Những truyện ngắn chỉ lớn bằng lòng bàn tay - tiếp
21. DI SẢN VĂN HÓA
21. DI SẢN VĂN HÓA
Một nhà nghiên cứu văn hóa bất ngờ phát hiện thấy ở
đền nọ một sự thật không mấy thú vị. Thì ra suốt hai trăm năm qua ngôi đền này
(vì những lý do dễ hiểu tôi xin phép không nói tên, kể cả tên những người liên
quan) đã thờ một nhân vật không xứng đáng, thậm chí còn là người xấu, kẻ đã
khôn khéo leo lên bục thờ nhờ mưu mô xảo quyệt. Ngày xưa những chuyện như thế
vẫn xẩy ra, một số vua triều Nguyễn còn có luật trị nghiêm tội này.
Vậy là bao đời nay hàng ngày khách thập phương háo hức
kéo đến dâng hương lễ, cung phụng, tôn vinh hắn và nhờ hắn ban ơn giúp đỡ. Còn
hắn thì nghiễm nhiên ngồi trên bệ thờ được sơn son thếp vàng, tôn nghiêm, thánh
thiện ngang hàng các vị anh hùng dân tộc.
“Ông không nhầm đấy chứ?” tôi hỏi nhà nghiên cứu văn
hóa kia, cũng là một người bạn của tôi.
“Không. Tôi đã bỏ ra ba tháng tìm đọc hàng đống tài
liệu mới khám phá được vụ này. Hắn là một tên quan xảo quyệt, đầy quyền lực của
triều vua Tự Đức. Quyền lực và sự xảo quyệt ấy của hắn từng làm nhiều trung
thần thiệt mạng, giúp hắn dựng nên chùa này để thờ chính hắn và một chùa nữa
thờ bố mẹ hắn. Nhưng chùa ấy đã bị phá thời cải cách ruộng đất.”
“Thì bây giờ ta phá nốt chùa này,” tôi hăng hái nói.
“Không được,” bạn tôi tỏ ý thất vọng.
“Vì sao?”
“Vì cái thời phá chùa đập tượng qua rồi. Xã hội văn
minh không bao giờ làm những việc tương tự.”
“Nhưng đây là chùa rổm, tượng rổm. Hắn đã và đang lừa
dối biết bao người.”
“Đúng thế. Thời gian đã kịp biến cái rổm ấy thành di
sản văn hóa. Mà di sản văn hóa thì không thể phá được. Hơn thế, nó lại được xếp
hạng, thuộc diện cấm xâm phạm.”
“Các ông xếp hạng ấy có biết không?”
“Chắc không. Mà có biết cũng chẳng làm gì được.”
“Cả những người trông coi ngôi đền?”
“Tất nhiên.”
“Vậy ông bỏ công khám phá cái sự thật này làm gì?”
“Chẳng làm gì cả. Cùng lắm chỉ để biết người đời dễ bị
lường gạt thế nào.”
Tôi im lặng, tấm tức không biết nói gì thêm. Nhận ra
điều đó, anh bạn tôi hạ giọng, với giáng vẻ một nhà hiền triết:
“Cái gì trót đưa lên bàn thờ thì cứ giữ nguyên ở đó.
Không phải mọi cái được tôn thờ đều thiêng liêng. Vả lại, người ta đến đây thực
chất không vì thằng kia. Thậm chí không biết và cũng chẵng muốn biết hắn là
ai.”
Mấy hôm sau có việc đi ngang, hai chúng tôi lại rẽ vào
đền. Như một người mộ đạo thực thụ, bạn tôi, nhà nghiên cứu văn hóa có công
khám phá điều giả dối ấy, đã thắp một nén hương, kính cẩn cắm trước bức tượng
gỗ tên gian thần. Còn thằng kia, bằng cái nhìn ban ơn và nụ cười giả dối cũng
được sơn son thếp vàng, từ trên cao khinh khỉnh nhìn xuống lũ chúng sinh thông
minh quá mà thành ngu ngốc đang xun xoe khúm núm trước hắn.
22. KHI ĐI VỀ PHÍA MẶT TRỜI …
Như thường lệ, tôi dậy sớm, ngồi vào bàn viết.
Cũng như thường lệ, câu chữ không chịu xuất hiện, một
cảm giác buồn khó tả dần dần xâm chiếm người tôi.
Trời chưa sáng hẳn. Rời rạc vài tiếng chó sủa từ phía
làng Hạ bên kia sông. Nhà bên, lão Bảy đang mở chuồng trâu đi bừa sớm thửa
ruộng ngoài đồng Rục. Tối qua nước lên, người ta kịp tranh thủ bơm vào ruộng.
Qua ô cửa sổ, vành trăng gầy đang nhìn tôi như có điều
gì muốn nói. Trăng cũng buồn, và lạnh. Thứ ánh sáng ẩm ướt và nhờn nhợt ấy dinh
dính trên đầu ngón tay.
Tôi ngồi lặng, trân trân nhìn phía trước, liên tục hút
hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác.
Không hiểu sao dạo này đầu óc tôi như mụ mị hẳn. Một
truyện ngắn bé tí viết mãi không xong. Một truyện bình thường, tôi cũng cố viết
bằng những câu chữ bình thường, giản dị, tươi sáng, thế mà câu chữ nào cũng
nhạt nhẽo, u ám. Ở cái tuổi hơn sáu mươi, tất nhiên không còn trẻ, nhưng chưa
hẳn đã già vì hàng ngày tôi còn đi dạy học kiếm tiền và lái ô tô vù vù về quê
vào những ngày cuối tuần thế này. Tôi dứt khoát không chịu tham gia câu lạc bộ
những người lớn tuổi, không theo các cụ tập những bài thái cực quyền như múa
trông rất buồn cười. Tuy nhiên, sâu trong lòng, tôi biết mình thực sự đã mệt
mỏi sau chừng ấy năm đọc và viết liên tục. Cái cơ thể to béo chín mươi cân như
muốn dính chặt vào chiếc ghế. Cũng vì sức nặng ấy, tư tưởng và ý nghĩ, mà bây
giờ đã ít hơn rất nhiều, không còn, hay thậm chí, không mơ ước bay xa, bay cao.
Tôi mệt và muốn được nghỉ. Phải chăng do đã đi kha khá trên con đường văn
chương của mình, giờ là lúc tôi có quyền dừng lại, sưởi ấm trong thứ hào quang,
cứ cho đó là hào quang, những gì mình đạt được?
Có hai người đang đi về phía Cầu Tre. Từ lâu nó được
thay bằng chiếc cầu xi măng khá vững chắc, nhưng dân làng vẫn tiếp tục gọi theo
tên cũ.
Đó là cậu Nhất, con bà Hương, và người yêu của cậu, cô
Loan, con ông Mậu. Hôm trước họp làng, thấy nói năm nay Nhất và một cậu nữa
nhập ngũ.
Mặt trời nhô lên từ lúc nào. Loáng thoáng mấy con cò
trắng chao lượn trên đồng. Đứng bên cầu, đôi bạn trẻ dùng dằng mãi không chịu
chia tay. Nước sông mùa này đục, nhưng chắc cũng đủ trong để soi bóng hai
người. Cuối cùng, cậu Nhất quay người bước đi, gần như chạy. Cô Loan tần ngần
đứng thêm lát nữa rồi quay về làng. Một cảnh điền viên giản dị và cảm động. Hệt
như trong lời một bài hát xưa tôi còn nhớ: Họ để lại phía sau/ Một dòng sông
nước đục/ Và ba bốn nhịp cầu/ Nối những ngày hạnh phúc.
Từ cửa sổ nhìn theo, tôi bất giác thở dài, và lần nữa
lại thấy buồn. Buồn vì không được xa ai, không ai tiễn và cũng không có lý do
gì để đau khổ. Một cái buồn vẩn vơ, có thể nói vớ vẩn.
Đêm qua. Mặt trời mọc. Lão Bảy cùng con trâu đi bừa.
Cậu Nhất lên đường nhập ngũ. Cô Loan quay lại với công việc thường ngày của
mình. Nghĩa là cả thế giới này đang vận động như vẫn thế nghìn vạn năm nay. Còn
tôi, cái lão già chưa già, vẫn ngồi yên một chỗ và tự dằn vặt mình bằng cái
buồn vu vơ, vớ vẩn.
Không được! Tôi đứng dậy, vươn vai, vặn mình mấy cái
rồi bước ra khỏi nhà. Hóa ra trời không u ám như tôi tưởng. Có vẻ mùa đông, mùa
ẩm ướt đã hết.
Khi hít sâu bầu không khí trong lành của buổi sáng,
bất chợt tôi nhớ ai đấy đã nói câu này:
“Khi đi về hướng mặt trời, bạn để lại bóng tối sau
lưng, và đêm đến, trên đầu bạn sẽ là một bầu trời sao tuyệt đẹp”.
Chí lý thật. Ai nói nhỉ?
24. 8. 2011
23. CHÓ CỨ SỦA, VÀ TRĂNG SAO CỨ SÁNG
Lại nói chuyện những ngày Cải cách Ruộng Đất kinh
khủng ấy.
Một hôm,
ăn tối xong, tôi thấy ông tôi đến bảo đi ngay có việc. Giọng ông bỗng nhiên
khản đặc, phải cố lắm mới nghe được.
“Đi đâu ông?” tôi hỏi.
“Ra Đồng Chùa cho mát”.
“Nhưng hôm nay không nóng!”
“Sẽ nóng
đấy. Rồi chốc nữa cháu biết”.
Điều này thì tôi biết, là ý ông tôi nói tối nay người
ta tổ chức đấu tố Lão Hội. Suốt ngày hôm nay loa rao khắp xóm. Lão Hội là em
Lão Cương, bảy mươi tuổi, một người thuộc diện ‘địa chủ kháng chiến’ vì có con
trai đang làm to trong quân đội cách mạng, nghe đâu đến chức tá hay thậm chí
được phong anh hùng. Lão Cương thì người ta để yên, nhưng em lão thì bị đấu tố,
chuẩn bị qui lên thành địa chủ, dù lão chỉ là anh nông phu cày sâu cuốc bẫm,
khác chăng do biết lo toan nên không đói. Suốt cả tuần người ta rậm rịch chuẩn
bị việc này. Cán bộ Đội bỏ nhiều giờ dạy người đấu kỹ càng từng lời nói, cử chỉ
và cách khóc, cách nhảy chồm chồm trước mặt lão. Nếu buổi đấu tố diễn ra suôn
sẻ, mà chắc chắn là suôn sẻ, tên lão sẽ được đưa vào danh sách địa chủ của làng
để gửi lên huyện, coi như hoàn thành chỉ tiêu trên giao.
Hai ông cháu tôi ra đến Đồng Chùa thì trăng vừa lên.
Trăng non và mờ mờ như ngái ngủ. Phía dưới một chút là Kênh Nhà Lê, nơi ban đêm
thường có người làng xuống mò tôm cá, và dẫu ít hơn trước nhưng thỉnh thoảng
vẫn có thuyền đi qua, chở cam quýt từ Hà Tĩnh ra Thanh Hóa và chở lúa gạo, hải
sản lúc quay vào.
Ồng tôi nằm xuống một gò đất cao rồi khoan khoái thở
dài, nói:
“Sướng!”
Rồi ông cởi hết cúc áo, phanh bụng, bảo tôi:
“Cháu cũng nằm xuống đi”.
Cao trên đầu chúng tôi là cả một trời sao thật đẹp.
Những chấm nhỏ li ti lấp lánh thức suốt năm canh, yên bình, lặng lẽ dọi ánh
sáng huyền diệu của mình xuống thế giới trần gian của những con người, cũng bé
nhỏ, li ti nhưng chẳng bình yên chút nào. Từ phía Kênh có tiếng hát đều đều,
mỏi mệt của mấy anh chị nhà thuyền vọng lại. Kể cũng lạ rằng giữa những ngày
sôi sục, điên loạn này mà vẫn có người hát được, dẫu những tiếng hát buồn.
Phía làng, chó bắt đầu sủa rộ. Nghĩa là người của Đội
đang đi từng nhà giục dân làng ra sân đình tham gia hoặc xem đấu tố. Háo hức
nhất là bọn trẻ con, dù không biết chuyện gì đang xẩy ra. Ngoài tiếng chó còn
có cả tiếng trống và tiếng chiếc mõ làng bằng gỗ hình con cá, treo ở điếm canh
đầu làng.
Cuối cùng mớ âm thanh ấy hỗn độn, chói tai ấy cũng
lắng xuống, và tôi biết cuộc đấu tố đã bắt đầu. Những tiếng kể khổ ngoa ngắt,
tiếng chửi rủa, vu cáo, tiếng những cái tát vào mặt người bị đấu, tiếng cán bộ
đứng bên gà lời khi người đấu quên, và tất nhiên cả tiếng kèn kẹt nghiến răng
chịu đựng của khổ chủ không thể bay xa đến Đồng Chùa nơi chúng tôi đang nằm.
Trước đó tôi đã mấy lần chứng kiến những cảnh như thế.
Tôi quay sang bảo ông:
“Ông ơi, cháu sợ.”
“Ông biết. Vì thế ông mới đưa cháu ra đây. Trẻ con
không nên biết những trò ấy!”
Rồi ông chỉ tay lên trời, nói:
“Cháu nhìn kìa, cả một trời sao thật đẹp. Kệ những
chuyện xẩy ra trong làng. Cháu ngắm chúng đi, đẹp không? Mà bao đời nay đã thế
và vẫn mãi mãi như thế.”
Tôi nghe lời ông, lơ đãng nhìn lên bầu trời đầy sao.
Vâng, chúng đẹp thật, nhưng vẫn là những ngôi sao bình thường tôi thấy nhiều
lần và không mấy quan tâm. Nhưng tôi cũng lờ mờ hiểu được cái triết lý giản dị
mà ông tôi muốn cho cháu biết, rằng cái xấu, cái ác luôn tồn tại, nhưng chỉ
nhất thời, còn cái tốt, cái đẹp thì trường tồn mãi mãi. Hoặc có thế nói một
cách nôm na: Chó cứ sủa, và trăng sao cứ sáng!
“Hôm kia, thằng Lan bảo ông phải đấu tố lão Hội, nhưng
ông không chịu.” ông tôi chợt nói, giọng mơ màng.
Lan là tên anh cán bộ Đội cải cách được cử về phụ
trách làng tôi.
“Tố gì ạ?”
“Hắn bảo tố lão bóc lột, đánh đập ông, đại loại như
thế”.
“Nhưng có đúng như vậy không?”
“Bậy. Lão hiền như cục đất. Còn nhiều lần giúp nhà ta
khi thiếu đói đấy”.
“Thế sao người ta phải đấu tố bác Hội?”
“Thì bảo chúng điên mà lị. Nên ông phải ăn uống mấy
thứ linh tinh cho cổ họng khản đặc thế này, bảo bị ốm không làm cách mạng được.
May chúng tin mà tha cho, không khéo bị qui địa chủ thì khốn”.
Một tuần sau lão Hội bị xử bắn, vì ngoài tội địa chủ
cường hào gian ác, lão còn một tội khác nghiêm trọng hơn là tội làm gián điệp
cho đế quốc. Số là khi khám nhà, người ta phát hiện thấy dưới mái hiên một cuốn
sách chữ Tây, cuốn Từ Điển Tiếng Pháp, do ông em sĩ quan cách mạng để lại. Đó
là bằng chứng không thể chối cãi được.
*
Suốt nhiều năm, thậm chí cả bây giờ, tôi vẫn chưa hết
băn khuăn sao người ta có thể nghĩ ra hay du nhập những trò bất nhân, ngu xuẩn
đến thế. Những trò ấy phần lớn bắt nguồn từ nước Trung Hoa cộng sản, và được
các đồng chí Việt Nam làm theo, tự nguyện hoặc do ép buộc.
Nhưng rốt cục, ông tôi đã đúng. Vào đêm đấu tố và cả
đêm lão Hội bị xử bắn trăng và sao vẫn sáng. Những đêm sau đó cũng vậy, khi có
chủ trương sửa sai từ Trung Ương gửi về. Trăng và sao vẫn sáng, vẫn đẹp cả
những thời điểm về sau, khi con người và đất nước đau thương này của chúng ta
phải chứng kiến nhiều điều oan trái khác.
Tháng Chín năm 1967, đi xe lửa từ Hà Nội sang Matscơva
học tập, chúng tôi bị kẹt lại nhiều lần ở Trung Quốc do hai phái kình địch đánh
nhau. Tôi nhớ ở Vũ Hán, lúc ấy ban đêm, nhìn qua ô cửa sổ bé nhỏ, tôi thấy cảnh
các Hồng Vệ Binh bắt bớ, đánh đập người dân của họ. Bên ngoài là ánh đêm bàng
bạc, và tôi biết cao trên đầu, những vì sao vẫn không ngừng nhấp nháy, dọi
những tia sáng lung linh, huyền diệu của mình xuống trái đất nhỏ bé và đầy đau
khổ này.
Tóm lại, chó cứ sủa và trăng sao cứ sáng!
31. 8. 2011
24. TÌNH MUỘN
Một ngày sau khi chiến dịch Điện Biên kết thúc, họ hẹn
sẽ gặp nhau và tổ chức lễ cưới ở Hà Nội.
“Gia đình anh sang Pháp hết rồi. Có thể giờ không còn
nhà, nhưng em cứ đến Hồ Gươm, chỗ Nhà hàng Phú Gia ấy. Em nhớ chưa: Hồ Gươm,
Nhà hàng Phú Gia? Thế nào em cũng gặp anh ở đó”.
Chàng trai nói với người yêu như thế khi theo đồng đội
tiến về phía đồng bằng. Anh là chiến sĩ Vệ Quốc quân, người Hà Nội gốc. Cô là
giao liên trung đoàn, người Thái, nổi tiếng dũng cảm và xinh đẹp. Họ yêu nhau
đã mấy tháng, yêu công khai, thậm chí còn được ông già trung đoàn trưởng khó
tính đồng ý. Khi chia tay, cô đưa cho anh tấm khăn thêu màu đỏ, cô giữ một cái
tương tự. Đôi khăn thêu là vật không thể thiếu trong lễ cưới dân tộc cô.
Năm mươi năm trôi qua, họ vẫn chưa gặp nhau. Một lần
tắm suối, cô bị nước lũ về đột ngột cuốn mất, không tìm thấy xác.
Từ ấy đến nay, đất nước thêm mấy cuộc chiến tranh.
Nhân dân thêm mấy lần lầm than, đói khổ. Cả khu phố cổ Hà Nội cũng thay đổi
nhiều, gần như khác hẳn. Nhưng Hồ gươm thì vẫn còn. Con phố có Nhà hàng Phú Gia
vẫn còn, dẫu bản thân nhà hàng ấy bị phá bỏ từ lâu. Đối diện với nó, phía bên
kia đường, gần hồ vẫn còn chiếc ghế sắt cũ kỹ sót lại từ thời Pháp.
Cũng suốt mấy chục năm nay có một người luôn ngồi trên
chiếc ghế ấy. Buổi sáng từ tám đến mười một giờ, chiều từ hai đến sáu giờ. Mọi
người biết thế và luôn nhường nó cho ông.
Đó là một ông cụ đầu tóc bạc phơ, dáng người gầy gầy.
Lúc nào ông cũng ngồi yên, trân trân nhìn ra mặt hồ. Chiếc ba-toong khảm xà cừ
một bên, bên kia là chiếc mũ phớt sờn cũ ông đội quanh năm, bất kể mùa đông hay
mùa hè.
Hôm nay trời chớm lạnh. Có vẻ như thời tiết sắp thay
đổi vì một bên vai, nơi có viên đạn chưa lấy ra, bắt đầu đau âm ỉ. Đã gần sáu
giờ. Hồ Gươm vẫn thế, như hôm qua và nhiều ngày trước đó. Lãng mạn, thanh bình
và buồn buồn. Suốt đời ông chỉ sống với nó và những kỷ niệm xa xưa của mình.
Đúng giờ, khi ông định đứng dậy đi về nhà thì có một
người bước lại rồi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, sát bên ông.
“Vàng à?” ông quay sang, cầm lấy bàn tay người ấy.
Đó là một cô
gái trẻ, rất trẻ, ăn mặc theo kiểu miền núi.
“Vâng, em đây”.
“Em bắt anh chờ lâu quá”.
“Em không thể đến sớm hơn được. - cô nói, giọng nghẹn
ngào - Nhưng bây giờ em
đang ở bên anh, và chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau
nữa.”
“Ừ, đúng thế. Không bao giờ xa nhau nữa, - ông đáp. -
Còn bây giờ để anh đưa em đi một vòng quanh Hà Nội. Quê chồng mà”.
Ông lẩy bẩy chống gậy đứng dậy. Cô Vàng rút ra từ ngực
một tấm khăn thêu. Ông cũng móc túi trong áo vét một chiếc tương tự.
“Lát nữa ta vào nhà thờ làm lễ cưới. Nhà thờ Lớn, ngay
gần đây thôi”, ông nói.
“Vâng. Và em sẽ nhập đạo theo anh”, cô Vàng nhỏ nhẹ
đáp rồi đưa hai tay vuốt ve khuôn mặt nhăn nheo của người yêu. “Em yêu anh lắm
lắm! Không yêu như thế, em không thể về đây với anh được đâu”.
“Anh cũng rất yêu em, - ông nói. - Năm mươi năm qua
ngày nào anh cũng ra chờ em ở đây”.
Suốt đêm ấy đôi uyên ương không ngủ. Họ khoác tay nhau
đi giữa phố phường Hà Nội. Chàng, một ông già tám mươi, lưng hơi gù với vết
thương bên vai đang nhức nhối, hào hứng giơ ba - toong chỉ cho người yêu xem
các danh lam thắng cảnh thủ đô. Còn nàng, hai mươi tuổi và rất tươi trẻ, thì
háo hức như đứa con nít, mở to mắt uống từng lời của chàng. Nàng nắm chặt tay
người yêu, vừa để có cảm giác gần gũi, cũng vừa đỡ để chàng không ngã. Ở quán
kem bên hồ, nàng ăn một lúc ba chiếc. Và cười. Chàng không ăn vì sợ cảm, chỉ
nhìn nàng. Và cũng cười. Cả hai tràn trề hạnh phúc.
Sáng hôm sau, người trông coi Nhà Thờ Lớn Hà Nội ngạc
nhiên khi thấy có người chết ở trong phòng nguyện của nhà thờ, dù tất cả các
cửa vẫn đóng.
Đó là một ông già gầy yếu, tóc bạc. Ông chết trong tư
thế đang quỳ trước Chúa, mặt rạng ngời hạnh phúc. Cạnh ông, phía phải, có một
lớp tro mỏng màu xám như tro người ta đốt vàng mã. Lạ nữa, cái tư thế ông chết
và hiện trường xung quanh cho thấy ở đây vừa diễn ra một nghi lễ trang trọng,
Có vẻ như hôn lễ, vì trên một ngón tay phải của ông có chiếc nhẫn cưới kim
cương còn mới.
PS.
Thời gian gần đây ở Hà Nội xuất hiện ngày càng nhiều
lời đồn về một cặp uyên ương không cân xứng, một rất già và một rất trẻ. Cặp
này đêm khuya thường khoác tay nhau dạo quanh các quanh phố, đặc biệt những hôm
trời lạnh và mưa phùn lất phất. Như mọi lời đồn khác, có thế điều ấy đúng, có
thể không. Không quan trọng. Vả lại, thủ đô chúng ta có thêm một thiên tình
muộn đẹp và lãng mạn như thế thì càng tốt chứ sao? Nếu ngẫu nhiên gặp họ, các
bạn có thể yên tâm rằng họ chính là hai nhân vật trong câu chuyện này, một câu
chuyện tôi cam đoan có thật vì tôi biết ông già ấy, thỉnh thoảng còn ngồi trò
chuyện với cụ bên Hồ Gươm. Tôi cũng có mặt hôm chôn cất cụ ở nghĩa trang Giáo
xứ N.V. Hơn thế, cũng hôm ấy tôi nhìn thấy một người lạ mà không hiểu sao không
ai chú ý. Đó là cô Vàng. Khác với mọi người, cô không có vẻ mặt đau buồn mà
ngược lại. Cô lặng lẽ đứng một bên, sốt ruột chờ người ta hoàn tất các thủ tục
an táng cần phải có đối với một con chiên ngoan đạo.
Và tôi hiểu: Cô đến đón người yêu của mình để, như họ
đã ước hẹn, “từ nay không bao giờ xa nhau nữa”.
6. 9. 2011
25. NHÂN QUẢ
Lão sống một mình trong túp lều ngay sát Cầu Sắt. Suốt
đời lão chỉ làm một nghề là mài dao kéo cho cả vùng Nho Lâm rộng lớn này, và
cũng nổi tiếng cả vùng nhờ cái nghề ấy. Chắc phải có một bí quyết hay đồ nghề
đặc biệt nào đó nên các con dao lão mài sắc ngọt một cách khác thường. Vả lại,
lão kỹ tính và làm cẩn thận lắm. Chiếc dao nhỏ lão mài miết cả tiếng đồng hồ,
bao giờ xong cũng lấy một sợi tóc đặt lên lưỡi dao, thổi một cái đứt đôi mới
giao cho khách.
Vợ lão chết từ lâu. Cậu con trai duy nhất lấy vợ, ở rể
ở huyện trên, nghe nói “chuột sa chĩnh gạo” nhưng không bao giờ thăm hỏi hay
giúp đỡ gì bố. Trước còn khỏe, lão quảy chiếc gánh toòng teng đi khắp vùng. Mấy
năm gần đây vì già, vì cả đôi chân phù thũng, lão chỉ quanh quẩn trong làng
hoặc ngồi ở nhà, ai cần thì mang dao kéo tới. Bây giờ đồ Trung Quốc nhiều và rẻ
nên thậm chí cả ở nông thôn, người ta cũng ít mài, mà mua cái mới. Thành ra
việc không nhiều, tức là cái ăn cũng không nhiều. Có hôm lão phải ôm bụng đói
đi ngủ. Đáng ra ở tuổi lão, tức là tám mươi trở lên, theo chế độ gần đây của
nhà nước, lão phải được trợ cấp mấy chục nghìn đồng một tháng, nhưng do lão
không có giấy khai sinh nên đành chịu. Thỉnh thoảng dân làng thương tình, người
cho cân gạo, kẻ mấy quả trứng, hay mang những chiếc dao còn sắc đến nhờ lão
mài. Có người còn cất công tìm gặp con trai lão. Anh ta hứa sẽ về đưa bố lên ở
với mình nhưng mãi chẳng thấy tăm hơi đâu.
Một hôm tôi đến nhà lão và ngồi với lão cả buổi chiều.
Lão nằm thu lu trên chiếc giường tre ọp ẹp, trùm kín
đầu chiếc chăn chiên sờn cũ, dù trời không lạnh. Biết tôi đến, lão ngồi dậy
ngay.
“Ông giáo quí hóa quá, lúc nào cũng cho quà”, lão nói
khi tôi bày ra bàn mấy bắp ngô luộc, xị rượu và ít đồ nhắm.
“Tôi đến nhờ bác mài cho con dao”, tôi cười đáp.
“Tôi biết”, lão cũng cười, miệng méo xệch, một dòng
nước đục rỉ ra từ khóe miệng, trông thật tội.
“Dạo này bác có
vẻ yếu hơn trước”.
“Ừ ừ. Tại đôi chân khốn khổ này. Cả ho nữa.”
Lão cùng tôi làm vài ly nhỏ rồi bắt tay vào mài con
dao của tôi, vốn còn rất sắc. Thế mà gần ba mươi phút sau lão mới chịu dừng
tay, sau khi vừa mài vừa dấp dấp chất gì đó lên lưỡi dao, chốc chốc dừng lại
làm hớp rượu.
“Ông giáo xem này!” lão bảo tôi rồi nhổ sợi tóc bạc
trên đầu, đặt lên lưỡi dao. Sợi tóc đứt đôi.
“Sắc quá!” tôi thốt lên.
“Cũng thường thôi,” lão nói, không phải không pha chút
tự hào. “Tôi có một con còn sắc hơn nhiều”.
Nói rồi, lão lấy dưới gầm giường ra một con dao được
bọc trong lớp giấy xi-măng bẩn. Nó dài, mỏng như một thanh kiếm Nhật, đầu nhọn
và sáng loáng.
“Tôi lấy từ xác một tên lính Nhật hồi năm bốn tư đấy.
Nó bị du kích giết ở Phủ Diễn. Đúng là cái bọn lùn ấy làm cái gì cũng tốt.” Lão
nói rồi bất chợt thở dài: “Có điều chẳng biết dùng nó làm gì.”
Lão lấy tờ giấy quét lên lưỡi dao nhiều lần, quét đến
đâu, các vụn giấy rơi đến đấy. Tôi nhìn mà thấy sờ sợ. Lát sau tôi chuyển đề
tài:
“Bác đau ốm thế này, sao anh con không về nhỉ?” Lão im
không nói gì. “Mà rồi chính quyền mãi không làm cho bác cái trợ cấp người già.
Bác tám mươi tuổi rồi mà”.
“Đúng thế. Tôi sinh ngày mồng Một tháng Năm năm 30,
khi bố tôi bị Pháp bắn chết vì tham gia đình công ở Bến Thủy, Vinh.” Tợp thêm
chén rượu, lão nói tiếp, mắt rơm rớm: “Nhân quả đấy bác ạ. Cả chuyện thằng con
bất hiếu cũng nhân quả nốt!”
Tôi nhìn lão vẻ không hiểu.
“Suốt đời tôi mài dao cho đời. Mà dao thì không chỉ
cắt thái mà còn đâm chém. Tức là tôi tham gia vào tội ác. Giờ thì tôi phải chịu
cảnh này.”
“Bác nghĩ quẩn rồi. Nghề của bác vô hại, nếu không
muốn nói có ích cho đời”, tôi an ủi lão.
“Không. Đêm đêm chúng vẫn đến đấy. Cái bọn trâu bò,
lợn gà bị giết ấy mà. Cả người nữa. Thời kháng chiến, thời cải cách ruộng đất
tôi mài dao kiếm cho du kích. Bây giờ bọn Việt gian, địa chủ cường hào đến bắt
đền tôi, nhiều lắm. Đêm nào cũng đến. Chúng bảo chúng bị oan. Tội tôi đáng
chết. Nhân nào quả ấy thôi, ông giáo ạ”.
*
Cách một ngày, tôi lại đến, thấy lão chết, nằm trên
giường, cuống họng bị cắt, tay phải lão còn giữ chặt chiếc kiếm Nhật sáng
loáng.
12. 9. 2011
26. ĐIỀU KHÔNG HIỂU NỔI
Thực ra chẳng có gì đáng nói về hắn, một thanh niên
nông thôn chất phác, ngờ nghệch ở một nước Nam Âu cũng chất phác, ngờ nghệch
như hắn.
Năm bốn mươi mốt thế kỷ trước, hắn sung lính để tránh
khỏi chết đói, mà lại sung lính cho phe Trục Phát Xít. Ba năm sau hắn bị quân
Pháp bắt làm tù binh. Chiến tranh kết thúc, cũng vì miếng ăn, thay cho việc trở
về quê hương, hắn tình nguyện làm lính lê-dương sang Việt Nam.
Vừa chân ướt chân ráo đến mảnh đất nhiệt đới này, hắn
bị tống vào chiến trường Khu Năm và chẳng bao lâu sau bị Việt Minh bắt trong
một trận càn. Ở với Việt Minh, lúc đầu hắn sợ, sau quen dần và cuối cùng thì
thấy thích. Thích những con người nhỏ bé, hiền lành. Thích cái không khí yên ả
ở căn cứ. Thích cái tiếng Việt kỳ lạ nhưng hay hay mà hắn học rất tấn tới. Rồi
hắn quyết định ở lại với họ, chiến đấu trong hàng ngũ của họ. Trước kia cũng
như lúc này, hắn chẳng bao giờ có khái niệm chính nghĩa hay phi nghĩa. Lý tưởng
lại càng không. Hắn nghĩ đơn giản đã cầm súng thì phải bắn, bắn thật mạnh vào
phía bên kia, nếu không sẽ bị bắn lại và tiêu diệt.
Như những anh phổi bò khác, hắn chiến đấu dũng cảm,
nhiều lần lập chiến công, được đề bạt làm tiểu đội trưởng, trung đội trưởng.
Rồi người ta bảo hắn vào Đảng. Hắn hỏi: Đảng là gì? Người ta bảo thế này, thế
này. Thế là hắn thành đảng viên, chẳng hiểu và cũng chẳng mấy quan tâm đến lý
tưởng của nó.
Năm năm mươi tư, chiến tranh kết thúc, hắn cùng đơn vị
tập kết ra Bắc. Khác với những người cùng cảnh ngộ, hắn không về nước mà ở lại
Việt Nam, sống và làm việc như một người Việt Nam bình thường. Từ lâu hắn đã
mang tên Việt, tên Tây xưa chỉ còn trong giấy tờ và ký ức. Theo phân công, hắn
làm khá nhiều nghề, từ thợ xây cầu đến lái máy cày, thậm chí cả đóng phim. Lao động
nặng nhọc và sinh hoạt kham khổ chẳng là gì với hắn vì hắn vốn xuất thân nghèo
hèn. Có điều bây giờ, sống hòa bình ở thủ đô, đầu óc chậm chạp của hắn bắt đầu
lờ mờ thấy có gì đấy không ổn với cái đảng hắn tham gia. Hắn ghét và luôn tìm
mọi cách trốn các buổi sinh hoạt chi bộ, cả trước kia cũng vậy. May người ta
thấy hắn hiền lành, gốc gác Tây nên cũng châm chước phần nào.
Ở Hà Nội, hắn hay lui tới Khâm Thiên, phố ả đào nổi
tiếng trước giải phóng. Một hôm, mặt ngời ngời hạnh phúc, hắn báo với bạn bè
hắn sắp lấy vợ, lấy một cô đào hát ở đấy. Thời đó đào hát cũng na ná như đĩ
điếm bây giờ. Trong khi lặng lẽ chuẩn bị cho lễ cưới của mình, hắn không biết
người ta đang điều tra nhân thân cô vợ tương lai của hắn. Cuối cùng, hắn được
ông bí thư đảng bộ xí nghiệp nơi hắn đang làm việc mời lên gặp.
“Đồng chí không được lấy cô L. làm vợ!” ông này nói.
“Vì sao?” hắn hỏi.
“Vì đồng chí là đảng viên...”
“Thì sao?”
“Quy định của đảng không cho phép đảng viên kết hôn
với những người thuộc tầng lớp không tương xứng. Trong trường hợp của đồng chí
là lấy đĩ điếm”.
Dẫu đã Việt hóa khá nhiều, nhưng chất bộc trực của
người Âu vẫn còn, hắn phải vất vả lắm mới không đấm và mặt ông kia vì sự xúc
phạm ghê gớm ấy. “Đ. m. cái quy định của mày!” hắn nghĩ. Hắn cũng rất giỏi chửi
thề những lúc tức giận.
“Nhưng bây giờ chế độ mới, cô ấy không hành nghề nữa,
nếu trước kia cô ấy từng làm nghề này”.
“Không được.”
“Thì tôi cưới, coi như cứu cô ấy khỏi bùn nhơ...”
“Không được.”
“Vậy tôi phải ra khỏi đảng mới được lấy cô ấy?”
“Cũng không được”.
“Vì sao?”
“Vì cán bộ nhà nước không được lấy người ngoài biên
chế”.
Đấy là một cú đòn rất mạnh đánh vào hắn, một người
đang yêu và quyết tâm bảo vê tình yêu của mình. Đầu óc chậm chạp của hắn không
thể nào hiểu nổi vì sao lại có những qui định kỳ cục như thế.
Một tuần sau, hắn trả thẻ đảng và bỏ việc. Ba tháng
sau nữa, hắn đưa “con đĩ” của mình về nước.
*
Nhiều năm đã trôi qua kể từ ngày ấy. Thỉnh thoảng báo
chí trong nước lại có bài viết về hắn, một chiến sĩ quốc tế trung kiên, tình
nguyện tham gia cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc. Hắn được tặng huân, huy
chương, được lãnh đạo nhà nước tiếp và mời sang Việt Nam tham dự các dịp lễ long trọng.
Tôi, tác giả truyện này, cũng nhờ những bài báo ấy mới
biết đến hắn, từ giờ xin được gọi là ông. Năm 1994, nhân một chuyến công tác,
tôi cất công tìm đến nhà ông tận châu Âu xa xôi. Ông sống trong một chung cư
cao tầng. Tôi đứng phía dưới, bấm chuông chờ gần ba mươi phút không thấy ai
xuống đưa lên nên đành bỏ đi. Mấy tháng sau, gặp ông trong một khách sạn nhỏ ở
phố Mai Hắc Đế, ông bảo tôi khi xuống đến nơi thì không thấy ai nữa. Chả là ông
đã già, chân lại đau nên đi đứng chậm chạp.
Chuyện trò với
nhau cả buổi trong khách sạn, ông đã kể tôi nghe câu chuyện cuộc đời mình.
“Vợ tôi là một người đàn bà tuyệt vời!” Ông nói khi
nhớ lại chuyện vợ chồng ông phải vất vả thế nào những ngày đầu về nước. “Bà ấy
không hé răng kêu ca một lời. Một sự chịu đựng nhẫn nhục và dịu dàng tôi nghĩ
chỉ phụ nữ Việt Nam
mới có. Nhờ bà ấy mà cả khu phố chúng tôi ai cũng yêu quí Việt Nam!”
Ông cũng hào hứng kể lại những kỷ niệm xưa. Tôi chăm
chú lắng nghe, thầm xấu hổ nghĩ mình người Việt mà có lẽ không yêu đất nước
mình bằng ông già người Tây này.
“Nếu phải làm lại từ đầu, tôi vẫn sẽ làm như mình đã
làm!” ông nói chắc như đinh đóng cột khi chia tay tôi.
“Tiếc lần này bà nhà tôi không thể về cùng. Một người
đàn bà tuyệt vời! Thế mà người ta nhất quyết không cho tôi lấy bà ấy! Kỳ thật.”
Rồi ông quay sang hỏi tôi: “Ông, người Việt, ông có hiểu nổi không?”
“Không,” tôi đáp. “Và cả nhiều điều khác nữa.”
Ông thở dài:
“Ừ, cả nhiều điều khác nữa”.
14. 9. 2011
27. TỘI NGHIỆP CON BÉ
Nó còi cọc và nhỏ xíu. Nhìn nó, người ta có thể đoán
mười tuổi hoặc năm mươi. Thực ra nó mới lên chín, với đôi mắt sáng của đứa bé
đói ăn và lớp da nhăn xám của cụ già ốm yếu. Hơn thế, đôi chân khẳng khiu của
nó phải gánh cái bướu khá to trên lưng. Thành ra khi đi, dẫu cố đứng thẳng, nó
vẫn khiến ta nghĩ tới hình ảnh một bà già lưng còng. Chỉ thiếu chiếc gậy chống.
Bị chiếc bướu lớn ấy đè lên người quá lâu, thời gian
gần đây nó cảm thấy có cái gì đau nhói trong ngực, đến mức bà mẹ khốn khổ của
nó phải đưa con đến bệnh viện. Bố nó chết từ lâu và hai mẹ con xưa nay sinh
sống nhờ vào bãi rác thành phố.
Trung âm thành phố không có bãi rác nên cả hai phải
sống nhờ những bát cháo từ thiện do mấy người hảo tâm mang đến vào buổi sáng.
Buổi tối họ ăn cháo ở một bệnh viện khác cách đấy không xa. Trưa thì nhịn.
Ở bệnh viện, do không có tiền, không có phong bao cho
bác sĩ nên mãi một tuần sau nó mới được khám. Mà việc này cũng hoàn toàn ngẫu
nhiên, đơn giản là nó gặp may. Số là hôm ấy ngẫu nhiên ông giám đốc bệnh viện
đi ngang, hỏi chuyện mẹ con nó. Vốn người tốt, ông cho nó nhập viện mà không
cần tiền hay bất kỳ giấy tờ gì. Hơn thế, ông còn tự mình khám bệnh cho nó.
Ông khám rất lâu, sử dụng đủ các loại máy móc hiện
đại. Cuối cùng ông nói:
“Phải mổ”.
Nhưng liền sau đấy, ông nhíu mày bảo mẹ nó:
“Có điều cháu yếu quá. Gầy quá. Chị cố gắng cho cháu
ăn thật nhiều chóng béo, tôi sẽ mổ”.
Hệt như anh đồ tể bảo chủ nhà vỗ béo con lợn cho anh
ta làm thịt.
Tất nhiên ông giám đốc không hề có cái ý nghĩ độc ác
ấy. Như những người tốt bụng và có tài khác, ông không quá lựa lời khi nói. Hơn
thế, ông có tính hay quên. Ông quên câu chuyện vừa mới làm ông cảm động, rằng
họ phải sống bằng những bát cháo từ thiện, thế thì họ lấy đâu ra tiền bồi dưỡng
cho nó chóng béo để ông mổ?
Việc chữa bệnh có vẻ diễn biến thuận lợi. Chỉ còn một
vấn đề nhỏ là làm sao béo lên. Một tí thôi cũng được. Không béo là không mổ. Mà
không mổ thì đau lắm, có thể chết.
Từ đó bà mẹ chỉ ăn mỗi bữa nửa bát cháo. Nửa kia
nhường cho con. Bà còn luôn tay xoa bóp người nó, hy vọng làm thế da thịt nó sẽ
giãn ra, tức là béo hơn, hay trông có vẻ béo hơn. Còn con bé thì hăm hở nuốt
hết các loại thuốc bệnh viện phát cho theo lệnh của ông giám đốc, như thể chúng
là những chất béo bổ nó đang cần.
Cũng từ đó hai mẹ con luôn nhìn những người béo với
con mắt thèm thuồng.
Một tuần sau, ông giám đốc bệnh viện lại đến. Ông nhìn
con bé, lắc đầu:
“Cháu cố gắng ăn nhiều vào nhé!”
Con bé lễ phép đáp:
“Dạ, vâng ạ”.
Mẹ nó thì rơm rớm nước mắt.
Ngay hôm ấy, bà mẹ khốn khổ bắt đầu đi nhặt ve chai.
Buổi tối thì con bé lẻn ra đường bán vé số, vì ban ngày nó phải nằm trên giường
bệnh như mọi bệnh nhân khác. Một ông già làm nghề này nhường cho nó nửa tập vé
mình có, bảo bán được bao nhiêu sẽ chi hỏa hồng bấy nhiêu. Một cách kiếm tiền
lý tưởng không cần vốn.
*
Kia, nó kia. Nó đang đứng co ro dưới ánh sáng vàng vọt
của ngọn đèn đường trên con phố nhỏ cạnh bệnh viện. Không biết đây đã là đêm
thứ mấy trong nổ lực bền bỉ của nó nhằm béo thêm một chút.
Đêm nay trời trở lạnh, hình như sắp mưa. Nó đứng bất
động với tập vé trăng trắng trên cánh tay đang chìa ra phía trước. Không thấy
nó mời khách mua. Cũng có thể nó mời nhưng giọng yếu quá nên không nghe thấy.
Chưa đến mười giờ và phố vẫn đông. Hết người này đến
người khác đi qua, nhưng không một ai chú ý đến nó. Toàn những người béo tốt.
Nhìn họ, nó chợt nảy một ý nghĩ thật buồn cười, rằng giá có bà tiên nào đó hóa
phép cắt một cân thịt của họ, đắp lên người nó thì tốt biết bao. Không, có lẽ
phải hai, ba hay dăm cân mới đủ.
Mười một giờ, trời bắt đầu mưa. Nó lạnh. Lại đói nữa.
Phải về thôi. Nhưng hôm nay chưa bán được vé nào. Chờ chút nữa, biết đâu ai đấy
sẽ mua, có thể mua một lúc cả tập. Thế là nó cứ nán lại, nán lại mãi.
Nó ho. Tự nhiên ho rũ rượi. Tay
chân run lẩy bẩy.
Có ba thằng choai choai đi ngang, cười nói ầm ĩ. Một
đứa dừng lại, cúi nhặt một hòn đá, đặt vào lòng bàn tay con bé rồi đi tiếp.
*
Sáng hôm sau người ta thấy nó đã chết, nằm còng queo
bên đường. Cả người nó ướt sũng vì mưa. Mái tóc bẩn bù xù còn dính những giọt
nước long lanh dưới ánh mặt trời mới mọc, trông như những ngôi sao đang nhấp
nháy.
Tội nghiệp con bé. Vậy là cuối cùng nó vẫn chưa đủ béo
để lên bàn mổ của ông giám đốc bệnh viện.
16. 9. 2011
28. QUAN LỚN HOÀNG THẠCH
Một cô gái trẻ, con nhà giàu, vướng tình với một thư
sinh, có bầu, bị người tình bỏ rơi và bố mẹ đuổi ra khỏi nhà. Cô ở nhờ một
người bạn, chờ đứa con ra đời. Trước khi nhảy xuống sông quyên sinh, cô đem đứa
bé đặt trong vườn chùa Diệu Pháp.
Chùa ít người.
Không may lúc ấy cả hai thầy trò sư trụ trì đi sang chùa bên có việc.
Đứa bé nằm một mình trên nền đất ẩm lạnh hơn một giờ.
Kiến bắt đầu bu lại, những con kiến to và háu đói. Chúng bám đầy người nó, chui
cả vào chiếc miệng bé nhỏ đang khóc.
Đúng lúc ấy, Mực, con chó to lớn của nhà chùa, chạy
ra, tha nó vào nhà. Nó kiên nhẫn liếm hết bầy kiến trên cơ thể con bé. Vậy là
con bé được cứu sống, sau này thành sư trụ trì chùa Diệu Pháp.
Khi con Mực chết già, bố mẹ cô gái xấu số kia chi tiền
chôn cất nó long trọng. Họ còn thuê thợ tạc một bức tượng chó bằng đá, đem về
đặt trước sân nhà mình, quanh năm hương khói chu đáo để tỏ lòng tri ân với nó.
Con chó đá được gọi là Hoàng Thạch, sau tôn thành Quan Lớn Hoàng Thạch, tức là
Quan Lớn Chó Đá.
Quan ở đây vậy là đã bốn đời kể từ ngày cô bé kia được
cứu sống. Quan thiêng lắm. Gần một trăm năm qua biết bao nhiêu câu chuyện về sự
thiêng ấy của Ngài truyền tụng trong dân chúng. Ít nhất có ba tên trộm từng bị
Ngài cắn đứt cổ. Nhiều đứa trẻ ngã suýt chết khi dám ngỗ nghịch trèo lên lưng
Ngài. Cụ cố gia đình này tuyên bố cụ đỗ Thám Hoa là nhờ Ngài, vì hôm lên đường
lều chõng ra kinh, Ngài đã sủa mừng và ve vẩy cái đuôi bằng đá của mình. Ai
không tin có thể đọc gia phả nhà cụ, nơi cụ ghi lại chi tiết sự kiện đó. Rồi
quan chó thành thần của cả làng, cả khu vực rộng lớn xung quanh. Ngoài ngày
rằm, ngày mồng một coi như đương nhiên phải cúng lễ như ở nhà chùa, ngày
thường, ai có công chuyện cũng đến cầu xin Ngài. Nếu không, sớm muộn tai họa sẽ
đến. Ai cũng tin là thế, và không ai muốn hay dám làm trái.
Đến đời thứ tư, tức là đời chúng ta đang sống, gia
đình cụ cố đã không còn giữ được nếp gia phong xưa đáng kính, dù vẫn khá giả
nhờ sự bảo trợ của Quan Lớn Hoàng Thạch. Anh cháu đích tôn đi học Tây về tỏ ý
hơi khó chịu về sự hiện diện của Ngài, đặc biệt cảnh lễ bái đông đúc của dân từ
khắp nơi kéo đến. Tuy vậy, anh ta không dám làm điều gì thất lễ, vì cái uy của
Ngài lớn lắm.
Một hôm, hoàn toàn xuất phát từ ý định tốt, anh ta bảo
cô vợ mới cưới của mình:
“Có lẽ Ngài sống một mình cũng buồn. Sao ta không thuê
tạc thêm một tượng quan Bà cho Ngài?”
“Anh nói đúng.” Cô vợ đáp. “Vạn vật sống có đôi. Quan
và thần linh cũng vậy. Vả lại, có thêm bức tượng nữa, nhà sẽ cân đối hơn”.
Nói là làm. Một tuần sau Quan Bà được khiêng về. Đó là
tượng một con chó cái cũng to lớn không kém, được đẽo gọt công phu rất đẹp nhờ
công nghệ hiện đại, và trông rất nữ tính.
Mọi việc vẫn diễn ra bình thường, dù khách đến lễ có
ngạc nhiên chút ít, nhưng thỉnh thoảng vẫn thắp nén hương hay đặt bó hoa lên
tượng Quan Bà. Điều khác thường là từ khi có tượng mới, đêm đêm vợ chồng anh
chủ nghe như ngoài sân có ai đấy đang vật lộn rất dữ, nhưng vì sợ, họ không dám
ra xem chuyện gì đang xẩy ra.
Khác thường hơn nữa là một sáng nọ tỉnh dậy, họ thấy
một bầy chó con bằng đá lúc nhúc ngoài sân. Quan Lớn Hoàng Thạch vẫn uy nghi
như Ngai vốn có, nhưng Quan Bà thì có vẻ mệt mỏi, sự mệt mỏi hạnh phúc thường
thấy ở những người đàn bà mới sinh con.
Từ đấy Quan Chó không thiêng nữa. Người tới cúng viếng
cũng thưa dần. Lũ trẻ lại hỗn láo với Ngài. Chúng đập vỡ một bên tai mà Ngài
bất lực chẳng làm được gì chúng.
Vậy là cái ý định tốt đẹp đầy tính nhân văn của anh
Tây học đã làm hại Quan Lớn Hoàng Thạch, khiến Ngài rơi ngã từ cõi thần linh
thiêng liêng xuống đời trần dung tục. Hóa ra, như người, đôi khi thần cũng khó
vượt qua được sự cám dỗ của đàn bà.
16. 9. 2011
29. NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL TOÁN HỌC
Hồi học đại học ở Liên Xô, tôi chơi thân với một cậu
khá kỳ quặc. Chơi vì cùng đồng hương Nghệ An và cả vì sự kỳ quặc ấy. Từ nhỏ toi
vốn không ưa những gì bình thường, nhàm chán.
Hắn là sinh viên một trường danh tiếng ở Matscơva,
thông minh và học giỏi. Giỏi với nghĩa xuất sắc thật sự chứ không phải loại khá
hơn bình thường. Ngay năm thứ hai, hắn đã có hai bài báo được đăng trên một tạp
chí chuyên ngành quốc tế về sinh học, là môn hắn được gửi sang đây để học. Tuy
nhiên, đam mê thực sự của hắn, đam mê suốt đời, lại là toán. Thành ra thành
tích sinh học của hắn chỉ dừng lại ở hai bài báo ấy và cái bằng phó tiến sĩ hắn
nhận được không mấy khó khăn khi về nước.
Hắn mày mò tự học toán và chắc cũng đạt được điều gì
đó, nhưng là người ngoại đạo nên tôi không thể đánh giá.
Một hôm đến chơi, hắn bảo tôi với vẻ rất tự tin:
“Tớ sẽ đoạt giả Nobel Toán học!”
“Nobel không có giải dành cho môn toán,” tôi đáp.
“Tớ biết. Rồi người ta sẽ lập cái giải ấy cho tớ.” Hắn
nói, cũng rất tự tin. “Toán là môn khoa học mẹ của tất cả các môn khác. Chỉ tại
lão Nobel nhỏ nhen không lập giải này vì vợ lão có bồ là một nhà toán học mà
thôi.”
Lần sau gặp, hắn lại nói:
“Cậu dịch thơ được đấy. Phải thừa nhận nhiều bài rất
hay. Sao cậu không phấn đấu đoạt giải Nobel về dịch thuật?”
“Xưa nay chưa ai đoạt cái giải ấy. Mà nó cũng chẳng
có”.
“Thì người ta sẽ lập nó cho cậu, nếu cậu dịch thực sự
hay”.
“Tớ là người bình thường, dịch dọt cho vui chứ Nobel
nỗi gì! Khéo người ta cười cho thối mũi,” tôi đáp, rất chân thành.
Thế mà hắn xửng cồ, cái thằng kỳ quặc ấy. Hắn quát vào
mặt tôi:
“Cậu tầm thường chứ không phải bình thường. Sống mà
không mơ ước, không hoài bão thì sống làm đếch gì! Dịch dọt làm đếch gì!”
“Nhưng tớ phải biết sức mình...” tôi yếu ớt chống đỡ.
“Làm sao biết được sức mình khi chưa thử thách? Nói
chuyện với cậu chán bỏ mẹ!”
Rồi hắn lại ngồi vào bàn làm việc, hý húi với môn toán
của mình, ra ý đuổi tôi về, chỉ vì tội không muốn nhận giải Nobel dịch thuật.
Về nước, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Sự kỳ
cục, cực đoan của hắn không giảm mà còn tăng, và nhiều lần tôi vẫn bị hắn mắng
té tát như trước. Công bằng mà nói thì tôi bị hắn mắng oan. Tôi chỉ bình thường
chứ không tầm thường. Như anh nông dân lo cày sâu cuốc bẫm để thu hoạch thật
nhiều thóc, tôi cố dịch thật nhiều, cặm cụi ngày đêm viết lách, gọt dũa từng
câu, từng ý đến mức hài lòng mới thôi. Tôi không thi vị hóa mà cũng chẳng coi
thường cái nghề mình đã chọn, không mảy may mơ ước các giải thưởng này nọ,
trong nước chứ chưa nói đến giải Nobel. Nghĩa là tôi cũng tử tế, dám sống chết
với nghề, và cũng có hoài bão đấy chứ!
Hắn được phân về làm việc ở một viện nghiên cứu sinh
học, đúng chuyên môn đã học. Hắn giỏi đến mức được người ta phân một mình một
căn hộ ở khu tập thể Kim Liên, là điều hiếm xảy ra thời đó. Hơn thế, hắn được
quyền cả tháng không đến viện ngày nào. Độ sáu tháng một lần hắn ôm một tập dày
các nghiên cứu của hắn nộp lãnh đạo viện. Mọi người, kể cả chuyên gia đầu ngành
đọc không hiểu gì, nhưng chẳng dám bác, đành gửi sang Liên Xô nhờ thẩm định hộ.
Tôi cũng nhiều lần phải khốn khổ ngồi nghe hắn thuyết trình hàng giờ các công
trình nghiên cứu cao siêu mà tôi hoàn toàn mù tịt ấy.
Như trước, đam mê của hắn vẫn là toán, và hắn vẫn
không ngừng say mê nghiên cứu để đoạt cái giải Nobel hắn mơ ước.
Một hôm, đang đi trên đường, tôi bị ai đó gọi to chặn
lại. Thì ra là hắn. Đã mấy năm chúng tôi không gặp nhau, nhưng quả tình tôi
không ngờ hắn thay đổi đến thế. Trước mặt tôi là một ông già nhếch nhác, ăn mặc
luộm thuộm và cáu bẩn.
“Cậu đãi tớ một chầu bia đi!” Hắn nói với vẻ hống hách
như ra lệnh. “Lâu lắm chưa được ăn bữa nào ra hồn.”
Chúng tôi vào một quán bia gần đó. Thú thật tôi không
thể cầm lòng khi nhìn hắn ăn một cách ngấu nghiến các món dọn ra và liên tục tu
hết cốc bia này đến cốc khác. Chỉ những người phải nhịn đói lâu ngày mới có
kiểu ăn như vậy.
Ăn uống no nê, hắn bắt đầu hăng hái nói một thôi một
hồi những việc hắn đã và đang làm. Vất vả lắm tôi mới lái được câu chuyện sang
hướng tôi muốn, tức là chuyện gì đã xẩy ra với hắn những năm vừa rồi. Thì ra
hắn bị đuổi việc vì, theo lời hắn, “tớ đếch thèm bận tâm mấy cái chuyện sinh
học vớ vẩn ấy nữa. Để dành thời gian cho toán.” Rồi hắn quay lại với đề tài hắn
yêu thích, thao thao bất tuyêt, đôi mắt đỏ ngầu và tinh sáng một cách khác
thường. Thỉnh thoảng bọt mép sùi ra hai bên khóe miệng. Dẫu chua xót, tôi vẫn
phải tự bảo mình rằng hắn đã phát điên, chí ít thì tâm thần nặng. Kiểu “phát rồ
vì ngộ chữ” như dân gian vẫn nói.
Sau đó tôi đều đặn đến thăm hắn tại căn hộ nhỏ ở Kim
Liên. Quả thật tôi không biết hắn sống thế nào và ăn uống những gì. Lần nào
đến, tôi cũng thấy hắn đang cắm cúi làm việc bên chiếc bàn sờn cũ. Thường thì
hắn vừa ăn những gì tôi mang tới, vừa mắng tôi cái tội không chịu phấn đấu để
lấy cái giải Nobel về dịch thuật. Hắn xem việc tôi đến thăm hắn là chuyện đương
nhiên, và chưa một lần cảm ơn tôi. Dần dần tôi học được cách kiên nhẫn ngồi
nghe hắn nói về các công trình của hắn mà tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi thực sự
thương xót, ái ngại cho hắn, một người sống có niềm tin và sự đam mê mãnh liệt.
Không loại trừ khả năng chính nhờ niềm tin và sự đam mê ấy, hắn mới có thể tiếp
tục sống và làm việc hết năm này đến năm khác trong điều kiện cùng cực như vậy.
Tuy nhiên, cái phải đến cuối cùng đã đến. Hắn chết
cách đây mười năm trong căn phòng đơn độc, giữa một đống lớn giấy tờ bề bộn và
chắc với cái dạ dày trống rỗng. Do không có ai thân thích ở Hà Nội, ông hàng
xóm gọi điện cho tôi khi phát hiện hắn chết.
Ông nói:
“Tội nghiệp bác ấy.”
“Vâng. Tiếc ông ấy không sống được đến ngày nhận giải
Nobel”.
Tôi đáp, trong thâm tâm thực sự coi hắn đã nhận được
cái giải cao quí ấy. Từ ấy đến nay tôi luôn nhớ đến hắn như một người đoạt giải
Nobel toán học.
Sau cái chết của hắn, tôi hay ngẫm nghĩ về bản thân,
và vẫn chưa dứt khoát xếp mình vào hạng người nào - bình thường hay tầm thường
như hắn nói.
28. 9. 2011
30. AI?
Vào năm ấy, ở
mặt trận ấy, hai nghìn người lính trẻ được lệnh xuống đồng bằng tham chiến. Sau
một đêm, chỉ ba mươi người sống sót trở về!
Nhiều năm qua tôi luôn bị ám ảnh bởi con số khủng
khiếp này trong một câu khô khan và thuần túy mang tính thông tin. Chính xác đó
là câu thơ trong bài “Ai? Tôi!” của nhà thơ Chế Lan Viên khi ông viết về chiến
dịch Mậu Thân. Tác giả nêu câu hỏi: “Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người
đó?” Và chính ông tự trả lời mình: “Tôi! Tôi/ người viết những câu thơ cổ võ/
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong”.
Một tâm hồn nhạy cảm! Một nhân cách lớn! (Anh Chế Lan
Viên ơi, em đây, Thái Bá Tân đây. Cảm ơn anh đã nói hộ lòng em. Em còn giữ tập
thơ anh tặng ngày nào.)
Đằng sau những con số này là những con số khác còn
khủng khiếp hơn: Một triệu người lính cách mạng và hai triệu dân thường Việt Nam đã hy sinh
trong cái ta thường gọi là “cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”.
Như nhà thơ, tôi cũng bị ám ảnh bởi câu hỏi của ông:
Ai chịu trách nhiệm về cái chết của 2000 người đó? Không phải tôi, tất nhiên,
vì tôi là người bình thường và chỉ nhờ ngẫu nhiên mới không bị gộp vào con số
đó. Tôi không ra lệnh, không đưa ra các quyết sách lớn về đại cục. Tuy nhiên,
nói thế không có nghĩa tôi hoàn toàn vô tội. Không, tôi vẫn phải chịu một phần
trách nhiệm vì đơn giản tôi là một công dân và đã để đất nước mình rơi vào hoàn
cảnh như vậy. Một công dân tốt còn biết đau về cái chết của đồng bào.
Câu hỏi tiếp: Liêu có đáng phải hy sinh ghê gớm như
thế để “giải phóng dân tộc” không, mà rồi, giải phóng khỏi ai? Khỏi những đồng
bào Việt Nam
khác ở bên kia chiến tuyến?
Một câu hỏi nữa: Ba mươi người sống sót trong số 2000
người ấy bây giờ thế nào, và họ nghĩ gì về sự trận đánh ấy của họ mà đài báo ta
lúc ấy gọi là “thắng lợi, nhưng ta phải chịu một số thương vong nhất định”?
Khá vất vả, cuối cùng tôi cũng tìm được một người,
ngay trong huyện Diễn Châu quê tôi. Điều này lần nữa làm tôi giật mình: Sao lúc
nào, ở đâu có đánh nhau ác liệt nhất và nhiều người chết nhất cũng có mặt những
người lính nông dân Nghệ Tĩnh của tôi? Có thể chỉ ngẫu nhiên, nhưng vẫn giật
mình.
Đó là một lão nông trạc tuổi tôi, trên sáu mươi chút
ít, nhưng trông hom hem với một chân thọt và một tay hơi khuỳnh khuỳnh.
“Chuyện từ đời tám hoánh nào, hơi đâu mà nhớ đến. Mà
cũng chẳng còn lúc nào rỗi để nhớ”. Ông nói khi tôi gợi chuyện. “Con cháu một
bầy, toàn ăn hại. Lại thêm trận lụt vừa rồi ngập hết lúa như bác thấy.”
“Bác có cảm giác thế nào khi sống sót trở về rừng?”
“May! Còn thế nào nữa. May thoát chết như bác nói. Nhờ
giả vờ chết mà sống đấy.”
“Sau đó thì sao?”
“Thì đánh nhau tiếp. Trong số ba mươi người sống sót
lần ấy, nghe nói chỉ năm người trở về nhà khi chiến tranh kết thúc. Trong đó có
tôi. Cũng nhờ may rủi thôi”.
Tôi lặng người, chẳng biết nói gì thêm.
“Sự hy sinh của các bác thật to lớn.” Tôi lên tiếng
khi thấy im lặng mãi bất tiện. “Các bác là những người anh hùng, dũng cảm, dám
xã thân vì nước...”
“Anh hùng, dũng cảm cái đếch gì. Người ta bảo đi lính
thì đi. Bảo xung phong thì xung phong. Không xung phong, không dũng cảm mà được
à? Không bị địch bắn chết thì cũng bị đồng đội đằng sau bắn vào lưng!”
Mấy thằng nhỏ thấy có khách, xúm lại hóng hớt. Ông
chúng quát:
“Chúng mày biến! Mai kia thằng Tàu nó đánh, sẽ đến
lượt chúng mày! Không thoát được đâu!”
Cuộc gặp này để lại trong tôi một ấn tượng nặng nề.
Tôi cũng may. May chưa bao giờ viết thơ cổ vũ người
khác ra trận. May không phải là một trong ba mươi người sống sót ấy, chính xác
hơn, năm người. Nếu không tôi sẽ đau khổ lắm. Chả là đời trót cho tôi cái chữ
nên hay suy luận và mặc cảm. May nữa là tôi không bao giờ phải bắn vào lưng
đồng đội nếu họ không xung phong, và ngược lại. May! Và tôi cảm ơn số phận điều
ấy.
Nhưng tôi cũng có con cháu, và như ông ấy nói, mai kia
thằng Tàu đánh mình, sẽ đến lượt chúng. Nghĩ mà sợ. Sợ và buồn. Vì lão nông
kia, tôi và con cháu của tôi không có sự lựa chọn nào khác. Vì chúng tôi, vì
tất cả chúng ta, đơn giản chỉ là những con tốt vô danh trên bàn cờ của các nhà
lãnh đạo đất nước.
Mong sao cho họ biết thương dân và có những quyết định
sáng suốt.
1. 11. 2011
31. LẠI NÓI VỀ CHIẾN TRANH
Một cô thanh niên xung phong bị phát hiện đang lén lút
làm cái việc “tự sướng” bên con suối nhỏ sâu trong rừng.
Suốt ba đêm liền, từ sau bữa ăn tối cho đến gần sáng,
cô bị đồng chí của mình, toàn nữ, kiểm điểm gay gắt và không ngớt lời sỉ vả.
“Ghê tởm, thật ghê tởm!” “Một biểu hiện
suy đồi đạo đức!” Một hành động bêu xấu hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, đi
ngược với lý tưởng và lối sống cách mạng tốt đẹp!” “Xử bắn con đĩ tư sản thối
nát ấy đi!”. Vân vân.
Sang ngày thứ tư, không chờ đồng đội xử bắn, “con đĩ
tư sản thối nát” ấy đã treo cổ tự tử trên cành cây bị bom chặt đứt một nữa.
Chủ trì và cũng lớn tiếng sỉ vả nhất trong ba đêm đấu
tố ấy là cô Duyên. Đơn giản vì cô là đội trưởng đội thanh niên xung phong ấy.
Duyên là người làng tôi, thậm chí suýt thành chị dâu, nếu anh trai con ông bác
tôi không hy sinh ở Quảng Trị năm 68. Tự cô kể tôi nghe chuyện này khi hết
chiến tranh trở về nhà.
“Tội nghiệp nó! Người ta bảo thì bọn chị phải làm thế
chứ thương lắm!” cô nói, rơm rớm nước mắt. “Khối đứa như nó. Chị biết”.
“Cả chị?” tôi hỏi.
Ngập ngừng một lúc, chị nói, giọng thách thức:
“Thì sao? Chị không là người chắc? Cả bầy con gái thui
thủi một mình trong rừng không một mống đàn ông suốt mấy năm trời! Đơn vị chị
thì không, nhưng nghe nói ở Đrao, Tây Nguyên, có mấy chục đứa phát cuồng, lúc
ôm nhau cười mãi không thôi, lúc xé hết quần áo kéo chạy tồng ngồng gữa rừng
như những con điên.
Mắt chị lại rưng rưng.
Về làng được bốn năm, do lỡ thì, và cũng do chẳng còn
đàn ông nào nữa mà lấy, chị Duyên xuống tóc đi tu, ở ngay Chùa Mít bên sông
Bùng. Vợ chồng bác tôi thương lắm, nhưng chẳng can ngăn. Trong thâm tâm hai cụ
vẫn coi chị là con dâu. Có người nói chị bị ai đó trên tỉnh lừa tình. Chuyện
này thì tôi không rõ, mà cũng chẳng quan trọng. Tôi chỉ thấy ngỡ ngàng, thậm
chí đau nhói trong ngực khi hình dung chị dâu hụt của tôi, - một người xinh
đẹp, yêu đời, từng nhiều năm làm đội trưởng đội văn nghệ xã, - lại tự nguyện
giam mình trong ngôi chùa hiu quạnh, đổ nát, với bộ quần áo màu nâu nhà Phật.
Mấy ngày sau, tôi đến tìm chị, định hỏi cho ra chuyện, nhưng tôi đã không vào
chùa khi đứng từ xa nhìn thấy chị đang thẫn thờ đưa chổi quét đi quét lại cái
sân vốn đã sạch.
Lặng lẽ ra về, tôi cố lý giải mà không lý giải nỗi cái
gì đã biến một cô gái tươi vui, hồn nhiên, tràn trề hạnh phúc và xứng đáng được
hưởng hạnh phúc thành một người yếm thế, bất hạnh như vậy.
Chiến tranh? Phải chăng đây là cái giá của chiến
tranh?
Bẵng đi nhiều năm, tôi lại vào chùa Mít.
Nó vẫn thế. Hai cây nhãn trước chùa vẫn thế, và vẫn
thế, chúng không chịu cho quả.
Đang vắng người, tôi vào thẳng phòng riêng sư trụ trì,
sư thầy Đàm Duyên. Sư thầy chứ không phải sư cô như ngày nào.
“Chào chị Duyên,” tôi lên tiếng, không hiểu sao còn cố
tình nói to.
“Mô phật. Xin xưng hô với kẻ tu hành này theo đúng
cách của nhà phật. Chào chú.”
Đứng chắp tay trước mặt tôi, đầu hơi cúi, là một bà
già nhỏ bé, khô đét và không còn tí dấu vết nào của cô Duyên ngày xưa cũng như
sư cô Đàm Duyên sau đó tôi gặp. Nét mặt bà không chỉ vô cảm mà bất động như
được nặn bằng sáp. Cái đầu trọc bóng loáng cũng có lớp sáp nhờn nhợt ấy.
Bất giác, tôi chợt nghĩ: “Nếu không trọc, không biết
tóc chị sẽ bạc đến đâu?”
“Chị khỏe chứ?”
“Mô phật.”
“Người ta nói nay mai chùa Mít bị đập bỏ để xây đường
lớn lên Đô Lương và sang Lào?”
“Mô phật,” và chị khẽ cúi đầu.
“Thế chị và mọi người đi đâu?”
Sư thầy Đàm Duyên không đáp. Chất sáp trên mặt và cái
đầu trọc của bà càng trở nên rõ nét hơn. Hình như bà đang khóc, dù đôi mắt sâu
vô hồn vẫn ráo hoảnh.
Lát sau tôi bỏ về, vô cớ hậm hực với ngôi chùa tội
nghiệp sắp bị phá bỏ, với hai cây nhãn xum xuê mà không chịu cho quả. Với cả
chính tôi vì mãi vẫn lấn cấn tìm lời giải thích cho số phận chị dâu mình và
những người như chị.
Chiến tranh! Ừ, chiến tranh! Tiên sư thằng chiến
tranh!
Tôi thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, muốn
văng tục chửi ai đó, đập phá cái gì đó mà không được. Chửi cái thằng gây ra
chiến tranh chẳng hạn. Tiên sư thằng gây ra chiến tranh!
Đừng nói với tôi về chiến tranh bảo vệ tổ quốc và
chính nghĩa. Tôi đã đủ khôn lớn để hiểu rằng cái cuộc chiến tranh ấy, nếu quả
là bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa như người ta nói, cũng chẳng là gì nếu nó là
thủ phạm của hàng triệu cái chết dân Việt, hàng chục triệu cuộc chia ly đau
đớn, thủ phạm của một sự đảo lộn triệt để các giá trị truyền thống dân tộc. Nó
trở thành nhảm nhí khi vì nó các cô gái của chúng ta phải “tự sướng” và tự treo
cổ, khi một người trẻ trung, tươi vui và tràn trề nhựa sống như chị Duyên của
tôi phải biến thành một hình sáp vô hồn.
“Ừ, mà nếu không cạo đầu, tóc của chị sẽ bạc đến đâu
nhỉ?”
14. 11. 2011
32. CÔ GÁI MÙ
Đó là một cô gái xinh đẹp, nhỏ nhắn, với
chiếc cổ trắng thon dài, mái tóc xoăn tự nhiên có màu nâu vàng nhạt,
chắc cũng tự nhiên. Khuôn mặt cô hao hao giống Đức mẹ Đồng trinh ta
thường thấy trong nhà thờ. Ở cô toát lên một sự hiền dịu và sạch
sẽ đến mức thánh thiện.
Chỉ tiếc cô mù. Cũng có thể vì mù, không phải
chứng kiến bao cảnh bẩn thỉu của cuộc đời nên cô có được sự hiền
dịu và sạch sẽ thánh thiện ấy.
Tiếc nữa là cô nghèo, và phải tự kiếm sống
nuôi mình.
Hàng ngày, từ sáu giờ sáng người ta đã thấy
cô ngồi bán hoa bên cột đèn điện ở góc một con phố nhỏ yên tĩnh. Con
chó bé xíu màu vàng dắt cô đi về hàng ngày ngồi bên, hếch mõm, nghiêng
đầu nhìn mỗi lần có khách dừng lại mua hoa. Nó khôn lắm, chăm chăm
nhìn khách đếm tiền, và biết sủa hai tiếng chép chép khi khách quên
hay chậm thanh toán.
Khu phố này nghèo, người dân lam lũ, nhưng vì
hoa rẻ và chắc muốn giúp cô gái mù dễ thương nên người ta vẫn mua hoa
của cô. Nhiều người cẩn thận chọn hoa, trả tiền xong lại lặng lẽ
đặt vào chỗ cũ. Cô gái không nhìn thấy, chỉ mỉm cười cảm ơn. Con
chó thì biết, nhưng nó im, ngoe nguẩy cái đuôi ngắn tũn. Cây cột điện
bê tông đầy giấy dán quảng cáo và những dòng chữ bậy bạ đỡ trơ
trẽn hơn nhờ nó. Nhờ chủ nó, người dân ở đây, trong đó có vợ chồng
tôi, hình như cảm thấy đời đẹp hơn và ấm áp hơn chút ít
Mọi việc cứ thế đều đều diễn ra, lặng lẽ,
bình dị và quen thuộc.
Bỗng một hôm không thấy cô gái mù bán hoa cùng
con chó nhỏ của cô. Hôm sau mọi người nhốn nháo bàn tán. Hôm sau nữa
thì cả phố xếp hàng đưa tang cô. Cô gái xinh đẹp, tội nghiệp ấy đã
bị ai đó cưỡng hiếp rồi giết chết, vứt xác xuống hồ Thanh Nhàn ngay
giữa trung tâm thành phố.
Vợ chồng tôi theo đám đông cùng lặng lẽ đưa
tiễn cô. Mọi người cúi mặt bước đi, xấu hổ với cảm giác bất lực
không bảo vệ được cô khỏi cái ác đang ẩn nấp đâu đó ngay trong cộng
đồng mình. Sao người ta nỡ cướp đi mạng sống của một thiên thần vô
hại như cô? Sao người ta nỡ tước đi của chúng tôi một trong số những
bông hoa hiếm hoi mang chút hơi ấm cho cuộc đời lạnh lẽo này?
Không còn cô, con phố trở nên vắng hẳn. Hình như
rác bụi cũng nhiều hơn.
Không còn cô, con chó nhỏ trở thành chó hoang,
để lại cây cột đèn bê tông một mình không bạn. Nó sẽ phải tự vật
lộn kiếm sống, cạnh tranh với những con chó hoang như nó nhưng lọc
lõi và độc ác hơn. Hơn nữa, nó còn phải luyện chạy thật nhanh, nhìn
thật rõ để khộng bị người ta bắt làm thịt. Tội nghiệp nó. Nếu
biết suy nghĩ và viết văn như tôi, liệu nó sẽ nghĩ và viết gì nhỉ?
Ai đó đặt chiếc bàn thờ nhỏ bằng gỗ ọp ẹp
lên chỗ cô gái mù vẫn hàng ngày thường ngồi bán hoa. Trước nén hương
nghi ngút khói là hoa, rất nhiều hoa màu trắng.
Cô trao cho đời những bông hoa đẹp đủ màu, giờ
nhận được chỉ toàn hoa màu trắng.
16. 11. 2011
33. VIÊM ĐAU TÂM THẦN
Tạp chí Văn Học Nước Ngoài số 5 năm 2005 có truyện
ngắn “Chú bé Do Thái” của Rudolf Leonhard. Nhân vật chính là Jacob, chín tuổi,
bị một ông thầy có tư tưởng kỳ thị chủng tộc bắt hát một bài có câu: “Hãy để
dòng máu Do Thái phun trào khi ta đâm mạnh lưỡi dao vào chúng. Lúc đó ta sẽ nói
hôm nay trời đẹp sao!” Cậu phải hát hàng ngày cùng cả lớp, mà hát to, hát rõ
từng tiếng, nhất là chú, vì chú là người Do Thái.
Chuyện xẩy ra ở nước Đức ngày Hitle mới cầm quyền.
Lưỡi dao chọc vào người, dòng máu phun ra và ngày đẹp trời ấy đã làm chú bé
hoảng sợ đến mức mê sảng và phát ốm. Bố mẹ phải đưa chú sang Pháp lánh nạn
phát-xít. Một thời gian sau chú có vẻ bình tĩnh trở lại. Thế mà một đêm khuya
nọ cả nhà chú và hàng xóm chợt thức giấc vì chú chồm dậy hát: “Hãy để dòng máu
Do Thái phun trào khi ta đâm mạnh lưỡi dao vào chúng. Lúc đó ta sẽ nói hôm nay
trời đẹp sao!” Chú hát đi, hát lại mãi một câu ấy và không thể ngừng được. “Con
không muốn, nhưng nó cứ đầy ắp trong đầu và tự tuôn ra”, chú mếu máo. Rồi chú
lại ốm, còn nặng hơn trước và miệng vẫn không ngừng hát. Bác sĩ khám, nói chú
mắc chứng bệnh “viêm đâu tâm thần”.
Một truyện ngắn gây ấn tượng mạnh, và nó làm tôi nhớ
lại một trường hợp gần như tương tự ở Việt Nam. Chuyện có thật và xẩy ra với
một người ở làng tôi.
*
Đó là một sinh viên mới du học ở nước ngoài về, đúng
vào những ngày đầu đất nước vừa thống nhất. Anh có dáng người lẻo khẻo, da xanh
mướt, mái tóc xoăn tự nhiên trùm lút gáy và cặp kính cận dày cộm. Nghe nói anh
học văn hay triết học gì đấy bên Tiệp.
Rủi cho anh, và cả cho tôi nữa, vì tôi cũng về quê lần
ấy, mới đặt chân đến cổng làng thì trời bắt đầu mưa to, mưa liên tục suốt ba
ngày. Sau đó là lụt lớn, và làng bị cô
lập hoàn toàn. Tức là không ai ra và cũng chẳng ai vào được làng, trừ đi thuyền
mủng. Và trong suốt bảy ngày ấy cộng với ba ngày trời mưa, chiếc loa phóng
thanh mới được huyện phát cạnh nhà anh ra rả nói suốt từ sang đến tối, chính
xác là từ năm giờ đến mười rưỡi đêm. Trời ơi, mà nó nói to, to kinh khủng. Cái
loa nói về chiến thắng lẫy lừng của dân tộc, về niềm vui đất nước thống nhất,
về cơn lụt lịch sử, về số lượng bò và lợn chết trôi. Nội dung giống hệt nhau
hoặc na ná như nhau, đại khái giống câu “Hãy để dòng máu Do Thái phun trào khi
ta đâm mạnh lưỡi dao vào chúng. Lúc đó ta sẽ nói hôm nay trời đẹp sao!” của chú
bé Jacob.
Ngay tối đầu tiên anh đến gặp tôi, nhăn nhó:
“Cái loa nó ông ổng thế cả ngày thì chết mất!”
“Phải chịu thôi. Bao nhiêu năm thế rồi. Và sẽ còn
nhiều năm nữa.”
“Nhưng nó ở ngay trên đầu nhà tớ. Mà quanh đi quẩn lại
cũng chỉ mấy bài, mấy lời thông báo ấy. Chết mất!”
Tôi cũng khổ sở không kém. Có điều nghe mãi thành
quen. Không quen cũng phải quen. Cũng có thể da tôi dày hơn và thần kinh vững
hơn. Chỉ duy nhất một điều không thể quen được, là câu hỏi tại sao người ta lại
cho lắp cái hệ thống loa đài này để tra tấn người dân, tất cả mọi người dân
trên cả nước? Hầu như nhà nào cũng có một cái đài thu thanh được mang từ miền
Nam ra, bán nhiều và khá rẻ. Có gì cần thông báo thì cho người vác loa đi a-lô
a-lô như xưa nếu ở nông thôn. Ở thành phố thì ông tổ trưởng đến từng nhà báo.
Tiếc là người ta không nghĩ thế, và các loa phóng thanh vẫn ông ổng hàng ngày ở
mọi ngóc ngách của đất nước. Hay người ta giữ nó như một nét đặc trưng của lối
sống cộng sản?
Mờ sang hôm sau, anh lại đến, mặt bơ phờ vì suốt đêm
không ngủ:
“Tớ chết mất!”
“Không chết được đâu. Gắng mà chịu.” Tôi đáp, nửa đùa
nửa thật. “Ở Hà Nội cậu không phải nghe nó à?”
“Không. Tớ mới về nước, chưa phân công công tác nên ở
nhờ nhà ông bác làm to ở khu Ba Đình. Ở đấy không thấy có loa kiểu này.”
‘Rồi cậu sẽ phải nghe. Hàng ngày. Không thoát được
đâu. Trừ phi chết, hoặc vượt biên ra nước ngoài.”
“Thật à?” Anh nhìn tôi ngơ ngác, hai mắt lộ vẻ sợ hãi.
Ngày thứ tư, anh bảo tôi
“Ta ra Hà Nội đi.”
“Cách nào?”
“Thuê thuyền xuống ga Mỹ Lý rồi lên tàu.”
“Nhưng đường sắp ngập có đi được đâu. Đường bộ lại
càng ngập.”
“Ừ nhỉ. Nhưng phải làm một cái gì đó. Tớ không thể
chịu thêm được nữa. Đến phát điên mất. Mà có lẽ đã điên rồi. Mấy đêm nay tớ
không ngủ chút nào. Thần kinh yếu mà.”
“Thì cậu bắt chước tớ, bơ nó đi, coi như chẳng có.”
“Tớ không làm được. Thử rồi. Cả khi nó tắt, cái loa ấy
vẫn không thôi ám ảnh tớ. Không để yên một phút nào.”
Anh còn nói một lúc nữa, đại khái như lời chú Jacob:
“Con không muốn, nhưng nó cứ đầy ắp trong đầu và tự tuôn ra.”
Tám giờ tối hôm ấy làng có sự cố. Đang nói hát ra rả
như thường ngày, bỗng chiếc loa im bặt. Tiếp đến là một sự yên tĩnh ngỡ ngàng
đến không tin là thật. Thậm chí có người thấy hụt hẫng.
Lát sau thì cả làng biết là theo yêu cầu của anh, ông
bố đã trèo lên cắt đứt dây điện của chiếc loa. Chưa đầy ba mươi phút sau nó lại
kêu, hình như còn to hơn. Ông bố anh suýt bị làng bắt bồi thường thiệt hại, sau
xét hai sợi dây điện bị cắt chẳng đáng bao nhiêu, vả lại nối lại được nên thôi.
Nhưng ông bị trưởng thôn khiển trách nặng về những lời thóa mạ chính sách tuyên
truyền của đảng. Ông còn dọa nếu lập lại, sẽ cho mời công an xã.
Nước rút, anh ra ngay Hà Nội, còn tôi thì ở lại, chờ
được nhà nước gọi đi làm.
“Kinh khủng quá! Không kheo tớ chết mất,” anh nói khi
chia tay. Trông anh đáng ngại thật - đôi mắt sâu không có vẻ lờ đờ của người
thiếu ngủ mà ngược lại rất sáng. Sáng một cách bất bình thường và đáng ngờ.
Nhưng tôi vẫn cười:
“Chết thế nào được.”
*
Thế mà anh chết thật.
Vế sống với ông bác ở khu Ba Đình dành cho các quan
chức to không có loa công cộng, mấy tháng sau anh trở lại bình thường. Sau đó
anh được phân về làm việc ở một viện nghiên cứu và sống trong khu tập thể của
viện, nơi chiếc loa cộng cộng là kẻ tra tấn hàng ngày không kém gì ở làng.
Và anh đã phát điên.
Một thời gian sau nữa thì bị một chiếc xe tải cán chết
ở Như Quỳnh, khi anh trốn nhà thương điên đi lang thang như thường lệ.
Nếu được khám và có bác sĩ giỏi khám, chắc người ta sẽ
ghi vào bệnh án của anh: “Viêm đau tâm thần”, như trường hợp của chú bé Jacob.
Còn tôi, có thể cả các bạn, tôi không chết nhưng cũng
bị bệnh vì chiếc loa công cộng khủng khiếp ấy. Tôi căm thù nó, căm thù tận
xương tủy mà chẳng làm gì được. Khi viết những dòng này, nó đang kêu ông ổng
ngoài phố, về đảng vĩ đại, nhân dân anh hùng và về thiên đường cộng sản. May
chỉ mỗi ngày hai lần vào sáng sớm và buổi chiều trước lúc ăn cơm.
Tôi tự chẩn đoán: Mình đang mắc bệnh “viêm đau tinh
thần.”
Tự nhiên nhớ đến Hitler và Goebel, bậc thầy nhồi sọ
của hắn.
Hà Nội, 1. 5. 2012
34. MÙI HOÀNG HÔN
Lái xe từ Hát Lót về Hà Nội, đến Mai Châu, ông ghé
thăm một người bạn.
“Bố cháu xuống Ủy Ban, chập tối mới có nhà ạ”. Một con
bé khoảng mười tuổi, người dài ngoẵng vừa nói, vừa mút mút cây kem nửa xanh nửa
đỏ.
Tức là còn hơn tiếng nữa.
“Bảo bố cháu có bác Hoạt Hà Nội ghé chơi. Bác ấy đang
đi dạo ngoài đồi”.
Ông không “đi dạo”, mà nửa nằm nửa ngồi dưới bóng một
cây to râm mát, lơ đãng đưa mát bao quát cả khoảng không rộng phía dưới. Ở
thành phố chật chội lâu ngày, được buổi thế này ông thấy vui thích, thậm chí
người như mềm ra.
Một chiều trung du điển hình. Nắng nhạt, gió hây hây
và màu xanh rờn của đồi núi. Con đường đất ngoằn ngoèo từ thung lũng đi lên như
vết son đỏ, hai bên có loại bụi rậm gì đó ông không biết tên, hoa trắng và xốp
như những quả bóng bàn. Xa xa phía dưới là một vệt xanh kéo dài, chắc có con
suối và mùa này đang cạn nước.
Treo lửng lơ phía trên là mặt trời hoàng hôn, không đỏ
mà vàng như trái cam mới hái.
Có hai anh chị còn trẻ đi đâu về. Chị ăn bận kiểu
người Thái với bộ váy màu xanh chàm, đầu
che chiếc ô Tàu vải lụa hồng. Chàng thì mặc như người Kinh, có phần hơi nhếch
nhác. Chiếc mũ cối còn mới chẳng ăn nhập tí nào, trông lấc cấc. Rõ ràng hắn
đang tán cô nàng, mà tán theo cách rất dân dã. Chốc chốc hắn vỗ vào mông hay
chạm ngực nàng. Tất nhiên nàng đẩy ra nhưng không kiên quyết lắm. Để làm lành,
hắn ngắt mấy bông hoa bóng bàn, dúi vào tay nàng. Và nàng nhận. Ngang qua chỗ
ông, thấy có người, họ mới chịu nghiêm chỉnh đi đứng bình thường.
Tự nhiên ông mỉm cười một mình.
Sau đó ông thầy một cô bé gánh nước từ dưới suối lên.
Hai chiếc xô nhựa cũng bé xíu như người nó. Chiếc đỏ trước, chiếc xanh sau. Còn
nó ở giữa thì màu đen. Khi nó đến gần, ông phát hiện thêm một màu nữa. Màu hoe
vàng của mái tóc. Không phải nhuộm, tất nhiên, mà do nắng sém.
“Cháu cho ông ngụm nước được không?” Ông lên tiếng
hỏi, dù không khát.
Nó đặt đôi xô xuống đất, mặt lấm tấm mồ hôi.
Thấy ông lúng túng không biết uống bằng cách nào, nó
nói:
“Ông vúc hai tay. Hay úp mặt xuống mà uống cũng được.”
“Nhưng ông sợ làm bẩn nước của cháu.”
Nó lắc đầu:
“Bọn cháu ở nhà toàn uống thế.”
Ông vục mặt xuống chiếc xô màu đỏ. Tưởng không khát,
thế mà ông uống khá nhiều, và uống lâu. Ngon tuyệt. Có cảm giác như ông không
uống nước mà uống một cái gì đấy thật tốt lành, thật sạch sẽ ở thành phố của
ông không có. Cái gì nhỉ? Cái giản dị, chân chất theo bản năng của con người,
kiểu tán gái thì vỗ vào mông, hay uống nước thì vục mặt xuống xô? Cái bản năng
mà cố ý hay vô tình bị ta vùi lấp trong cuộc sống hiện đại tưởng văn minh mà
thực ra cũng chẳng văn minh lắm?
Cuối cùng ông ngẩng mặt, khà một tiếng khoan khoái.
Cái cảm giác thích thú vẫn đầy ắp trên đầu và lưỡi. Cảm giác lâng lâng như khi
người ta bất chợt thấy mình thoát tục, thoát khỏi cuộc sống xã hội ước lệ để
trở về với thiên nhiên và thành một phần của thiên nhiên. Như bằng chứng của sự
thoát tục ấy, ông nghĩ mình đang ngửi thấy mùi của hoàng hôn - nhạn nhạt và
buốn. Cả mùi của mái tóc con bé nữa - khen khét và mặn. Người ta chẳng bảo loài
vật có khướu giác nhạy hơn con người nhiều lần đấy ư?
Con bé có nét mặt xinh và dễ thương. Được rửa ráy sạch
sẽ, không chang nắng hàng ngày và mặc những bộ quần áo xinh đẹp như búp bê, nó
sẽ là một thiên thần. Và ông thầm hình dung từ hai xương vai gầy nhô cao sau
chiếc áo vải đen bạc màu của nó từ từ nhú lên đôi cánh trắng như cánh chim câu.
Ông những muốn ôm ghì lấy nó, nhấc lên cao.
“Cháu phải gánh nước hàng ngày thế này à?” Cuối cùng
ông hỏi.
“Vâng ạ. Mỗi ngày hai lần sáng và chiều. Mỗi lần hai
gánh.”
“Sao một mình cháu phải gánh?”
“Vì bà ngoại cháu mù, không đi được.”
“Còn bố mẹ?”
“Mẹ cháu bị bán sang Trung Quốc đã lâu.”
Ông khựng lại một lúc rồi hỏi tiếp:
“Còn bố?”
“Bố cháu buôn ma túy bị tù. Năm năm rồi.”
Nó nói thản nhiên, thậm chí không thay đổi nét mặt.
Còn ông thì thấy nghèn nghẹn trong cuống họng.
“Vì sao cháu biết?”
“Cả bản nói thế ạ. Và người ta gọi cháu là “con ma
túy”.
“Thế cháu có biết ma túy là gì không?”
“Không,” nó đáp cộc lốc, rồi nhấc gánh nước đi tiếp.
Hai mắt cay cay, ông đứng lặng nhìn theo thiên thần
của mình.
Và buồn, vì không còn ngửi thấy mùi hoàng hôn và mùi
mái tóc khét của nó.
Hà Nội, 3. 5. 2012
35. KHÔNG NƯỚC, KHÔNG TRĂNG
Ni-cô Chiyono học Thiền với thầy Bukko ở
chùa Engaku. Trong một thời gian dài cô chăm chỉ thiền định mà không gặt hái
được kết quả gì.
Một đêm trăng nọ, ni-cô đi lấy nước
trong cái gàu cũ được néo bằng một thanh tre. Thanh tre gãy, chiếc gàu rơi, nước
đổ lênh láng.
Đúng lúc ấy cô giác ngộ, và thấy tâm
thức mình được giải phóng.
Sau đấy ni-cô đã viết một bài thơ thế
này về sự kiện đó:
Tôi cố giữ chiếc gàu nước ấy.
Nhưng thanh tre gãy,
Chiếc gàu rơi.
Không còn nước trong gàu.
Không còn trăng trong nước.
Được một ông bạn già giới thiệu, thời gian gần đây tôi
mê đọc các bài nói chuyện về Thiền của Osho. Câu chuyện trên về sự giác ngộ của
ni-cô Chiyono mở đầu cho cuốn “Bài nói về các câu chuyện Thiền” cùng tên của
ông, “Không nước, không trăng.”
“Không nước, không trăng, cậu hiểu chứ?” ông bạn tôi
sôi nổi nói. “Và ni-cô Chiyono đã giác ngộ, tâm thức được giải phóng đúng vào
cái lúc không nước không trăng ấy...”
“Vì sao?”
“Vì thanh tre mục gãy làm chiếc gàu rơi xuống đất. Gàu
rơi thì nước đổ. Nước đổ thì ánh trăng soi trong đó cũng không còn. Gàu và nước
là lối tư duy dựa vào những gì mắt thấy tai nghe và sờ mó được. Lối tư duy sáo
mòn, cũ kỹ của người đời, của tôi, của ông. Và nó chỉ cho ta thấy cái ảo là ánh
trăng hời hợt trên bề mặt của nó.”
“Nhưng cái trăng soi mặt nước ấy cũng đẹp lắm. Và vô
hại.”
“Đúng. Người ta tưởng thế, và đó mới thực sư là điều
đáng lo ngài. Vì nó mà ni-cô Chiyono chăm chỉ thiền định mãi vẫn không gặt hái
được kết quả gì. Vì nó mà tớ và cậu suốt ngày quẩn quanh than với thở như những
lão già dở hơi. Suốt đời bám lấy cái trăng và nước ấy, mà trăng thì mờ, mà nước
thì đục...”
Câu chuyện của Osho và những lời bạn nói khiến tôi suy
nghĩ rất lung.
Quen nhau từ lâu, tôi đoán ông này đang có chuyện gì
đó bức xúc lắm.
Một tuần sau ông lại đến. Vừa bước vào nhà, ông nói
luôn:
“Cái gàu nước của tớ đổ rồi!”
Tôi chăm chú nhìn ông, chờ nghe tiếp.
“Tớ đã viết đơn xin ra khỏi đảng. Đơn đàng hoàng chứ
không phải lẳng lặng bỏ sinh hoạt như khối đứa bây giờ.”
“Vậy nay không nước, không trăng, cậu có cái gì?”
“Tự do.”
Rồi ông nói thêm:
“Tức là tất cả!”.
Hà Nội, 4. 5. 2012
36. NHỤC
Hay tin, ông
bỏ cả việc đang làm giở ở Sài Gòn, vội vàng bay ra Hà Nội.
Vừa đặt
va-li xuống nền nhà, ông cao giọng hỏi vợ:
“Làm sao mà
người ta trả lễ?”
“Vì con ông
làm công an.”
“Công an thì
sao mà trả lễ?”
“Ông đi mà
hỏi người ta ấy.”
“Nhưng trước
đồng ý, người ta đã biết nó là công an rồi cơ mà?”
“Tôi biết
đâu đấy. Sao ông cáu với tôi?”
“Nhục!”
*
Con trai ông
và con gái gia đình ông giáo phố bên học cùng nhau từ bé rồi yêu nhau và định
lấy nhau. Cả hai đều ngoan, lại môn đăng hộ đối, tưởng chẳng còn gì nữa phải
bàn. Thế mà khi nghe tin con ông vào Học viện công an, gia đình ông giáo có ý
ngãng ra. May hai đứa yêu nhau thực sự nên cuối cùng cũng xuôi xuôi, và tuần trước
họ đã đồng ý cho làm lễ dạm hỏi. Thế mà bây giờ... Trả thì trả, thành phố này
thiếu gì con gái! ông nghĩ. Đành là thế, nhưng ông thấy bị sĩ nhục. Một gia
đình như ông, với một thằng con hiền lành, tử tế như con ông mà bị trả lễ thì
thật nhục. Hàng xóm sẽ khối anh được dịp đơm đặt.
Tối đến, ông
gọi riêng con trai ra một chỗ, hỏi chuyện.
“Lý bảo bố
mẹ cô ấy lần này làm căng, dứt khoát không chịu.” Anh con nói.
“Vì sao?”
Anh ta im
một lúc mới đáp:
“Vì có ai đó
nhìn thấy con hôm công an dẹp vụ cưỡng chế đất ở Cống Bầu.”
“Con ở đấy
thật à?”
“Vâng.”
“Tưởng con
lính văn phòng không phải làm những việc đó...”
“Bây giờ cần
là người ta điều hết.”
“Thế con làm
gì ở đấy?”
Anh con
ngước mắt nhìn bố, vẻ ngạc nhiên:
“Làm những
việc công an phải làm với bọn phản động. Bọn bị các thế lực thù địch kích động
làm loạn...”
Đến lượt ông
bố dướn mắt ngạc nhiên:
“Con có đánh
người ta không? Thậm chí nổ súng?”
“Con thì
không, vì chưa cần.”
“Còn nếu
cần?”
Anh con
không trả lời.
“Hôm dẹp mấy
vụ biểu tình chống Tàu con có tham gia không?
“Có.”
“Có đánh ai
không?”
“Không. Chỉ
xô đẩy. Mà bố hỏi kỹ thế làm gì nhỉ? Đấy là việc của con. Nhiệm vụ của chúng
con là bảo vệ đảng, bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân.” Anh con thậm chí cao
giọng, là việc xưa nay ông chưa từng thấy, vì nó vốn là đứa hiền và ngoan nhất
nhà.
Rồi anh ta
nói thêm:
“Trước bố đi
bộ đội, cũng để bảo vệ đảng, bảo vệ đất nước và nhân dân như con bây giờ thôi.
Việc bố xưa bố làm. Việc con nay con làm. Thế cả.”
Ông thấy
vương vướng trong cuống họng.
“Không, khác
hẳn. Xưa bố đánh giặc, đánh Mỹ. Nay chúng mày đánh nhân dân. Xưa nhà nước lấy
đất người giàu chia cho người nghèo. Giờ thì ngược lại.”
Ông định nói
thế. Thậm chí định tát và mặt thằng con của mình, nhưng nghĩ thế nào, ông im
lặng bỏ vào phòng mình.
*
Ông nằm
ngửa, mắt nhìn trân trân lên trần nhà.
Vậy là con
ông đã thay đổi. Trong nhà với bố mẹ có thể nó vẫn như xưa, nhưng ra ngoài thì
đã khác. Mà chỉ sau mấy năm học ở trường cảnh sát. Người ta đã dạy cho nó những
gì nhỉ? Chắc các ông thầy ở đấy phải giỏi lắm mới thuyết phục được nó tin mấy
ông bà nông dân chân đất mắt toét và mấy vị trí thức già yêu nước là phản động
để xô đẩy và đánh họ. Hay đạp vào mặt họ. Hay thậm chí có thể bắn họ. Lúc nãy
nó chẳng bảo “chưa cần” đấy thôi.
Láo! Nhục!
Hôm sau, ông
nhẹ nhàng bảo vợ:
“Thôi, bà ạ.
Người ta đã muốn thế thì mình cũng im đi cho xong. Chắc họ phải có lý do của
họ. Nhục cũng phải chịu chứ biết làm thế nào.”
Bà vợ ông
chỉ hiểu chữ “nhục’ theo nghĩa bẽ bàng với hàng xóm chứ không biết ông hàm ý
cái nhục khác còn lớn hơn.
37. CÒN GÌ
NỮA KHÔNG?
Một lần, khi
thuyết pháp ở làng nọ, bỗng có người chạy lại nhổ vào mặt Đức Phật rồi buông
lời thóa mạ.
Các đệ tử
định can ngăn nhưng Ngài giơ tay ra hiệu đừng, rồi ôn tồn hỏi người kia:
“Còn gì nữa
không?”
Câu nói ấy
sau này được nhiều người nhắc lại khi chuyện liên quan đến sự nhẫn nhục. Phật
hỏi “Còn gì nữa không?” vì Ngài nghĩ có thể người ấy còn điều ấm ức chưa nói
hết. Thì để cho anh ta nói hết.
Sừng sờ
trước thái độ nhẫn nhục ấy của Phật, người kia không nói gì thêm, hôm sau đến
cúi rạp trước Ngài xin tha tội. Phật nói:
“Trong một
ngày có nhiều nước chảy qua sông Hằng. Ta không còn là ta của ngày hôm qua. Cả ông cũng vậy. Hôm
qua ông phỉ nhổ, hôm nay ông xin tha lỗi. Cả người nhổ và người bị nhổ đã đổi
khác. Mọi vật cũng đổi khác, chỉ trong một ngày ngắn ngủi. Vậy hãy đứng dậy,
mong ông từ nay chỉ bình tĩnh dùng lời bày tỏ lòng mình.”
Rồi Ngài lại
hỏi:
“Còn gì nữa
không?”
*
Đúng mười
một giờ, giờ lên giường, chuông điện thoại di động kêu. Ông cầm máy.
“Tôi cảnh
cáo ông: Già rồi nên nghỉ ngơi vui vầy với con cháu. Ngứa nghề thì viết thơ trẻ
con như xưa nay vẫn viết. Và thôi đi cái cái trò bài tung bài lên mạng chửi
đảng, chửi chế độ!”
“Dạ, xin hỏi
ông là ai ạ?”
“Không cần
biết.” Im lặng.
“Tôi không
chửi đảng, chửi chế độ. Tôi chỉ nói lên suy nghĩ của mình. Một cách trung thực
và có trách nhiệm. Tôi ký tên thật tất cả các bài mình viết, còn ghi cả địa chỉ
nhà riêng và điện thoại.” Ông đáp, có ý trách người gọi điện không chịu nói
tên.
“Những bài
báo phản động! Ăn phải bã nước ngoài rồi làm phản động, hại dân, hại nước!”
Người kia,
giọng trong và trẻ, còn tuôn ra một thôi những lời buộc tội gay gắt, đôi lúc
tục tĩu và hăm dọa.
Khi thấy anh
ta ngừng, ông nhẹ nhàng nói:
“Tôi vẫn
nghe. Còn gì nữa không?”
Đầu dây bên
kia tắt máy.
Ba hôm sau,
khi ông đăng một bài ngắn trên mang “lề trái”, người kia lại gọi điện, vẫn đúng
mười một giờ đêm, và anh ta nhắc lại gần
toàn bộ những gì đã nói lần trước, nhưng lời lẽ bớt căng thẳng hơn.
Ông vẫn kiên
nhẫn lắng nghe, cuối cùng nhắc lại cái câu nói ấy của Phật:
“Anh còn
muốn nói gì nữa không?”
Đến lần thứ
năm, anh ta chỉ nói:
“Dẫu sao tôi
nghĩ bác nên thôi đi thì hơn. Đỡ phiền cho mình, và cho cả người khác.”
Ông hiểu
“người khác” là anh ta. Anh ta được giao nhiệm vụ này. Rồi ông nhẹ nhàng nói:
“Tôi tôn trọng
anh, và đã lắng nghe những gì anh muốn nói. Giờ anh có muốn nghe tôi không?”
“Bác nói
đi.”
“Thực ra tôi
không nói. Tôi chỉ muốn đọc anh nghe một bài thơ nới về Đức Phật. Anh có vội
không?”
“Không. Bác
đọc đi.”
Và ông đọc
một truyện thơ ông tìm thấy trên mạng cách đây không lâu:
Một ngày nọ, Đức Phật
Đi qua một ngôi làng
Có một người thô lỗ
Sỉ nhục Ngài sỗ sàng.
Anh ta còn trẻ tuổi,
Ăn nói như người điên,
Bảo Ngài cũng ngu dốt
Như người khác, tuy nhiên,
Do rất giỏi lừa phỉnh
Nên người ta tin Ngài.
Tóm lại, toàn nhảm nhí,
Không đáng lọt vào tai.
Đức Phật nghe, bình thản
Trước lời nhục mạ này.
Bất chợt, Ngài khẽ hỏi:
“Xin anh nói tôi hay.
Nếu anh tặng ai đó,
Thí dụ,
chiếc áo dài,
Nhưng người ấy không nhận,
Thì nó là của ai?”
Anh kia hơi bối rối,
Nhìn Đức Phật, và rồi
Liền đáp: “Món quà ấy
Tất nhiên là của tôi!”
Đức Phật cười thân mật:
“Anh nói đúng, vậy thì
Những lời anh vừa nói
Là của anh, nhận đi.
Anh mắng tôi thậm tệ,
Tôi không nhận, làm thinh,
Nghĩa là anh thực sự
Đang mắng bản thân mình.
Ở đời, anh bạn ạ,
Đừng gây ra cho người
Những gì mình không muốn.
Được thế, sẽ tuyệt vời.
Anh thù hận người khác,
Tức là thù hận anh.
Chính anh sẽ đau khổ,
Vì anh làm hại mình.”
“Cảm ơn.”
Anh kia nghe xong nói, rồi tắt máy.
Ông vẫn tiếp
tục viết bài cho các báo mạng “lề trái”. Chỉ nêu vấn đề, phân tích sự kiện với
những lập luận xác đáng và không một từ mang tính thóa mạ, theo đúng phong cách
xưa nay ông vẫn viết.
Người gọi
điện thoại giấu tên không gọi cho ông lần nào nữa.
Mãi gần đây
ông mới nhận được tin nhắn của anh ta với vẻn vẹn ba chữ: “Xin lỗi bác”.
38. BẦY SÂU VÀ QUẢ TÁO THỐI
Hôm
nọ, ông bạn trung tá cùng quê tôi viết trong truyện “Người Việt xấu xí” lại đến
chơi.
Mỗi
lần ông đến là tôi nghĩ chắc có chuyện ông muốn “tâm sự. Ngày nhỏ, ông phịa chuyện
ông bác giấu thóc khiến ông này bị cán bộ cải cách bắn chết. Lại còn dám bảo bố
mẹ bóc lột tá điền, nên bị đánh một trận thừa sống thiếu chết phải trốn biệt,
đến bố chết cũng không dám vác mặt về làng. Chính ông tự nhận mình là “người
Việt xấu xí” nhất, tức là đốn mạt nhất trong số những người Việt đốn mạt.
Khác
mọi lần, hôm nay ông chào tôi bằng tiếng cười hề hề:
“Khá
lắm. Ông chửi được đấy!”
“Tôi không hiểu,” tôi đáp, vẻ dè chừng.
“Tôi chửi? Chửi ai?”
“Còn giả vờ không hiểu! Chửi cái bọn
quan chức cầm quyền đục khoét dân như những con sâu nung núc cỡ bự. Bà Dương
Thu Hương nói thế phải không nhỉ? Ừ đúng, bà ấy nói thế. Còn ông thì kín đáo
hơn nhưng cũng chua cay không kém...”
“Lại càng không hiểu.”
“Thật ư? Đây, không chửi thì là gì?”
Rồi ông lấy ra một tờ giấy, và đọc to
như đọc quân lệnh cho lính:
Đức
Phật bảo đệ tử:
“Hãy
nhìn kia, bầy sâu
Đang
ăn quả táo thối.
Mà
cắn xé, tranh nhau.
Chúng
tưởng chúng hạnh phúc
Ăn
thứ nhơ bẩn này.
Ta,
người thường, thấy chúng
Là
loài đáng thương thay.
Còn
những người giác ngộ
Thì
thấy người vô minh
Như
sâu ăn táo thối,
Rất
hài lòng với mình.”
“Thì
ra là thế,” tôi nói. “Đó là một bài trong tập thơ tôi viết về Phật và Đạo Phật,
350 trang, đang in sắp xong, định ít bữa nữa tặng ông. Nhưng nó chẳng liên quan
gì đến những điều ông nói. Đây thuần túy là bài thơ răn đời của Phật để nhắc
mọi người thoát khỏi chốn u minh...”
“Đúng, nhưng ông mượn nó để chửi chúng.”
“Chửi
thế nào?”
“Lại còn hỏi. Bọn quan cách mạng bây giờ
là bầy sâu tranh nhau ăn táo thối. Còn quả táo thối ấy chính là đất nước ta
hiện nay. Mà chúng sắp ăn hết rồi. Chúng ta sắp toi rồi...”
“Là ông suy diễn vậy.”
“Suy diễn thế nào? Trong bài viết của
mình, “lề phải” hẳn hoi nhé, ông cứ tưng tửng, tưng tửng, không nói thế mà nói
thế, và người ta hiểu thế. Ông thâm và gian lắm. Nhưng chửi là đúng. Cái bọn
sâu ấy thì phải tru di chứ nói gì chửi.”
Chờ ông hạ nhiệt, tôi nói:
“Ông còn lạ gì tôi. Nói hiền cũng được
mà hèn cũng được. Suốt đời tôi có chửi ai đâu. Chửi cái chế độ này như ông nói
lại càng không, vì ông thừa biết tôi được thế này cũng nhờ nó. Thay cho đi
chiến trường tôi được gửi ra nước ngoài học. Sau làm cái nghề văn thơ, dịch
giả. Dịch giả mà ăn thật như có đứa nói. Không ai đánh tôi, tôi chẳng bị oan
khiên gì. Thế thì sao tôi còn chửi? Cái đạo của người tử tế không cho phép vừa
được ăn lại còn được chửi...”
“Nghĩa là ông bênh vực chúng, cái bọn
sâu tham nhũng ấy?”
“Không, ngược lại. Tôi căm ghét chúng
như căm ghét mọi sự xấu xa khác, nhưng...”
“Nhưng sao?”
“Nhưng nói thật, tôi thấy thương hại
chúng, thậm chí nói thương cũng được, nếu ông muốn.”
Ông dướn mắt nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng
không nói gì.
“Ông đã bao giờ tự hỏi cái bọn sâu ấy,
trước khi thành sâu chúng là gì chưa? Là người, đúng không? Như tôi, như ông.
Có đứa còn tốt hơn. Vì sao? Vì rơi vào quả táo thối thì chúng phải thành sâu để
ăn nó. Đó là qui luật. Mà khi cả bầy ăn thì một con hay hai con không muốn cũng
phải ăn. Cũng qui luật nốt. Vậy vấn đề ở chỗ là đừng có quả táo thối ấy. Nghĩa
là phải có cái gì đó giữ cho nó không thối. Táo không thối thì không có sâu.
Chắc ông còn nhớ vụ cái Hồng làng ta mấy năm trước. Trước kia trong lớp nó
chẳng hơn đứt chúng tôi à? Lớp trưởng nhé, bí thư chi đoàn, đẹp gái, giỏi văn
nghệ nhé... Rồi sao? Rồi xong đại học nó phấn đấu vào đảng, được đề bạt lên
trưởng phòng, rồi người ta giao cho nó chức giám đốc cái công ty nghệ thuật của
nó. Rồi nó đút tiền để trúng thầu xây dựng tượng đài và phải ăn bớt xi măng và
đồng, ăn bớt nhiều, để bù cho khoản hối lộ ấy và đút túi phần dư thừa. Rồi nó
vào tù. Thế đấy. Nôm na là nó rơi vào quả táo thối, lúc đầu còn là người, hay
nửa người, sau thành sâu như những con sâu khác trong đó. Vậy thì ai đáng trách
hơn, con sâu hay kẻ làm quả táo thối?”
Tôi dừng lại chiêu một ngụm nước, có ý
chờ ông phản bác, nhưng ông vẫn ngồi im.
“Tất nhiên nó cũng có lỗi vì cái thói
thích làm sâu ăn bẩn của nó,” tôi hạ giọng, nói tiếp. “Bắt đầu từ cái việc
“phấn đấu vào đảng” mà thực chất là để có cơ hội ngoi lên làm sâu chứ lý tưởng
gì. Ông quân đội thì một nhẽ, chứ tôi không tham đường quan trường, không vào
đảng nên không có cơ hội thành sâu. Chứ dính vào, ai dám chắc mình sạch được
mãi. Tóm lại, cái chính và là nguyên nhân của mọi vấn đề là cái môi trường ấy.
Phải làm cho nó trong sạch, lúc đầu cố đỡ bẩn, rồi sạch hơn, cuối cùng hoàn
toàn sạch. Nghĩa là phải xóa bỏ cái ấy, cái bây giờ người ta hay gọi là lỗi...
lỗi gì nhỉ?”
“Lỗi hệ thống.”
“Đúng. Lỗi hệ thống. Cơ chế. Và nó chi
phối mọi cái dưới nó...”
Tôi ngồi im, thú thật cũng hơi mệt vì ít
khi nói dài, nói căng thẳng về một vấn đề nghiêm túc như thế.
Cuối cùng ông lên tiếng:
“Vì vậy mà ông yêu lũ sâu
đó?”
“Không, chỉ thương hại. Kể
ra nếu yêu được như Phật cũng chẳng sao.”
Rồi tôi nói với ông dạo
này do đọc nhiều, viết nhiều về Phật nên thấm tư tưởng của Ngài, và rằng tôi
đang cố yêu tất cả mọi người, thậm chí cả những chú công an đòi hối lộ vi phạm
luật giao thông. Việc ấy làm tôi bớt căng thẳng.
Ông nghe, không nói gì,
chỉ cười. Kiểu cười mỉa, tôi biết.
“Vậy làm cách nào để xóa
cái lỗi hệ thống, cơ chế đó?”
“Phật nói chỉ tình thương
yêu mới chiến thắng được cái ác,” tôi đáp một cách lấp lửng.
Ông lại cười mỉa. Cười tôi
thơ ngây, tất nhiên, nhưng quả thật tôi nghĩ như thế.
“Phật còn dạy phải biết
kiềm chế sự tức giận của mình, vì nó không mang lại gì ngoài tai họa,” tôi nói
tiếp. “Mà rồi, nghịch lý là ở chỗ chính những con sâu hệ quả của hệ thống, ít
ra những con bự, chứ chẳng phải ai khác, có thể xóa bỏ được cái hệ thống ấy.
Không phải những người đứng ngoài la hét, nguyền rủa. Chúng từng là người, và
khi phải chịu những tác động nội tại hay bên ngoài nào đó, có thể chúng quay
lại thành người. Đừng quên chúng cũng từng như ta hay tốt hơn ta. Cõi người
nhiều tầng nhiều lớp lắm. Lớp ngoài chưa hẳn phản ánh đúng bản chất lớp trong.”
Nụ cười mỉa biến mất trên
môi, ông hỏi tôi với giọng rất nghiêm túc:
“Vậy rốt cục ông viết câu
chuyện ấy của Phật để làm gì?”
“Để chúng ta thấy dưới con
mắt của Ngài, chúng ta đang sống tầm thường thế nào trong sự vô minh của mình.
Thấy để cố gắng thoát ra khỏi nó. Còn hiểu theo cách suy diễn của ông thì ông
đã nói rồi. Tức là cái bọn quan chức sâu mọt đang đục khoét đất nước mà ta phải
lên án, phải làm cho chúng tỉnh lại, với hy vọng có thể một ngày nào đó tự
chúng xóa bỏ cái cơ chế đẻ ra chúng. Và cũng để những người còn u mê nhận diện
bộ mặt thật của chúng hiện nay. Đại khái như vậy.”
“Dạo này tôi thấy ông thay
đổi nhiều lắm,” ông thở dài khi đứng dậy ra về. “Hy vọng theo hướng tốt hơn.”
“Ừ, hy vọng thế,” tôi đáp.
*
Ba ngày sau ông gọi điện
nhắc tôi tặng ông một cuốn thơ Phật. Sau đó, như sực nhớ điều gì, ông nói thêm:
“Mà hôm nào tôi và ông vào
Trại giam Thanh Hóa thăm cái Hồng xem nó thế nào.”
BẦY SÂU VÀ
QUẢ TÁO THỐI
Lúc ấy đã xế chiều.
Hai ông già, một gầy một béo, ghé vào quán nước để nói
chuyện “nhân tình thế thái”, tức là chuyện chính trị.
Dạo này đâu người ta cũng thấy các ông già nói chuyện
chính trị. Mà nói to, không thèm thậm thụt như trước.
Ông gầy lấy ra một tờ giấy, thích thú đặt nó lên bàn
rồi nói:
“Ông đọc đi.”
BẦY SÂU VÀ QUẢ TÁO THỐI
Đức Phật bảo đệ tử:
“Hãy
nhìn kia, bầy sâu
Đang
ăn quả táo thối.
Mà
cắn xé, tranh nhau.
Chúng
tưởng chúng hạnh phúc
Ăn
thứ nhơ bẩn này.
Ta,
người thường, thấy chúng
Là
loài đáng thương thay.
Còn
những người giác ngộ
Thì
thấy người vô minh
Như
sâu ăn táo thối,
Rất
hài lòng với mình.”
Ông
béo đọc xong, ngước lên hỏi:
“Thì sao?”
“Thì nó nói đúng phóc chứ sao?”
“Nói gì?”
Ông gầy không trả lời thẳng vào câu hỏi
của bạn:
“Đây là bài thơ trên một tờ báo chính
thống. Để bàn về cái nhân, cái đức, cái gì gì đấy của Phật. Không quan trọng.
Quan trọng là nó nói đúng thực trạng của ta hiện nay. Tôi biết lão tác giả này.
Lão thâm lắm. Là ông quan văn ăn lương nhà nước nên lão phải mượn cổ nói kim,
mượn người nói ta. Cũng phải thông cảm cho lão.”
Ông béo gật gù:
“Đúng là bọn quan tham nhũng đang đục
khoét đất nước như bầy sâu tranh nhau ăn quả áo thối. Vấn đề ở chỗ là có quả
táo thối trước để sâu đến ăn hay ngược lại, vì sâu ăn mà quả táo thành thối.
Táo chín, tự rơi xuống đất cũng có thể thành thối.”
“Thế ông nghĩ sao?”
“Ở một nước bình thường thì đa phần táo
rụng mà thối. Còn nước ta thì do sâu ăn.”
Ông gầy thở dài:
“Mà bọn chúng tranh nhau ăn kinh lắm.
Sắp hết quả táo rồi. Đất nước ta sắp toi rồi.”
Ông béo cũng thở dài theo.
Im lặng một lúc, ông gầy lại nói:
“Tôi đọc kỹ bài thơ, thấy Phật nói đúng.
Cứ như Ngài đang nói về ta ấy.”
Ông béo cầm tờ giấy đọc lần nữa, rồi
hỏi:
“Ông có thương hại chúng không?”
“Không. Chỉ Phật mới có thể yêu hết mọi
người. Với Ngài, không có người xấu, chỉ có người tốt và chưa tốt. Tôi thì tôi
nghĩ phải giết chúng. Giết hết!”
“Thời buổi sâu nhiều người ít, giết thế
nào xuể.”
“Thì phải làm sao cho người nhiều sâu
ít.”
“Làm cách nào?”
“Phật chẳng đã nhắc đến hai chữ “giác
ngộ” đó sao? Không ít người thậm chí giờ còn chưa nhận thấy chúng là sâu. Phải
làm cho họ “giác ngộ để thấy bộ mặt thật của chúng.”
“Đành thế, nhưng khó.”
“Ừ, khó.”
Rồi cả hai ông gãi tai, gần như cùng một
lúc.
Bất chợt, ông béo nói, giọng hồ hởi:
“Tôi nghĩ lại rồi. Về việc sâu trước hay
táo thối trước ấy mà, tôi cho rằng ở ta nhất định phải do táo thối trước. Ý tôi
muốn nói tới môi trường xã hội, hay cơ chế, hệ thống gì đó như bây giờ người ta
hay nói. Nó bị lỗi, bị thối nên mới đẻ ra lắm sâu thế. Những con sâu vốn dĩ
cũng là người bình thường như ta, có con còn tốt hơn. Thế mà thành sâu. Sâu
cũng ba bảy loại. Loại sâu hoàn toàn, loại nửa người nửa sâu hay sâu một phần,
người ba phần. Nhưng chung qui vẫn là sâu, vì trong một quả táo đã thối thì
không thành sâu cũng khó. Hoặc cái miệng ăn, cái tay vơ là sâu, còn cái đầu,
cái tâm thức vẫn sót lại đôi chút chất người...”
Đến lượt ông gầy hồ hởi:
“Bác nói thế làm tôi chợt nảy ý này. Có
thể làm cho người nhiều sâu ít bằng cách khơi gợi, khuyến khích, hoặc nếu được
thì bắt sâu trở lại làm người, nhất là những con sâu bự. Từ người thành sâu
được thì cũng có thể từ sâu lại thành người được chứ sao.”
“Miễn là có điều kiện cần và đủ,” ông
béo chêm vào.
“Đúng. Bài thơ này về lời Phật dạy cũng
góp phần tạo nên điều kiện ấy. Và rồi chính những con sâu quay lại làm người ấy
sẽ tự mình chữa cái “lỗi hệ thống” kia,
và làm cho quả táo không thối nữa. Đừng quên trước khi thành sâu chúng cũng
từng là người, và trong chừng mực nào đó, chúng cũng là nạn nhân của cái “ hệ
thống” được áp đặt từ trước.”
“Ông nói cứ ngon ơ. Chúng không dễ gì
muốn trở lại thành người đâu.”
“Có thể. Nhưng hiện giờ tôi nghĩ đó là
điều khả thi hơn cả, nếu không muốn nói duy nhất.”
Khi đứng dậy ra về, ông béo nói một câu
không ăn nhập mấy với những điều vừa tranh luận:
“Giá bây giờ có Phật sống lại nhỉ?”
Hà
Nội, 30. 4. 2012
39. MẶT NẠ -
2
Hôm ấy trời
mưa lất phất.
Khách đến
vào lúc nửa đêm. Hắn không gõ mà đấm mạnh vào cửa ba lần, như một ám hiệu.
Chủ nhà, một
lão loắt choắt khoảng năm mươi, vội vã chạy ra.
“Đại ca mới
về ạ.”
Khách không
đáp, khinh khỉnh bước vào rồi vứt chiếc túi vải cáu bẩn xuống ghế.
“Một chai gì
đấy thật mạnh. Loại to.”
Hắn ném mình
xuống chiếc xô-pha mềm, tựa đầu lên thành ghế.
Mặt hắn sần
sùi, đen xạm và đông cứng như miếng thịt trâu vừa lấy từ tủ đá ra, với những
chấm nước li ti trên đó. Thoạt nhìn, người ta nghĩ hắn mới ba mươi, mà cũng có
thể đã sáu mươi. Một khuôn mặt vô hồn và dữ dằn. Một chiếc mặt nạ.
Tu một hơi
gần hết cả chai rượu lớn, hắn quát:
“Dìu tao vào
ngủ.”
Lão chủ
ngoan ngoãn làm theo. Lão sợ hắn. Quá sợ. Từ nãy đến giờ lão nhẫn nhục đứng
cạnh chờ lệnh.
Xong, lão
nhẹ nhàng khép cửa rồi quay ra, ngồi xuống ghế, thừ mặt.
Khách vốn là
cậu chủ trước đây của lão. Con nhà giàu, gia giáo. Một hôm, cãi nhau gì đó với
bố, hắn bỏ đi làm giang hồ đâu đó tận miền ngược. Sau hắn mang lão đi cùng, mua
ngôi nhà ở thành phố bắt lão trông, và chỉ thỉnh thoảng mới về.
Lão không
biết hắn làm gì và ở đâu. Nhưng luôn có nhiều tiền, tính tình hay thay đổi và
ngày càng khắc nghiệt. Không thể tin nổi trước hắn từng là một cậu học sinh
ngoan ngoãn, thông thạo tiếng Pháp và biết chơi đàn piano.
Nửa giờ sau,
lão bê chiếc chăn mỏng, rón rén đẩy cửa vào phòng chủ vì trời đang rét.
Bất chợt,
chiếc chăn tuột khỏi tay. Lão đứng há hốc mồm vì kinh ngạc.
Cậu chủ lão
đang ngủ say bên mép giường, một chân thõng xuống đất. Lăn lóc dưới đất là mấy
các mặt nạ. Lão đếm, năm. Cùng cỡ nhưng khác màu và khác cả vẻ diễn đạt. Có lẽ
chất liệu cũng khác. Cái thì dữ dằn độc ác. Cái lãnh đạm khinh khi. Cái lõi
đời, sắc sảo. Một cái bình thường với hai nốt ruồi lớn bên mũi. Cuối cùng là
một cái màu hồng. Mỏng và nhẹ hơn. Đó là khuôn mặt một đứa trẻ, hồn nhiên và
thơ ngây. Cậu chủ của lão ngày còn bé.
Còn giờ thì
hắn nằm trên giường, mặt ngửa lên trần. Không phải mặt, mà là một tấm thịt dẹt
và nhẵn thín, với ba bốn vết tròn mờ mờ là mắt, mũi và miệng.
Định thần
trở lại, lão rón rén nhặt chiếc mặt nạ trẻ con, ốp lên mặt hắn.
Rồi lặng lẽ
đi ra.
Hà Nội 25. 2. 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét