Truyện Ngắn
BÔNG
HỒNG CHƯA TẶNG
Tám
giờ kém mười. Lần nữa chuông rung dài phía trong Nhà Hát Lớn.
Mấy
người đến muộn đang vội vã leo lên các bậc đá lát để đi qua chiếc cửa sắt nhỏ
có bà soát vé to béo đứng cạnh, vừa xé vé vừa giục họ nhanh lên vì buổi diễn
sắp bắt đầu. Đúng tám giờ, chiếc cửa sắt bị khóa. Bà kia lui sang bên, lơ đãng
nhìn ra ngoài.
Cuối
cùng, trước nhà hát chẳng còn ai ngoài mấy người bán hàng rong, một thanh niên
mặc quần áo bộ đội vẫn ngồi trên yên xe đạp, chân chống xuống đất, một cô gái
trẻ mặc áo khoác màu sáng luôn nhìn đồng hồ, đi lại vẻ sốt ruột, và tôi.
Tôi
không đi lại, không sốt ruột vì chẳng chờ ai, chỉ buồn do không mua được vé vào
nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sĩ pianô nổi tiếng người Nga mà tôi hâm mộ.
Đang
cuối tháng Hai, mới Tết xong và trời còn khá lạnh. Lại thêm chút mưa phùn lất phất,
nhỏ thôi, và chỉ nhận thấy qua ánh sáng vàng nhạt của mấy cột đèn gần đó.
Anh
thanh niên đã đạp xe đi. Cô gái vẫn nấn ná chờ người nhỡ hẹn. Tôi thì đứng ngay
dưới cánh cửa sắt vì còn hy vọng biết đâu ai đấy vào phút chót có thể thừa vé
nhượng lại.
Cô
gái không đội mũ. Mái tóc phi-dê cắt ngắn xới phồng với những giọt nước li ti
bám phía trên. Tôi ngạc nhiên thấy chúng có màu khác nhau. Tế nhị không nhìn
lâu, nhưng khi cô đi ngang tôi cũng kịp nhận thấy một khuôn mặt rất xinh, hơi
gầy và thanh thoát, có lẽ nhờ chiếc mũi thẳng và đôi mắt sâu. Một vẻ đẹp cổ
điển, sang trọng của người có văn hóa. Mấy lần tôi định nhưng không dám hỏi mua
lại một trong hai chiếc vé mà tôi tin chắc nàng đang giữ trong chiếc ví đầm đeo
bên hông.
Bất
chợt nàng đi lại gần tôi và nói, rất thản nhiên, giản dị:
“Anh
có muốn đi dạo với em một chốc không?”
Lúc
ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, đã tập tãnh nghề văn và đang yêu. Tôi yêu một ca
sĩ, nghiệp dư thôi nhưng đang nổi, ít ra mấy lần đoạt giải các cuộc thi văn
nghệ phong trào. Nàng cũng xinh và chúng tôi yêu nhau thực sự. Có điều khác hẳn
tôi, nàng không thích nhạc cổ điển nên chẳng bao giờ chúng tôi cùng vào Nhà Hát
Lớn, mặc dù chiều nàng, tôi luôn có mặt ở những đêm ca nhạc tôi chẳng mấy thích
thú.
Cô
gái hơi lúng túng khi tôi, vì bối rối chưa biết trả lời thế nào. Tuy nhiên chi
mấy phút sau chúng tôi đã sóng đôi đi dọc theo phố Tràng Tiền rồi vòng quanh bờ
hồ Hoàn Kiếm.
Thành
phố ban đêm thật đẹp và yên tĩnh. Ánh điện hắt lên mặt hồ thành từng vùng tròn
như những chiếc trứng tráng trong chảo. Phía nhà Thủy Tạ có mấy ngọn đèn xanh
in ngược xuống nước thành hình những chiếc cọc, tất nhiên cũng màu xanh và run
rẩy như muốn gãy khuỵu dưới sức nặng của chiếc quán hai tầng trên đó. Có tiếng
kèn xắc-xô-phôn buồn buồn vọng lại, xuyên qua lớp sương mù màu trắng ẩm ướt.
Chúng
tôi lặng lẽ đi một đoạn dài không ai nói gì. Cuối cùng tôi lên tiếng:
“Chị
vừa chờ ai nhưng người ấy không tới?”
“Em
chờ chồng em”, nàng đáp, cũng rất tự nhiên. “Nhưng không sao, em quen với cảnh này rồi”.
“Và
để trả thù chồng, chị mời tôi, một người lạ đi dạo thế này?”
Nàng
không đáp. Tôi cũng im, lấy làm tiếc đã hỏi điều đáng lẽ không nên hỏi. Tôi
thấy lạ trước cách cư xử của nàng. Cứ như ở một nước phương Tây nào đó. Rõ ràng
nàng không thuộc loại phụ nữ dễ dãi, chưa hẳn đã thích phiêu lưu, vì ở nàng tôi
thấy có cái gì đó sạch sẽ và nghiêm túc. Thế thì sao nàng, một người có chồng
như đã nói, lại chủ động mời tôi đi dạo? Có ẩn ý gì chăng? Nàng là ai và cần gì
ở tôi?
Vì
lúc ấy còn trẻ và đang bị trí tò mò kích thích, tôi chẳng băn khoăn nhiều với
những câu hỏi như thế, chỉ thấy sung sướng được đi dạo cùng người đẹp trong một
đêm Hà Nội mơ mộng.
Chúng
tôi vào Thủy Tạ ăn kem, những hai suất. Nàng để tôi trả tiền không chút kiểu
cách. Rồi chúng tôi thong thả đi thêm một vòng quanh hồ, sau khi quành sang phố
Nhà Thờ, phố Hàng Trống và một đoạn phố Hàng Gai. Khi trở lại Nhà Hát Lớn thì
vừa đúng mười giờ rưỡi, cũng là lúc buổi diễn kết thúc và lác đác đã có vài
người đi ra. Tôi đề nghị được đưa nàng về nhà nhưng nàng lắc đầu.
Nàng
chìa bàn tay nhỏ bé của mình cho tôi. Bàn tay mềm và ấm, lần đầu tôi được chạm
vào nó.
“Anh
dễ thương thật đấy. Suốt mấy tiếng đồng hồ không hỏi một câu ngốc nghếch nào.
Em thích những người như vậy. Em cũng thích anh. Nếu anh hay đến nhà hát này
thì chắc ta còn nhiều dịp gặp nhau. Tam biệt và cảm ơn!”
Rồi
nàng bỏ đi, đến đứng chếch phía bên phải nhà hát. Lát sau có chiếc ô tô màu đen
đi tới đưa nàng đi. Một cô gái kỳ lạ mà lúc ấy tôi chưa biết tên và cô cũng
chưa biết tên tôi.
Không
phải tôi không hỏi câu nào. Theo yêu cầu của tôi, nàng nói chồng nàng là một
quan chức quan trọng, hơn nàng những hai mươi lăm tuổi. Và rằng nàng đồng ý lấy
ông vì bố mẹ bắt thế chứ chẳng vì tình yêu. Tuy nhiên đó không phải lý do để
nàng không quí trọng ông hoặc cảm thấy bất hạnh. Đơn giản nàng nghĩ một khi đã
là vợ chồng thì phải cư xử theo đúng đạo vợ chồng. Xuất thân từ gia đình gia
giáo, nàng nghĩ cần phải thế. Chỉ tiếc ông không hiểu và không coi trọng nghề
nàng. Tôi hỏi nghề gì, nàng chỉ im lặng mỉm cười. Phần tôi, tôi nói đang yêu và
cũng được yêu lại. Một cách xã giao và hơi kỳ cục, chúng tôi chúc nhau hạnh
phúc. Ngoài ra không hỏi gì hơn về đời tư mỗi người.
Nửa
tháng sau tôi lại vào Nhà Hát Lớn để xem vở ba-lê Giselle do một đạo diễn người
Pháp giúp Việt Nam dàn dựng. Và lại gặp nàng. Không phải trước nhà hát mà trên
sàn diễn. Hơn thế, trong vai chính, tức là nàng Giselle xinh đẹp phải chịu
nhiều đau khổ trước khi tìm được hạnh phúc của mình như ở phần kết hầu hết các
vở ba-lê khác.
Xem
tờ rơi giới thiệu nội dung, tôi biết tên nàng là Lệ Trinh, một diễn viên trẻ
đầy triển vọng của Nhà hát Nhạc, Vũ kịch Trung ương, mới tốt nghiệp trường
ba-lê danh tiếng nhất Liên Xô, ở chính thành phố tôi từng học trước đó mấy năm.
Với cảm giác ngạc nhiên và hơi chút ít lâng lâng, suốt buổi diễn tôi chỉ ngắm
nhìn một mình nàng trong bộ đồ ba-lê trắng mỏng tinh khiết. Cả người nàng cũng
trắng mỏng tinh khiết. Nàng thoăn thoắt bước đi trên hai đầu ngón chân bé nhỏ,
xen những cú nhảy nhẹ tưởng như không trọng lượng. Nàng đẹp một cách lộng lẫy.
Cái đẹp hoàn thiện, thoát tục, đến mức trong tôi chỉ còn lại cảm giác ngưỡng mộ
như khi người ta ngưỡng mộ một nữ thần. Thật khó tin mới chỉ mấy ngày trước đó
tôi được nữ thần ấy mời đi dạo, thậm chí được chạm tay nàng.
Sau
buổi diễn, đứng khuất phía xa trước nhà hát, tôi nhìn thấy nàng, vẫn chiếc áo khoác hôm nọ, đang cùng một người
đàn ông cao to mặc com-lê đen âu yếm dẫn nàng đến chiếc ô tô màu đen đợi sẵn.
Chiếc ô tô chở nàng lần trước. Trong vở diễn nàng được chàng hoàng tử nâng trên
đôi tay khỏe mạnh của mình, còn ngoài đời, nâng đỡ nàng là chiếc ô tô của
chồng, chức vụ và có lẽ cả đôi tay cũng rất khỏe của ông ta. Tôi thở dài, thầm
mỉm cười với sự so sánh ngồ ngộ ấy.
Tôi
thờ thẩn bước đi giữa phố, đúng lộ trình tôi và nàng đã đi lần trước. Lần này
trời quang đãng và đầy sao. Những ngôi sao khá lớn chen chúc trên mặt nước hồ
Hoàn Kiếm. Tôi đứng hồi lâu trên cầu Thê Húc, tay vịn vào thành cầu đẫm hơi
sương nhưng không hiểu sao lám nhám những hạt cát nhỏ. Tôi lờ mờ thấy mình đang
yêu. Đúng, yêu nàng, nhưng là thứ tình yêu khác hẳn với tình yêu đối với cô ca
sĩ nghiệp dư đang nổi. Một tình yêu trừu tượng, vô vọng và pha chút mặc cảm tội
lỗi vì nàng đã có chồng.
Xưa
nay ngoài sách, nhạc cổ điển là đam mê lớn nhất của tôi, nên hầu như tôi không
bỏ sót buổi hòa nhạc nào loại này ở Hà Nội. Thậm chí thời sinh viên tôi từng mơ
ước trở thành nhạc sĩ hoặc chỉ huy dàn nhạc giao hưởng.
Mấy
hôm sau tôi lại có mặt ở Nhà Hát Lớn để nghe một chương trình nhạc Beethoven,
gồm các bản giao hưởng số Một, số Sáu và khúc dạo đầu (ouverture) Coriolant.
Lần này may tôi mua được vé, tất nhiên chỉ đi một mình.
Nàng
xuất hiện đúng lúc tôi sắp bước vào nhà hát, mặc quần jeans, đi giày da và
khoác trên người chiếc áo len rộng màu xanh nhạt. Tôi có cảm giác mặt nàng đỏ
ửng, hơi thở gấp, có lẽ do trước đó phải chạy một quãng.
“Chào
Lệ Trinh,” tôi lên tiếng trước, cố giấu vẻ hồi hộp. “Hôm nay chồng chị lại nhỡ
hẹn nữa à?”
Nàng
không ngạc nhiên khi tôi gọi đúng tên.
“Không.
Em đi một mình. Em đến đây vì anh,” nàng đáp, cũng tự nhiên và giản dị như lần
trước. “Anh có sẵn sàng bỏ buổi hòa nhạc để đi dạo với em không?”
Chúng
tôi lại đi theo các phố cũ, có ghé vào Thủy Tạ nhưng không ăn kem mà uống cà
phê, vừa uống vừa ngắm mặt hồ ban đêm và ôn chuyện Liên Xô. Dường như đề tài
này làm hai người tự nhiên, thân mật hơn. Tịnh không một lời về đời riêng của
nhau. Sau đó như lần trước, tôi đưa nàng trở lại nhà hát chỉ mấy phút trước khi
ông chồng đánh ô tô đến đón nàng về.
Những
tháng tiếp theo tôi còn mấy lần được nàng rủ đi chơi như thế. Mấy lần thấy ông
chồng cùng nàng vào nhà hát. Tuy nhiên nàng chẳng tỏ ra thân mật hơn trước,
ngoài việc tôi có thể giữ tay nàng lâu hơn, thậm chí một lần còn nâng lên hôn
mà không bị rút lại. Thỉnh thoảng như vô tình, nàng hỏi chuyện tình yêu của tôi
với cô kia, và tôi nói mọi chuyện vẫn bình thường.
“Phải
chăng nàng cũng yêu tôi, hay chẳng qua đó chỉ là trò đùa của những người xinh
đẹp, giàu có và rất hiểu rõ địa vị mình?” Câu hỏi ấy cứ làm tôi băn khoăn mãi.
Vốn hay mặc cảm và không muốn rơi vào thế lố bịch, dẫu rất yêu, tôi vẫn luôn tỏ
ra kiềm chế, vì dẫu sao nàng cũng đã có chồng.
Một
lần tôi còn chuẩn bị sẵn một bông hồng giấu trong cặp định tặng nàng, nhưng khi
gặp lại không đủ can đảm trao nàng bông hồng ấy.
Sau
đó, một thời gian rất lâu tôi không thấy nàng xuất hiện, cả trên sàn diễn lẫn
trước cửa Nhà Hát Lớn. Linh tính báo có chuyện khác thường. Tôi nhờ người dò
hỏi và được biết chồng nàng bị bắt cách đấy không lâu (vì lý do gì không rõ),
đang bị giam đâu đó tận Tây Nguyên, và nàng đã bỏ hẳn vào đấy để chăm sóc ông.
*
Từ đó tôi chẳng biết gì thêm về Lệ Trinh.
Rồi mọi cái cũng qua đi, kể cả tình yêu của tôi với nàng, còn lại trong tôi chỉ
là sự luyến tiếc mơ hồ như luyến tiếc một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy vợ, có con,
không phải lấy cô ca sĩ xinh đẹp không yêu nhạc cổ điển, cũng không phải vài
người nữa tôi yêu sau đó. Cuộc đời dần dần đi vào nếp ổn định. Tôi lấy thế làm
hài lòng và chẳng có gì phải than phiền. Tôi vẫn đều đặn vào Nhà Hát Lớn nghe
hòa nhạc hoặc xem ba-lê. Chỉ những lúc ấy tôi mới nhớ đến Lệ Trinh, đặc biệt
hôm đầu tiên thấy nàng trên sàn diễn trong vai cô gái Giselle xinh đẹp, tinh
khiết và dường như không trọng lượng. Tôi cũng nhớ cả những đêm được đi dạo bên
nàng hoặc phải lang thang một mình giữa các phố Hà Nội cho đến tận sáng như mọi
chàng trai si tình khác. Rồi tôi thương cho nàng đáng lẽ được ông chồng to
khỏe, đạo mạo, đầy chức quyền kia nâng trên tay đi hết cuộc đời, thì lại phải
vào tận chốn rừng núi hoang vu miền Nam để nuôi ông, nâng cái cơ thể to khỏe
kia của ông bằng chính đôi tay bé nhỏ của nàng, trên đôi chân đi những bước nhỏ
bằng ngón kiểu ba-lê của nàng. Bây giờ nàng thế nào và đang ở đâu?
*
Một
hôm, bất ngờ tôi nhận được bức thư từ Mỹ. Thư của Lệ Trinh.
“Chắc
anh không còn nhớ em và đang ngạc nhiên? Em là Lệ Trinh, người cùng anh mấy lần
đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm cách đây đã nhiều năm.”
Nàng
viết, vẫn bằng giọng tự nhiên, chân thành như xưa.
“Bây giờ, ở khoảng cách an toàn, rất xa cả
về địa lý lẫn thời gian, em mới dám nói với anh điều này. Em yêu anh! Em đã rất
yêu anh những ngày được gặp và không được gặp anh thời ấy. Anh không biết, hay
đúng hơn, em không cho anh biết điều đó, vì em đã có chồng, còn anh thì đang
yêu người khác. Dẫu mãnh liệt, tình cảm của em đối với anh đã không thắng được
ý thức đạo nghĩa vợ chồng trong em. Vả lại em cũng không thể cho phép mình cướp
đi hạnh phúc của cô gái anh yêu và yêu anh. Đối với em đó là những ngày hạnh
phúc nhất, đáng sống nhất. Còn sau đó chỉ là một sự tồn tại, thuần túy một sự
tồn tại theo các khuôn phép đạo đức do xã hội qui định.
Dù không yêu, em đã hết lòng tận tụy với
chồng cho đến khi ông ấy chết bệnh trong tù. Sau đó em theo mấy người bạn vượt
biên và hiện đang sống ở Mỹ. Em đã có chồng, có con, dường như có tất cả, chỉ
trừ tình yêu. Anh là tình yêu duy nhất của em. Lẽ ra em đã có thể đến với anh
nếu em đủ dũng cảm thoát khỏi những ràng buộc của qui ước xã hội.
Viết thư này, em không có mong muốn nào
khác ngoài được bộc lộ với anh những suy nghĩ thầm kín của mình. Em những muốn,
và đã cố, không bao giờ nói ra, nhưng không được.
Hãy tha thứ cho em.
Lệ Trinh.
PS. Xin anh đừng viết thư cho em. Điều ấy
không cần thiết. Hơn thế, nó chỉ làm em thêm đau khổ.”
Bức
thư đề ngày... tháng... năm 1989. Mười lăm năm kể từ đêm tôi nhìn thấy nàng lần
cuối.
*
Tháng
Năm năm 2000, trong lần đi du lịch một tháng với vợ ở Mỹ, tôi tìm đến nhà nàng
theo địa chỉ ghi trên bì thư. Tất nhiên một mình. Tôi không có ý định gặp hay
trò chuyện với nàng vì nàng không muốn điều ấy. Đơn giản chỉ muốn được nhìn qua
ngôi nhà nàng đang sống. Đứng từ xa mà nhìn. Đó là một ngôi nhà nhỏ, bình
thường như bao ngôi nhà khác xung quanh ở ngoại ô thành phố Raleigh, tiểu bang
North Carolina. Nhà đóng cửa, chỉ hai ô cửa sổ là không, nhưng được che bằng
những chiếc mành trắng mỏng. Tôi thong thả đi hai lần qua ngôi nhà ấy, ngồi
xuống cạnh gốc cây đối diện, hút hết một điếu thuốc rồi trở về khách sạn.
Tháng
trước, tôi lại nhận được một bức thư nữa từ Mỹ. Bức thư chỉ mấy dòng, được viết
bằng nét chữ đàn ông rắn rỏi, gần như tô từng nét.
“Theo yêu cầu của người đã khuất, tôi xin
báo ông biết rằng vợ tôi, bà Lệ Trinh, đã từ trần ngày...vì nhồi máu cơ tim. Vợ
tôi cũng nhờ nói lại rằng bà ấy đã nhìn thấy ông ngồi hút thuốc trước nhà chúng
tôi cách đây hơn hai năm. John Nguyen Van Bach.”
*
Đó
là toàn bộ câu chuyện về Lệ Trinh mà chắc tôi sẽ không bao giờ viết ra nếu
không nhận được bức thư ngắn này của chồng nàng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm,
ngoài việc nếu có dịp tới Mỹ lần nữa, nhất định tôi sẽ tìm đến mộ nàng để đặt
lên đó bông hồng năm nào tôi định tặng.
Hà Nội, 2004
LE
VIEILLARD ET LE PIANO
Không
khí thật điền viên, ấm áp. Như bà già trong bản sao khổ lớn bức tranh sơn dầu
nổi tiếng "La jeune fille au piano" của danh họa Paul Cézanne treo
trên tường, bà lặng lẽ ngồi đan trên chiếc ghế xa-lông da mềm và sâu. Con mèo
mướp lười biếng nằm ngủ dưới ghế, đầu gối lên đôi chân đi tất len dày của bà.
Chốc chốc nó duỗi mình, vươn thẳng tứ chi rồi lại khoanh tròn ngủ tiếp.
Đầu
xuân, nhưng trời còn rét ngọt. Dù ở nhà, như thường lệ, bà vẫn mặc chiếc áo dài
vải the mầu xẫm kiểu cổ thời trước cách mạng. Bà có khuôn mặt bình thản hình
trái xoan, với chiếc mũi thanh tú, đôi môi nhỏ và dày. Một nốt ruồi to bên
cạnh, na ná nốt ruồi nổi tiếng của ca sĩ nhạc pop Mađôna, càng tôn thêm cho bà
cái duyên thầm rất ưa nhìn. Cặp kính lão mắt tròn (cũng kiểu cổ) treo sệ xuống
đầu mũi, và bà thường nhìn trên kính chứ không qua mắt kính như người khác. Bất
chấp những nếp nhăn sâu trên mặt và mái tóc phi-dê ngắn bạc gần hết, người ta
vẫn dễ dàng đoán biết bà từng một thời là người xinh đẹp và xuất thân từ một
gia đình rất nền nếp.
Nếu
phải chọn ai đấy là dân Hà Nội gốc, tiêu biểu cho lớp trí thức cũ vừa lịch sự
vừa bảo thủ, thì có lẽ bà là người thích hợp nhất. Có cảm giác như cuộc sống
mới thực dụng và hiện đại một cách xô bồ bên ngoài không mảy may ảnh hưởng đến
con người bà và căn phòng nhỏ bà đã sống suốt bảy mươi năm qua. Bản thân căn
phòng cùng các đồ vật trong đó cũng cổ kính và trầm lặng như chủ nhân chúng.
Bà
là một trong số rất ít các nghệ sĩ pianô ở lại với cách mạng sau ngày thủ đô
giải phóng, là người thầy đầu tiên bộ môn này ở Nhạc viện Hà Nội. Bà đã dìu dắt
nhiều thế hệ nghệ sĩ trưởng thành, có người dành được giải thưởng lớn trong các
cuộc thi quốc tế. Bà nghỉ hưu đã mấy năm nay, với danh hiệu "nhà giáo nhân
dân" và "nghệ sĩ ưu tú". Chồng bà là cán bộ cao cấp trong quân
đội, một vị tướng chiến trường, hy sinh trong chiến dịch Khe Sanh. Họ không có
con. Bấy lâu nay bà sống một mình với con mèo, với chiếc đàn pianô hiệu Bekker
cũng già nua và quí phái như bà.
Khách
đến nhà bà không nhiều. Bà thích thế. Mỗi tuần hai lần vào thứ ba và thứ bảy,
bà dạy đàn cho đứa cháu gái mười tuổi của bà em. Nó có khiếu, tiếp thu nhanh.
Bà muốn và có thể dạy nó thành nghệ sĩ pianô có tài. Nhưng nó lại không thích.
Cái nó thích là nhai kẹo cao su - vừa tập đàn vừa nhai - và nhạc xập xình chứ
không phải nhạc Mozart hay Schubert. Không nói ra nhưng bà buồn. Bà buồn cả
việc nhiều học trò giỏi của bà tối tối vào các khách sạn hoặc quán bar chơi đàn
cho đám thực khách thô lỗ. Khách của bà còn là những học trò cũ thỉnh thoảng
đến thăm, nhất là vào ngày mồng Tám tháng Ba và ngày Hai mươi tháng Mười Một.
Và cuối cùng là ông già đang ngồi chơi đàn trước mặt bà lúc này. Một vị khách
không mời cũng đến, đều đặn mỗi tháng một lần đúng ngày rằm. Vì sao lại ngày
rằm? Cả ông lẫn bà đều không biết. Đơn giản vì đến mấy lần vào ngày ấy rồi
quen, sau cứ thế tiếp tục mãi đã hàng chục năm nay.
Ông
là thợ (có người gọi nghệ sĩ) lên dây đàn pianô lâu năm nhất và cũng thuộc loại
giỏi nhất ở Hà Nội. Ông đến để lên dây đàn cho bà, mặc dù gần đây bà ít chơi
đàn và do vậy dây đàn ít sai để phải lên lại. Nhưng ông cứ đến và bà chẳng lấy
thế làm khó chịu. Họ là bạn của nhau từ thời còn trẻ. Chiếc pianô luôn là chiếc
cầu nối giữa họ. Thường sau mỗi lần chỉnh đi chỉnh lại những nốt đàn đã quá
chính xác, ông thong thả cất bộ đồ nghề vào hộp, rồi cũng thong thả như thế,
ông trang trọng ngồi xuống trước đàn, bắt đầu chơi bài "Fur
Elise"(Gửi nàng Elise) của Beethoven, một bản nhạc đượm buồn ai oán mà
tương truyền nhạc sĩ thiên tài người Đức này đã viết gửi một nàng Elise nào đó
để bày tỏ mối tình vô vọng của mình. Tiếp đến là một bản etude chậm của Chopin
mà theo chất nhạc, người ta đặt thêm cho cái tên là "Tristess" (nhạc
buồn). Lần nào cũng chỉ hai bài ấy. Bà chẳng biết vì sao nhưng không bao giờ
hỏi. Xong, ông cẩn thận đậy nắp đàn, lấy giẻ lau sạch bóng lần nữa, ngồi xuống
cạnh bà, uống nước, trao đổi đôi ba câu vu vơ rồi ra về, cúi đầu chào thật
thấp, thậm chí còn ngả mũ nghiêng mình nếu lúc ấy là mùa đông và ông đội chiếc
mũ phớt dạ từ thời Pháp còn lại.
Tuy
nhiên, hôm nay hình như ngoại lệ. Sau hai bài bất di bất dịch kia, ông chơi
thêm một bản nocturne (dạ khúc) của Chopin, bản số 1, và hiện đang chơi bản
sonnate "Les Adieux" (Vĩnh biệt) số 26 của Beethoven.
Bà
hơi ngạc nhiên nhưng vẫn lặng lẽ ngồi nghe, không một lần ngước mắt khỏi que
đan. Ông đàn không hay, không phải ở mức a-ma-tơ nhưng cũng chưa hẳn chuyên
nghiệp. Xuất thân từ một gia đình tư sản sa sút, ngày xưa ông cùng học pianô
một thời gian ở Paris với bà. Bà học giỏi, có tài, tiếp tục tiến lên, còn ông
thì sau nhiều thăng trầm, tự biết không bao giờ có khả năng thành nghệ sĩ giỏi,
cuối cùng tự chọn cho mình cái nghề lên dây đàn pianô, dẫu nó, trước kia cũng
như bây giờ, hiếm ai lao vào và chưa bao giờ mang lại cho ông nhiều tiền. Đơn
giản vì ông không thể sống thiếu cây đàn này. Không trực tiếp biểu diễn thì ông
chăm chút, chuẩn bị nó cho người khác. Và ông lấy thế làm hài lòng. Bây giờ đến
lượt ông đàn, lại một bài khó và dài như "Les Adieux", ông không khỏi
lúng túng, ngượng ngập. Chiếc Bekker già nua, loại Grand piano, chiếm trọn nửa
căn phòng, đang rên rỉ dưới những ngón tay cũng già nua không kém của ông.
Những phím đàn màu trắng ngả vàng ngà như nhảy múa một cách miễn cưỡng. Tiếng của
nó cũng không còn trong trẻo và sắc gọn như xưa.
Theo
thói quen nghề nghiệp, thỉnh thoảng bà ngừng tay, gõ mạnh que đan vào thành ghế
rồi nói to như trước bà là cậu học sinh chưa thuộc bài: "Forte!
Forte!" (mạnh hơn, mạnh hơn nữa) hoặc "Tình cảm vào! Chậm thôi, chậm
thôi!" Ông ngoan ngoãn làm theo, vấp một đôi lần rồi cuối cùng ngừng chơi,
quay về phía người bạn già.
-
Cây đàn của bà già lắm rồi, - ông thở dài.
Đó
là một chiếc đàn tốt bố mẹ mua cho bà từ Pháp. Với tư cách là giảng viên lâu
năm, sau này nhiều lần Nhạc Viện đề nghị cấp đàn mới nhưng bà không nhận mà vẫn
giữ nó như kỷ niệm một thời.
-
Còn ông thì không? - bà đáp, nửa châm chọc nửa trách móc như thể chiếc đàn bị
chê một cách oan ức.
-
Tôi cũng già rồi. Cả bà nữa. Cái gì phải đến sẽ đến thôi. - Ông lại thở dài. -
Bà nghỉ dạy đã mấy năm. Bây giờ đến lượt tôi. Hôm nay là lần cuối cùng tôi lên
dây đàn đấy. Tất nhiên cho chiếc đàn của bà. Bà và tôi gắn bó với nó bao nhiêu
năm rồi nhỉ?
-
Gần năm mươi năm. - Bà đáp, ngừng đan, ngạc nhiên hỏi: - Lần cuối cùng? Vì sao
lại lần cuối cùng?
-
Vì tai tôi hỏng rồi. Cũng đúng thôi. Tuổi tác mà. Hình như nó hỏng đã lâu nhưng
vì người ta thương tôi, nể tôi nên không nói đấy thôi. Tháng trước Nhà Hát Lớn
không nhờ tôi lên dây chiếc Steinway cho một nghệ sĩ Hà Lan biểu diễn, tôi đã
lờ mờ đoán có chuyện không ổn. Chỉ hôm qua tình cờ tôi nghe có người nói bây
giờ tai tôi không chính xác nữa, lên sai dây đàn mà tự mình không biết. Hóa ra
mấy lần trước người ta bí mật nhờ cậu Hà chỉnh lại những chiếc đàn tôi đã lên dây
ở Nhà Hát Lớn, Hội nhạc sĩ, phòng thu Đài phát thanh và phòng hòa nhạc của Nhạc
Viện. (Hà là một trong những thợ học việc của ông, sau được gửi sang Tiệp luyện
nghề hai năm, thời gian gần đây đang thay ông chăm sóc mấy chục chiếc đàn ở
Nhạc viện. Tuy nhiên những chiếc đặc biệt dành cho các buổi biểu diễn quan
trọng thì vẫn phải đích thân ông trực tiếp chuẩn bị). Bà biết đấy, nghề tôi chỉ
nhờ vào đôi tai. Nay nó hỏng, coi như tôi mất nghề. Beethoven điếc vẫn viết
nhạc được vì ông nghe thầm trong đầu. Còn tôi, tôi cần nghe rõ những âm thanh
có thật. Không khéo lần trước tôi lên dây cho chiếc đàn này cũng sai, và như
người khác, bà thương tôi nên không nói. Có đúng thế không?
Bà
im lặng hồi lâu mới khẽ đáp:
-
Không. Tôi thấy nó vẫn chính xác.
Bà
ái ngại nhìn ông già, không đủ can đảm nói lên cái sự thật bà biết không phải
tháng trước mà từ lâu trước đó, rằng đôi tai rất thính nhạy của ông đã bắt đầu
không ổn. Tuy vậy bà vẫn không muốn bất kỳ ai khác chạm vào chiếc đàn yêu quí
của bà. Bà hiểu ông tự hào và yêu nghề mình đến mức nào. Nó là hạnh phúc và
cũng là ý nghĩa cuộc sống đối với ông. Suốt năm mươi năm qua người ta đánh
nhau, cày cấy hoặc đổ mồ hôi trong nhà máy, hầm mỏ, còn ông thì luôn quanh quẩn
bên những chiếc đàn pianô. Ngoài ra ông không biết một nghề nào khác. Xã hội
cũng cần ông như chính ông cần những chiếc đàn pianô để sống, đúng cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng.
Cũng
suốt chừng ấy năm người ta thấy ông lọm khọm đạp chiếc xe cà tàng tới Nhạc Viện
ở Ô chợ Dừa, phòng tập trường múa ở Mai Dịch và các phòng hòa nhạc, thu thanh
khắp nơi trong thành phố. Nhiều lần ông còn được ô tô, máy bay đưa đón đến một
thành phố xa nào đó chỉ để lên dây một chiếc đàn pianô. Thường sau khi xong
việc, ông nán lại để được tận hưởng thành quả lao động của mình, tự hào và lâng
lâng hạnh phúc lắng nghe các nghệ sĩ biểu diễn, hoặc ngắm nhìn những diễn viên
ba-lê nhún nhẩy bước đi trên đầu ngón chân theo tiếng nhạc chiếc đàn ông đã
nâng tới mức hoàn thiện. Ông thường giật mình cảm thấy như người có tội, dằn
vặt mấy ngày liền nếu tình cờ phát hiện có dây đàn nào đấy lên chưa chuẩn lắm.
Công bằng mà nói, người ngoài nghề it ai hiểu hết giá trị công việc ông làm.
Các nghệ sĩ đích thực thì khác. Họ kính trọng ông, thân mật tôn ông thành
Maestro (sư phụ). Sau buổi biểu diễn, nhiều danh cầm thế giới tự tìm đến bắt
tay cảm ơn ông và tặng những món quà nho nhỏ được ông tập hợp thành bộ sưu tập
bày nơi trang trọng nhất trong nhà mình.
Mươi
năm gần đây đất nước mở cửa, kéo theo sự mở cửa của vô số các quán bar và khách
sạn đua nhau làm sang mua pianô đắt tiền, thuê sinh viên Nhạc Viện biểu diễn để
câu khách. Những chiếc đàn ấy cũng cần được định kỳ lên dây và chăm sóc, tất
nhiên. Cũng theo mốt, người ta mời đích thân ông làm việc này nhưng thường ông
bảo Hà và những người như anh ta làm hộ, dù ở đấy tiền công cao hơn. Âu cũng là
một sự lẩm cẩm nữa của người già.
Ông
cũng sống một mình. Hơn thế, suốt đời sống một mình. Vì sao - không ai rõ mà
ông cũng chẳng chịu nói với ai. Nghe đồn ngày xưa ông yêu bà, yêu lắm, nhưng vì
bà là người thành đạt, lại xinh đẹp, con nhà giàu, còn ông thì... nên ông biết
phận mình, chưa một lần dám thổ lộ. Người ta hỏi cả hai có đúng thế không,
nhưng lần nào họ cũng chỉ cười thay cho câu trả lời. Bản thân họ chưa bao giờ
đả động đến chuyện đó. Bao năm nay họ quen đối xử với nhau như những người bạn
và dường như cho thế là đủ.
-
Bây giờ ông định thế nào? Không lên dây đàn thì ông làm gì ? - Bà hỏi.
-
Tôi cũng chẳng biết nữa. Có lẽ tôi không thể tiếp tục sống ở Hà Nội. Những
chiếc đàn ở đây làm tôi buồn. Tôi có người bà con ở vùng trung du Phú Thọ, định
về sống nốt tuổi già ở đấy, vui với mảnh vườn, bầy gà. Cũng được đấy nhỉ? Bà
thấy thế nào?
-
Tôi thấy ông lẩm cẩm. Không chỉ tai hỏng mà đầu óc cũng không ổn. - Bà cười
đáp, không ra nghiêm túc cũng chẳng phải đùa. - Suốt đời ở thủ đô, nay ông
tưởng về sống nông thôn dễ đấy à?
-
Rồi bà xem.
-
Tùy ông thôi. Nhưng có phải vì thế mà vừa rồi ông chơi bản "Les
Adieux" không?
-
Bà đoán đúng.
-
Nhưng ông chơi tồi và bỏ giở giữa chừng...
-
Đúng thế. - Ông buồn bã đáp. - Tại lâu ngày không đàn, tôi quên. Tại nó khó
quá...
-
Bao giờ ông đi?
-
Tuần tới. Mọi thứ thu xếp xong rồi. Hôm nay tôi đến chia tay bà.
Hai
người cùng ngồi im.
-
Tôi muốn hỏi ông điều này. Tò mò thôi. Vì sao trong bao nhiêu năm ở nhà tôi ông
chỉ đàn hai bài, là "Fur Elise" của Beethoven và "La
Tristess" của Chopin?
-
Bà chưa bao giờ thử đoán vì sao à? - ông hỏi lại, giọng nhỏ nhẹ và không ngước
nhìn bà.
-
Chưa, - bà đáp. - Mà sao tôi phải đoán. Ai muốn nói gì cứ nói thẳng ra chẳng
hay hơn ư?
Họ
lại im lặng, lần này còn lâu hơn. Cuối cùng ông rụt rè lên tiếng:
-
Bà có thể đàn tôi nghe một bài được không? Bài gì cũng được. Chưa bao giờ bà
đàn cho tôi, chỉ riêng một mình tôi...
Bà
liếc nhìn ông với cái nhìn như muốn nói: "Ông có đòi hỏi nhiều quá không
đấy?" Nhưng bà không nói gì, chỉ lặng lẽ đứng dậy, đài các bước về phía
chiếc đàn, và cũng đài các như thế ngồi xuống ghế, như thể trước bà không phải
ông bạn già mà cả nghìn khán giả am hiểu ở Nhà Hát Lớn. Bà đặt hai bàn tay nhăn
nheo nhưng thon mảnh lên mặt phím đàn đã ngả màu vàng vì năm tháng, đầu hơi
ngửa về phía sau một cách kiêu hãnh. Chiếc đàn cổ lại rung lên vì những nốt
nhạc mạnh và dứt khoát. Thật khó tin một phụ nữ nhỏ bé, già nua như bà lại có
thể tạo ra được những âm thanh mạnh mẽ và kỳ diệu đến thế. Bà say sưa đàn, mắt
lim dim, dường như quên hết mọi thứ trên đời. Cả con người và tâm hồn bà đang
hòa quyện vào tiếng nhạc lúc hùng tráng, lúc du dương quyến rũ.
"Bản
Prelude và Fuge số 29 của Bach!' - ông nhận ra ngay từ những nốt nhạc đầu tiên.
Đây là tác phẩm phức điệu khó biểu diễn cả về kỹ thuật lẫn thể hiện tình cảm.
Chính vì nó mà ông bị đánh trượt không tốt nghiệp Nhạc Viện Paris vào một ngày
đông giá lạnh ở nước Pháp năm nào. Những người sành nhạc đều yêu thích bản nhạc
này. Ông thì coi nó là đỉnh cao sáng tác không chỉ của Bach mà cả nền âm nhạc
pianô toàn thế giới.
Bà
chơi xong phần Prelude hùng tráng, bây giờ đang chuyển sang phần Fuge trữ tình
và theo ông là phần hay nhất của tác phẩm. Các bè nhạc lúc đan quyện vào nhau,
lúc đối đáp như lời tâm tình không dứt. Những nốt nhạc tinh khiết, thần thánh
làm ông lâng lâng. Tự lúc nào không biết, đôi mắt ông ngấn đầy lệ. Ông giật
mình, thầm mừng bà bận đàn nên không thấy ông khóc.
*
Một
tháng sau, đúng ngày rằm, từ Phú Thọ ông lại về Hà Nội và đến nhà bà.
-
Công việc của ông trên ấy thế nào? - Bà hỏi, hình như không ngạc nhiên trước
việc ông quay lại.
-
Cũng bình thường. Ổn cả. Còn bà?
-
Tôi thì có gì thay đổi được nữa. Ông không mang đồ nghề về à?
-
Không. Tôi nhớ Hà Nội quá, nhớ đàn quá. Ghé về chơi một hôm rồi lại lên trên
ấy.
-
Thế thì tiếc thật.
-
Sao vậy? Đàn lại sai dây à? - Ông hỏi rồi chợt thở dài. - Thật buồn rằng bây
giờ tôi chẳng giúp được bà nữa. Tai tôi hỏng rồi, bà biết đấy. Để tôi bảo cậu
Hà...
-
Không, tai ông vẫn thính lắm, - bà ngắt lời. - Vả lại, cây đàn của tôi nó đã
quen ông. Nó già yếu lắm rồi nên cần được chăm sóc thường xuyên. Thiếu ông,
dường như nó chẳng còn là chiếc đàn như trước. Ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới
điều ấy à?
Ông
bối rối không biết đáp thế nào. Bà bước thêm một bước về phía trước, nhìn thẳng
vào mắt ông và nói với giọng rất nghiêm túc:
-
Tôi có một đề nghị thế này, ông thấy được thì chấp nhận, không thì thôi, tùy
ông. Chiếc đàn của tôi hiện cần phải lên dây hàng ngày. Để đỡ vất vả, nếu muốn,
ông có thể ở lại đây, ngay trong nhà tôi để làm việc đó. Ý ông thế nào?
Ông
hiểu, nhưng vì quá bất ngờ, ông đứng lặng một lúc rồi ấp úng nói:
-
Nhưng cả tôi và... chiếc đàn của bà đã già. Làm thế, e nó thế nào ấy.
-
Ông lại lẩm cẩm rồi. Tai ông còn tốt, chỉ đầu óc ông có vấn đề mà thôi.
Để
ông khỏi lúng túng, bà ngồi xuống cạnh đàn, vẫn với vẻ đài các nghệ sĩ vốn có
của mình.
-
Bà vừa đàn bài gì lạ thế, hình như tôi
chưa nghe bao giờ, - ông hỏi khi bà đàn xong.
-
Đó là bản "Le Vieillard et le Piano", khúc ngẫu hứng tôi viết riêng
cho ông đấy. Lần đầu tiên tôi viết nhạc. Nghiệp dư, và vì hoàn cảnh bắt buộc.
"Le Vieillard" là ông, một ông già lẩm cẩm đáng yêu. Còn "Le
Piano" là ai thì tự ông đoán lấy. "Le Vieillard et le Piano",
một cái tên cũng hay đấy nhỉ?
Hà Nội, 3. 1. 2001
MÙI
SỮA
Tặng Nguyễn Thơm
Người
đàn ông, - một ông già sáu mươi, khô gầy với mái tóc bạc gần hết và nét mặt
căng thẳng - từ từ kéo dây khóa chiếc áo len mỏng mịn của người đàn bà đang nằm
trên giường, hai mắt nhắm chờ đợi, trán lấm tấm mồ hôi dù lúc ấy đã cuối thu và
trời khá lạnh.
Bên
trong là chiếc sơ-mi lụa sẫm màu với một dãy cúc dài bằng xà cừ lấp lánh. Tuy
cố giữ bình tĩnh, những ngón tay thon dài của ông vẫn run run khi lần mở chiếc
cúc thứ nhất sát cổ rồi chiếc thứ hai, thứ ba, để lộ dần làn da rất trắng và
mịn. Các động tác của ông thong thả, dịu dàng như khi người ta nhâm nhi tách
trà ngon, dù bản năng đàn ông đang rạo rực thôi thúc.
Bỗng
một ý nghĩ ngồ ngộ xuất hiện trong đầu. Ông có cảm giác việc ông đang cởi quần
áo người đàn bà này cũng giống như khi thận trọng mở hộp đàn vi-ô-lông. Đầu
tiên là kéo khóa lớp vải cứng bọc ngoài, rồi mở chiếc hộp gỗ bên trong lót nỉ,
cuối cùng bỏ tấm nhung mềm phủ kín chiếc đàn. Về hình dáng, không loại nhạc cụ
nào đẹp bằng đàn vi-ô-lông, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ luôn được bọc dưới
nhiều lớp vải.
Phải
mất mấy phút ông mới đưa được chiếc đàn - người ra khỏi hộp quần áo của mình.
Ông chợt sững sờ trước vẻ đẹp cơ thể trần truồng của người đàn bà, một cô gái
trẻ, còn rất trẻ. Về cơ bản, nó có nhiều đường cong giống chiếc đàn, và chỉ vẻ
đẹp của nó mới sánh được.
Mấy
phút trước đó, cô gái trẻ ấy nói với ông:
“Sớm
hoặc muộn con cũng thành đàn bà. Con muốn điều ấy xẩy ra với thầy.”
Rồi
cô lặng lẽ lên giường nằm chờ, nhắm mắt để khỏi phải thấy ông phản ứng thế nào. Có lẽ cả vì xấu hổ.
Ông
đứng lặng, ngắm cô rất lâu. Cô gái vẫn nằm bất động. Hình như đã thiếp đi. Có thể ngủ được trong những
trường hợp thế này ư?
Cô
đã hai mươi hai tuổi nhưng dường như cơ thể chưa phát triển hoàn toàn. Cặp vú
nhỏ và nhọn, núm hồng hồng. Túm lông dưới bụng thưa, ngắn và mềm. Người cô nhỏ
nhưng không gầy, có thể nói mũm mĩm, sự mũm mĩm của một đứa trẻ hơn một cô gái
trưởng thành. Cả kiểu nằm ngoẹo đầu một bên, môi chúm lại phụng phịu cũng giống
một đứa trẻ. Ông cúi xuống, giơ tay định chạm vào cái cơ thể trẻ con ấy nhưng
bỗng bàn tay ông chững lại, treo lơ lửng trên người cô. Bàn tay xương xương,
lốm đốm những nốt đồi mồi trở nên đen xạm, xấu xí trên nền trắng mịn của da
thịt cô gái.
Ông
là một giáo sư dạy vi-ô-lông. Cô gái là học trò yêu của ông hơn mười năm qua,
từ sơ cấp cho đến hết đại học. Ngày mai cô đi Pari học cao học, có thể quay về
mà cũng có thể không, cô bảo thế. Và hôm nay cô đến từ biệt ông.
Cô
luôn là một học trò giỏi, thông minh, xinh đẹp và cũng rất cá tính. Con gái của
người quen, một trí thức nổi tiếng. Ông đặc biệt cảm tình với cô, coi như con
và đoán cô cũng nghĩ thế về ông. Khi còn nhỏ, đi đâu ông cũng đưa cô theo, có
khi cả mấy ngày. Năm ngoái ông đi nghỉ Đồ Sơn một mình, cô cũng đòi theo. Ông
thấy bất tiện nên từ chối, cô khóc xin, ông phải báo với bố mẹ cô và họ nhờ ông
cho đi. Tất nhiên ông thuê phòng riêng và hai người đối xử với nhau như bố con.
Từ
bé cô luôn gọi thầy xưng con. Ông cũng thế. Một mức thân mật hơn so với quan hệ
thầy trò bình thường. Tuy nhiên khi trở thành cô gái, mối quan hệ trong sáng ấy
bắt đầu có ít thay đổi, những thay đổi rất tinh tế và từ phía cô chứ không phải
ông.
Cô
trở nên hay rụt rè e thẹn. Đôi khi ông chợt bắt gặp cô nhìn ông với cái nhìn
khác hẳn. Mãi sau này mới đoán hiểu cô yêu ông. Ông chỉ mỉm cười, tuy lúc đầu
thoáng chút bối rối. Ông là người có tài, đáng kính về mọi mặt, tế nhị và hay
mặc cảm. Sự tế nhị, mặc cảm ấy không cho phép ông vượt qua mức chênh lệch bốn
mươi tuổi giữa hai người. Nhưng dường như cô thì không. Cô ngưỡng mộ, yêu ông
một cách bồng bột, bất chấp tất cả, tất nhiên không bộc lộ ra ngoài. Chỉ do
tinh tế ông mới nhận ra điều ấy. Nhận ra mà vờ như không nhận ra để khỏi làm cô
bối rối và cũng để tự kiềm chế mình.
Hôm
nay thì tự cô nói thẳng, lại còn nảy ra cái ý định xin được ông cho thành đàn
bà. Cô đang nằm kia, hoàn toàn trần truồng, sau khi được ông cởi bỏ hết quần áo
như cởi nhiều lần vải bọc chiếc đàn vi-ô-lông.
Ông
bị bất ngờ trước lời đề nghị khác thường ấy. Tuy có tuổi nhưng còn là người đàn
ông khỏe mạnh, sau chút ít do dự, ông đã buông mình cho tình cảm lôi cuốn. Vả
lại ông nghĩ nếu làm khác, có thể cô sẽ thấy bị xúc phạm và đau khổ. Tất nhiên
giữa hai người không thể có cái tình yêu theo nghĩa thông thường, nhưng lẽ nào
ông không thể vượt qua mặc cảm để chiều cô và cũng là chiều mình một lần, chỉ
một lần duy nhất trước khi hai người chia tay, có thể chia tay mãi mãi?
Đúng
thế, trên nền da trắng của cô gái, bàn tay ông, vốn thon dài và đẹp như ở những
nghệ sĩ vi-ô-lông khác, bỗng trở nên xấu xí, đen đủi. Như tay phù thủy, ông
nghĩ và thầm ngạc nhiên với phát hiện mới của mình. Tuổi già. Chính tuổi già đã
tạo nên sự tương phản ấy. Giá ông trẻ hơn hai, ba mươi tuổi thì chẳng sao. Lúc
ấy chắc mọi việc sẽ diễn ra một cách tự nhiên, ông khỏi bị mặc cảm, bàn tay ông
khỏi bị treo lơ lửng thế này. Ông có cảm giác như nếu chạm vào, nó sẽ để lại
những vết đen bẩn và làm ô uế cơ thể thanh khiết của cô.
Cuối
cùng, bàn tay ấy chỉ dám khẽ chạm mái tóc cô, âu yếm ve vuốt, nhất là phía sau
gáy. Cô gái dường như đã thiếp đi thật. Cũng có thể còn thức nhưng cố tình nằm
yên, mắt vẫn nhắm, hơi thở đều đều.
Ông
cúi xuống định hôn cô, vẫn chưa quyết định sẽ hôn vào đâu - mắt, trán hay môi.
Trước đây ông nhiều lần hôn lên trán và mắt cô, nhưng môi thì chưa lần nào.
Cũng từng chạm vào người, cố tình chạm, vì điều đó mang cho ông một cảm giác
thích thú khó tả. Thậm chí ông có thể làm hơn nếu muốn, nhưng ông đã luôn kìm
mình để không bước qua cái vạch ngăn cách vô hình do ông đặt ra. Có thể lần này
sẽ khác chăng?...
Khi
cúi xuống sát mặt cô gái, lần nữa bất chợt ông chựng lại. Có mùi gì như mùi
sữa. Mùi sữa từ miệng những đứa trẻ còn bú mẹ! Không hoi gắt, chỉ thoang thoảng
dễ chịu, nhưng đúng là cái mùi ấy. Thật kỳ cục, ông thầm nghĩ. Cô gái này đã
hai mươi hai tuổi và chỉ có thể uống sữa đặc, sữa tươi, sữa cốc-tây... Hay từ
vú? Không, ở đấy chỉ có mùi thơm mát của da thịt và mùi tuổi trẻ.
Vẫn
mặc nguyên quần áo, ông lặng lẽ nằm xuống cạnh cô gái. Sự ham muốn thôi thúc
giảm nhiều từ khi không dám chạm tay vào người cô, giờ bị cái mùi kia làm tan biến.
Vì sao, ông không hiểu và đang cố hiểu.
Mấy
năm trước, trong một cuộc vui với bạn bè, bị hoàn cảnh đưa đẩy, ông đã bỏ tiền
mua tình yêu của một cô gái. Ngậm vú cô, ông thấy trên lưỡi có cái gì ngòn
ngọt. Khi được hỏi, cô kia bảo mới sinh, cần tiền nuôi con nên phải làm nghề
này. Ông mất hết hứng thú, đứng dậy mặc quần áo, cho cô kia gấp đôi số tiền đã
hứa rồi bỏ về nhà với cảm giác gần như tội lỗi. Sau đấy ông không bao giờ tới
những chỗ tương tự.
Ông
có đứa cháu ngoại còn bé và thường thích thú ẵm nó trên tay để ngửi mùi sữa mẹ
thoang thoảng từ miệng nó. Sao cũng chính một mùi trong ba trường hợp lại có
cái gì đấy vừa giống lại vừa khác hẳn nhau như vậy? Vô tình, ông liên tưởng cô
gái đang trần truồng nằm bên với đứa cháu mà không ít khi ông cũng bế trần
truồng như thế.
Mà
sao cô học trò của ông lại làm thế nhỉ? Vì tình yêu? Hiến dâng vì ngưỡng mộ,
biết ơn? Hay đơn giản chỉ là cơn bột phát của tuổi trẻ? Thanh niên bây giờ hiện
đại thật. Nhiều người già bây giờ cũng hiện đại không kém. Họ tự cho phép mình
những điều mà đáng lẽ vì tuổi tác và địa vị, họ không được phép làm. Còn ông,
ông hiện đại hay cổ hủ? Ông có được phép cư xử với cô bé nằm bên như với một
người đàn bà không? Có phải là sự sa đọa đạo đức không, khi một người già như
ông hăm hở chiếm đoạt một cơ thể trẻ trung, trong trắng đến thế?
Ông
quay người, dịu dàng luồn tay vào mái tóc cô, đặt môi mình lên đôi mắt đang
nhắm, hết mắt này đến mắt khác. Có vị mằn mặn. Vẫn phảng phất mùi sữa...
Ông
nhớ đã đọc đâu đấy cuốn sách nói ở Nhật có những nhà nghỉ dành riêng cho các
ông già bất lực. Ở đấy, họ vào những căn phòng có các cô gái chờ sẵn, trần
truồng và đang ngủ. Họ chỉ cần được có cảm giác suốt đêm nằm cạnh một cô gái
trẻ còn trinh tiết. Cô gái được cho uống thuốc ngủ đặc biệt, không thể tỉnh dậy
trước giờ đã định, nên khách không bị mặc cảm về sự bất lực của mình. Các cô
giúp họ sống lại những kỷ niệm thời trẻ, vui cũng như buồn, và lần nữa chiêm
nghiệm cả cuộc đời dài mình đã sống. Cách giải trí này mang lại cho họ sự thư
giãn lạ lùng. Nhiều người muốn được chết với một cô gái như thế bên cạnh. Trong
truyện có một ông ngẫu nhiên chết thật, nhưng chủ nhà nghỉ kịp đưa ông ta đi
nơi khác, còn cô gái thì, như những cô gái khác, sáng dậy không hề biết ai đã
qua đêm với mình, không biết có người đã chết bên cô.
“Người
Nhật lắm trò kỳ cục thật”, ông thầm nghĩ và chợt nhớ trong cuốn truyện ấy cũng
có một ông già giống ông lúc này, chưa bất lực, suốt đêm nằm bên cô gái trinh
tiết trần truồng mà không dám chạm tay vào người cô, sợ làm ô uế tuổi trẻ trong
trắng. Ông ta cũng ngửi thấy mùi sữa từ hơi thở cô gái. Mùi hoi hoi sữa mẹ.
Tiếc là đêm ấy, để được ngủ say bên cô, ông ta uống thuốc ngủ quá liều, và
trong mơ đã bóp cổ cô gái. Xác chết bị đưa đi ngay, một cô khác được đem vào
thế chỗ, và sáng ngủ dậy ông ta không hề biết mình đã phạm tội giết người. Thậm
chí không nhận thấy có gì khác lạ.
Ông
rùng mình khi nghĩ về chi tiết kinh khủng ấy. “Đáng lẽ ông nhà văn kia không
nên viết nó, cả khi có thật những chuyện như thế.”
Cuối
cùng ông nhỏm dậy, và lại hôn lên mắt cô gái. Vẫn có vị mằn mặn.
“Con
ngủ à?” ông hỏi.
Cô
gái khẽ gật đầu.
“Con
chưa bao giờ hôn người đàn ông nào, và cũng chưa được hôn?”
Gật
đầu.
Ông
im lặng một lúc, vẻ bối rối:
“Thầy
xin lỗi. Thầy mặc quần áo cho con nhé?”
Cô
gái lại gật đầu, mắt vẫn nhắm.
Ông
bắt đầu mặc quần áo cho cô, từng cái một, thong thả và thận trọng như khi mỗi
lần biểu diễn xong ông cho đàn vào hộp. Cô gái vẫn nằm yên, chỉ khẽ cử động
những lúc cần giúp ông. Khi cơ thể tuyệt đẹp của cô lại được bọc trong chiếc
hộp quần áo, ông có cảm giác như hẫng hụt điều gì.
Cô
gái đứng dậy, nhìn ông với vẻ ngơ ngác rồi bất chợt bỏ chạy ra ngoài. Hình như
cô khóc.
Sáng
hôm sau ông ra sân bay tiễn cô. Đến lúc phải bước vào khu vực chỉ dành riêng
cho hành khách, cô bỗng ôm chầm lấy ông, nước mắt dàn dụa:
“Em
yêu anh!... Chính vì vậy mà em phải ra đi và sẽ không quay về nữa...”
Ông
hôn nhẹ lên trán cô, định nói “Thầy cũng yêu con”. Một câu nói lấp lửng có thể
hiểu theo hai cách - tình yêu giữa đàn ông đàn bà, và tình yêu giữa bậc cao
tuổi với con cháu. Nhưng ông chỉ đứng im, lần nữa đặt môi lên mái tóc cô. Thật
lạ, cả mái tóc cũng phảng phất mùi sữa.
Bất
chợt, ông thấy mình như già hơn thêm chục tuổi.
Hà Nội, 2003
CÔ
GÁI BÁN HOA
Thành
phố đêm trăng. Đèn sáng rực khắp nơi nhưng không át được thứ ánh sáng huyền ảo
có màu vừa bàng bạc vừa xanh lơ của trăng rằm tháng Sáu cao trên đầu. Trời
không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ phía sông Hồng thật dễ chịu. Thậm chí phảng phất
mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng hơn, có lẽ đó là mùi hạnh phúc.
Ông
đang cảm thấy hạnh phúc, cái hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi
nhiều ở đời. Chỉ mong muốn cho, nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành
đến mức ngây thơ, do vậy nhiều khi lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt
thường dễ tổn thương.
Đứng
dưới vành trăng tròn vằng vặc ấy, ông thấy người lâng lâng như bay lên được. Cảm giác này làm ông nhớ
tới chuyện khoa học đã chứng minh rằng khi đứng đúng dưới trăng tròn, trọng
lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ hơn bao nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người
ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún người, nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông
mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh, hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá
khang trang, xe cộ bóng lộn nối đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ
rằng ông và cả dân tộc đã phải chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để
có được ngày hôm nay.
Khi
hạnh phúc người ta dễ xúc động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn
lao, phi thường, thật tốt cho người khác.
Nhân
vật chính câu chuyện này của chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện
gót giày đi dạo dọc theo một trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các
bạn tò mò muốn biết người đó là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong
truyện “Say Nắng” năm ngoái. Ông giáo sư thơ ngây, “mắc bệnh tim to” và độc
thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm trời nắng đẹp quyết định dạo phố, tự cho phép mình
hút thuốc ba con năm, uống rượu vang Pháp, vào hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi
ông, vì “say nắng” để mình lọt vào vòng tay một cô gái trẻ rồi bị đưa lên đồn
công an... Ông là bạn thân của tôi. Chuyện xẩy ra đúng như thế. Có điều ông
không treo cổ tự tử khi bị báo nêu đích danh, mặc dù có ý định ấy, may tôi và
mấy người bạn nữa kịp can ngăn. Thường vẫn thế, trong đời mọi việc không đơn
giản và quyết liệt như trong truyện. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì cái kết phịa
nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy
là giáo sư N., lần này ban đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên
đường phố thủ đô xinh đẹp. Có nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm.
Ánh trăng làm người ông mềm ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc
làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người
gầy nhom, lại giữa lúc thanh bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp
ông thực hiện được ý tưởng đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến
lúc bất chợt nhìn thấy một cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía
trước. Người, xe đi ngang qua cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi,
ban đêm ai mua hoa? Mà rồi hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu
hoa gì, chỉ thấy trăng trắng một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì
ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt
đẹp thế này, ở một thành phố cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này
mà bất hạnh?
Giáo
sư N. như khựng lại, nhăn trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô
gái. Cơ hội thực hiện việc làm “vĩ đại” đã đến.
Ông
móc túi lấy hết số tiền mình có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá),
rồi cầm bó hoa héo lên tay. Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ
duy nhất của thủ đô đêm nay, thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và
hồn nhiên như đứa trẻ.
“Bác...
Anh không mua hoa gì nữa à?”
Ông
không hiểu, đứng đờ ra hồi lâu.
“Tôi
già rồi. Cô gọi bác cho tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô
rồi đấy thôi.”
“Em
bán cả hoa kia nữa.” Cô kia ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa
nào?”
Cô
gái có vẻ lúng túng, chắc lần đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải
đành nói thật:
“Em
là gái bán hoa... Nếu thích, anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho
em dăm chục nghìn. Ba chục cũng được.”
Giờ
thì ông giáo sư già hiểu. Có cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô
gái còn trẻ, chắc chưa đến hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật
thà chất phác kiểu nhà quê.
“Bác
từ quê lên à?” Cô gái hỏi, chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy.
Quê em Thái Bình. Bác ở đâu?”
“Tôi
người Hà Nội, sống ở đây sáu mươi năm rồi.”
Ông
đáp, vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao
cháu không ở quê, lại lên đây làm nghề này?”
“Ôi,
sao đàn ông người nào cũng hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói
to, giọng khó chịu và thách thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người
ta tới xó xỉnh nào đó. Tại sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người
à? Hà Nội không cần những đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi,
không cần dài dòng. Có muốn thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ
cho cả hai loại hoa. Không phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng,
sòng phẳng như ai.”
Giờ
thì giáo sư N., nhà vật lý lý thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình
trong căn hộ “hang chuột” ở một nhà chung cư kiểu cũ hiểu cặn kẽ các hạt vật chất và phi vật chất
vô hình, đang bối rối thực sự không hiểu cô gái trẻ con trước mặt đang nói gì,
vì sao có thể nói như thế, và quan trọng hơn cả là ông phải làm gì bây giờ.
Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm ngoái không giúp ông hiểu
biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn thế, những người quá chân
thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho mình.
Ông
im lặng khá lâu, cho đến lúc suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả
quyết:
“Thế
thì đi.”
“Đi
đâu?”
“Về
nhà tôi.”
“Không
sợ sư tử Hà Đông à?”
“Tôi
sống một mình.”
“Được
đấy. Vậy ta đi. Nhưng nhà anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời
gian. Hôm nay chưa được khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông
nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi
nhắc lại: Đừng xưng anh em. Bác cháu dễ nghe hơn.”
“Cũng
được. Nhưng bác bác cháu cháu rồi làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa
làm vừa hỏi có sướng không con. Kinh!”
“Sẽ
không có chuyện ấy.”
“Không?
Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi
cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác chỉ mong điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay
bác định đưa cháu về đồn công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt
một lần rồi...”
“Công
an nào. Vớ vẩn. Thôi, không nói nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi
ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên
cao trăng vẫn sáng, thơ mộng và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông
không còn cái cảm giác lâng lâng lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi
kết luận về sự giảm trọng lượng do sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người
xe vẫn thế, nhưng bức tranh hạnh phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó
ông phát hiện thấy một vết ố nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như
mình có lỗi đã để nó xuất hiện. Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu
một kế hoạch xóa sạch vết ố ấy. Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại”
ông vẫn mong ước.
*
Bà
hàng xóm to béo và tốt bụng rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm
khuya - lúc ấy mười rưỡi và bà đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái
được gửi từ quê ra nhờ nuôi hộ. Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không
quen biết ngủ tạm, ít nhất cũng mấy tối.
“Người
bà con bác à?”
“Không.
Chỉ một cô gái bán hoa tôi gặp ngoài phố.”
Là
người từng trải, bà hiểu đúng nghĩa của từ này.
“Trời!
Lại còn dẫn về nhà? Nếu quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà
hiểu sai rồi, tôi chỉ đơn giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp
cách nào?”
“Tạm
thời chưa rõ lắm, nhưng phải giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở
đấy không tiện. Vậy mới nhờ đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai
tôi nói hết mọi chuyện.”
Vậy
là tối hôm ấy cô gái bán hoa ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại
quí ông giáo sư nên đã nhận lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật
kỹ. “Khi nào mòn hết nửa bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái
thì dọc đường đi trước đó đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên
tâm. Cô cũng kể nhiều về mình và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả
những người tốt bụng có lòng trắc ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn
không bao giờ thay đổi được sự cả tin ấy.
Sau
đó ông gọi điện cho tôi, bảo phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn,
tôi đồng ý mà không căn vặn điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi
có lòng, ông có tiền. Vậy ta thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn
tắt sự việc.
“Tôi
cũng có lòng,” tôi đáp, hơi chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính
bốc đồng. Không khéo lại chuốc vạ vào thân.”
“Thì
đã sao? Suy cho cùng, những gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý
lý thuyết, cũng như cả trăm truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng
cứu được một con người cụ thể như cô gái này...”
“Có
thể như vậy, nhưng Lỗ Tấn bỏ nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một
lúc giúp được nhiều người hơn.”
“Ông
không ví mình với văn hào Lỗ Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi
đùa thôi. Công bằng mà nói, truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta
thấy yêu đời và còn muốn sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc
ác, tục tĩu, toàn một màu đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông
vẫn chỉ trên trang giấy, còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt
và đang chờ ta kéo ra khỏi vũng bùn...”
“Nếu
cô ta không muốn được kéo ra thì sao?”
“Không
thể có chuyện ấy. Không ai muốn sống trong bùn nhớp nhúa”
“Nếu
cô ta lừa ông, hoặc sau bao nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì
coi như tôi tính sai một con số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài
mà. Vả lại, có sai mới có đúng.”
Tôi
thấy đuối lý trước những lập luận giản dị ấy.
Hai
ngày sau, với tiền của tôi (ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ
đáng khâm phục của ông và cả sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở
trong căn phòng mười lăm mét vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê
ba trăm năm mươi nghìn đồng một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho
cô những vật dụng cần thiết cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi
cá kho lớn. Những thứ này do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống
mình, ông thuê cho cô một góc cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy
chục mét) thêm một triệu đồng làm vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết
bán hoa chứ không cái gì khác, ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ
lúc đầu. Bán hoa làm đẹp cho đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và
đáng yêu.
Mọi
việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn hở ra mặt. Tôi cũng vui lây với ông, một lần còn đi
theo đến cửa hàng hoa và căn phòng mới thuê. Cô gái có vẻ chí thú và cũng
ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng sau bỗng một thằng lẻo khẻo mặt đầy mụn và hay
ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N. làm ầm lên, như thể ông “cướp vợ” hắn. Bà hàng
xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn ra ngoài, nhưng cũng khối người trong chung cư
nghi ông làm điều bất chính. Sau đó vài tuần thì ông chủ nhà đem tiền đến trả
không cho thuê nữa, với lý do nhà ông bị biến thành nhà chứa, và rằng cô gái
bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường “bán hoa” ở chỗ cũ, bắt được khách lại dắt về
phòng mình.
Giáo
sư N. nhất quyết không tin, đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế
nào. Nể bạn, tôi phải đi theo. Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước
vào thì hai anh công an khu vực đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu
đó). Một anh nghiêm mặt nói: “Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng
này...” May ông chủ nhà kịp đến thanh minh hộ.
Hôm
sau thì cô gái bán hoa biến mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem
theo được.
*
Nhiều
bạn đọc cứ hỏi những gì tôi viết có đúng thật sự xẩy ra như thế không. Câu hỏi
thật khó. Vừa đúng lại vừa không. “Văn nói láo, báo nói phét,” người đời hay
nói thế. Viết văn là hư cấu, tất nhiên, nhưng không phải hoàn toàn. Muốn hay
không, vẫn phải có một liều lượng sự thật nhất rồi từ đấy thêm thắt, khái quát
thành câu chuyện còn thật hơn cả ngoài đời có thật. Không thì ai chẳng viết
được văn, nếu đã học ngữ pháp và ít nhiều biết cách kể chuyện. Cứ tin tôi đi,
nếu ai đó viết giả dối hoặc phịa hoàn toàn, sớm muộn người ta cũng phát hiện
ra. Không một kỹ thuật nghề nghiệp nào che giấu được điều ấy. Ở những nét cơ
bản, câu chuyện tôi kể trên đây là có thật, xẩy ra với ông bạn già của tôi là
giáo sư N., và trong chừng mực nào đó, cả với tôi nữa. Vốn lạc quan và luôn tin
vào sự tốt đẹp ở đời, tôi thích và thường viết những câu chuyện có hậu.
Thực
tế cuộc sống còn có những người như cô gái bán hoa kia. Tôi nghĩ ít thôi nhưng
vẫn có. Hay đúng hơn, tôi mong muốn nó ít. Vì vậy tôi đang vắt óc tìm một phần
kết đẹp hơn cho truyện ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra. Tôi sẽ rất biết ơn nếu
ai đó trong bạn đọc gợi ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý kiến cũng lắc đầu (Tôi có
thói quen chuyện gì cũng hỏi vợ, cả chuyện viết lách). Bà ấy chỉ phán một câu,
với cái giọng châm biếm không ác ý hàng ngày: “Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi
không hỏi giáo sư N., thậm chí giấu không cho biết tôi viết truyện này. Ông vừa
ở nhà tôi về xong. Như cú “say nắng” năm ngoái, lần “say trăng’ này cũng làm
ông buồn. Vấn đề chẳng ở tiền bạc và công sức. Ông buồn vì cô kia bỏ đi không
một lời nhắn lại. Ông bảo tôi chắc cô làm thế vì hoàn cảnh bắt buộc, và rằng
nếu nói ra, có thể ông sẽ giúp được. Tính ông dễ buồn, nhưng buồn không lâu, và
rồi cuối cùng bao giờ cái bản chất tin người, thương người cũng trội lên lấn át
tất cả. Tôi dám chắc nay mai ông sẽ lại bị “say” lần nữa, và lần nữa ông lại
hăm hở lao vào một việc nào đó “tốt và vĩ đại” để giúp người khác. Thì ông đã
nói, nếu bị lừa, đó đơn giản cũng chỉ là phép tính ông tính sai. Sai thì tính
lại. Cuộc đời là cả triệu phép tính, tính sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn
tôi? Tôi cũng thừa giấy mực và nghị lực. Trót viết sai một câu thì viết lại. No
problem, như người Anh thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi
tính, tha hồ tẩy xóa, tha hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi.
Dẫu không được như Lỗ Tấn, tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo
trở nào đó mà buồn. Đời vẫn đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô
ta cũng chỉ là con số sai trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề
của tôi, một câu văn chưa chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là
cả giáo sư N., tôi, và tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.
Hà Nội, 29. 5. 2003
NGÀY
ĐẸP TRỜI
Hôm
ấy là một ngày đẹp trời. Mặt trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây
trước nhà. Ông lão mù và con chó ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Ông
lão đã gần tám mươi. Con chó nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui
ra tuổi người, nó cũng già như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ,
có thể nói gần như mù. Nó là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở
cái tuổi đáng kính ấy vẫn giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục
năm. Chỉ gầy đi đôi chút. Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như
xưa. Suốt ngày nó ở ngoài sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười
biếng nằm bẹp xuống nền xi măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì
làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu
đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ gầm gừ hăm
dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc
trông coi nhà cửa như lũ con cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ
không biết ở đâu. Như ông chủ, nó xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của
cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc. Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh
phúc đơn sơ theo kiểu chó...
Còn
ông lão? Thì ông cũng hạnh phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông
vốn nông dân, suốt đời chân lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh
thiên đầu thống, được con trai đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con
chó này dắt, bây giờ nó mù thì nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây
mấy năm, do vợ khó dễ, anh con mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê
bà hàng xóm lo cơm nước, giặt dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ
những tháng quên. Thế thì hỏi ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông
vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn
không phải ngày nào cũng có, và tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ
không phải tiếng gầm gừ của con chó, thì vẫn hơn.
Vậy
là cả hai, con người và con chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau,
không bị ai quấy rầy. Lại vào một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ
trồng mấy cây khế còn thấp nhưng um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa
xe máy. Ông ta, một người tóc húi cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe
nói về hưu non, không hiểu do giảm biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui
vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.
-
Cái giống chó nhà mày ấy mà, Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông
lão lên tiếng, đập đập tay lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn
gọi nó là Vện mặc dù hồi còn ở chung, vợ chồng con ông đặt cho cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà
xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc già lại chẳng có đứa nào bên
cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì chết, chết đói thật đấy.
Con
Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.
-
Còn tao thì mày biết, tao đã kể bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai.
Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à?
Mấy năm trước, khi còn ở chung, tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé.
Tầng bốn, tầng cao nhất, mày hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy
rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình.
Nó dặn mấy đứa con gặp ông phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại
còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê
ấy mà, khối người về già bị con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng
con không thỏa thuận được với nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời
gian. Mấy ngày thôi cũng được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng
hiền lành và biết điều. Chỉ tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ
tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng
nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một
mình. Chả là thằng kia không chịu cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu
bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói
cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp
cho vào cạp quần, khi thành món kha khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại
cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào
chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm
gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày
nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày
thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có
tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn
nếu tao chết trước, mày có theo người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày
là con chó tốt, và có mày tao cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói
gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?
Con
chó già không đáp vì nó đang bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm nó.
-
Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn đấy nhá!
Không,
lúc ấy con Vện đứng cạnh chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn
miếng mồi trước mặt. Đó là một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng
cái mũi thính của nó vẫn ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh
nghiệm của một con chó già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi
này. Nó đang lưỡng lự. Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói,
cuối cùng đã thắng. Nó cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão
rồi ngoạm vào miệng, nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ
nuốt.
Bỗng
con Vện khựng lại. Có cái gì đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây
cước màu trắng mãi đến lúc này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài.
Đúng lúc nó định tìm cách nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt
trong cuống họng. Đau lắm. Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm,
cố khạc ra. Không được. Sợi dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì
miếng thịt mắc ngay ở cuống họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo
hướng sợi dây đang kéo, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó,
cho dù vì vui hay buồn, đều giống nhau.
-
Mày làm sao thế, Vện? - ông lão mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày
hát gì mà nghe như khóc ấy. Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay
ngày cũng đẹp. Gớm, tháng trước rét thế. May đêm ngủ có mày, chứ không tao cũng chết rét... Mà
thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu
rồi?
Lúc
này con chó già đã bị kéo ra tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một
thằng đàn ông còn trẻ đội mũ cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa,
mặt quắt và đầy trứng cá. Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó
chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn
sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.
Bình
thường, dẫu già con Vện vẫn có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó
đang đau, không sủa, không cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết
nên hắn mới có thể làm mọi việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến
kinh nghiệm, mà kinh nghiêm trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng
câu chó chuyên nghiệp. Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá.
Nhử cho chó ăn mồi, chờ chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây.
Sợi dây cũng bằng cước, mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử
hỏi khi đã mắc mồi thì có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà
sợ đứt?
-
Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này
to hơn và đầy lo lắng. - Vện! Vện! Mày đi đâu đấy?
-
Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm ngừng sửa xe, nói vọng sang.
-
Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là đi đâu?
-
Là tới các quán thịt chó ở trên ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.
-
Nhưng sao con Vện lại đến đấy và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.
-
Không phải nó tự đến, mà bị bọn trộm bắt...
-
Bắt trộm? Con Vện này mà chịu để người khác bắt trộm?
Ông
hàng xóm kể rõ thủ đoạn của bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng
“trời” rồi ngồi im. Mãi lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;
-
Sao bác biết, không ra giữ nó lại?
Ông
kia suy nghĩ một chốc, đáp:
-
Tôi bận chữa xe.
Rồi
vô cớ, cho rú máy inh ỏi.
*
Trên
đời có những người làm điều ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức
rất lờ mờ, thậm chí không coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm
gấp bội. Thằng câu chó này là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình
nông dân bình thường. Nhà nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào.
Không rượu chè, cờ bạc. Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với
pháp luật. Hắn chăm chỉ làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng
đáng trách. Quan hệ với bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là
người không đến nỗi nào, trừ việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để
bán cho các cửa hàng ở Nhật Tân.
Hắn
có biết việc này là xấu không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không
nghĩ đó là tội ác. Trộm vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại
mà cách đây không lâu ở quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà
đánh chết bằng hết. Hắn chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục “hành nghề”,
hết con này đến con khác, hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc
hắn ăn trộm chó bằng cách móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả
chưa một lần hắn nghĩ tới. Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ
của hắn đơn giản không cho rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở
các bộ tộc mông muội ngày xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng
loại.
Câu
chó và câu cá thì có khác gì nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu,
thả xuống nước có thể sống. Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ
phi sau khi thui bị mố họng. Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá.
Gần đây báo đưa tin ở Thụy Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn
sống, tức là tội hành hạ loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm
luật bảo vệ động vật. Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng
những con chó tội nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi
người xung quanh dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống
bằng đồng tiền moi họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn “đi làm”. Các chủ
quán Nhật Tân thản nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong
họng như mọi món hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon
lành. Ông hàng xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do “bận chữa xe máy”.
Anh con trai ông lão mù thản nhiên nói: “Mất con này thì mua con khác, thiếu gì
mà bố phải khổ sở đến thế.” Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo
vụ việc còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng
những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.
*
Bạn
đọc thân mến, nhưng tôi thì không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này.
Hy vọng các bạn cũng không thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy
ra ở cái huyện ngoại thành, là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang
sống thanh thản và hạnh phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy
đúng là ngày đẹp trời, nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.
Cho
đến tận lúc này tôi vẫn có cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba
ngạnh kia. Một sự công phẫn thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai,
thét rằng trên đời vẫn tồn tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể
thản nhiên với nó đến thế. Cái ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả
những dạng nhỏ nhặt và “hồn nhiên” nhất. Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ
cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và quan trọng hơn cả là không làm gì để chống
lại chúng. Bản thân thái độ thụ động này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không
nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng
cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi
mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi thấy mình không phần nào có lỗi trong việc
con Vện bị giết một cách dã man và ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy
nhất...
Vậy
là tôi đã làm hỏng truyện ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một
bài tùy bút với những lời ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn
hứng “truyện ma”, tôi có thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó.
Nhưng đây là chuyện có thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không
thể cho phép mình được viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ
thật trong đầu tôi. Khi đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.
PS.
Ông
lão mù mới chết tuần trước. Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm
thấy khó thở, không nói, không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp
trời. Vợ chồng tôi và cả ông hàng xóm “bận chữa xe” tiễn cụ tới tận nghĩa
trang.
Chỉ
tiếc không có con Vện.
Hà Nội, 8. 10. 2002
ANH
DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN
Ông
Sêkhốp có một truyện, ngắn thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh
Gầy". Câu chuyện đang viết đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm
được một cái tên vừa ý, vậy tôi xin bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng
Cảm và anh Hèn".
Xin
được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
Ở
huyện ngoại thành Hà Nội nọ có một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện
chiến trường hoặc săn bắt cướp, dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc
không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng
tai gai mắt, cái bây giờ được gọi là "hiện tượng tiêu cực", và rất
tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm
nản mà thôi. Nhưng anh thì không, cương quyết không. Anh đã ba mươi lăm tuổi,
to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là
trong cuộc chiến này anh không được phép phát huy sở trường đó.
Hóa
ra ở đời làm người tử tế và dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm
ấy cũng không nhỏ. Từ chiến trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy
khen và bằng dũng sĩ, anh được người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân
trong chính quyền địa phương, phù hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng
chính "người ta" ấy đã khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách
tinh tế, khiến anh biết đấy mà không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ
còn là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm
như bao người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ
vì anh không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công
lý và cũng vì quá dũng cảm.
Làm
ruộng là một sở trường nữa của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra
trận. Anh tháo vát, biết lo toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không
đến nỗi. Anh chẳng có gì để phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất
công xung quanh, "những việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không
phải lúc nào chúng cũng liên quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào
"đấu tranh", theo kiểu "đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày
trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ, trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc
thiếu mất sự tế nhị cần thiết. Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại
hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một
kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Một
hôm vợ anh lên cơn hen nặng, phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng
xẩy ra, ít thì một, nhiều có khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và
biết phải làm gì.
Giống
mọi lần, người ta cho vợ anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin
Nebule, loại 5 mg. Ba ống thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi
chỉ cho anh sang phòng bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương
vợ, anh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở
được và nếu không có gì nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều
trị tiếp. Bệnh hen là vậy.
Anh
lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là
dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái
độ. Lo cho bệnh tình đã khổ, họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm
hơn, là tờ phiếu thanh toán viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những
con số đáng sợ, nhất là khi qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang
xuống giá.
Các
nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức
người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ
thục bất thành văn nào đó), vẫn thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những
người ý thức rõ quyền lực và tầm quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này
và luôn nhắc mình kiềm chế không "đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện
cùng những "thiên thần áo trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải
làm việc vất vả và từng cứu sống nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh
vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm
người không cho phép lấy oán trả ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh
viện và theo lệ chung, người ta làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác
anh nhất định không bỏ qua. Tất nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó
chịu.
Ba
tiếng sau, cũng tại phòng cấp cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện.
Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu
mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh
hỏi người thu tiền:
-
Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh
viện giá bốn mươi nghìn đồng một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn
đồng một ống? Tức là một trăm nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
-
Tôi không biết. - Người kia khó chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
-
Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
-
Tôi đã bảo không biết mà. Cứu được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách
việc.
Anh
lại đứng suy nghĩ, đắn đo, rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của
mình, một cách mềm mỏng và lịch sự.
-
Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp, hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ.
- Anh biết thế sao không ra hiệu thuốc mà mua để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc
tiền. Đã tiếc tiền sao còn đưa vợ đến đây cấp cứu?
Anh
thấy nóng mặt tức giận vì thái độ hỗn xược của cô nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
-
Nhưng chính chị chỉ cho tôi sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ
cách đây vài chục bước. Tôi xin hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức
qui định hay các chị tự đặt ra, thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
Thấy
giọng anh có vẻ cứng rắn, lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông
bà nông dân khác, cô bác sĩ thoáng chút bối rối nhưng cố nói át:
-
Thời buổi thị trường, mỗi nơi một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so
đọ một vài chục nghìn. Tiếc đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây
nữa.
-
Vậy là các người thông đồng với nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi
là "giữa cái sống và cái chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những
bệnh nhân nghèo, chủ yếu là những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt
từng tiếng. Anh đã không còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn
luôn nhắc mình khi vào bệnh viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
-
Anh nói sao? Anh dám bảo chúng tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
-
Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng, cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại
rằng cô, chính cô là một con ăn cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn
cắp hết ngày này sang ngày khác, nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo
luật, tôi phải đưa cô đến đồn công an để giải quyết như với những con ăn cắp
chuyên nghiệp khác. Đi, bây giờ cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta,
định lôi đi.
-
Ối làng nước ơi, cứu tôi với! - Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng
mất dạy đang làm nhục tôi.
-
Câm mồm! Nếu mày không phải đàn bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm!
Thấy
động, mọi người nhanh chóng kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người
nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ
điều họ đang ấm ức.
-
Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng ai dám nói gì.
-
Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm.
-
Đồ mất dạy, phải trị cho chúng một trận.
-
Trả tiền lại cho người ta, không nuốt được đâu.
-
Nhưng mà cái ông kia cũng quá đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả,
lương ít. Có mấy đồng bạc...
-
Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất
vả thì người ta đã trả hai mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính
xem, một người chúng ăn chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng
cấp cứu bao nhiêu người, chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
-
Đánh bỏ mẹ nó đi!
Một
thanh niên mặc áo trắng hùng hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định
gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm chặt cổ tay.
-
Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây rối à?
-
Câm mồm. Nó thì tao không đánh, chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói,
và bóp mạnh một cái vào vai hắn bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất
động, chẳng nói thêm được lời nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra
đồn công an, con ăn cắp.
Rồi
anh kéo cô bác sĩ, lúc này đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng
của vấn đề.
-
Chúng tôi là công an đây. Anh cần gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa
vội vã bước lại gần, vừa nói.
-
Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói.
Anh vắn tắt kể lại những gì đã xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp
này về đồn xử lý theo đúng luật pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không?
Cần nhiều đấy, không phải một đâu.
Hai
anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý.
Xung quanh lại nhao nhao tiếng đồng tình của nhiều người.
-
Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi,
gọi đây là hành vi tiêu cực thì đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh kể cũng hơi quá...
-
Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu
biết để lấy tiền của người ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải
tiêu cực. Chưa nói đến tính cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông
dân.
-
Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết nói với anh thế nào được nhỉ?
-
Các anh là người đại diện và bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào.
- Anh Dũng Cảm hạ giọng. - Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây,
giá đây. Bây giờ các anh định giải quyết thế nào?
Một
chốc sau họ, gồm anh Dũng Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên
phòng giám đốc bệnh viện.
Ông
giám đốc là một người nghiêm khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong
ngành. Ông chăm chú nghe anh Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe
xong, ông ngồi im lúc lâu, mặt ửng đỏ, một bên má dật dật. Cuối cùng ông nói,
thong thả và dứt khoát. Cô bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất và vẫn còn khóc.
-
Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người
như anh. Với tư cách là thủ trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin
lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành
vi ăn cắp, vì nói gì thì nói, đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống,
hàng ngày, trắng trợn và đểu giả như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và
xấu hổ vì việc làm này của các nhân viên tôi.
Liền
sau đó, ông cho người gọi trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang
tiền chênh lệch trả lại cho người bị hại.
-
Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp
lại hiện tượng này.
-
Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật
như thế nào?
-
Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui
định của bộ.
-
Nhưng đây là hành vi ăn cắp như chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo
tôi biết, thì phải truy cứu hình sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải
quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
Đến
lượt ông giáo sư lúng túng.
-
Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự
việc theo hướng này. Mà tôi lại không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý
kiến của anh, thậm chí bênh vực anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức
năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng
không vì việc này mà anh mất niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người
đang làm việc ở đây. Xin anh cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết
quả xử lý vụ này cho anh.
Anh
Dũng Cảm, nhân vật của chúng ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao
anh bỗng thấy thật buồn. Anh đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn
nguy hiểm, sự tức giận cũng không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như
có cái gì hẫng hụt trong lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là
cái gì. Anh căm ghét tất cả bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng.
Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm
quá không, có thực sự anh đã lấy oán trả ân không? Nếu con bé ăn cắp kia bị đuổi việc, bị tù tội
thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia đình nó? Càng nghĩ anh càng
thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ
này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được tin báo của ông giáo sư giám đốc
bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia, nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
Đấy,
chuyện anh Dũng Cảm là như thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện
anh Hèn thì sao?"
*
Anh
Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng
như không hề có chuyện anh ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những
việc làm dũng cảm đáng khen của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay
"phịa" như người ta vẫn nói. Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ
sở những chuyện có thật.
Cái
sự thật đó là: Cách đây không lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu.
Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống
Ventolin Nebule với giá của họ là hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy
thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc
nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở
mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì
vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại dễ xúc động, làm sao tôi có thể
hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng nào đó? Sau nữa, mà đây mới là
lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong
ý nghĩ, tôi hình dung, tôi muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng
những việc anh đã làm. Nhưng trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng
cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người
khác cười chê vì tiếc mấy nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải
quyết được gì. Chính cô nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy
ra thường xuyên, trước đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng
thế. Tóm lại là tôi hèn, và có cớ xác đáng để hèn.
Chẳng
ai đem cái hèn của mình ra khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải
công nhận đúng thế ấy. Thế mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc
loại người "hễ thấy bất công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất
nhiên, cũng từng lãnh đủ, nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm.
Chẳng qua mỗi tuổi một cách suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người
có lúc" như các cụ nói.
Bây
giờ tôi đã già, an phận với sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt
ngày gõ gõ bên chiếc máy vi tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ
như kéo tôi dính chặt vào chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào.
Các hoài bão, ham muốn, cả thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng
với nó là cái quyết tâm đấu tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng
mực nào đó, tôi đã là người thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại
không chịu đầu hàng, chừng nào còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm
mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ
làm cái gì đó để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì
chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn thế thôi.
Vì
không muốn biến truyện ngắn của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu
đích danh tên người, tên bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở
đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các
bạn thấy, tôi còn đủ dũng cảm để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.
Hà Nội, 10. 3. 2001
ÔNG
GIÁO LẬP DỊ
Ông
Nguyễn Xuân Đoàn thuộc loại người vô tư và biết hài lòng với mình, với đời. Mà
đời ông thì sống ở nước ngoài nhiều hơn trong nước. Ông là nhà ngoại giao
chuyên nghiệp, đã qua chức vụ trưởng một vụ ở bộ, hai nhiệm kỳ đại sứ ở Bắc Âu.
Ông mới về hưu đầu năm nay, đúng tuổi sáu mươi, còn khỏe mạnh và tràn trề hạnh
phúc. Sáng chơi ten-nít, chiều uống bia, tối đọc sách hoặc thậm chí làm thơ.
Chắc chắn ông cũng hài lòng với những bài thơ ông viết.
Một
hôm có ông bạn già ở trường ngoại ngữ đến nhờ ông Đoàn dạy hộ một lớp tiếng Anh
nâng cao mà ông mở riêng đã mấy năm nay, giờ vợ chồng ra nước ngoài sống với
con cháu.
“Bỏ
thì tiếc, - ông nhà giáo nói. - Mà tôi thì chỉ có thể tin bác được thôi. Chẳng
vất vả gì đâu. Mỗi ngày hai tiếng từ sáu đến tám giờ tối. Mọi việc cô Mai sẽ
lo. Cô ấy tốt và tháo vát lắm. Bác chỉ dạy”.
Thấy
bạn có ý lưỡng lự, ông nói thêm:
“Tôi
biết với bác tiền không quan trọng, mặc dù phải nói rằng thu nhập lớp này cũng
khá. Cái chính là bác sẽ được thay đổi không khí, sẽ cảm thấy hài lòng vì mình
còn giúp được ít nhiều cho lớp trẻ”.
Một
tuần sau ông Đoàn lên lớp, chủ yếu vì cái “thay đổi không khí” và “giúp thế hệ
trẻ” ấy.
Lớp
là một giảng đường đại học thuê bao cả năm. Khi đến, ông ngạc nhiên thấy học
viên ngồi kín gần hết, dễ đến cả trăm người. Điều này chứng tỏ bạn ông phải là
người rất giỏi và uy tín. Bản thân ông cũng giỏi, nói và viết tiếng Anh thuộc
loại nhất nhì bộ. Cách thức tiến hành buổi học thì đã được bạn hướng dẫn kỹ. Cả
con số một trăm người học kia cũng chẳng thành vấn đề, vì là lớp dịch không
phải giao tiếp với từng người, không cần nói to vì cô Mai đã bố trí sẵn chiếc
máy phóng thanh nhỏ trên bàn. Ông có thể đi lại thoải mái mà giọng vẫn vang to
khắp phòng.
Buổi
dạy đầu tiên diễn ra suôn sẻ. Các buổi sau cũng thế. Dường như người học cũng
thích ông. Họ chủ yếu là sinh viên các năm cuối và cán bộ cơ quan có nhu cầu
nâng cao ngoại ngữ. Bằng chứng là sĩ số không giảm mà còn tăng thêm. Không chú
ý mấy đến việc cô Mai chăm chỉ thu học phí, kiểm tra thẻ, lo chuyện phấn bảng,
ông đến lớp đúng giờ rồi hết giờ ra về, trang nghiêm và đạo mạo đúng kiểu một
ông giáo có tuổi và giỏi nghề như ông cần có. Công việc mới mẻ này làm ông
thích, có thể nói còn cuốn hút.
Cuối
tháng cô Mai tìm đến nhà ông. Cô trạc ba lăm, hai con, nhân viên phòng quản trị
của trường nơi ông đang dạy. Người cô đẫy đà, phúc hậu, tính cẩn thận, tháo vát
và có vẻ đáng tin cậy như ông bạn giới thiệu. Cô rút ra tờ giấy chi chít tên
người và các con số.
“Dạ,
đây là tiền học phí của lớp tháng vừa rồi, sau khi trừ các khoản”. Cô lễ phép
nói. “Mười ba triệu năm trăm mười nghìn đồng”.
“Nhiều
thế cơ à?” Ông Đoàn ngạc nhiên hỏi.
“Cũng
bình thường thôi ạ. Vào các tháng sau Tết và đầu năm học thường nhiều hơn”.
“Xưa
nay vẫn thế?”
“Vâng
ạ”.
“Lớp
nào, thầy nào cũng thế?”
“Không.
Trường này còn ba lớp tiếng Anh nữa, dạy thực hành, giáo viên trẻ, ít người học
nên ít hơn nhiều. Còn các lớp luyện thi toán lý hóa thì có thể nhiều hơn”.
Ông
Đoàn ngồi im không nói gì.
“Thế
cô được bao nhiêu?” Lúc sau ông hỏi.
“Dạ,
sáu trăm nghìn như mọi khi. Trong giấy này em có ghi”. Cô Mai đáp rồi lễ phép
chào ông ra về.
“Mười
mấy triệu đồng một tháng. Mỗi ngày hai giờ dạy. Nhiều quá”. Ông Đoàn nghĩ. “Hóa ra bao năm nay cái ông
Năm nhà giáo này kiếm cũng khá.”
Đúng
là ông không quan tâm đến khía cạnh kinh tế của việc dạy học. Dạy cho vui như
ông vẫn nghĩ. Nhà ông khá giả, có thể nói giàu. Chỉ còn hai ông bà già sống với
nhau, lương hưu cao. Hai đứa con đã trưởng thành, cũng giàu. Anh con cả hiện
đang làm cho một liên doanh ở Sài Gòn, mấy năm trước còn biết đem tiền tiết
kiệm của ông mua mảnh đất, vừa rồi sốt đất, đem bán lãi hơn một tỉ. Số tiền này
ông bà đang gửi tiết kiệm, riêng lãi cũng thừa sống, nên khoản tiền mười mấy
triệu một tháng kia càng trở nên nhiều, thậm chí quá nhiều. Ông là người như
vậy, luôn suy nghĩ như vậy, chân thành và trong sáng.
Hôm
sau học xong, ông bảo cô Mai ở lại, đề nghị cho ông biết rõ tình hình học sinh,
học phí. Nghe xong, ông nói:
“Cô
xem có thể giảm học phí cho mọi người được không?”
Cô
Mai ngơ ngác, đờ mặt nhìn ông hồi lâu:
“Dạ,
em không thật hiểu...”
“Tôi
nói giảm học phí. Tức là có thể hạ học phí từ mức mỗi người một tháng một trăm
nghìn đồng xuống năm mươi hay bảy mươi nghìn chẳng hạn. Cô biết rõ nên giảm bao
nhiêu. Thực sự tôi không cần nhiều như vậy. Tôi chắc trong số người học ở đây
nhiều người cũng khó khăn, đặc biệt các em từ nông thôn. Cô hiểu rồi chứ?”
“Dạ
hiểu”, cô Mai ấp úng. “Nhưng em thấy không thể làm thế được ạ”.
“Vì
sao?”
“Vì...
không thể được. Xưa nay người ta chỉ tăng chứ không giảm học phí...”
“Nhưng
đây là lớp tư. Của tôi. Và tôi muốn giảm!” Ông Đoàn hơi cao giọng. Là nhà ngoại
giao, ít khi ông cao giọng.
“Nhưng
làm thế sẽ ảnh hưởng đến các lớp tiếng Anh khác. Có thể cả những lớp không phải
tiếng Anh. Mọi người sẽ không hiểu, sẽ bàn tán, dị nghị, sẽ cho rằng thầy...”
“Tôi
không cần biết người ta nghĩ gì về tôi. Đây là việc riêng, và tôi quyết định từ
nay cô chỉ thu năm mươi nghìn đồng một tháng! Không bàn nữa. Cứ thế mà làm!”
Ông
Đoàn thậm chí giật mạnh chiếc cặp trên bàn rồi bước ra khỏi phòng.
Tội
nghiệp cô Mai. Cô bị sốc thật sự. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không sao ngủ được.
Đã mười năm nay cô làm thêm nghệ quản lý các lớp dạy thêm, học thêm này, cho
nhiều thầy, nhiều cô, nhưng chưa bao giờ cô gặp trường hợp nào tương tự. Ngoài
đức tính quí báu là mẫn cán và trung thực, cô còn là người dễ xúc động và hay
lo. Cô hình dung chuyện gì sẽ xẩy ra khi cô thông báo cái quyết định kỳ cục ấy.
Người ta sẽ bảo lớp cô “phá giá” để chơi xỏ nhau, bảo ông thầy này điên, định
tỏ ra này nọ. Người học chắc chắn sẽ lấy làm ngạc nhiên, đoán non đoán già
không biết vì sao lớp bỗng dưng giảm học phí. Mà nào có ai kêu đâu. Lớp dạy
chất lượng, so với nhiều nơi khác là còn rẻ, lại được bảo lưu, học bù thoải
mái. Rồi họ sẽ quay sang nghi ngờ cả những chuyện kỳ cục nhất, như phải chăng ở
đây đang có điều gì khuất tất? Hay thầy trót phạm tội lỗi nào đó nay lương tâm
cắn dứt? Được giảm tiền cũng thích, tất nhiên, nhưng ý nghĩ học với một người
tội lỗi thì chẳng thích thú gì. Rất có thể vì thế mà nhiều người sẽ bỏ học.
Nhất định phải có chuyện gì đó. Nếu không ai bỗng dưng từ chối tiền, nhất là
những đồng tiền chính đáng? Ừ, mà sao ông ấy làm thế nhỉ? Không thể nói vì
giàu. Xưa nay càng giàu người ta càng muốn có thêm tiền để giàu hơn. Vậy thì vì
cái gì? Cô Mai chịu không sao hiểu nổi. Hay thật sự có điều gì khuất tất? Hay
biết đâu ông ta nói thế là nhắc khéo mình tăng chứ không phải giảm học phí?
Với
những băn khoăn như thế, cô quyết định tạm thời cứ chờ một thời gian xem sao.
Biết đâu đây chỉ là ý nghĩ bốc đồng thoáng qua và chẳng bao lâu nữa ông ấy sẽ
thay đổi.
Những
ngày tiếp theo ông Đoàn không đả động gì đến chuyện này, vẫn đều đều lên lớp,
trang nghiêm và đạo mạo như trước, không mảy may chú ý tới cô Mai và những việc
cô làm trong lớp.
Cuối
tháng, cô lại đến gặp ông.
“Hóa
ra cô không làm như tôi yêu cầu?” ông Đoàn hỏi khi cô đưa cho ông gói tiền với
tờ giấy đủ các khoản diễn giải và con số gần mười lăm triệu đồng.
“Dạ
vâng. Em xin lỗi”, cô ấp úng. “Em nghĩ có thể vì mới đến thầy chưa biết. Việc
này không đơn giản như thầy nghĩ. Vả lại...”
“Thôi
được rồi’, ông Đoàn ngắt lời không chút ngoại giao. “Nếu thế thì cứ mặc tôi.”
Đêm
hôm ấy cô Mai lại mất ngủ. Cô thấy tiếc những năm làm việc đều đều không sự cố
với thầy Năm, và cô lo lắng nghĩ tới việc ngày mai ông Đoàn sẽ nói “điều ấy”
với cả lớp, một việc đáng lẽ cô làm nhưng ông không để cô làm. Tức là mọi người
sẽ nghĩ có sự không ổn giữa ông và cô.
Nhưng
cô ngạc nhiên khi hôm sau và mấy ngày tiếp điều cô lo vẫn không xẩy ra. Cô
không biết rằng ông Đoàn đã đích thân ra phòng thuế quận xin nộp thuế thu nhập
cá nhân. Ý tưởng mới mẻ và độc đáo này đến với ông khá bất ngờ, khi buổi sáng
đi chơi ten-nít về, ông ngẫu nhiên nhìn thấy câu khẩu hiệu viết bằng sơn đỏ đã
phai màu trên một bức tường vôi tróc loang lỗ: “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền
lợi của công dân” Đúng! Mình là công dân, công dân gương mẫu, có thu nhập cao,
tại sao không tự nguyện khai báo nộp thuế?
Ở
phòng thuế, anh nhân viên trẻ sau khi nghe khách trình bày ý định của mình,
thấy có sự lạ, bèn lễ phép mời ông sang phòng bên “gặp lãnh đạo”. “Lãnh đạo” là
một ông già gầy đét đã ngồi ghế trưởng phòng hơn hai mươi năm nay, có tên là
Chẩm, vừa nghe vừa chăm chú nhìn ông bằng đôi mắt nhà nghề đầy cảnh giác của
một cán bộ ngành thuế dày dạn kính nghiệm.
Ông
Chẩm hoan nghênh ý thức công dân cao của ông, mời ông uống nước, rồi thong thả
nói:
“Vậy
là bác đã về hưu, và chỉ dạy thêm tiếng Anh ‘cho vui’ như bác nói?”
“Vâng,
đúng thế”.
“Và
đây là lớp dạy tư chứ không phải trung tâm ngoại ngữ hành nghề có giấy phép và
đăng ký với nhà chức trách?”
“Vâng”.
Ông
Chẩm trầm ngâm suy nghĩ một chốc rồi thở dài:
“Rất
tiếc tạm thời chưa có luật nào qui định những người như bác phải nộp thuế thu
nhập từ các nguồn tương tự”.
“Nghĩa
là cả khi muốn, tôi cũng không được nộp?”
“Cái
này để tôi hỏi ý kiến lãnh đạo. Xin bác cho địa chỉ, sẽ có người đến báo bác
sau”.
Khi
khách ra khỏi phòng, ông Chẩm thấy như hẫng hụt điều gì, thậm chí có cảm giác
bị xúc phạm. Xưa nay người ta chỉ đến gặp ông để kỳ kèo xin miễn giảm, hoặc tìm
cách gian lận, thế mà bây giờ bỗng xuất hiện cái ông kỳ cục này.
“Theo
tớ đây là trường hợp đáng ngờ,” ông quay sang bảo anh nhân viên nọ. “Nhất định
phải có cái gì đấy mờ ám. Cậu nghĩ thế nào?”
“Em
cũng nghĩ đúng như thủ trưởng ạ.” Anh kia hồ hởi đáp. “Có thể ông ta muốn tỏ ra
mình lương thiện ở một việc nhỏ để che dấu một hành vi bất chính khác lớn hơn,
như kiểu bọn tội phạm tự nguyện đầu thú tội ăn cắp vặt để trốn tội giết người
ấy mà”.
“Vậy
thì giao cho cậu điều tra vụ này. Phải làm thật khéo và thật kỹ. Đừng quên tìm
hiểu cả bệnh án của ông ta. Biết đâu lại chẳng một lão già tâm thần làm mất
thời gian cơ quan nhà nước.”
Một
tuần sau ông Đoàn gọi điện thoại đến phòng thuế. Đích thân ông Chẩm trưởng
phòng nhấc máy.
“Thú
thật với bác là chúng tôi vẫn chưa tìm được mục nào trong các luật thuế hiện
hành để có thể áp dụng cho bác nộp thuế”, ông nói, thân mật hơn một chút so với
giọng điệu vẫn dùng hàng ngày. “Cái khó của trường hợp bác là ở chỗ bác đã nghỉ
hưu, chỉ dạy tư tiếng Anh, thứ ngôn ngữ đang được khuyến khích, lại chỉ một lớp
và chẳng thuê mướn ai. Nếu bác là một trung tâm đăng ký hẳn hoi thì lại là
chuyện khác. Ừ mà sao bác không thành lập một trung tâm như thế để hợp pháp hóa
việc nộp thuế nhỉ?.. Vâng... vâng... Bác nói đúng. Tôi biết bác chỉ dạy cho vui
chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Thế mới khó cho chúng tôi. Dẫu sao thì
người tự giác như bác hiện giờ có thể nói không nhiều. Vâng... Nhất định thế
nào chúng tôi cũng tìm được cách giúp bác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công
dân của mình. Xin bác yên tâm chờ thêm một thời gian nữa. Không lâu đâu. Chào
bác”.
“Không
lâu đâu” là ý ông Chẩm muốn nói tới kết quả điều tra của anh nhân viên trẻ.
Suốt cả tuần vừa rồi ông chẳng hề “báo cáo lãnh đạo”, cũng chẳng xem lại luật
thuế như ông nói. Cú điện thoại vừa rồi càng khẳng định thêm ý kiến của ông,
rằng người này nhất định phải có vấn đề. Nếu không đã chẳng hăng hái xin đóng
thuế như vậy. Gần trọn đời trong nghề, ông tin chắc điều ấy. Nhưng vấn đề gì?
Cậu nhân viên vẫn chưa tìm ra. Có lẽ phải nhờ đến công an. Ừ, phải báo công an
biết và yêu cầu họ điều tra giúp. Ông Chẩm nghĩ, thầm hài lòng với chính mình.
Trong
khi đó, ông Đoàn, với bản tính hồn nhiên trong sáng và lạc quan vốn có, vẫn
tiếp tục cách sống ông yêu thích - sáng ten-nit, chiều uống bia, tối đi dạy rồi
về đọc sách báo, thỉnh thoảng làm thơ. Thực ra ông chẳng cay cú lắm với cái
việc tự nguyện làm giảm tiền của mình mà không thành. Đơn giản ông thấy “dạy
chơi” mà được chừng ấy là quá nhiều, nên đề nghị hạ học phí hoặc xin đóng thuế.
Dẫu vậy ông cũng chút ít ngạc nhiên khi người ta không cho ông làm cái việc tốt
đẹp đó.
Tháng
sau, vẫn không thấy động tĩnh gì, một hôm sau buổi học, ông tuyên bố trước cả
lớp từ nay sẽ giảm một nửa học phí. Cho tất cả mọi người. Rồi ông thong thả
xách cặp bước ra khỏi phòng, để cô Mai ở lại một mình giải thích thêm với đám
học viên đang ngạc nhiên bàn tán.
Mấy
ngày tiếp theo mọi người nhìn ông với con mắt tò mò, nghi kỵ, nhưng biết tính
thầy nghiêm, không thích nói chuyện lạc đề nên không ai dám hỏi. Còn cô Mai thì
vốn rụt rè ít nói, bây giờ hầu như chẳng bao giờ mở miệng. Không chủ ý, ông
Đoàn vẫn nghe lõm bõm nhiều câu bình luận sau lưng. Rồi ông nhận được mấy lá
thư nặc danh với những lời lẽ khiếm nhã đầy bóng gió. Kệ. Ông không quan tâm.
Ông vẫn sống theo cách xưa nay từng sống. Ông hài lòng với ý nghĩ đã phần nào
giúp được ai đó vấn đề tài chính mà ông chắc họ đang gặp khó khăn. Thậm chí ông
ăn thấy ngon miệng hơn.
*
Mấy lời nói thêm.
Tháng
tiếp theo số người học không tăng như ông Đoàn tưởng mà còn giảm. Giảm rõ rệt.
Cô Mai khốn khổ thực sự vì bị mấy ông phòng thuế và công an căn vặn về ông thầy
“lập dị”. Người học cũng chất vấn cô không ít, đến mức cuối cùng cô xin thôi
lớp ông, sang làm giáo vụ cho một trung tâm ngoại ngữ ở trường bên, dù lương ít
hơn.
Thất
vọng vì không phát hiện thấy điều gì mờ ám liên quan đến nhân thân ông Đoàn,
cuối cùng nhà chức trách đi đến kết luận rằng việc mở lớp dạy tư thuê phòng của
trường là vi phạm qui định quản lý giáo dục và đào tạo, ảnh hưởng đến an ninh,
trật tự của khu vực. Vậy là lớp dịch tiếng Anh của thầy Đoàn bị đóng cửa. Cùng
vạ lây theo nó là ba lớp tiếng Anh thực hành và mười lớp luyện thi đại học. Tất
nhiên không ai trong số các nạn nhân cảm ơn ông điều này.
Còn
ông thì sao? Ông vẫn thế, như xưa. Vẫn hàng ngày làm những việc ông ưa thích -
thể thao, bia, sách báo và làm thơ. Bây giờ ông có thời gian nên làm nhiều hơn.
Tuy nhiên, công bằng mà nói, sự trong sáng của ông dường như cũng bị gợn đục
chút ít. Bằng chứng là một lần uống bia với nhau, giữa chừng ông trầm ngâm bảo
tôi, cũng một người về hưu kiếm thêm bằng nghề dạy học, rằng nếu không có lý do
thúc bách thì dẫu sao cũng không nên giảm tiền học phí hoặc tự nguyện xin nộp
thuế. Tiếc là tâm lý xã hội tạm thời chưa chấp nhận một điều xa xỉ như vậy.
Hà Nội, 7. 2. 2003
CHỈ
LÀ MỤ ĐÀN BÀ
Câu
chuyện tôi sắp kể dưới đây là hoàn toàn có thật. Nó xẩy ra đã lâu, từ cái thời
còn đánh nhau với Mỹ cách đây những mấy chục năm. Một câu chuyện buồn và chứa
đựng nhiều bí ẩn. Cả thời ấy lẫn bây giờ không ai, trừ những người trực tiếp
liên quan, biết được sự thật về nó. Còn việc vì sao tôi biết thì lại là chuyện
khác, thiết tưởng chẳng cần nói ra.
*
Không
ai biết chính xác lão từ đâu tới và tên là gì, chỉ thấy người ta gọi là Lão
Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi
nghề duy nhất là hát xẩm để kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là
chột vì lúc mới xuất hiện ở vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ
mù. Chẳng bao giờ lão chịu bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm.
Sau thấy lão mù thật cũng chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần
vì với một người ở địa vị lão, Mù hay Chột thì cũng vậy, không quan trọng.
Khác
những người hát xẩm xưa nay ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ
nước da lão đen trũi, có thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng
suốt ngày và ít tắm rửa. Lão chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý.
Chữ “lão” ở đây rõ ràng không vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu
thị thái độ.
Công
bằng mà nói, từ ngày đến đây lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng
người lão mà người ta đâm ra khó chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề.
Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng
kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng
nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy,
không thì thôi. Chính điều này, tức là việc lão không chịu “lạy ông lạy bà cho
con xin...” cũng làm không ít người ghét lão.
Lão
Xẩm sống trong chiếc miếu hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết
ai mách mà lão tìm được nó, một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng
ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng
điều ấy không quan trọng vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại
gần, cứ theo chân đê bằng phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão
nghiễm nhiên thành chủ nhân chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là
“nhà Lão Xẩm”.
Tối
nay, như những buổi tối mùa hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà,
ngồi ngoảnh mặt về phía sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ
mặc độc chiếc quần cộc vừa ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải
luôn che giấu. Nhưng lão thì không cần, vì biết chẳng có ai nhìn. “Càng mát!”
lão nghĩ, nhiều khi còn cố tình cho cả
ra ngoài.
Gió
nhẹ hây hây thổi. Không nhìn thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước
của lão đôi mắt. Bù lại sự thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả
năng đoán hiểu sự việc cực kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính nhờ những khả năng có một không hai ấy. Chẳng
hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô gái làng bên đang tắm truồng dưới sông.
Ngay trước mặt lão, một người đàn ông khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái
chuyện ấy nhất.
Việc
này xẩy ra hầu như vào tất cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi
mình bị xúc phạm ghê gớm. “Bọn này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không
bằng!” Khi nghe các cô cười bảo nhau “Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn
thấy đâu mà sợ”, lão giận dữ cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về
phía các cô, lẩm bẩm: “Đây không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là
khác. Đứa nào giỏi, muốn thử cứ lên đây". Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều
hôm lúc về có cô còn tinh nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười,
không biết cười gì. Cả những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy
của lão. "Để mặc chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần
dần rồi lão cũng quen, nhưng vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì
khác, lão đem rượu ra uống, dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao
hát, xuyên tạc những câu ca dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để
xả bớt cái ham muốn đang anh ách dưới bụng.
Một
tối nọ, cũng trong hoàn cảnh tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn
tiếng nước té, tiếng cười nói hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng,
lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. Tai lão rất thính. Lão biết
chắc là tiếng chân người, dù lúc ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu
thiu ngủ. "Ai nhỉ?" lão tự
hỏi, có ý đề phòng. Thực ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão
cũng không thuộc loại người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình
như tiếng bước chân đang tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to.
Im lặng. Lão hỏi lần nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định
vào nhà lấy chiếc gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm,
tròn tròn.
Ngực
đàn bà! Lão nhận ra ngay điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu
lên nhưng cũng liền lúc ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được,
lão chìa tay về phía trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm
ngạc nhiên vì sao người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm
cử chỉ chống trả nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một rồi
sau hai, tự do mân mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và
còn xuống thấp hơn nữa.
Như
trong cơn mơ, lão ngây ngất mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ
trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt
ra không cho chạm tới. Chẳng cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này và
đã làm điều ấy không gặp chút chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng
khác" như có lần lão từng dọa các cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra,
người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng nói gì vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng
mọi chuyện.
Xong,
người kia vội vùng dậy bỏ đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng
ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi
lâu, không biết nên nghĩ thế nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay
sờ xuống bộ hạ, thấy không mặc quần và còn ươn ướt...
Lâu
lắm lão mới được nếm lại mùi vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự
đặt cho mình hàng trăm câu hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được
câu nào. Lão nằm ngửa, hướng đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều
sao, những ngôi sao tuyệt đẹp. Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng
dưng trời mang đến ban thưởng cho lão.
Sáng
dậy, để kiếm cái ăn, lão lại vác nhị xuống chợ như mọi ngày.
Ba
hôm sau, người đàn bà ấy lại đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng
ấy. Vẫn bàn tay tham lam của lão ve vuốt khắp người và vẫn lặp lại chuyện ấy.
Khác chăng, lần này lão bình tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây
phút hạnh phúc của lão. Rồi sau đó người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy
khỏi nhà lão như trước.
Từ
hôm ấy đêm nào lão cũng chờ, nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất
hiện để tự nguyện trao thân cho lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng
tiếp.
Việc
này lặp đi lặp lại trong bốn tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm
ngạc nhiên nhưng không dám hỏi, vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa
thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ
kinh nguyệt có một quãng thời gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được.
Người kia đã chọn chính lúc ấy để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao
chọn lão thì lão chịu không hiểu nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất
lực.
Qua
bàn tay vuốt ve (trừ khuôn mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải
ngoài ba mươi, thậm chí còn hơn. Điều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự
lão lo lắng là đáng lẽ theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước nhưng lão chờ
mãi vẫn không thấy. Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn.
Linh tính báo có lẽ người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa,
nhưng lão hy vọng và vẫn chờ. Đêm nào lão cũng chờ...
Một
tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên
sông. Vốn bụng không tốt lắm nên đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc
chẳng mấy thú vị này. Đoạn sông ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa
chỗ sông bồi nơi các cô gái làng bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng
để phụ nữ nhìn thấy “cái ấy” của mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người
khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới
chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác
với mọi lần, lần này lão phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao
trút bỏ được cái muốn trút bỏ. Đang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng
động khẽ. Tiếng chân người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay
sau đó bỗng có tiếng kêu thất thanh:
-
Đừng! Chị Tâm! Đừng, đừng nhảy xuống sông!
Đó
là tiếng một cô gái, giọng còn trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng
người, nín thở, quên cả cái việc bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng
chân vội vã chạy ngang và dừng lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.
-
Sao chị làm thế? Em van chị. Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao?
Mấy ngày nay em luôn theo dõi chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu
rồi cơ...
Có
tiếng người khóc tấm tức.
-
Em nói em biết, biết hết mọi chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng,
vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.
-
Vâng. Em biết chuyện mấy tháng nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu
mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không
nói, vì em hiểu chị, em thương chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão
ấy chứ không phải người khác.
-
Vì lão mù, không biết chị là ai.
-
Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại
có tiếng khóc. Lần này to và lâu hơn.
-
Em biết hết, còn hỏi chị làm gì nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi
chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm
đang" của toàn huyện, mà lại chửa hoang? Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn
thẳng vào mắt mọi người được sao? Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị
xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất
cả mọi người. Chị chẳng cán bộ, chẳng điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì
phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà
khác. Chị đã cố, rất cố mà không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế
đâu, nhưng không sao cưỡng lại được...
-
Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà. Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị
sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng xấu...
-
Đúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải
chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm
sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu
không cũng chẳng sao. Cứ nói là chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối
và đã không cưỡng lại được con quỉ tội lỗi trong người chị...
-
Không. Không bao giờ! Chị phải về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng
một cách dứt khoát. - Sáng mai em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ
ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện
này. Nào đi! Chị đi về nhà với em. Không lôi thôi gì nữa!
Im
lặng một chốc, rồi có tiếng dằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai
người đi ngang qua chỗ lão ngồi. Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo.
Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên
cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai
ngày sau, khi đang hát ngoài chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện
chị Tâm, người làng Vĩnh Yên, cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em
chồng, không may sẩy chân rơi xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy
mà chẳng thể làm gì vì không biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không
thấy xác chị đâu nữa.
Lời nói thêm của người viết:
Anh
Thoan, chồng chị Tâm hy sinh trong đợt
tổng tiến công Tết Mậu Thân 68 (một năm trước khi chị Tâm chết), nhưng mãi đến
cuối năm 70 gia đình mới nhận được giấy báo tử. Bà cụ mẹ anh chết hai năm sau
đó. Còn cô Vinh, em gái anh Thoan, hiện là một chuyên viên kinh tế giỏi làm
việc tại một bộ quan trọng ở Hà Nội. Vì là người cùng làng, chúng tôi thường
gặp nhau. Tuy không ngăn được chị dâu tự tử, nhưng cô đã giữ đúng lời hứa năm
nào. Cô vẫn khăng khăng bảo tôi chị Tâm chết đuối, đúng như trong truyện tôi
viết. Tôi cũng vờ tin như thế. Lần nào có dịp cùng về quê, tôi và Vinh cũng ra
viếng mộ anh Thoa, chị Tâm. Có lần chúng tôi còn vào phòng truyền thống xã, nơi
vẫn treo tấm bằng khen trung hậu đảm đang Hội phụ nữ huyện Diễn Châu tặng chị,
đề ngày 30 tháng Năm năm 1967. Dù biết hết sự thật, tôi vẫn luôn nghĩ chị xứng
đáng với danh hiệu cao quí đó. Còn về lão Xẩm thì tôi không biết thêm một tí
gì. Vả lại, cũng chẳng quan tâm mấy đến lão. Không phải vì ghét, đơn giản vì
tôi còn nhiều việc quan trọng hơn cần làm.
Hà Nội, 2000
QUÀ
TÌNH NGHĨA
Không
đau gì cụ thể mà bà cụ Thu cảm thấy mình đang ốm. Ốm thực sự. Toàn thân rời ra
từng mảnh. Chân tay nặng như chì, cứ như có ai cố tình kéo bà quị xuống đất.
Hay mình bị cảm? - bà tự hỏi rồi đưa tay sờ trán. Không nóng lắm. Chỉ thấy khó
thở hơn ngày thường chút ít. Vốn xưa nay khỏe mạnh, bà lấy làm lạ rồi lên
giường nằm, hy vọng sáng mai ngủ dậy sẽ khỏi. Bữa cơm tối vất vả lắm mới chuẩn
bị xong vẫn để nguyên trên bàn.
Nhưng
bà nằm mãi không sao ngủ được, đến quá nửa đêm thì thôi không cố ngủ nữa. Bà
cảm thấy yếu và mệt mỏi hơn, sức lực mất dần một cách nhanh chóng. "Thế là
đến lượt mình, bà thầm nghĩ, bình thản và không chút lo sợ. Gần tám mươi rồi,
còn gì... Ai chả đến lúc phải nhắm mắt xuôi tay?" Sau đó, như làm theo cái
ý vừa nghĩ, bà duỗi thẳng hai tay dọc theo người và từ từ nhắm mắt, đợi cái
chết mà bà tin chắc đang rình rập đâu đó rất gần...
Như
từ đám sương mù dày đặc, những mảnh vỡ cuộc đời dài đầy đau buồn của bà hiện
dần lên một cách chậm chạp. Toàn những mảng nhòe màu xám lộn xộn, cái nọ dính
cái kia. Xung quanh yên tĩnh lạ lùng. Bà nghe rõ tiếng đập yếu ớt của trái tim
và hơi thở khó khăn của mình, nhưng tiếng chân thần chết thì cố nghe mà mãi vẫn
không thấy.
Bà
cụ Thu là người nổi tiếng ở huyện trung du rộng lớn này, có thể toàn tỉnh. Đơn giản vì bà là Bà mẹ Việt Nam
Anh Hùng có năm người thân là liệt sĩ: Ông Thu, chồng bà, cộng với bốn con
trai. Xưa nay bà luôn sống một mình, không con cháu, cũng chẳng còn ai thân
thích, trừ một người bà con xa đằng chồng gọi bà là cô, hiện làm chủ tịch xã
nơi bà đang sống. Có thể một phần vì thế mà bà được chính quyền địa phương chăm
sóc chu đáo. Thậm chí chu đáo hơn mức cần thiết. Tiền trợ cấp chế độ hàng tháng
quá thừa cho nhu cầu sinh hoạt giản dị của bà. Đều đặn mỗi tuần một lần có
người của xã ghé qua thăm hỏi đôi ba câu, đôi khi mang theo chút quà. Đó là chỉ
thị của đích thân ông chủ tịch huyện. Dẫu sao toàn tỉnh chỉ mình bà là Mẹ anh
hùng của năm liệt sĩ.
Huyện
ông hàng chục năm nay luôn dẫn đầu phong trào "đền ơn đáp nghĩa", và
ông nhất quyết không chịu để danh hiệu cao quí này rơi vào tay huyện khác. Cũng theo chỉ thị của huyện, ngôi
nhà xưa đằng chồng để lại, còn tốt, gỗ lim, mái ngói cong hẳn hoi, đã bị dỡ bỏ
để xây thành mái bằng, y hệt các nhà tình nghĩa khác trong huyện. Bà Thu nài nỉ
xin đừng nhưng người ta nhất định không chịu. Để một người như bà không có nhà
tình nghĩa thì chẳng khác gì làm nhục cả huyện! Lễ gắn biển cho ngôi nhà bất
đắc dĩ ấy được tổ chức to lắm, đủ mặt quan khách, có cả mấy phóng viên truyền
hình tỉnh về quay phim, viết bài. Tất nhiên nổi bật nhất là cảnh bà Thu tay cầm
chìa khóa nói lời cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương. Họ bày
cho bà cách tra khóa vào ổ, nói gì, đi đứng thế nào và nếu được thì cố khóc một
tí.
Là
đơn vị điển hình, hàng năm, ít ra đã mười năm nay, cứ đúng ngày thương binh
liệt sĩ, huyện lại cho ô tô về tận làng đón bà ra thị trấn tham dự buổi lễ long
trọng và nhận quà.
Cùng
một Mẹ anh hùng khác, bà luôn được mời ngồi ở hàng ghế đầu, bên cạnh ông chủ
tịch huyện, cao hơn và đối diện với cả hội trường. Bà nghe mà chẳng chú ý hoặc
chẳng hiểu gì mấy những gì người ta đang nói. Chỉ thấy chốc chốc mọi con mắt
lại hướng về bà, làm bà vừa ngượng vừa chẳng biết nên xử sự thế nào. Rồi nhiều
lần lặp đi lặp lại như vậy, bà cũng quen, cuối cùng thì chẳng có cảm giác gì
khác ngoài việc coi đó là một nghi lễ bắt buộc.
Bà
chỉ thực sự lúng túng khi đến phần tặng quà. Nhiều người được nhận quà - chiếc
phong bì đựng ít tiền mặt, bộ quần áo hay một vật dụng nào đó, tùy ngân sách
huyện năm ấy. Bao giờ cũng đích thân ông chủ tịch huyện trao quà cho bà và bà
Mẹ anh hùng kia. Phần quà của họ cũng đặc biệt, luôn được đựng trong những
chiếc hộp bìa cứng bọc giấy đỏ, buộc dây vàng. Bà được năm hộp, bà kia ba,
tương ứng với số người thân đã chết. Tất nhiên người ta có thể cho vào một túi
chứ không tách riêng cầu kỳ như vậy, nhưng ban tổ chức nghĩ ra cách này để nhấn
mạnh sự hy sinh, tức là sự đóng góp của từng người cho cách mạng.
Bà
còn nhớ hôm lần đầu nhận quà kiểu này. Bà được mời lên trước, hẳn vậy. Khi ông
chủ tịch trịnh trọng lần lượt đặt từng chiếc hộp màu đỏ lên đôi tay đang chìa
sẵn của bà, mọi con mắt đều hướng nhìn lên chăm chú. Có người còn lộ vẻ ghen
tị. Ông chủ tịch huyện nói câu gì đó khá hùng hồn, rồi cả hội trường vang dậy
tiếng vỗ tay hồi lâu. Bà chẳng hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Bà lúng túng đứng
yên. Bỗng một ý nghĩ sắc nhói như mũi dao chạy xuyên qua tim: Bà đang nâng trên
tay không phải năm hộp quà mà là năm chiếc quan tài màu đỏ đựng xác chồng và
bốn người con thân yêu của mình. Ý nghĩ ấy làm bà suýt ngã khuỵu. Mắt bà rưng
rưng. Bà những muốn khóc, thậm chí khóc thật to. Đôi tay trở nên thật nặng,
phải cố lắm bà mới không để rơi những hộp quà. Không đợi mời, bà vội vã quay
lại chỗ ngồi, nóng lòng chờ buổi lễ kết thúc.
Ngay
chiều hôm ấy bà cho gọi anh cháu chủ tịch xã tới.
-
Anh có thể bảo họ thôi cái trò ấy được không?
-
Trò gì cơ ạ, cháu không hiểu, - anh kia ngơ ngác hỏi lại. - Và họ là ai ạ?
-
Họ là mấy ông dưới huyện ấy. Còn cái trò là kiểu tặng tôi năm hộp quà
như...như...- bà cụ chần chừ một chốc: - như năm chiếc quan tài! Giờ thì anh
hiểu rồi chứ?
Anh
chủ tịch hiểu. Anh đưa tay gãi gãi đầu, cố lựa lời:
-
Cháu thấy chuyện ấy chẳng có gì không ổn. Chỉ tại cô nghĩ này nọ thêm rắc rối.
Họ không gói thành một mà chia làm năm hộp như vậy là có ý đề cao thành tích...
tức là gương hy sinh của cô. Để làm nổi bật cô với người khác...
-
Tôi không thích kiểu đề cao như thế. - Bà cô khó chịu ngắt lời. - Tôi hỏi anh
lần nữa: Anh có thể bảo họ thôi được không?
-
Cháu sợ không. Cháu chỉ là cán bộ cấp xã. Vả lại, đó là nghi lễ, là chủ trương
của trên. Đâu người ta cũng làm vậy.
- Thôi được. Tôi nhờ anh việc khác vậy. Anh
nói hộ với họ khi cho tôi quà, bảo người ta đừng vỗ tay hoan hô ầm lên thế.
Hoan hô cái nhẽ gì cơ chứ? Vì tôi có chồng và bốn con trai đã chết? Cứ như tôi
vinh dự lắm không bằng. Thế nào, anh giúp tôi điều này, hay cũng không nốt ?
Anh
cháu bối rối, gãi tai còn lâu hơn.
-
Cháu nghĩ không thể được, cô ạ. Người ta vỗ tay là để ca ngợi cô, một bà mẹ anh
hùng, để... - anh bỗng ngừng lời vì thấy bà cô đang rưng rưng nước mắt.
-
Anh thừa biết tôi anh hùng nỗi nào, - bà hạ giọng nói. - Anh có thấy xưa nay ai
khổ như tôi chưa? Thời gian tôi được ở cạnh ông Thu nhà anh tổng cộng có lẽ
chưa đầy vài tháng. Từ ngày lấy nhau năm 46 đến lúc mất năm 54, ông ấy chỉ về
thăm tôi bốn lần, để lại bốn người con trai một mình tôi nuôi. Rồi cả bốn đứa
con ấy cũng lần lượt bỏ tôi mà đi. Tôi khổ thế sao người ta còn vỗ tay? Anh nói
tôi nghe xem nào. Mà thôi, anh không giúp được thì tôi chẳng nhờ nữa. Anh về
đi.
Buổi
tối, bà dọn lại bàn thờ, đặt lên đó năm hộp quà thành một hàng thẳng. Chiếc ở
giữa bà thắp ba nén hương, còn lại mỗi chiếc một nén. Các năm tiếp theo, cứ vào
ngày 27 tháng Bảy, bàn thờ nhà bà lại có thêm năm hộp quà mới. Kích thước và
trọng lượng có thể khác nhau, nhưng luôn được gói bằng giấy đỏ buộc dây vàng y
như lần đầu. Và lần nào cũng vậy, đêm ấy bà không sao ngủ được, vì hễ nhắm mắt
là hình ảnh năm hộp quà tình nghĩa như năm chiếc quan tài màu đỏ ấy lại hiện
lên, đè nặng lên đôi tay và bộ ngực lép kẹp của bà, đến mức bà thấy nghẹt không
thở được.
Bà
lặng lẽ khóc cho cuộc đời đau khổ và trớ trêu của mình. Bà khóc cho chồng và
bốn người con trai, cho cả ngôi nhà tổ tiên bị thẳng tay đạp phá. Bà oán giận
các ông dưới huyện vì cái thói khoa trương thành tích của họ. Bà chẳng cần quà
và sự chăm sóc của họ. Chẳng cần gì ngoài được sống cuộc đời một mụ đàn bà nông
thôn bình thường, nghèo khổ và chẳng được ai chú ý, chẳng cần ai phong làm anh
hùng. Một mụ đàn bà có chồng ở nhà cùng mụ cày cấy ngoài đồng, có uống rượu, có
đánh đập mình cũng được, miễn đừng đi biền biệt như thế rồi chết, rồi để lại
chừng ấy thằng con trai mà chẳng có đứa cháu nào. Thà như mụ Hựu hàng xóm còn
sướng hơn - một đống con cháu, đứa nào cũng nheo nhóc, không nuôi nổi mụ lại
thỉnh thoảng còn mò đến ăn bám. Nào mụ có gì đâu mà bám với víu. Tám mươi tuổi
vẫn phải hàng ngày ra đồng Chùa mò cua bắt ốc lấy tiền đong gạo. Nghe nói nhiều
khi quẫn quá, bà lão tội nghiệp ấy còn bắt trộm gà người ta làm thịt, hoặc làm
những việc xấu xa tương tự. Mụ cứ than vãn mãi với mọi ngưòi rằng có độc đứa
con trai đi bộ đội thì lại chết bệnh nên không được hưởng chế độ liệt sĩ.
-
Bà sướng thật đấy, những năm liệt sĩ! – Có lần mụ bảo bà cụ Thu, vẻ thèm thuồng
không dấu diếm.
Thực
ra, lúc đầu bà cụ Thu chỉ được công nhận có bốn thân nhân liệt sĩ. Số là thằng
út nhà bà, vốn không thuộc diện nhập ngũ, lại chưa đủ tuổi, vẫn cứ theo bạn
nằng nặc đòi đi bộ đội, bà cố giữ không được. Thế mà chưa đầy ba tháng sau đang
đêm nó lén lút trốn về nhà. Nó bảo trận địa pháo của nó bị máy bay ném bom chết
nhiều quá, nó sợ nên bỏ trốn. Lúc ấy nó còn kém một tháng mới đầy mười bảy
tuổi, vẫn là đứa con nít, tối hôm ấy vẫn chui vào nách mẹ ngủ như trước ngày
lên đường. Nó xin bà đừng báo công an, để chờ ít hôm đỡ sợ, tự nó sẽ quay lại
đơn vị. Bà ôm nó khóc, chẳng trách mắng, cũng chẳng báo ai đến bắt. Được hai
hôm, đang đêm có người từ huyện về giải
nó đi, lần này thì nó bị đưa tít vào tận Tây Nguyên và từ đó mất tăm luôn. Một
năm sau bà nhận được giấy báo tử của nó. Giấy báo tử thứ ba, không kể của ông
Thu từ thời chống Pháp. Còn giấy thứ tư, của người con cả, thì mãi sau hòa bình
mới nhận được. Có người nói với bà chính mụ Hựu báo công an bắt thằng út. Bà
chẳng giận mụ chuyện ấy, chỉ buồn vì sau đó người ta đã làm khổ bà khá lâu vì
tội dung túng người con đào ngũ.
Thời
đó hai tiếng này đáng sợ lắm. Thường thì sau chuyện ấy chẳng ai dám vác mặt đi
đâu, nhưng bà cứ thản nhiên như không, càng khiến người ta nghĩ bà cố ý thách
thức chính quyền. Thực ra bà không có ý ấy. Bà nghĩ suy cho cùng, con bà chẳng
làm gì nên tội. Nó còn con nít, sợ quá thì bỏ trốn về nhà với mẹ ít ngày rồi
quay lại. Nó chẳng nói thế đó sao? Cùng lắm mắng một trận chứ đừng qui cho nó,
và cả cho bà nữa, những tội tầy đình như vậy. Tuy nhiên, bà chẳng nói gì. Chẳng
thanh minh, cũng chẳng oán trách. Sau những mất mát phải chịu, với bà dường như
không còn gì quan trọng. Sau này, lúc đầu bà còn không được đề nghị phong tặng
danh hiệu Bà mẹ anh hùng. Người ta lập luận rằng với bốn người thân liệt sĩ và
một kẻ đào ngũ, bà chỉ đáng gọi là mẹ liệt sĩ. Thậm chí người ta còn định không
cho bà hưởng bất kỳ một chế độ nào.
Bà
vẫn thản nhiên im lặng. Nhưng anh cháu thì không. Anh ta lẳng lặng kêu kiện
khắp nơi. Rồi một hôm người ta mời bà xuống huyện dự lễ phong tặng anh hùng,
với tờ giấy ghi rõ có chồng và ba con trai liệt sĩ. Một thời gian sau, đích
thân ông chủ tịch huyện đem đến tận nhà một tờ giấy khác, bổ sung thêm một liệt
sĩ nữa.
Lần
này thì chính Huyện đứng ra lo liệu để thằng út con bà thành liệt sĩ. Trong hồ
sơ quân nhân của nó, chữ đào ngũ được chữa thành “tự ý bỏ về thăm nhà không xin
phép”. Bản thân cán bộ huyện rất cần con số năm hiếm hoi kia, và họ đã toại
nguyện.
Cái
nghi lễ tặng quà bất di bất dịch kia cũng được bắt đầu từ đó. Mỗi năm một lần
lên huyện, người ta tặng, bà nhận. Năm hộp quà bọc giấy đỏ buộc dây vàng. Năm
chiếc quan tài xinh xắn. Bà lặng lẽ ôm trên tay. Lặng lẽ chất cao lên bàn thờ.
Rồi đêm đến lặng lẽ khóc. Phải mất mấy ngày sau bà mới bình thường trở lại,
thấp thỏm lo sợ ngày tặng quà năm tới. Vâng, năm nào cũng vậy, trừ một lần.
Chuyện
đó xẩy ra cách đây ba năm. Lúc bà vừa ngồi vào ghế danh dự, anh chủ tịch xã
cháu bà (người luôn đi theo trong những dịp long trọng) ghé tai cho bà biết
buổi lễ năm nay rất đặc biệt vì có khách nước ngoài, và bà nhất thiết phải phát
biểu, phải cảm ơn...
-
Cảm ơn vì chồng con tôi chết ?
-
Ấy, cô lại thế rồi. Cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và xã hội, tất
nhiên. - Anh cháu chán nản đáp.
-
Anh vừa nói khách nước ngoài là khách nào vậy?
-
Mấy ông Mỹ cựu chiến binh. Trước đây họ đánh nhau với ta, bây giờ họ hối hận,
sang giúp huyện ta xây lại cái công viên văn hóa. Cô hiểu chứ? - Thấy bà cô
không nói gì, anh cháu yên tâm xuống chỗ ngồi của mình.
Đúng
lúc long trọng nhất, khi ông chủ tịch huyện vừa nói xong một thôi về hòa hợp,
hữu nghị gì đó và cả hội trường cùng mấy ông tây đang vỗ tay hoan hô thì bà cụ
Thu nhỏm dậy. Ông phó chủ tịch ngồi cạnh hỏi:
-
Dạ, cụ định đi đâu ạ?
-
Tôi ra ngoài một tý.
-
Nhưng bây giờ thì không được, thưa cụ. Cụ thấy đấy, đang có khách...
Bà
vẫn một mực đứng dậy. Ông phó chủ tịch cố giữ. Bà phát cáu, nói to:
-
Ô hay cái anh này. Tôi đi ỉa cũng không được sao? Hay anh muốn tôi tương ra
ngay chỗ này ?
Duy
nhất lần ấy bà ra về tay không, không bằng ô tô của huyện, mà bằng xe ngựa của
thằng Nhơn xóm trên. Thằng này ngày nào cũng đánh xe chở rau quả ra thị trấn,
buổi chiều đánh xe không về.
Tối
đến, anh cháu mang năm hộp quà đến cho bà, nét mặt có vẻ khó chịu nhưng biết
tính cô nên đành im. Bà cũng lờ như không có gì xẩy ra. Khi anh cháu về, bà vứt
cả năm chiếc hộp ra vườn. Mụ Hựu nhanh tay nhặt chúng đưa vào nhà mình. Nghe
đồn lần ấy quà giá trị lắm, nhờ tiền huyện bớt từ dự án xây công viên của cựu
chiến binh Mỹ. Có thể thế thật, vì mụ Hựu tỏ ra rất hỉ hả, còn mua được cả áo
mới. Mấy ngày liền mụ cố tình tránh gặp bà.
*
Đêm
yên tĩnh. Hình như trời sắp sáng, cũng có thể còn lâu. Chưa thấy con gà trống
nhà bên gáy như thường lệ. Cũng có thể nó đã gáy mà bà không nghe. Bà không còn
cảm biết điều gì, trừ một điều duy nhất là bà sắp chết, sắp được gặp chồng và
bốn người con trai thân yêu của mình. Bà vẫn nằm yên bất động như khi mới lên
giường để "nhắm mắt xuôi tay" như bà nghĩ. Đôi tay khẳng khiu vẫn
xuôi theo người, nhưng mắt bà luôn mở, trân trân nhìn lên trần nhà tối om.
Lúc
này, hình như chút sức lực cuối cùng giúp bà không nhắm mắt cũng đang chầm chậm
rời bỏ bà. Cuối cùng, đôi mi từ từ khép lại. Thay cho màu đen bóng tối, bà thấy
khắp nơi đều một màu đỏ rực. Màu đỏ của những hộp quà, những chiếc quan tài
giấy đỏ buộc dây vàng...
*
Mãi
chập tối hôm sau người ta mới biết bà chết. Chính mụ Hựu thấy có điều khác
thường, đến báo với anh chủ tịch xã cháu bà.
Khi
thắp hương tiễn bà cô về thế giới bên kia, anh này ngạc nhiên thấy trên bàn thờ
có rất nhiều những chiếc hộp màu đỏ bằng giấy hình chữ nhật. Những hộp quà tình
nghĩa, anh biết. Anh chỉ ngón tay vào từng chiếc và nhẩm đếm. Tổng cộng 54 hộp.
Tất cả đều còn nguyên dây cột và hồ dán. Do dự một lát, anh thận trọng mở chúng
ra xem.
Phần
lớn đó là những hộp bánh kẹo bây giờ đã hỏng. Không ít những tấm vải, có tấm
còn mới nguyên, cũng có tấm đã phai màu hoặc bị mối xông. Một it hộp có cả
tiền. Những tờ giấy bạc mới, phẳng phiu mà một thời rất có giá trị nhưng bây
giờ chỉ đủ mua chưa đầy cân gạo, hay thậm chí chén nước trà... "Từ lúc
được phong anh hùng và nhận quà của huyện đến nay đã mười hai năm", anh
chủ tịch xã thầm nghĩ. "Vậy tổng cộng phải có 60 hộp, sao chỉ 54?"
Rồi anh chợt nhớ chuyện xẩy ra với năm hộp quà lần có đoàn Mỹ đến thăm.
"Vậy còn một hộp nữa đâu?" Anh cúi nhìn xuống chân bàn thờ nhưng
không thấy. "Có thể bà cụ lẩn thẩn để rơi đâu đó. Cũng có thể chuột đánh
mùi thấy thức ăn tha đi mất".
Những
chiếc hộp giấy được dọn khỏi bàn thờ. Trên đó, như trên những bàn thờ bình
thường khác, hương đang thong thả cháy, tỏa khói xanh và mùi thơm dìu dịu. Bà
cụ Thu nằm bên cạnh, khuôn mặt bất động như được làm bằng sáp.
Hà Nội, 10. 2. 2000
CÁI
GIÁ CỦA TÌNH YÊU
Biết
đêm nay khó lòng ngủ được, ông nhẹ nhàng bước xuống khỏi giường, cố không làm
vợ thức giấc. Có thể vợ ông đã ngủ, cũng có thể còn thức nhưng giả vờ ngủ như
mọi lần. "Kệ", ông thầm chậc lưỡi rồi lặng lẽ ra đứng ngoài ban-công.
Chắc
đã khuya. Ông cố tình không xem đồng hồ để đỡ sốt ruột. Cả thành phố đang phập
phồng trong giấc ngủ chập chờn. Từ trên cao nhìn xuống, thành phố như con quái
vật khổng lồ sau một ngày săn đuổi và vật lộn với con mồi, bây giờ nó kiệt sức
nằm bẹp xuống đất, duỗi trăm nghìn chiếc chân kỳ dị, phì phò thở một cách nặng
nhọc. Thỉnh thoảng nó lại kêu lên thảm thiết bằng tiếng còi tàu rền rĩ kéo dài
từ phía ga Hàng Cỏ.
Trời
hơi lạnh. Ông tiếc đã không khoác thêm chiếc áo ngoài, bây giờ quay vào lấy thì
lại ngại. Ông đang buồn, cái buồn nhàm chán vì nó xẩy ra quá thường xuyên.
Thường xuyên đến mức gần như trở thành tâm trạng bình thường, khiến ông đôi khi
cũng chẳng biết có thật ông buồn hay không.
Ông
bật lửa hút thuốc, lơ đãng nhìn con quái vật nằm bất động phía dưới, và nghĩ:
Một chàng trai đem lòng
yêu cô gái,
Nhưng
cô kia yêu người khác, và rồi
Người
khác ấy lại yêu cô gái khác,
Để
nàng buồn và thất vọng khôn nguôi.
Còn
sau đó, vì thất tình, cô gái
Không
mảy may kén chọn, đã lấy chồng
Thành
bất hạnh. Cả chàng trai cũng vậy,
Phải
suốt đời đau khổ, phải chờ mong...
Câu
chuyện trên không có gì mới lạ.
Bao
đời nay thường vẫn thế... Có điều
Nếu
xẩy ra với chính ta, ta sẽ
Hiểu
thế nào là cái giá tình yêu.
Đúng,
với người ngoài cuộc thì mọi việc có vẻ đơn giản, thậm chí nghe nhàm chán. Nhưng
nếu cái điều ấy "xẩy ra với chính ta", như ông đây chẳng hạn, thì...
Chà, cái ông nhà thơ Hainơ (1) người Đức ấy chỉ bằng mấy dòng đơn giản mà nói
hết, nói đúng toàn bộ câu chuyện và nỗi buồn của ông. Mà ông ta sống cách đây
những hai trăm năm, lại ở tít châu Âu. Hóa ra câu "trong tình yêu không ai
đau khổ giống ai" người ta vẫn nói không hẳn hoàn toàn đúng. Ông nghĩ
trường hợp của ông xưa nay chắc không hiếm, ta hay tây cũng vậy. Nó xẩy ra đúng
như Hainơ đã viết.
Ông
từng yêu một cô gái và lúc đầu cũng được cô yêu lại. Sau vì một chuyện hiểu
nhầm vớ vẩn, rất vớ vẩn, cô tự ái và tuyên bố cắt đứt ông để yêu một người khác
"cho ông biết tay". Nhưng cái anh "người khác" ấy lại không
yêu cô, hay chính xác hơn, yêu với những suy tính nhỏ nhen. Thế là thất vọng,
và cũng vì tự ái, loại tự ái kiểu trẻ con, đáng lẽ quay lại với ông, người vẫn
yêu cô tha thiết và chắc còn được cô yêu, cô "không mảy may kén chọn, đã
lấy chồng". Lấy chồng chỉ để lấy chồng. Thế thôi. Không tình yêu, không
đắn đo để ông và anh chàng nhỏ nhen kia biết cô không sợ ế. Lại suy nghĩ kiểu
trẻ con, và cô đã phải trả giá đắt cho hành động trẻ con ấy của mình.
Còn
ông, ông không đến nỗi bồng bột, thiếu suy nghĩ như cô vì nhiều tuổi hơn và nói
chung chín chắn hơn. Ông tìm mọi cách cứu vãn tình yêu nhưng vô ích. Cô gái ông
yêu và yêu ông ấy đã không đủ sự tỉnh táo và dũng cảm cần thiết để vượt qua
lòng tự ái bị phóng đại thái quá. Cuối cùng ông lấy vợ, một người tế nhị, có
trình độ, lại xinh đẹp, xinh hơn cả cô người yêu cũ. Một người tốt mọi phương
diện. Thế mà không có hạnh phúc. Không phải ông không yêu vợ. Ông có yêu, nhưng
đó không còn là cái tình yêu ông từng trải qua với "người kia". Vì
sao thì chính ông cũng không lý giải nổi. Tình yêu là thế, và có thế nó mới bí
ẩn, kỳ diệu và làm người ta mê say. Ông buồn, một cách lặng lẽ và mơ hồ. Là
người đứng đắn lại hay mặc cảm, ông thấy như thể mình phản bội vợ, vì dù không
muốn, ông vẫn thường nghĩ tới "người kia", đặc biệt ngày lần đầu họ
gặp nhau và yêu nhau "ngay từ cái nhìn đầu tiên". Vì sao? Cả hai đều
không biết. Có lẽ đó cũng là một bí ẩn nữa của tình yêu.
Cái
ngày ấy, thực ra nói đêm thì đúng hơn vì lúc đó là ban đêm, hai người ngẫu
nhiên ngồi cùng ghế, cùng xe từ Sầm Sơn về Hà Nội sau đợt nghỉ mát một tuần.
Trong một tuần ấy họ gặp nhau hàng ngày, ăn cùng nhà, tắm cùng bãi nhưng chưa
nói chuyện lần nào. Cả hai để ý đến nhau, muốn làm quen nhưng lúng túng không
biết cách nào. Thế mà giờ họ được ngồi cạnh nhau suốt cả chặng đường hàng trăm
kilômét, lại vào một đêm đẹp trời, chẳng bị ai chú ý. Họ nói chuyện thú vị lắm,
hợp nhau lắm, và khi gần đến Hà Nội, họ đã bắt đầu cầm tay nhau. Thế là yêu,
hay ít ra cảm giác yêu yêu. Thật nhanh và cũng thật tự nhiên, cứ như họ được
sinh ra để yêu nhau vậy.
Mười
một giờ đêm hôm ấy, sau khi chia tay cô gái, ông thong thả đi bộ về nhà để tận
hưởng những giây phút kỳ diệu vừa qua. Ông sung sướng đọc thành lời một bài thơ
khác của nhà thơ Hainơ mà ông yêu thích:
Anh và em không hẹn
Cùng
đi chuyến xe đêm.
Hai
đứa cùng vui vẻ -
Chỉ
mình anh với em.
Sáng
ra, ta kinh ngạc
Thấy
người khách thứ ba
Là
Tình Yêu lậu vé
Lén
vào ngồi bên ta.
Lúc ấy, tức là cách đây hai mươi lăm
năm, ông là một cán bộ trẻ của Viện nghiên cứu hạt nhân, còn cô đang học năm
cuối khoa văn đại học tổng hợp, chênh nhau năm tuổi, độ chênh lý tưởng cho một
tình yêu nghiêm túc. Chiều chiều ông đạp xe đến trường đón cô. Hai người hai
xe. Những ngày thật đẹp và hạnh phúc. Dẫu làm khoa học, tâm hồn ông rất lãng
mạn. Thậm chí ông còn làm thơ tặng cô. Tiếc rằng trong lĩnh vực này ông không
thật giỏi nên cuối cùng, thay cho những bài thơ hì hục viết nhiều đêm liền, ông
chép tặng cô một bài ông tưởng của Hainơ, nhưng mãi sau mới biết là của Vichto
Huygô (2):
Thơ anh rời trang giấy
Bay
đến đậu vườn em
Nếu
thơ anh có cánh,
Đôi
cánh của con chim.
Thơ
anh sẽ che chở
Ngôi
nhà em bình yên
Nếu
thơ anh có cánh,
Đôi
cánh của nàng tiên.
Thơ
anh sẽ chung thủy
Bay
theo em sớm chiều
Nếu
thơ anh có cánh,
Đôi
cánh của tình yêu.
Thời
ấy ông nghèo nên chẳng có gì hơn để tặng ngoài thơ, mà lại thơ người khác. Cô
cũng không mong đợi gì hơn ở ông. Một lần, khi đón cô ở cổng trường, ông tặng
cô một bài thơ khác. Lần này thì đúng là thơ Hainơ, với hai khổ đầu và cuối như
sau:
Nhờ nàng thơ cất cánh,
Em
hãy đến cùng anh,
Đến
sông Hằng lấp lánh,
Trời
miền nam trong xanh.
Ở
đấy, nằm trên cỏ,
Trong
giấc mơ ban ngày
Ta
thả lòng theo gió
Cùng
tình yêu ngất ngây...
-
Anh định đưa em đến sông Hằng Ấn Độ thật à? - cô cười hỏi khi ông đọc xong.
-
Không, anh chỉ muốn mời em đi ăn kem ở nhà hàng Thủy Tạ. Và nếu em đồng ý, ngày
mai ta đạp xe sang Cổ Loa chơi.
Họ
ăn kem ở nhà hàng Thủy Tạ rồi hôm sau cùng đi Cổ Loa. Lần này hai người một xe.
Chính trong cuộc dã ngoại đáng lẽ phải rất vui ấy, cái chuyện "vớ
vẩn" kia đã xẩy ra. Hình như ông nói một câu ngu ngốc nào đó khiến cô tự
ái. Chưa hết, nghĩ cô hiểu sai, ông cố cãi lại bằng những câu thậm chí còn ngu
ngốc hơn, làm chuyện thêm nghiêm trọng. Thế là cái sự cố vớ vẫn ấy làm tình yêu
của họ tan vỡ. Đơn giản thế thôi. Âu đó cũng là một điều ngớ ngẩn nữa của tình
yêu.
Biết
mình sai, ông tìm cách giảng hòa và xin lỗi, hy vọng mấy hôm sau đâu lại vào
đấy. Nhưng ông nhầm. Cô gái vẫn cương quyết không chịu, là điều đến tận bây giờ
ông không hiểu nổi. Hay ông đã vô tình chạm phải nỗi đau thầm kín nào của cô?
Ông đã xúc phạm cô sâu sắc điều gì chăng? Cô không cho phép ông đưa đón hàng
ngày như trước. Không gặp gỡ, không nói chuyện. Chấm hết. Cũng không một lời
giải thích vì sao. Nhưng ông yêu cô và biết cô vẫn yêu ông. Thế thì tại sao lại
như vậy? "Chịu. Tình yêu là thế.
Phụ nữ là thế!" ông buồn bã lắc đầu.
Suốt
mấy tháng liền sau đó, thẫn thờ như người mất hồn, đêm nào ông cũng lang thang
quanh nhà cô. Không dám vào mà cũng chẳng muốn vào. Có ngẫu nhiên thấy cô, ông
cũng không tìm cách gặp. Ông đã bị từ chối, và ông là người tự trọng. Cái tự
trọng cũng thuộc loại ngớ ngẩn mà ông không vượt qua được. Những hôm nhà cô có
khách, từ dưới nhìn lên, ông lại nhớ đến Hainơ, và buồn rầu nghĩ:
Nhà em có vũ hội,
Thắp
đèn xanh, đèn vàng.
Anh
nhìn lên cửa sổ
Thấy
bóng em đi ngang.
Em
không nhìn, không biết
Anh
đang đứng trong đêm,
Và
càng không thể biết
Anh
đang buồn vì em.
Vì
tình yêu, lần nữa
Anh
lại buồn đêm nay.
Tim
xốn xang... chỉ tiếc
Em
không biết điều này.
Tiếp
đến, mọi chuyện diễn ra đúng như Hainơ nói. Cô yêu người khác. Một nhà thơ có
tài xưa nay cô hâm mộ. Nhưng nhà thơ này yêu cô cũng như yêu bao cô sinh viên
trẻ khoa văn lãng mạn giống cô. Khác chăng có yêu hơn một tí vì nhà cô giàu và
có ông bố là cán bộ cao cấp. Cuối cùng, qua mai mối của bà mẹ, cô đồng ý làm vợ
một phó tiến sĩ vừa ở nước ngoài về, một người tử tế, cũng con nhà cán bộ cao
cấp như nhà cô. Từ buổi đầu gặp nhau cho đến ngày cưới chưa đầy hai tháng. Lúc
này cô đã là một phóng viên, thỉnh thoảng có bài in ở các báo. Ông cũng được
mời dự cưới. Ông đi, mang sẵn trong người một bài thơ khác của Hainơ để tặng
cô, nhưng vào phút cuối nghĩ thế nào lại thôi. Bài thơ ấy ông còn giữ tới nay:
Em hãy nói cho anh nghe: vì sao
Giữa
mùa xuân mà hoa hồng đã héo;
Và
trước anh, do nguyên cớ thế nào
Bông
hoa tím cúi đầu buồn lạnh lẽo?
Em hãy nói: vì sao chim họa mi
Hót
buồn bã làm tim anh nhức nhối;
Sao
anh nghe như mục nát cái gì
Trong
hơi thở của rừng xanh, đồng nội?
Em
hãy nói: sao suốt ngày mặt trời
Luôn
giận dữ nhìn cánh đồng nhăn nhó?
Sao
bóng đen luôn bao trùm khắp nơi,
Cả
trái đất âm u như nấm mộ?
Anh
đau buồn, anh thất vọng, ủ ê -
Hãy
giải thích cho anh nghe điều ấy.
Và
em yêu, em hãy nói anh nghe:
Sao
em nỡ bỏ anh đi như vậy?
Sau
đó, với ông hầu như chẳng còn gì nữa. Rồi ông cũng lấy vợ, có con, việc công,
việc nhà không có gì đáng phàn nàn. Gia đình ông sống bình thường như các gia
đình công chức bình thường khác. Có phần còn khá hơn. Có thể nói hạnh phúc và
bề ngoài nhìn vào, chắc không ít người ghen tị. Bản thân ông cũng tự thấy hài
lòng. Vậy ông còn đòi gì hơn nữa? Bà vợ dịu dàng, yêu, hiểu chồng. Đứa con trai
ngoan, học giỏi.
Vâng,
tất cả đúng như vậy. Ấy thế mà sao ông vẫn thấy có cái gì thiếu vắng, một sự
luyến tiếc mơ hồ, một nỗi đau âm ỉ không nói nên lời. Ông biết tất cả có thể
chỉ do ông đa cảm hay nghĩ về mối tình đầu bất thành. Nhưng có phải lỗi ông
đâu? Ai dám chắc nếu họ lấy nhau, cái cô gái hay tự ái ngày xưa ấy sẽ làm ông
hạnh phúc hơn người vợ hiện nay của ông? Suy cho cùng đó chỉ là mối tình bồng
bột với những kết luận cũng vội vàng và bồng bột không kém. Ông biết thế và đã
cố nhiều lần xua đuổi những ý nghĩ vẩn vơ ấy trong đầu. Tuy nhiên lý trí là lý
trí, tình yêu vẫn là tình yêu. Và sống bên bà vợ lý tưởng của mình, nhiều khi
ông vẫn không thể không nghĩ tới người đàn bà kia. Người đàn bà nhẫn tâm, đồng
bóng đã làm ông đau khổ. Vì người ấy mà ông nhiều đêm phải mát ngủ như đêm nay.
Tình yêu là thế, biết làm thế nào được.
Còn
"người ấy" thì sao? Bề ngoài có vẻ cũng bình thường. Từ ngày chia
tay, họ chưa một lần gặp nhau. Cách đây đã lâu, khi cùng đưa con đến trường Lê
Ngọc Hân, thỉnh thoảng họ nhìn thấy nhau nhưng chỉ gật đầu chào từ xa, họa hoằn
lắm mới trao đổi đôi câu thông thường. Duy nhất một lần, khi cả hai người cùng
đến quá sớm và biết còn phải chờ lâu, ông gợi ý cô vào quán cà phê đối diện
ngồi tạm. Cô chỉ im lặng nhìn ông. Vẫn đôi mắt đẹp ngày xưa ấy nhưng bây giờ đượm
buồn, rất buồn. Cuối cùng cô cúi đầu khẽ nói: "Em có lỗi với anh. Anh tha
thứ cho em nhé". Rồi như sợ không dám đứng thêm với ông, cô vội vã phóng
xe bỏ đi. Từ đó họ chẳng bao giờ gặp nhau nữa. Vậy là cô cũng chẳng hạnh phúc
gì. Có thể như ông, cô cũng bị cái tình yêu kỳ diệu, lạ lùng, đam mê và bí ẩn
ấy làm nhiều đêm mất ngủ. Biết đâu lúc này cô cũng đang đứng trên ban công nhà
mình, bâng khuâng nghĩ về nó như ông...
Con quái vật thành phố vẫn nằm xoãi
dưới chân ông. Nhiều con mắt khác màu đã nhắm. Hơi thở và tiếng rên rĩ của nó
hình như cũng lắng xuống. Ông khẽ rùng mình vì luồng khí lạnh bất chợt thổi từ
phía sông Hồng. Ông lặng lẽ đi vào, nằm xuống cạnh vợ. Bây giờ thì vợ ông chắc
chắn đã ngủ, tiếng thở nhẹ và đều. Nhờ ánh trăng chiếu qua cửa sổ, ông thấy
khuôn mặt bà vừa thanh thản vừa như lo lắng điều gì. Ông khẽ cầm tay bà đặt lên ngực mình. Tự
nhiên ông thấy thương bà. Thương cho cả chính mình. Một lúc sau ông thiếp đi,
bên tai vẫn văng vẳng bài thơ của Hainơ nhưng nghe như đâu đó từ xa, rất xa, và
mỗi lúc một nhỏ dần...
Một chàng trai đem lòng yêu cô gái
Nhưng
cô kia yêu người khác; và rồi
Người
khác ấy lại yêu cô gái khác,
Để
nàng buồn và thất vọng khôn nguôi.
Còn
sau đó, vì thất tình, cô gái
Không
mảy may kén chọn, đã lấy chồng
Thành
bất hạnh; và chàng trai cũng vậy,
Phải
suốt đời đau khổ, phải chờ mong...
Câu
chuyện trên không có gì mới lạ.
Bao
đời nay thường vẫn thế - Có điều
Nếu
xẩy ra với chính ta, ta sẽ
Biết
thế nào là cái giá tình yêu.
(1).
Thơ Henric Hainơ (Henric Heine, Đức,
1797 - 1856).
(2).
Thơ Vichto Huygô (Victor Hugo, Pháp, 1802 - 1885). Tất cả các bài thơ trong
truyện này cũng như cả tập sách đều do tác giả dịch. Xem "Thái Bá Tân. Thơ
dịch", NXB Lao Động, 2001.
Hà Nội, 9. 4. 2002
SA
PA MÂY PHỦ
Họ
đến Sa Pa lúc trời gần tối. Mặt trời tháng Ba khuất sau núi, ánh lên một vầng
sáng màu da cam lạnh và buồn. Cả không khí cũng đượm buồn, cái buồn vắng người
và vùng núi quá ư yên tĩnh. Từ ô tô nhìn xuống, một vài ngôi nhà mới xây mái đỏ
tường trắng trông lạc lõng giữa một màu xanh thẫm sũng hơi sương.
Ngồi
sau tay lái là một người đàn ông đứng tuổi đeo kính trắng mắt dày chứng tỏ ông
cận nặng, nét mặt hiền hậu tuy khắc khổ. Vợ ông, một phụ nữ bé nhỏ còn giữ được
vẻ đẹp thanh thoát thời trẻ, ngồi phía sau, lơ đãng nhìn ra ngoài. Cả hai có vẻ
giàu có, đáng kính, thể hiện qua cách ăn mặc, điệu bộ, và cả chiếc Ford Mondeo
màu đen bóng, loại ô tô Mỹ nổi tiếng mới thấy xuất hiện ở Hà Nội.
“Tôi
không hiểu ông lên đây làm gì. Trời lạnh thế này.”
Bà
nói khi hôm sau hai người ngồi ăn sáng ở khách sạn sang nhất của thị trấn trên
một ngọn đồi. Mà quả rét thật. Bà ngồi co ro, quàng lên người chiếc khăn len to
màu xanh nhạt. Như thường lệ khi ngủ dậy, bà trang điểm chút ít, đúng kiểu
người già quen ăn diện nhưng ý tứ.
Ông
lặng yên cầm chai rượu vang rót vào hai chiếc li chân cao, một lúc sau mới đáp:
“Có
lẽ bà nói đúng, nhưng tôi không muốn đi nơi khác. Vả lại ở đây tôi có chút kỷ
niệm...”
“Kỷ
niệm? Sao ông không bao giờ kể tôi nghe?”
“Tại
tôi nghĩ bà không cần biết, không muốn biết. Chuyện xưa ấy mà.”
“Hôm
nay tôi thấy ông như buồn buồn điều gì. Chắc vì cái kỷ niệm ấy?”
Ông
không đáp, lại rót rượu cho mình.
“Một
thiên tình sử lãng mạn? Một thôn nữ xinh đẹp và hoang dã?” Bà khẽ cười, pha
chút châm biếm.
“Ừ,
không hoàn toàn nhưng cũng gần như thế. Một cô gái người Thái, xinh đẹp, nồng
cháy và pha chút ít hoang dã như bà nói.”
“Sao
ông không lấy cô ta làm vợ?”
“Vì
tôi biết sẽ gặp bà, lấy bà”.
“Cảm
ơn. Ông kể nghiêm túc cho tôi nghe với nào”. Khi thấy chồng cứ mân mê mãi ly
rượu, bà nói thêm: “Hay đấy, tự mình khơi chuyện rồi lại im lặng không chịu nói
gì nữa.”
“Thực
ra chẳng có nhiều để nói. Vì chúng tôi quen nhau được ba tháng thì cô ấy chết.
Thời gian yêu nhau còn ít hơn”.
“Chết?”
Bà định hỏi vì sao nhưng lại thôi.
Ông
cũng chẳng nói gì thêm.
Mặt
trời đã nhô lên quá hàng cây trước khách sạn, vất vả lắm mới chui ra khỏi đám
mây dày đặc. Gió se se thổi. Xa xa phía dưới, những mảng sương mù mỏng màu
trắng đục như đứng yên một chỗ nhưng ông biết chúng đang trôi chầm chầm vì có
gió. Còn ở đây thì không có sương mù, chỉ ẩm ướt, trên lá cây lấm tấm những
giọt nước nhỏ. Không khí trong lành, thoang thoảng mùi gì đó ông không tìm được
tên gọi.
“Tôi
định tới đó.” Ông lại lên tiếng khi cô hầu bàn mặc áo dài màu hồng vừa bê bát
đĩa đi, chỉ chừa lại chai rượu và hai chiếc cốc. “Bà có đi với tôi không?”
“Tới
đó là tới đâu?”
“Bản
Vẹo. Ngày xưa tôi được phân về dạy học ở đó, nơi tôi đã gặp và yêu cô ấy...
Cách đây chỉ mươi cây số, nhưng đường xấu”.
“Không.
Ông đi đi. Hôm nay tôi mệt”, bà nói rồi đứng dậy bỏ lên phòng.
Đã
qua cái thời có thể ghen tuông, vả lại thực ra chẳng có gì để ghen, nhưng bà
vẫn thấy ấm ức vô cớ. Bà sống với ông ba mươi năm nay, có thể nói yên ấm, hạnh
phúc. Ông là người chồng tốt, chu đáo với vợ con, nhưng với nhạy cảm của người
đàn bà tinh tế, bà biết hình như suốt chừng ấy năm vẫn có cái gì đấy, ai đấy
đứng xen giữa vợ chồng họ. Bà nhiều lần cố đoán mà không đoán ra. Bây giờ bà
biết người ấy là ai. Dẫu không nhỏ nhen cố chấp, bà vẫn không kìm được thái độ
hờn dỗi của mình. Ông biết. Bản thân ông cũng không thực sự muốn vợ đi cùng,
chỉ lờ mờ thấy như mình có lỗi.
Quả
đường xấu thật, gồ ghề và nhão nhoét. Có lẽ hôm trước vừa có mưa. Chiếc ô tô
lấm đầy bùn, và phải sau hơn một giờ mới tới được nơi cần tới.
Ông
bước ra khỏi xe, ngồi phệt xuống phiến đá giữa đám cỏ ướt bên chiếc hồ nhỏ nước
nông và trong, để lộ lớp đáy bùn màu gạch.
*
Đó
là một ngày mưa tầm tã vào đầu tháng Chín năm 1967, khi tốt nghiệp xong Đại học
Sư phạm anh được phân về vùng này. Vì lý do sức khỏe, cụ thể mắt cận ba đi-ôp,
người ta không gọi anh nhập ngũ như nhiều bạn cùng lớp.
Ra
đi từ sáng sớm với chiếc ba lô con cóc toòng teng trên lưng, mãi gần tối mới
đến được nơi cần đến, trường cấp ba Cẩm Yên, nhưng anh chẳng thấy ai trong mấy ngôi
nhà nứa tuềnh toàng ở đấy, đành hỏi thăm nhà ông chủ tịch xã định xin ngủ qua
đêm rồi sau hẵng hay. Lại phải đội mưa dẫm bùn thêm ba cây số nữa để đến nhà
ông chủ tịch.
Hóa
ra ông này đã biết anh sẽ đến và được giao nhiệm vụ tìm cho anh một nhà dân để
ở trọ vì trường không có nhà riêng cho giáo viên. “Tìm nơi nào kha khá một
chút. Tay này dân Hà Nội gốc, có thể khó tính đấy!”
Bản
Vẹo của ông sống qui tụ, người Kinh nhiều hơn người Thượng do trước đây có nông
trường chè gần đấy, nay đã giải thể. Ông người Thái, vợ ông vốn là một trong
những cô gái từ dưới xuôi lên, làm việc ở nông trường ấy. Cả buổi chiều trước
đó ông đau đầu không biết phải bố trí “anh chàng Hà Nội khó tính” này ở đâu.
Trong bản nhà nào cũng nghèo. Thêm chiếc giường không khó, chỉ ăn uống, sinh
hoạt, vệ sinh mới phiền. Lại thêm cái chuyện năm ngoái có anh giáo viên miền
xuôi, cũng của trường Cẩm Yên, léng phéng với một cô gái trong bản, có chửa, bị
đuổi việc rồi lặn đi đâu mất. Không khéo rồi anh chàng này cũng gây tai họa.
Tuy nhiên, là người đứng đầu địa phương, lại vốn sĩ không muốn “người ta” khinh
thường xã mình, cuối cùng ông quyết định cho anh ta sống ngay trong nhà ông,
một gia đình tự ông đánh giá có văn hóa nhất và khá nhất trong cả xã. Tạm thời
thế đã rồi sau ông sẽ dựng cho trường mấy gian nhà tranh làm chỗ ở của giáo
viên.
Ngôi
nhà “nhất xã” ấy có tường xây, trát vữa một mặt phía trong, mái ngói hẳn hoi dù
đôi chỗ dột, đuồn đuỗn bốn gian nhỏ như nhà tập thể. Anh được ở gian trống
cuối, nơi có chiếc cửa sổ không cánh che bằng vải nhựa nhìn ra một bãi sắn. Xa
hơn tí nữa là chiếc hồ nhỏ bình thường nhưng với anh lại rất thơ mộng. Nhà ít
người so với dân trong vùng, ngoài ông chủ tịch xã còn có vợ ông, một người đàn
bà quê Hưng Yên, hơn bốn mươi tuổi, ít nói, có vẻ một thời xinh đẹp nhưng bây
giờ gầy đét, da xám như người bị sốt rét lâu ngày. Anh thấy hai đứa trẻ, một
cậu bé khoảng mười ba và đứa con gái thò lò mũi xanh. Nghe nói còn đứa nữa, đã
lớn nhưng lúc anh đến không có nhà.
Anh
tắm giặt, thay quần áo xong và đang ngồi uống nước, nói chuyện với ông bà chủ
tịch thì có người bước vào nhà. Bên ngoài trời vẫn mưa nặng hạt. Lúc ấy đã tối
hẳn và căn nhà được chiếu sáng bằng chiếc đèn bão to như quả dưa bở, bóng ám
muội do lâu ngày không lau. Trong góc phòng thấy treo chiếc đèn măng-xông chắc
chỉ dành cho những dịp long trọng phục vụ nhiều người.
“Cái
Bình, con gái tôi đấy,” ông chủ nhà nói. Có vợ người Kinh, mấy năm đi bộ đội,
lại làm chủ tịch xã xuống huyện hội họp thường xuyên nên ông đã bị “xuôi hóa”
từ lâu, dễ nhận thấy qua cách cư xử, nói năng và cách đặt tên cho con. “Năm nay
xong lớp mười, tốt nghiệp phổ thông còn chưa biết làm gì, đi đâu đây.” Rồi ông
quay sang con gái: “Đây là thầy Thọ mới từ Hà Nội lên. Sẽ dạy trường con đấy.”
Cô
gái lúng búng “chào thầy’’, quay sang nhìn anh, rùng mình hất mái tóc dài về
phía sau rồi đi xuống bếp.
Dưới
ánh đèn dầu tù mù anh kịp nhận thấy một khuôn mặt tuyệt đẹp, đẹp đến mức khiến
anh sững sờ chốc lát. Nó khác hẳn vẻ đẹp thường thấy ở các cô gái đẹp thủ đô.
Có cái gì đó mới mẻ, tinh khiết, bí ẩn, thậm chí hoang dã. Khuôn mặt xinh đẹp
ấy đang ướt sũng nước mưa (không hiểu sao cô đi đâu về không mũ nón gì cả), bộ
quần áo mỏng dính chặt cơ thể con gái mới lớn với những đường nết thật mềm mại
và gợi cảm. Anh có cảm giác như nhìn thấy da thịt cô qua lớp vải ướt. Có thể
cái nhìn ấy làm cô xấu hổ cúi mặt. Cũng có thể chỉ do anh tưởng tượng vì lúc đó
đang ở trong một cơn sốc thực sự, sốc trước vẻ đẹp ngỡ ngàng, bất ngờ. Đôi chân
cô để trần, cũng rất trắng và đẹp, theo đó, nước từ người chảy xuống thành vết
loang lấp lánh dưới ánh đèn.
Đêm
ấy và nhiều hôm sau anh còn bị ám ảnh mãi bởi cuộc gặp lần đầu này. Anh giật
mình lo lắng khi phải tự thú rằng hình như anh yêu cô, yêu ngay từ cái nhìn đầu
tiên như người ta vẫn nói. Xưa nay anh không tin vào kiểu tình yêu sét đánh như
thế. Anh nghĩ có lẽ do tính anh dễ xúc động, do bị choáng chút ít vì đi đường
mệt và thời tiết, rồi mọi việc đâu sẽ vào đấy. Nhưng anh nhầm...
Trường
cấp ba Cẩm Yên chỉ vẻn vẹn một lớp mười, hai lớp chín và ba lớp tám. Anh được
phân dạy sử, kiêm luôn cả môn địa lớp tám và chín. Thời ấy không chỉ học sinh
ít mà thầy cũng thiếu. Việc giảng dạy chẳng mấy vất vả. Chỉ buồn, cái buồn miền
núi suốt ngày chẳng có gì làm, chẳng đi đâu, chẳng biết nói chuyện với ai. Thêm
vào đó, trời hay mưa, không mưa thì sương mù dày đặc, da thịt luôn ẩm ướt như
đổ mồ hôi mùa hè. Không khí có mùi gì như mùi mốc, lắm lúc thấy buồn nôn. May
anh mang theo mấy cuốn tiểu thuyết, chủ yếu tiểu thuyết cổ điển Nga, trong đó
có cuốn Tội ác và Trừng phạt của Đôtxtôiepxki, anh đọc nhiều lần đến mức bị ám
ảnh muốn tự mình phạm một tội ác nào đó. Có cả cuốn Axia của Tuốcghênhép mà anh
thấy Bình, cô con gái ông chủ tịch xã, na ná giống một nữ nhân vật trong đó.
Anh
và Bình ít gặp nhau, ngoài một ngày hai bữa ăn trưa và tối, ít khi có ăn sáng.
Buổi sáng đi học, buổi chiều hôm nào cô cũng theo mẹ lên đồi trồng gì ngoài ấy
đến tối mới về. Trong bữa ăn, từ khi có anh, cô thường cúi mặt hoặc nhìn đi nơi
khác. Nói chuyện thì hầu như không, ngoài những câu chào hỏi bắt buộc. Chính
điều này khiến anh, có thể cả bố mẹ cô nữa, đoán hiểu cô không thờ ơ với anh.
Đôi khi anh thấy Bình nhìn trộm mình, và lần nào ngẫu nhiên gặp nhau má cô cũng
đỏ bừng. Còn anh thì bây giờ, được quan sát kỹ hơn, bình tĩnh hơn, anh càng
thấy cô xinh đẹp và đặc biệt hấp dẫn, như con thú nhỏ vừa nhút nhát, vừa có cái
gì đấy mãnh liệt vụng về che giấu bên trong.
Tất
nhiên anh phải cố giữ kín tình cảm thật của mình, làm như không để ý tới cô,
chỉ thỉnh thoảng giúp cậu em làm bài khi cần. Cậu này học dốt nhưng thích đọc sách,
có thể do vậy nên rất quí anh, vì với cậu, anh là nguồn sách vô tận. Thỉnh
thoảng, theo yêu cầu của bà mẹ, anh nói nếu Bình có gì không hiểu, anh làm
giúp, nhưng lần nào cô cũng lặng lẽ lắc đầu. Anh chẳng hiểu ý bà thế nào. Có
thể vô tình, cũng có thể lo xa, bà nghĩ tới cuộc hôn nhân tương lai giữa con
gái bà và anh chàng thư sinh Hà Nội đẹp trai, lại là ông giáo, cái nghề rất
được coi trọng ở vùng này. Suy cho cùng, điểm mặt tất cả, bà thấy ở đây chẳng
ai xứng đáng hơn. Chắc bà cũng nhận thấy tình cảm của anh đối với Bình. Còn ông
bố thì không quan tâm, hay ít ra tỏ vẻ không quan tâm. Có lẽ ông cũng không
phản đối. Con ông đã mười tám, cái tuổi nên lo chuyện chồng con. Anh cũng mới
hăm hai. Ông chỉ sợ như anh chàng năm ngoái, làm con người ta ễnh bụng rồi lặn
mất tăm. Vậy là có vẻ như mọi chuyện thuận lợi, nhưng anh vẫn chưa dám.
Một
hôm đi đâu về, anh chợt thấy Bình chạy bổ từ trong nhà ra, bối rối và xấu hổ.
Hình như từ phòng anh. Anh vội bước vào và thấy một mẩu giấy nhỏ trên bàn xé từ
cuốn vở học trò. “Tối nay em chờ anh bên hồ”.
Anh
ngồi thừ trên ghế, ngạc nhiên và mừng lo lẫn lộn.
Bữa
ăn tối diễn ra như thường lệ. Bình không một lần nhìn anh. Ăn xong, cô bảo mẹ
sang nhà bạn học bài rồi đi luôn. Vì thỉnh thoảng vẫn đi dạo vào buổi tối nên
anh có thể ra đi mà không bị ai nghi ngờ. Khốn nỗi hôm ấy cậu em cứ nằng nặc
nhờ giải giúp bài toán khó, nên khi anh rời khỏi nhà đã gần chín giờ.
Đầu
tháng, trăng bàng bạc, mỏng và ẩm ướt. Bốn bề yên ắng, chỉ buồn buồn tiếng côn
trùng đâu đó vọng lại. Anh bước nhanh qua bãi sắn về phía hồ, tim đập mạnh vì
hồi hộp, thậm chí không nghĩ tới hậu quả, không nghĩ gì ngoài việc có người
đang chờ anh bên hồ.
Bình
ngồi trên tảng đá lớn trên bờ. Bên cạnh có tảng khác nhỏ hơn. Cả hai đều trơn
nhẵn do mưa gió và cả do người ngồi. Anh từng nhiều lần ngồi lên đó, vào buổi
chiều chứ không phải ban đêm thế này, và tất nhiên chỉ một mình. Cô ôm gối, đầu
cúi gục, im lặng cả khi anh lên tiếng gọi. Anh lại gần, khẽ đặt tay lên vai cô
và biết cô đang khóc. Anh ngồi xuống cạnh, hồi lâu không biết nói gì, cuối cùng
nhẹ nhàng nâng đầu cô lên và hôn vào đôi mắt
ướt.
“Người
ta nói con gái dân tộc mãnh liệt lắm”, anh nghĩ. “Nhưng để chủ động hẹn thế này
thì chắc Bình phải yêu anh ghê gớm, đấu tranh ghê gớm và cũng bất chấp ghê
gớm”.
“Anh
yêu em! Yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên như trong tiểu thuyết.” Anh nói một cách
giản dị rồi cười thành tiếng, cố lấy vẻ thật tự nhiên. Hình như tiếng cười này
giúp cả hai vượt qua sự lúng túng ban đầu.
Anh
vòng tay ôm cô, xoay về phía mình. Người cô run lên như bị sốt.
“Em
có yêu anh không?”
Cô
khẽ gật đầu, áp mặt vào ngực anh. Hai người im lặng hồi lâu.
“Cũng
từ cái nhìn đầu tiên?”
“Không.
Phải mấy ngày sau. Rồi em trở thành như đứa mất hồn”, cô nói, cũng thật giản
dị. “Anh không nhận thấy à?”
“Có”,
anh đáp. Thực ra anh không nhận thấy gì, lại càng không biết cô “mất hồn” vì
anh.
“Còn
em, em có biết anh rất yêu em không, yêu ngay từ đầu?”
“Có.
Và em chờ. Sao anh không nói gì với em? Sao anh bắt em chờ lâu thế, cho đến lúc
không chờ được nữa...”
“Tại
anh sợ. Dẫu sao cũng mới ba tháng. Anh sợ mọi người nghĩ anh như anh chàng năm
ngoái. Nhưng ngay ngày mai anh sẽ nói chuyện với bố mẹ em...”
“Đừng.
Khoan đã.” Cô ngước nhìn lên, nghiêm túc hỏi: “Anh sẽ cưới em chứ?”
“Tất
nhiên.”
“Anh
thề đi.”
“Không
cần thề”, anh cười. “Anh cũng mất hồn vì em. Không phải mấy ngày sau mà ngay từ
hôm đầu mới gặp. Tất nhiên anh sẽ lấy em. Còn em?”
“Em
là con gái. Không cần hỏi”.
Hai
người lại im lặng, rồi anh nói, thật thà đến mức ngây ngô nhưng không ai để ý
đến sự ngây ngô ấy:
“Vậy
là chúng ta yêu nhau và sẽ lấy nhau.”
“Vâng.
Rồi anh sẽ đưa em về Hà Nội? Em thích được sống ở Hà Nội. Ở đây buồn lắm”.
“Anh
sẽ đưa em về Hà Nội. Mà thôi, ta phải về kẻo mọi người nghi”.
Hai
người đứng dậy. Chỉ lúc này họ mới hôn nhau. Một cái hôn vụng về. Anh thấy
người cô nóng rực và run run.
“Mai
ta lại ra đây nhé?”
“Ừ,
mai.” Anh đáp, và hai người lại hôn nhau.
Trăng
có vẻ mờ hơn, sương cũng nhiều hơn như muốn che họ khỏi những con mắt tò mò.
Những
ngày tiếp theo đêm nào họ cũng hẹn gặp nhau bên hồ mà không ai biết, hoặc có
thể biết nhưng giả vờ không. Tuy nhiên, bây giờ, khi nhà vắng người, họ có thể
vui vẻ nói chuyện với nhau, hôn nhau trong niềm hạnh phúc ngây ngất.
Một
tối nọ, khi hai người vừa ra tới hồ, cô bảo anh:
“Ta
xuống tắm đi!”
Anh
chưa kịp trả lời thì cô đã nhanh nhẹn cởi hết quần áo, ngay trước mặt anh mà
không chút e thẹn, rồi một mình lội xuống nước.
“Con
gái miền núi hồn nhiên thật.”
Anh
thầm nghĩ và mỉm cười một mình, nhưng không xuống tắm, lại càng không muốn tắm
truồng. Không hiểu sao anh thấy ngượng, dù ý nghĩ được tắm truồng với người yêu
dưới đêm trăng thật hấp dẫn. Thích nhưng vẫn ngượng, vì tính anh vốn nhút nhát
và hay cả thẹn.
Mười
lăm phút sau, cô lên.
“Anh
lau người cho em đi!” Cô nói rồi ôm ghì lấy anh để nước thấm hết cả quần áo.
Phải
nói anh hơi thoáng chút bối rối. Tất nhiên anh hiểu cô muốn gì và anh có thể
làm gì. Anh ôm chặt cô. Người anh cũng run lên, hừng hực. Nhưng một lúc sau anh
từ từ buông cô ra:
“Em
mặc quần áo vào kẻo lạnh”.
Cô
ngoan ngoãn nghe theo, rồi họ ra về trong im lặng.
Ba
hôm sau anh được biết cô đã viết đơn xung phong ra mặt trận và sắp lên đường.
“Trời!
Sao em làm thế?” Anh kêu lên, gần như hoảng hốt.
“Cả
lớp viết. Người ta chỉ chọn ba đứa. Em là lớp trưởng nên được chọn”.
“Em
muốn bỏ anh mà đi thật à?”
“Không.
Em không muốn đi. Nhưng em là lớp trưởng... Em muốn ở lại với anh.”
“Vậy
sao xung phong?”
“Cả
lớp xung phong...”
Cô
thút thít khóc. Không biết nói gì hơn, anh ôm cô vào lòng như sợ buông ra, cô
sẽ biến đi mất.
“Hay
anh và em cùng bỏ trốn? Vào rừng chẳng hạn. Em biết một chỗ rừng rậm lắm, không
ai tìm thấy đâu.” Cuối cùng cô ngước nhìn anh, giọng nghiêm túc.
Anh
thấy buồn cười với ý nghĩ trẻ con ấy.
“Không
được. Phải tìm cách khác. Không có em, anh chết mất. Mà em cũng có thể chết.
Chiến tranh không đùa với ai đâu...”
“Em
không sợ chết. Chỉ sợ xa anh”, cô trầm ngâm một lúc rồi nói: “Mà có chết cũng
chẳng sao. Em sẽ chờ anh dưới ấy!”
“Em
chỉ nói vớ vẩn. Chết thế nào được.”
“Em
nói thật mà. Nếu ra đi và không may phải chết, em sẽ chờ anh dưới ấy. Chờ suốt
đời. Em sẽ không yêu ai, không lấy ai cả. Anh không thích em làm thế sao?”
Anh
không đáp, chỉ ôm chặt cô hơn và hôn tới tấp khắp mặt cô.
Hôm
ấy là đêm cuối cùng trăng còn sáng. Trăng đang bị mây che khuất phía đằng tây.
Không hiểu sao đám mây có màu vàng bệch và ung ủng.
Một
tuần sau cô lên đường. Được nửa tháng thì có tin cô chết khi đoàn xe chở cô và
những cô gái như cô bị trúng bom lúc đang vượt cầu Hàm Rồng.
*
“Ông
nghĩ ngợi gì thế? Ăn đi kẻo nguội”. Bà nói bên bàn ăn sáng ngày hôm sau.
“Chẳng
nghĩ gì cả”, ông thờ ơ đáp. “Hôm nay Sa Pa nhiều mây quá.”
“Sa
Pa thì lúc nào chẳng vậy.”
“Ừ,
nhưng hôm nay nhiều hơn. Bà không thấy thế sao?”
“Tôi
thấy bình thường. Chỉ có ông không bình thường. Lại chuyện nàng kia, cái nàng
người Thượng xinh đẹp và hoang dã ấy chứ gì?”
Ông
lặng thinh rót đầy cốc rượu cho mình. Không hiểu đã là cốc thứ mấy. Đúng, ông
đang nghĩ về Bình, mối tình đầu ngắn ngủi, đẹp đẽ và đau đớn. Thực ra suốt mấy
mươi năm qua lúc nào ông cũng nghĩ đến nó. Chuyện chỉ có thế. Đơn giản mà thật
chua xót. Đúng như ông nói với bà: quen nhau ba tháng, yêu nhau còn ít hơn.
Thậm chí chưa có cả “chuyện ấy”. Thế mà với ông, nó là mối tình đẹp nhất, quan
trọng nhất, có lẽ còn duy nhất. Ông cảm thấy sau khi người yêu chết, mọi chuyện
trở nên vô nghĩa, cả chuyện sau này ông lấy vợ và sống “hạnh phúc” với bà trong
con mắt của nhiều người. Đúng, có thể ông quá đa cảm, có thể quá nâng niu, thi
vị hóa những kỷ niệm cũ, nhưng quả thực ông không thể nào quên dù nhiều lần đã
cố.
Hôm
qua ông ngồi gần như suốt ngày trên tảng đá nơi cô chủ động hẹn ông đến. Ông
ngồi, nhớ lại lần đầu nhìn thấy cô trong cái đêm mưa gió ấy. Khuôn mặt xinh đẹp
hớp hồn của cô. Đôi mắt to tròn. Bộ quần áo ướt mỏng dính bám sát cơ thể mảnh
mai với những đường cong tuyệt mỹ dẫu chưa phát triển hoàn toàn. Ông nhớ những
cái hôn, những trò đùa nghịch trẻ con. Nhớ lần cả hai đứa hốt hoảng giật bắn
người khi đang hôn nhau thì bất chợt ông bố về, may chưa kịp nhìn thấy. Tất
nhiên nhớ cả đêm trăng cuối cùng bên hồ, khi cô trần truồng trong vòng tay ông,
sẵn sàng hiến dâng mà ông đã ngu ngốc chối từ. Điều này đặc biệt làm ông day
dứt. Chắc lúc ấy cô xấu hổ và giận ông lắm. Ông thấy thương cho cô và cả cho
mình rằng chuyện ấy đã không xẩy ra. Mà cô thì chỉ mấy ngày sau đã chết.
“Chắc
hôm qua ông vào thăm gia đình cô ấy?” bà hỏi.
“Chẳng
còn ai nữa. Hai năm sau cái chết của con gái, ông bố người Thái chết vì ung
thư. Bà vợ người Kinh đưa hai con về quê cũ Hưng Yên. Thỉnh thoảng tôi có tới
thăm, nhưng điều ấy chẳng liên quan gì đến chuyện này”.
“Ông
chưa kể tôi nghe vì sao cô ấy chết?”
“Chưa
à? Đơn giản thôi. Xung phong ra trận. Chưa đánh đấm gì thì cả xe chở mấy chục
cô gái học sinh bị trúng bom ở Hàm Rồng. Chết hết. Đó là điều khủng khiếp nhất
của chiến tranh. Bà hài lòng chưa?”
“Ông
thô lỗ quá đấy!”
“Ừ,
tôi xin lỗi”.
“Mà
sao ông uống nhiều vậy? Từ nãy đến giờ tôi đếm được năm cốc rồi đấy.”
“Xin
lỗi. Đây là cốc cuối cùng”.
“Không
lẽ suốt mấy chục năm qua ông không thể nào quên được cô ấy?”
“Không.”
“Và
vẫn yêu cô ấy?”
“Vẫn.”
“Tức
là suốt chừng ấy năm ông sống với tôi mà luôn nghĩ đến người đàn bà khác?”
Không
chờ câu trả lời, bà đột ngột đứng dậy bỏ lên phòng.
“Tôi
xin lỗi bà. Không hẳn như vậy. Tôi cũng yêu bà. Nhưng đó là chuyện khác. Xin
lỗi!” Ông nói khi chỉ còn lại một mình, với tay lấy chai rượu.
Buổi
chiều hôm ấy họ trở về Hà Nội. Bà ngồi sau tay lái với lý do ông chưa tỉnh hẳn
rượu. Ông ngồi phía sau, lờ đờ nhìn ra ngoài. Vẫn cảnh cũ Sa Pa mây phủ trắng.
Bất chợt ông có cảm giác như đâu đó dưới những đám mây ẩm ướt kia có ai đang
đứng chờ ông. Chờ đã lâu. Chờ một cách mòn mỏi và đau đớn.
“Em
sẽ chờ anh dưới ấy”.
Cô
Bình ngày xưa của ông đã nói như thế. Con gái miền núi kỳ lắm. Đã nói nhất định
thế nào cũng làm.
Hà Nội, 21. 5. 2003
CHỜ
ĐỢI
Như
rất nhiều những cặp vợ chồng khác thời chiến tranh, họ lấy nhau, ở với nhau một
thời gian rồi mỗi người một nơi, chồng chiến trường, vợ hậu phương. Và cũng như
hầu hết những người vợ khác cùng cảnh ngộ, nữ nhân vật câu chuyện của chúng ta
phải chịu đựng tất cả những gì chiến tranh có thể bắt người phụ nữ chịu đựng.
Một mình làm lụng nuôi mình, nuôi con, nhớ thương và chờ đợi. Chờ lặng lẽ, tấm
tức, chờ cho tới khi cuối cùng chồng trở về, nếu may mắn còn sống để trở về,
hoặc tới khi có người mang đến tờ giấy báo tử. Cũng chẳng gì lạ. Bao đời nay
ngưòi phụ nữ Việt Nam vẫn phải chịu đựng như vậy. Ở nơi khác việc này có thể
mang một ý nghĩa quan trọng hơn, có màu sắc bi thương hơn, nhưng ở Việt Nam nó
là chuyện bình thường. Bình thường vì nó xẩy ra với quá nhiều người, quá thường
xuyên, đến mức dần dần bị xem gần như việc đương nhiên. Thật chua xót và cũng
thật đau đớn khi những bi kịch bị biến thành chuyện thường nhật, đến mức nhiều
người không nhận thấy cái giá rất đắt người phụ nữ Việt Nam phải giả cho hai
chữ chung thủy và đảm đang họ được nêu gương để cả thế giới khâm phục.
Nếu
không là hàng xóm trực tiếp chứng kiến những gì xẩy ra, bản thân tôi cũng khó
tin câu chuyện sắp kể là có thật, dù suy cho cùng nó vẫn chỉ là một trong vô số
những trường hợp tôi vừa nói, bình thường và ít ai chú ý.
*
Hai
người đều dân Hà Nội gốc và thuộc con nhà gia giáo, có học. Họ cưới nhau chưa
đầy một tháng thì cách mạng bùng nổ. Lúc đó anh vừa tốt nghiệp trường luật.
Theo dự định, bố anh, một luật sư nổi tiếng và giàu có, sẽ gửi anh sang Pháp
tập sự một thời gian rồi trở về làm việc ngay trong văn phòng ông, dưới sự che
chở của chính ông. Trước đó mọi việc với anh đều suôn sẻ và chắc sẽ tiếp tục
suôn sẻ như thế, nếu không có cách mạng.
Cách
mạng biến anh từ một trí thức cậu ấm thành người chiến sĩ trung đoàn Thủ đô,
rồi tháng Mười Hai năm 46 anh theo các đồng chí của mình lên chiến khu. Vợ anh
ở lại Hà Nội trông coi một cửa hàng nữ trang nhỏ thay cho bố mẹ đẻ đã già. Chị
xinh đẹp, nết na, được giáo dục theo lối phong kiến dù xuất thân từ một gia
đình buôn bán đã mấy đời nay. Học xong tú tài, chị an phận thủ thường sống lặng
lẽ với bố mẹ, chẳng có ước mơ, dự định nào cao xa ngoài mong ước yên bề gia
thất, và chị đã được toại nguyện với người chồng chị cho là lý tưởng. Lúc ấy
tất nhiên chị chưa thể hình dung nổi trong những năm dài phía trước cái gì đang
chờ đợi chị, hay chính xác hơn, chị phải chờ đợi cái gì.
Như
những người vợ khác có chồng đi bộ đội, tất nhiên chị chờ chồng. Chồng đi được
mấy tháng thì chị sinh con, con gái. Bố mẹ chị lần lượt qua đời chẳng bao lâu
sau đó, để lại hai mẹ con chị với cửa hàng ế ẩm thời chiến. Toàn bộ gia đình
nhà chồng, phần thất vọng vì có anh con trai duy nhất theo Việt Minh, phần vì
sợ chiến tranh nên đã sang Pháp sống từ trước. Họ có cho chị ít tiền gọi là
"giúp nuôi cháu". Từ đấy chị chẳng biết tin gì về họ. Còn tin chồng
thì thỉnh thoảng vẫn được các liên lạc từ chiến khu mang về. Thư cuối cùng nói
anh được phân công tác mới và do vậy từ nay không trực tiếp chiến đấu nữa. Chị
lấy thế làm mừng, hy vọng anh sẽ sống để trở về với vợ con khi chiến tranh kết
thúc.
Sau
chiến thắng ở Điện Biên, chị bắt đầu thấp thỏm chờ đợi, chờ hết ngày này sang
ngày khác. Mỗi lần nghe có tiếng chân ngoài ngõ là chị lại cuống lên, bỏ cả
việc đang làm chạy ra, để rồi lại thất vọng. Một hôm, khoảng hai tuần sau khi
bộ đội vào tiếp quản thủ đô, có người đến đưa cho chị tờ giấy, báo tin
"chồng chị đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ".
-
Hy sinh? Tức là chết? - cầm tờ giấy trên tay, chị bàng hoàng hồi lâu không nói
nên lời. - Nhưng chồng tôi có tham gia chiến đấu đâu mà hy sinh? Có lẽ các anh
nhầm...
-
Anh ấy hy sinh thế nào quả chúng tôi không biết, nhưng nhầm thì chắc chắn
không. Chúng tôi không được phép nhầm trong những việc thế này. - Mấy người kia
đáp.
-
Các anh có thể cho biết thêm tin tức về chồng tôi được không ?
-
Tiếc là không. Chúng tôi chỉ biết anh ấy là người rất tốt, rất dũng cảm, thông
minh, rất... Chị có thể tự hào về anh
ấy. Người ta đang làm thủ tục tặng thưởng huân chương cho chồng chị. Lần nữa
chúng tôi xin chân thành chia buồn với chị và gia đình. Tổ quốc, nhân dân sẽ
không bao giờ quên ơn những người đã đóng góp xương máu cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Chị hãy can đảm vượt lên mất mát, đau thương mà sống. Khó khăn,
tổ chức sẽ giúp đỡ. Xin chào chị.
Mấy
người kia ra đi, để chị đứng ngây giữa nhà với tờ giấy định mệnh trong tay. Có
lẽ do đã hiểu được ý nghĩa câu chuyện, con gái chị chạy lại ôm áo mẹ khóc. Chị
thì lúc này chưa khóc được, nhưng chưa tin hay chưa muốn tin những gì mới xẩy
ra.
Mấy
ngày sau, với sự hăng hái của một ngưòi đàn bà đang ấm ức muốn biết điều gì đó,
chị tìm đến những nơi chị nghĩ cần đến để hỏi thêm về cái chết của chồng. Nếu
không may đã hy sinh (là điều chị cảm thấy khó hiểu - anh ấy chẳng bảo đã
chuyển công tác và không trực tiếp chiến đấu nữa đấy sao?) thì hy sinh như thế
nào và ở đâu, để sau này còn tìm đến bốc mộ đưa về Hà Nội. Người ta không thể
không biết điều ấy. Vốn ít nói, hay xấu hổ và rút rát, bây giờ chị như người
khác hẳn, đôi khi còn to tiếng cả với người chị đến tìm hỏi. Tuy nhiên, ở đâu
chị cũng chỉ nhận được những câu trả lời chung chung như đã nghe ở nhà. Chị đòi
được gặp cấp cao nhất, và người ta cho chị gặp.
Đó
là một ngưòi đàn ông đứng tuổi gầy đét với nét mặt khắc khổ, giọng dễ nghe và
đặc biệt có nụ cười thật dễ mến. Chị hơi ngạc nhiên khi thấy ông ta không mặc
quân phục mà chỉ mặc bộ đại cán bình thường, còn mới nhưng hơi rộng so với khổ
người.
Ông
lắng nghe chị một cách rất chăm chú, không ngắt lời lần nào, chốc chốc lại gật
đầu tán thưởng. Được nụ cười dễ mến kia khích lệ, chị nói liền một mạch, nói
thẳng hết những điều chị nghĩ rồi ngồi im chờ được giải thích.
Ông
"cấp cao nhất" ấy không trả lời thẳng những câu hỏi của chị. Thay vào
đó, ông lịch sự mời chị uống nước, lựa lời an ủi thật tế nhị. Rồi ông thong thả
nói rất lâu về những thuận lợi và khó khăn của cách mạng trong giai đoạn mới,
thậm chí cả về tình hình thế giới, cứ như ông đang thuyết giảng tại một khóa
tập huấn chính trị nào đó.
Chị
thất vọng, lơ đãng ngồi nghe về những cuộc chiến đấu công khai và bí mật, về
việc trong chiến tranh nói riêng và hoạt động cách mạng nói chung điều gì cũng
có thể xẩy ra, thậm chí cả những điều không ai nghĩ tới. Ông còn nói về sự hy
sinh thầm lặng nào đó của người chiến sĩ, về lòng thủy chung và thái độ biết
kiên nhẫn chờ đợi của người vợ... Khi nói những lời này, không hiểu sao ông
dừng lại nhìn chị như ngụ ý điều gì.
"Không
lẽ ông ta muốn bảo mình tiếp tục chờ đợi, - chị giật mình tự hỏi. - Chờ đợi ai
và chờ đợi cái gì khi chính ông ta lúc nãy vừa nhắc lại rằng chồng mình đã hy
sinh?" Chị định hỏi nhưng nghĩ thế nào lại thôi.
Tiễn
khách ra tận cửa, ông kia đặt nhẹ bàn tay gầy gò của mình lên vai chị và nói
thêm, gần như y nguyên câu nói chị đã nghe từ mấy người nọ hôm mang giấy báo tử
đến nhà.
-
Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi công những người đã hy sinh cho cách mạng. Chị hãy can
đảm vượt lên đau thương, mất mát mà sống. Có gì khó khăn, chúng tôi sẽ giúp đỡ.
Xin chị biết cho, chúng tôi luôn bên cạnh chị.
Chị không thật hiểu ông ta nói thế nghĩa là gì.
Cả những lời lúc nãy cũng không hiểu. Lúc đầu chúng quả có làm lóe lên đôi chút
hy vọng, rằng biết đâu chồng chị có thể chưa chết nhưng vì lý do tế nhị nào đó
người ta không muốn chị biết sự thật. Hay anh ấy mất tích, đào ngũ, hoặc thậm
chí phản bội chạy sang phía giặc? Nếu vậy sao còn định tặng huân chương? Chị
biết xưa nay gia đình những kẻ phản bội bị phân biệt đối xử rất nặng.
Lễ
truy điệu và truy tặng huân chương cho chồng chị được tổ chức cùng một ngày, đủ
đại diện các cấp, rất long trọng và đúng nghi thức. Chị cảm thấy hình như có
chút phô trương cố ý.
Thất
vọng vì sau khi đã gặp "cấp cao nhất" mà chẳng biết thêm điều gì, chị
đành cam chịu không tìm hỏi nữa, dù chưa hết nghi hoặc. Rồi thời gian và cuộc
sống vất vả và những lo toan hàng ngày cũng làm chị nguôi ngoai dần. Chị lặng
lẽ sống cùng con gái như bao gia đình khác thời ấy. Với tư cách là vợ liệt sĩ,
đều đặn mỗi năm hai lần, vào dịp tết âm lịch và ngày 27 tháng Bảy, chị đón
khách đến thăm hỏi và tặng quà, trong đó có cả ông cấp cao với nụ cười dễ mến.
Không bao giờ ông quên động viên chị "vượt lên đau thương mất mát để tiếp
tục sống". Có lần ông còn nhắc đến cả hai tiếng chờ đợi. Nhưng chị đã
không còn băn khuăn vì nó.
Qua
mấy đợt cải tạo thương nghiệp, cửa hàng nữ trang nhỏ bé của chị vẫn được để yên
như theo lệnh ai đó từ trên xuống. Tuy nhiên, do khó khăn vật chất thời hậu
chiến và do cả lối sống mới xã hội chủ nghĩa khắc khổ, mặt hàng nữ trang trở
thành thứ xa xỉ không cần thiết. Chị mấy lần định chuyển sang nghề khác mà chưa
được. Không ít lúc chị lâm vào cảnh túng quẫn thực sự, và, thật kỳ lạ, những
lúc ấy chị thường gặp may bất ngờ. Thí dụ đang khi cửa hàng ế ẩm nhất thì bỗng
có ông khách đến mua với khối lượng lớn mà chẳng cần mặc cả. Hoặc đi trên
đường, chị bất ngờ nhặt được chiếc ví đựng đầy tiền. Vốn trung thực, chị mang
nộp đồn công an. Mấy ngày sau công an lại đem nó đến cho chị, bảo không tìm
được người mất, chị cứ giữ mà dùng.
Lúc
đầu còn cho là chuyện ngẫu nhiên, nhưng sau nhiều lần, chị đâm nghi. Chị chợt
nhớ những lời bóng gió "chúng tôi luôn ở bên chị và giúp đỡ khi cần thiết"
người ta đã nói. Nếu vậy sao không đàng hoàng mà giúp lại phải dùng đến cách
lén lút đáng ngờ ấy? Chị nhớ có lần đi chợ về, thấy một người đàn ông đánh rơi
cái gì đó xuống đường, chị cúi nhặt lên. Lại chiếc ví đựng tiền. Chị vội vã kêu
to, đạp xe theo người kia để trả lại, nhưng anh ta cố tình không nghe rồi phóng
xe mất hút như bị ma đuổi.
Chị
biết ơn những người giúp đỡ chị, tất nhiên, nhưng không thích và thực sự không
muốn được tiếp tục giúp theo cách này. Nó có cái gì đấy bí ẩn, mờ ám và đáng
sợ. Nhưng bất chấp ý muốn của chị, thỉnh thoảng chị vẫn có khách sộp, thỉnh
thoảng vẫn nhặt được tiền. Có điều, chị không còn mang lên đồn công an nữa.
Năm
tháng cứ thế lặng lẽ trôi qua. Chị cũng lặng lẽ hòa mình vào nhịp sống chung
của toàn xã hội. Các kỷ niệm xưa cứ phai dần, phai dần. Thực tế nghiệt ngã bắt
người ta phải sống bằng hiện tại, và chị đang sống với nó. Tự chị cũng lấy làm
ngạc nhiên rằng càng ngày chị càng ít nghĩ về chồng. Bây giờ chị thực sự tin
anh đã hy sinh và đã thôi chờ đợi. Điều này làm chị thanh thản. Thế mà đúng lúc
chị tưởng đang được hưởng sự thanh thản ấy thì người ta lại đến để nhắc chị về
anh, về cách mạng với những hy sinh cao cả mà nó đòi hỏi ở mọi người. Lần nữa
người ta lại bóng gió nhắc đến hai chữ chờ đợi...
Một
hôm, chị khó chịu hỏi thẳng ông "cán bộ cấp cao nhất" khi ông đến
thăm và tặng quà như thường lệ:
-
Có chuyện gì các anh cứ cho tôi biết hết cả đi, đừng úp mở mãi như thế. Có phải
chồng tôi chưa chết và đang làm một nhiệm vụ gì đấy bí mật, đến mức các anh còn
giấu cả tôi phải không?
Ông
kia ngồi im hồi lâu, mãi đến khi đứng dậy ra về mới nói, giọng buồn buồn:
-
Không, chồng chị đã hy sinh. Tôi khẳng định với chị điều này. Nhưng... Chào
chị, tôi về.
Lúc
con gái chị vừa học hết phổ thông, bỗng bà mẹ chồng từ Pháp về thăm quê trong
một đoàn Việt Kiều yêu nước. Bà cụ, lúc này đã già và yếu lắm rồi, khẩn khoản
xin chị cho mang cháu sang Pháp học đại học để sống cùng bà cho đỡ buồn vì ông
chồng bà đã chết. Thoạt đầu, nghĩ đến việc phải xa con, chị hoảng sợ, vội vàng
từ chối. Nhưng trước những lời van vỉ không phải không có lý của mẹ chồng và
cũng vì tương lai của con, dần dần chị xiêu lòng. Thời ấy được đi nước ngoài
khó lắm, chị biết thế, nên mặc dù đồng ý, chị vẫn thầm hy vọng người ta không
cho nó đi. Thế mà nó được đi. Tất nhiên trước đó ông "cán bộ cấp cao"
có đến gặp chị để hỏi chuyện này, và chị gật đầu.
Vậy
là chỉ còn lại mình chị. Năm tháng tiếp tục trôi qua, lặng lẽ như chính cuộc
đời cô đơn của chị. Có lẽ nó vẫn tiếp tục trôi qua như thế nếu không có một
người đàn ông xen vào. Đó là ông một cán bộ miền nam tập kết góa vợ, trạc tuổi
chị, lúc này đã ngoài bốn mươi. Chị làm quen với ông ở nhà một người bạn. Có
thể ngẫu nhiên, cũng có thể do người bạn kia chủ ý sắp xếp. Họ cảm tình với
nhau, thân nhau, và sau một thời gian ngắn, ông này "xin được cưới chị làm
vợ, nếu chị không có gì phản đối". Ông nói nguyên văn như vậy. Chị thầm
cười cách tỏ tình kiểu hành chính của ông, và đã không "không có gì phản
đối". Một cuộc sống mới dường như đang mở ra trước chị. Thế mà bỗng nhiên
con người vừa hăm hở muốn tổ chức lễ cưới càng sớm càng tốt ấy lại cố tình né
tránh chị. Cảm thấy ít nhiều bị xúc phạm, chị quyết định hỏi cho ra nhẽ. Vất vả
lắm chị mới tìm gặp được ông ta và hỏi luôn:
-
Có người không cho anh lấy tôi à?
Ông
kia không đáp, chỉ buồn rầu nhìn chị như người có lỗi. Thế là chị hiểu. Mối
nghi ngờ lờ mờ trước đó đã được khẳng định.
Ngay
hôm sau chị đến gặp ông "cán bộ cao cấp". Ông này dường như không
ngạc nhiên khi thấy tự chị tìm đến, dù đây là lần đầu chị làm thế sau bao nhiêu
năm.
-
Tại sao các ông không cho tôi lấy chồng ?
-
Chị bình tĩnh ngồi xuống, uống với tôi chén nước đã. - Ông kia thong thả đáp. -
Chị biết đấy, chúng tôi không có quyền và không thể ngăn ai đó lấy vợ lấy
chồng. Chuyện riêng tư mà...
-
Nhưng các ông đã không cho anh ấy lấy tôi. Cũng thế cả.
-
Anh ấy bảo với chị thế à? Mặc dù tôi chưa biết anh ấy là ai.
-
Không, anh ấy không nói thế, nhưng...
-
Chị thấy chưa, - đến lượt ông cán bộ ngắt lời chị. - Chúng tôi chỉ mong hạnh
phúc cho chị, người vợ thủy chung của một chiến sĩ cách mạng, một phụ nữ...
-
Ông nói thủy chung. Suốt đời tôi phải thủy chung với chồng tôi, người đã chết
cách đây hai mươi năm hay sao?
Chị
vừa nói vừa khóc rồi bỏ chạy ra ngoài. Chị cảm thấy căm ghét con người tốt
bụng, bí ẩn và đáng sợ này. Suốt đêm hôm ấy chị nằm tấm tức mãi. Chị trách ông
miền nam hèn, trách ông cán bộ độc ác, trách chồng sớm hy sinh, nếu thực sự đã
hy sinh, để chị phải suốt đời đau khổ.
Mấy
ngày sau, chị lại "tình cờ" nhặt được ví tiền. Không thèm giở ra xem,
chị giận dữ vứt nó vào thùng rác bên cạnh.
Chưa
đầy nửa năm, lần nữa tình yêu lại đến với chị. Hay đúng hơn, chị chủ động tìm
nó. Vốn xinh đẹp, dẫu đã có tuổi, lại dịu dàng, tế nhị, đối với chị chuyện này
không khó. Trong chị, sự ấm ức, chua xót của người đàn bà bị xúc phạm tự lúc
nào dần dần biến thành sự phản kháng tự nhiên, gần như thách thức. Chị muốn
được tự quyết định đời mình và sẵn sàng đấu tranh vì nó.
Người
chị yêu và cũng rất yêu chị lần này là một nhà khoa học không hiểu sao bốn mươi
lăm tuổi vẫn chưa vợ. Anh cận thị nặng, ít nói và thường hỏi những câu rất buồn
cười. Chị thấy yêu yêu cặp kính dày cộp và những câu hỏi ngô nghê ấy. Anh sống
độc thân trong căn phòng tập thể mười hai mét vuông, sách vở chiếm hơn nửa. Ấy
là chị nghe nói vậy chứ chưa bao giờ đến nhà anh, và cũng không cho anh đến nhà
mình.
Chị
đã có kinh nghiệm và rất đề phòng. Hai người chỉ hẹn gặp nhau trong công viên
hay một hàng kem nào đó. Thường chỉ vào buổi tối. Chị khéo léo che dấu tình yêu
một thời gian khá lâu, cho đến một hôm, khi đang đi dạo cùng anh bên bờ hồ
Thuyền Quang, linh tính mách chị hình như đang có ai theo dõi phía sau. Để kiểm
tra, chị kéo anh ngồi xuống quán nước bên đường. Người kia cũng dừng lại, vờ lơ
đãng nhìn quanh. Họ đi, anh ta cũng đi theo. Chị lo sợ, bảo nhà khoa học ngay
sáng hôm sau xuống Hải Phòng, quê ngoại chị, và hai người sẽ làm lễ cưới ở đó.
Anh kia không hiểu, chỉ lắc đầu cười chị có những ý nghĩ kỳ cục.
Mấy
hôm sau, đến lượt nhà khoa học người yêu của chị tìm cách lánh mặt. Anh dài
dòng viện đủ lý do thanh minh nhưng chị không muốn nghe. Chị cũng chẳng buồn
tìm gặp để chất vấn ông "cán bộ cấp cao" kia nữa. Những năm tiếp theo
chị còn vài lần thử tìm hạnh phúc cho mình nhưng lần nào cũng không thành do có
sự can thiệp của bàn tay vô hình nào đó chị biết mà chẳng thể làm gì được. Cuối
cùng, hoàn toàn mệt mỏi và thất vọng, chị đầu hàng buông theo số phận, nhẫn
nhục sống trong đau khổ và "chờ đợi" như người ta mong muốn ở chị.
Chờ đợi cái không bao giờ đến.
Nhưng
chị nhầm...
*
Cuối
tháng Năm 1975, có một người đàn ông đến tìm chị, lúc này được gọi là bà. Từ
lâu tiếng chân người lạ ngoài cửa đã không còn làm bà chú ý. Thui thủi một
mình, bà sống vật vờ như chiếc bóng, như con sâu bị dẫm dưới đế giày không còn
ngoi lên được. Có thể vì thế mà bà trông già hơn tuổi, thân hình khô đét, mái
tóc bạc gần hết, và trên mặt có nhiều, rất nhiều những nếp nhăn.
-
Ai cần gì thì vào đi, cửa mở, - bà thờ ơ nói.
Người
ấy là chồng bà. Cả hai đứng lặng nhìn nhau hồi lâu. Họ đã nhận ra nhau, mỗi
người đeo đuổi những ý nghĩ riêng và không ai dám lên tiếng trước. Cuối cùng
ông nói, khẽ đến mức chính ông cũng không nghe rõ:
-
Xin bà hãy tha lỗi cho tôi. Tôi biết bà phải chịu nhiều đau khổ. Tôi thương bà
lắm nhưng chẳng giúp được bà điều gì. Bà biết đấy, tôi hoạt động bí mật trong
lòng địch. Hoàn cảnh bắt buộc phải thế. Tổ chức cũng rất thương bà, nhưng...
-
Không, ông đã lừa dối tôi. Tổ chức của ông cũng lừa dối tôi, hủy hoại cả cuộc
đời tôi. Trời ơi, sao các ông ác thế! Tôi có tội tình gì mà các ông nỡ làm tôi
khổ thế! - Đôi mắt bà từ nãy đến giờ nhìn trân trân, ráo hoảnh bỗng dàn dụa. Bà
khóc. Khóc to mà không sợ hàng xóm nghe thấy.
Chồng
bà đứng im, mắt cũng rưng rưng. Ông hiểu. Ông cứ để bà khóc, chừng nào còn nước
mắt.
Rồi
bà nhìn thẳng vào mắt ông, nói một thôi không nghỉ những gì bị nén trong lòng
bao năm nay. Trông bà lúc ấy thật dễ sợ.
-
Các ông không chỉ lừa dối mà còn coi thường tôi, khinh tôi. Tại sao người ta
không cho tôi biết ông còn sống và đang làm cái việc ông vừa nói? Sợ tôi không
giữ được bí mật sao? Sợ tôi tố giác với địch sao? Ông bảo người ta thương tôi.
Thương kiểu ấy à? Họ cứ bóng gió bảo tôi chờ đợi. Chờ đợi ai? Chờ đợi cái gì và
bao lâu? Ông tưởng phụ nữ, cả khi trung
hậu đảm đang và thủy chung như họ nghĩ, có thể suốt đời chịu đựng được điều ấy
sao? Nếu biết ông chưa chết, tôi sẵn
sàng chờ ông, chờ ba mươi năm, năm mươi năm, chờ cho đến khi tôi chết mà không
kêu một lời nào. Đằng này...
-
Thì bây giờ tôi đã về đây với bà.- Ông rụt rè cắt ngang. - Bà chỉ phải chờ có
ba mươi năm.
-
Nhưng ba mươi năm qua không phải chờ đợi mà là ba mươi năm đau khổ, vì không
biết phải chờ cái gì. Đúng hơn, đó là ba mươi năm không được chờ đợi. Các ông
bảo các ông chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân. Tôi không là nhân dân sao? Sao
các ông không nghĩ tới hạnh phúc của tôi?
-
Thì nào tôi nào có sướng gì hơn bà. Tất cả tại chiến tranh.
Bà
im lặng, lấy khăn lau nước mắt.
-
Vâng, tôi biết. Ông cũng khổ, có thể còn khổ hơn tôi. Lại nguy hiểm nữa, nhưng
ông không nghĩ rằng cả tôi và ông sẽ đỡ khổ hơn nếu tôi được biết sự thật?
-
Vâng, có thể bà nói đúng, nhưng đây là nguyên tắc của ngành tình báo. Không ai
được phép biết tôi còn sống ngoài chính bản thân tôi, ông bộ trưởng và lãnh đạo
trực tiếp của tôi...
-
Cái ông mặc áo đại cán, người gầy gầy?
-
Vâng. Ông ấy là thủ trưởng ngành, một vị tướng.
-
Một vị tướng thật đáng yêu!
Chồng
bà lờ như không nghe lời nhận xét châm chọc của vợ. Người ta đã báo ông biết
hết mọi chuyện.
Sau
đó, bình tĩnh trở lại, hai người ngồi nói chuyện suốt đêm. Không biết họ nói
với nhau những gì, chỉ thấy hôm sau ông chồng lại xách túi trở về cơ quan. Ở
đấy, người ta bố trí cho ông một căn phòng vừa làm việc vừa làm nơi ở, với một
chiến sĩ cần vụ lo việc nấu ăn, giặt dũ cho ông. It lâu sau ông xin nghỉ hưu vì
lý do sức khỏe, dù mới được phong hàm đại tá. Còn bà thì vẫn ở nhà cũ của mình,
tiếp tục sống như bao năm nay đã sống. Thỉnh thoảng ông có đến thăm bà, lần nào
cũng mang theo những món quà nho nhỏ mà ông biết bà rất thích. Ông cư xử, ăn
nói như một người khách và cũng được bà đáp lại theo cách ấy. Có thể thân mật
hơn chút ít, đại khái như cách các cặp vợ chồng ly thân vẫn đối xử với nhau.
Còn vị tướng nọ thì nghe nói một lần tới thăm, bà không tiếp, sau chẳng thấy
đến nữa.
Cứ
thế thời gian trôi qua, hết năm này đến năm khác. Bây giờ cả hai người đã là
những cụ già đáng kính ở tuổi trên dưới tám mươi. Các cụ vẫn mạnh khỏe, minh
mẫn, và thỉnh thoảng vẫn gặp nhau. Có lần người ta còn thấy hai cụ cùng chống
gậy dạo quanh hồ Hoàn Kiếm. Nhưng những lần như thế hiếm lắm.
*
Như
đã nói, tôi ngẫu nhiên là hàng xóm của cụ bà. Thỉnh thoảng tôi được cụ nhờ đến
nhà cụ ông nhắn tin hay mang chút quà vặt vãnh nào đó. Đôi khi chỉ là tấm bưu
thiếp hay một bông hoa. Một chứ không phải cả bó, mà lại luôn là hoa hồng màu
trắng. Vì sao tôi không biết và cũng chẳng bao giờ hỏi cụ.
Có
lần tôi đùa nói:
-
Cụ ghê thật. Thù dai thế. Cháu phục cụ đấy.
Cụ
nhìn tôi không đáp. Tôi cứ tưởng sẽ bị cụ mắng. Nhưng không, cụ chỉ cười. Một
nụ cười móm thật đáng yêu.
-
Cậu mới lớn, lại đàn ông, hiểu gì đàn bà mà
đòi xen vào.
Hà
Nội, 21. 12. 2000
BIỂN
NHA TRANG
-
Tôi vừa gặp ông lão nhà tôi đấy, cô ạ.
Người
đàn bà ngồi bên không đáp. Mụ đang bận nhặt mớ rau muống già cho bữa cơm chiều.
Qua ô cửa hẹp của căn phòng gác hai tường tróc loang lổ, những tia nắng vàng
vọt yếu ớt rọi vào, khiến mụ vốn mắt kém, cứ
nhầm lẫn lá xanh với lá vàng. Vả lại cái câu nói ấy mụ nghe mãi rồi, đến
chán không muốn nghe nữa. “Rõ lẩm cẩm. Chết thì chết quách đi cho xong, lại còn
gặp với chả không. Cứ như uyên ương đang yêu nhau không bằng”.
-
Rồi sao nữa? Chắc hai cụ hú hí với nhau thích lắm nhỉ? - cuối cùng mụ lên lên
tiếng châm chọc.
Mụ
ít học, thô lỗ và tham lam, nhưng không hẳn là người độc ác. Hoàn cảnh bắt mụ
thành người như vậy. Mụ bán rau ở phố bên, có thằng con nghiện hút và lão chồng
vừa vũ phu vừa nát rượu. Mụ được thuê trông coi bà lão hơn bảy mươi tuổi đang
ốm nằm chờ chết trên giường bên cạnh. Nghe nói bà lão bị ung thư gì đó, ở bệnh
viện hơn hai tháng, sống bằng đủ các loại chai lọ và ống nhựa, sau thấy tốn kém
quá mà chẳng ích gì (riêng tiền giường đã hai trăm nghìn đồng một ngày), người
ta đưa bà về nhà. Cứ tưởng rút mớ chai lọ và dây dợ kia là bà lão chết ngay,
thế mà vẫn cứ sống, nghĩa là nằm bất động một chỗ, ăn uống đái ỉa một chỗ, và
cũng ít khi tỉnh táo lại nói những câu ngớ ngẩn như lúc nãy.
Ở
nhà, người ta đã lo sẵn mọi thứ cho đám tang, phân công cụ thể người nào làm
việc gì, vậy mà mãi người bệnh chẳng chịu chết cho, khổ cả mình lẫn người khác.
Lúc đầu còn có người đến thăm hỏi, chăm sóc, sau rồi thưa dần, thưa dần, cuối
cùng còn lại mụ trông thuê này.
Bà
lão chỉ có một anh con trai năm nay ngoài bốn mươi, vợ bỏ mang con đi theo. Còn
chồng bà thì chết cách đây những ba chục năm. Anh con ở nhà trông mẹ được đúng
một tuần thì bỏ đi làm, phần do công việc, phần
quá mỏi mệt vì chờ đợi, vì căn phòng chật hẹp, nặng nề và đầy mùi hôi
thối. Anh ta đảo qua nhà mỗi ngày hai lần vào buổi trưa và chập tối, mà cũng
chỉ mấy phút rồi đi ngủ đâu đấy ở nhà bạn, viện cớ bận. Mọi việc khoán trắng
cho mụ bán rau. Tuy nhiên, mụ chẳng phải làm gì nhiều. Cái gọi là vệ sinh mụ
chỉ làm qua quít, đủ để khỏi đến mức không chịu nổi. Còn ăn uống thì chẳng lo
vì bà lão gần như không có nhu cầu. Quan trọng nhất là mụ phải luôn có mặt ở
đây cả ngày lẫn đêm để khi chết thì gọi điện báo ngay cho anh con. Thế mà mụ
vẫn bỏ đi lo công chuyện riêng một vài giờ là thường. Lúc đầu mụ được thuê hai
mươi lăm nghìn đồng một ngày, sau bắt bí lên bốn mươi nghìn mà anh con vẫn phải
chịu. Mụ mừng có được việc làm nhàn nhiều tiền, lại khỏi bị ông chồng say đánh
đập, miễn là đều đặn đưa tiền cho hắn uống rượu. Thành ra mụ là người duy nhất
mong bà lão sống lâu. Càng lâu càng tốt, nhưng không được khỏi bệnh để mụ mất
việc.
-
Tôi vừa gặp ông nhà tôi đấy, cô ạ, - bà lão lại nói, không hướng vào người
nghe. Đây là lúc hiếm hoi bà tỉnh để có thể nói được, dù rất khó khăn.
-
Thôi, cụ im đi cho khỏe. - Mụ trông thuê thô lỗ đáp. - Ông ấy chết từ đời tám
hoánh nào, gặp quái được. Chỉ giỏi phịa.
-
Không, tôi gặp thật mà. Gặp cái thời chúng tôi mới quen nhau ấy.
-
Thế ông ấy nói gì với cụ?
-
Chẳng nói gì cả. Chỉ lặng lẽ cởi quần áo của tôi thôi...
-
Rõ dơ! - mụ hàng rau nhăn mặt. - Già chết đến đít mà còn đem chuyện khỉ ra kể.
- Mụ cũng không hiểu vì sao tự nhiên mụ cáu kỉnh như vậy với bà già tội nghiệp
đáng lẽ mụ phải mang ơn. Mụ còn trẻ, to béo, đang độ xồn xồn mà anh chồng nghiện ngập của mụ chẳng
được tích sự gì.- Rồi sau thì sao? Chắc thích lắm nhỉ?
Bà
lão không nói nữa, có thể vì phật ý. Cũng có thể vì lại thiếp đi hoặc đang chìm
vào cái quá khứ xa xăm kia, khi chồng bà lần đầu làm cái việc bị mụ bán rau cho
là “dơ” ấy.
*
Thời
mới hòa bình, một đơn vị bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc có đóng quân chừng một
tháng ở làng Vĩnh Yên bên Kênh Nhà Lê. Cái làng nông thôn yên ả ấy bỗng một hôm
trở nên sôi động hẳn lên khi đang đêm dân quân giải về một cô gái người làng và
một anh bộ đội của đơn vị trên. Họ bị bắt quả tang “đang ngồi cạnh nhau trên Gò
Chùa vào lúc mười một giờ rưỡi!”
Không
biết anh kia thế nào, chứ cô gái thì bị cả tổ chức thanh niên và phụ nữ kiểm
điểm suốt hai đêm liền. “Chúng tôi yêu nhau và không làm điều gì xấu cả”, cô
yếu ớt cãi lại. “Yêu nhau sao không xin phép đoàn thể? Không làm gì sao phải ra
tận Gò Chùa, lại vào lúc đêm hôm khuya khoắt? Nhất định phải có chuyên!” Cô
chẳng biết nói gì thêm, mà có nói cũng không ai tin, nhưng quả đúng họ yêu nhau
và tối ấy họ “không làm điều gì xấu” thật. Thậm chí không dám cầm tay nhau. Còn
cái “chuyện dơ” kia thì mãi sau này mới xẩy ra, vào đêm cuối cùng trước khi đơn
vị bộ đội lên đường, cũng ở Gò Chùa nhưng may không bị dân quân bắt gặp.
Đêm
ấy hầu như chỉ mình anh nói, còn cô bẽn lẽn ngồi bên say sưa lắng nghe. Anh kể
nhiều về quê hương anh ở Nha Trang với bãi biển cát trắng mịn, “còn nước thì
xanh biếc, em tin không, xanh trong đến mức có thể nhìn thấy cả từng viên sỏi
sâu hàng chục mét dưới đáy!” Tất nhiên cô tin và hình dung bãi biển Nha Trang
của anh rất đẹp, đẹp hơn cả tờ tranh họa báo cắt dán trên tường nhà cô. “Hai
năm nữa, sau tổng tuyển cử, anh sẽ đưa em về làm dâu quê anh và chúng ta sẽ tắm
trên bãi biển ấy. Không phải mặc cả quần áo mà tắm như ở đây đâu. Mặc áo bơi
cơ. Em thích không?” “Thích. Nhưng thế thì ngượng lắm”.
Quê
cô cũng có biển, chỉ cách làng ba cây số về phía dưới, nước cũng trong nhưng
không xanh, còn bãi biển thì bẩn, đầy rác rưởi, phân trâu bò và phân người. Cô
chưa tắm biển bao giờ, mặc áo bơi mà tắm lại càng không. Cô ngượng, nhưng từ đó
bắt đầu thầm mơ ước có ngày được cùng anh tắm ở bãi biển Nha Trang thần tiên
ấy.
Trong
đầu óc chất phác của cô gái nông thôn chưa bao giờ đi xa quá phố huyện này đã
hình thành ngày càng rõ nét bãi biển ước mơ của cô, với những hàng dừa cao vút
tận trời, với nước biển xanh như màu mực viết thằng bé nhà bên. Trời cũng xanh
như thế. Nắng chói chang nhưng không gắt. Còn xa xa là chiếc cầu vồng rực rỡ đủ
bảy màu như trong chuyện cổ tích. Cô biết trời nắng không có cầu vồng, thế mà
lần nào nhắm mắt tưởng tượng, không hiểu sao cô vẫn thấy nó. Còn trên biển thì
chẳng có ai ngoài cô và anh đang tắm, hạnh phúc như hoàng tử và công chúa. Chỉ
những con cá nhỏ đủ màu lượn lờ quanh họ. Ớớc mơ ấy trở nên rất hiện thực, rất
gần, tưởng có thể chạm tay vào được, và cô tin chẳng bao lâu nữa cô sẽ trở
thành công chúa sống bên hoàng tử của mình trên bãi biển Nha Trang.
Tuy
nhiên, trong khi chờ được nếm mùi hạnh phúc trên thiên đường, cô phải trải qua
không ít khổ đau nơi địa ngục. Số là chỉ mấy tháng sau, cô bị đem ra cuộc họp
chung của cả làng để mọi người xỉ vả về tội chửa hoang. Thời ấy tội này lớn
lắm, trên tội ăn cắp, dưới tội giết người. Giết người, ăn cắp vào tù là yên,
còn chửa hoang là vết nhục cả đời, của mình và cha mẹ, là cái gương xấu để
người ta đem ra răn đe các cô gái trẻ. Lúc này người yêu cô đang ở tận Tây Bắc
xa đến cả nghìn cây số.
Hay
tin, anh viết ngay cho ủy ban xã một bức thư có xác nhận của đơn vị, khẳng định
họ thực sự yêu nhau và nay mai anh sẽ xin về phép làm lễ cưới. Làng không chịu,
cứ kiểm điểm, cứ phạt, ít ra về tội dám “ăn cơm trước kẻng” “không phù hợp đạo
đức cách mạng và con người mới xã hội chủ nghĩa!” Mức phạt là tạ nếp và con lợn
sáu mươi cân để tạ tội dân làng. Thế là nhẹ, chứ thời trước còn bị đánh đòn,
cắt tóc bôi vôi và phải luôn đeo hai chữ chửa hoang trước bụng. “May cho mày
đấy. Không nhờ cách mạng thì còn khốn!”
Cô
chỉ thương bà mẹ già phải mang nhục vì mình (bố cô chết từ lâu trước đó), tiếc
tạ nếp cùng con lợn, chứ phần cô, cô dửng dưng không sợ gì. Cô còn cố tình ưỡn
cái bụng chửa hoang trước mặt mọi người. Điều này suýt nữa khiến người ta tăng
gấp đôi mức phạt. Cô tin ở anh và giấc mơ biển Nha Trang của hai người. Tiếc
rằng anh, vì nhiều lý do, mãi gần một năm sau mới về được để cưới cô làm vợ,
lúc đứa con đã ra đời nhưng cũng chết ngay sau đó. Anh đưa cô lên Điện Biên làm
cấp dưỡng trong đơn vị mình. Họ sống ở đấy cho đến năm 1970 khi anh được chuyển
về Hà Nội và phân căn phòng mười tám mét ở khu phố cổ hiện nay.
Vậy
là giấc mơ tắm biển Nha Trang của họ vẫn chưa thực hiện được. Họ hẹn chờ ngày
đất nước thống nhất. Dẫu lúc ấy có thể đã già nhưng họ vẫn sẽ là công chúa và
hoàng tử cùng nhau bơi trong làn nước xanh biếc có những con cá đủ màu vây
quanh, có mặt trời ấm áp và cả chiếc cầu vồng rực rỡ như cô mong muốn. Họ sống
vì nhau và vì ước mơ lãng mạn đó.
Tiếc
thay anh không sống được đến năm bảy lăm để đưa vợ về thăm quê mình. Anh chết
vào mùa đông 1972 vì một cơn nhồi máu cơ tim. Người con trai cô sinh ở Điện
Biên lúc này đã lớn. Nếu muốn nó có thể đưa cô đi, hoặc cô tự đi một mình cũng
được, nhưng một mình thì cô không muốn vì điều ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Trong
ước mơ của cô luôn có hai người, nay một người không còn, do vậy cũng không còn
ước mơ ấy nữa. Thực sự cô cũng không còn sống với đúng nghĩa của nó. Cô trở nên
thờ ơ với mọi chuyện. Có thể vì thế mà cô đã không dạy dỗ đứa con duy nhất của
họ đến nơi đến chốn chăng? Cô yêu con, tất nhiên, nhưng tình yêu ấy chẳng thấm
gì so với tình yêu vợ chồng cô cùng mơ ước biển Nha Trang của họ...
*
-
Tôi lại gặp ông nhà tôi đấy, cô ạ, - bà lão lại khẽ cựa mình. Chắc bà không
biết và cũng chẳng muốn biết người đang nghe là ai.
Mụ
hàng rau lúc này đang ăn vụng sữa của người bệnh, giật mình, vội chùi mép, nhẹ
nhàng đặt hộp sữa đặc vào chỗ cũ. Mụ khó chịu, nói:
-
Gặp gì mà nhiều thế. Lại cởi quần nhau nữa chứ gì?
-
Không. Tôi và ông ấy bay trên biển Nha Trang...
-
Còn vào tận đấy để bay lượn với nhau! Khéo vẽ chuyện. Thích chứ? - mụ mỉa mai,
thầm hình dung bộ xương già khô héo đang chờ chết trên giường bay như thế nào
giữa bao la trời biển.
-
Thích lắm. Biển đẹp lắm. Chỉ toàn màu xanh và màu hồng. Cả đàn cá cũng bay với
chúng tôi. Chúng tôi bay, bay mãi, cuối cùng ông ấy đỡ tôi ngồi lên chiếc cầu
vồng sát chân trời. Sợ, nhưng mà thích lắm. Đẹp lắm cô ạ...
“Bà
lão này điên mẹ mất rồi,” mụ kia lẩm bẩm, rồi yên tâm cầm hộp sữa mút chùn
chụt.
Mặt
trời còn lâu mới lặn, nhưng căn phòng nhỏ với chiếc cửa sổ duy nhất ngoảnh ra
phố không đủ ánh sáng. Tiếng người rao tào phớ từ dưới đường vọng lên nghe vừa
buồn cười vừa não ruột. Mụ trông thuê bật đèn, đang định bỏ ra ngoài thì bà lão
khẽ gọi:
-
Này cô.
-
Lại chuyện gì nữa? Tè ra quần à? Chốc nữa thay luôn thể. - Mụ xẳng giọng đáp.
-
Không, tôi muốn nhờ cô việc này.
-
Việc gì?
-
Cô làm ơn lấy hộ tôi chiếc lọ trên bàn thờ.
-
Lọ nào?
-
Chiếc lọ sứ màu đen có nắp ấy. Cô đưa nó lại đây cho tôi.
Không
biết bà lão cần nó làm gì, nhưng tò mò, mụ cũng làm theo. Chiếc lọ to bằng quả
dưa hấu và khá nặng. Nghi bên trong có thể có đồ quí, mụ mở nắp cho tay vào sờ
nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy tờ vàng mã và lưng lọ tro không mịn lắm.
-
Cái quái gì thế này? - mụ hỏi khi trao chiếc lọ cho bà lão. Mụ còn ngạc nhiên
hơn khi thấy bà lão ôm chặt nó vào ngực. Trên khuôn mặt nhăn nheo xuất hiện hai
giọt nước mắt lớn màu đục. Bà vừa đưa cả hai tay xoa xoa khắp chiếc lọ, vừa mấp
máy môi nói gì đó mụ nghe không rõ. Rồi bà mở nắp lọ lấy ra một nhúm tro, áp
vào miệng. Sợ chiếc lọ nặng có thể làm bà lão nghẹt thở, vẫn chưa hiểu chuyện
gì đang xẩy ra, mụ kia vội dằng lấy nó, đặt lên bàn thờ như cũ.
-
Bây giờ cô muốn đi đâu thì đi, - bà lão
yếu ớt nói rồi lại nằm thiếp đi, nét mặt thư thái.
...
Đó là chiếc lọ đựng ít tro hài cốt của chồng bà. Không biết trước đó hai người
có dặn dò gì nhau không, nhưng khi chồng chết, bà lão khăng khăng đòi thiêu
xác. Thời ấy chưa có lò thiêu hiện đại như bây giờ ên người ta phải tẩm xăng mà
đốt, cái gì chưa cháy hết thì đem dã nhỏ. Sau đó bà còn bắt cho một ít tro vào
lọ để lên bàn thờ. Mọi người phản đối kịch liệt, đặc biệt anh con, với lý do
như thế là điềm gở, có thể mang tai họa cho cả nhà. Cuối cùng mọi người vẫn
phải nghe theo. Suốt mấy chục năm nay ngày nào bà cũng thắp hương, thì thầm trò
chuyện với chồng, lần nào cũng không quên chạm tay vào chiếc lọ.
Một
hôm có ông khách đến chơi. Vừa bước vào nhà ông ta đã nhíu mũi đưa mắt nhìn
quanh: “Tôi thấy trong nhà này có sự hiện diện của người chết!” Bà lặng lẽ chỉ
tay vào chiếc lọ trên bàn thờ. Ông kia hiểu, khuyên bà nên đem chôn thành mộ.
Anh con nhân chuyện này càng thúc ép mẹ nhưng bà một mực không chịu. Mọi người
bảo chính vì thế mà gia đình bà sa sút. Đứa con trai không hư nhưng cũng chẳng
ngoan, công việc làm ăn trầy trật và đường vợ con chẳng ra gì. Bản thân bà thì
ốm đau luôn, nhưng bà không tin tất cả đều do chiếc lọ ấy, và cứ bắt giữ nó
trong nhà cho đến tận bây giờ.
*
Sáu
giờ tối anh con trai mới đến thăm mẹ. Mụ trông thuê vẫn đi đâu chưa về. Anh ta gắt om lên rồi quay sang hỏi,
vồn vã một cách thiếu tự nhiên:
-
Mẹ có đỡ hơn không ạ? Mẹ đã ăn gì chưa? Bây giờ mẹ thấy trong người thế nào?
Bà
lão nằm yên, mở mắt và khẽ gật đầu. Anh con đã mấy lần khịt khịt mũi vẻ khó
chịu, nhưng vẫn cố nán thêm chốc nữa, sốt ruột đi đi lại lại.
-
Mẹ có cần con làm gì không ạ?
Bà
lão muốn ngồi dậy nhưng không được, bèn ra hiệu kê thêm chiếc gối cho đầu cao
lên.
-
Con lấy ghế ngồi xuống đây. Mẹ có chuyện này muốn nói với con.
-
Dạ, có gì xin mẹ cứ nói.
-
Có lẽ mẹ sắp đi rồi. Mẹ muốn con hứa với mẹ một điều. Con hứa và sẽ làm đúng
như thế. Con có hứa không?
-
Có. Con xin hứa sẽ làm tất cả những gì mẹ dặn. - Anh con vội đáp, lần này thì
thành thật vì biết đây là lời trăn trối cuối cùng của mẹ.
-
Kia là chiếc lọ với ít tro hài cốt bố con. - Bà lão chỉ tay về phía bàn thờ.
- Bố con là người tuyệt vời, chỉ tiếc bỏ
mẹ con mình ra đi sớm quá. Mẹ muốn sau khi chết con cho thiêu xác rồi trộn tro
hài cốt của mẹ với của bố con. Sau đó con đem vào quê bố, đi thuyền ra biển
thật xa rồi rắc xuống nước. Suốt đời mẹ và bố con chỉ có một ước mơ được cùng
nhau tắm biển Nha Trang nhưng rồi con biết đấy, vì chiến tranh, vì bố con đi
trước, nên cuối cùng ước mơ ấy đến nay vẫn chưa thực hiện được. Giờ chỉ còn
cách như mẹ vừa nói. Vì vậy mẹ mới giữ chiếc lọ kia trong nhà bao năm nay. Chỉ
thế thôi. Con giúp mẹ nhé. Nếu không, mẹ sẽ chẳng thể nào nhắm mắt nổi.
Anh
con nâng bàn tay khô héo của mẹ áp vào má mình. Lúc này thực tình anh ta rất
thương mẹ.
-
Xin mẹ yên tâm. Con sẽ làm đúng như lời mẹ dặn.
-
Thế thì mẹ chẳng còn mong gì nữa. Bây giờ con có thể đi được rồi. Cứ để mẹ một
mình, không sao.
-
Không, không, hôm nay con sẽ ở lại đây suốt đêm với mẹ. - Anh con vội nói, xúc
động và chân thành.
Bà
lão quay người, nhắm mắt, có vẻ như lại ngất xỉu.
Cuối
cùng mụ bán rau cũng về. Anh con trách mụ mấy câu lấy lệ, nấn ná thêm chốc nữa
rồi bảo ra ngoài ăn tối, lát sau quay lại. Nhưng vốn vô tâm, hời hợt, dễ xúc
động và cũng dễ quên, anh ta đi rồi biệt tăm luôn.
*
Đêm
hôm ấy bà lão chết. Chính xác lúc nào không rõ vì như mọi ngày, mụ trông thuê
ngủ liền một mạch đến năm giờ sáng thì dậy. Theo thói quen, mụ đặt một ngón tay
lên mũi bà lão. Không thấy thở. “Thôi, bỏ mẹ. Bà ta chết rồi!” Và mụ vội vã
chạy đến chiếc máy điện thoại.
Xác
bà lão được thiêu như mong muốn. Còn trộn tro hài cốt hai người để rắc xuống
biển Nha Trang thì không, vì đã mười năm nay anh con giấu mẹ đem tro thi hài bố
chôn thành mộ ở Bát Bạt. Còn tro trong chiếc lọ trên bàn thờ là đồ giả. Bà lão
được chôn cạnh chồng. Hai ngôi mộ xinh xắn, có bia đá, có ảnh, và đều được đổ
xi măng chắc chắn. Anh con lấy thế làm hài lòng, tự coi mình là người con có
hiếu. Kể ra đôi khi cũng thấy lương tâm cắn dứt vì đã không làm đúng lời mẹ
trăn trối, nhưng anh ta luôn tìm được lý do để an ủi mình.
“Các
cụ già rồi mà còn lãng mạn. Quăng xuống biển cho cá nó ăn à? Rồi sau con cháu
biết tìm đâu mà hương khói?
Hà Nội, 25. 5. 2001
MẤT
NGỦ
Như
nhiều người già khác, ông Dụng mắc chứng mất ngủ, đặc biệt thời gian này, khi
ông mới về hưu. Mấy chục năm ông làm ở ủy ban chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em
của thành phố. Công việc nhàn, chẳng có gì lý thú, thậm chí “vô bổ” như nhiều
khi ông nghĩ. Thế mà bỗng nhiên không còn được làm cái công việc tẻ nhạt và vô
bổ ấy nữa, ông cảm thấy hụt hẫng, người cứ thế nào, thừa tay chân, thừa thời
gian, thừa những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu, đáng lẽ cũng thừa cả ngủ vì ông
nằm rất nhiều. Nhưng ông lại mất ngủ.
Vào
một đêm mất ngủ như thế, lúc ấy đã khuya, chắc phải đến mười hai giờ, ông bỗng
nghe con Mực nhà ông sủa gắt. Thường nó vẫn sủa vu vơ khi có ai trong xóm về
khuya. Nhưng lần này thì tiếng nó khác. Tiếng sủa báo có kẻ gian. Nó khôn lắm,
về mặt này có thể nói còn khôn hơn cả người. Rồi im. Chừng mười lăm, hai mươi
phút sau lại sủa. Ông nghe nó nhảy xổ lên cánh cổng và hình dung thấy nó bám
hai chân trước lên thanh sắt nhìn “kẻ gian” với vẻ hăm dọa, cái mõm đầy nanh sắc
nhô ra ngoài.
Ngõ
nhà ông tối, chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn tròn tù mù sáu mươi watt treo
trước cổng nhà ông Hoạch cuối ngõ theo yêu cầu của tổ dân phòng, nhưng chắc con
Mực nhìn rõ. Nghe nói không chỉ mũi mà mắt loài chó cũng tinh lắm. Con béc-giê
của vợ chồng ông Bàn giàu nhất xóm này, chủ một quán nhậu lớn ở chân cầu Long
Biên, cũng sủa gay gắt không kém. Ở đây nhiều nhà nuôi chó, vậy là chúng đua
nhau đánh thức cả xóm dậy. Cả con chó Nhật bé bằng nắm tay nhà ông Hoạch cũng
ti toe phụ họa.
Ông
Dụng đi ra ban-công, nhìn xuống và thấy hai thằng choai choai đang đèo nhau
bằng xe đạp, tới nhà ông Hoạch kịch đường, chúng quay ra rồi biến mất. Bầy chó
tiếp tục sủa chốc nữa rồi cũng im. Ngõ phố lại chìm trong im lặng. Đôi nhà còn
đỏ đèn. Mọi người chắc đã ngủ, hoặc giả vờ ngủ, coi như không có gì xẩy ra. ít
nhất đối với nhà mình. Đây là xóm mới, nằm khuất trong một ngõ cụt sát phố
Nguyễn Văn Cừ, gồm mười tám căn nhà riêng biệt do thành phố xây để bán, ai có
tiền thì mua, do vậy được coi là khu xịn, thậm chí trong giấy tờ bán nhà ghi là
Khu biệt thự, mặc dù nhà cái nọ dính vào cái kia. Người mua là dân các nơi khác
đến, thuộc loại khá giả, nhưng nhà ai biết nhà nấy và chỉ giao tiếp ở mức lịch
sự vừa phải. Ông Dụng đưa mắt nhìn một vòng, chẳng thấy động tĩnh gì bèn quay
vào nằm.
“Cái
bọn choai choai này là ghê lắm đấy, - bà vợ ông thường nói. - Chúng nghiện
ngập, cờ bạc, giết người như ngóe. Tốt nhất đừng dây, nhỡ gặp chúng phải tránh
thật xa!” Ông thấy vợ nói đúng. Chuyện gì bà ấy nói cũng đúng. Cả xóm này mọi
người nghĩ như bà. Có lẽ vì thế mà như nhiều hôm khác, hôm nay chẳng ai, kể cả
ông trưởng xóm kiêm tổ viên tổ tuần tra mà ông ta không bao giờ tham gia, chạy
ra đuổi chúng, chí ít hỏi chúng đêm hôm vào đây làm gì. Nhiều lần chúng ngang
nhiên tụm ba tụm bảy đánh bạc hoặc tiêm chích cả ban ngày mà không người nào
dám nói một câu. Coi như không thấy. Không biết. Không dây! Dây vào ngộ nhỡ
chúng đâm cho một nhát mà chết à?
Lát
sau chó lại sủa ran. Chắc hai thằng kia quay lại. “Kệ. Nhà mình không là đối
tượng của chúng, - ông nghĩ. - Vả lại con Mực sẽ chẳng chịu để yên cho chúng
muốn làm gì thì làm.” “Tao thách bọn mày vào đấy!” - Chắc đầu ngõ ông chủ quán
nhậu có con béc-giê hung dữ cũng đang nghĩ như ông. Các nhà khác thì có lẽ cảm
thấy yên tâm vì nhà mình kín cổng cao tường, cửa đóng chặt cả trên lẫn dưới.
Chó
vẫn tiếp tục sủa và mỗi lúc một gay gắt. Con Mực nhảy chồm chồm lên tấm cửa
sắt. Chắc có chuyện. Ông Dụng định dậy ra xem, nhưng không hiểu sao lại thôi.
Nhiều người trong xóm lúc ấy có lẽ cũng chung tâm trạng như ông, và vẫn nằm yên
trong nhà. Sau đấy bỗng có tiếng kêu thất thanh. Tiếng kêu cứu của một đứa bé.
Bé gái. Hình như tiếng cái Hồng, con vợ chồng cậu Châu cách nhà ông một nhà về
phía phải, sát nhà ông Hoạch. Mọi người,
trong đó có ông Dụng, chạy bổ ra ban công, và từ vị trí an toàn ấy, tất cả gần
như đồng thanh kêu to: “Trộm! Có trộm!” Chủ yếu để bọn kia thấy động bỏ đi. Rồi
mọi người xuống gác, cố nói thật to, cố mở khóa cổng thật chậm để biết chắc
mình không là người đầu tiên bước ra nơi nguy hiểm. Nhiều người còn dắt theo cả
chó, những con chó trước đấy bị nhốt sau song sắt.
Khi
mọi người đổ ra ngõ thì tất nhiên bọn bất lương đã biến mất, vì ít nhất đã năm
phút trôi qua kể từ lúc có tiếng kêu cứu, có thể còn lâu hơn. Người ta thấy
cánh cổng nhà vợ chồng anh Châu mở toang, còn cháu Hồng, mười ba tuổi, con gái
duy nhất của họ thì nằm chết ngay ở bậc tam cấp, máu me đầm đìa. Nó nằm ngửa,
bị đâm một nhát khá lớn ở bụng, lòi cả một đống ruột ra ngoài. Đến bây giờ dân
trong xóm mới biết nó ở nhà một mình đã ba hôm nay vì cả bố lẫn mẹ đang theo cơ
quan Bộ ngoại giao nghỉ mát ở Cửa Lò, nó bận thi học sinh giỏi tin học toàn
thành phố nên không đi. Sau này, khi công an bắt được thủ phạm - hai tên lưu
manh choai choai ở khu tập thể nhà máy xe lửa Gia Lâm - người ta biết thêm rằng
nó bị đâm chết khi vừa kêu cứu, vừa cố giữ chiếc vi tính xách tay bố mẹ mới
tặng. Một trong hai thằng kia giật mãi không được, cáu tiết dùng con dao Thái
đâm một nhát vào bụng, nó ngã gục làm vết đâm rộng thêm nên ruột mới trào ra.
Thằng này sau bị kết án tử hình. Bạn hắn tù mười năm. Còn dân trong xóm thì bị
chính lương tâm mình kết án, nặng nhẹ tùy sự nhạy cảm và cách nhìn nhận sự việc
của từng người...
*
Có
lẽ người bị ‘kết án” nặng hơn cả là ông Dụng, vì ông hay mặc cảm và bị cái gọi
là lương tâm dằn vặt nhiều hơn. Như những người khác, khi công an điều tra hỏi
vì sao biết có kẻ gian mà không ra can thiệp ngay, ông nói bình thường chó vẫn
sủa như vậy, và rằng ông già, khi tới nơi thì đã muộn. Ông biết ông nói dối.
Chừng này tuổi mà còn nói dối một cách trơ trẽn. Ông đã có thể ra ban-công lần
chó sủa rộ thứ hai, thứ ba, và nếu vẫn thấy hai thằng ấy mà ông biết chắc đến
đây chỉ để ăn trộm, đáng lẽ ông phải ra hỏi chúng, đuổi chúng đi, cùng lắm gọi
to mọi người dậy. Chắc chắn lúc ấy chúng không dám ra tay và cháu Hồng sẽ không
bị giết một cách thảm thương như vậy. Nhưng ông đã hèn nhát không dám làm thế.
Ông sợ bị chúng chém hoặc dùng kim chích ma túy đâm vào người. Sao ông không đi
ra cùng con Mực? Chắc nó biết cách bảo vệ chủ. Ừ nhỉ, ông quên không nghĩ tới
điều đó. Quên một phần vì “không muốn dây vào chúng”, vì đơn giản nghĩ con chó
giữ riêng nhà ông đã đủ. Ông chủ cửa hàng nhậu có lần từng chỉ vào con béc-giê
của mình, nói: “Lúc ấy mà tôi kịp thả con này ra thì hai thằng kia chỉ có
chết!” nhưng ông ta đã không thả. Người khác cũng không. Lũ chó ngu ngốc, không
khôn như người, nhất định chúng sẽ chịu chơi, chịu “dây” với bọn kia và do vậy
chắc sẽ ngăn được vụ án mạng. Nếu có lương tâm, lương tâm lũ chó bây giờ trong
sạch.
Càng
nghĩ, ông Dụng càng buồn và thấy mình có tội. Không nghi ngờ gì nữa, trong cái
chết của cháu Hồng ông chịu một phần trách nhiệm. Ông đã tính tới chuyện thú
hết với công an, rằng chính ông và những người hàng xóm của ông mới là thủ phạm
thực sự. Nhưng liệu tòa án có thể vì thế mà kết tội ông được không? Không có bộ
luật nào kết tội những người không kịp ra cứu giúp người khác khi gặp nạn.
Không ai bắt bẻ ông được. Vâng, không ai trừ lương tâm, mà lương tâm ông bây
giờ đang cắn rứt. Ông đã có thể cứu được đứa bé nhưng ông hèn, ông sợ chết, ông
quá khôn. Thế mà hàng chục năm trời ông được gọi là cán bộ bảo vệ trẻ em cơ
đấy. Suốt mấy chục năm ấy và cả đời mình thực ra ông chẳng bảo vệ được ai. Việc
ông làm chung qui chỉ là nói những lời đạo đức giả, tham dự các cuộc họp triền
miên và mỗi năm vài lần trao những túi quà người ta chuẩn bị sẵn. Tên ông là
Đinh Hữu Dụng mà thực sự ông là người vô dụng. Bạn bè, đôi khi cả chính ông,
cũng nhiều lần nói đùa như thế.
Choáng
váng vì cái chết của con gái, vợ chồng anh Châu xin đi làm tại một Đại sứ quán
ở châu Phi, để lại ngôi nhà trống rỗng và khu xóm nhỏ đang bối rối dằn vặt với
những gì mới xẩy ra. Không ai bảo ai, mọi người
cố tránh không nhắc đến chuyện này. Cũng chẳng ai lên tiếng tự bào chữa
hay trách cứ mình.
*
Chứng
mất ngủ của ông Dụng ngày một thêm trầm trọng. Nhiều đêm liền ông không hề chợp
mắt. Thậm chí ông bắt đầu xem nó là bệnh, đi khám bác sĩ và uống đủ các loại
thuốc vợ ông mua về bắt uống. Dạo này bị công an truy quét, bọn nghiện ngập và
tội phạm không dám đến đây nữa, cả ban ngày cũng như ban đêm. Chó cũng ít sủa
hơn. Tuy nhiên, ba hôm nay ông nhận thấy một điều khác thường, là lúc gần sáng
con Mực nhà ông cứ tru lên khe khẽ. Tiếng tru nghe rất lạ, như thể nó đang sợ
hãi điều gì. Con chó Nhật ông Hoạch cũng ngứa mồm sủa theo. Các con chó khác,
trong đó có con béc-giê hung dữ của ông chủ quán bia, không thấy lên tiếng. Cả
ba hôm ông đều ra xem nhưng không thấy gì.
Đấy,
bây giờ con Mực lại sủa đấy, hay đúng hơn, đang rên ư ử. Ông nhìn đồng hồ. Ba giờ sáng. Trời tối, lại có
gió lạnh. Xung quanh không tiếng động, trừ tiếng con Mực. Ông rón rén nhỏm dậy.
Khác mọi lần, ông không ra hẳn ngoài ban-công mà chỉ đứng bên trong, vén rèm
cửa sổ nhìn ra. Lối đi phía dưới vắng tanh. Ngọn đèn sáu mươi watt trước nhà
ông Hoạch chiếu tù mù, nhưng cũng đủ sáng để nhìn thấy bất kỳ người nào, nếu
có. Nhưng ông nhìn mãi mà chẳng thấy ai. Trong khi đó con Mực vẫn tiếp tục khẽ
sủa một cách lo lắng và sợ hãi. Nghĩa là có chuyện. Không ngẫu nhiên nó sủa như
thế. Nuôi nó mười năm nay, ông biết.
Ông
khoác thêm chiếc áo, lặng lẽ đi xuống, lặng lẽ mở cửa rồi mở cổng bước ra
ngoài, không quên mang theo chiếc gậy đề phòng bất trắc. Con Mực thấy ông, vẫy
đuôi rối rít. Nó rón rén đi trước, tai cụp, đầu cúi sát đất. Có nó, ông thấy
yên tâm hơn. Bên ngoài trời vẫn tối đen và ẩm ướt. Xung quanh yên ắng lạ
thường. Bất chợt ông nhìn thấy có cái bóng mờ mờ trước mặt. Ông định kêu to
đánh thức mọi người, nhưng nghĩ có thể nhìn nhầm nên lại thôi. Cái bóng nhỏ màu
trăng trắng đứng co ro bên cửa nhà anh Châu, chỉ cách ông khoảng mươi mét. Trộm
chăng? Hình như không, vì nếu thế nó đã bỏ chạy khi nghe ông cố tình hắng
giọng. Vậy thì là cái gì?
“Ai
đấy?” - ông hỏi to rồi mạnh dạn bước lại gần. Con Mực đi theo, sủa lên một
tiếng đầy hăm dọa. Cái bóng trắng vẫn đứng yên. Nó không có ý bỏ chạy hoặc sợ
hãi. Khi lại gần, ông Dụng thấy hình như đó là một đứa trẻ. Nó đứng tựa lưng
vào tường rào, hai tay ôm cái gì đấy trước bụng.
“Trời
ơi, Hồng đấy à, cháu?” ông khẽ thốt lên, quên mất rằng con bé đã chết hai tháng
nay.
Cái
bóng gật đầu, không nói gì. Ông Dụng cúi xuống nhìn kỹ thì thấy đúng là nó. Nó
đang đỡ mớ ruột bầy nhầy trên tay. Dưới ánh điện tù mù, ông thấy nó khóc, đôi
mắt mở to đau đớn nhìn ông.
“Trời
ơi!” - ông Dụng lại thốt lên, kinh hoàng nhìn mớ ruột. “Cái gì thế này?” Con bé
im lặng, nhìn xuống chiếc bụng bị đâm thủng rồi nhìn ông, vẻ van nài. Con Mực
không rên nữa. Nó cuống quýt chạy quanh chủ và cái bóng ma. Ông Dụng chẳng hiểu
nó muốn gì. Ông đứng lặng, lúng túng hồi lâu. Cuối cùng ông ngồi xuống ngang
tầm đưa bé, nhẹ nhàng nâng từng đoạn ruột bầy nhầy dính máu nhét lại vào bụng
nó. Ông làm việc này thong thả, thận trọng như một bác sĩ phẫu thuật và bình
tĩnh một cách lạ lùng. Thậm chí tay ông không run. Con bé vẫn lặng lẽ đứng yên,
chỉ thỉnh thoảng khẽ co giật như bị đau. “Cháu gắng chịu chút nữa. Bác xong
ngay bây giờ. Cháu ngoan lắm. Giỏi lắm!” - Ông dỗ nó như dỗ đứa cháu ngoại năm
tuổi mỗi lần bắt uống thuốc đắng.
Con
bé mấp máy môi điều gì đó khi ông làm xong, thận trọng đưa cả lòng bàn tay vuốt
lại lần nữa như vá chỗ rách ở bụng nó. Ông kéo quần nó cao lên, cài cúc áo thật
chặt cho nó rồi ngước mắt, có ý hỏi “Bây giờ cháu đỡ đau rồi chứ?” Con bé gật
đầu nhìn ông và con Mực lần chót, rồi từ từ tan trong lớp sương mù ẩm ướt. Ông
Dụng ờ lên một tiếng vì ngạc nhiên. Ông thực sự không hiểu chuyện vừa rồi là có
thực hay chỉ một giấc mơ. Dạo này ông hay có những giấc mơ kỳ quái như vậy. Khi
vào nhà bật đèn, ông thấy hai tay dính đầy máu...
Từ
hôm ấy, đêm đêm vào lúc gần sáng, con Mực nhà ông thôi không sủa nữa. Hồn ma
cái Hồng không quay lại thêm lần nào. Tuy vậy, chẳng vì thế mà ông Dụng đỡ mất
ngủ. Bây giờ đến lượt ông, bị chứng mất ngủ hành hạ, cứ gần sáng ông lại ra
khỏi nhà vật vờ đi đi lại lại trong ngõ. Lúc đầu lũ chó sủa ghê lắm, nhưng rồi
dần dần chúng quen, không còn làm ầm ĩ bắt mọi người tỉnh dậy.
Hà Nội, 8. 8. 2002
TIỂU
ÁI
Antôn
Sêkhốp, nhà văn Nga thế kỷ mười chín nổi tiếng về sở trường truyện ngắn, có lần
nói với bạn bè một ý đại khái thế này, rằng nếu nhà văn thực sự có tài thì từ
bất kì cái gì, thậm chí từ cái tầm thường, nhỏ nhặt nhất cũng có thể viết thành
một truyện ngắn. Và để chứng minh cho quan điểm ấy của mình, ông đã viết truyện
Cái đinh. Xuất phát điểm đơn giản chỉ là chiếc đinh gỉ trên tường, ngẫu nhiên
các bạn nhìn thấy khi đứng dậy chia tay sau bữa ăn, rồi nửa đùa nửa thật họ yêu
cầu ông thử viết về nó. Thế mà thành một truyện hay.
Hôm
nọ, tình cờ tôi đem chuyện này kể với vợ. Bà ấy luôn là người đầu tiên đọc
những gì tôi viết, đôi lúc có vài nhận xét xác đáng mà dẫu bảo thủ, tôi vẫn
phải thừa nhận và lặng lẽ làm theo.
“Sao
ông không thử làm như Sêkhốp?” - bà ấy thản nhiên nói.
“Tôi
không phải Sêkhốp. Ông ấy là thiên tài. Vả lại, nghề của tôi như bà biết, không
phải viết mà dịch”, - tôi nói với sự khiêm tốn chân thành. Mấy chục năm nay tôi
chỉ dịch, dịch thơ, một nghề tôi cho không kém vinh quang so với sáng tác.
Thỉnh thoảng lúc chán tôi mới viết truyện, rỗi thì viết chứ chẳng tham vọng gì
nhiều.
“Đành
thế, nhưng cứ thử, xem ông có là người “thực sự có tài” hay không”.
Máu
tự ái tôi nổi lên:
“Thử
thì thử! Thế bà muốn tôi viết về cái gì?”
Vợ
tôi đưa mắt nhìn quanh. Phòng làm việc của tôi luôn ngổn ngang đủ loại sách
báo; chiếc giường một vừa để nghỉ và ngủ; chiếc ghế xoay vắt đầy quần áo mặc
dở; trên bàn có chiếc vi tính cùng chồng đĩa nhạc; tường treo mấy bức tranh sơn
dầu loại rẻ tiền và chiếc đàn vi-ô-lông kỷ niệm một thời sinh viên đam mê mà
bây giờ, dẫu đã thuộc người già, lại to béo, thỉnh thoảng tôi vẫn đem ra cò cử
bất chấp sự phản đối của hàng xóm và gia đình. Tôi thầm mong vợ chọn chiếc đàn
hoặc chiếc vi tính, biểu tượng của tình cảm và công nghệ hiện đại ít nhiều còn
có thể phịa ra cái để viết. Nhưng không, cuối cùng bà ấy nhìn tôi, nói như ra lệnh:
“Ông
hãy viết về cái gãi lưng đang cầm trên tay ấy!”
“Sao,
viết về cái này?” tôi thốt lên, ngừng gãi, chìa ra trước mặt chiếc gãi lưng
bằng nhựa màu hồng rẻ tiền mua ở Thượng Hải năm ngoái khi hai bố con tôi tới đó
theo một tour du lịch trọn gói. Một đầu nó có hình bàn tay năm ngón, ngón út bị
con cún láo lếu gặm gãy, đầu kia là quả bóng cao su sơn đỏ đã sờn rách đôi chỗ,
có lò xo dùng để đấm lưng. Một sản phẩm chẳng mấy nghệ thuật nhưng rất tiện lợi
và tôi vẫn thường cần đến.
“Đúng,
ông hãy thử viết về nó. Chiếc đinh của Sêkhốp còn nhỏ nhặt, tầm thường hơn
nhiều. Ít ra nó cũng cho biết tài năng ông đến đâu”.
Tôi
lại chạm tự ái.
“Được.
Vậy ngày mai vào giờ này mời bà xuống đọc. Biết đâu tôi chẳng thông minh hơn bà
tưởng.”
Còn
lại một mình, tôi thẫn thờ hồi lâu ngồi nhìn chiếc gãi lưng khốn khổ mà từ đó
tôi phải tìm đủ cảm xúc và trí tưởng tượng để viết thành một truyện ngắn với
đúng nghĩa của nó. Ơn Chúa, cái truyện ấy cuối cùng cũng viết xong, chậm nửa
ngày. Tôi không đặt tên Chiếc gãi lưng, mà là Bàn tay ngà ngọc, vừa hợp nội
dung, vừa đỡ phần dung tục.
*
Dù
còn trẻ, nhà ngoại giao M. từ lâu đã say mê thú chơi đồ cổ, đặc biệt những thứ
liên quan đến Trung Quốc. Chơi với đúng nghĩa của nó, không bao giờ đo giá trị
bằng tiền. Và cũng rất sành. Chuyến công tác Bắc Kinh lần này là dịp hiếm, vì
anh phụ trách một Vụ châu Âu ở Bộ nên ít có điều kiện sang đây. Ngày nghỉ đầu
tiên anh nhờ một đồng nghiệp lâu năm ở sứ quán dẫn đi lùng sục các cửa hàng
nhỏ, phố nhỏ mà thường chỉ người bản địa mới biết và cũng là nơi có nhiều cơ
may tìm được thứ gì đó độc đáo mà không quá đắt. Những thứ ấy thật ra có nhiều,
rất thích, rất đáng mua nhưng vì ít tiền, cuối cùng đắn đo mãi, anh quyết định
mua một cái mà chắc chẳng mấy ai muốn mua. Chính ông chủ cửa hàng (một người
Hoa bé loắt choắt, mặt nhọn và nhăn nhúm) cũng không nghĩ anh sẽ mua nó, nhất
là với cái giá rất cao lão đòi và không chịu bớt một xu. Vâng, nó đắt thật,
nhưng đáng giá đồng tiền, và anh gật đầu. Dân chơi đồ cổ thường vẫn vậy, đã
thích cái gì thì không thể nào dứt ra được.
Đó
là chiếc gãi lưng hình bàn tay một cô gái, được làm bằng ngà hay thứ gỗ trắng
cứng mịn nào đó, lâu ngày đã ngả màu nhưng chưa sứt gãy và cũng chưa có vết
xước sâu nào. Nó khá to và nặng so với những thứ cùng loại ngày nay, dễ phải
bằng cánh tay thật của một đứa bé. Anh hỏi thuộc đời nào, ông già chủ quán chỉ
đáp: “Lâu rồi. Lâu lắm rồi. Chính xác đời nào lão chẳng biết, nhưng nó có từ
lâu, lâu lắm rồi. Anh tinh lắm, tinh lắm!”
Quá
bận với các bản báo cáo và họp hành, về nước đến một tuần M. mới có dịp lấy ra
xem. Người chơi đồ cổ đích thực ngắm nghía đồ chơi của mình không như người
bình thường. Họ cần có hứng, có thời gian thích hợp. Lúc ấy đã gần mười hai giờ
đêm. Anh tắt vi tính, thận trọng mở va-li lấy nó ra. Thoạt đầu anh hơi thất vọng,
chắc một phần vì số tiền lớn phải chi cho nó. Đẹp, có thể rất quý nhưng cũng
chỉ là cái gãi lưng hình cánh tay phụ nữ, thứ đồ dùng không hiểu sao người
phương Tây ít ai sử dụng vì một mặc cảm mơ hồ nào đó. Chắc họ thích những bàn
tay bằng xương bằng thịt ấm áp và dịu dàng hơn.
Anh
cầm nó trên tay, ngắm nghía từ mọi góc độ, thầm nghĩ đúng nó là đồ cổ thật,
chắc thuộc một gia đình quyền quý nào đó cách đây vài trăm năm, khó có thể lâu
hơn. Các ngón tay búp măng thon dài, móng được cắt nhọn và cũng rất dài, sơn
màu hồng nhạt. Chỗ khuỷu tay có đường chạm thành nếp ngấn sống động. Cao hơn
một chút là mặt cắt ngang rất phẳng và nhẵn, cứ như bị lưỡi kiếm sắc chặt một
nhát đứt đôi. Phần trên khuỷu tay hơi gập, vừa đủ dài để làm tay cầm. Anh cho
như thế là tàn nhẫn từ phía người nghĩ ra kiểu dáng này cho nó.
M.
ngồi yên, mân mê cánh tay ngà rất lâu, mỗi lúc càng thấy thích. Mấy lần định
cất lại vào va-li mà không hiểu sao cứ chần chừ mãi. Nhiều khi có cảm giác như
đang nâng niu một bàn tay thật, thậm chí thấy mềm, âm ấm. Cuối cùng anh nằm
xuống giường, chặn màn, để nó bên cạnh và tắt đèn.
Nhà
anh ít người. Cả hai cô con gái đang học phổ thông bên Mỹ, nơi anh mới kết thúc
nhiệm kì công tác nên các con ở lại học nốt chương trình. Gia đình anh xưa nay
có thói quen mỗi người ngủ một phòng. Bây giờ thì mỗi người một tầng. Vợ anh ở
tầng hai, anh ngủ luôn ở phòng làm việc tầng một, còn bà giúp việc thì trong
phòng bếp rộng gần ba chục mét.
Đang
thiu thiu ngủ bỗng ngứa lưng, M. cầm luôn cánh tay ngà gãi nhẹ. Thật dễ chịu. Gãi
đúng chỗ ngứa, lần nào cũng đúng, sắc và gọn. Bất chợt anh giật thót người khi
có cảm giác bàn tay ngà kia xoãi ngón xoa xoa vào chỗ ngứa. Xoa hai lần. Anh
hốt hoảng dùng tay kia kiểm tra lại. Vẫn là cánh tay ngà đồ cổ như trước, cứng
và vô tri giác. Thở dài nhẹ nhõm, anh cho mình vừa nằm mê, rồi quay người ngủ
tiếp, cánh tay ngà để cạnh, gần như chạm mặt.
Một
lúc sau, có thể một giờ hoặc lâu hơn, anh lại lơ mơ cảm thấy có bàn tay ai đang
dịu dàng mơn trớn má mình. Vì nghĩ lại mơ, anh nằm yên tận hưởng cảm giác dễ
chịu ấy. Nhưng sự mơn trớn lần này có vẻ mỗi lúc một thật hơn và cũng âu yếm
hơn. Anh tỉnh ngủ hẳn, những ngón tay phụ nữ thon dài kia còn dính trên má. Anh
sờ tay, giật mình vì thấy có người nằm cạnh, ấm và mềm. Vợ à? Cô ấy có bao giờ
tự xuống thế này đâu? Anh khéo léo luồn tay về phía chiếc công tắc đèn ngủ.
“Ôi,
cô là ai thế này?” anh ngồi bật dậy, khẽ thốt lên sau mấy giây lặng đi vì ngạc
nhiên và sợ hãi. Đó là một cô gái xinh đẹp, rất khác thường cả về dáng người,
cách ăn mặc, kiểu đầu tóc và cả cách son phấn. Phải cố lắm anh mới không kêu
to, hai mắt nhìn trân trân không chớp. Anh lùi lại cho đến khi chạm lưng vào
tường, trống ngực đập thình thịch.
“Thiếp
là Tiểu Ái, nữ sĩ của Thái Tử Đan nước Yên”, cô gái thỏ thẻ đáp, chỉ thoáng
chút ngượng ngùng kiểu con gái đài các chứ không hề bối rối.
“Tiểu
Ái nào? Thái Tử Đan nước Yên nào? Tôi không hiểu”.
“Chàng
thích đồ cổ Trung Hoa mà dường như không am tường lắm về lịch sử nước này.
Vâng, thiếp là Tiểu Ái, nữ sĩ và cũng là tì thiếp yêu của Thái Tử Đan nước Yên
cách đây hơn hai nghìn năm. Vì muốn diệt Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, để
trừ hậu họa, Thái Tử phải nhờ đến Kinh Kha, một thích khách nổi tiếng nước
Ngụy. Những ngày trước lúc lên đường, ngài tìm mọi cách chiều lòng Kinh Kha:
nào vàng bạc châu báu, tiệc tùng, nào đàn hát suốt ngày với vô số cung tần mĩ
nữ hầu hạ. Vậy mà Kinh Kha có vẻ không mấy mặn mà với việc người ta yêu cầu
làm. Một tối nọ, khi xem thiếp đàn, ông ta buột miệng khen đôi tay thiếp đẹp.
Thế là sáng hôm sau Thái Tử chặt tay thiếp, cho vào chiếc hộp phủ lụa đỏ đem
đến. Bây giờ chàng nhớ rồi chứ?”
Tiểu
Ái nói, khẽ cúi đầu e lệ đúng cung cách phụ nữ cái thời xa xưa ấy. M. vẫn nhìn
nàng không chớp mắt. Nàng thật xinh đẹp, dịu dàng. Tuy nhiên, anh vẫn thấy có
cái gì đấy đáng ngờ, hơi ranh ma trong ánh mắt cô gái bí ẩn này.
“Vâng,
- anh đáp. - Tôi có biết tích ấy, dù không dám tin là thật. Có phải sau đấy
Kinh Kha vì thương cảm đã đem chôn cất tử tế đôi tay của cô không?”
“Không.
Nhiều người nghĩ vậy nhưng thực ra không phải thế. Ông ấy quả rất thích đôi tay
đẹp của thiếp, nên cho mời thầy thuốc đến ướp khô, từ đó luôn giữ chúng bên
mình. Sau này Kinh Kha bị Tần Thủy Hoàng giết chết, đôi tay thiếp thất lạc, qua
hết người này đến người khác. Một tay thiếp bị người Anh thiêu cháy cùng Di Hòa
Viên của Từ Hy Thái Hậu cách đây không lâu, còn tay nữa thì hiện đang ở đây với
chàng. Vì thế mà thiếp có mặt hôm nay. Chàng không thích thiếp chăng? - Nói
đoạn, Tiểu Ái choàng tay ôm cổ M. Một ma lực nào đó khiến người anh mềm nhũn,
ngoan ngoãn tuân theo ý nàng. - Từ nay thiếp sẽ ở bên chàng, chiều chuộng chàng
như xưa từng chiều chuộng Thái Tử Đan nước Yên...”
Rồi
tự nhiên đèn tắt, không ai bật mà tắt. M. thấy mình từ từ rơi vào khoái lạc đê
mê, có thật mà không có thật.
Từ
đêm ấy họ sống với nhau như vợ chồng. Vâng, chỉ ban đêm, khi M. tắt đèn lên
giường, còn ban ngày Tiểu Ái vẫn chỉ là cánh tay bằng ngà vô tri giác được anh
đặt bên cạnh để gãi lưng khi ngứa, vì anh thích cảm giác được bàn tay ngà ngọc
của nàng gãi. Ngoài ra mọi chuyện vẫn bình thường. Đêm nào cũng mất ngủ vì hoan
lạc nhưng anh chẳng vì thế mà xanh xao gầy yếu. Không hề có biểu hiện thay đổi
nào dù nhỏ trong cách anh làm việc ở cơ quan hoặc cư xử với vợ ở nhà. Anh nhanh
chóng thích nghi với cuộc sống mới hai mặt, hơn thế còn lấy làm thích. Tiểu Ái
quả là người đàn bà đam mê và biết chiều chuộng. Đôi lúc anh cũng thoáng lo sợ
khi nghĩ mình đang dan díu với ma, một việc chẳng hay ho gì. Còn nàng, anh nhận
thấy, dường như không có ý làm hại anh. Nàng vẫn yêu kiều, lễ phép và càng ngày
càng tỏ ra gắn bó, cứ như muốn thế chỗ vợ anh vậy. Nhưng vì sao nàng phải làm
thế? Nàng thực sự cần gì ở anh? Mà rồi làm sao có thể xảy ra được cái chuyện kì
quặc này giữa một kỹ nữ thời Tần Thủy Hoàng và anh, một công chức ngoại giao
bình thường của thế kỷ hai mươi mốt? Và quan trọng hơn, tất cả những việc này
sẽ đưa anh đến đâu? Hạnh phúc gia đình anh sẽ ra sao? Là người duy lí và tỉnh
táo, M. tự đặt cho mình những câu hỏi không dễ trả lời ấy. Lờ mờ cảm thấy nguy
hiểm đang đến gần, anh muốn chủ động làm cái gì đó, mà phải làm ngay khi chưa
muộn. Tuy nhiên, sức quyến rũ của Tiểu Ái quá lớn khiến anh cứ khất lần cái
việc cần làm ấy hết ngày này sang ngày khác, cho đến một hôm...
Một
hôm vợ anh bước vào phòng làm việc của chồng, một điều ít khi xảy ra. Chị là giám
đốc một doanh nghiệp làm ăn phát đạt, xa lạ với văn chương và đồ cổ, những thứ
chị cho là vớ vẩn, mặc dù chưa bao giờ kêu ca hoặc ngăn cản chồng. Chị là người
vợ tốt, quán xuyến và thương yêu chồng con. Sự có mặt của vợ làm M. bối rối,
như thể anh bị bắt quả tang ngoại tình và đang giấu người tình ngay trong căn
phòng này. Rỗi việc, vợ anh ghé vào hỏi vài câu vu vơ chứ chẳng có mục đích cụ
thể nào.
“Cái
gì thế này?” chị hỏi, mắt to mò nhìn cánh tay ngà trên đầu giường.
“Thì
em thấy đấy, - anh đáp, cười gượng gạo. - Cái gãi lưng ấy mà. Anh mua ở Bắc
Kinh vừa rồi. Người Tàu nghĩ ra lắm thứ độc đáo thật. Nó cổ lắm đấy, có từ
thời...” anh chợt ngừng vì lỡ miệng sợ đi quá xa.
Chị
vợ lặng lẽ cầm nó lên tay, ngắm nghía một lúc rồi thử đưa lên má gãi gãi. Bất
chợt chị kêu thét lên:
“Trời
ơi, cái của nợ này nó cấu em! Anh xem này!”
Một
vết xước màu đỏ khoảng vài phân bên khóe mắt trái chị.
“Nhảm
nhí! Nó bằng gỗ chứ đâu phải người mà cào cấu được.” anh nói, cố giấu vẻ ngạc
nhiên lo sợ. “Nhưng móng nó sắc, đáng lẽ em nên cẩn thận”.
Vợ
anh vứt cánh tay xuống giường, ôm mặt bước ra khỏi phòng.
M.
nhìn, thấy nó xấu hơn ngày thường, vẻ như đang cau có một cách độc ác. Tối hôm
ấy anh hỏi Tiểu Ái vì sao làm vậy, nàng im lặng mãi mới nói: “Thiếp nhỡ thôi
chứ chẳng cố tình”.
M.
để ý sau mỗi lần anh lên ngủ với vợ theo “nghĩa vụ”, Tiểu Ái luôn tỏ ra khó
chịu, mặc dù không nói gì. Anh biết nàng ghen. Thật kì cục. Hơn thế, hôm nào M.
để Tiểu Ái nằm một mình, vợ anh cũng kêu khó chịu trong người. Dạo này cô ấy
trông xanh xao, mỏi mệt. Cả điều này cũng kì cục nốt, vì bản thân anh chẳng
sao, mặc dù kể từ ngày có Tiểu Ái hầu như anh không ngủ. Anh thực sự lo lắng
cho vợ.
“Em
chớ có làm gì hại vợ anh đấy nhé!” một hôm anh bảo nàng. Nàng lặng lẽ gật đầu
nhưng anh vẫn nhận thấy những tia nhìn đáng sợ trong ánh mắt.
Dẫu
thích cuộc sống hai mặt hiện tại, M. không thể tiếp tục thờ ơ với tính mạng vợ
và hạnh phúc gia đình mình. “Cái việc gì đó” cần làm bây giờ trở nên rõ nét và
thôi thúc hơn. Tóm lại, anh đang lặng lẽ tìm cách thoát khỏi Tiểu Ái thế nào
cho êm thấm nhất. Các truyện của Nguyễn Dữ và Bồ Tùng Linh đã dạy anh điều này.
Đừng dại mà đùa với ma!
Một
tối nọ, vừa ngồi xuống trước máy vi tính, M. thấy H., một đồng nghiệp trẻ ở Bộ
xồng xộc bước vào, nói có tài liệu nhờ anh dịch gấp kịp họp ngày mai. H. là
người hãnh tiến, thích bay bổng, lãng mạn, có khả năng nhưng cư xử dở nên không
được mọi người thích, kể cả anh. Cũng vì tính lãng mạn bay bổng ấy, có người
gọi là hâm, mãi đến giờ anh ta vẫn chưa vợ, dù đã ba mươi lăm tuổi. Đối tượng nào
cũng bị anh ta chê không tinh tế hoặc quá tầm thường.
Xong
việc, H. còn nấn ná ở lại, đảo mắt qua giá sách, nhìn một lượt khắp phòng rồi
cầm chiếc gãi lưng đồ cổ lên tay, khen lấy khen để và hỏi một thôi về nó. M.
khó chịu trước sự suồng sã của con người luôn chê người khác thiếu tinh tế này.
Bất ngờ một ý tưởng vụt lóe trong đầu: “Hắn thích thì sao không cho luôn đi!
Hắn đang sống một mình, có thể Tiểu Ái sẽ là người hợp với hắn”.
“Nếu
cậu muốn, mình tặng cậu đấy. Coi như quà đi Trung Quốc vừa rồi”, anh nói.
“Anh
giễu em? Cái này là đồ cổ, chắc phải quý và đắt lắm?”
“Không,
bình thường thôi. Cậu không thích à?”
H.
nhìn anh ngờ vực. Khi thấy anh nghiêm túc, liền gật đầu cảm ơn rối rít và vội
về ngay như sợ bị đòi lại.
Còn
lại một mình, M. thẫn thờ hồi lâu. Vậy là anh đã thoát được Tiểu Ái, không phải
không nhớ tiếc những giây phút hạnh phúc bên nàng. Trong nhà bây giờ chỉ còn
lại một người đàn bà là vợ anh, chắc sẽ nhanh chóng khỏe mạnh bình thường như
trước. Anh mừng trút được cảm giác có lỗi với vợ, nhưng cũng thầm lo sẽ bị Tiểu
Ái làm hại về tội chia tay nàng cách ấy. Ma là chúa hay trả thù...
Tuy
nhiên, anh đã lo một cách vô ích. Một tuần, một tháng rồi mấy tháng trôi qua
chẳng có chuyện gì không hay xảy ra với anh. Còn H. thì béo tốt hẳn lên, yêu
đời, yêu người hơn, vẻ hạnh phúc ngời ngời trên mặt. Anh ta bây giờ không muốn
nghe ai nói chuyện manh mối cho mình nữa, mấy lần còn hùng hồn tuyên bố sẽ sống
độc thân suốt đời. Hình như anh ta cố tình tránh mặt M.
“Không
sao, - anh nghĩ. - Thế là mọi việc đều ổn. Một win-win deal”. Thuật ngữ ngoại giao chỉ một vụ dàn xếp hai
bên cùng có lợi.
*
Tôi
hồi hộp theo dõi từng biểu hiện nhỏ trên mặt vợ khi bà ấy đọc truyện ngắn này.
Chả gì thì chỉ ít phút nữa bà ấy sẽ cho biết tôi là thiên tài hay bất tài. Đọc
xong, bà ấy hồi lâu nhìn tôi, nhất là cái gãi lưng hàng chợ ngẫu nhiên tôi đang
cầm trên tay, vẻ như nghi kị điều gì. Cuối cùng, với mặt thản nhiên như lúc
chưa cầm tập bản thảo, vợ tôi chỉ nói một câu ngắn gọn: “Bàn tay ngà ngọc không
ổn! Phải đổi thành Tiểu Ái!”
Rồi
bà thản nhiên bỏ ra ngoài, để lại mình tôi với cảm giác mù mờ không hiểu mình
thuộc loại nhà văn nào.
PS.
Xin
được thêm mấy dòng: Mặc dù không thích, tôi vẫn đổi tên truyện ngắn này thành
Tiểu Ái theo yêu cầu của vợ. Suy cho cùng việc này không quan trọng. Cái quan
trọng và đang làm tôi băn khoăn không ít, là ngay hôm sau, bất ngờ tôi phát
hiện thấy chiếc gãi lưng bằng nhựa vô hại của tôi bỗng biến đâu mất. Nhà chỉ có
vợ chồng tôi và bà già giúp việc hay làm vỡ bát đĩa nhưng chưa tắt mắt cái gì
bao giờ. Thế mà tự nhiên mất. Lạ thật!
Không
lẽ vợ tôi nghi có Tiểu Ái trong nhà?
Hà Nội, 10. 5. 2002
MẠC
GIA THƯ KIẾM
Một
sáng nọ tôi đang ngồi uống cà phê ngoài vườn thì bà giúp việc mang tới một bức
thư, nói người ta đưa từ chiều hôm qua nhưng quên mất. Bà vẫn quên như vậy, có
khi mấy ngày liền. Vì thư nhiều và thường chẳng có gì đặc biệt nên tôi không
giận.
Bức
thư viết:
“Thưa
ông,
Mọi
người sẽ cho rằng câu chuyện Tiểu Ái ông in ở tạp chí Nhà Văn tháng trước là chuyện bịa như hầu hết những
truyện ngắn khác xưa nay. Nhưng tôi thì tôi tin từng chữ ông viết. Đừng hỏi vì
sao. Cũng đừng nghĩ tôi điên. Tôi từng là nhà khảo cổ học, hàng chục năm chuyên
nghiên cứu điển tích Trung Quốc, thậm chí có thể cung cấp thêm một số chi tiết
liên quan đến Tiểu ái. Nếu muốn, ông còn được tận mắt nhìn thấy ở nhà tôi một
trong hai chiếc kiếm của Can Tương mà tôi nghĩ một người như ông không thể chưa
nghe nói đến. Hân hạnh được đón ông”.
Cuối
thư có chữ ký của người viết là Cao Kiêm Ngạc, và địa chỉ.
“Chuyện
gì vậy?” vợ tôi lúc ấy ngồi bên, hỏi khi thấy tôi đặt bức thư xuống bàn, mặt
bần thần.
“Một
ông điên nào đó nhận xét truyện Tiểu Ái. Bây giờ nhiều người điên thật. Nghe
nói riêng ở Hà Nội đã hơn mười nghìn.
Vợ
tôi cầm bức thư đọc qua rồi đứng dậy sửa soạn đi làm.
“Ừ,
điên thật. Có lẽ ông cũng là một trong con số mười nghìn kia.”
*
Có
nhiều truyền thuyết khác nhau về hai thanh kiếm nổi tiếng Can Tương, Mạc Gia,
hay còn gọi Hùng kiếm (kiếm ông) và Thư kiếm (kiếm bà).
Theo
Đông Chu Liệt Quốc thì Can Tương là thợ kim khí giỏi của nước Ngô. Một lần vua
Ngô lúc ấy là Hạp Lư sai ông đúc một thanh kiếm thật tốt, thật quí. Ông cho mở
lò ngay trước cửa Tượng Môn rồi chọn ngày tốt, giờ tốt, sai ba trăm đồng nam,
đồng nữ ngày đêm túc trực đốt than bên lò, nhưng đốt ba tháng liền mà vàng và
sắt vẫn không chảy. Ông buồn lắm, vì biết để đúc kiếm tốt, ngoài kim khí cần có
thêm “nhân khí”. tức là thần linh muốn được tế
bằng người sống, mà phải người cao quí, thân thích. Ông nghĩ ngay tới
Mạc Gia, vợ ông. Trước kia người thầy của ông cũng phải bắt vợ mình hy sinh như
vậy. Theo đạo lý tòng phu, trung quân, cuối cùng Mạc Gia chấp nhận. Bà tắm rửa
sạch sẽ, mặc quần áo mới rồi nhảy vào lò lửa đang cháy rừng rực. Quả một lúc
sau sắt và vàng đều chảy, Can Tương đem đúc được hai thanh kiếm tốt. Thanh đúc
trước đặt tên là Can Tương, có màu sáng trắng. Thanh sau nhỏ hơn chút ít, màu
xanh nhạt buồn buồn, gọi là Mạc Gia. Cả hai đều rất sắc, đến mức con ruồi vô ý
đậu lên lưỡi sẽ bị cắt làm đôi. Ông đem thanh đúc trước dâng lên vua Ngô, được
vua tặng một trăm nén vàng. Sau này có người mách còn thanh nữa, vua cho quân
đến lấy. Can Tương không chịu, rút kiếm Mạc Gia định chống trả. Thanh kiếm bỗng
hóa thành con rồng xanh. Ông cưỡi lên lưng rồng rồi bay mất, từ đấy không tin
tức gì nữa. Đến đời nhà Tấn, tức khoảng sáu trăm năm sau, huyện lệnh Phong
Thành là Lôi Hoán ngẫu nhiên đào được cái rương bằng đá dài sáu thước, rộng ba
thước, mở ra thấy hai thanh kiếm cổ, lấy đất ở núi Tây Sơn mà đánh thì một
thanh sáng chói, thanh kia màu lam nhạt. Trên kiếm, chỗ sát tay cầm có ghi hai
chữ Can Tương và Mạc Gia. Ông đem thanh Hùng kiếm tặng thừa tướng Trương Hoa.
Một hôm hai người mang kiếm báu đi chơi, đến bến Diên Bình Tây thì bỗng nhiên
cả hai thanh kiếm nhảy xuống sông, biến thành hai con rồng ngũ sắc. Từ đấy
không ai biết gì thêm về hai thanh Can Tương và Mạc Gia.
Sách
Liệt Dị Truyện, tương truyền của Tào Phi, thì chép như sau: “Can Tương rèn kiếm
cho vua Sở ba năm mới xong. Ông dâng Thư kiếm cho vua, còn Hùng kiếm thì dấu
đi, bảo vợ: ‘Ta dấu kiếm ở phía bắc Nam Sơn, phía đông Bắc Sơn, cạnh cây tùng
mọc trên đá. Nếu vua biết mà giết ta, và nếu mình sinh con trai thì hãy bảo nó
tới đấy lấy kiếm mà trả thù’. Quả nhiên vua biết chuyện, giết Can Tương. Mạc
Gia đẻ con trai, đặt tên là Xích Tỵ. Lớn lên, Tỵ đào bới khắp nơi, chặt hết cả
tùng bách ở Nam Sơn và Bắc Sơn vẫn không thấy kiếm đâu, sau tình cờ đào dưới
cột nhà mình lại thấy. Vua Sở chiêm bao có người muốn hại mình, bèn sai quân
đến giết Xích Tỵ. Tỵ trốn vào núi Chu Hưng, gặp được người đồng ý giúp chàng
báo thù cho cha. Theo kế, Tỵ dùng Mạc Gia thư kiếm tự cắt đầu mình, đưa cho
người ấy mang vào cung nộp vua Sở. Vua sai ném vào vạc dầu, nhưng nấu ba ngày
đêm đầu Tỵ vẫn không chìm. Thấy lạ vua ghé lại xem, liền bị người kia dùng kiếm
chém đầu rơi xuống vạc, rồi ông ta cũng tự cắt đầu mình ném vào đó. Một lúc sau
cả ba đầu đều chìm, da thịt tróc hết, không phân biệt được của ai là cái nào.
Người ta đành đem cả ba chôn chung một mộ, gọi là mộ ba vua. Văn hào Lỗ Tấn về
sau dựa trên tích này viết truyện ngắn “Luyện kiếm” nổi tiếng của ông.
Cuốn
“Sưu Thần Ký” của Can Bảo đời Tấn, cuốn “Sở Vương Trù Kiếm Ký” của Triệu Hoa
đời Hậu Hán và chắc còn nhiều cuốn khác mà tôi không biết cũng nhắc đến hai
thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia. Tất cả chỉ là những truyền thuyết, người ta
đọc như đọc những câu chuyện cổ tích ly kỳ. Riêng tôi chỉ thấy hay và xúc động
những chi tiết liên quan đến Mạc Gia, người đàn bà - nạn nhân muôn thuở của đàn
ông và những giáo lý độc ác họ nghĩ ra.
Còn
cái ông Cao Kiêm Ngạc kỳ cục này thì liên quan gì? Làm sao một trong hai thanh
kiếm kia rơi vào tay ông ta, nếu quả trên đời có những thanh kiếm như thế? Ông
ta là kẻ điên khùng, hẳn vậy. Nhưng sao dám hứa cho tôi xem? Hay có âm mưu mờ
ám gì chăng? Tôi cứ băn khuăn mãi điều ấy. Cuối cùng, do bị ám ảnh không sao
thoát ra nổi, tính tò mò khiến tôi quyết định đến gặp ông ta theo địa chỉ đã
ghi. Tôi rủ vợ đi cùng nhưng bà ấy không chịu.
*
Hóa
ra ông Ngạc ở trong một ngôi nhà tử tế, khu phố tử tế. Bản thân ông hình như
cũng là người tử tế nốt. Chí ít không điên hoặc dở hơi như tôi vẫn ngại. Đó là
một ông già gầy gò trong bộ vét rộng màu xám kiểu cổ, đã cũ nhưng còn tươm tất.
Thoạt nhìn trông ông từa tựa một con chim. Con cú xám. Mái tóc ông bạc gần hết,
chiếc mũi nhọn, khuôn mặt dài và quắt. Lúc tôi bước vào, ông đang ngồi trên
chiếc ghế không lưng tựa cạnh bàn và cúi xuống làm gì đó, đúng cái thế một con
cú co ro trên cây, nên tôi mới nảy ra sự so sánh ấy, chứ bản thân con người ông
không toát lên sự gian trá hay độc ác nào. Một người tử tế như đã nói.
Ông
ngước đôi mắt chim nhìn tôi, đầu hơi ngoẹo sang một bên.
“Tôi
biết thế nào ông cũng đến”, ông nói, có vẻ biết rõ tôi là ai, và không mảy may
ngạc nhiên. “Mà đến là đúng. Ông sẽ không hối tiếc đâu”.
“Vì
tò mò thôi, - tôi thành thật đáp. - Chứ chẳng vì tin những gì ông nói”.
“Không
sao. Rồi ông sẽ tin”.
Nói
đoạn, ông nhẹ nhàng bước vào phòng trong. Cả cách đi của ông cũng giống loài
chim. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Không gì đặc biệt, ngoài việc trong phòng có rất
nhiều đồ cổ để rải rác trong tủ, các góc và trên tường. Cả căn phòng cũng thuộc
loại phòng xưa, sạch và ngăn nắp theo cách riêng của mình. Điều này làm tôi
đoán ông sống độc thân.
Lát
sau chủ nhà quay ra với một thanh gỗ dẹt hình chữ nhật đen xạm vì thời gian, nhìn
kỹ thấy giống chiếc vỏ kiếm.
“Nó
đây, Thanh Mạc Gia thư kiếm tôi nói đây. Đúng chiếc Can Tương đã đúc. Có phần
máu thịt của vợ ông ta trong đấy.”
Ông
Ngạc lại chăm chú nhìn tôi, đầu vẫn ngoẹo như trước.
“Tôi
biết ông không tin. Nếu có tin thì đang tự hỏi bằng cách nào nó lọt vào tay
tôi. Đúng không?”
Tôi
gật đầu.
“Trước
hết ta thống nhất với nhau một điều. Như tôi tin và không căn vặn gì về câu
chuyện Tiểu Ái của ông, xin ông cứ tin những gì nghe, thấy hôm nay và không hỏi
những câu ngốc nghếch. Đời có nhiều sự lạ, tiếc bây giờ người ta quá thiển cận
không nhận ra. Tôi là hậu duệ của cụ Cao Biền Trung Hoa ngày xưa. Chắc ông biết
cụ. Cụ người Bột Hải, một nhà thơ lớn đời Đường. Hình như ông có dịch một số
bài tứ tuyệt của cụ? - Tôi lại gật đầu, thầm ngạc nhiên ông già này cũng đọc
tập Cổ Thi Tác Dịch tôi in mấy năm trước. - Vậy thì như ông biết, cụ được phong
Chinh Nam Tướng Quân sang trấn trị Giao Châu từ năm 864 tới năm 875. Cụ có công
khai khẩn nhiều vùng đất, góp phần làm nên nước Việt Nam ta ngày nay. Tất cả
người Việt mang họ Cao đều con cháu cụ. Cụ giỏi phong thủy và thường cưỡi diều
bay đi khắp nơi để yểm địa mạch. Các giai thoại về cụ chắc ông còn biết nhiều
hơn tôi. Tiếc rằng sau khi được gọi về nước làm Tiết độ sứ Hồ Nam, cụ bị bọn
gian thần gièm pha mà buộc phải tự tử. Tự tử chứ không bị giết như sử sách
chép. Cụ đủ khôn ngoan để biết trước sự việc và lo kế trù liệu. Một tháng trước
khi chết, cụ sai người con út là Cao Kiệm mang báu vật duy nhất của gia tộc là
thanh kiếm này sang Giao Châu cất giấu. Rất tiếc tôi không biết cụ có nó từ bao
giờ và cách nào. Chỉ biết Cao Kiệm định cư hẳn ở Giao Châu, chính xác là ở tổng
An Lão, Bắc Ninh ngày nay và lập nên dòng họ Cao đông đúc của chúng tôi ở đó.
Còn thanh bảo kiếm thì được truyền hết đời này sang đời khác cho đến tôi”.
Ông
Ngạc đứng dậy, rút thanh kiếm khỏi vỏ. Nó mỏng và khá dài. Không phải màu xanh
nhạt mà hơi trắng xỉn, đôi chỗ đen như vết gỉ. Trông nó khá bình thường, là
điều ít nhiều làm tôi thất vọng.
“Ông
có thấy hai chữ Mạc Gia đây không?”
Tôi
cúi xuống nhìn nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy nét mờ vòng vèo chỗ sát đuôi kiếm.
Tuy vậy tôi vẫn có cái cảm giác hồi hộp thật lạ khi chạm ngón tay vào thanh
kiếm mát lạnh như chạm vào quá khứ xa xôi cùng những truyền thuyết ly kỳ về nó,
dù thực ra tôi chưa tin lắm những gì đang được chứng kiến.
“Đừng
chạm vào lưỡi. Sắc lắm đấy!”
Rồi
như để chứng minh cho độ sắc của thanh kiếm, ông vung tay chém cây nến còn mới
nguyên dài bằng gang tay trên chiếc đôn gỗ lim cạnh đấy.
“Ông
xem này, - ông Ngạc nói, chìa cây nến cho tôi. - Tôi mới chém ngang qua nó,
nhưng lưỡi kiếm sắc đến mức dẫu bị cắt làm đôi, cây nến vẫn còn nguyên, đơn
giản vì không có thời gian để đứt. Chỉ để lại một nhát cắt rất mảnh, nếu mắt
kém chắc ông không thấy”.
Tôi
nhìn thấy vết cắt ấy, thấy cả lưỡi kiếm chém đúng giữa thân nến, nhưng không
thể tin cách ông giải thích.
Biết
tôi đang băn khuăn, ông Ngạc đưa mắt nhìn quanh như muốn thử lần nữa. Bỗng
nhiên tôi thấy sợ. Một nỗi sợ mơ hồ như đang bị lôi vào một âm mưu mờ ám, dẫu
con người đang cầm thanh kiếm sắt ngọt trước mặt có vẻ tử tế và chắc không muốn
hại tôi.
Chợt
một con mèo tam thể rất to nhưng gầy từ phòng trong đi ra. Nó nhảy lên đứng
trên góc xa chiếc bàn lớn tôi đang ngồi, rồi uể oải vươn cổ ngáp đúng lúc ông
Ngạc vẩy lưỡi kiếm về phía nó. Con mèo kêu một tiếng. Chẳng hiểu vì bị chém hay
nó vẫn kêu như vậy mỗi lần ngáp.
“Tôi
mới chém đứt cổ nó xong. Đứt mà không đứt như vừa nói. Bây giờ chắc ông đã
tin?”
Tôi
ngồi im, phần vì sững sờ, phần chẳng biết nói gì.
“Vậy
hóa ra chém mà không chém?” Cuối cùng tôi lên tiếng.
“Theo
cách ông nghĩ thì đúng thế. - Ông Ngạc mãi lúc sau mới đáp. Ông cẩn thận cho
kiếm vào vỏ. Tôi lén thở dài nhẹ nhõm. May ông không có ý định thử chém người.
- Tức là một thanh kiếm vô tích sự vì không còn chức năng chém giết? Không. Đây
là Mạc Gia Thư kiếm, báu vật có một không hai trên đời. Chuyện nó hóa rồng xanh
cùng nhiều chuyện khác là do người ta phịa, nhưng quả đúng thanh kiếm có phép
lạ. Muốn giết ai, chỉ cần trỏ mũi kiếm vào người đó. Ông lại ngạc nhiên? Vì nó
sắc và mạnh đến mức có thể làm chết người qua khoảng cách, tất nhiên nếu khoảng
cách ấy không quá lớn”.
“Thế
thì thật nguy hiểm, - tôi nghĩ. - Vì vô ý hoặc do đùa, người ta có thể gây án
mạng”.
“Đúng.
Nhưng không phải trong bất kỳ tay ai nó cũng có được phép lạ ấy” Ông Ngạc nói.
Tôi
thầm ngạc nhiên sao ông đoán hiểu điều tôi nghĩ. Hay tôi đã nói lên thành lời?
“Chỉ
những người chủ hợp pháp của nó mới làm được. - Ông nói tiếp. - Mà lúc chỉa mũi
kiếm, phải có ý nghĩ muốn giết người ấy. Ông có muốn tôi thử cho xem không?”
“Không,
cảm ơn”, tôi vội đáp.
“Ông
ta kể mình nghe, cho mình xem tất cả những điều này để làm gì nhỉ? - Tôi lại
nghĩ. - Ông ta cần gì ở mình? Chắc mình được mời đến đây không phải vô cớ ”.
“Vâng,
không vô cớ, tôi muốn thương lượng với ông một chuyện”.
Ông
Ngạc nói ngay. Lần này thì tôi tin chắc ông có khả năng đọc được ý nghĩ người
khác, và thầm nhắc mình phải cẩn thận.
“Chuyện
gì?” tôi hỏi.
“Nếu
ông đồng ý, tôi xin được đổi thanh kiếm gia bảo này lấy cánh tay nàng Tiểu Ái”.
“Nhưng
đó là câu chuyện tôi phịa hoàn toàn. - Tôi kêu lên, suýt nữa phì cười. - Tôi là
nhà văn như ông biết, và chẳng hề có cánh tay Tiểu Ái nào cả. Cái tên ấy cũng
do tôi phịa ra!”
“Không
quan trọng. Tiểu Ái hay không Tiểu Ái không quan trọng. Cái quan trọng là từng
có một cô gái bị chặt tay như thế, và nhờ ông, cô gái ấy đã sống lại và được
mọi người biết đến, được cùng ai đó làm đàn bà trên giường. Có thể ông không có
cánh tay Tiểu Ái thật nhưng tôi hy vọng ông còn giữ được cái gãi lưng bằng nhựa
hình bàn tay người mua năm ngoái ở Trung Quốc. Cái mà ông viết bị con chó con
gặm mất một ngón và bà vợ ghen đem giấu đi ấy mà. Bây giờ ông vẫn có nó chứ?”
“Có.
Luôn ở ngay trên bàn làm việc của tôi. Nhưng tôi cũng phịa cả chi tiết nó bị vợ
giấu...”
“Không
quan trọng. Vậy ông có đồng ý đổi nó cho tôi để lấy thanh kiếm này không? Một
khi chẳng xem trọng nó như thế thì chắc ông không tiếc. Xin ông khỏi bận tâm
tôi cần nó làm gì. Tôi là người tử tế như ông nghĩ, và tất nhiên chỉ làm những
việc tử tế”.
“Nhưng
đây là Mạc Gia Thư kiếm, bảo bối vô giá của dòng họ ông?”
“Thì
cánh tay Tiểu Ái, hay cái gãi lưng nhựa rẻ tiền trên bàn như ông nói, cũng là
vật quí hiếm không kém. Vả lại tôi đã già, sống một mình và hiện không người
thân thích. Lớp người trẻ chi họ Cao Kiêm chúng tôi ngày nay chẳng đứa nào ra
hồn, không đáng truyền lại một vật quí hiếm thế này. Trong tay kẻ xấu, nó có
thể gây tai họa. Thà giao cho ông còn hơn. Lại được thêm nàng Tiểu Ái. Thế nào,
ông đồng ý chứ?”
“Tôi
sẽ làm gì với một thanh kiếm quí như thế?” Tôi hỏi, thầm nghĩ ông già này có lẽ
điên thật, nhưng vội đỏ mặt khi chợt nhớ ông ta biết đọc ý nghĩ người khác. Quả
có điên mới nghĩ ra được một vụ đổi chác kỳ cục như thế. Tức là ông ta cho
không tôi thanh kiếm.
“Đó
là việc của ông. Cũng như việc của tôi muốn làm gì với Tiểu Ái thì làm. Hy vọng
ông sẽ không giết người một cách vô cớ...”
“Tôi
không bao giờ giết người”.
“Vậy
thì hãy giữ nó như một thứ đồ cổ. Ông chẳng thích đồ cổ lắm đó sao?”
Thấy
tôi có vẻ xuôi xuôi, ông Ngạc nói thêm:
“Xin
ông đừng lo tôi thiệt. Có thể ông chưa biết hết giá trị cái gãi lưng của ông.
Tôi sẽ có cách lấy nó mà chẳng phiền ông mang đến đây. Còn cây kiếm này thì coi
như đã thuộc về ông. Hoàn toàn hợp pháp. Thế là chúng ta thỏa thuận xong. Cảm
ơn ông”.
Ông
Ngạc lại nghiêng đầu nhìn tôi bằng đôi mắt chim màu xám của mình rồi đứng dậy,
ông thong thả đi vào phía trong. Chiếc áo vét rộng màu xám xòe hai thân như hai
cánh chim đang vỗ. Một chốc sau ông biến mất (có cảm giác như ông nhẹ nhàng bay
đi), để tôi một mình ngơ ngác bên bàn với thanh kiếm Mạc Gia trên tay.
*
Về
nhà, việc đầu tiên tôi làm là chạy tới bàn xem chiếc gãi lưng có còn ở đấy
không. Không! Tôi ngồi xuống giường, thừ người một lúc. Vậy là ông Cao Kiêm
Ngạc đã lấy nó đi. Bao giờ và cách nào không biết, nhưng chắc chắn là ông. Nó
vẫn luôn nằm ở chỗ cố định ấy và chẳng ai ngoài tôi động đến nó.
Cái
ông Ngạc này là ai nhỉ? Người hay ma? Hay chim cú? Hay đơn giản tất cả chỉ là
một trò đùa chẳng mấy thú vị?
Còn
bàn tín bán nghi, nhưng tôi bị kích động thực sự và rất hồi hộp. Dù trong nhà
chẳng có ai trừ bà giúp việc luôn ở trong bếp, tôi vẫn đóng chặt cửa phòng mình
và quyết định thử chiếc kiếm.
Tôi
run run rút nó khỏi vỏ, để ngửa lên mặt bàn, và cũng run run như thế, đặt lên
lưỡi kiếm một tờ giấy trắng mới cứng. Ngay lập tức tờ giấy bị cắt làm đôi. Lưng
tôi ướt đẫm từ lúc nào. Sẵn trên bàn có cây nến, không còn nguyên nhưng khá
dài, tôi vội cầm kiếm cắt ngang. Chậm thôi, có lẽ vì vậy đoạn bị cắt rơi xuống
chứ không dính liền như ở nhà ông Ngạc. Tôi thử lần nữa, nhanh hơn, mạnh hơn,
rồi cầm lên xem, còn bẻ bẻ ở chỗ mới bị chém. Quả nó không sao. Thậm chí không
thấy cả vết chém. Tôi lại ngồi thừ người nhìn thanh kiếm, không phải không
thoáng lo sợ. Tuy nhiên, vẫn còn một điều nữa phải thử. Nhà tôi không nuôi mèo
nhưng có con chó con nghịch ngợm, hay sủa vu vơ. Nó là con chó dễ thương, nó
yêu tôi nhất vì không bị tôi mắng và hay được cho ăn. Tôi không thể đem nó làm
vật thí nghiệm.
Cuối
cùng, ngồi trước bàn làm việc nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ có kính che, tôi giơ
thanh kiếm nheo mắt chỉ đúng vào một quả trên cây cau trước nhà, ở khoảng cách
bảy mét. Cả buồng còn xanh non, không hiểu sao nó có màu vàng. Vừa ngắm, tôi
vừa mong nó rụng. Mấy giây sau, nó rụng thật, hình như bị bổ làm đôi. Sau đó
tôi chĩa mũi kiếm vào quả bóng nhựa màu xanh bọn trẻ đá lên mái nhà hàng xóm từ
bao giờ. Lập tức nó cũng rơi xuồng đất. Tôi còn thử một số khoảng cách khác và
phát hiện thấy nó chỉ có tác dụng trong vòng hai mươi lăm, ba mươi mét. Thế
cũng xa lắm rồi.
Tôi
cho kiếm vào vỏ, giấu kỹ dưới gầm tủ rồi lên giường nằm suy nghĩ miên man.
*
Vâng,
không nghi ngờ gì nữa, tôi đang có trong tay Mạc Gia thư kiếm, thanh kiếm quí
giá nhất trên đời, quí hơn cả nàng Tiểu Ái kiều diễm, nếu quả thật nàng đang ẩn
mình trong chiếc gãi lưng rẻ tiền của tôi mà ông Cao Kiêm Ngạc đang giữ. Tôi
thầm mỉm cười thương hại ông già tội nghiệp. Mong cho ông được hạnh phúc với
nàng.
Nhưng
tôi sẽ làm gì với thanh kiếm quí có phép lạ ấy? Trước hết tôi quyết định giấu
kín không cho ai biết, vì sợ vợ tôi tò mò có thể bị đứt tay hoặc thậm chí làm chết
tôi hay ai đó. Tôi có thể đơn giản giữ nó như giữ một thứ đồ cổ quí hiếm, ông
Ngạc từng nói như vậy. Tất nhiên, nhưng nó không chỉ là đồ cổ mà còn là thứ vũ
khí lợi hại. Vậy là tôi được trao phép lạ có thể hủy diệt cái gì đó, ai đó mà
không ai biết. Chẳng phải đấy không là một cám dỗ lớn? Tuy nhiên vốn hiền lành,
lại đã qua từ lâu cái thời có thể hung hăng gây gổ nên bây giờ tôi hoàn toàn
không có nhu cầu giết người. Mà cũng không có ai thù oán đến mức phải giết.
Tôi
có anh hàng xóm là một chủ doanh nghiệp tư nhân trẻ. Một tay hãnh tiến lắm tiền
nhiều thế lực. Kể ra anh ta cũng chẳng quá tồi so với người khác, có điều thích
khoe giàu một cách lộ liễu nên bị cả xóm ghét, chính xác hơn là ghen tị. Tôi
thì dửng dưng, chỉ hơi khó chịu vì chiếc Mercedes mới toanh của anh ta hay đột
ngột bấm còi (để nhắc người khác nhớ đến sự hiện diện của nó), lại thường xuyên
để chềnh ềnh trước nhà tôi làm vướng lối đi. Hôm nọ thấy tôi vội vã ra bến xe
buýt, anh ta ngỏ ý mời lên xe đi cùng vì tiện đường. Có thể chân thành chứ
chẳng ý gì, nhưng tôi vẫn thấy như bị xúc phạm. Lúc này từ trong phòng nhìn ra, với thanh kiếm có phép
lạ bên cạnh, tôi bất chợt thấy mình có ý nghĩ muốn chĩa mũi kiếm sắc nhọn vào
lốp hay lớp sơn bóng lộn của chiếc xe, biểu tượng giàu có và địa vị xã hội,
đồng thời cũng là cái làm người sở hữu nó trở nên kệch cỡm. Chắc thấy xe xẹp
lốp hoặc thân bị chọc thủng, anh ta sẽ đau đớn lắm. Hay cứ dạy cho anh ta một
bài học?
Vì
không là người ác, cuối cùng tôi đã không làm điều ấy. Nhưng ý nghĩ kỳ cục này
cứ lẫn quất mãi trong đầu, đến mức không tập trung làm việc được. Cuối cùng tôi
giấu thanh kiếm vào chỗ cũ và bỏ đi dạo.
Thường
vẫn thế, khi ta cố không nghĩ đến cái gì đó thì cái ấy càng ám ảnh ta nhiều
hơn. Đúng, tôi đang bị thanh kiếm ám ảnh, ám ảnh ghê gớm. Suốt buổi chiều hôm
ấy tôi không nghĩ được gì khác ngoài nó. Thậm chí tay như ngứa ngáy. Bước đi
trên hè phố, tôi hình dung đang cầm kiếm giết kẻ ác giúp đời. Giết cả bọn khủng
bố quốc tế như Bin Laden chẳng hạn. Ngớ ngẩn, nhưng quả thật tôi có những ý nghĩ
như vậy. Hệt như một tên khát máu giết người không ghê tay. Thấy con chó chạy
ngang, tôi nghĩ kể cũng hay nếu chém nó đứt đôi mà không đứt đôi như cây nến ở
nhà ông Ngạc.
Chiều
hôm ấy tôi phóng xe đến nhà ông và không tin nổi mắt mình khi thấy ở đúng số
nhà trên phố hôm trước tôi đã đến theo đúng địa chỉ ghi trong thư, bây giờ là
một ngôi nhà khác hẳn với bà lão chủ nhà đang ngồi bán mấy thứ vặt vãnh trước
cửa. Vậy là ông Ngạc này không phải người mà ma quỉ. Tôi lo lắng nghĩ rồi bỏ đi
luôn.
Buổi
tối ngồi ăn cơm, tôi nhìn chiếc cổ trắng hơi đẫy đà của vợ và lại nghĩ đến
thanh kiếm. Tôi rùng mình hình dung thấy thanh kiếm sắc ngọt chém đứt cái cổ
trắng đẫy đà ấy mà đầu vẫn không rơi. Không có máu. Không chết.
“Ông
nhìn gì thế?” vợ tôi hỏi.
“Hình
như dạo này bà béo ra”.
“Vớ
vẩn. ăn đi. Lại phịa ra một nàng Tiểu Ái nào nữa chắc? Đã điên còn làm người
khác điên theo”.
Vợ
tôi vẫn có kiểu nói như vậy nhưng thường lại nghĩ khác nên tôi không bao giờ
cãi lại. “Lần này thì là chuyện thật đấy, không đùa chút nào đâu!” tôi nghĩ
nhưng không nói ra miệng.
Tôi
ngủ một đêm chập chờn với những giấc mơ kỳ cục và kinh hãi.
*
“Ban
đêm ông dậy lục tủ lạnh đấy à?” Vợ tôi hỏi khi ngồi vào bàn ăn sáng.
“Không,
- tôi đáp. - Thì sao?”
“Chẳng
sao cả. Tôi nghe có tiếng động”.
“Hình
như nhà ta có ma...” bà giúp việc rụt rè lên tiếng. “Đêm qua, lúc gần sáng cháu
thấy động ở phòng khách, sợ con mèo nhà bà Nguyệt làm đổ mấy lọ sứ nên chạy vào
xem. Cháu hoảng hồn đứng lặng người khi thấy ai đó mặc đồ xanh đang múa may
quay cuồng như tấm vải lớn lượn vòng với cái gì đó sáng loáng trong tay. Cháu
sợ quá không kêu lên nổi. Khi dụi mắt nhìn kỹ thì chẳng thấy gì nữa. Nói ông bà
đừng cười, nhưng người ấy, tấm vải ấy múa thế này này...” Bà đưa bàn tay đang
cầm đũa khua một vòng trước mặt. “Sau đó cháu chẳng dám ngủ nữa, cũng chẳng dám
vào phòng khách, nhưng chắc chắn người đó còn múa thêm một lúc mới thôi”.
“Nhảm
nhí. Ma với quỉ!” tôi nói át đi.
“Người
ta bảo xóm ta trước đây là nghĩa địa phải không ạ?”
“Cũng
nhảm nhí nốt. Ao muống chứ nghĩa địa nào?” Tôi đáp dù biết quả đúng như thế.
Nghĩa địa làng Ngọc Lâm. Nhưng chắc điều này không liên quan gì đến chuyện bà
ta kể. Chúng tôi sống ở đây gần chục năm mà chẳng có gì xẩy ra.
Cả
ba ngày tiếp theo bà giúp việc vẫn kêu nhà có ma, mặt phờ phạc hẳn do mất ngủ
và lo sợ. Vợ tôi không nói gì thêm nhưng chắc nghĩ chồng đêm đêm vẫn lục tủ
lạnh.
Tôi
lại lấy thanh kiếm ra xem. Nó vẫn ở chỗ cũ, lạnh lẽo và vô hồn. Từ trong phòng,
qua lớp kính cửa sổ, tôi thử nghịch, làm đứt một cành lớn hoa giấy, cách chỗ
ngồi đến mười lăm mét. Những ý nghĩ vớ vẫn lại lởn vởn trong đầu. Hai tay như
ngứa ngày muốn làm điều gì. Sự ngứa ngáy của người có sức mạnh muốn đem ra thử.
Đấy là sự lạ vì xưa nay tôi ít khi bị phân tán tư tưởng, càng không nghĩ vẩn vơ
việc chém giết. Nghĩa là đã xuất hiện một sự thay đổi nào đó trong tôi. Thanh
kiếm! Chính sức mạnh và phép lạ của nó làm tôi thay đổi. Thay đổi theo hướng
nguy hiểm. Thế thì thật đáng sợ.
Tối
ấy đang ngủ, tôi chợt mở mắt và thấy đứng ngay đầu giường là một người phụ nữ,
hay đúng hơn cái gì đó giông giống người phụ nữ với thanh kiếm sáng loáng trong
tay. Tưởng mình mơ tôi dụi mắt, vẫn thấy người ấy đứng yên và đang chăm chú
nhìn tôi. Dụi lại lần nữa thì chẳng còn thấy đâu. Sáng hôm sau chưa kịp dậy,
tôi đã nghe bên ngoài nhốn nháo tiếng người. Thì ra có kẻ ghen tị độc ác đã
dùng dao đâm thủng hai vết lớn vào thân xe bóng lộn chiếc Mercedes của anh hàng
xóm vẫn đỗ bên cổng nhà tôi như mọi lần...
P.S.
Chuyện
này xẩy ra cách đây ba ngày. Trong khoảng thời gian ấy công an đã kịp đưa cậu
Hoàng lên đồn. Cậu ta thuộc loại “thanh niên chậm tiến”, con một gia đình trong
xóm vừa có trận cãi nhau với chủ chiếc Mercedes. Tôi kịp thuyết phục bà giúp
việc đừng vì sợ ma vu vơ mà bỏ về quê. Trong ba ngày ấy, tôi cũng kịp lén lút
đem thanh Mạc Gia Thư kiếm quí hiếm đến một lò rèn ở phố Sinh Từ nhờ rèn thành
mấy chiếc liềm cắt cỏ. Vì sao lại liềm cắt cỏ? Đơn giản lúc ấy tôi không nghĩ
được gì khác ngoài chúng. Tôi vốn từ nông thôn, ngày bé từng chăn trâu cắt cỏ.
Ông chủ lò rèn có vẻ tiếc khi phải đem thanh kiếm cổ làm thành những vật tầm
thường như vậy. Ông gạ mua, trả giá cao nhưng tôi không chịu. Cuối cùng, sau ba
giờ mấy người làm việc cật lực trước sự chứng kiến của tôi, tôi có được bốn
chiếc liềm mang về nhà. Những chiếc liềm bình thường, thậm chí hơi thô. Tôi giữ
một chiếc cho mình làm kỷ niệm, còn lại có dịp sẽ gửi về quê.
Vậy
là thoát được thanh kiếm quí. Thật lạ rằng tôi có thể giải quyết mọi việc đơn
giản và nhanh chóng đến vậy, và không mảy may luyến tiếc. Bà giúp việc không còn thấy ma, do vậy
đêm ngủ không bật đèn sáng trưng như trước. Tôi cũng lấy lại được sự thanh
thản, trong đầu không còn luẩn quẩn những ý nghĩ kỳ cục, trừ một ý nghĩ nhỏ
rằng một người bình thường có thể sống thảnh thơi, hạnh phúc suốt đời nếu không
vì bỗng nhiên có được sức mạnh hay loại vũ khí phi thường nào đó. Lúc ấy mọi
việc sẽ phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Cho mình và cho người khác.
À,
còn thêm điều này nữa. Đêm qua tôi đã gặp Mạc Gia. Vâng, đúng thế. Số là đang
ngủ, tôi có cảm giác như ai đang chăm chú nhìn mình. Mở mắt ra thì thấy người
đàn bà áo xanh hôm nọ. Bà xưng tên và cho biết trước đây bà chỉ là cô gái nông
thôn nghèo bình dị, vì có chút nhan sắc nên bị Can Tương bắt về làm lẽ, sau
cũng chính ông ta xô bà vào lò luyện kiếm chứ chẳng phải tự bà hy sinh vì chồng
như người ta nói. Từ ấy bà phải làm cái
việc chém giết mà bà luôn kinh tởm. Nay được giải phóng về với nơi mình
vốn quen thuộc là làm ruộng, bà rất mừng, do vậy bà đến để cảm ơn tôi trước khi
lên đường trở lại quê cũ.
Câu
chuyện ly kỳ đến mức tôi không dám tin là
thật, và dù được tận mắt nhìn thấy bà, nghe bà nói, tôi vẫn nghĩ có thể
đấy đơn giản chỉ là một giấc mơ. Dạo này già, thỉnh thoảng tôi vẫn có những
giấc mơ như vậy.
Hà Nội, tháng Năm, 2002
NHÀI
Lần
ra Hà Nội công tác gần đây, ông N., người bạn cũ từng cung cấp tư liệu giúp tôi
viết truyện ngắn “Cái chết của con voi chột” hai mươi năm về trước, đã kể tôi
nghe một câu chuyện kỳ lạ, cũng xẩy ra ở cái nông trường S.V ấy. Nếu có điều gì
phi lý, cho rằng không thể tin được, thì các bạn cứ trách ông chứ không phải
tôi, người đơn thuần chỉ thuật lại một cách trung thực.
*
Ở
thị trấn miền núi Tương Dương, tỉnh Nghệ An, cách đây khoảng chục năm có người
họ Bùi, tên Kiên. Không ai biết nhân thân, quê quán hắn ở đâu, chỉ thấy một hôm
có mấy người lạ xuất hiện, đẵn cây dựng ngôi nhà nhỏ bên rìa thị trấn. Rồi mấy
người kia đi, để mình hắn ở lại. Có lẽ họ là dân đào vàng thất bại không muốn
trở về quê. Thị trấn phát triển, khu hắn ở dần dần thành xóm mới và hắn nghiễm
nhiên thành láng giềng của mấy gia đình khá giả có nhà mái bằng một, hai hoặc
thậm chí ba tầng, nhà nào cũng có rào sắt bao quanh sơn màu xanh tươi, hơi chối
đối với người thành thị xịn, nhưng đó là mốt của dân ở đây.
Hắn
hiền lành, chỉ tội hơi đần độn, không biết học hành được bao nhiêu nhưng cách
cư xử, ăn nói thì không đến nỗi. Mà hắn cũng rất ít nói. Chỉ cười, thấy ai cũng
cười, kiểu cười bộc lộ rõ chất thiểu năng trí tuệ của hắn.
Sống
ở thị trấn, theo nghĩa nào đó là dân thành thị, nhưng hắn kiếm ăn hệt như người
miền núi, hàng ngày vào rừng đào măng mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo và các
thứ lặt vặt khác. Vì tốt bụng, hắn hay đem măng biếu không hàng xóm, giúp họ
nhiều việc như cuốc mảnh vườn, sơn lại bờ rào. Tất nhiên không ai trả tiền công
mà có trả hắn cũng không lấy. Thành ra mọi người thích, có thể nói thương hắn.
Thương anh Kiên Hiền. Tội nghiệp anh Kiên Khù Khờ, hơn ba mươi tuổi rồi mà
chẳng cô nào chịu lấy.
Thậm
chí cả mụ Xinh nhà kề bên cũng thích hắn. Tên là Xinh nhưng mụ chẳng xinh chút
nào, bốn mươi tuổi, to béo, mặt bóng nhẫy, nhìn kỹ thấy có những nốt đậu mùa to
còn sót lại. Mụ đanh đá, độc ác, lại có tính lẳng lơ. Chồng mụ lái xe đường
dài, có khi hàng tháng chẳng về. Thấy anh hàng xóm cao to trắng trẻo, dẫu ngốc
nhưng đúng là người mụ cần, nhiều hôm mụ vờ gọi hắn sang nhờ này nọ rồi trắng
trợn gợi ý. Có thể vì không muốn, vì sợ hoặc vì ngốc không hiểu, hắn chẳng chịu
làm gì, khiến mụ tức lắm, một lần đốp luôn vào mặt: “Đàn ông mà ngu thế!” Đáp
lại, hắn chỉ cười, nụ cười ngớ ngẩn thường ngày.
Lần
nọ, chẳng hiểu thế nào cái thằng ngốc hiền lành ấy nhặt được đâu đó một cây
nhài người ta vứt ngoài đường, đem về trồng trước ngôi nhà tuềnh toàng của
mình. Cây hoa còn rễ nhưng đã héo, người khôn ngoan chắc chẳng trồng vì biết nó
không sống nổi. Thế mà nó sống lại rất nhanh và chẳng bao lâu sau đã thành một
bụi nhài xanh tốt nở nhiều hoa, tỏa hương thơm nồng, đến mức mụ Xinh chõ miệng
sang, buông hai tiếng: Điếc mũi! Tuy nhiên, hắn lại thích cái mùi găn gắt dễ
chịu ấy. Đêm đêm hắn xách ghế ra ngồi ngoài sân bên bụi nhài, thỉnh thoảng nhíu
mũi hít thật sâu, có khi còn hái một bông mân mê trên tay, mặc cho mụ hàng xóm
lườm nguýt hoặc cười duyên tình tứ. Đây là sự lạ, vì xưa nay hắn không thuộc
loại người lãng mạn, lại càng xa với những thứ vớ vẩn như hương, hoa. Chẳng
hiểu trong cái đầu chậm chạp và tăm tối ấy của hắn đã xuất hiện những ý nghĩ
gì.
Một
đêm, đang mơ mơ màng màng trên giường sau khi ngồi hàng giờ liền ngửi hương hoa
ngoài sân, hắn bỗng nghe có tiếng cửa mở rồi tiếng chân ai đó đang bước vào rất
khẽ. Lúc đầu tưởng ngái ngủ nghe nhầm, nhưng sau mở mắt, hắn ngạc nhiên thấy
đúng có người vào nhà hắn thật mà lại phụ nữ. Một cô gái mặc đồ trắng dáng mảnh
khảnh và hình như xinh. Nhờ ánh trăng chiếu chếch qua vách nhà thưa, hắn thấy
đúng như vậy. Rõ ràng không phải mụ Xinh như lúc đầu thoạt tưởng. Hắn lấy làm
lạ. Ai nhỉ? Sao lại vào đây và giờ này? Đầu óc chậm chạp của hắn bắt đầu ngọ
nguậy. Có thể cũng vì chậm chạp và ngớ ngẩn nên hắn không thấy sợ như người
bình thường trong những trường hợp tương tự. Chỉ tò mò. Người kia, đúng là một
cô gái và cũng xinh, bước lại gần rồi nhẹ nhàng ngồi xuống mép chiếc giường nơi
hắn, kể cũng lạ, vẫn nằm yên. Chắc lúc ấy hắn vẫn nghĩ đây chỉ là giấc mơ, một
giấc mơ đẹp và hắn không muốn ngồi dậy để thất vọng quay lại với cảnh suốt đời
một mình thui thủi.
-
Cô là ai? - cuối cùng hắn lên tiếng hỏi.
-
Em là Nhài, - cô gái nhỏ nhẹ đáp.
Hắn
thích cái tên ấy, thích cả mùi hương hoa nhài tỏa ra từ người cô, hệt như mùi
bụi hoa ngoài sân.
-
Anh đã cứu sống em. Bây giờ em đến ở với anh, nếu anh không đuổi em đi. - Cô
gái nói tiếp, âu yếm nhìn hắn.
Hắn
không đáp vì chẳng biết nói gì. Cái khả năng nói vốn kém cỏi bây giờ hầu như tê
liệt hoàn toàn. Hắn biết cả đời hắn chưa bao giờ cứu sống ai, nhất là cô gái xa
lạ này. Nhưng hắn đã không đuổi khi cô ngả người nằm xuống cạnh. Dẫu ngốc, hắn
cũng biết phải làm gì tiếp, ít ra đây không phải mụ Xinh xấu xí và đanh đá. Có
thể cả lúc ấy hắn vẫn nghĩ mình đang mơ, mơ được chiếm đoạt một người đàn bà
đẹp, lại có đúng cái mùi hắn thích. Người này đã tự nguyện đến với hắn.
Sáng
hôm sau tỉnh dậy hắn mới thực sự ngạc nhiên khi thấy người đàn bà trong mơ ấy
đang lúi húi làm gì trong bếp nhà hắn. Lát sau cô bê ra một đĩa sắn luộc và
chiếc ấm chè xanh. Hắn ngỡ ngàng nhìn, cô chỉ cười e lệ. Lần đầu tiên trong đời
có người đàn bà lo bữa sáng cho hắn.
-
Nhài? - Cuối cùng hắn lên tiếng.
-
Vâng, em là Nhài. Vợ anh.
Hắn
lại càng ngạc nhiên hơn. Hắn đã có vợ? Cô gái xinh đẹp này là vợ hắn?
-
Vợ?
-
Vâng, em sẽ là vợ anh. - cô gái đáp. - Mà em đã là vợ anh. Anh không thích sao?
-
Thích. - Hắn chỉ nói được từng tiếng một, vẫn chưa hoàn toàn tin những điều
đang xẩy ra.
Hắn
trố mắt nhìn cô gái tên Nhài, “vợ” hắn. Và nhíu mũi ngửi. Có mùi hoa nhài. Như
mùi đêm qua, như ở ngoài sân. “Vợ” hắn vẫn mặc bộ đồ trắng, rất trắng và mịn.
Xinh. Có điều nhợt nhạt, hình như hơi gầy. Hắn có cảm giác nhìn xuyên qua được
người cô, cứ tưởng chỉ cần một cơn gió mạnh, thậm chí chỉ cần hắn chạm vào
người hay nói to là cô có thể vụt bay đi mất. Mà hắn thì không muốn cô bay đi
nên không hỏi thêm điều gì nữa, chỉ ngồi đực ra, vốn đã ngớ ngẩn trông lại càng
ngớ ngẩn hơn.
Vậy
là hắn đã có vợ. Vợ ra vợ chứ không như mụ Xinh, hay cả cô Hường con dâu ông
chủ tịch thị trấn đối diện nhà hắn. Con trai ông cưới vợ tháng trước. To lắm, đông
lắm, có cả ô tô. Còn cô dâu thì mọi người khen rất xinh và được tặng thật nhiều
quà. Thế mà cô gái xinh đẹp đám cưới có ô tô ấy chẳng bằng Nhài. Đấy là chưa
nói người cô kia không có mùi thơm như vợ hắn. Không nước hoa mà vẫn thơm. Hắn
nghĩ thế và lấy làm thích lắm.
Người
ta nói đàn ông lấy vợ sẽ khôn ra, tu chí hơn. Điều này quả đúng với trường hợp
của hắn. Dẫu ngốc, hắn vẫn biết trong việc hắn có vợ có điều gì đấy không bình
thường. Lại thêm việc không ăn hỏi, cưới xin, hình như còn chuyện giấy tờ, đăng
ký gì nữa với thị trấn nữa. Thế thì không ổn. Hắn quyết định vợ hắn sẽ không
bước chân khỏi nhà, ít ra một thời gian. Cô Nhài đồng ý ngay. Dường như cô cũng
ngại bị người khác nhìn thấy. Lần đầu tiên, hắn ý thức được trách nhiệm của
người chồng và chủ gia đình. Có cái gì đấy âm ấm xuất hiện trong lòng hắn. Đầu
óc hẳn cũng sáng dần ra. Bây giờ hắn ở trong rừng lâu hơn để kiếm thêm măng.
Hắn không đem măng cho người khác như trước. Đi đâu hắn cũng lo lỏm về sớm vì
biết có người đang chờ.
Cứ
thế họ sống hạnh phúc với nhau. Rất nhanh chóng, hắn học được cách xưng hô anh
em âu yếm với vợ. Ngôi nhà được tu sửa đôi chút với mái tranh mới và các vách
được trát lại, vì hắn sợ có ai tò mò nhìn vào. Thậm chí khoảnh đất sau nhà bỏ
hoang lâu nay cũng được cuốc xới trồng lèo tèo mấy luống rau cải. Tiếc rằng hắn
vụng nên chúng cứ chết lụi dần. Tóm lại hắn, cái anh chàng Bùi Kiên đần độn ấy,
đã thành người gần như bình thường. Một điều đáng mừng cho hắn và cho mọi
người...
Một
buổi sáng, thấy hắn vác dao vào rừng, mụ Xinh đứng sau hàng rào nhà mụ, nói chõ
sang:
-
Anh Kiên cũng ghê đấy nhỉ. Biết đưa gái vào nhà.
Môi
mụ cong cớn, hằn học. Từ lâu mụ đã thất vọng bỏ ý định mồi chài hắn.
-
Bà nói thế nghĩa là gì?
-
Ngốc mà cũng khéo giả vờ. Tôi thừa biết anh chị hú hí với nhau bao lâu nay.
Tưởng không có “cái ấy”, hóa ra...
-
Vợ tôi đấy.
-
Vợ? Ghê chưa! Thế cưới xin bao giờ?
-
Không phải việc của bà, - hắn giận dữ nói rồi bỏ đi.
Mụ
nói với theo:
-
Tôi sẽ mách chính quyền để người ta gô cổ nó lại đưa vào trại cải tạo gái mại
dâm.
Hôm
sau có người của thị trấn tìm đến nhà hắn thật, nhưng họ chỉ hỏi qua đôi điều
rồi bỏ đi, bảo nên sơm sớm tổ chức lễ cưới cho hợp lẽ. Cũng từ hôm ấy, cô Nhài
bước ra khỏi nhà, cuốc xới, dọn dẹp, có hôm còn đi chợ. Vẻ đẹp, sự ẻo lả, nước
da và bộ quần áo luôn màu trắng khiến cô nổi bật hẳn ở nơi quê mùa heo hút này.
Khối người ghen thầm, bảo anh Kiên Hiền mèo mù vớ cá rán. Nhưng nói chung mọi
người mừng cho hắn. Cái thằng ấy hiền, trời lại bắt tội đần độn, biết đâu lấy
vợ chẳng khôn ra? Mà hắn hình như đã bắt đầu khôn ra rồi đấy. Còn con bé kia,
từ chỗ lầm lỡ nay biết hoàn lương cũng tốt chứ sao...
Chỉ
tiếc mụ Xinh không có được cách nghĩ bao dung đó. Mụ hằn học ra mặt, cứ lồng
lên như con chó dại, hết kêu chính quyền nhu nhược lại hăng hái đi khắp nơi nói
xấu nhà hàng xóm. Mụ tìm cách bắt chuyện, khiêu khích cô Nhài nhưng cô chỉ im,
cười bẽn lẽn. “Làm đĩ còn tỏ ra chính chuyên!”
Một lần thấy mụ gọi vợ là đĩ, hắn trợn mắt, chạy đến dí chiếc dao to bản
vào cổ mụ, khiến từ đấy mụ không dám gọi thế nữa. Nhưng mụ vẫn căm lắm, vẫn tức
lộn ruột khi mỗi buổi sáng thấy cô hàng xóm xinh đẹp hái một bông nhài cắm lên
mái tóc. Dơ! Mụ căm cả việc vợ chồng thằng đần kia cũng có lọ hoa để trên chiếc
chõng tre như bao nhà tử tế khác. Dơ!
Một
tối nọ đang ngủ, hắn chợt thức dậy và thấy Nhài đang quằn quại bên cạnh. Hắn
vội vã bật đèn. Cô ôm bụng, co gập người rên lên đau đớn. Hắn hoảng hốt hỏi có
chuyện gì nhưng cô không nói được, mặt trắng nhợt. Hắn bế vợ lên tay, chẳng
biết phải làm gì. Người cô nhẹ tênh, mỗi lúc một lả dần. Cuối cùng cô đem hết
sức ngước lên nhìn hắn, định nói gì nhưng không được. Chỉ đôi mắt mở to nhìn
hắn, đau đớn, biết ơn, âu yếm và luyến tiếc lẫn lộn. Cô khóc. Những giọt nước
mắt to rơi lên đôi tay sần sùi của hắn. Rồi cô ngừng co giật, teo dần, teo dần
cho đến khi trong tay hắn chỉ còn lại một bông hoa nhài lớn đã héo và mấy viên
ngọc màu trắng lẫn vài viên màu hồng.
*
“Lúc
ấy trời vừa rạng sáng. Hắn ngơ ngác cầm bông hoa héo bước ra sân và thấy cả bụi
nhài đã bị chặt ngang gốc, còn ri rỉ máu”. - Ông N. kể tiếp.
“Mụ
Xinh đã làm điều đó?” tôi vội hỏi.
“Vâng.
Chính con mụ độc ác đó. Trưa hôm ấy, khi biết chắc điều này, hắn lẳng lặng cầm
dao sang nhà mụ, chẳng nói chẳng rằng, chém một nhát đứt ngang cái cổ to bè của
mụ. Chiếc đầu bị chém bay tận góc nhà”.
Cả
hai chúng tôi cùng im lặng. Cuối cùng ông N. lên tiếng, giọng xa vời:
“Thế là Kiên Hiền thành Kiên Điên.
Bông hoa làm anh ta khôn ra, hạnh phúc hơn. Vậy mà con người nỡ cướp đi cái
hạnh phúc nhỏ bé ấy rồi đưa anh ta trở lại không chỉ thành đần độn mà còn thành
điên. Tội nghiệp. Sao người ta có thể ác với nhau như thế được nhỉ?
Hà Nội, 23. 9. 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét