Thứ Hai, 2 tháng 3, 2020

Truyện mi-ni




Những truyện ngắn chỉ lớn bằng lòng bàn tay
LỜI MÀO ĐẦU CỦA TÁC GIẢ        

Tôi mượn đầu đề này của nhà văn Nhật nổi tiếng Yasunari Kawabata. Ông cũng có một chùm truyện ngắn với tên gọi như vậy. Cách đây ba chục năm chính tôi dịch và in báo một số truyện trong chùm ấy, nay thất lạc chẳng nhớ gì. Chỉ mang máng nhớ một truyện nói về người đàn bà nọ mang thai những mấy năm mới đẻ. Thì ra bà ta gắng chịu đến khi chiến tranh kết thúc mới dám cho con ra đời để tránh họa binh đao. Truyện khác về một người đàn ông từ xa về đến nhà thì vợ đã chết, người xám ngoét, nhăn nhúm. Suốt nhiều giờ liền ông ta dùng đôi tay khỏe mạnh của mình xoa bóp cơ thể vợ cho đến khi da thịt căng ra, đỏ hồng. Và bà đã mỉm cười với ông. Cả hai truyện đều rất ngắn, đúng chỉ bằng lòng bàn tay như tên gọi, nhưng ấn tượng để lại thật sâu sắc, trong khi suốt đời mình có lẽ tôi đã đọc đến cả núi sách, phần lớn thường dài mà đọng lại trong trí nhớ chẳng được bao nhiêu.
Vả lại thời gian gần đây do tuổi tác, tôi đọc nhiều các tác phẩm triết lý của người xưa. Các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử hoặc Trang Tử đều rất kiệm lời. Nhiều khi cả triết lý vĩ đại chỉ nằm trong mấy chữ. “Tri giả bất ngôn, Ngôn giả bất tri” (Nói là không biết. Biết thì không nói)  của Lão Tử là một thí dụ. Thơ Đường luật và thơ ngũ ngôn xưa cũng vậy. Cách nói của người xưa là không nói, mà chỉ gợi ý để người đọc tự suy ngẫm, tự tìm ra ý và cái triết lý sâu xa tác giả muốn nói.
Có người ví văn chương vốn dĩ như con đường bằng phẳng đã trải nhựa, đáng lẽ theo đó mà đi thì nhân danh cái mới, chúng ta cứ thi nhau phá phách đâm ngược rẽ xuôi, đào chỗ này, đắp chỗ kia, đến mức làm méo mó cả văn chương. Tất nhiên không ai phủ nhận những tìm tòi, sáng tạo chân chính để khỏi phải dẫm chân tại chỗ. Nhưng những gì đã định hình và được mọi người chấp nhận là chuẩn mực thì nên chăng cứ thế mà chấp nhận. Cái mới nằm ở nội dung, không nhất thiết ở hình thức và cách diễn đạt nội dung đó. Suy cho cùng, như Khổng Tử nói, văn dĩ tải đạo. Mà đạo thì giản dị, rạch ròi và luôn đi thẳng. Tôi nghĩ bộ com-lê chững chạc và chiếc cà vạt khiêm tốn cả thế giới đang mặc còn tồn tại lâu, và sẽ ngớ ngẩn nếu ai đó tìm cách làm một cuộc cách mang lớn nhằm thay đổi chúng.
Nhiều truyện ngắn của ta hiện nay, trong đó có truyện của tôi, công bằng mà nói, có thể rút ngắn từ một vài chục trang xuống vài ba trang hoặc thậm chí ít hơn mà vẫn truyền tải hết ý. Chưa chừng hiệu quả còn lớn hơn. Đấy là chưa nói việc bây giờ thời đại tin học với nếp sống công nghiệp bận rộn, hơi đâu người ta chịu nghe mình rông dài này nọ. Cá nhân tôi cũng luôn thích đọc những truyện ngắn và không muốn tác giả hiểu hộ cho mình.
Đó là lý do khiến tôi thử viết chùm truyện này. Những truyện chỉ lớn bằng lòng bàn tay. Còn việc chúng có được như tôi mong muốn hay không thì lại là chuyện khác.

1. NHỮNG NỐT NHẠC ĐEN TRẮNG

Căn phòng nằm trên tầng cao nhất một chung cư mới xây ở Vũng Tàu, nên dẫu xa bờ vẫn có thể nhìn thấy biển, nhưng lúc này biển chẳng có gì để nhìn vì trời đang mưa.
Trong phòng có ba người. Nửa nằm nửa ngồi trên chiếc đi-văng là một ông già gầy khô, tóc trắng, hai bàn tay nhăn nheo đặt lên đầu gối, với những chiếc ngón dài như ngón tay Chúa trong tranh của El Greco. Ông ngồi như thế đã lâu, hoàn toàn bất động. Đôi mắt cũng bất động nhưng không nhắm. Có vẻ ông đang ngủ thiếp. Nhiều người già vẫn hay ngủ thiếp cách ấy.
Hai người kia là anh con chưa đến bốn mươi, béo mập và mút hai đầu như chiếc bánh mỳ căng phồng, tóc húi cua lởm chởm, và đứa con gái mười tuổi dài ngoẵng như nhiều đứa khác ở cái tuổi ấy. Nó đang học đàn với bố. Những ngón tay nhỏ và ngắn lóng ngóng lướt trên phím đàn pianô. Thỉnh thoáng gặp chỗ khó, nó ngừng đàn ngước nhìn bố vẻ xin lỗi. Anh kia nói điều gì đấy rồi ngồi yên chờ con chơi tiếp. Khác với vẻ ngoài đồ sộ, thậm chí hơi dữ dằn, anh ta có giọng nói nhỏ nhẹ. Cả cách nói cũng nhỏ nhẹ.
Cách đây nửa tháng, đang đêm, ông bố gọi điện từ Hà Nội vào:
- Lúc nãy con thổi bài Hành Khúc của Verdi à?
Anh con giật mình:
- Vâng, làm sao bố biết ạ?
Ông bố không đáp, mãi lúc sau mới nói:
- Nó làm bố nhức đau nhói trong ngực.
Đó là bản Hành khúc Thắng lợi Ai Cập trong vở ôpera Aida nổi tiếng của Verdi. Anh vốn là nhạc công của Dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội, chơi kèn trompet. Cũng ở dàn nhạc này, trước bố anh chơi đàn viôlông bè một, sau mắc chứng suy tim nên thôi.
Nghe bố nói thế anh thấy lo. Ông là người rất nhạy cảm, anh biết, nhưng ở cách hàng ngàn cây số mà nghe được con thổi kèn, lại còn đau trong ngực thì quả có cái gì đấy không ổn. Mấy ngày sau, thấy bố lại gọi điện kêu đau đầu khi anh thổi một bài nhạc buồn chuyển thể của Sô-panh, anh lập tức bay ra Hà Nội đưa ông vào ở cùng, dù vẫn như trước, ông thích sống một mình.
- Con bé tập pianô có làm phiền bố không ạ? - anh hỏi. Từ hôm có bố trong nhà, anh không thổi kèn nữa.
- Không, - ông đáp. - Ngược lại, còn thích.
Thế là hôm nay tự ông vào phòng cháu rồi ngồi bất động trên ghế suốt từ nãy đến giờ.
Anh con đang nhẹ nhàng giải thích tính chất một đoạn nhạc khó:
- Con chơi đúng nốt, đúng nhịp đấy, nhưng chưa có nhạc. Nhạc là hồn, là tình cảm, con biết rồi mà. Như chỗ này chẳng hạn, - anh cúi xuống dí ngón tay quả chuối vào mấy dòng nhạc. - Phải dịu dàng hơn, đặc biệt các phím đen. Phím đen không chỉ có màu sắc mà tình cảm cũng khác phím trắng. Biết nói thế nào được nhỉ?... Như ngày và đêm vậy, như niềm vui và nỗi buồn…
- Con không thích phím đêm, - cô bé lí nhí đáp.
- Nhưng đó là cuộc sống. Có ngày phải có đêm. Có vui ắt có buồn. Rốt cục bản nhạc cuộc đời nào cũng chỉ hai nốt đen trắng ấy, và chúng đang ở trong tay con. Con phải xử lý chúng cho đúng, phải làm sao để thành dòng chảy, mượt mà và tương phản. Đằng này con chơi khô khan, các nốt nhạc cứ như va vào nhau rơi tung tóe xuống đất. Con không thấy thế à? Nào chơi lại bố nghe.
Dẫu chưa lĩnh hội hết những lời triết lý kia của bố, cô bé ngoan ngoãn chơi lại cả bản nhạc, nét mặt căng thẳng như người lớn. Cả lần này nó vẫn chưa kết hợp nhuần nhuyễn được các nốt trắng đen ngày đêm, hạnh phúc và nỗi buồn ấy. Và chúng vẫn tiếp tục “va vào nhau rơi tung tóe xuống đất” như bố nó nói.
Lúc này bên ngoài mưa ngớt tự lúc nào. Thậm chí mặt trời chui khỏi đám mây, chiếu những tia nắng ẩm ướt vào phòng, làm các nốt nhạc đen trắng rơi vãi trong đó bỗng ánh lên rực rỡ.
Hai bố con học xong ra khỏi phòng từ lâu, ông già vẫn ngồi yên. Cuối cùng ông gượng dậy, đi về phía chiếc đàn rồi bò lổm ngổm trên sàn gỗ, cố nhặt những nốt nhạc rơi của đứa cháu. Thỉnh thoảng ông giơ một vài nốt lên soi dưới ánh mặt trời.
* 
Tối ấy, khi vào phòng mời ông xuống ăn cơm, người ta thấy ông già đã chết, trên chiếc đi-văng vẫn ngồi. Hôm sau, khi lượm bố vào quan tài, anh con dùng hết sức mới gỡ được hai bàn tay nắm chặt của ông. Từ đấy hai dòng kim cương đen nhánh chảy ra, lấp lánh như những vì sao giữa sàn nhà sẫm tối.
Mãi sau này, khi lên mười bảy tuổi và chuẩn bị đi New York theo học pianô tại Nhạc viện Julliard, cô cháu “không thích phím đêm” của ông tình cờ thấy trong va-li một gói lớn những viên kim cương trắng muốt được gói cẩn thận trong tấm vải cũ bằng nỉ người ta thường dùng để phủ lên đàn viôlông.                                      
Hà Nội, 30. 5. 2011

2. ĐỨA CON MẶT TRỜI
Một buổi chiều đẹp trời sau tiết lập xuân.
Cô gái ngồi ngắm mặt trời ngoài lan can. Phía trên là dàn mướp đang ra nụ, có nụ đã kịp lớn thành những chiếc chuông xinh xinh màu xanh. Con chó nhỏ nằm thiu thiu ngủ dưới chân. Bên cạnh là cuộn len lớn màu hồng vì cô đang đan chiếc mũ nhỏ xíu cho đứa con sắp ra đời. Chiếc mũ bé tí mà đan cả tuần nay chưa xong.
Trước mặt là một thung lũng rộng, lúa mới bén đòng xanh ngắt. Đáng lẽ từ lan can nhìn ra phải thấy một con suối nhỏ nước lấp lánh. Hôm nay sương xuống sớm nên giờ chỉ là một vệt mờ đùng đục. Chiếc đĩa mặt trời đỏ rực, to và tròn vành vạnh treo lơ lửng trên vệt mờ ấy. Cô gái ngừng đan, nhìn nó hồi lâu không chớp mắt, và cũng không thấy chói. Mỗi lần đứa con quẫy đạp, cô đưa cả hai tay nhẹ nhàng xoa xoa chiếc bụng của mình, cũng to và tròn không kém.
Anh chồng suốt buổi hý huáy chữa cái gì đấy dưới bếp, bây giờ bước ra ngoài, giơ cả hai bàn tay còn lem bẩn che mắt khi nhìn về hướng mặt trời. Phía ấy, tức chỗ vợ anh ngồi trên bậc lan can khá cao, bây giờ chìm trong ráng hồng của mặt trời sắp lặn. Anh có cảm giác cả một vùng trời đang bốc cháy. Vợ anh cũng cháy trong đám lửa hoàng hôn ấy. Bao quanh người cô là một đường viền lửa màu vàng vàng, xanh xanh, đặc biệt trên nửa quả cầu chiếc bụng chửa căng tròn.
Từ chỗ đang đứng, anh thấy mặt trời chầm chậm đi xuống, đúng chỗ bụng vợ anh. Chiếc đĩa mặt trời đỏ rực đang bị hình cầu bụng bà chửa nuốt dần, nuốt dần cho đến khi chỉ còn lại một vành cung rất mảnh. Cuối cùng vành cung ấy cũng biến mất, và đám lửa hoàng hôn vụt tắt.
Anh hoảng hốt chạy lại gần vợ. Lúc này cô không còn tựa lưng vào cột lan can, mà nằm ngửa trên chiếc chõng tre, mắt nhắm nghiền, chiếc bụng chữa đã to giờ càng to hơn và trông chẳng đẹp mắt chút nào.
- Em không sao chứ? - anh hỏi.
- Không. - Cô đáp, với vẻ mệt mỏi của một người đang hạnh phúc.
Anh ngồi xuống cạnh:
- Lúc nãy anh thấy em như đang bốc cháy. Mà rồi, kỳ lạ thật, cứ như mặt trời chui tọt vào bụng em ấy…
- Thì đúng thế thật mà.
Cô gái mỉm cười, rồi cầm tay chồng nhẹ nhàng đặt lên bụng mình.
- Nóng quá! - anh nói. - Hay đang có mặt trời trong ấy thật? Em nói mặt trời chui vào bụng em?
Cô gái gật đầu. Anh chồng lặng im không biết nói gì thêm.
- Và em sẽ sinh cho anh một đứa con mặt trời.
Lại gật đầu. Rồi quá mệt mỏi, cô ngủ thiếp.
Anh chồng ngồi bên canh cho vợ ngủ, hai tay âu yếm xoa xoa đứa con mặt trời của mình. Và hồi hộp chờ bình minh…
Hà Nội, 6 tháng Sáu, 2011

3. THẦN VỆ NỮ
Chiến tranh nào cũng để lại những kỷ niệm đau buồn, nhưng với tôi, đau buồn nhất là chuyện một cô gái trong làng đi thanh niên xung phong, giữa chừng quay về với cả hai cánh tay bị mảnh bom chém đứt. Tay trái sát vai, tay phải cụt đến khuỷu, hệt như tượng Vệ Nữ người ta tìm thấy trên đảo Milos ngày nào.
Bề ngoài cô không được như nữ thần sắc đẹp Hy Lạp cổ đại, tất nhiên, nhưng trời ban cho cô dáng người thanh thoát, khuôn mặt ưa nhìn, chiếc mũi nhỏ thon thẳng, đặc biệt đôi mắt sâu và buồn. Đôi mắt ấy bây giờ càng buồn gấp bội.
Cô sống với bà mẹ già. Mấy năm sau mẹ mất, cô còn lại một mình. Và rồi cô có bầu và bị đem ra chửi mắng, tra khảo mấy đêm liền ở đình làng. Anh trưởng thôn làm chủ tọa, có cả người của chính quyền xã về dự.
Cô gần như bị ruồng rẫy khi một mực không chịu khai ai là thủ phạm, đặc biệt từ phía các cô, bà có người thân đang ở ngoài mặt trận. Cái làng tôi nó thế: nghèo kiết xác nhưng luôn cổ hủ và độc ác.
Khi cô sinh con, tôi đã không còn ở làng. Tôi không biết cô sống và nuôi con thế nào, nhưng cô vẫn sống, và đứa con vẫn lớn lên khỏe mạnh bình thường. Nó, một thằng con trai, càng lớn càng giống anh trưởng thôn làm chủ tọa các buổi đấu tố mẹ nó. Kể ra từ lâu người ta đã biết bố nó là ai. Thời ấy làng chẳng còn ai là đàn ông, trừ mấy cụ già và đám trẻ mới lớn còn ham đánh nhau và chơi khăng. Mà anh ta, cái anh trưởng thôn ấy, vợ mới chết mấy năm và cũng đang sống một mình. Vậy sao anh ta còn làm khổ người bị chính mình gây tai họa? Sao cô không tố cáo hắn? Hay họ ngầm thỏa thuận với nhau điều gì? Tôi không biết. Chắc nhiều người nữa trong làng cũng không biết, và câu chuyện dừng ở đấy.
Một lần, cách đây đã lâu, tôi về quê và ngạc nhiên khi biết tin thằng bé, lúc ấy mười lăm tuổi, đã chuyển sang ở hắn với bố nó. Dẫu không còn là trưởng thôn, nhưng anh ta vẫn chạy chọt làm được giấy khai sinh mới cho nó, thay họ mẹ bằng họ bố.
Vậy là cô thanh niên xung phong cụt cả hai tay, nay đã là một bà già, vẫn lủi thủi một mình như ngày nào. Và việc bà sẽ chết trong cô đơn cũng là điều chắc chắn.
Một câu chuyện không có hậu. Đúng thế. Chính nó cũng làm tôi ấm ức, khó chịu. Cuộc sống thường vẫn vậy - phức tạp và oan trái hơn nó được miêu tả trong sách vở. Vì là chuyện có thật ở làng tôi, tôi chỉ còn biết chép lại nó như tôi được biết, không thêm bớt điều gì, dẫu nhiều khi nhớ đến cô gái tội nghiệp ấy, không hiểu sao tôi hay vẩn vơ nghĩ về Vệ Nữ, nữ thần sắc đẹp được cả thế giới ngưỡng mộ.
Hà Nội, 09 tháng Sáu, 2011.

4. CON NGỰA CÒM

- Nhà nó ra thắng ngựa cho tôi đi chở hàng!
 Hắn cao giọng bảo vợ rồi ngồi xuống chiếc chõng tre, tu một hơi hết cả bát nước vối. Bao giờ hắn cũng nói với vợ bằng cái vẻ oai vệ như vậy, dù hắn chỉ là thằng đàn ông gầy nhom, nhút nhát nhất xóm, đến mức ai cũng có thể bắt nạt được. Thực ra hắn cũng nhút nhát cả với vợ, nhưng vợ hắn là người biết điều nên cứ ngơ cho hắn gỡ lại thể diện trong nhà. Mà trong nhà thì quan trọng nhất là con ngựa và hắn, nguồn thu nhập cho một bầy con lít nhít cùng bà vợ luôn bận bịu chửa đẻ và cho con bú.
Như chủ, con ngựa cũng nhó thó và gầy, thậm chí còn gầy hơn vì ngựa không mặc áo nên trơ hết xương sườn. Như chủ, nó cũng đói ăn và thường phải tự kiếm cái nhét vào bụng bằng cách gặm cỏ bên vệ đường hoặc đâu đó trong khi chủ nó ngồi uống nước và nhá kẹo cu-đơ trong quán. Hắn luôn thưởng cho mình thú vui ấy mỗi lẫn chở xong hàng và được người ta trả tiền.
Hôm nay, một bà lão nhờ hắn chở mấy thứ đồ đạc cũ sang làng bên cho con gái vì biết mình sắp chết, mà chết thì theo phong tục ở đây, mọi cái thuộc về bà sẽ bị đem đốt hết.  Xong việc, bà lão nổi hứng cho hắn luôn mấy nghìn tiền lẻ còn thừa, nên ngoài nước và kẹo, lần này hắn hút luôn hai điếu Thăng Long và ăn một chiếc bánh chưng loại nhỏ, dẫu không phải không do dự vì tiếc tiền. Con ngựa còm cũng được hắn cho tự do kiếm ăn lâu hơn lệ thường. Hắn ngả ngốn tựa lưng trên chiếc ghế tre ọp ẹp trong quán mụ Bốn, ra chiều hài lòng lắm. Bên ngoài trời nắng chói chang vì đang giữa trưa.
Bỗng có tiếng ai đó quát tháo rất to, giọng đàn ông giận dữ. Một chốc sau thì hắn thấy con ngựa còm của hắn chạy lại, máu lênh láng một bên hông. Đuổi theo nó là môt gã đàn ông to béo đầu bạc, tay cầm con dao thái thịt lấp lánh dưới ánh mặt trời. Lão đầu bạc đuổi kịp con ngựa, vung tay chém thêm nhát nữa vào mông trái nó. Con ngựa lảo đảo một chút nhưng không ngã, rồi nó bỏ chạy, để lại phía sau những giọt máu nhanh chóng khô đặc trên mặt đường cát bụi.
- Tại sao ông chém ngựa tôi? - hắn chạy lại, cao giọng hỏi.
- Vì nó vào vườn ăn rau nhà tao. - Lão đầu bạc vừa hổn hển thở, vừa đáp. Lão làm nghề rèn, tháng trước vừa bị công an xã gọi lên vì tội chém vợ. - Ngựa mày à? Cút đi, không tao chém cả mày bây giờ!
Chắc vì quá phẫn uất, hắn quên mất cái tính nhút nhát cố hữu và thân thể gầy còm của mình. Không những không cút đi, hắn còn văng chửi độc địa và làm một việc ngu ngốc khác là ưỡn bộ ngực đầy xương sườn của trước kẻ thù.
Lão đầu bạc nhìn hắn, nhếch mép mỉa mai. Lão giơ cao con dao, nhưng suy nghĩ một lát, không chém, mà chỉ tống một quả đấm trời giáng vào mặt hắn.
Phải đến cả chục phút sau hắn mới gượng dậy được. Khi tìm thấy con ngựa, hắn chẳng thèm nghĩ đến chiếc xe mà cứ thế cuốc bộ, dẫn nó về nhà dưới trời nắng gắt. Suốt dọc đường, vừa đi hắn vừa tấm tức khóc, đôi khi hu hu thành tiếng nghe rất buồn cười. Máu vẫn ri rỉ trên lưng con ngựa khốn khổ. Ruồi nhặng bám đầy quanh những vết chém trên lưng. Hình như nó cũng khóc. Đôi mắt vốn kèm nhèm giờ gần như bị che kín bởi ghèn bẩn và nước mắt. Là con vật, nó không thể hiểu vì sao người ta nỡ chém nó khi nó vẫn ăn thứ lá xanh xanh như mọi ngày. Lá cỏ hay lá khoai lang thì khác gì nhau? Đến thằng chủ của nó cũng không hiểu nổi điều đó.
 Vậy là cả nhà hắn mất kế sinh nhai. Những vết chém sâu trên cổ và bên hông khiến con ngựa không thể tiếp tục kéo xe chở hàng như trước. Ba tuần sau, nó chết vì nhiễm trùng. Thằng chủ nó vẫn nằm bẹp trong nhà.
Một sáng nọ, vừa bảnh mắt, hắn quát bảo vợ hắn:
- Nhà nó chuẩn bị cho tôi con dao! Con to và sắc nhất ấy!
- Để làm gì?
- Không hỏi!
Rồi hắn hằm hằm cầm dao đi về phía khu làng có lão to béo đầu bạc.
Hà Nội, 16. 6. 2011
                                           
5. NGƯỜI KHÔNG MÀU

       Với tâm trạng mệt mỏi, chán đời của một người lao lực và gặp nhiều thất bại ở thành phố, ông trở về làng quê nhỏ bé của mình, nơi ông không có nhiều kỷ niệm và cũng chẳng đa tình nặng nghĩa, ngoài việc trót sinh ra ở đấy. Còn chết thì vợ con đã mua sẵn một lô đất trong nghĩa trang thành phố. Vậy sao ông về? Chẳng vì lý do gì đặc biệt. Đơn giản không biết đi đâu nữa thì về. Vài chục năm gần đây thỉnh thoảng ông vẫn làm thế.
Ở mãi trong nhà anh cháu cũng chán, ông thơ thẩn ra dạo ngoài đồng Chùa. Nó vẫn thế, như cái thời ông chăn trâu, chơi khăng ở đây. Nhưng ngôi chùa mà nó mang tên không còn nữa vì bị người đập lấy gỗ xây trụ sở ủy ban xã.
Đồng Chùa là một gò đất cao và rộng, xưa nay chỉ là chỗ cho trẻ làng chăn trâu bò, hoặc chơi các trò trẻ con của chúng. Giờ có máy làm ruộng, trâu bò ít nên cỏ mọc nhiều và dày. Ông ngả mình nằm xuống thảm cỏ và lơ đãng nhìn lên trời.
Hôm ấy là một chiều thu thật đẹp. Nắng hoe vàng sắp tắt. Cao trên trời là những làn mây nhẹ, mỏng tang, có vẻ như đang chuyển động, mà cũng như luôn đứng yên một chỗ. Mây chỗ trắng, chỗ vàng, chỗ đỏ rực như máu. Chỗ không có mây là bầu trời màu nước nhàn nhạt. Bao quanh ông là màu xanh ngắt của đồng lúa, bãi cỏ và  rặng cây phía làng Mồ.
Nằm giữa cái thế giới nông thôn đầy màu sắc ấy, ông thấy thấy mình thật buồn tẻ và nhạt nhẽo. Ông, một người không màu. Không màu như cái thành phố xám xịt của ông, nơi không trăng, không bầu trời, hoặc giả có cũng chẳng ai ngước lên nhìn.
- Bác mới về làng chơi ấy à?
Chợt ai đấy lên tiếng hỏi, ngay bên cạnh.
Ông nhỏm dậy:
- Vâng, hôm qua. Chào bác.
Đó là lão Hoạch, một lực điền da đen trũi, tóc xù điểm bạc, bạn học trường làng thời xa xưa và cùng tuổi, tức đã ngót nghét sáu mươi. Lão vừa đi làm đồng về, chiếc cuốc trên vai còn chưa khô bùn. Nghe nói nhà lão là một trong số ít gia đình trong làng còn đói ăn, Dẫu vậy, lão là người xởi lởi và vui tính. Không hiểu sao lần nào về làng, ông cũng gặp lão.
- Công việc bác dạo này thế nào.
- Vẫn thế, - ông đáp.
- Người ta bảo bác làm cái nghề viết lách gì đó trên tỉnh?
- Đúng. Nghề phịa chuyện, viết nhăng nhít ấy mà…
- Và người ta trả tiền cho cái chuyện phịa nhăng nhít ấy như bác nói?
- Đôi khi.
- Thế thì chán lắm nhỉ?
- Chán.
Lão Hoạch nghĩ một lúc rồi nói:
- Sao bác không về làng làm ruộng như tôi? Vất vả nhưng mà vui.
- Tôi đã già, vả lại, cũng không biết làm ruộng.
- Lo gì, về đây tôi dạy cho.
Nói chuyện thêm một lúc, lão bỏ về. Do đi ngược mặt trời hoàng hôn lúc ấy đã xuống thấp và đang treo lơ lửng trên đỉnh núi Mụa, toàn thân lão được chiếu đỏ rực. Cả chiếc cuốc bẩn trên vai cũng đỏ như thế.
“Cuộc đời kể cũng buồn cười, ông nghĩ. Lão Hoạch suốt đời đầu tắt mặt tối trên ruộng không kiểm đủ bát cơm ăn. Mình thì viết phịa nhảm nhí lừa người ta lại thừa ăn. Nhưng người lão ấy đỏ rực như lửa, ông chép miệng, mà mình thì chẳng có màu gì. Người không màu!”
Ông lại nằm xuống, bâng quơ nhìn lên trời. Vì sắp lặn và mặt trời đã trở thành chiếc mâm đỏ khổng lồ nên bầu trời có nhiều màu sắc đậm và tương phản hơn. Gió mát hiu hiu thổi. Một lúc sau ông mơ màng thiếp đi. Trong cảm giác nửa tỉnh nửa mơ ấy, ông thấy mình được từ từ nâng lên cao, trong tư thế nằm ngửa, và bắt đầu chậm chậm chu du trên bầu trời. Trong chuyến bay lâng lâng thích thú đó, ông ngạc nhiên thấy mình bắt đầu có màu, đủ màu sắc rực rỡ của hoàng hôn, tùy thuộc lúc đó ông đang bay qua đám mây nào. Cuối cùng, ông trở lại mặt đất khi trời tối hẳn, và lại thành người như cũ - không màu.
Thậm chí không cả màu đen, khi ông lầm lụi bước về làng.
Hà Nội, 21.6.2011

6. CHIẾN TRANH

Ba mươi năm trôi qua kể từ ngày chiến tranh kết thúc.
Một sáng nọ ông cụ ngủ dậy, bảo vợ.:
- Tôi đi bà nhé?
Bà cụ, cũng già và ốm yếu như chồng, lúc ấy đang hý húi đun nước dưới bếp, đáp:
- Ừ thì ông đi, một khi không thể không đừng được. Đi mà đưa nó về.
Nó là con trai duy nhất của họ, chết trong trận nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 ở Quảng Trị. Khi chuẩn bị xong xuôi mọi thứ cho chồng, gồm chiếc ba lô cũ từ thời chống Pháp, nắm cơm và ít tiền, bà cụ nói thêm:
- Ông đi, xong việc rồi ta nghỉ.
- Ừ.
Ông cụ đáp, bước ra khỏi nhà, thong thả đi về phía hướng ga Mỹ Lý rồi từ đó lên tàu chợ đến Quảng Trị để bốc mộ con mang về quê an táng, một việc muốn đã lâu nay mới làm được.
Tôi là cháu gọi cụ bằng bác, lúc ấy đang về quê nghỉ phép. Tôi xin được đi cùng nhưng cụ không chịu.
 Mười ngày sau, cụ quay về. Tôi gặp cụ ở ga Mỹ Lý vì đang có việc phải vào Vinh. Chiếc ba lô cũ trên vai bây giờ căng phồng. Anh con trai duy nhất của cụ đang ở trong đó.
 Buổi chiều. Trời có vẻ sắp mưa. Tôi đứng lặng, nhìn theo bác tôi lầm lũi bước đi về làng. Mái đầu bạc, thân hình gầy gò, cái lưng còng giờ còng thêm vì anh con to lớn hai mươi tuổi trên vai.
 Và tôi nghĩ về chiến tranh cùng những điều khủng khiếp nó gây ra. Và rằng cả tôi, nay là một ông già tóc bạc ngoài sáu mươi, do số phận dun dủi, có thể cũng hy sinh trong cuộc chiến tranh ấy, và cũng được bố tôi cõng trên lưng như thế đi suốt chiều dài đất nước, suốt cả cuộc đời đau khổ của mình.
 Một tháng sau khi chôn cất anh con vào nghĩa trang dòng họ, cả hai bác tôi qua đời. Không ốm đau và gần như cùng một lúc.
“Ông đi, xong việc rồi ta nghỉ”.
 Hà Nội, 22.6.2011

7. ĐÊM Ở TÂY NINH

Khi tôi đến thị trấn N., Tây Ninh, thì trời đã khuya. Hơn thế lại đang mưa. Mưa to kèm theo gió giật. Vất vả lắm tôi mới tìm được một nhà trọ bẩn thỉu, tồi tàn gần bến xe luôn chật ních người. Sau chiến tranh, đất nước còn nghèo, người dân càng nghèo hơn, nên các nhu cầu tiện nghi và vệ sinh đều được châm chước.
Người ta dẫn tôi lên môt căn phòng khoảng mười mét vuông với chiếc giường một trải chiếu ni-lông và chiếc màn mắc sẵn. Không có phòng vệ sinh riêng, mà tôi cũng chẳng cần. Quá mệt mỏi, tôi nằm vật xuống giường, định bụng ngủ một giấc để mai có sức đi tiếp sang Căm-pu-chia.
Vừa thiếp đi một chốc, tôi đã bị đánh thức bởi tiếng trẻ con khóc. Nghe giọng, có vẻ còn bé và ở đâu đây rất gần. Hình như ngay phòng bên. Đứa bé khóc gay gắt. Tôi ngạc nhiên khi nghe dỗ nó không phải phụ nữ mà một giọng đàn ông ồm ồm. Không hiểu sao nó khóc mãi không nín, và người đàn ông vẫn kiên nhẫn, dịu dàng dỗ nó. Có cái gì đấy nghe cảm động, chua xót trong giọng ru ồm ồm, bất lực và vụng về ấy.
Thế là mất hết hy vọng được ngủ tiếp. Khoảng ba mươi phút sau, tôi gõ cửa bước vào phòng anh ta, chẳng biết cụ thể để làm gì.
Trước mắt tôi là một người đàn ông to lớn, to lớn đến kinh ngạc, đang ôm đứa bé trên đôi cánh tay trần cũng rất to lớn của mình. Đó là một bé gái khoảng bảy, tám tháng tuổi, mặt tái ngắt vì khóc lâu.
- Chắc nó đói? - tôi hỏi.
- Không, - anh nói, có vẻ không ngạc nhiên khi thấy tôi xuất hiện. Lúc nãy trên ô tô tôi mới cho ăn xong.
- Hay nó ốm?
- Cũng không. Ban đêm nó vẫn khóc như vậy vì nhớ mẹ. - Chắc đoán tôi muốn hỏi mẹ nó đâu, anh nói tiếp: - Mẹ cháu mới bị bắt giam ở đây. Mai tôi đưa cháu vào trại. Hy vọng người ta cho gặp. Chả là vợ tôi trước làm việc cho sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, nay người ta bắt đi cải tạo.
Đứa bé vẫn khóc như bị ma ám.
- Hay tôi bế giùm anh một chốc?
- Vâng, có thể lạ hơi nó nín cũng nên. - Anh đáp rồi đặt đứa bé lên hai tay chìa sẵn của tôi.
Dẫu không bằng anh, tất nhiên, nhưng lúc ấy tôi mới ba mươi và cũng không thuộc loại bé nhỏ. Con bé nằm lọt thỏm trong tay tôi, nhẹ như không trọng lượng. Nó vẫn tiếp tục khóc, mặc cho hai người đàn ông to lớn, khỏe mạnh là tôi và bố nó, tìm mọi cách ru dỗ mà không được. Có thể nó sẽ nín ngay nếu được mẹ hay người đàn bà nào đó bế vào lòng, thậm chí không cần cho bú. Sao thế nhỉ? Sao người ta nỡ bắt mẹ nó đi khi nó còn bé tí như vậy?
Cuối cùng, lúc ấy đã gần sáng, nó cũng thiếp đi vì mệt.
Tôi trở lại phòng mình, với cảm giác nặng nề khó tả, cảm giác của một người lớn bất lực không biết và không thể làm gì để giúp một sinh linh bé nhỏ đang cần giúp đỡ.
Ừ, và cả cái chuyện người ta bắt giam mẹ nó nữa.
Hà Nội, 23.6.2011             

8. ÔNG GIÀ VÀ BÔNG CÚC NHỎ

Ba tháng trước, khi thong thả dạo trên hè phố Lê Duẩn, dọc theo công viên Thống Nhất, tình cờ ông chứng kiến cảnh một đứa bé bò ra đường ray xe lửa phía bên kia đường từ một ngôi nhà nào đó ngay bên cạnh, đúng lúc có đoàn tàu khách đang rầm rầm chạy đến. Tàu kéo còi ầm ĩ. Đứa bé dừng lại trên tấm bê tông giữa hai đường ray, ngẩng chiếc đầu trần lơ thơ tóc. Hình như nó cười.
Ông đứng lặng, miệng há hốc nhưng không thể kêu lên một tiếng nào, và ngất ngã, đầu va vào gốc cây bên cạnh. Khi tỉnh dậy ở bệnh viện ông mới biết đứa bé đã được một người nhảy ra cứu khi đoàn tàu chỉ còn cách khoảng mươi mét.
Cú ngã nhẹ tưởng như bình thường, vậy mà ông phải nằm một chỗ từ bấy đến nay. Ra viện, ông ngạc nhiên thấy mình như người khác hẳn, vừa đặc biệt nhạy cảm lại vừa như u mê, đờ đẫn.
Bây giờ ông đang ngồi sưởi nắng trong sân chùa Kim Liên bên Hồ Tây, chính xác hơn, một mẩu nhỏ của Hồ Tây, nơi cùng lúc bị mấy tòa nhà khách sạn nhiều tầng bằng nhôm kính chen nhau đổ bóng xuống nước. Ông khó chịu với chúng, khó chịu luôn cả mẩu hồ nhỏ sót lại ấy.
Hôm nay hình như rằm nên chùa đông khách. Ông thường ra ngồi ở chùa này vì nó đẹp và cái chính là gần nhà. Ra ngồi một vài tiếng rồi về chứ chưa bao giờ ông thắp cho nó một nén hương.
Sau gần nửa giờ ngủ gật dưới nắng trong trạng thái u mê mới lạ vừa có sau tai nạn, ông chợt tỉnh khi ai đó đi ngang vô tình đá phải chân. Trạng thái u mê ấy bắt đầu nhường chỗ cho sự phấn khích và nhạy cảm khác thường. Cái ông phát hiện đầu tiên là không thấy hoa đại, cả hoa trên cây lẫn hoa rụng dưới đất. Đại nở theo mùa nên chắc chấn nhiều ngày không có hoa, nhưng chỉ hôm nay ông mới nhận thấy điều đó. Và nó làm ông buồn, cứ như bị ai ăn cắp cái gì đấy. Chùa mà không hoa đại thì chẳng còn là chùa, đáng ngạc nhiên nữa là dường như không ai chú ý đến điều ấy.
Vẫn như mọi ngày, khá đông người đang lầm rầm cúng khấn trước bàn thờ Phật. Một chuyện bình thường. Cái khác thường là hôm nay ông thấy có gì không ổn. Người ta khúm núm, luôn miệng cầu xin gì đó, cầu xin thành tâm và rất lâu trước Phật. Thế mà Phật vẫn làm ngơ, lặng im và vô cảm.
“Vậy Phật là người hay là gỗ?”, ông nhíu mày khẽ thốt lên thành tiếng.
Ông nhíu mày cả với việc nhiều cô gái trẻ đẹp, ăn diện hợp mốt cứ lăng xăng trước những ông già bằng gỗ ấy. Trước đây chắc ông thấy cảnh này không ít, nhưng sao bây giờ mới chú ý và khó chịu với nó? Chắc tại cái đầu của ông, tại giờ nó trở nên quá nhạy cảm.
Ông buồn bã bỏ về nhà, tới cổng chùa chợt dừng lại trước một người ăn xin cụt cả hai chân đang ngồi giữa nắng với chiếc chậu nhựa nhỏ méo mó trước mặt. Trong chậu chưa có đồng tiền nào.
Đó là một ông già trạc tuổi ông, tức gần bảy mươi, mặt nhăn nheo cáu bẩn và mái tóc bạc bù xù. Ông già ngước đôi mắt ươn ướt nhìn ông, nhìn cả nhiều người lúc ấy đang đi ngang nhưng không ai để ý. Ông cho tay vào túi thì chợt nhớ để quên chiếc ví ở nhà.
Với cảm giác như có lỗi, ông đứng thêm một lúc xem có ai cho ông kia đồng nào không. Người vẫn lũ lượt vào ra nhưng tịnh không một ai dừng lại, thậm chí nhìn cũng không. Họ là người hay là gỗ? - ông thở dài rồi bỏ đi tiếp.
Lên đến đường Yên Phụ, ông ngồi xuống nghỉ trên một trong những chiếc cột xi măng bên mép. Trời còn sớm nhưng nắng đã gắt và ngột ngạt. Sự ngột ngạt ấy gia tăng bởi số lượng người xe qua lại đông đúc.
Từ phía Nghi Tàm có hai cô đang chở hoa đi tới. Trước kia người ta gánh hoặc chở bằng xe đạp. Bây giờ bằng xe máy Hôn-đa. Cả hai cô còn trẻ và khá xinh, vừa đi vừa chuyện trò điều gì đấy rất vui. Khi ngang qua chỗ ông ngồi, xe một cô gặp xóc, làm một bông cúc rơi xuống đất.
Bông cúc nhỏ, còn tười và ướt, nằm giữa mặt đường nhựa. Đúng lúc ấy, một chiếc xe tải khổng lồ chở vật liệu cho công trường xây dựng bên cạnh đang từ từ đi lại. Thật lạ lùng, ông thấy bông hoa tội nghiệp đang run lên, vẫy vẫy những cánh hoa kêu cứu. Hơn thế, hình như ông còn nghe cả tiếng kêu cứu ấy.
Chiếc xe khổng lồ vẫn tiến lại gần, rất gần. Bất chợt, ông chạy ra đường, giơ cao hai tay ra hiệu dừng lại. Chiếc xe phanh két, nhưng đã quá muộn. Bông hoa bé nhỏ bị đè nát dưới chiếc bánh khổng lồ của nó.
Còn ông, ông lại ngất ngã trên mặt đường, chỉ cách chiếc xe tải mấy mét.
Tiếc lần, này do trái tim nhạy cảm hơn, ông ngất và không bao giờ tỉnh lại.
Hà Nội, 1.7.2011

 9. ÔNG VÀNG, ÔNG TÂY VÀ ÔNG TƯƠI MÁT

Trong tù, họ kết thành bộ ba, được mọi người gọi là Ông Vàng, Ông Tây và Ông Tươi Mát.
Lúc ấy họ còn trẻ và chuyện xẩy ra vào những năm đầu sau chiến tranh.
Ông Vàng bị tù do nghe nhạc vàng của chế độ cũ, tòa tuyên năm năm vì tội “truyền bá văn hóa độc hại”. Tội này do hàng xóm ông tố lên công an phường sau một xích mích nhỏ về bờ rào giữa hai nhà.
Ông Tây lãnh mười năm về tội “hủ hóa”. Lớp trẻ ngày nay chắc không hiểu từ này, nhưng thời ấy đó là một từ rất nặng nề, kết tội những người có quan hệ nam nữ bất chính. Ông là du học sinh Việt Nam ở Ba Lan, học giỏi, cao to và rất đẹp trai. Ông bị bắt và được hai công an sứ quán áp giải về tận Hà Nội, vì yêu một cô gái bản xứ học cùng lớp mắt xanh tóc vàng. Điều này có lẽ thanh niên bây giờ cũng không hiểu nổi. Những năm ấy sinh viên Việt Nam ở nước ngoài bị cấm không được xem phim tư bản, không nhảy đầm, cả đứng xem cũng không. Còn yêu người nước ngoài thì thuộc hàng trọng tội. Mãi sau này, khi con gái nhà lãnh đạo cao cấp nhất Việt Nam yêu và lấy một anh người Nga, tội này mới được giảm nhẹ, giảm chứ không phải bỏ hẳn.
Còn ông Tươi Mát nguyên là một đảng viên gộc, cán bộ phường, phụ trách văn hóa. Thế mà ông sa đọa đến mức lén lút xem một đoạn phim tươi mát của chế độ Sài Gòn cũ, chiếu cảnh mấy cô gái Mỹ đồi trụy tắm, không có tí vải nào trên người. Tòa để ngoài tai lời thanh minh rằng cuốn phim ấy được ông bạn cán bộ văn hóa huyện cho mượn “xem để biết bọn đế quốc hư hỏng thế nào”. “Cán bộ cấp huyện mới đủ thẩm quyền và bản lĩnh chính trị xem những phim loại này”, tòa phán. Hơn thế, lúc bị bắt, người ta còn khám thấy trong túi ông chiếc bút bi mà khi cầm ngược lên, chất lỏng bên trong rút xuống, để lộ hình một phụ nữ lõa thể. Năm năm tù cải tạo! Cũng với tội “truyền bá văn hóa độc hại”.
Nhờ vụ con lãnh đạo lấy tây, Ông Tây được trả tự do sớm năm năm, vậy là cả ba ra tù cùng năm, gần như cùng một lúc. Tuy nhiên, khoảng mười năm sau, khi đất nước đổi mới và có vẻ dễ thở hơn, cả ba ông lại bị bắt vì có ý định thành lập Hội những người bị tù oan. Mới có ý định thôi, nhưng riêng bản nháp cái ý định ấy cũng đủ mỗi ông ngồi bóc lịch thêm ba năm nữa, lần này với tội “hoạt động lật đổ nhà nước”.
Ra tù, họ vẫn chơi thân, giao du với nhau từ bấy đến nay khi, tự lúc nào không biết, họ đã là những ông già. Nơi họ thường gặp mặt là quán cà phê “Nắng chiều” của Ông Vàng, ngay bên bờ Hồ Tây. Họ đến để ngắm nắng chiều trên hồ, đàm đạo chuyện nhân tình thế thái, và đặc biệt là để nghe nhạc vàng. Nghe to mà không sợ bị bắt. Nếu còn trẻ, chắc họ có thể tha hồ xem cả phim “tươi mát”.
Quán do vợ ông quản. Bà vốn là ca sĩ của một đoàn văn công thủ đô, nổi tiếng xinh đẹp và bản lĩnh. Khi chồng bị tù, thằng trưởng đoàn mò đến tán tỉnh và nói xấu chồng trước mặt bà. Hắn đã lãnh một cái tát thật kêu vào mặt. Rồi bà bỏ nghề đi bán bún riêu dạo trên phố. Chắc thằng kia có bạn bên công an nên gánh bún bà luôn bị gây khó dễ, nhiều lần còn bị hất đổ ra đường. Ấy vậy mà bà vẫn sống được nhờ gánh bún ấy, đủ tiền thăm nuôi chồng rồi dần dần mua được cái quán cà phê này, nhỏ thôi, nhưng đông khách và phần lớn là người có tuổi.
Hôm nay ba ông gặp nhau vào buổi trưa, khi quán không có người khách nào. Mặt nước Hồ Tây như đứng lặng vì trời lặng gió. Có cảm giác cái nóng hầm hập không phải từ con đường rải nhựa phía trên đổ xuống, mà từ phía hồ.
Như mọi lần, bà chủ lặng lẽ cung phụng ba ông cà phê và thuốc lá, với nét mặt nhẫn nhục pha chút ngưỡng mộ, nhất là đối với Ông Tây. Từ ngày ông cùng cô gái Ba Lan nhảy lầu từ tầng ba ký túc xá tự tử để bảo vệ tình yêu, ông chẳng yêu ai nữa và luôn sống một mình. Cô người yêu chết, ông gãy một chân và bị bắt về nước như đã nói. Ông vẫn xinh đẹp, có thể nói là người đàn ông đẹp trai nhất bà từng gặp. Ông là thần tượng và linh hồn của cả bộ ba, nếu không kể bà. Dạo này bà đoán như các ông đang âm mưu chuyện gì đó. Ông Tươi Mát luôn cặp kè chiếc vi tính bé xíu mà ông bảo con trai cho. Không ngờ ông cựu cán bộ phường, cựu đảng viên gộc ấy giờ lại giỏi món internet. Ông lấy từ mạng xuống những bài báo nào đó, rồi cả ba cùng đọc và thậm thụt bàn tán. Tuần trước Ông Vàng bảo bà lên Hàng Bài mua hộ ba chiếc áo sơ mi màu đỏ có in hình sao vàng trước ngực, loại tây ba lô thường mặc. Bà lặng lẽ mua mà không hỏi để làm gì. Hai hôm sau, khoảng chín giờ đêm, bà thấy xe công an chở cả ba về quán. Hỏi thì nói vì tham gia biểu tình chống Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông bị bắt lên đồn. Công an tịch thu cả ba chiếc áo ấy, cảnh cáo lần sau không được biểu tình nữa. Họ vừa ra khỏi nhà, Ông Vàng bảo vợ mai mua ba chiếc nữa. Sáu cũng được, ông nói thêm.
- Vậy là ta ký? - Cuối cùng, ông Tây ngước lên, hỏi.
- Ký. - Ông Vàng và Ông Tươi Mát gật đầu.
- Lần này có vẻ gay đấy. Không khéo lại bị bắt.
- Có thể. Nhưng chúng ta không muốn thêm một người nữa bị bắt oan ức. Người ấy nói đúng điều ta nghĩ, đúng nguyện vọng của mọi người và không làm gì trái pháp luật.
- Ừ, bắt anh ta thật quá đáng. Lại còn cái phiên tòa vụng về kia nữa…
- Các ông định ký tên bản Kiến nghi trả tự do cho ông luật sư đòi dân chủ đấy à? - Bà chủ quán bỗng xen vào.
- Vâng. Sao bà biết? Bà không sợ lần nữa chúng tôi bị bỏ tù à?
- Sợ. - Bà đáp. - Nhưng việc phải làm thì cứ làm. Sợ cũng làm. Có gì, tôi thăm nuôi. Cho cả ba.
Rồi bà thong thả mang đến cho ba ông ba ly cà phê khác.
      Hà Nội, 6.7.2011

10. THỬ THÁCH

Sư thầy Thích Trí Phạn mới được bổ về đây làm trụ trì chùa Thiếu Lâm, khi vị sư già tám mười tuổi trông coi nó gần hết cuộc đời mình viên tịch.
Chùa nhỏ, không mấy nổi tiếng, lại nằm chót vót trên đỉnh núi Mụa, phía dưới là con sông Cà Lân và một thung lũng rất rộng. Dẫu cảnh đẹp, lại thiêng nữa - nghe nói xưa đây là ngôi chùa riêng của một thương gia người Tàu nhờ xây nó mà làm ăn rất phát đạt, - nhưng hiếm khi có khách lễ cúng hay vãn cảnh chùa này, chủ yếu do người ta ngại leo cao.
Sư thầy còn trẻ, khoảng ba lăm, bốn mươi gì đó, với cái đầu tròn cân đối cạo trọc bóng loáng và khuôn mặt hiền hậu, da trắng pha chút bầu bĩnh như con gái. Cả cách đi lại, ăn nói của sư cũng nhẹ nhàng. Người ta có thể ngạc nhiên khi thấy bê n nửa vai trần dưới chiếc áo cà sa màu vàng của sư có hình xăm chiếc mỏ neo và một con rắn quấn quanh nó. Nhỏ thôi, mà cũng hơi mờ nên chắc không ai chú ý lâu. Mà nếu chú ý có lẽ cũng nghĩ nó là kết quả một trò chơi nghịch ngợm thời nhỏ.
Ngày đầu tiên đến chùa Thiếu Lâm, sư thầy Thích Trí Phạn rất ngạc nhiên, thậm chí hơi bố rối, khi thấy trong chùa chỉ có duy nhất một người là ni-cô Đàm Liên, chưa đến ba mươi tuổi và xinh đẹp. Bộ quần áo màu nâu giản dị, chiếc đầu trọc và nét buồn buồn cố hữu của những người như cô không dấu được vẻ đẹp trời cho ấy. Tuy nhiên sư thầy vẫn giữ được vẻ măt bình thản thường ngày. Ở nhà Phật hơn mười năm, sư đã gạt khỏi tâm trí và thể xác mình mọi vướng víu của đời tục.
Vậy là hai người đàn ông và đàn bà còn trẻ, hai người con của Phật, sống tách biệt trong ngôi cùa nhỏ trên núi. Mọi việc diễn ra bình thường. Sư thầy trụ trì suốt ngày đọc sách, tụng kinh niệm Phật, thi thoảng ra ngoài tưới nước cho mấy bui hoa quanh chùa. Cô gái trẻ xuất gia nhập thiền lo chăm sóc mấy luống rau và phần việc ăn uống của hai người. Họ hầu như không nói chuyện với nhau, trừ những lúc thật cần thiết. Nhìn thẳng vào mặt nhau cũng không. Âm thanh duy nhất nghe thấy ở đây là tiếng gió thổi xạc xào trong tán cây, tiếng chim hót và tiếng mõ tụng kinh đều đều.
*
Một sáng nọ người ta phát hiện thấy xác hai người dưới chân núi Mụa, thân thể bị dập nát do rơi hoặc nhảy từ trên đỉnh núi xuống. Đó là sư thầy Thích Trí Phạn và ni-cô Đàm Liên.
Đến trưa thì Đại Đức Thích Tuệ Nhỡn nghe tin liền đến. Ngài là vị chức sắc cao nhất trong vùng, từ ngôi chùa cổ Pháp Tâm ngoài thị trấn. Với nét mặt gần như vô cảm, ngài lặng lẽ đọc mấy chữ nắn nót ghi lại trên tờ giấy trắng được xé từ một cuốn vở: “Chúng con xin đền tội bằng cái chết của mình vì đã làm ô uế nơi cửa Phật”. Sau đó, ngài cho khâm lượm thi thể hai người và đưa ra một quyết định khó khăn có thể sau này ngài sẽ bị quở trách là chôn họ trong khuôn viên chùa Thiếu Lâm.
“Tội nghiêp!”, ngài thốt thành tiếng khi còn lại một mình trong phòng. “Họ đã không vượt qua được thử thách của Phật”.
Ngài nói Phật nhưng hàm ý cả chính mình, vì hơn ai hết, ngài biết sư thầy Thích Trí Phạn vốn xưa là một tay giang hồ, thủ lĩnh giang hồ, các bãi vàng trên miền sơn cước, còn ni-cô Đàm Liên từng là hoa khôi, sinh viên năm cuối một học viện Tài chính ở Sài Gòn, do thất tình mà xuống tóc đi tu.
Hà Nội, 11.7. 2011

11. VÔ CẢM

Hôm nọ, chuyện gẫu với nhau, có ông bạn già chợt bảo tôi:
“Cái truyện ‘Đoạn dây thừng’ của ông được đấy. Ông lão nhân vật bảo bà hàng xén muốn mua một đoạn dây thừng để thắt cổ mà bà ta chẳng mảy may xúc động…”
“Còn khuyên nước sông Hồng đang lên, ra cầu Chương Dương tự tử chẳng tốt hơn ư?” tôi đáp.
“Vô cảm đến thế là cùng! Chuyện thật à?”
“Không. Tôi phịa. Như một lời cảnh báo về cái nguy cơ vô cảm của người đời ông vừa nói. Hy vọng trong cuộc sống thực không bao giờ có chuyện như thế…”
“Có, có đấy!” Kinh khủng nữa là khác!”
Ông bạn già vội nói như chạm đúng chỗ ngứa. Rồi ông kể tôi nghe một câu chuyện “rùng rợn” ông vừa chứng kiến.
Số là cách đây không lâu ông có việc về Phú Thọ quê ông. Một tối ông ra quán rượu bên sông Thao. Quán nằm ngay trên bờ dốc, sâu phía dưới là dòng nước chảy xiết vì đang là mùa lũ. Cạnh đấy có chiếc cầu xi măng mới xây, loại cầu nhỏ liên tỉnh nhưng khá cao. Bà chủ quán cho biết từ khi xây cầu đến nay chưa đầy một năm đã có mười người tự tử ở đây, cả người lân cận lẫn người từ xa, phần nhiều do thua đề, vỡ hụi. Thanh niên thất tình cũng có, nhưng ít thôi. Ngẫu nhiên đúng tối đó lại có một vụ nữa xẩy ra. Lúc ấy khoảng chín giờ, trời tối và se lạnh. Bỗng nghe “ùm” một tiếng từ phía cầu. “Lại thêm một người nữa chết!” bà chủ quán chép miệng. Trong quán có ba người đàn ông đang uống rượu. Nghe thế, một ông nói: “Dạo này lắm người muốn chết thế!” Ông thứ hai: “Thì để chúng chết, can gì đến bác. Uống đi!” Lát sau, ông thứ ba hỏi, một cách thật thà và thản nhiên: “Giờ chắc chìm rồi nhỉ?”
“Ông nghe rõ đấy chứ?”, ông bạn già nói như quát vào tôi. “Giờ chắc chìm rồi nhỉ? Cứ như khúc gỗ hay cái bọc giẻ không bằng. Ông có thấy kinh khủng không?”
“Kinh khủng”.
“Và thay cho việc thản nhiên hỏi một câu kinh khủng như thế, họ có thể kêu cứu, nếu không tự mình nhảy xuống cứu. Một mạng người chứ đâu phải chuyện nhỏ”.
“Đúng thế, tôi đáp, rồi ngước lên nhìn bạn, khẽ hỏi: “Còn ông? Sao ông không làm điều ông vừa nói?”
Ông bạn già đớ người một chốc, không biết đáp thế nào.
“Tôi không biết bơi.”
“Có thể ba ông kia cũng không biết bơi thì sao?”
“Có thể. Vả lại tôi già rồi.”
“Già đến mức không kêu cứu được?”
Thay cho lời đáp, ông bạn tôi hỏi, vẻ tức giận:
“Ông lên án tôi đấy à?”
“Không. Tôi chỉ muốn nói cái vô cảm ấy có cả trong ông. Cả trong tôi nữa. Ông không kêu mọi người đến cứu con người xấu số đó. Còn tôi, tôi kể chuyện đoạn dây thừng ấy như kể bao nhiêu chuyện khác trong cuộc đời viết văn của tôi. Một cách thản nhiên và, có thể nói, cũng “vô cảm” như ông vừa nói ông không biết bơi”.
Hà Nội, 12.7.2011

12. MA ÁM

Đêm trời tối. Lại lất phất mưa phùn. Thằng bé vừa đi vừa khóc. Gió táp mưa lên mặt nó, chảy thành dòng vào mắt và miệng. Nó đi chầm chậm, lưng cúi thấp vì nghĩ thế sẽ đỡ lạnh và quan trọng hơn là giữ cho chiếc bọc nó đang ôm khỏi ướt. Trong bọc có năm con mèo con mà nó bị bắt phải đem đi vứt xuống sông Cà Lờ. Những chú mèo bé nhỏ tội nghiệp mà nó rất yêu.
Năm ấy mất mùa. Cả nhà đói. Lại đúng lúc con Mướp đẻ, mà những năm con chứ không phải ba như thông thường trước đó. Đến người còn không có cái ăn, nói gì  mèo, nên suốt ngày nghe chúng kêu khóc thật tội. Con Mướp tốt giống, đẹp mã mỗi năm đẻ ba bốn lần và thường chưa đầy tháng đã có người đến mua hết, thành ra gia đình cũng có chút thu nhập. Giờ cho không không ai lấy.
Được một tuần thì ông bố, một người hiền lanh nhưng rất nghiêm khắc và cương quyết, bắt nó phải làm cái việc nhẫn tâm này. Nó chứ không phải hai đứa em gái ngu ngốc và hay khóc. Mẹ nó chết mấy năm trước vì bệnh uốn ván. Lý do là đêm trước con Mướp đã ăn vụng mấy củ khoai luộc để dành cho cả nhà ngày hôm sau. Thằng bé không tin điều ấy vì đêm nào nó cũng ôm mấy con mèo con nằm ngủ và không hề thấy mẹ chúng mang chút thức ăn nào về. Nó biết nhưng không dám cãi, và đành lủi thủi ôm bọc mèo ra sông. Đến nơi, nó hồi lâu hôn hít từng con rồi vừa khóc vừa thả chúng xuống dòng nước đen ngòm phía dưới. Nó giận bố độc ác, gần như xem là kẻ thù. Trong đầu óc non nớt của nó thậm chí còn lởn vởn ý nghĩ giết bố. Nhưng vốn nhút nhát và sợ bố, nó lặng lẽ chui vào ngủ trong ổ rơm, đêm nay không còn cái cảm giác ấm áp của lũ mèo trong vòng tay.
 Đến bữa ăn trưa, bố nó hồ hởi khoe vừa được ông bạn làng bên trả công cày thuê bằng nửa cân thịt thỏ.
“Ngon lắm, các con ăn đi!”, ông nói, còn mình thì cầm đũa nhìn ba đứa trẻ háo hức chúi đầu vào nồi thịt và ăn ngấu nghiến. Đôi mắt ông ươn ướt.
Bỗng con Út, tám tuổi, ngừng ăn nói:
“Con biết đây không phải thịt thỏ mà thịt mèo. Từ sáng đến giờ con không thấy con Mướp đâu cả!”
“Phải thế không bố?” thằng bé nhìn thẳng vào mắt bố, hỏi.
Bố nó không đáp, chỉ cúi đầu buồn bã.
Thế là thằng bé bỏ bắt đũa xuống mâm, ù chạy khỏi nhà và không bao giờ quay lại.
*
Thằng bé ấy bây giờ là một ông già. Ông vừa kể xong câu chuyện buồn của mình và đang ngồi trước mặt tôi.
“Thực ra mười năm sau tôi quay lại. Lúc này bố tôi đã chết, chủ yếu vì tôi, một đứa con hư, đã nỡ đối xử với ông như vậy. Lúc đầu tôi vào Vinh, sau sợ người ta nhìn thấy nên bỏ ra Hà Nội, kiếm sống bằng đủ mọi cách lương thiện và không lương thiện. Tôi từng bị ngồi tù hai lần vì tội ăn cắp. Giờ tay không vẫn hoàn tay không. Không cả gia đình, con cái. Nghĩa là tôi cũng giết cả chính mình chứ không riêng bố. Tất cả chỉ vì mấy con mèo ấy…”
Ông ngồi im hồi lâu rồi chợt ngước lên hỏi tôi:
“Bác đã bao giờ đem con mình vứt xuống sông chưa, hay thậm chí ăn thịt nó?”
“Chưa, tất nhiên. Sao bác có thể hỏi một câu như vậy?”
“Để bác hình dung lúc ấy tôi đau đớn và giận bố tôi thế nào. Ông là người tốt, rất thương yêu chúng tôi, nhưng tôi không thể làm khác. Tại đầu óc tôi quá nhạy cảm. Cả ngu dốt nữa. Cứ như bị ma ám ấy!”
Chia tay ông, tôi bâng khuâng nhìn theo. Và thay cho hình bóng một ông già nhỏ bé, gầy khô, lưng còng, tôi nhìn thấy một đứa bé đang vừa khóc vừa lầm lũi bước đi giữa đêm trời tối, mưa lất phất, tay ôm chiếc bọc vải với năm con mèo con mà nó phải vứt xuống sông Cà Lờ. Những con mèo tội nghiệp nó rất yêu, nhưng vô tình đã làm hỏng cả cuộc đời nó.
Hà Nội, 13. 7. 2011

13. ĐỨA CON TRAI

       Thời bao cấp đói khổ nhiều cặp vợ chồng trẻ không dám sinh con thứ hai. Nay về già sống một mình, họ lấy làm ân hận. Không đơn thuần về mắt tình cảm hoặc kinh tế, mà còn có cái gì đấy lớn hơn thế.
Ông Bàn là một trường hợp tương tự. Thời ấy, vợ không đi làm, là công chức quèn lương tháng không mua nổi vài yến gạo, nên khi nghe vợ bảo có thai, ông hốt hoảng thật sự. “Nhà mình đã có một đứa, không biết có nuôi nấng, học hành tử tế được không, bây giờ có đứa nữa biết làm sao?” Đêm ấy ông tâm sự với vợ.
Trong nhà, ông luôn là người quyết định mọi chuyện. Không do gia trưởng hay là người duy nhất kiếm tiền, mà vì ông chỉn chu, thông minh và biết lo toan. Thành ra, dẫu ông không gợi ý trực tiếp, mấy ngày sau bà vợ nhờ ông đèo đến bệnh viện phá cái thai ấy, với hy vọng sau cuộc sống tốt hơn sẽ tính. Tuy nhiên, phải mất hai mươi năm cái cuộc sống tốt hơn ấy mới đến, khi đã quá muộn để nghĩ đến đứa con thứ hai.
“Đó là một thằng con trai, bà nói, giữ được thì hay quá. Nhà có nếp, có tẻ”.
“Sao bà biết là con trai?”
“Là mẹ, tôi phải biết. Ông không thích con trai à?”
“Thích. Nhiều đêm còn mơ thấy nó.”
“Thế à? Tôi cũng vậy.”
Họ tránh không nói lâu đề tài này nên chuyển sang chuyện khác, chuyện cô con gái lấy chồng tận Sài Gòn không chịu đưa con về thăm ông bà đã đành, còn hiếm khi gọi điện cho cho họ.
“Con gái là con người ta…” bà chép miệng rồi bỏ đi, chắc tìm gặp mấy bà hàng xóm cùng cảnh ngộ để chuyện gẫu và than vãn.
Lúc ấy đã xế chiều. Qua cánh cửa để mở, những tia nắng muộn rực rỡ chiếu chếch lên chiếc ghế xếp bằng gỗ ông đang nằm. Như nhiều ông già to béo khác, ông lười hoạt động. Cả suy nghĩ cũng lười nốt. Dạo này ông thấy người sụp hẳn. Có cái gì đấy như đang vỡ ra bên trong. Không lẽ cái chết? Chắc không, vì ông còn trẻ và mạnh khỏe, ít ra bề ngoài. Vậy thì là cái gì? Ông tự hỏi, dù từ lâu đã biết câu trả lời. Đó là sự dằn vặt đau đớn rằng ông, chính ông đã không cho đứa con của mình ra đời, con trai. Ông đã giết nó từ khi còn trong bụng mẹ. Dẫu chua xót, nhưng ông phải thừa nhận điều đó. Thời trẻ người ta xem nạo, phá thai là chuyện bình thường, nhưng về già, cô đơn và đau ốm, chuyện này được nhìn nhận dưới một góc độ khác hẳn, cực đoan và ảm đạm hơn. Dạo này ông hay mất ngủ vì những trăn trở ấy. Thực ra ông chưa bao giờ mơ thấy con. Đêm đêm, mắt mở to trừng trừng nhìn vào bóng tối, ông nhìn thấy con ông, một chàng trai cao lớn mặc bộ quần áo đỏ rực đến đứng bên cạnh. Chỉ lặng im đứng nhìn ông với đôi mắt buồn buồn. Cảm giác như thật, khiến ông nhiều lần ngồi bật dậy, với tay định chạm vào con, nhưng lần nào con ông cũng nhanh chóng biến mất. Sao lúc nào nó cũng mặc quần áo màu đỏ? Máu! Màu của máu! Máu con mình! Máu mình…Ông lấy hai tay ôm mặt để khỏi nhìn thấy cái màu đỏ kinh khủng ấy.
Hình như mặt trời đã lặn. Bà vợ vẫn chưa về. Đang lúc ông Bàn nhỏm dậy cho đỡ mỏi và cũng để nhâm nhi chéỉntà nguội thì có ai đấy từ ngoài bước vào. Ngước lên, ông sững sờ thấy đang đứng trước mặt mình là một thanh niên mặc quần áo màu đỏ, khuôn mặt và thậm chí cả mái tóc cũng đỏ. Sau phút ngỡ ngàng ban đầu, ông bước lại gần, đưa hai tay ôm người anh, khẽ hỏi:
“Con đấy à?”
Chàng trai gật đầu, vẻ mặt bất động và rất buồn.
Ông Bàn ngạc nhiên khi thấy anh không biến mất như mọi lần. Hơn thế, lần này không phải tưởng tượng mà thật. Cái thật ấy ông cảm thấy qua làn vải màu đỏ lành lạnh, ẩm ướt, qua sự hiện diện bằng xương bằng thịt của con ông.
“Bố xin lỗi…” Ông lí nhí nói rồi âu yếm đưa bàn tay phải chạm vào mái tóc và khuôn mặt màu đỏ của con. Lạnh và ướt. Ông có cảm giác như cả người con ông được làm bằng sáp chưa khô hẳn.
Chàng trai vẫn không nói gì, lặng lẽ đón nhận sự âu yếm của bố.
“Con tha lối cho bố mẹ chứ?” Ông Bàn ngước nhìn con với vẻ cầu khẩn.
Vẫn với nét mặt buồn buồn, chàng trai khẽ gật đầu rồi đặt một bàn tay lên vai ông. Nhẹ lắm, hầu như không trọng lượng, thế mà ông choáng váng, suýt ngã khuỵu dưới sức nặng của nó. Khi ông định thần lạ thì chàng trai đã biến mất từ bao giờ.
Đúng lúc ấy, bà vợ ông về.
“Sao ông đứng như trời trồng giữa nhà vậy?” bà hỏi. “Nhìn kìa, đôi tay ông…”
Ông Bàn giơ hai tay trước mặt. Chúng dính đầy máu.
Hà Nội, 21. 7. 2011           

14. MẶT NẠ

Nhà đông người, nhưng không ồn ĩ, vì người ta đang tập trung trước giờ hấp hối của một trong những người thân của họ. Hơn thế, người hấp hối lại danh giá, nổi bất nhất và là niềm tự hào xưa nay của cả dòng họ. Một ông quan. Quan xưa đã ghê gớm, quan cách mạng bây giờ còn ghê gớm hơn.
Với nét mặt đau buồn hoặc cố gượng đau buồn, người ta khe khẽ trao đổi với nhau đôi câu thường thấy trong những trường hợp thế này. Những lời hỏi thăm, an ủi chiếu lệ. Những cái chép miệng, thậm chí cả những giọt nước mắt.
Bà vợ và cô con gái đã lớn của người hấp hối luôn đi lại trong căn phòng chật cứng, mời nước, mời thuốc và thi thoảng nói đôi lời, cũng rất chiếu lệ.
Người hấp hối nằm ở phòng bên, trên chiếc giường rộng trải vải trắng toát. Trong phòng không có ai vì bác sĩ yêu cầu để ông được yên tĩnh, dẫu chỉ một chốc.
Đó là một người đàn ông da ngăm đen, khá gầy nếu xét qua đôi tay và đôi chân trần lộ ra dưới lớp vải. Nhưng nếu nhìn mặt thì đó là một người có khuôn mặt đầy đặn, hồng hào, có thể nói rất ưa nhìn, dẫu ít nhiều xa lạ. Nhìn nó, người ta chẳng biết nó đang khen hay chê mình, đang cười, dửng dưng hay thậm chí đang khóc. Thành ra, khuôn mặt đầy đặn có vẻ cởi mở ấy rốt cục vẫn kín mít và vô cảm. Ông còn trẻ, chưa đến sáu mươi nhưng đã là một cán bộ cấp cao, rất cao, và chắc chắn sẽ còn lên cao nữa nếu không bị căn bệnh ung thư quái ác này cản đường.
Khuôn mặt mở mà kín đáo, thân thiện mà vô cảm ấy của ông giữ vai trò quyets định trên con đường thăng tiến.
Ở phòng ngoài, bà mẹ bảo cô con gái:
“Con vào với bố đi. Đừng để bố một mình”.
Cô gái, một sinh viên năm cuối trường Ngoại Giao, lẳng lặng làm theo lời mẹ. Vừa mở cửa, cô chợt nghe có tiếng gì đấy rơi, kêu đánh keng giữa sàn nhà đá cẩm thạch. Trên giường, người hấp hối nằm đầu ngoẹo sang một bên. Cái vật rơi ấy chắc từ người ông. Cô vội chạy lại và thấy bố đã chết. Đúng lúc định kêu lên gọi mẹ thì cô phát hiện thấy một điều rất khác thường.
Đó là khuôn mặt bố cô. Nó không còn hồng hào, dễ mến và đầy đặn như vốn có. Thay vào đó là một khuôn mặt xa lạ, xấu, gian hiểm, gầy và đen xạm như đôi chân và tay. Cô ngạc nhiên không tin vào mắt mình, đến mức không biết phải làm gì. Bất chợt cô nhìn xuống sàn nhà và thấy cái gì đấy mỏng, bằng kim loại. Mặt nạ! Chiếc mặt nạ bố cô vẫn đeo suốt đời mình. Có lẽ giờ chết không cần nữa, nó mới rơi xuống. Cô cúi xuống cầm nó trên tay, không phải không thoáng lo sợ và ghê tởm.
Lưỡng lự một chốc, cô sửa đầu bố nằm thẳng rồi vội vàng đặt nó lên mặt ông. Khuôn mặt ông lại ửng hồng, cởi mở và đôn hậu. Nó nhìn cô với vẻ hài lòng.
Trong tiếng khóc thút thít, tiếng chia buồn và tiếng những bước chân cuống quít, người ta liệm người chết vào quan tài. Tiếp đến là dòng người xếp hàng để nói lời vĩnh biệt, bày tỏ lòng thương xót và kính trọng với chiếc mặt nạ nằm sau ô kính nhỏ.
Hà Nội, 18.7.1011

15. HOA SEN BỒ TÁT

Họ hay gặp nhau ở hồ Kim Đài, trong hồ có nhiều bèo tây và sen. Có thể vì thế mà mỗi lần nhớ cô, anh hay nghĩ về hoa sen, đặc biệt những bông hồng hồng sắp nở. Cũng có thể vì đôi má cô có màu hồng như thế. Cả cặp vú non, nhòn nhọn dưới lớp vải lụa mỏng cũng gợi anh nghĩ đến một cái gì đấy đẹp, tinh khiết và thơm. Cái ấy chỉ có thể là hoa sen.
Chuyện xẩy ra đã lâu. Cô là cô gái quê lên thủ đô học đại học. Anh là con nhà danh giá, giàu có mười đời sinh sống ở đất này. Rồi họ yêu nhau, như phần nhiều những cặp trai gái khác yêu nhau - không quá hời hợt mà cũng chẳng mấy say đắm, nhưng chân thành.
Một tối nọ, ngồi trên chiếc ghế đá ven hồ thưởng thức làn gió mát từ phía sông Hồng thổi tới và hương sen dìu dịu từ hồ bay lên, cô bảo anh cô đã có thai.
Vốn được quá nuông chiều cả từ phía gia đình lẫn bè bạn, anh có cảm giác như mình bị xúc phạm khi phải rơi vào một tình huống thụ động và đột ngột như vậy. Giữa lúc lúng túng không biết nói gì, làm gì, anh đã buột miệng thốt ra một câu ngu ngốc mà vì nó ân hận cả đời:
“Thế à? Em có chắc là con anh không?”
Cô nhìn anh, đôi mắt mở to đầy kinh ngạc và đau đớn, rồi ù bỏ chạy. Còn anh, như bị trói vào ghế, vẫn ngồi yên, ngồi đến tận sáng hôm sau. Khi anh đến ký túc xá tìm người yêu với ý định xin lỗi và nhanh chóng tổ chức lễ cưới, người ta nói cô đã xin thôi học, bỏ đi đâu không rõ. Từ bấy đến nay hai mươi lăm năm đã trôi qua, và anh chưa gặp lại cô lần nào.
Hồ Kim Đài ngày nay không còn như xưa. Nhỏ hơn nhiều, có đường đi lát đá bao quanh. Chính giữa hồ không hiểu sao người ta dựng chiếc lầu nhỏ tám mái bằng ngói sành màu xanh thẫm. Trong lầu, cao trên bệ đá hoa cương là tượng Quan Âm Bồ Tát tọa trên đài sen màu trắng. Dưới hồ sen vẫn nở, nhưng toàn màu hồng.
Anh, bây giờ đã là một người đàn ông tóc hoa râm, vẫn thỉnh thoảng ra ngồi bên hồ. Ngồi đúng chỗ ngày xưa, nơi anh và cô gái của anh đã ngồi vào cái đêm cuối cùng định mệnh ấy, dẫu bây giờ chiếc ghế đá không còn. Ông sống một mình không vợ con, gia tài bố mẹ để lại tiêu tán hết vào những chuyến đi dài ngày tìm kiếm người yêu. Ông đã thật sự hối hận và đau khổ vì câu nói ngớ ngẩn, không suy nghĩ đó. Lo lắng cho số phận cô gái, và cả đứa con của mình, ông tìm kiếm họ khắp nơi nhưng không thấy.
Mười giờ đêm. Đèn chiếu sáng quanh hồ phụt tắt do đang trong tháng tiết kiệm điện. Dây đèn trang trí màu đỏ trong lầu vẫn sáng, không hiểu từ nguồn nào. Cả bức tượng và đài sen có màu hồng nhạt như những bông sen dưới hồ ban ngày. Ông vẫn ngồi yên, nghĩ về màu hồng đôi má và cả đôi vú nhỏ, nhọn của người yêu năm nào. Hình như đã khuya. Chỉ còn lại một đôi bạn trẻ ngồi bên chiếc ghế cách đấy không xa. Bất giác ông thở dài, thầm mong họ không lặp lại bi kịch của ông.
“Anh xin lỗi. Xin mẹ con em hãy tha thứ cho anh”.
Ông nói với bức tượng Quan Âm Bồ Tát trên đài sen màu hồng giữa hồ. Nếu có thể, ông đã lội nước đến quỳ trước nó mà nói. Rồi ông thành kính chắp tay trước ngực:
“Xin Bồ Tát lòng lành giúp con!... Hãy ban ơn giúp con!...”
Bất chợt, bức tượng Bồ Tát động đậy. Ngài từ từ bước lại, đặt ông lên bàn tay của mình rồi bay đi.
*
Sáng hôm sau, ông tỉnh dậy gần một ngôi chùa lạ.
Trước mắt ông là một ni-cô trẻ, mặc bộ quần áo nhà chùa màu nâu còn mới. Không hỏi, không mời, cô gái lặng lẽ đưa ông vào chùa.
Chùa ở lưng chừng núi, lọt thỏm giữa những tán cây xanh. Phía dưới lác đác mấy ngôi nhà tồi tàn được dựng theo kiểu rất lạ ông chưa thấy bao giờ. Điều này khiến ông nghĩ ông đang ở một nơi nào đấy rất xa. Trước chùa có chiếc bể lớn bằng xi măng giả làm ao, lơ thơ mấy bông sen đang nở như ở hồ Kim Đài. Bất giác nhìn xuống nước, ông thấy mình với khuôn mặt phờ phạc ốm yếu, mái tóc xù, cái lưng gù gù dẫu chưa già và bộ quần áo nhàu nát.
Trụ trì là một sư thầy trạc tuổi ông nhưng trông trẻ hơn nhiều. Bà có khuôn mặt đẹp, đôn hậu đến mức thánh thiện nhưng vô cảm. Bà hồi lâu nhìn ông cũng với vẻ lạnh lùng, vô cảm ấy. Ông không lấy thế làm buồn vì biết người tu hành thường có vẻ ngoài như vậy, dù họ tốt bụng.
Thay cho câu cảm ơn bình thường, ông nhắc lại hai tiếng “mô phật” của sư thầy khi bà mang tới đĩa khoai luộc và bát nước. Bà lặng lẽ nhìn ông ăn. Nhìn ông còn có một người nữa, đó là Bồ Tát. Ngài đang ngự trên một đài sen bằng đá cẩm thạch màu trắng như ở hồ Kim Đài, ngay gần ông nhưng chắc mải ăn nên ông không nhìn thấy. Ông cũng không nhận thấy khuôn mặt thánh thiện của sư thầy trụ trì có màu hồng hồng trông giống một bông chưa nở. Bông sen Bồ Tát.
Ăn xong, ông tựa lưng vào chiếc tràng kỷ gỗ rồi thiếp lúc nào không biết.
Lát sau, cô gái bước vào:
“Ông ấy đâu rồi mẹ?”
“Bồ Tát đưa ông ấy về rồi”, sư thầy trụ trì đáp.
“Trông ông ấy tội nghiệp quá”.
“Ừ, tội nghiệp. Bố con đấy”.
Hồi lâu, cô gái mới lên tiếng, giọng bình thản.:
“Sao mẹ không giữ ông ấy lại?”
“Chưa phải lúc. Vì bố con không thấy mẹ đã khóc. Bố con chưa đau khổ đến mức có thế thấy người khác khóc mà không cần nước mắt hay thay đổi nét mặt”.
Hà Nội, 25. 7. 2011
                                           
16. CHUYỆN LÀNG VÀ NGƯỜI LÀNG

Hồi cải cách ruộng đất năm 1956 tôi còn nhỏ, nhưng cũng đủ lớn để chứng kiến khá nhiều chuyện xẩy ra trong làng. Mãi đến giờ tôi vẫn không sao quên nổi cái không khí điên khùng, kỳ cục những ngày ấy. Cả làng như đang trong cơn lên đồng tập thể. Đêm nào cũng họp hành và đấu tố. Hàng xóm đấu hàng xóm, thằng ở đấu ông chủ, có cả trường hợp anh em đấu nhau hay thậm chí con cái đấu cha mẹ. Toàn những mày tao chi tớ, nhổ nước bọt, chỉ tay dí mặt trông mà khiếp. Ban ngày thì cả làng kéo nhau đi xem xử bắn bọn “gián điệp” và “cường hào gian ác”. Làng mình không hoặc chưa có thì xem ở làng khác.
Nổi bật nhất là lễ rước “quả thực”, tức là lễ rước khắp làng những của cải, đồ đạc tịch thu của địa chủ trước khi chia cho dân làng. Vui lắm, thích lắm. Nhưng địa chủ thì ít, lại chủ yếu thuộc diện qui chụp theo chỉ tiêu trên giao xuống, nên cũng chẳng có nhiều để chia. Thế mà ai cũng hỉ hả ra mặt. Tự dưng không đâu người ta cho mình cái này cái nọ, hỏi làm sao không vui? Nhà tôi thuộc diện bần cố nông nên cũng được một cái chum và nửa con trâu, chung với ông bác. Bố mẹ tôi cũng hỉ hả lắm, dù tôi biết hai cụ chưa bao giờ phải đi ở hay làm thuê cuốc mướn cho tên địa chủ nào. Qua vụ này, tôi đâm ra ghét mấy ông bà nông dân tham lam, tráo trở.
Chỉ đạo toàn bộ cuộc lên đồng tập thể kéo dài cả tháng ấy là hai ông Đội, một từ Vinh, một từ tận trung ương về. Ông trung ương là người làng, có tên Hoạt, nghe nói ông tự xung phong, chứ cỡ ông không ai xuống cấp xã. Ông này trạc ba mươi lăm, bốn mươi tuổi, người vạm vỡ, ít nói và có thói quen chốc chốc lại ngúc ngắc đầu như đang cố xua một con ruồi vô hình.
Để nêu gương cách mạng, ông chọn ở nhà lão Thọt theo phương châm ba cùng, là cùng ăn, cùng ở và cùng làm việc, mặc dù ông chỉ về ngủ vào lúc đêm khuya, trên cái giường duy nhất trong nhà. Lão Thọt thì ngủ trong ổ rơm dưới bếp, thường có tôi ngủ cùng vì lão có cả một kho truyện ma để kể. Bù lại, ban ngày tôi nhổ tóc bạc và bắt rận cho lão. Không hiểu sao người ta gọi Thọt khi lão đi đứng bình thường như mọi người. Lão còn khỏe mạnh dù đã hơn sáu mươi, trước từng đi lính sang Dijon bên Pháp. Nhưng lão mù, mà cũng mới đây thôi, sau một lần đau mắt và được ông thầy lang làng bên chữa bằng cách đắp hai con nhái đã nướng chín lên mắt.
Mấy ngày sau khi Đội về, đêm nằm lão bảo tôi:
“Chúng nó bắt đầu ăn thịt nhau đấy mày ạ?”
“Sao phải ăn thịt nhau?” tôi hỏi.
“Rồi mày xem. Bọn này chẳng hay ho gì đâu”.
“Bọn nào ạ?”
“Bọn Đội. Bọn chó chết. Nhất là thằng Lan”.
Lan là tên anh Đội thứ hai. Hắn còn trẻ nhưng rất hống hách, chuyên xúi người ta đấu nhau, và là thằng đầu têu đánh dã man những người bị qui oan. Đã thế hắn còn tham ăn và háu gái. Người ta thấy hắn bắt gà vịt và sờ mông, bóp vú đàn bà giữa ban ngày ban mặt mà chẳng ai dám nói gì. So với hắn, ông Hoạt còn tử tế hơn nhiều, dẫu vì ông khối người phải khốn khổ.
Một tối nọ cô Bích, cháu đằng ngoại của lão Thọt, tấm tức chạy đến bảo lão cô bị hắn đè ra hiếp, dọa nếu không chịu, cả nhà cô sẽ bị qui địa chủ, tức là bị xử bắn. Lão Thọt nghe không nói một lời nào. Đêm ấy tôi nghe lão nghiến răng kèn kẹt mãi. Tối hôm sau, lúc ấy đã khuya, lão chui vào ổ rơm, ôm chặt tôi rồi thì thầm:
“Tao giết hắn rồi!”
“Giết ai?” tôi ngạc nhiên hỏi.
“Thằng chó chết ấy chứ còn ai nữa. Chém một phát đứt ngang cuống họng. Ngoài đíếm canh”.
“Nhưng bác mù…”
“Mù ít thôi. Tao giả vờ đấy. Cấm mà bép xép với ai đấy nhé! Tao giết!”
Khỏi phải nói cả làng bị một phen điêu đứng thế nào. Người ta khám từng nhà, tra khảo từng người. Có hẳn một đoàn công an từ huyện về mà cuối cùng vẫn không tìm ra thủ phạm giết thằng Lan. Tất nhiên không ai nghi ngờ lão Thọt, vì lão mù.
Dần dần mọi chuyện cũng lắng xuống. Tiếp đến là sửa sai và làng lại đi vào nếp cũ. Ông Hoạt quay ra Hà Nội với công việc xưa nay của mình trong ngành an ninh. Ông thăng quan tiến chức nhanh chóng và chẳng bao lâu trở thành người danh giá nhất làng, đặc biệt khi ông về thăm quê bằng ô tô con, chiếc đài bé xíu đeo bên hông. Ở thủ đô, lần nào gặp mặt đồng hương xã nhân năm mới ông cũng có mặt, và đương nhiên ngồi ở chỗ nổi bật nhất, được trọng vọng nhất. Tôi cũng nhiều lần bắt tay, nói chuyện với ông, dẫu không mấy thân mật vì chênh lệch tuổi tác và nghề nghiệp. Tôi tặng ông một vài cuốn sách tôi viết, và ngạc nhiên khi biết ông đọc chúng. Thậm chí đọc kỹ, có  lần còn gọi điện nhận xét. Hình như ông thích tôi, tôi không biết vì sao, nhưng có cảm giác như thế. Một lần vui miệng, ông nói ông đã cứu tôi khỏi bị công an bắt.
“Ngày mới về nước, cậu viết mấy bài thơ ủy mị, kêu khổ. Chúng nó đưa vào sổ đen, định bắt nhưng tớ đỡ cho, bảo người cùng làng và thằng ấy tốt nên mới thôi”.
Tôi cảm ơn ông và chẳng biết nói gì thêm. Tôi có biết mình bị theo dõi, nhưng bị bắt và đi tù như một số văn nghệ sỹ lúc ấy thì quả thật không ngờ tới. Mà rồi tôi chỉ mới tập tạnh vào nghề chứ đâu đã thành danh như bây giờ.
Một hôm, cách đây khoảng ba năm, ông gọi điện cho tôi và nói, giọng quan trọng:
“Cậu đến ngay nhà tớ, có việc muốn nhờ!”
Đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy ông đang đứng chờ trước cổng nhà, mặc bộ quân phục đại lễ, huân huy chương đầy ngực. Ông vội chui vào xe và nói như ra lệnh:
“Lên Chèm! Khoan hẵng hỏi. Tớ sẽ chỉ đường.” Ông vẫn chưa quên cái giọng nói chuyện với cấp dưới khi ở cơ quan, dù đã về hưu gần hai chục năm nay, và tôi là người làng ông đang nhờ giúp đỡ.
Tôi lặng lẽ làm theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang xẩy ra.
Cuối cùng, ông bảo tôi dừng xe bên sông Hồng, cách đền Ông Trọng không xa. Lúc ấy đã sáu giờ và mặt trời đang tắt dần ở phía Tây. Tôi bước theo ông đi xuống mép sông, vẫn hoàn toàn chưa biết ông định làm gì. Ở tuổi tám mươi, trông ông còn khỏe và cao lớn. Cái đầu vẫn thỉnh thoảng lắc lắc như xưa. Thế mà nghe nói như ông đang bệnh nặng.
Chỗ sông này nước xuáy, ăn lõm vào bờ khá sâu. Ông đứng lên tảng đá lớn sát bờ, ra hiệu tôi lại gần và nói, cũng bằng cái giọng ra lệnh lúc nãy:
“Hãy nhìn cho kỹ những gì tớ sắp làm…”
“Bác định làm gì?” tôi hỏi, không dấu nổi sự ngạc nhiên và sợ ông nhảy xuống sông tự tử.
“Cậu sẽ biết ngay đây. Tớ chỉ cần cậu như một người làm chứng”.
Rồi ông thong thả cởi từng chiếc huân, huy chương trên bộ quần áo đại lễ màu trắng, vứt mạnh xuống dòng nước chảy xiết. Khoảng dăm chiếc, và tôi chẳng biết đó là huân, huy chương gì.
“Xong. Ta về! Coi như cậu đã trả ơn tớ không cho công an bắt ngày nào.”
“Vì sao bác làm thế?” tôi hỏi khi đã ngồi trên xe.
“Vì tớ sắp chết”. Biết tôi đang ngạc nhiên, ông nói tiếp: “Mà trước khi chết ai cũng muốn lòng mình thanh thản”.
“Vâng, nhưng chuyện này liên quan gì đến mấy chiếc huân chương?”
“Tại chỗ nước xuáy kia, sau khi cướp chính quyền năm bốn lăm, tớ đã giết một lãnh tụ đảng Việt Quốc. Bắt cóc giữa đường, cho vào bao tải rồi ném úm xuống đó. Ban đêm, tất nhiên, và cùng hai đồng chí khác của Nha cảnh sát cách mạng”.
Tôi ngồi im, chẳng biết nói gì.
“Và người ta tặng huân chương cho tớ về việc ấy”, ông hạ giọng, vẻ chua chát.
Im lặng một lúc, tôi nói, cốt để an ủi ông:
“Cái thời nó thế thì phải thế. Vả lại, đấy là nhiệm vụ cách mạng giao.”
“Đành vậy, nhưng dẫu sao… Nếu là tớ, cậu có thể chết thảnh thơi được không?”
“Không”.
Khi xe về gần đến nhà, tôi hỏi:
“Sao bác không bảo con cháu làm cái việc bác nhờ tôi hôm nay?”
“Cái bọn hời hợt, hãnh tiến ấy, nhờ để chúng phá à? Chúng chỉ có một niềm tự hào duy nhất là con cháu cán bộ cách mạng lão thành”.
Một tháng sau ông chết ở bệnh viện K, suýt đươc an táng trong nghĩa trang Mai Dịch. Tất nhiên các đài, báo trung ương đều đưa tin, long trọng và cảm động.
Hà Nội, 29. 7. 2011      

17. ĐÒ ƠI

Buổi chiều, trời thấp và nhiều mây. Mưa phùn bàng bạc, ẩm lạnh. Chiếc lò gạch giữa đồng giờ chỉ là một khối mờ mờ không rõ nét. Vùng này gần biển nên lắm sương mù, cả những ngày nơi khác trời quang mây tạnh.
Dòng sông Cấm cũng biến mất trong màn sương bàng bạc ấy, dù nó nằm đâu đó không xa trước mặt.
Tiếng gọi “đò ơi” chắc phải vất vả lắm mới vượt qua được khoảng cách từ người gọi đến người nghe.
      Phía dưới làng Vĩnh Lợi khoảng cây số có bến đò Ngự. Bến đò có từ ngày xa xưa, thời chiến tranh rộ lên khá mạnh vì nhu cầu vận chuyển hàng và người ra tiền tuyến, thậm chí có cả chiếc phà con, giờ hết chiến tranh, nó trở lại như cũ, buồn buồn và ngái ngủ.
Chèo đò chở khách sang sông là cô Lành, con bà Thắm ở làng Mít bên kia sông, một cô gái ít nói, có nét mặt xạm nắng và khô ráp như chiếc đò của cô. Nhưng cô xinh, ít ra là ưa nhìn.
Anh giáo làng Trần Văn An cứ cách một ngày đi đò của cô một lần. Anh người làng Vĩnh Lợi và là giáo viên trường tiểu học ở đó, nhưng bà con bên ngoại lại ở làng Mít. Thực ra anh không có nhu cầu thăm viếng họ hàng nhiều đến thế. Anh đi đò là cốt được nhìn thấy cô Lành. Hình như anh mê cô từ lần đầu mới gặp, khi ngồi trên mép thuyền ngắm nhìn khuôn mặt trái xoan lấm tấm mồ hôi và các đường cong mềm mại trên cơ thể trẻ trung của cô. Vì dút dát và hay xấu hổ, anh không nhìn lên ngực cô, nhưng vẫn đoán biết đôi vú của cô cũng rất đẹp. Thậm chí anh còn hình dung chúng khi cô tắm.
Vì tính dút dát và hay xấu hổ ấy, ba tháng dài trôi qua mà anh giáo làng không dám, mà cũng không biết, bày tỏ tình cảm của mình thế nào. Tháng thứ tư thì người ta xây chiếc cầu xi măng bắc qua sông, và cô Lành hết việc. Tháng thứ năm cô lấy chồng, lấy một anh vừa đi lao động xuất khẩu bên Trung Đông về. Chính mắt anh nhìn thấy hôm cưới chú rể chở cô dâu về làng mình, cách làng Vĩnh Lợi hai làng nữa về phía Tây, trên chiếc xe Suziki đít vuông anh ta mới mua. Loại xe này trên thành phố người ta hay dùng để chở thịt lợn. Theo sau là rất nhiều xe máy của hai họ.
Vậy là cô Lành đi lấy chồng, bỏ lại đằng sau bến đò Ngự cùng chiếc thuyền không và một anh giáo làng đã buồn càng thêm buồn. Chiếc cầu xi măng bị anh ghét oan. Không đâu anh ghét cả cái nước Nhật chi tiền tài trợ xây nó. Họ ngoại nhà anh bên làng Mít thì ngạc nhiên thấy anh lạnh nhạt hẳn, và chỉ sang thăm họ một năm vài lần vào dịp giỗ chạp. Những ngày xấu trời, vùng này vẫn nhiều mây mù như xưa. Chiếc lò gạch bị phá bỏ từ lâu trong một đợt ra quân bảo vệ môi trường do xã đoàn phát động. Bến đò bây giờ cỏ dại mọc gần kín, là chỗ thuận lợi cho trai gái làng đêm đêm tìm đến tình tự hay làm chuyện bậy bạ. Anh giáo làng Trần Văn An cũng đến đấy, nhưng vào ban ngày, và chỉ một mình. Anh thường ngồi rất lâu, có hôm không đâu cất tiếng gọi “đò ơi” nghe khá ai oán.
Nhiều năm trôi qua.
Một hôm, có một người đàn bà đến gặp anh, lúc này đã là hiệu trưởng trường Trung Học Cơ Sở Nam Diễn Châu 3. Người ấy đến theo yêu cầu của cô chủ nhiệm vì một chuyện nào đấy của cậu con trai bà.
“Chào cô Lành”, ông hiệu trưởng nói vì ngay cái nhìn đầu tiên đã nhận ra bà.
Việc cậu con không có gì quan trọng và được giải quyết nhanh chóng.
Ông hơi lạ khi thấy khách có ý dùng dằng chưa muốn về.
“Cô và gia đình, mọi chuyện ổn thỏa cả chứ?”, ông hỏi.
“Cảm ơn thầy. Mọi chuyện đều tốt. Còn thầy?”
“Tôi à?... Tôi thì vẫn thế”. Dù đã cố giữ bình thản, giọng ông vẫn hơi chùng xuống và thoáng buồn. Nói “vẫn thế” là hàm ý ông sống độc thân và vẫn chưa quên mối tình ngày nào.
Bất chợt, trái với sự dút dát thường ngày, ông nói:
“Ngày xưa tôi yêu bà đấy. Yêu lắm, nhưng bà không biết”.
“Tôi biết”.
“Bà biết?”
“Vâng. Và tôi đã chờ…”
Ông hiệu trưởng đứng lặng, chẳng biết nói gì thêm.
Đêm ấy ông lại ra ngồi bên bến đò xưa. Ngồi rất lâu, nhưng lạ là không một lần gọi “đò ơi”.
Hai tháng sau, ông xin chuyển công tác lên Kỳ Sơn, một huyện miền núi mà cánh giáo viên ai cũng sợ.
Hà Nội, 5. 8. 2011

18. NHỮNG NGÔI SAO SÁNG

Ngày nhỏ đọc truyện Tam Quốc, tôi thấy mỗi lần có vị tướng tài hay ông quân sư giỏi nào đấy chết là một ngôi sao lớn lóe lên rồi vụt tắt, để lại vệt sáng lớn trên bầu trời. “Ngôi sao to bằng chiếc đấu” -  người ta viết như vậy. Nghĩa là những vị tài giỏi ấy không chỉ được người mà cả trời đất yêu quí.
Cũng ngày nhỏ, một lần tôi được bọn bạn có bố mẹ theo đạo dẫn đi xem lễ Giáng Sinh ở nhà thờ làng trên. Chúng dẫn tôi đến một góc vườn nhà thờ được trang trí bằng đèn nhiều màu. Trong chiếc nôi giữa đám cỏ khô là một đứa bé bằng gỗ quét sơn hồng - Chúa Jesus. Chúng bảo tôi Chúa được sinh trong máng cỏ chuồng ngựa, và đúng lúc Ngài ra đời, một ngôi sao lớn xuất hiện trên bầu trời, theo đó ba nhà thông thái phương Đông đã tìm đến tặng quà cho mẹ con Ngài. Cạnh máng cỏ lúc ấy có chiếc đèn lồng năm cánh dán giấy bóng màu xanh, tượng trưng cho ngôi sao ấy. Tôi hỏi vì sao khi Chúa sinh lại xuất hiện ngôi sao? Chúng bảo đó là bằng chứng Ngài được yêu mến và mong đợi.
Vậy là rõ: Những ai được người khác yêu mến khi sinh hoặc chết đều được trời đánh dấu bằng những ngôi sao sáng. Tôi đã nghĩ và tin như vậy.
Tôi có một người ông rất khác thường, nhiều người cho là gàn dỏ, nhưng tôi thì rất yêu. Ông cao lớn, trực tính, ăn to nói lớn và rất tốt bụng. Ngày bé tôi nghịch thường bị bố đánh, và ông luôn che chở cho tôi. Ông hay đưa tôi đi chơi xa, kể đủ thứ chuyện thú vị ông biết hay tự phịa ra. Đêm tôi chui vào ổ rơm ngủ với ông nhiều hơn ngủ ở nhà. Cuối năm 1959 ông tôi mất. Khỏi nói tôi buồn và thương nhớ ông thế nào. Đêm hôm ấy tôi ra đồng Rục, đứng trên gò đất cao nhìn như dán khắp bầu trời xem có ngôi sao nào lóe sáng không. Cuối cùng tôi đã nhìn thấy nó, vào lúc gần sáng. Một ngôi sao đổi ngôi rất sáng ở phía chân trời. Vậy là ông tôi là người tốt, được yêu mến và khi chết đã biến thành sao. Không bằng ngôi sao lớn như chiếc đấu của Khổng Minh, nhưng là một ngôi sao đẹp.
Ba mươi năm sau tôi lấy vợ và sinh con đầu lòng, con gái. Hôm ấy bầu trời đen kịt vì đang có mưa, nhưng khi ngước nhìn lên, tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy sau lớp mây dày đặc một ngôi sao lấp lánh, đẹp như ngôi sao báo hiệu sự ra đời của Chúa.
Lại ba mươi năm nữa trôi qua, cách đây hai tháng, tôi có cháu ngoại. Hôm ấy vợ chồng tôi ở Vũng Tàu. Tôi đưa vợ tôi lên tầng cao nhất của tòa nhà hai mươi hai tầng nơi con tôi sống. Cao trên đầu chúng tôi là cả một trời sao tuyệt đẹp. Ngôi nào cũng xanh, nhấp nháy và trẻ trung đến lạ kỳ. Hơn thế, cũng hôm ấy, giờ phút ấy, người ta đang bắn pháo hoa ở Đà Nẵng, có thể một phần để chào mừng sự ra đời của cháu tôi.
“Cả trời sao đẹp thế này là để chào đón cháu mình ra đời đấy”, tôi nói.
Vợ tôi không hiểu, nhưng có vẻ xúc động bởi lời nói bóng bẩy, lãng mạn ấy. Bà đứng lặng. Trong đôi mắt ngước nhìn lên lấp lánh hai giọt nước mắt. Hai ngôi sao.
Còn tôi, tôi nóng lòng chờ cháu chóng lớn để kể cho nó nghe về ngôi sao của cụ nó, mẹ nó và cả của nó. Tôi thầm hứa với cháu rằng tôi sẽ cố sống tốt, thật tốt, để một ngày nào đó, có lẽ cũng không còn xa, khi tôi chết, nó, mẹ nó, bà nó và nhiều người khác sẽ thấy một ngôi sao, có thể không lớn lắm, nhưng xanh, đẹp, lóe sáng trên bầu trời như ngôi sao của ông tôi ngày xưa.
Cũng có nghĩa rằng tôi, một người tốt, khi chết, được hóa thành sao.
Hà Nội 7. 8. 2011              

19. SƯỞI NẮNG

Tôi ngồi sau bàn viết ngoài hiên, dưới bóng dàn mướp đang ra hoa, lơ đãng nhìn đồng lúa xanh trải dài trước mặt.
Có vẻ như đã hết đông. Hết cả những ngày sương mù ẩm ướt. Một dây mướp sà xuống như chìa những bàn tay lá xanh và ấm.
Con Cún sưởi nắng trong góc sân, lười đến mức không thèm dậy ve vẩy đuôi mừng khi tôi ra chơi với nó.
Vậy là thêm một mùa xuân nữa đến. Cây cối, đất trời đang sống lại. Vạn vật cựa mình chào đón những tia nắng vàng khô. Thế mà tôi, không hiểu sao tôi vẫn thấy có cái gì đó ẩm ướt, ủ ê trong lòng. Cái buồn không tên. Sự mệt mỏi không tên. Cái gì đó làm tôi không hài lòng với bản thân mình. Cái gì? Nhiều cái lắm, mà cũng chẳng có cái gì cả. Tôi tự nguyện dấn thân và con đường văn chương vất vả. Đọc đến mụ người, viết đến mụ người, mà nói chung chỉ toàn chuyện đâu đâu chẳng mấy ích lợi cho đời và cả cho tôi. Thì đây, không ai bắt mà tôi cứ ngồi lì bên bàn, hàng giờ liền chưa được chữ nào nên vẫn trân trân nhìn phía trước như người mất hồn.
Trên con đường đất đỏ từ làng xuống đồng Rục, một người đàn bà quảy gánh đi làm. Một bên là thằng bé lên ba. Bên kia là cái cuốc, ấm nước, bữa cơm trưa cho hai mẹ con và thêm cái gì đó để đủ nặng, gánh không lệch. Đó là cô Mến, con dâu bà Hạnh, vừa bị chồng say rượu đánh hôm qua. Cô một mình đi trồng ruộng khoai vốn đã quá ngày. Nghe nói cả xóm, nhà cô duy nhất còn thiếu ăn. Con nhà nghèo ngoan. Thằng bé không khóc, lại còn bi bô nói hát. Chốc chốc thấy vướng, nó vứt chiếc nón rách trên đầu, và mẹ nó phải dừng lại nhặt lên, bắt đội.
 “Lại đọc sách à?”
Bà hàng xóm to béo xuất hiện lúc nào, tay ôm bó chăn lớn đứng ở sân nhà bên.
“Vâng. Tôi thì còn làm được gì nữa ngoài đọc sách?” tôi đáp.
“Sống như ông chán bỏ mẹ”.
“Ừ”.
“Thì vứt sách mà đi chơi. Trên phố vừa mở quán karaoke to lắm. Có cả các em út nữa đấy”. Bà nói, tự nhiên cười khúc khích, với tay treo chiếc chăn lên dây thép rồi lấy gậy đập đập, bụi bay mù mịt. “Trời với chả đất. Cả mấy tháng sụt sùi, đến người cũng ẩm mốc chứ nói gì đến chăn”.
“Đến người cũng ẩm mốc”. Cái bà này nói hay thật. Hay định ám chỉ mình?
Một lát sau, tôi xách ghế, đầu trần ra ngồi phơi nắng giữa sân. Bên kia bờ rào là chiếc chăn ẩm xỉn màu.
Mặt trời mớ quá con sào nhưng đã bắt đầu nắng gắt. Kệ. Tôi cứ ngồi, mấy lần xù tóc đế nắng xuyên qua đầu, sưởi ấm những ý nghĩ ẩm mốc bên trong.
Có lẽ đã hơn một giờ. Chắc vì nóng, con Cún chạy vào nhà từ lúc nào.
“Ông làm gì mà ngồi chang giữa nắng thế này?” vợ tôi đi chợ về, ngạc nhiên hỏi.
“Tôi sưởi nắng.”
“Sưởi nắng giữa trưa? Và phải xù đầu xù tóc thế kia?”
“Thì tôi sưởi cả ý nghĩ trông đầu nữa”.
“Ông điên vừa vừa thôi”.
Đấy là câu vợ tôi vẫn nói khi thấy chồng làm điều gì đấy kỳ cục. Không ác ý hay châm chọc, lâu dần thành quen, tôi coi như chuyện bình thường, thậm chí là lời mắng yêu.
Tôi nhìn theo, chợt thấy hôm nay hôm nay vợ diện áo đep, dù chẳng đi đâu. Hay hôm nào cũng diện mà mình không thấy? Dẫu có đẫy ra, nhưng bà ấy vẫn giữ được những nét đẹp của thời con gái. Tự nhiên thấy thương vợ. Một mình phải lo toan bao nhiêu việc trong nhà, lai còn phải chịu đựng một ông chồng to béo ngồi lù lù bên bàn suốt ngày và không bao giờ đụng tay làm gì. Được, lát nữa mình sẽ vào giúp bà ấy nhặt rau! Chắc phải ngạc nhiên lắm, và lại mắng “ông điên vừa vừa thôi”.
Không văn chương gì hết. Hôm nay nghỉ. Mai kia cũng nghỉ! 
Chiếc chăn bà hàng xóm có thể chưa khô, nhưng ý nghĩ của tôi hình như đã ấm hơn, thậm chí có đôi chút le lói.
Lát sau, với cái đầu tỉnh táo của một người vừa qua cơn sốt li bì, tôi bỏ vào nhà nhặt rau cho vợ, vừa đi vừa nghĩ ngày mai sẽ bảo cô Mến gửi thằng bé bác trông cho, kẻo chang nắng nó ốm thì chết.
10. 8. 2011

20. LÀNG VÔ THẦN
                                           
Sau bốn mươi lăm năm xa xứ, ông trở về thăm làng lần đầu. Nghe nói ông là Việt kiều Mỹ rất giàu và đang có ý định làm từ thiện lớn nên người ta rất quan tâm và chào đón thái quá, đôi khi khiến ông thấy bất tiện.
Ngay trong buổi tiếp đầu tiên do trưởng thôn tổ chức, có cả bí thư chi bộ và đại diện thanh niên, phụ nữ, ông bí thư đảng nói không úp mở:
“Trước làng ta có Chùa Mít. Chắc bác còn nhớ? Chiến tranh phá mất rồi. Mà đền chùa là cái mặt văn hóa của làng. Giờ có điều kiện xây lại thì tốt quá.”
Ông còn nhớ không ư? Vì nó mà ông phải xa làng chừng ấy năm. Số là thời ấy, tức giữa những năm sáu mươi, ông là bí thư xã đoàn. Một hôm, người ta đi họp trên huyện về, giao cho thanh niên phá Chùa Mít. “Làng đã lên hợp tác xã, ruộng đất và tư liệu sản xuất trở thành của chung. Nay đến lượt xây dựng văn hóa mới. Nhà nước vô sản. Làng phải là làng vô thần. Không thể để cái chùa mê tín dị đoan ấy đứng mãi thế được!” “Nhưng đó là chỗ lễ bái, tín ngưỡng của dân làng?” ông rụt rè lên tiếng. “Vả lại, có để cũng chẳng hại gì”. “Không được. Đồng chí nói thế là chưa quán triệt tinh thần của trên. Người cộng sản vô thần, nên không thờ bất kỳ ai ngoài các lãnh tụ của mình!”
Một tuần sau ông lên đường vào Nam, dù không thuộc diện nhập ngũ vì là cán bộ cốt cán và là con một trong gia đình. Trước đó mấy ngày người ta bắt đầu đập phá Chùa Mít, có cả lễ ra quân và cờ trống rầm rộ. Ở mặt trận Tây Nam năm 1972 ông bị quân Sài Gòn bắt nhưng trốn được qua Cămpuchia, rồi Thái Lan và năm 76 thì được sang Mỹ định cư. Trước khi có thư từ Mỹ về, mọi người trong làng nghĩ ông đã chết, nhưng do không xác định được cụ thể, người ta không coi ông là liệt sĩ, giờ thì đương nhiên là một tên đào ngũ phản bội. Còn nay đổi mới, trong con mắt của mọi người, ông là Việt Kiều yêu nước.
Bố mẹ chết từ lâu, bà con thân thích hầu như chẳng còn ai nên ông ở trong nhà nghỉ mới xây của xã bên, rất gần làng. Ở đấy cậu nhân viên nháy mắt bảo ông có cần gì nữa không. Mấy ngày sau ông còn nghe nói làng có dịch vụ tươi mát, đến mùa gặt mới phải thanh toán. Bằng thóc.
Làng ông bây giờ quả nhiều cái mới. No đủ hơn. Nhiều nhà ngói, thậm chí có vài nhà hai ba tầng, bắt chước kiểu biệt thự Pháp nhưng quét vôi màu lòe loẹt. Đường làng và các ngõ ngách đều đổ xi măng. Đình làng xưa cổ kính giờ được thay bằng Nhà Văn Hóa mái bằng lợp fibrô xi măng. Trên nền Chùa Mít đầu làng cỏ mọc um tùm, lổn nhổn những phiến đá lớn người ta không bê đi được. Có cả một khối đá tròn, phần sót lại của bức tượng Phật, nay làm nơi ngồi tình tự của đám thanh niên mới lớn. Dân làng bây giờ cũng khác lắm. Khác cả cách ăn mặc, đi đứng và ăn nói. Có vẻ như hiện đại hơn, tốt hơn, thế mà ông vẫn thấy trơ trơ thế nào, cứ như thiếu một cái gì đó.
Ở thêm mấy ngày nữa, ông hiểu cái đó là gì. Khuôn mặt của làng. Thì ngay từ đầu người ta chẳng bảo ông: “Đền chùa là cái mặt văn hóa của làng” đó sao? Chính xác hơn là thiếu hồn. Các tấm áp phích to và những câu khẩu hiệu chính trị viết cũng như nói không lấp nổi sự trống vắng tâm linh mà bây giờ đã không còn chỗ thể hiện. Trước kia ngày rằm, ngày đầu tháng người ta vào chùa thắp hương, sắm lễ. Giờ chỗ lui tới là quán rượu của mụ Bốn, người kiêm cả nghề ghi số đề cho mấy đại gia ngoài phố huyện.
Ông đi một vòng quanh làng với tâm trạng buồn buồn khó tả, rồi mỏi chân, ngồi xuống tảng đá, phần còn lại của Đức Phật trên nền Chùa Mít.
Mặt trời sắp lặn. Một chiếc Công Nông đang lại gần, kêu tành tạch từng tràng như tiếng súng đại liên. Kế đến là chiếc xe tải loại lớn chạy về phía xã trên. Mấy bà đi làm về, chiếc gánh tòng teng trên vai. Trai làng phóng xe máy vù vù.
Vậy là cái chủ trương xây làng vô sản đã không thành. Nhưng làng vô thần thì thành. Không chỉ không thờ Phật, giờ người ta cũng chẳng thờ các lãnh tụ cộng sản, không cần biết ai, sợ ai ngoài cái dạ dày của mình. Thêm một cái “vô” nữa là vô danh. Trước xã ông có bảy làng với bảy cái tên dung dị dễ thương từ xa xưa, sau khi thành lập hợp tác xã, chúng được thay bằng các con số đội sản xuất. Làng ông được gọi là Đội Bảy. Hợp tác xã giải tán cả chục năm nay mà cái tên khô khốc, vô hồn ấy vẫn còn đến ngày nay.
Ông ngồi lặng người hồi lâu như thế giữa nền Chùa Mit ở làng Đội Bảy của ông. Giờ người ta xin ông tiền dựng lại nó, tức là để phục lại phần nào thần linh và “mê tín dị đoan”, cái người ta một thời dứt khoát phá bỏ và đẩy ông ra nơi súng đạn. Nhưng liệu có chùa rồi, những cái ấy có trở lại không, khi tư tưởng vô thần và những người nghĩ ra chúng vẫn còn?
Trời tối lúc nào không biết. Có ai đó đang lại gần. Ông giáo Hoàn. Ông đang dắt con nghé con từ Đồng Chùa về. Ông giáo trạc tuổi ông, về hưu đã lâu và trước cùng học trường làng. Hôm mới về hai người đã gặp nhau và nói chuyện một lúc. Ông này thời cải cách có bố bị treo cổ oan.
“Vẫn chưa quyết định nên giúp làng xây lại chùa không à?” ông giáo hỏi như đoán được ý nghĩ ông.
 “Theo ông thì thế nào?”
“Thì kệ nó. Ai phá, người ấy phải xây lại”.
“Nhưng họ biết lấy đâu ra tiền?”
“Đó là việc của họ. Rồi có ngày người ta sẽ bắt họ chịu trách nhiệm về chuyện này. Không người thì thần linh, mà cũng chẳng lâu nữa đâu. Một lũ ngu dốt và độc ác!”
Ông giáo về hưu nói một cách giận dữ. Rồi ông hạ giọng nói thêm:
“Nếu bác định giúp làng thì làm ơn sửa lại trường cấp một. Bảy tám chục đứa trẻ bị nhét vào môt phòng tranh tre và dột nát như bác thấy. Chứ không thì cái làng này chẳng mấy chốc mà thành vô học.”
Hai hôm sau ông lên đường về Mỹ, để lại phía sau khu ngôi làng của ông - vô danh, vô thần và gần như vô học. Có thể cả vô đạo đức và văn hóa nữa, dẫu hai đầu làng có hai tấm biến rất to “Làng văn hóa mới”, và nhà nào trong làng cũng có tờ giấy chứng nhận “Gia đình văn hóa”.
“Thì ra cái ‘văn hóa mới’ là tập hợp tất cả các cái ‘vô’ ấy lại,” ông nghĩ và khẽ rùng mình.
23. 8. 2011

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét