn quanh. Phòng làm việc của tôi luôn ngổn ngang đủ loại sách báo; chiếc giường một vừa để nghỉ và ngủ; chiếc ghế xoay vắt đầy quần áo mặc dở; trên bàn có chiếc vi tính cùng chồng đĩa nhạc; tường treo mấy bức tranh sơn dầu loại rẻ tiền và chiếc đàn vi-ô-lông kỷ niệm một thời sinh viên đam mê mà bây giờ, dẫu đã thuộc người già, lại to béo, thỉnh thoảng tôi vẫn đem ra cò cử bất chấp sự phản đối của hàng xóm và gia đình. Tôi thầm mong vợ chọn chiếc đàn hoặc chiếc vi tính, biểu tượng của tình cảm và công nghệ hiện đại ít nhiều còn có thể phịa ra cái để viết. Nhưng không, cuối cùng bà ấy nhìn tôi, nói như ra lệnh:
“Ông hãy viết về cái gãi lưng đang cầm trên tay ấy!”
“Sao, viết về cái này?” tôi thốt lên, ngừng gãi, chìa ra trước mặt chiếc gãi lưng bằng nhựa màu hồng rẻ tiền mua ở Thượng Hải năm ngoái khi hai bố con tôi tới đó theo một tour du lịch trọn gói. Một đầu nó có hình bàn tay năm ngón, ngón út bị con cún láo lếu gặm gãy, đầu kia là quả bóng cao su sơn đỏ đã sờn rách đôi chỗ, có lò xo dùng để đấm lưng. Một sản phẩm chẳng mấy nghệ thuật nhưng rất tiện lợi và tôi vẫn thường cần đến.
“Đúng, ông hãy thử viết về nó. Chiếc đinh của Sêkhốp còn nhỏ nhặt, tầm thường hơn nhiều. Ít ra nó cũng cho biết tài năng ông đến đâu”.
Tôi lại chạm tự ái.
“Được. Vậy ngày mai vào giờ này mời bà xuống đọc. Biết đâu tôi chẳng thông minh hơn bà tưởng.”
Còn lại một mình, tôi thẫn thờ hồi lâu ngồi nhìn chiếc gãi lưng khốn khổ mà từ đó tôi phải tìm đủ cảm xúc và trí tưởng tượng để viết thành một truyện ngắn với đúng nghĩa của nó. Ơn Chúa, cái truyện ấy cuối cùng cũng viết xong, chậm nửa ngày. Tôi không đặt tên Chiếc gãi lưng, mà là Bàn tay ngà ngọc, vừa hợp nội dung, vừa đỡ phần dung tục.
   *   
Dù còn trẻ, nhà ngoại giao M. từ lâu đã say mê thú chơi đồ cổ, đặc biệt những thứ liên quan đến Trung Quốc. Chơi với đúng nghĩa của nó, không bao giờ đo giá trị bằng tiền. Và cũng rất sành. Chuyến công tác Bắc Kinh lần này là dịp hiếm, vì anh phụ trách một Vụ châu Âu ở Bộ nên ít có điều kiện sang đây. Ngày nghỉ đầu tiên anh nhờ một đồng nghiệp lâu năm ở sứ quán dẫn đi lùng sục các cửa hàng nhỏ, phố nhỏ mà thường chỉ người bản địa mới biết và cũng là nơi có nhiều cơ may tìm được thứ gì đó độc đáo mà không quá đắt. Những thứ ấy thật ra có nhiều, rất thích, rất đáng mua nhưng vì ít tiền, cuối cùng đắn đo mãi, anh quyết định mua một cái mà chắc chẳng mấy ai muốn mua. Chính ông chủ cửa hàng (một người Hoa bé loắt choắt, mặt nhọn và nhăn nhúm) cũng không nghĩ anh sẽ mua nó, nhất là với cái giá rất cao lão đòi và không chịu bớt một xu. Vâng, nó đắt thật, nhưng đáng giá đồng tiền, và anh gật đầu. Dân chơi đồ cổ thường vẫn vậy, đã thích cái gì thì không thể nào dứt ra được.
Đó là chiếc gãi lưng hình bàn tay một cô gái, được làm bằng ngà hay thứ gỗ trắng cứng mịn nào đó, lâu ngày đã ngả màu nhưng chưa sứt gãy và cũng chưa có vết xước sâu nào. Nó khá to và nặng so với những thứ cùng loại ngày nay, dễ phải bằng cánh tay thật của một đứa bé. Anh hỏi thuộc đời nào, ông già chủ quán chỉ đáp: “Lâu rồi. Lâu lắm rồi. Chính xác đời nào lão chẳng biết, nhưng nó có từ lâu, lâu lắm rồi. Anh tinh lắm, tinh lắm!”
Quá bận với các bản báo cáo và họp hành, về nước đến một tuần M. mới có dịp lấy ra xem. Người chơi đồ cổ đích thực ngắm nghía đồ chơi của mình không như người bình thường. Họ cần có hứng, có thời gian thích hợp. Lúc ấy đã gần mười hai giờ đêm. Anh tắt vi tính, thận trọng mở va-li lấy nó ra. Thoạt đầu anh hơi thất vọng, chắc một phần vì số tiền lớn phải chi cho nó. Đẹp, có thể rất quý nhưng cũng chỉ là cái gãi lưng hình cánh tay phụ nữ, thứ đồ dùng không hiểu sao người phương Tây ít ai sử dụng vì một mặc cảm mơ hồ nào đó. Chắc họ thích những bàn tay bằng xương bằng thịt ấm áp và dịu dàng hơn.
Anh cầm nó trên tay, ngắm nghía từ mọi góc độ, thầm nghĩ đúng nó là đồ cổ thật, chắc thuộc một gia đình quyền quý nào đó cách đây vài trăm năm, khó có thể lâu hơn. Các ngón tay búp măng thon dài, móng được cắt nhọn và cũng rất dài, sơn màu hồng nhạt. Chỗ khuỷu tay có đường chạm thành nếp ngấn sống động. Cao hơn một chút là mặt cắt ngang rất phẳng và nhẵn, cứ như bị lưỡi kiếm sắc chặt một nhát đứt đôi. Phần trên khuỷu tay hơi gập, vừa đủ dài để làm tay cầm. Anh cho như thế là tàn nhẫn từ phía người nghĩ ra kiểu dáng này cho nó.
M. ngồi yên, mân mê cánh tay ngà rất lâu, mỗi lúc càng thấy thích. Mấy lần định cất lại vào va-li mà không hiểu sao cứ chần chừ mãi. Nhiều khi có cảm giác như đang nâng niu một bàn tay thật, thậm chí thấy mềm, âm ấm. Cuối cùng anh nằm xuống giường, chặn màn, để nó bên cạnh và tắt đèn.
Nhà anh ít người. Cả hai cô con gái đang học phổ thông bên Mỹ, nơi anh mới kết thúc nhiệm kì công tác nên các con ở lại học nốt chương trình. Gia đình anh xưa nay có thói quen mỗi người ngủ một phòng. Bây giờ thì mỗi người một tầng. Vợ anh ở tầng hai, anh ngủ luôn ở phòng làm việc tầng một, còn bà giúp việc thì trong phòng bếp rộng gần ba chục mét.
Đang thiu thiu ngủ bỗng ngứa lưng, M. cầm luôn cánh tay ngà gãi nhẹ. Thật dễ chịu. Gãi đúng chỗ ngứa, lần nào cũng đúng, sắc và gọn. Bất chợt anh giật thót người khi có cảm giác bàn tay ngà kia xoãi ngón xoa xoa vào chỗ ngứa. Xoa hai lần. Anh hốt hoảng dùng tay kia kiểm tra lại. Vẫn là cánh tay ngà đồ cổ như trước, cứng và vô tri giác. Thở dài nhẹ nhõm, anh cho mình vừa nằm mê, rồi quay người ngủ tiếp, cánh tay ngà để cạnh, gần như chạm mặt.
Một lúc sau, có thể một giờ hoặc lâu hơn, anh lại lơ mơ cảm thấy có bàn tay ai đang dịu dàng mơn trớn má mình. Vì nghĩ lại mơ, anh nằm yên tận hưởng cảm giác dễ chịu ấy. Nhưng sự mơn trớn lần này có vẻ mỗi lúc một thật hơn và cũng âu yếm hơn. Anh tỉnh ngủ hẳn, những ngón tay phụ nữ thon dài kia còn dính trên má. Anh sờ tay, giật mình vì thấy có người nằm cạnh, ấm và mềm. Vợ à? Cô ấy có bao giờ tự xuống thế này đâu? Anh khéo léo luồn tay về phía chiếc công tắc đèn ngủ.
“Ôi, cô là ai thế này?” anh ngồi bật dậy, khẽ thốt lên sau mấy giây lặng đi vì ngạc nhiên và sợ hãi. Đó là một cô gái xinh đẹp, rất khác thường cả về dáng người, cách ăn mặc, kiểu đầu tóc và cả cách son phấn. Phải cố lắm anh mới không kêu to, hai mắt nhìn trân trân không chớp. Anh lùi lại cho đến khi chạm lưng vào tường, trống ngực đập thình thịch.
“Thiếp là Tiểu Ái, nữ sĩ của Thái Tử Đan nước Yên”, cô gái thỏ thẻ đáp, chỉ thoáng chút ngượng ngùng kiểu con gái đài các chứ không hề bối rối.
“Tiểu Ái nào? Thái Tử Đan nước Yên nào? Tôi không hiểu”.
“Chàng thích đồ cổ Trung Hoa mà dường như không am tường lắm về lịch sử nước này. Vâng, thiếp là Tiểu Ái, nữ sĩ và cũng là tì thiếp yêu của Thái Tử Đan nước Yên cách đây hơn hai nghìn năm. Vì muốn diệt Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, để trừ hậu họa, Thái Tử phải nhờ đến Kinh Kha, một thích khách nổi tiếng nước Ngụy. Những ngày trước lúc lên đường, ngài tìm mọi cách chiều lòng Kinh Kha: nào vàng bạc châu báu, tiệc tùng, nào đàn hát suốt ngày với vô số cung tần mĩ nữ hầu hạ. Vậy mà Kinh Kha có vẻ không mấy mặn mà với việc người ta yêu cầu làm. Một tối nọ, khi xem thiếp đàn, ông ta buột miệng khen đôi tay thiếp đẹp. Thế là sáng hôm sau Thái Tử chặt tay thiếp, cho vào chiếc hộp phủ lụa đỏ đem đến. Bây giờ chàng nhớ rồi chứ?”
Tiểu Ái nói, khẽ cúi đầu e lệ đúng cung cách phụ nữ cái thời xa xưa ấy. M. vẫn nhìn nàng không chớp mắt. Nàng thật xinh đẹp, dịu dàng. Tuy nhiên, anh vẫn thấy có cái gì đấy đáng ngờ, hơi ranh ma trong ánh mắt cô gái bí ẩn này.
“Vâng, - anh đáp. - Tôi có biết tích ấy, dù không dám tin là thật. Có phải sau đấy Kinh Kha vì thương cảm đã đem chôn cất tử tế đôi tay của cô không?”
“Không. Nhiều người nghĩ vậy nhưng thực ra không phải thế. Ông ấy quả rất thích đôi tay đẹp của thiếp, nên cho mời thầy thuốc đến ướp khô, từ đó luôn giữ chúng bên mình. Sau này Kinh Kha bị Tần Thủy Hoàng giết chết, đôi tay thiếp thất lạc, qua hết người này đến người khác. Một tay thiếp bị người Anh thiêu cháy cùng Di Hòa Viên của Từ Hy Thái Hậu cách đây không lâu, còn tay nữa thì hiện đang ở đây với chàng. Vì thế mà thiếp có mặt hôm nay. Chàng không thích thiếp chăng? - Nói đoạn, Tiểu Ái choàng tay ôm cổ M. Một ma lực nào đó khiến người anh mềm nhũn, ngoan ngoãn tuân theo ý nàng. - Từ nay thiếp sẽ ở bên chàng, chiều chuộng chàng như xưa từng chiều chuộng Thái Tử Đan nước Yên...”
Rồi tự nhiên đèn tắt, không ai bật mà tắt. M. thấy mình từ từ rơi vào khoái lạc đê mê, có thật mà không có thật.
Từ đêm ấy họ sống với nhau như vợ chồng. Vâng, chỉ ban đêm, khi M. tắt đèn lên giường, còn ban ngày Tiểu Ái vẫn chỉ là cánh tay bằng ngà vô tri giác được anh đặt bên cạnh để gãi lưng khi ngứa, vì anh thích cảm giác được bàn tay ngà ngọc của nàng gãi. Ngoài ra mọi chuyện vẫn bình thường. Đêm nào cũng mất ngủ vì hoan lạc nhưng anh chẳng vì thế mà xanh xao gầy yếu. Không hề có biểu hiện thay đổi nào dù nhỏ trong cách anh làm việc ở cơ quan hoặc cư xử với vợ ở nhà. Anh nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới hai mặt, hơn thế còn lấy làm thích. Tiểu Ái quả là người đàn bà đam mê và biết chiều chuộng. Đôi lúc anh cũng thoáng lo sợ khi nghĩ mình đang dan díu với ma, một việc chẳng hay ho gì. Còn nàng, anh nhận thấy, dường như không có ý làm hại anh. Nàng vẫn yêu kiều, lễ phép và càng ngày càng tỏ ra gắn bó, cứ như muốn thế chỗ vợ anh vậy. Nhưng vì sao nàng phải làm thế? Nàng thực sự cần gì ở anh? Mà rồi làm sao có thể xảy ra được cái chuyện kì quặc này giữa một kỹ nữ thời Tần Thủy Hoàng và anh, một công chức ngoại giao bình thường của thế kỷ hai mươi mốt? Và quan trọng hơn, tất cả những việc này sẽ đưa anh đến đâu? Hạnh phúc gia đình anh sẽ ra sao? Là người duy lí và tỉnh táo, M. tự đặt cho mình những câu hỏi không dễ trả lời ấy. Lờ mờ cảm thấy nguy hiểm đang đến gần, anh muốn chủ động làm cái gì đó, mà phải làm ngay khi chưa muộn. Tuy nhiên, sức quyến rũ của Tiểu Ái quá lớn khiến anh cứ khất lần cái việc cần làm ấy hết ngày này sang ngày khác, cho đến một hôm...
Một hôm vợ anh bước vào phòng làm việc của chồng, một điều ít khi xảy ra. Chị là giám đốc một doanh nghiệp làm ăn phát đạt, xa lạ với văn chương và đồ cổ, những thứ chị cho là vớ vẩn, mặc dù chưa bao giờ kêu ca hoặc ngăn cản chồng. Chị là người vợ tốt, quán xuyến và thương yêu chồng con. Sự có mặt của vợ làm M. bối rối, như thể anh bị bắt quả tang ngoại tình và đang giấu người tình ngay trong căn phòng này. Rỗi việc, vợ anh ghé vào hỏi vài câu vu vơ chứ chẳng có mục đích cụ thể nào.
“Cái gì thế này?” chị hỏi, mắt to mò nhìn cánh tay ngà trên đầu giường.
“Thì em thấy đấy, - anh đáp, cười gượng gạo. - Cái gãi lưng ấy mà. Anh mua ở Bắc Kinh vừa rồi. Người Tàu nghĩ ra lắm thứ độc đáo thật. Nó cổ lắm đấy, có từ thời...” anh chợt ngừng vì lỡ miệng sợ đi quá xa.
Chị vợ lặng lẽ cầm nó lên tay, ngắm nghía một lúc rồi thử đưa lên má gãi gãi. Bất chợt chị kêu thét lên:
“Trời ơi, cái của nợ này nó cấu em! Anh xem này!”
Một vết xước màu đỏ khoảng vài phân bên khóe mắt trái chị.
“Nhảm nhí! Nó bằng gỗ chứ đâu phải người mà cào cấu được.” anh nói, cố giấu vẻ ngạc nhiên lo sợ. “Nhưng móng nó sắc, đáng lẽ em nên cẩn thận”.
Vợ anh vứt cánh tay xuống giường, ôm mặt bước ra khỏi phòng.
M. nhìn, thấy nó xấu hơn ngày thường, vẻ như đang cau có một cách độc ác. Tối hôm ấy anh hỏi Tiểu Ái vì sao làm vậy, nàng im lặng mãi mới nói: “Thiếp nhỡ thôi chứ chẳng cố tình”.
M. để ý sau mỗi lần anh lên ngủ với vợ theo “nghĩa vụ”, Tiểu Ái luôn tỏ ra khó chịu, mặc dù không nói gì. Anh biết nàng ghen. Thật kì cục. Hơn thế, hôm nào M. để Tiểu Ái nằm một mình, vợ anh cũng kêu khó chịu trong người. Dạo này cô ấy trông xanh xao, mỏi mệt. Cả điều này cũng kì cục nốt, vì bản thân anh chẳng sao, mặc dù kể từ ngày có Tiểu Ái hầu như anh không ngủ. Anh thực sự lo lắng cho vợ.
“Em chớ có làm gì hại vợ anh đấy nhé!” một hôm anh bảo nàng. Nàng lặng lẽ gật đầu nhưng anh vẫn nhận thấy những tia nhìn đáng sợ trong ánh mắt.
Dẫu thích cuộc sống hai mặt hiện tại, M. không thể tiếp tục thờ ơ với tính mạng vợ và hạnh phúc gia đình mình. “Cái việc gì đó” cần làm bây giờ trở nên rõ nét và thôi thúc hơn. Tóm lại, anh đang lặng lẽ tìm cách thoát khỏi Tiểu Ái thế nào cho êm thấm nhất. Các truyện của Nguyễn Dữ và Bồ Tùng Linh đã dạy anh điều này. Đừng dại mà đùa với ma!
Một tối nọ, vừa ngồi xuống trước máy vi tính, M. thấy H., một đồng nghiệp trẻ ở Bộ xồng xộc bước vào, nói có tài liệu nhờ anh dịch gấp kịp họp ngày mai. H. là người hãnh tiến, thích bay bổng, lãng mạn, có khả năng nhưng cư xử dở nên không được mọi người thích, kể cả anh. Cũng vì tính lãng mạn bay bổng ấy, có người gọi là hâm, mãi đến giờ anh ta vẫn chưa vợ, dù đã ba mươi lăm tuổi. Đối tượng nào cũng bị anh ta chê không tinh tế hoặc quá tầm thường.
Xong việc, H. còn nấn ná ở lại, đảo mắt qua giá sách, nhìn một lượt khắp phòng rồi cầm chiếc gãi lưng đồ cổ lên tay, khen lấy khen để và hỏi một thôi về nó. M. khó chịu trước sự suồng sã của con người luôn chê người khác thiếu tinh tế này. Bất ngờ một ý tưởng vụt lóe trong đầu: “Hắn thích thì sao không cho luôn đi! Hắn đang sống một mình, có thể Tiểu Ái sẽ là người hợp với hắn”.
“Nếu cậu muốn, mình tặng cậu đấy. Coi như quà đi Trung Quốc vừa rồi”, anh nói.
“Anh giễu em? Cái này là đồ cổ, chắc phải quý và đắt lắm?”
“Không, bình thường thôi. Cậu không thích à?”
H. nhìn anh ngờ vực. Khi thấy anh nghiêm túc, liền gật đầu cảm ơn rối rít và vội về ngay như sợ bị đòi lại.
Còn lại một mình, M. thẫn thờ hồi lâu. Vậy là anh đã thoát được Tiểu Ái, không phải không nhớ tiếc những giây phút hạnh phúc bên nàng. Trong nhà bây giờ chỉ còn lại một người đàn bà là vợ anh, chắc sẽ nhanh chóng khỏe mạnh bình thường như trước. Anh mừng trút được cảm giác có lỗi với vợ, nhưng cũng thầm lo sẽ bị Tiểu Ái làm hại về tội chia tay nàng cách ấy. Ma là chúa hay trả thù...
Tuy nhiên, anh đã lo một cách vô ích. Một tuần, một tháng rồi mấy tháng trôi qua chẳng có chuyện gì không hay xảy ra với anh. Còn H. thì béo tốt hẳn lên, yêu đời, yêu người hơn, vẻ hạnh phúc ngời ngời trên mặt. Anh ta bây giờ không muốn nghe ai nói chuyện manh mối cho mình nữa, mấy lần còn hùng hồn tuyên bố sẽ sống độc thân suốt đời. Hình như anh ta cố tình tránh mặt M.
“Không sao, - anh nghĩ. - Thế là mọi việc đều ổn. Một win-win deal”.  Thuật ngữ ngoại giao chỉ một vụ dàn xếp hai bên cùng có lợi.
                 *                             
Tôi hồi hộp theo dõi từng biểu hiện nhỏ trên mặt vợ khi bà ấy đọc truyện ngắn này. Chả gì thì chỉ ít phút nữa bà ấy sẽ cho biết tôi là thiên tài hay bất tài. Đọc xong, bà ấy hồi lâu nhìn tôi, nhất là cái gãi lưng hàng chợ ngẫu nhiên tôi đang cầm trên tay, vẻ như nghi kị điều gì. Cuối cùng, với mặt thản nhiên như lúc chưa cầm tập bản thảo, vợ tôi chỉ nói một câu ngắn gọn: “Bàn tay ngà ngọc không ổn! Phải đổi thành Tiểu Ái!”
Rồi bà thản nhiên bỏ ra ngoài, để lại mình tôi với cảm giác mù mờ không hiểu mình thuộc loại nhà văn nào.             

PS.
Xin được thêm mấy dòng: Mặc dù không thích, tôi vẫn đổi tên truyện ngắn này thành Tiểu Ái theo yêu cầu của vợ. Suy cho cùng việc này không quan trọng. Cái quan trọng và đang làm tôi băn khoăn không ít, là ngay hôm sau, bất ngờ tôi phát hiện thấy chiếc gãi lưng bằng nhựa vô hại của tôi bỗng biến đâu mất. Nhà chỉ có vợ chồng tôi và bà già giúp việc hay làm vỡ bát đĩa nhưng chưa tắt mắt cái gì bao giờ. Thế mà tự nhiên mất. Lạ thật!
Không lẽ vợ tôi nghi có Tiểu Ái trong nhà?
Hà Nội, 10. 5. 2002


MẠC GIA THƯ KIẾM

Một sáng nọ tôi đang ngồi uống cà phê ngoài vườn thì bà giúp việc mang tới một bức thư, nói người ta đưa từ chiều hôm qua nhưng quên mất. Bà vẫn quên như vậy, có khi mấy ngày liền. Vì thư nhiều và thường chẳng có gì đặc biệt nên tôi không giận.
Bức thư viết: 
“Thưa ông,
Mọi người sẽ cho rằng câu chuyện Tiểu Ái ông in ở tạp chí Nhà Văn  tháng trước là chuyện bịa như hầu hết những truyện ngắn khác xưa nay. Nhưng tôi thì tôi tin từng chữ ông viết. Đừng hỏi vì sao. Cũng đừng nghĩ tôi điên. Tôi từng là nhà khảo cổ học, hàng chục năm chuyên nghiên cứu điển tích Trung Quốc, thậm chí có thể cung cấp thêm một số chi tiết liên quan đến Tiểu ái. Nếu muốn, ông còn được tận mắt nhìn thấy ở nhà tôi một trong hai chiếc kiếm của Can Tương mà tôi nghĩ một người như ông không thể chưa nghe nói đến. Hân hạnh được đón ông”.
Cuối thư có chữ ký của người viết là Cao Kiêm Ngạc, và địa chỉ.
“Chuyện gì vậy?” vợ tôi lúc ấy ngồi bên, hỏi khi thấy tôi đặt bức thư xuống bàn, mặt bần thần.
“Một ông điên nào đó nhận xét truyện Tiểu Ái. Bây giờ nhiều người điên thật. Nghe nói riêng ở Hà Nội đã hơn mười nghìn.
Vợ tôi cầm bức thư đọc qua rồi đứng dậy sửa soạn đi làm.
“Ừ, điên thật. Có lẽ ông cũng là một trong con số mười nghìn kia.”

                                                            *
Có nhiều truyền thuyết khác nhau về hai thanh kiếm nổi tiếng Can Tương, Mạc Gia, hay còn gọi Hùng kiếm (kiếm ông) và Thư kiếm (kiếm bà).
Theo Đông Chu Liệt Quốc thì Can Tương là thợ kim khí giỏi của nước Ngô. Một lần vua Ngô lúc ấy là Hạp Lư sai ông đúc một thanh kiếm thật tốt, thật quí. Ông cho mở lò ngay trước cửa Tượng Môn rồi chọn ngày tốt, giờ tốt, sai ba trăm đồng nam, đồng nữ ngày đêm túc trực đốt than bên lò, nhưng đốt ba tháng liền mà vàng và sắt vẫn không chảy. Ông buồn lắm, vì biết để đúc kiếm tốt, ngoài kim khí cần có thêm “nhân khí”. tức là thần linh muốn được tế  bằng người sống, mà phải người cao quí, thân thích. Ông nghĩ ngay tới Mạc Gia, vợ ông. Trước kia người thầy của ông cũng phải bắt vợ mình hy sinh như vậy. Theo đạo lý tòng phu, trung quân, cuối cùng Mạc Gia chấp nhận. Bà tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới rồi nhảy vào lò lửa đang cháy rừng rực. Quả một lúc sau sắt và vàng đều chảy, Can Tương đem đúc được hai thanh kiếm tốt. Thanh đúc trước đặt tên là Can Tương, có màu sáng trắng. Thanh sau nhỏ hơn chút ít, màu xanh nhạt buồn buồn, gọi là Mạc Gia. Cả hai đều rất sắc, đến mức con ruồi vô ý đậu lên lưỡi sẽ bị cắt làm đôi. Ông đem thanh đúc trước dâng lên vua Ngô, được vua tặng một trăm nén vàng. Sau này có người mách còn thanh nữa, vua cho quân đến lấy. Can Tương không chịu, rút kiếm Mạc Gia định chống trả. Thanh kiếm bỗng hóa thành con rồng xanh. Ông cưỡi lên lưng rồng rồi bay mất, từ đấy không tin tức gì nữa. Đến đời nhà Tấn, tức khoảng sáu trăm năm sau, huyện lệnh Phong Thành là Lôi Hoán ngẫu nhiên đào được cái rương bằng đá dài sáu thước, rộng ba thước, mở ra thấy hai thanh kiếm cổ, lấy đất ở núi Tây Sơn mà đánh thì một thanh sáng chói, thanh kia màu lam nhạt. Trên kiếm, chỗ sát tay cầm có ghi hai chữ Can Tương và Mạc Gia. Ông đem thanh Hùng kiếm tặng thừa tướng Trương Hoa. Một hôm hai người mang kiếm báu đi chơi, đến bến Diên Bình Tây thì bỗng nhiên cả hai thanh kiếm nhảy xuống sông, biến thành hai con rồng ngũ sắc. Từ đấy không ai biết gì thêm về hai thanh Can Tương và Mạc Gia.
Sách Liệt Dị Truyện, tương truyền của Tào Phi, thì chép như sau: “Can Tương rèn kiếm cho vua Sở ba năm mới xong. Ông dâng Thư kiếm cho vua, còn Hùng kiếm thì dấu đi, bảo vợ: ‘Ta dấu kiếm ở phía bắc Nam Sơn, phía đông Bắc Sơn, cạnh cây tùng mọc trên đá. Nếu vua biết mà giết ta, và nếu mình sinh con trai thì hãy bảo nó tới đấy lấy kiếm mà trả thù’. Quả nhiên vua biết chuyện, giết Can Tương. Mạc Gia đẻ con trai, đặt tên là Xích Tỵ. Lớn lên, Tỵ đào bới khắp nơi, chặt hết cả tùng bách ở Nam Sơn và Bắc Sơn vẫn không thấy kiếm đâu, sau tình cờ đào dưới cột nhà mình lại thấy. Vua Sở chiêm bao có người muốn hại mình, bèn sai quân đến giết Xích Tỵ. Tỵ trốn vào núi Chu Hưng, gặp được người đồng ý giúp chàng báo thù cho cha. Theo kế, Tỵ dùng Mạc Gia thư kiếm tự cắt đầu mình, đưa cho người ấy mang vào cung nộp vua Sở. Vua sai ném vào vạc dầu, nhưng nấu ba ngày đêm đầu Tỵ vẫn không chìm. Thấy lạ vua ghé lại xem, liền bị người kia dùng kiếm chém đầu rơi xuống vạc, rồi ông ta cũng tự cắt đầu mình ném vào đó. Một lúc sau cả ba đầu đều chìm, da thịt tróc hết, không phân biệt được của ai là cái nào. Người ta đành đem cả ba chôn chung một mộ, gọi là mộ ba vua. Văn hào Lỗ Tấn về sau dựa trên tích này viết truyện ngắn “Luyện kiếm” nổi tiếng của ông.
Cuốn “Sưu Thần Ký” của Can Bảo đời Tấn, cuốn “Sở Vương Trù Kiếm Ký” của Triệu Hoa đời Hậu Hán và chắc còn nhiều cuốn khác mà tôi không biết cũng nhắc đến hai thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia. Tất cả chỉ là những truyền thuyết, người ta đọc như đọc những câu chuyện cổ tích ly kỳ. Riêng tôi chỉ thấy hay và xúc động những chi tiết liên quan đến Mạc Gia, người đàn bà - nạn nhân muôn thuở của đàn ông và những giáo lý độc ác họ nghĩ ra.
Còn cái ông Cao Kiêm Ngạc kỳ cục này thì liên quan gì? Làm sao một trong hai thanh kiếm kia rơi vào tay ông ta, nếu quả trên đời có những thanh kiếm như thế? Ông ta là kẻ điên khùng, hẳn vậy. Nhưng sao dám hứa cho tôi xem? Hay có âm mưu mờ ám gì chăng? Tôi cứ băn khuăn mãi điều ấy. Cuối cùng, do bị ám ảnh không sao thoát ra nổi, tính tò mò khiến tôi quyết định đến gặp ông ta theo địa chỉ đã ghi. Tôi rủ vợ đi cùng nhưng bà ấy không chịu.

                                                  *
Hóa ra ông Ngạc ở trong một ngôi nhà tử tế, khu phố tử tế. Bản thân ông hình như cũng là người tử tế nốt. Chí ít không điên hoặc dở hơi như tôi vẫn ngại. Đó là một ông già gầy gò trong bộ vét rộng màu xám kiểu cổ, đã cũ nhưng còn tươm tất. Thoạt nhìn trông ông từa tựa một con chim. Con cú xám. Mái tóc ông bạc gần hết, chiếc mũi nhọn, khuôn mặt dài và quắt. Lúc tôi bước vào, ông đang ngồi trên chiếc ghế không lưng tựa cạnh bàn và cúi xuống làm gì đó, đúng cái thế một con cú co ro trên cây, nên tôi mới nảy ra sự so sánh ấy, chứ bản thân con người ông không toát lên sự gian trá hay độc ác nào. Một người tử tế như đã nói.
Ông ngước đôi mắt chim nhìn tôi, đầu hơi ngoẹo sang một bên.
“Tôi biết thế nào ông cũng đến”, ông nói, có vẻ biết rõ tôi là ai, và không mảy may ngạc nhiên. “Mà đến là đúng. Ông sẽ không hối tiếc đâu”.
“Vì tò mò thôi, - tôi thành thật đáp. - Chứ chẳng vì tin những gì ông nói”.
“Không sao. Rồi ông sẽ tin”.
Nói đoạn, ông nhẹ nhàng bước vào phòng trong. Cả cách đi của ông cũng giống loài chim. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Không gì đặc biệt, ngoài việc trong phòng có rất nhiều đồ cổ để rải rác trong tủ, các góc và trên tường. Cả căn phòng cũng thuộc loại phòng xưa, sạch và ngăn nắp theo cách riêng của mình. Điều này làm tôi đoán ông sống độc thân.
Lát sau chủ nhà quay ra với một thanh gỗ dẹt hình chữ nhật đen xạm vì thời gian, nhìn kỹ thấy giống chiếc vỏ kiếm.
“Nó đây, Thanh Mạc Gia thư kiếm tôi nói đây. Đúng chiếc Can Tương đã đúc. Có phần máu thịt của vợ ông ta trong đấy.”
Ông Ngạc lại chăm chú nhìn tôi, đầu vẫn ngoẹo như trước.
“Tôi biết ông không tin. Nếu có tin thì đang tự hỏi bằng cách nào nó lọt vào tay tôi. Đúng không?”
Tôi gật đầu.
“Trước hết ta thống nhất với nhau một điều. Như tôi tin và không căn vặn gì về câu chuyện Tiểu Ái của ông, xin ông cứ tin những gì nghe, thấy hôm nay và không hỏi những câu ngốc nghếch. Đời có nhiều sự lạ, tiếc bây giờ người ta quá thiển cận không nhận ra. Tôi là hậu duệ của cụ Cao Biền Trung Hoa ngày xưa. Chắc ông biết cụ. Cụ người Bột Hải, một nhà thơ lớn đời Đường. Hình như ông có dịch một số bài tứ tuyệt của cụ? - Tôi lại gật đầu, thầm ngạc nhiên ông già này cũng đọc tập Cổ Thi Tác Dịch tôi in mấy năm trước. - Vậy thì như ông biết, cụ được phong Chinh Nam Tướng Quân sang trấn trị Giao Châu từ năm 864 tới năm 875. Cụ có công khai khẩn nhiều vùng đất, góp phần làm nên nước Việt Nam ta ngày nay. Tất cả người Việt mang họ Cao đều con cháu cụ. Cụ giỏi phong thủy và thường cưỡi diều bay đi khắp nơi để yểm địa mạch. Các giai thoại về cụ chắc ông còn biết nhiều hơn tôi. Tiếc rằng sau khi được gọi về nước làm Tiết độ sứ Hồ Nam, cụ bị bọn gian thần gièm pha mà buộc phải tự tử. Tự tử chứ không bị giết như sử sách chép. Cụ đủ khôn ngoan để biết trước sự việc và lo kế trù liệu. Một tháng trước khi chết, cụ sai người con út là Cao Kiệm mang báu vật duy nhất của gia tộc là thanh kiếm này sang Giao Châu cất giấu. Rất tiếc tôi không biết cụ có nó từ bao giờ và cách nào. Chỉ biết Cao Kiệm định cư hẳn ở Giao Châu, chính xác là ở tổng An Lão, Bắc Ninh ngày nay và lập nên dòng họ Cao đông đúc của chúng tôi ở đó. Còn thanh bảo kiếm thì được truyền hết đời này sang đời khác cho đến tôi”.
Ông Ngạc đứng dậy, rút thanh kiếm khỏi vỏ. Nó mỏng và khá dài. Không phải màu xanh nhạt mà hơi trắng xỉn, đôi chỗ đen như vết gỉ. Trông nó khá bình thường, là điều ít nhiều làm tôi thất vọng.
“Ông có thấy hai chữ Mạc Gia đây không?”
Tôi cúi xuống nhìn nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy nét mờ vòng vèo chỗ sát đuôi kiếm. Tuy vậy tôi vẫn có cái cảm giác hồi hộp thật lạ khi chạm ngón tay vào thanh kiếm mát lạnh như chạm vào quá khứ xa xôi cùng những truyền thuyết ly kỳ về nó, dù thực ra tôi chưa tin lắm những gì đang được chứng kiến.
“Đừng chạm vào lưỡi. Sắc lắm đấy!”
Rồi như để chứng minh cho độ sắc của thanh kiếm, ông vung tay chém cây nến còn mới nguyên dài bằng gang tay trên chiếc đôn gỗ lim cạnh đấy.
“Ông xem này, - ông Ngạc nói, chìa cây nến cho tôi. - Tôi mới chém ngang qua nó, nhưng lưỡi kiếm sắc đến mức dẫu bị cắt làm đôi, cây nến vẫn còn nguyên, đơn giản vì không có thời gian để đứt. Chỉ để lại một nhát cắt rất mảnh, nếu mắt kém chắc ông không thấy”.
Tôi nhìn thấy vết cắt ấy, thấy cả lưỡi kiếm chém đúng giữa thân nến, nhưng không thể tin cách ông giải thích.
Biết tôi đang băn khuăn, ông Ngạc đưa mắt nhìn quanh như muốn thử lần nữa. Bỗng nhiên tôi thấy sợ. Một nỗi sợ mơ hồ như đang bị lôi vào một âm mưu mờ ám, dẫu con người đang cầm thanh kiếm sắt ngọt trước mặt có vẻ tử tế và chắc không muốn hại tôi.
Chợt một con mèo tam thể rất to nhưng gầy từ phòng trong đi ra. Nó nhảy lên đứng trên góc xa chiếc bàn lớn tôi đang ngồi, rồi uể oải vươn cổ ngáp đúng lúc ông Ngạc vẩy lưỡi kiếm về phía nó. Con mèo kêu một tiếng. Chẳng hiểu vì bị chém hay nó vẫn kêu như vậy mỗi lần ngáp.
“Tôi mới chém đứt cổ nó xong. Đứt mà không đứt như vừa nói. Bây giờ chắc ông đã tin?”
Tôi ngồi im, phần vì sững sờ, phần chẳng biết nói gì.
“Vậy hóa ra chém mà không chém?” Cuối cùng tôi lên tiếng.
“Theo cách ông nghĩ thì đúng thế. - Ông Ngạc mãi lúc sau mới đáp. Ông cẩn thận cho kiếm vào vỏ. Tôi lén thở dài nhẹ nhõm. May ông không có ý định thử chém người. - Tức là một thanh kiếm vô tích sự vì không còn chức năng chém giết? Không. Đây là Mạc Gia Thư kiếm, báu vật có một không hai trên đời. Chuyện nó hóa rồng xanh cùng nhiều chuyện khác là do người ta phịa, nhưng quả đúng thanh kiếm có phép lạ. Muốn giết ai, chỉ cần trỏ mũi kiếm vào người đó. Ông lại ngạc nhiên? Vì nó sắc và mạnh đến mức có thể làm chết người qua khoảng cách, tất nhiên nếu khoảng cách ấy không quá lớn”.
“Thế thì thật nguy hiểm, - tôi nghĩ. - Vì vô ý hoặc do đùa, người ta có thể gây án mạng”.
“Đúng. Nhưng không phải trong bất kỳ tay ai nó cũng có được phép lạ ấy” Ông Ngạc nói.
Tôi thầm ngạc nhiên sao ông đoán hiểu điều tôi nghĩ. Hay tôi đã nói lên thành lời?
“Chỉ những người chủ hợp pháp của nó mới làm được. - Ông nói tiếp. - Mà lúc chỉa mũi kiếm, phải có ý nghĩ muốn giết người ấy. Ông có muốn tôi thử cho xem không?”
“Không, cảm ơn”, tôi vội đáp.
“Ông ta kể mình nghe, cho mình xem tất cả những điều này để làm gì nhỉ? - Tôi lại nghĩ. - Ông ta cần gì ở mình? Chắc mình được mời đến đây không phải vô cớ ”.
“Vâng, không vô cớ, tôi muốn thương lượng với ông một chuyện”.
Ông Ngạc nói ngay. Lần này thì tôi tin chắc ông có khả năng đọc được ý nghĩ người khác, và thầm nhắc mình phải cẩn thận.
“Chuyện gì?” tôi hỏi.
“Nếu ông đồng ý, tôi xin được đổi thanh kiếm gia bảo này lấy cánh tay nàng Tiểu Ái”.
“Nhưng đó là câu chuyện tôi phịa hoàn toàn. - Tôi kêu lên, suýt nữa phì cười. - Tôi là nhà văn như ông biết, và chẳng hề có cánh tay Tiểu Ái nào cả. Cái tên ấy cũng do tôi phịa ra!”
“Không quan trọng. Tiểu Ái hay không Tiểu Ái không quan trọng. Cái quan trọng là từng có một cô gái bị chặt tay như thế, và nhờ ông, cô gái ấy đã sống lại và được mọi người biết đến, được cùng ai đó làm đàn bà trên giường. Có thể ông không có cánh tay Tiểu Ái thật nhưng tôi hy vọng ông còn giữ được cái gãi lưng bằng nhựa hình bàn tay người mua năm ngoái ở Trung Quốc. Cái mà ông viết bị con chó con gặm mất một ngón và bà vợ ghen đem giấu đi ấy mà. Bây giờ ông vẫn có nó chứ?”
“Có. Luôn ở ngay trên bàn làm việc của tôi. Nhưng tôi cũng phịa cả chi tiết nó bị vợ giấu...”
“Không quan trọng. Vậy ông có đồng ý đổi nó cho tôi để lấy thanh kiếm này không? Một khi chẳng xem trọng nó như thế thì chắc ông không tiếc. Xin ông khỏi bận tâm tôi cần nó làm gì. Tôi là người tử tế như ông nghĩ, và tất nhiên chỉ làm những việc tử tế”.
“Nhưng đây là Mạc Gia Thư kiếm, bảo bối vô giá của dòng họ ông?”
“Thì cánh tay Tiểu Ái, hay cái gãi lưng nhựa rẻ tiền trên bàn như ông nói, cũng là vật quí hiếm không kém. Vả lại tôi đã già, sống một mình và hiện không người thân thích. Lớp người trẻ chi họ Cao Kiêm chúng tôi ngày nay chẳng đứa nào ra hồn, không đáng truyền lại một vật quí hiếm thế này. Trong tay kẻ xấu, nó có thể gây tai họa. Thà giao cho ông còn hơn. Lại được thêm nàng Tiểu Ái. Thế nào, ông đồng ý chứ?”
“Tôi sẽ làm gì với một thanh kiếm quí như thế?” Tôi hỏi, thầm nghĩ ông già này có lẽ điên thật, nhưng vội đỏ mặt khi chợt nhớ ông ta biết đọc ý nghĩ người khác. Quả có điên mới nghĩ ra được một vụ đổi chác kỳ cục như thế. Tức là ông ta cho không tôi thanh kiếm.
“Đó là việc của ông. Cũng như việc của tôi muốn làm gì với Tiểu Ái thì làm. Hy vọng ông sẽ không giết người một cách vô cớ...”
“Tôi không bao giờ giết người”.
“Vậy thì hãy giữ nó như một thứ đồ cổ. Ông chẳng thích đồ cổ lắm đó sao?”
Thấy tôi có vẻ xuôi xuôi, ông Ngạc nói thêm:
“Xin ông đừng lo tôi thiệt. Có thể ông chưa biết hết giá trị cái gãi lưng của ông. Tôi sẽ có cách lấy nó mà chẳng phiền ông mang đến đây. Còn cây kiếm này thì coi như đã thuộc về ông. Hoàn toàn hợp pháp. Thế là chúng ta thỏa thuận xong. Cảm ơn ông”.
Ông Ngạc lại nghiêng đầu nhìn tôi bằng đôi mắt chim màu xám của mình rồi đứng dậy, ông thong thả đi vào phía trong. Chiếc áo vét rộng màu xám xòe hai thân như hai cánh chim đang vỗ. Một chốc sau ông biến mất (có cảm giác như ông nhẹ nhàng bay đi), để tôi một mình ngơ ngác bên bàn với thanh kiếm Mạc Gia trên tay.
                                                  *   
Về nhà, việc đầu tiên tôi làm là chạy tới bàn xem chiếc gãi lưng có còn ở đấy không. Không! Tôi ngồi xuống giường, thừ người một lúc. Vậy là ông Cao Kiêm Ngạc đã lấy nó đi. Bao giờ và cách nào không biết, nhưng chắc chắn là ông. Nó vẫn luôn nằm ở chỗ cố định ấy và chẳng ai ngoài tôi động đến nó.
Cái ông Ngạc này là ai nhỉ? Người hay ma? Hay chim cú? Hay đơn giản tất cả chỉ là một trò đùa chẳng mấy thú vị?
Còn bàn tín bán nghi, nhưng tôi bị kích động thực sự và rất hồi hộp. Dù trong nhà chẳng có ai trừ bà giúp việc luôn ở trong bếp, tôi vẫn đóng chặt cửa phòng mình và quyết định thử chiếc kiếm.
Tôi run run rút nó khỏi vỏ, để ngửa lên mặt bàn, và cũng run run như thế, đặt lên lưỡi kiếm một tờ giấy trắng mới cứng. Ngay lập tức tờ giấy bị cắt làm đôi. Lưng tôi ướt đẫm từ lúc nào. Sẵn trên bàn có cây nến, không còn nguyên nhưng khá dài, tôi vội cầm kiếm cắt ngang. Chậm thôi, có lẽ vì vậy đoạn bị cắt rơi xuống chứ không dính liền như ở nhà ông Ngạc. Tôi thử lần nữa, nhanh hơn, mạnh hơn, rồi cầm lên xem, còn bẻ bẻ ở chỗ mới bị chém. Quả nó không sao. Thậm chí không thấy cả vết chém. Tôi lại ngồi thừ người nhìn thanh kiếm, không phải không thoáng lo sợ. Tuy nhiên, vẫn còn một điều nữa phải thử. Nhà tôi không nuôi mèo nhưng có con chó con nghịch ngợm, hay sủa vu vơ. Nó là con chó dễ thương, nó yêu tôi nhất vì không bị tôi mắng và hay được cho ăn. Tôi không thể đem nó làm vật thí nghiệm.
Cuối cùng, ngồi trước bàn làm việc nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ có kính che, tôi giơ thanh kiếm nheo mắt chỉ đúng vào một quả trên cây cau trước nhà, ở khoảng cách bảy mét. Cả buồng còn xanh non, không hiểu sao nó có màu vàng. Vừa ngắm, tôi vừa mong nó rụng. Mấy giây sau, nó rụng thật, hình như bị bổ làm đôi. Sau đó tôi chĩa mũi kiếm vào quả bóng nhựa màu xanh bọn trẻ đá lên mái nhà hàng xóm từ bao giờ. Lập tức nó cũng rơi xuồng đất. Tôi còn thử một số khoảng cách khác và phát hiện thấy nó chỉ có tác dụng trong vòng hai mươi lăm, ba mươi mét. Thế cũng xa lắm rồi.
Tôi cho kiếm vào vỏ, giấu kỹ dưới gầm tủ rồi lên giường nằm suy nghĩ miên man.
                                                  *     
Vâng, không nghi ngờ gì nữa, tôi đang có trong tay Mạc Gia thư kiếm, thanh kiếm quí giá nhất trên đời, quí hơn cả nàng Tiểu Ái kiều diễm, nếu quả thật nàng đang ẩn mình trong chiếc gãi lưng rẻ tiền của tôi mà ông Cao Kiêm Ngạc đang giữ. Tôi thầm mỉm cười thương hại ông già tội nghiệp. Mong cho ông được hạnh phúc với nàng.
Nhưng tôi sẽ làm gì với thanh kiếm quí có phép lạ ấy? Trước hết tôi quyết định giấu kín không cho ai biết, vì sợ vợ tôi tò mò có thể bị đứt tay hoặc thậm chí làm chết tôi hay ai đó. Tôi có thể đơn giản giữ nó như giữ một thứ đồ cổ quí hiếm, ông Ngạc từng nói như vậy. Tất nhiên, nhưng nó không chỉ là đồ cổ mà còn là thứ vũ khí lợi hại. Vậy là tôi được trao phép lạ có thể hủy diệt cái gì đó, ai đó mà không ai biết. Chẳng phải đấy không là một cám dỗ lớn? Tuy nhiên vốn hiền lành, lại đã qua từ lâu cái thời có thể hung hăng gây gổ nên bây giờ tôi hoàn toàn không có nhu cầu giết người. Mà cũng không có ai thù oán đến mức phải giết.
Tôi có anh hàng xóm là một chủ doanh nghiệp tư nhân trẻ. Một tay hãnh tiến lắm tiền nhiều thế lực. Kể ra anh ta cũng chẳng quá tồi so với người khác, có điều thích khoe giàu một cách lộ liễu nên bị cả xóm ghét, chính xác hơn là ghen tị. Tôi thì dửng dưng, chỉ hơi khó chịu vì chiếc Mercedes mới toanh của anh ta hay đột ngột bấm còi (để nhắc người khác nhớ đến sự hiện diện của nó), lại thường xuyên để chềnh ềnh trước nhà tôi làm vướng lối đi. Hôm nọ thấy tôi vội vã ra bến xe buýt, anh ta ngỏ ý mời lên xe đi cùng vì tiện đường. Có thể chân thành chứ chẳng ý gì, nhưng tôi vẫn thấy như bị xúc phạm. Lúc này từ  trong phòng nhìn ra, với thanh kiếm có phép lạ bên cạnh, tôi bất chợt thấy mình có ý nghĩ muốn chĩa mũi kiếm sắc nhọn vào lốp hay lớp sơn bóng lộn của chiếc xe, biểu tượng giàu có và địa vị xã hội, đồng thời cũng là cái làm người sở hữu nó trở nên kệch cỡm. Chắc thấy xe xẹp lốp hoặc thân bị chọc thủng, anh ta sẽ đau đớn lắm. Hay cứ dạy cho anh ta một bài học?
Vì không là người ác, cuối cùng tôi đã không làm điều ấy. Nhưng ý nghĩ kỳ cục này cứ lẫn quất mãi trong đầu, đến mức không tập trung làm việc được. Cuối cùng tôi giấu thanh kiếm vào chỗ cũ và bỏ đi dạo. 
Thường vẫn thế, khi ta cố không nghĩ đến cái gì đó thì cái ấy càng ám ảnh ta nhiều hơn. Đúng, tôi đang bị thanh kiếm ám ảnh, ám ảnh ghê gớm. Suốt buổi chiều hôm ấy tôi không nghĩ được gì khác ngoài nó. Thậm chí tay như ngứa ngáy. Bước đi trên hè phố, tôi hình dung đang cầm kiếm giết kẻ ác giúp đời. Giết cả bọn khủng bố quốc tế như Bin Laden chẳng hạn. Ngớ ngẩn, nhưng quả thật tôi có những ý nghĩ như vậy. Hệt như một tên khát máu giết người không ghê tay. Thấy con chó chạy ngang, tôi nghĩ kể cũng hay nếu chém nó đứt đôi mà không đứt đôi như cây nến ở nhà ông Ngạc.
Chiều hôm ấy tôi phóng xe đến nhà ông và không tin nổi mắt mình khi thấy ở đúng số nhà trên phố hôm trước tôi đã đến theo đúng địa chỉ ghi trong thư, bây giờ là một ngôi nhà khác hẳn với bà lão chủ nhà đang ngồi bán mấy thứ vặt vãnh trước cửa. Vậy là ông Ngạc này không phải người mà ma quỉ. Tôi lo lắng nghĩ rồi bỏ đi luôn.
Buổi tối ngồi ăn cơm, tôi nhìn chiếc cổ trắng hơi đẫy đà của vợ và lại nghĩ đến thanh kiếm. Tôi rùng mình hình dung thấy thanh kiếm sắc ngọt chém đứt cái cổ trắng đẫy đà ấy mà đầu vẫn không rơi. Không có máu. Không chết.
“Ông nhìn gì thế?” vợ tôi hỏi.
“Hình như dạo này bà béo ra”.
“Vớ vẩn. ăn đi. Lại phịa ra một nàng Tiểu Ái nào nữa chắc? Đã điên còn làm người khác điên theo”.
Vợ tôi vẫn có kiểu nói như vậy nhưng thường lại nghĩ khác nên tôi không bao giờ cãi lại. “Lần này thì là chuyện thật đấy, không đùa chút nào đâu!” tôi nghĩ nhưng không nói ra miệng.
Tôi ngủ một đêm chập chờn với những giấc mơ kỳ cục và kinh hãi.

                                                  *
“Ban đêm ông dậy lục tủ lạnh đấy à?” Vợ tôi hỏi khi ngồi vào bàn ăn sáng.
“Không, - tôi đáp. - Thì sao?”
“Chẳng sao cả. Tôi nghe có tiếng động”.
“Hình như nhà ta có ma...” bà giúp việc rụt rè lên tiếng. “Đêm qua, lúc gần sáng cháu thấy động ở phòng khách, sợ con mèo nhà bà Nguyệt làm đổ mấy lọ sứ nên chạy vào xem. Cháu hoảng hồn đứng lặng người khi thấy ai đó mặc đồ xanh đang múa may quay cuồng như tấm vải lớn lượn vòng với cái gì đó sáng loáng trong tay. Cháu sợ quá không kêu lên nổi. Khi dụi mắt nhìn kỹ thì chẳng thấy gì nữa. Nói ông bà đừng cười, nhưng người ấy, tấm vải ấy múa thế này này...” Bà đưa bàn tay đang cầm đũa khua một vòng trước mặt. “Sau đó cháu chẳng dám ngủ nữa, cũng chẳng dám vào phòng khách, nhưng chắc chắn người đó còn múa thêm một lúc mới thôi”.
“Nhảm nhí. Ma với quỉ!” tôi nói át đi.
“Người ta bảo xóm ta trước đây là nghĩa địa phải không ạ?”
“Cũng nhảm nhí nốt. Ao muống chứ nghĩa địa nào?” Tôi đáp dù biết quả đúng như thế. Nghĩa địa làng Ngọc Lâm. Nhưng chắc điều này không liên quan gì đến chuyện bà ta kể. Chúng tôi sống ở đây gần chục năm mà chẳng có gì xẩy ra.
Cả ba ngày tiếp theo bà giúp việc vẫn kêu nhà có ma, mặt phờ phạc hẳn do mất ngủ và lo sợ. Vợ tôi không nói gì thêm nhưng chắc nghĩ chồng đêm đêm vẫn lục tủ lạnh.
Tôi lại lấy thanh kiếm ra xem. Nó vẫn ở chỗ cũ, lạnh lẽo và vô hồn. Từ trong phòng, qua lớp kính cửa sổ, tôi thử nghịch, làm đứt một cành lớn hoa giấy, cách chỗ ngồi đến mười lăm mét. Những ý nghĩ vớ vẫn lại lởn vởn trong đầu. Hai tay như ngứa ngày muốn làm điều gì. Sự ngứa ngáy của người có sức mạnh muốn đem ra thử. Đấy là sự lạ vì xưa nay tôi ít khi bị phân tán tư tưởng, càng không nghĩ vẩn vơ việc chém giết. Nghĩa là đã xuất hiện một sự thay đổi nào đó trong tôi. Thanh kiếm! Chính sức mạnh và phép lạ của nó làm tôi thay đổi. Thay đổi theo hướng nguy hiểm. Thế thì thật đáng sợ.
Tối ấy đang ngủ, tôi chợt mở mắt và thấy đứng ngay đầu giường là một người phụ nữ, hay đúng hơn cái gì đó giông giống người phụ nữ với thanh kiếm sáng loáng trong tay. Tưởng mình mơ tôi dụi mắt, vẫn thấy người ấy đứng yên và đang chăm chú nhìn tôi. Dụi lại lần nữa thì chẳng còn thấy đâu. Sáng hôm sau chưa kịp dậy, tôi đã nghe bên ngoài nhốn nháo tiếng người. Thì ra có kẻ ghen tị độc ác đã dùng dao đâm thủng hai vết lớn vào thân xe bóng lộn chiếc Mercedes của anh hàng xóm vẫn đỗ bên cổng nhà tôi như mọi lần...
P.S.
Chuyện này xẩy ra cách đây ba ngày. Trong khoảng thời gian ấy công an đã kịp đưa cậu Hoàng lên đồn. Cậu ta thuộc loại “thanh niên chậm tiến”, con một gia đình trong xóm vừa có trận cãi nhau với chủ chiếc Mercedes. Tôi kịp thuyết phục bà giúp việc đừng vì sợ ma vu vơ mà bỏ về quê. Trong ba ngày ấy, tôi cũng kịp lén lút đem thanh Mạc Gia Thư kiếm quí hiếm đến một lò rèn ở phố Sinh Từ nhờ rèn thành mấy chiếc liềm cắt cỏ. Vì sao lại liềm cắt cỏ? Đơn giản lúc ấy tôi không nghĩ được gì khác ngoài chúng. Tôi vốn từ nông thôn, ngày bé từng chăn trâu cắt cỏ. Ông chủ lò rèn có vẻ tiếc khi phải đem thanh kiếm cổ làm thành những vật tầm thường như vậy. Ông gạ mua, trả giá cao nhưng tôi không chịu. Cuối cùng, sau ba giờ mấy người làm việc cật lực trước sự chứng kiến của tôi, tôi có được bốn chiếc liềm mang về nhà. Những chiếc liềm bình thường, thậm chí hơi thô. Tôi giữ một chiếc cho mình làm kỷ niệm, còn lại có dịp sẽ gửi về quê.
Vậy là thoát được thanh kiếm quí. Thật lạ rằng tôi có thể giải quyết mọi việc đơn giản và nhanh chóng đến vậy, và không mảy may luyến  tiếc. Bà giúp việc không còn thấy ma, do vậy đêm ngủ không bật đèn sáng trưng như trước. Tôi cũng lấy lại được sự thanh thản, trong đầu không còn luẩn quẩn những ý nghĩ kỳ cục, trừ một ý nghĩ nhỏ rằng một người bình thường có thể sống thảnh thơi, hạnh phúc suốt đời nếu không vì bỗng nhiên có được sức mạnh hay loại vũ khí phi thường nào đó. Lúc ấy mọi việc sẽ phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Cho mình và cho người khác.
À, còn thêm điều này nữa. Đêm qua tôi đã gặp Mạc Gia. Vâng, đúng thế. Số là đang ngủ, tôi có cảm giác như ai đang chăm chú nhìn mình. Mở mắt ra thì thấy người đàn bà áo xanh hôm nọ. Bà xưng tên và cho biết trước đây bà chỉ là cô gái nông thôn nghèo bình dị, vì có chút nhan sắc nên bị Can Tương bắt về làm lẽ, sau cũng chính ông ta xô bà vào lò luyện kiếm chứ chẳng phải tự bà hy sinh vì chồng như người ta nói. Từ ấy bà phải làm cái  việc chém giết mà bà luôn kinh tởm. Nay được giải phóng về với nơi mình vốn quen thuộc là làm ruộng, bà rất mừng, do vậy bà đến để cảm ơn tôi trước khi lên đường trở lại quê cũ.
Câu chuyện ly kỳ đến mức tôi không dám tin là  thật, và dù được tận mắt nhìn thấy bà, nghe bà nói, tôi vẫn nghĩ có thể đấy đơn giản chỉ là một giấc mơ. Dạo này già, thỉnh thoảng tôi vẫn có những giấc mơ như vậy.
Hà Nội, tháng Năm, 2002
                                                 
 
NHÀI
         
Lần ra Hà Nội công tác gần đây, ông N., người bạn cũ từng cung cấp tư liệu giúp tôi viết truyện ngắn “Cái chết của con voi chột” hai mươi năm về trước, đã kể tôi nghe một câu chuyện kỳ lạ, cũng xẩy ra ở cái nông trường S.V ấy. Nếu có điều gì phi lý, cho rằng không thể tin được, thì các bạn cứ trách ông chứ không phải tôi, người đơn thuần chỉ thuật lại một cách trung thực.                  
                                                  *     
Ở thị trấn miền núi Tương Dương, tỉnh Nghệ An, cách đây khoảng chục năm có người họ Bùi, tên Kiên. Không ai biết nhân thân, quê quán hắn ở đâu, chỉ thấy một hôm có mấy người lạ xuất hiện, đẵn cây dựng ngôi nhà nhỏ bên rìa thị trấn. Rồi mấy người kia đi, để mình hắn ở lại. Có lẽ họ là dân đào vàng thất bại không muốn trở về quê. Thị trấn phát triển, khu hắn ở dần dần thành xóm mới và hắn nghiễm nhiên thành láng giềng của mấy gia đình khá giả có nhà mái bằng một, hai hoặc thậm chí ba tầng, nhà nào cũng có rào sắt bao quanh sơn màu xanh tươi, hơi chối đối với người thành thị xịn, nhưng đó là mốt của dân ở đây. 
Hắn hiền lành, chỉ tội hơi đần độn, không biết học hành được bao nhiêu nhưng cách cư xử, ăn nói thì không đến nỗi. Mà hắn cũng rất ít nói. Chỉ cười, thấy ai cũng cười, kiểu cười bộc lộ rõ chất thiểu năng trí tuệ của hắn.
Sống ở thị trấn, theo nghĩa nào đó là dân thành thị, nhưng hắn kiếm ăn hệt như người miền núi, hàng ngày vào rừng đào măng mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo và các thứ lặt vặt khác. Vì tốt bụng, hắn hay đem măng biếu không hàng xóm, giúp họ nhiều việc như cuốc mảnh vườn, sơn lại bờ rào. Tất nhiên không ai trả tiền công mà có trả hắn cũng không lấy. Thành ra mọi người thích, có thể nói thương hắn. Thương anh Kiên Hiền. Tội nghiệp anh Kiên Khù Khờ, hơn ba mươi tuổi rồi mà chẳng cô nào chịu lấy.
Thậm chí cả mụ Xinh nhà kề bên cũng thích hắn. Tên là Xinh nhưng mụ chẳng xinh chút nào, bốn mươi tuổi, to béo, mặt bóng nhẫy, nhìn kỹ thấy có những nốt đậu mùa to còn sót lại. Mụ đanh đá, độc ác, lại có tính lẳng lơ. Chồng mụ lái xe đường dài, có khi hàng tháng chẳng về. Thấy anh hàng xóm cao to trắng trẻo, dẫu ngốc nhưng đúng là người mụ cần, nhiều hôm mụ vờ gọi hắn sang nhờ này nọ rồi trắng trợn gợi ý. Có thể vì không muốn, vì sợ hoặc vì ngốc không hiểu, hắn chẳng chịu làm gì, khiến mụ tức lắm, một lần đốp luôn vào mặt: “Đàn ông mà ngu thế!” Đáp lại, hắn chỉ cười, nụ cười ngớ ngẩn thường ngày.
Lần nọ, chẳng hiểu thế nào cái thằng ngốc hiền lành ấy nhặt được đâu đó một cây nhài người ta vứt ngoài đường, đem về trồng trước ngôi nhà tuềnh toàng của mình. Cây hoa còn rễ nhưng đã héo, người khôn ngoan chắc chẳng trồng vì biết nó không sống nổi. Thế mà nó sống lại rất nhanh và chẳng bao lâu sau đã thành một bụi nhài xanh tốt nở nhiều hoa, tỏa hương thơm nồng, đến mức mụ Xinh chõ miệng sang, buông hai tiếng: Điếc mũi! Tuy nhiên, hắn lại thích cái mùi găn gắt dễ chịu ấy. Đêm đêm hắn xách ghế ra ngồi ngoài sân bên bụi nhài, thỉnh thoảng nhíu mũi hít thật sâu, có khi còn hái một bông mân mê trên tay, mặc cho mụ hàng xóm lườm nguýt hoặc cười duyên tình tứ. Đây là sự lạ, vì xưa nay hắn không thuộc loại người lãng mạn, lại càng xa với những thứ vớ vẩn như hương, hoa. Chẳng hiểu trong cái đầu chậm chạp và tăm tối ấy của hắn đã xuất hiện những ý nghĩ gì.
Một đêm, đang mơ mơ màng màng trên giường sau khi ngồi hàng giờ liền ngửi hương hoa ngoài sân, hắn bỗng nghe có tiếng cửa mở rồi tiếng chân ai đó đang bước vào rất khẽ. Lúc đầu tưởng ngái ngủ nghe nhầm, nhưng sau mở mắt, hắn ngạc nhiên thấy đúng có người vào nhà hắn thật mà lại phụ nữ. Một cô gái mặc đồ trắng dáng mảnh khảnh và hình như xinh. Nhờ ánh trăng chiếu chếch qua vách nhà thưa, hắn thấy đúng như vậy. Rõ ràng không phải mụ Xinh như lúc đầu thoạt tưởng. Hắn lấy làm lạ. Ai nhỉ? Sao lại vào đây và giờ này? Đầu óc chậm chạp của hắn bắt đầu ngọ nguậy. Có thể cũng vì chậm chạp và ngớ ngẩn nên hắn không thấy sợ như người bình thường trong những trường hợp tương tự. Chỉ tò mò. Người kia, đúng là một cô gái và cũng xinh, bước lại gần rồi nhẹ nhàng ngồi xuống mép chiếc giường nơi hắn, kể cũng lạ, vẫn nằm yên. Chắc lúc ấy hắn vẫn nghĩ đây chỉ là giấc mơ, một giấc mơ đẹp và hắn không muốn ngồi dậy để thất vọng quay lại với cảnh suốt đời một mình thui thủi.
- Cô là ai? - cuối cùng hắn lên tiếng hỏi.
- Em là Nhài, - cô gái nhỏ nhẹ đáp.
Hắn thích cái tên ấy, thích cả mùi hương hoa nhài tỏa ra từ người cô, hệt như mùi bụi hoa ngoài sân.
- Anh đã cứu sống em. Bây giờ em đến ở với anh, nếu anh không đuổi em đi. - Cô gái nói tiếp, âu yếm nhìn hắn.
Hắn không đáp vì chẳng biết nói gì. Cái khả năng nói vốn kém cỏi bây giờ hầu như tê liệt hoàn toàn. Hắn biết cả đời hắn chưa bao giờ cứu sống ai, nhất là cô gái xa lạ này. Nhưng hắn đã không đuổi khi cô ngả người nằm xuống cạnh. Dẫu ngốc, hắn cũng biết phải làm gì tiếp, ít ra đây không phải mụ Xinh xấu xí và đanh đá. Có thể cả lúc ấy hắn vẫn nghĩ mình đang mơ, mơ được chiếm đoạt một người đàn bà đẹp, lại có đúng cái mùi hắn thích. Người này đã tự nguyện đến với hắn.
Sáng hôm sau tỉnh dậy hắn mới thực sự ngạc nhiên khi thấy người đàn bà trong mơ ấy đang lúi húi làm gì trong bếp nhà hắn. Lát sau cô bê ra một đĩa sắn luộc và chiếc ấm chè xanh. Hắn ngỡ ngàng nhìn, cô chỉ cười e lệ. Lần đầu tiên trong đời có người đàn bà lo bữa sáng cho hắn.
- Nhài? - Cuối cùng hắn lên tiếng.
- Vâng, em là Nhài. Vợ anh.
Hắn lại càng ngạc nhiên hơn. Hắn đã có vợ? Cô gái xinh đẹp này là vợ hắn?
- Vợ?
- Vâng, em sẽ là vợ anh. - cô gái đáp. - Mà em đã là vợ anh. Anh không thích sao?
- Thích. - Hắn chỉ nói được từng tiếng một, vẫn chưa hoàn toàn tin những điều đang xẩy ra.
Hắn trố mắt nhìn cô gái tên Nhài, “vợ” hắn. Và nhíu mũi ngửi. Có mùi hoa nhài. Như mùi đêm qua, như ở ngoài sân. “Vợ” hắn vẫn mặc bộ đồ trắng, rất trắng và mịn. Xinh. Có điều nhợt nhạt, hình như hơi gầy. Hắn có cảm giác nhìn xuyên qua được người cô, cứ tưởng chỉ cần một cơn gió mạnh, thậm chí chỉ cần hắn chạm vào người hay nói to là cô có thể vụt bay đi mất. Mà hắn thì không muốn cô bay đi nên không hỏi thêm điều gì nữa, chỉ ngồi đực ra, vốn đã ngớ ngẩn trông lại càng ngớ ngẩn hơn.
Vậy là hắn đã có vợ. Vợ ra vợ chứ không như mụ Xinh, hay cả cô Hường con dâu ông chủ tịch thị trấn đối diện nhà hắn. Con trai ông cưới vợ tháng trước. To lắm, đông lắm, có cả ô tô. Còn cô dâu thì mọi người khen rất xinh và được tặng thật nhiều quà. Thế mà cô gái xinh đẹp đám cưới có ô tô ấy chẳng bằng Nhài. Đấy là chưa nói người cô kia không có mùi thơm như vợ hắn. Không nước hoa mà vẫn thơm. Hắn nghĩ thế và lấy làm thích lắm.
Người ta nói đàn ông lấy vợ sẽ khôn ra, tu chí hơn. Điều này quả đúng với trường hợp của hắn. Dẫu ngốc, hắn vẫn biết trong việc hắn có vợ có điều gì đấy không bình thường. Lại thêm việc không ăn hỏi, cưới xin, hình như còn chuyện giấy tờ, đăng ký gì nữa với thị trấn nữa. Thế thì không ổn. Hắn quyết định vợ hắn sẽ không bước chân khỏi nhà, ít ra một thời gian. Cô Nhài đồng ý ngay. Dường như cô cũng ngại bị người khác nhìn thấy. Lần đầu tiên, hắn ý thức được trách nhiệm của người chồng và chủ gia đình. Có cái gì đấy âm ấm xuất hiện trong lòng hắn. Đầu óc hẳn cũng sáng dần ra. Bây giờ hắn ở trong rừng lâu hơn để kiếm thêm măng. Hắn không đem măng cho người khác như trước. Đi đâu hắn cũng lo lỏm về sớm vì biết có người đang chờ.
Cứ thế họ sống hạnh phúc với nhau. Rất nhanh chóng, hắn học được cách xưng hô anh em âu yếm với vợ. Ngôi nhà được tu sửa đôi chút với mái tranh mới và các vách được trát lại, vì hắn sợ có ai tò mò nhìn vào. Thậm chí khoảnh đất sau nhà bỏ hoang lâu nay cũng được cuốc xới trồng lèo tèo mấy luống rau cải. Tiếc rằng hắn vụng nên chúng cứ chết lụi dần. Tóm lại hắn, cái anh chàng Bùi Kiên đần độn ấy, đã thành người gần như bình thường. Một điều đáng mừng cho hắn và cho mọi người...
Một buổi sáng, thấy hắn vác dao vào rừng, mụ Xinh đứng sau hàng rào nhà mụ, nói chõ sang:
- Anh Kiên cũng ghê đấy nhỉ. Biết đưa gái vào nhà.
Môi mụ cong cớn, hằn học. Từ lâu mụ đã thất vọng bỏ ý định mồi chài hắn.
- Bà nói thế nghĩa là gì?
- Ngốc mà cũng khéo giả vờ. Tôi thừa biết anh chị hú hí với nhau bao lâu nay. Tưởng không có “cái ấy”, hóa ra...
- Vợ tôi đấy.
- Vợ? Ghê chưa! Thế cưới xin bao giờ?
- Không phải việc của bà, - hắn giận dữ nói rồi bỏ đi.
Mụ nói với theo:
- Tôi sẽ mách chính quyền để người ta gô cổ nó lại đưa vào trại cải tạo gái mại dâm.
Hôm sau có người của thị trấn tìm đến nhà hắn thật, nhưng họ chỉ hỏi qua đôi điều rồi bỏ đi, bảo nên sơm sớm tổ chức lễ cưới cho hợp lẽ. Cũng từ hôm ấy, cô Nhài bước ra khỏi nhà, cuốc xới, dọn dẹp, có hôm còn đi chợ. Vẻ đẹp, sự ẻo lả, nước da và bộ quần áo luôn màu trắng khiến cô nổi bật hẳn ở nơi quê mùa heo hút này. Khối người ghen thầm, bảo anh Kiên Hiền mèo mù vớ cá rán. Nhưng nói chung mọi người mừng cho hắn. Cái thằng ấy hiền, trời lại bắt tội đần độn, biết đâu lấy vợ chẳng khôn ra? Mà hắn hình như đã bắt đầu khôn ra rồi đấy. Còn con bé kia, từ chỗ lầm lỡ nay biết hoàn lương cũng tốt chứ sao...
Chỉ tiếc mụ Xinh không có được cách nghĩ bao dung đó. Mụ hằn học ra mặt, cứ lồng lên như con chó dại, hết kêu chính quyền nhu nhược lại hăng hái đi khắp nơi nói xấu nhà hàng xóm. Mụ tìm cách bắt chuyện, khiêu khích cô Nhài nhưng cô chỉ im, cười bẽn lẽn. “Làm đĩ còn tỏ ra chính chuyên!”   Một lần thấy mụ gọi vợ là đĩ, hắn trợn mắt, chạy đến dí chiếc dao to bản vào cổ mụ, khiến từ đấy mụ không dám gọi thế nữa. Nhưng mụ vẫn căm lắm, vẫn tức lộn ruột khi mỗi buổi sáng thấy cô hàng xóm xinh đẹp hái một bông nhài cắm lên mái tóc. Dơ! Mụ căm cả việc vợ chồng thằng đần kia cũng có lọ hoa để trên chiếc chõng tre như bao nhà tử tế khác. Dơ!
Một tối nọ đang ngủ, hắn chợt thức dậy và thấy Nhài đang quằn quại bên cạnh. Hắn vội vã bật đèn. Cô ôm bụng, co gập người rên lên đau đớn. Hắn hoảng hốt hỏi có chuyện gì nhưng cô không nói được, mặt trắng nhợt. Hắn bế vợ lên tay, chẳng biết phải làm gì. Người cô nhẹ tênh, mỗi lúc một lả dần. Cuối cùng cô đem hết sức ngước lên nhìn hắn, định nói gì nhưng không được. Chỉ đôi mắt mở to nhìn hắn, đau đớn, biết ơn, âu yếm và luyến tiếc lẫn lộn. Cô khóc. Những giọt nước mắt to rơi lên đôi tay sần sùi của hắn. Rồi cô ngừng co giật, teo dần, teo dần cho đến khi trong tay hắn chỉ còn lại một bông hoa nhài lớn đã héo và mấy viên ngọc màu trắng lẫn vài viên màu hồng.

                                                  *                                                    
“Lúc ấy trời vừa rạng sáng. Hắn ngơ ngác cầm bông hoa héo bước ra sân và thấy cả bụi nhài đã bị chặt ngang gốc, còn ri rỉ máu”. - Ông N. kể tiếp.
“Mụ Xinh đã làm điều đó?” tôi vội hỏi.
“Vâng. Chính con mụ độc ác đó. Trưa hôm ấy, khi biết chắc điều này, hắn lẳng lặng cầm dao sang nhà mụ, chẳng nói chẳng rằng, chém một nhát đứt ngang cái cổ to bè của mụ. Chiếc đầu bị chém bay tận góc nhà”.
Cả hai chúng tôi cùng im lặng. Cuối cùng ông N. lên tiếng, giọng xa vời:
          “Thế là Kiên Hiền thành Kiên Điên. Bông hoa làm anh ta khôn ra, hạnh phúc hơn. Vậy mà con người nỡ cướp đi cái hạnh phúc nhỏ bé ấy rồi đưa anh ta trở lại không chỉ thành đần độn mà còn thành điên. Tội nghiệp. Sao người ta có thể ác với nhau như thế được nhỉ?
Hà Nội, 23. 9. 2002

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét