Macgaret Xunh Đẹp - 4
Chương XXI
BÊTI TRÌNH BÀY TRƯỚC TÒA
|
Thế
là đã bảy ngày Macgaret và bố nàng bị giam trong nhà tù, noiư họ cảm thấy mình
là khách hơn là tù nhân. Họ được phép tiếp khách tới thăm, trong số đó có Hoan
Becnanđex, là người báo cho họ biết tất cả những gì xảy ra ngoài nhà tù. Cũng
qua ông ta, họ cử người tới gặp và báo cho Bêti biết trước về phiên tòa sẽ xử
trường hợp của cô ta.
Chẳng bao lâu sau những người được cử đi đã quay lại
báo tin rằng nữ hầu tước Môrela đang tới Xêvin một cách thật rầm rộ và lộng
lẫy, có cả một đoàn tùy tùng khổng lồ đi theo, và rằng cô ta cảm ơn họ đã báo
tin cho biết, và hi vọng sẽ tự bảo vệ được mình.
Nghe nói thế, Caxten mở to mắt ngạc nhiên, còn
Macgaret thì phá lên cười. Dù không biết tường tận, nhưng nàng tin rằng bằng
một cách nà đó, Bêti đã bắt được Môrela nghe mình, và chắc hắn sẽ không dễ dàng
gì mà làm hại cô được. Tuy nhiên, Macgaret vẫn không thể hình dung nổi việc
Bêti kiếm đâu được một đoàn tháp tùng như thế. Nàng luôn lo sợ Bêti có thể sẽ
bị hãm hạ hay xúc phạm, vì vậy nàng đã viết thư yêu cầu hoàng hậu che chở cho
Bêti.
Một giờ sau Macgaret nhận được thư trả lời, trong đó
báo tin rằng bà con của nàng đang ở an toàn dưới sự che chở của hoàng hậu, và
rằng một đám tùy tùng đã được thành lập để giúp và bảo vệ cô ta khỏi bất kì một
sự xúc phạm nào. Đồng thời hoàng hậu còn báo thêm rằng để tiện cho Bêti, bà đã
cho cô ta ở trong một pháo đài bên ngoài Xêvin. Pháo đài này sẽ được canh giữ
suốt ngày đêm, và từ đấy cô ta sẽ được dẫn tới tòa.
Pitơ vẫn bị giam riêng xa Macgaret và Caxten, nhưng
hàng ngày, vào buổi trưa, họ được phép gặp nhau ở khu vườn có tường bao xung
quanh, nằm trong phạm vi nhà tù. ở đấy họ có thể tha hồ nói chuyện bao lâu tùy
ý. Cũng trong khu vườn này, hàng ngày chàng luyện tập đấu kiếm với các tù nhân
khác. Không có kiếm, họ lấy gậy thay thế. Ngoài ra chàng còn được phép sử dụng
con ngựa mà chàng đã cưỡi từ Granađa tới đây. Chàng tổ chức các cuộc thi với
viên phụ trách nhà tù cùng các sĩ quan khác, và trong việc này, chàng tỏ ra là
người hơn hẳn họ về mọi mật. Chàng luyện tập một cách hăng hái và say sưa -
trước đấy Macgaret đã báo cho chàng biết về lời ám chỉ của hoàng hậu, và Pitơ
muốn hồi phục lại sức khỏe trước kia của mình, cũng như muốn hoàn thiện hơn nữa
tài nghệ sử dụng các loại vũ khí hay dùng ở Tây Ban Nha.
Cứ thế thời gian trôi, cho đến một hôm viên phụ trách nhà tù báo
tin rằng phiên tòa xử Pitơ sẽ diễn ra vào ngày hôm sau, và rằng Caxten và
Macgaret sẽ cùng đi với chàng để làm chứng trước tòa. Qua thư, Becnanđex báo
cho họ biết nhà vua đã trở về và sẽ có mặt trong phiên tòa cùng hoàng hậu, và
rằng vụ án của họ đang gây lời bàn tán ở Xêvin. Ai cũng tò mò muốn biết chuyện
cưới vợ của Môrela, là chuyện hiện đang có nhiều lời đồn đại khác nhau.
Đồng thời Becnanđex viết thư báo rằng ông hầu như tin chắc Caxten,
Macgaret sẽ được tự do, và rằng con tàu sẵn sàng đợi lệnh họ. Còn về số phận
của Pitơ thì ông không thể nói chính xác điều gì được, vì tất cả đều phụ thuộc
vào việc nhà vua nhìn nhận tội lỗi của chàng như thế nào. Dù không được công
nhận chính thức, nhưng Môrela vẫn là cháu ruột của nhà vua, mà ngài thì lại yêu
hắn.
Macgaret và Caxten đi xuống vườn, Pitơ vừa trở về sau cuộc đua
ngựa, còn đỏ bừngmặt vì phi nhanh. Trông chàng thật dũng cảm và đẹp. Macgaret
khoác tay chàng, và vừa đi dạo vừa báo cho chàng biết các tin tức mới nhận
được.
- Tốt lắm! - Pitơ kêu lên. - Vụ án bắt đầu sớm chừng nào sẽ kết
thúc sớm chừng ấy. Có điều, em yêu ạ, - khuôn mặt Pitơ trở nên nghiêm túc, -
Môrela là người có quyền chức lớn ở Tây Ban Nha, mà anh thì lại vi phạm luật
pháp nước này. Vì vậy không ai biết trước điều gì sẽ xảy ra. Anh có thể bị kết
án tử hình hay bị cầm tù, hay có thể nếu được phép, anh sẽ chết trong một trận
đấu tay đôi. Trong trường hợp nào thì chúng ta cũng bị chia cắt tạm thời hay
vĩnh viễn. Nếu điều ấy xảy ra, anh van em đừng ở lại đây để tìm cách cứu anh
hay vì một lí do nào khác, vì chừng nào em còn ở lại Tây Ban Nha thì Môrela sẽ
không bao giờ từ bỏ ý định lấy em làm vợ. ở nước Anh, em sẽ được an toàn.
Nghe Pitơ nói thế Macgaret òa lên khóc, vì ý nghĩ
những gì xấy nhất có thể xảy đến với Pitơ làm nàng vô cùng đau khổ.
- Em sẽ nghe theo anh tất cả mọi điều, - nàng khẽ
nói, - nhưng anh yêu, làm sao em có thể bỏ rơi anh, khi anh còn sống? Còn nếu
không may anh chết, là điều Chúa nhất định không để xảy ra, thì lẽ nào em có
thể sống thiếu anh? Lúc ấy em đi theo anh.
- Anh không muốn điều ấy, - Pitơ đáp - anh muốn em
sống trọn đời mình và đi sang thế giới bên kia cùng anh đứng giờ số phận quy
định, không sớm hơn. Anh còn muốn nói với anh , rằng nếu em gặp một người xứng
đáng và muốn lấy anh ta làm chồng, thì em cứ lấy, vì anh biết rõ rằng em sẽ
không bao giờ quên anh, mối tình đầu của em. Vì sau cái cuộc đời này còn có một
cuộc đời khác, nơi không có việc lấy chồng lấy vợ. Cánh tay đã chết của anh
không được phép ngăn cản em.
- Nhưng dù sao, - Macgaret dịu dàng nói, nhưng có vẻ
giận dỗi, - Pitơ, anh hãy tin điều này: Nếu có chuyện gì khủng khiếp xảy ra với
anh thì một đời em vẫn trung thành với anh, cho dù chết hay sống cũng vậy.
- Thế cũng được! - Pitơ thở dài nhẹ nhõm nói, vì
chàng không chấp nhận nổi cả ý nghĩ rằng Macgaret sẽ trở thành vợ của người
khác, thậm chí cả ngay sau khi chàng chế, mặc dù tâm hồn ngay thẳng, cương trực
của chàng và nỗi lo sợ Macgaret phải sống một quãng đời còn lại trong đau buồn,
đã bắt chàng nói những lời trên.
Hoàng hôn đến, và họ phải xa nhau.
Sáng hôm sau Caxten và Macgaret lại bị dẫn vào Tòa
công lí trong lâu đài Ancasa. Nhưng lần này không có Pitơ đi cùng. Cả gian
phòng rộng lớn đầy các nhà cố vấn, các sĩ quan, các quý tộc và các bà quý phái
- sự tò mò đã dẫn tất cả họ tới đây. Tuy nhiên, Macgaret không nhìn thấy cả
Môrela lẫn Bêti trong số họ. Vua và hoàng hậu chưa ngồi lên ngai vàng của mình.
Pitơ đã đứng ở chỗ dành riêng cho chàng, hai bên có lính canh bảo vệ. Chàng
chào họ bằng nụ cười, và gật đầu khi họ ngồi vào vẫn của mình, không cách xa
chàng mấy. Khi Caxten và Macgaret đang đến gần chỗ ngồi thì bỗng tiếng kèn nổi
lên, và từ cuối gian phòng, vua Phecđiăng
và hoàng hậu Ixaben tay khoách tay đang đi ra. Tất cả những người có mặt
đều đứng dậy, cúi thấp người cho đến khi vua và hoàng hậu ngồi xuống.
Đức vua, người đầu tiên các nhân vật của chúng ta được nhìn thấy là
một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, có đôi mắt đẹp và vầng trán rộng. Nhưng nhìn
vua, Macgaret lại nghĩ ông ta có khuôn mặt láu lỉnh, gian xảo, khuôn mặt của
một người không bao giờ quên các quyền lợi của mình. Như hoàng hậu, ông ta mặc
bộ quần áo lộng lẫy, thêu chỉ vàng và có hình vẽ quốc huy Aragông. Tay ngài cầm
một cây trượng bằng vàng có gắn những viên đá quý, còn ở thắt lưng thì đeo một
thanh kiếm dài, chuôi kiếm hình cây thánh giá để chứng tỏ vua cũng là một chiến
binh. Vua mỉm cười đáplại những lời hô hào chào mừng của mọi người. Ngài khẽ
cúi đầu, một tay để lên vành mũ. Sau đó ánh mắt của ngài dừng lại ở Macgaret.
Ngài ngoái đầu và khẽ hỏi hoàng hậu bằng giọng nói trong trẻo, rằng có phải đấy
là tiểu thư mà Môrela đã lấy làm vợ, và nếu đúng như thế, tại sao ông ta lại
còn muốn li dị.
Hoàng hậu Ixaben đáp rằng theo ba biết, thì đây là
người đan bà Môrela muốn lấy làm vợ, nhưng lại lấy một người đàn bà khác, mà
theo ông ta nói là do lầm lẫn. Còn người đàn bà này thì đã đính hôn với bị cáo,
là người đang đứng trướcmặt họ. Những người đứng cạnh nghe câu trả lời này đều
phá lên cười.
Đúng lúc ấy hầu tước Môrela bước vào, vẫn mặc bộ
quần áo nhung đen và đeo các huân chương như mọi khi. Cùng đi theo hắn có bạn
bè và các luật sư khoác áo dài tận đất. Trên đầu Môrela là chiếc mũ đen có đính
một viên ngọc. Hắn không cởi mũ, thậm chí cả khi cúi đầu chào vua và hoàng hậu,
vì hắn là một trong rất ít các nhà đại quý tộc Tây Ban Nha có quyền không phải
cởi mũ trước vua và hoàng hậu. Vua và hoàng hậu cũng chào đáp lại hắn - Vua
bằng cái gật đầu thân thiện, còn hoàng hậu thì khẽ nghiêng mình lạnh nhạt, -
rồi hắn ngồi vào chỗ được dành riêng cho hắn. Đúng lúc ấy ở cuối phòng nghe có
tiếng chân người và giọng một sĩ quan kêu to: “Tránh ra! Tránh ra cho nữ hầu
tước Môrela đi!”. Nghe thế, Môrela, lúc này đang chăm chú nhìn Macgaret, liên
chau mày khó chịu và đứng dậy như thể định phản đối điều gì, nhưng ông luật sư,
ngồi phía sau thì thầm vào tai hắn, nên hắn lại ngồi xuống.
Đám đông giãn ra, Macgaret ngoái lại nhìn và thấy
một đoàn người đang tiến vào. Một số mang áo giáp vũ khí, số khác mặc áo trắng
của người Mô có thêu hình con đại bàng màu đỏ, là phù hiệu của hầu tước Môrela.
ở chính giữa đoàn người là một người đàn bà cao đẹp. Đuôi áo dài của cô ta được
hai cô gái người Mô đi theo đỡ, trên mái tóc vàng để xõa của cô ta lấp lánh một
viên kim cương, chiếc áo khoách màu đỏ sẫm chảy từ trên vai xuống che kín một
nửa chiếc áo dài tuyệt đẹp được trang điểm bằng viên ngọc chính Môrela đã tặng
Macgaret; còn trên ngực cô là một cuỗi ngọc do gã hầu tước tặng Bêti để đền bù
lại những điều phiền toái mà hắn gây cho cô ta.
Macgaret mở to mắt nhìn cô ta, còn Caxten thì đứng
cạnh lẩm bẩm:
- Đây là cô Bêti của chúng ta! Thế mới biết quần áo
thay đổi con người đến mức nào?
Vâng, không nghi ngờ gì nữa, đó chính là Bêti, mặc
dù thật khó hình dung cô gái nghèo ngày nào mặc chiếc áo len giản dị, sống
trong ngôi nhà cổ ở phố Hônbôn bây giờ lại chính là cái cô quý phái, đường bệ
và kiêu hãnh này. Thoạt nhìn, ai cũng nghĩ như suốt đời cô ta luôn đi trên nền
đá cẩm thạch của các lâu đài, và luôn tiếp xúc với các bậc vua chúa và đại quý
tộc. Cô ta đi ngang qua gian phòng rộng lớn một cách kiêu hãnh, bình tĩnh,
không nhìn ngang, cũng không chú ý tới những lời thì thầm bàn tán xung quanh.
Cô ta cũng chẳng liếc nhìn Môrela lẫn Macgaret, cho đến khi tới cái quãng trống
có dãy ngăn phía trong là Pitơ. Tên lính gác lấm lét nhìn Bêti rồi vội vàng né
sang bên nhường chỗ cho cô ta. Lúc ấy, Bêti khẽ nhún chân cúi chào ba lần, hai
lần trước hoàng hậu và một lần trước vua. Sau đó cô ta quay sang chào gã hầu
tước - hắn nhìn chằm chằm xuống đất và không chào lại, - chào Caxten và Pitơ,
rồi cuối cùng đi lại gần Macgaret, cô ta chìa má cho nàng hôn. Macgaret ngoan
ngoãn hôn Bêti rồi khẽ nói vào tai cô ta:
- Bà sống thế nào, thừa bà nữ hầu tước?
- Tốt hơn cô, nếu ở vào địa vị của tôi, - Bêti khẽ
đáp lại rồi nháy mắt với Macgaret.
Lúc ấy Macgaret nghe vua nó với hoàng hậu:
- Một người đàn bà tuyệt vời! Hoàng hậu hãy nhìn
thân hình và đôi mắt bà ta. Môrela khó mà chống lại được.
- Nhưng hình như ông ta thích con thiên nga hơn là
con công. - Hoàng hậu đáp rồi nhìn Macgaret. Vẻ đẹp tinh tế của nàng hơn hẳn vẻ
đẹp sặc sỡ của Bêti.
Hoàng hậu chỉ cho Bêti chỗ được dành riêng cho cô
ta, Bêti ngồi xuống, người phiên dịch bên cạnh, còn cả đám tuỳ tùng ngồi phía
sau.
- Ta cảm thấy bị lúng túng, - Đức vua vừa nói vừa
đưa mắt hết nhìn Môrela và Bêti, lại nhìn Macgaret và Pitơ. Có lẽ ngài đã nhận
ra sự khôi hài của sự việc. - Ta phải xét xử trường hợp nào bây giờ?
Nghe thế, một người trong đám cố vấn đứng dậy, nói
rằng vụ án đưa ra để vua và hoàng hậu xét lần này là vụ án xét một người Anh
hiện đang có mặt tại đây vì tội đã giết chết một người lính của Liên minh
Ecmanđađa Thần thánh, nhưng, ông ta nói thêm, có lẽ còn có những sự việc khác
liên quan đến vụ này
- Theo ta biết, - vua nói, - thì ta sẽ phải còn xét
lời buộc tội hầu tước Môrela đã bắt cóc công dân của một nước thân thiện với ta
từ lãnh thổ nước ấy, đồng thời phải xem xét cả lời yêu cầu công nhận một cuộc hôn nhân đã xảy ra là không hợp
pháp và một lời khiếu nại khác yêu cầu khẳng định tính hợp pháp của chính cuộc
hôn nhân ấy, và rất nhiều chuyện rối rắm khác. Thôi, được ta cứ theo trình tự
từng việc. Nào, ta bắt đầu từ cái ông Anh cao lớn kia.
Phiên tòa bắt đầu bằng lời cáo trạng của quan công
tố, buộc tội Pitơ như đã được trình bày với hoàng hậu lần trước. Đại úy Acranô
đứng lên làm chứng về cái chết của tên lính, nhưng sau khi bị luật sự của Pitơ
hỏi vặn, Acranô công nhận - có lẽ do gã không thù ghét gì bị cáo - rằng tên
lính nói trên đã xúc phạm tiểu thư Macgaret một cách thô lỗ, và rằng bị cáo
Pitơ, vốn là người ngoại quốc nên có thể dễ dàng lầm tưởng toán lính là một
đảng cướp hay thậm chí là những tên người Mô. Đồng thời gã nói thêm rằng gã
không hề chứngminh việc bị cáo chủ tâm giết tên lính.
Sau đó đến lượt Caxten và Macgaret lên làm chứng. Lời lẽ của
Macgaret thật là một sự khiêm tốn đáng yêu. Quả thật, khi nàng kể rằng Pitơ đã
đính hôn với nàng và hai người sẽ tổ chức lễ cưới với nhau, nếu nàng không bị
bắt cóc từ nước Anh về đây, túm lấy nàng xé khăn chemặt, thì trong phòng rộn
lên những tiếng thì thầm thông cảm, còn vua và hoàng hậu thì quay sang nói
chuyện với nhau mà không chú ý nghe những lời nàng nói tiếp.
Sau đó vua thảo luận với hai quan chánh án, rồi ngài
giơ tay tuyên bố tòa quyết định tuyên án. Trong những hoàn cảnh như thế, rõ
ràng là bị cáo người Anh không phạm tội chủ tâm giết tên lính, và cũng không có
bằng chứng nào chứng tỏ ông ta biết rằng người lính này thuộc Liên minh
Ecmanđađa Thần thánh. Vì vậy ông ta sẽ được tự do với điều kiện bồi dưỡng cho
vợ của người quá cố một số tiền - số tiền này đã đưa trước đây - cộng thêm một
ít tiền để làm lễ cầu hôn cho người đã chết.
Pitơ đứng dậy, cảm ơn vua, nhưng ngài không kịp nghe
hết lời chàng, liền hỏi xem có ai trong số những người đang có mặt muốn để đạt
vấn để gì liên quan tới các vụ án sắp xét xử không. Bêti đứng dậy, tuyên bố
rằng cô ta muố được nói. Qua người phiên dịch, cô ta nói răng cô ta nhận được
lệnh vua tới hòa tòa, bà bây giờ cô ta đã sẵn sàng trả lời bất cứ câu hỏi nào
hay lời buộc tội nào người khác đưa ra để chống cô ta.
- Tên của tiểu thư là gì, thưa tiểu thư? - Vua hỏi.
- Elidabet nữ hầu tước
Môrela, tên con gái là Ekidabet Đin, thuộc dòng họ Đin lâu đời vào cao quý của
nước Anh. - Bêti nhấn mạnh từng tiếng với giọng nói rõ ràng và kiên quyết.
Vua gật đầu nói tiếp:
- Có ai phản đối tước hiệu và dòng dõi của người phụ
nũ này không?
- Có tôi, - Môrela lên tiếng, lần đầu tiên trong
suốt cả phiên tòa.
- Trên cơ sở nào?
- Trên rất nhiều cơ sở, - Môrela đáp. - Cô ta không
phải là nữ hầu tước Môrela, vì khi làm lễ cưới, tôi tưởng cô dâu là người phụ
nữ khác. Cô ta xuất thân không phải là một dòng họ lâu đời và quý tộc, vì cô ta
chỉ là một người hầu gái trong nhà thương gia Caxten ở Luân Đôn.
- Điều ấy không có nghĩa gì cả, ông hầu tước ạ, - vua ngắt lời
Môrela. - Dòng họ của ta, ta nghĩ cũng có thể gọi là lâu đời và cao quý, chắc
ông không phủ định điều ấy, thế mà ta đã từng đóng vai người hầu trong những
trường hợp mà hoàng hậu đây vẫn nhớ...- Khi hiểu vua ám chỉ điều gì, tất cả
những người có mặt, trong đó có hoàng hậu, đều phá lên cười. - Để phủ định tính
hợp pháp của một cuộc hôn nhân hay sự xác thực của một dòng họ cao quý, thì cần
phải có bằng chứng, - vua nói tiếp. - Người đàn bà này có bị buộc tội nào mà bà
ta không thanh minh được không?
- Không, - Bêti vội trả lời. - Tội lỗi duy nhất của
tôi là sự nghèo khó, và việc đã lấy hầu tước Môrela làm chồng.
Nghe thế, mọi người đang có mặt lại phá lên cười.
- Tuy nhiên, thưa bà, bây giờ trông bà chẳng có vẻ
nghèo chút nào, - vừa nói, vua vừa đưa mắt nhìn bộ quần áo lộng lẫy có đính
những viên đã quý Bêti. - Còn về cuộc hôn nhân của bà thì chúng tôi ở đây có
chiều hướng xem nó là một bước lỡ lầm hơn là một tội lỗi. - Nghe những lơ lửng
này của Phecđinăng hoàng hậu khẽ nhíu mày. - Xin bà hãy dưa ra bắng chứng, và
tha lỗi cho tôi vì tạm thời tôi chưa gọi bà là nữ hầu tước.
- Thưa Đức vua, bằng chứng của tôi đây - Bêti nói
rồi chìa tờ giấy chứng nhận hôn thú ra.
Các quan chánh án, vua và hoàng hậu đọc tờ giấy. Hoàng hậu nhận
thấy bà đã được đọc bản sao của tờ giấy này.
- Vị linh mục đứng ra tổ chức lễ cưới bây giờ ở đâu?
- Vua hỏi.
Becnanđex đứng dậy, nói rằng vị linh mục ấy đang có
mặt tại đây. Có điều ông im về việc lão đã nhận một số tiền khá lớn để làm điều
đó.
Một trong các quan chánh án ra lệnh gọi bị linh mục
tới. Cha Enrikê vừa chào vừa bước vào phòng. Môrela giận dữ nhìn về phía lão.
Sau khi thề xong, cha Enrikê nói rằng lão là linh mục ở xứ đạo Môtrin và là
người quen cũ của hầu tước Môrela, còn bây giờ lão là thư kí của tòa án dị giáo
ở Xêvin. Để trả lời câu hỏi, lão tuyên bố rằng theo ý muốn và sự đồng ý tuyệt
đối của chú rể, vào ngày này tháng này ở
Granađa lão đã làm lễ cưới giữa chú rể là hầu tước Môrela và người đàn
bà hiện đang đứng trước tòa mà theo lão bét, có tên là Bêti Đin. Sau đó, theo
yêu cầu của bà ta, - vì bà tamuốn giấy chứng nhận hôn thú được làm xong ngay
sau lễ cưới, - lão liền soạn ra tờ giấy mà tòa vừa mới đọc, còn hầu tước và
những người còn lại đã kí tên vào đó, liền lúc ấy, trong lâu đài của hầu tước ở
Granađa. Rồi linh mục Enrikê nói thêm rằng sau đó lão rời Granađa để tới Xêvin
nhận chức thư kí tòa án dị giáo. Cái chức này được các bậc bề trên giao cho lão
để thưởng công lão đã viết một tập chuyện luận dày chống những người dị giáo.
Đây là tất cả những gì lão biết liên quan đến vụ án này.
Sau đó, viên luật sư của hầu tước đứng dậy, hỏi cha
Enrikê ai đã chuẩn bị làm lễ cưới. Enrikê đáp rằng hầu tước chẳng bao giờ nói
với lão trực tiếp về vấn đề này, ít ra thì ông ta cũng chưa lần nào nhắc đến
tên của cô dâu. Mọi chuyện đều do Inex lo liệu.
Hoàng hậu xen vào hỏi tiểu thư Inex là ai và bây giờ
đang ở đâu. Lão linhmục đáp rằng Inex là một người đàn bà Tây Ban Nha, một
trong những người thân cận của hầu tước Môrela ở Granađa, và thường được hầu
tước sai làm những việc thân tín. Cô ta trẻ và đẹp. Ngoài ra lão chẳng biết gì
thêm... Bây giờ cô ta ở đâu, lão cũng không biết, mặc dù cô đã cùng lão tới
Xêvin. Có lẽ điều này hầu tước Môrela biết.
Lão linh mục ngồi xuống. Và sau đó với tư cách là
một người làm chứng, qua phiên dịch, Bêti bắt đầu kể toàn bộ câu chuyện của
mình và hầu tước Môrela. Cô ta kể cô ta gặp hắn trước trong ngôi nhà của ông
Caxten ở Luân Đôn nơi cô ta sống như thế nào, và lập tức hắn ta đã tán tỉnh và
chinh phục trái tim cô ta ra sao. Sau đó hắn ta rủ cô ta cùng về Thành lập năm
để cưới nhau. Để làm chứng, Bêti đưa ra bức thư hắn không kí tên thật. Sau đó
Bêti kể việc Môrela dùng mưu đưa cô ta và Macgaret lên một chiếc tàu Tây Ban
Nha. ở đấy, hắn từ chối không chịu cưới Bêti, và nói rằng hắn không yêu cô ta, mà
yêu Macgaret. Lúc ấy cô ta xem lời tuyên bố này là sự trốn tránh thực hiện
những gì hắn đã hứa.
Sau đó Bêti miêu tả chuyến hành trình của họ tới Tây
Ban Nha.Cô ta nói rằng suốt thời gian trên tàu cô ta không cho hầu tước đến gần
vì trên tàu không có linh mục để tổ chức
lễ cưới cho họ, vả lại, cô ta cảm thấy trong người không được khỏe lắm, và cô
ta lấy làm xấu hổ đã lôi kéo cô em họ và là bà chủ của mình vào những chuyện
phiền toái thế này. Bêti cũng kể việc
Caxten và Pitơ đuổi theo trên một chiếc tàu khác và đã nhảy sang tàu của Môrela
trong thời gian gặp bão. Sau đó cô ta kể về việc đắm tàu, về chuyến đi tới
Granađa và cuộc sống tiếp theo ở đó. Cuối cùng cô ta kể việc Inex tới, mang theo đề nghị của hầu tước muốn lấy
cô làm vợ, và cô đã đồng ý với điều kiện Macgaret, Caxten và Pitơ phải được tự
do. Sau khi những người này đi khỏi, hôn lễ đã được tổ chức theo dự định. Hầu
tước đã ôm hôn cô ta với sự có mặt của một số người, cụ thể là Inex và hai viên
thư kí của hầu tước. Trừ Inex, hai người này đang có mặt ở đây và có thể khẳng
định lời nói của cô ta là đúng sự thật.
Sau khi lễ cưới kết thú và giấy chứng nhận hôn thú
được kí xong, cô ta đã cùng hầu tước đi vào những căn phòng riêng của hắn, nơi
trước đây cô ta chưa hề đặt chân tới. Sáng hôm sau, cô ta rất ngạcnhiên khi
nghe hắn nói hắn phải đi khỏi Granađa vì những việc vua và hoàng hậu giao cho.
Tuy nhiên, trước khi đi, hắn đã viết lệnh giao cho cô ta được quyền nhận các
khoản thu nhập và trông coi một việc ở Granađa trong thời gian hắn vắng mặt. Tờ
lệnh này đã được cô ta đem đọc to cho gia nhân và đầy tớ nghe trước khi hắn ra
đi. Theo sự ủy nhiệmcủa hắn, cô ta đã nhận tiền, kí tên, và nói chung làm tất
cả mọi việc như một bà chủ cho đến khi nhận được lệnh vua cho gọi tới đây hầu
tòa.
- Ta tin lời bà kể, - vua nói một cách khô khan. -
Còn bây giờ, hầu tước, ông có thể nói gì về điều này?
- Tôi sẽ nói! - Môrela đáp, toàn thân run lên vì tức
giận. - Nhưng trước hết xin vua cho phép viên luật sư của tôi hỏi người đàn bà
này một số câu hỏi.
Viên luật sư bắt đầu hỏi Bêti, nhưng khó có thể nói ông ta lấn át
được Bêti. Trước hết ông ta hỏi về dòng họ lâu đời và cao quý mà cô ta nói là
cô ta đã xuất thân. Bêti lập tức làm tòa sửng sốt ngạc nhiên bằng cách kể ra
một danh sách dài các tổ tiên vẻ vang của mình. Đầu tiên là một xơ Đin, dơ Đin
nào đó đã đổ bộ vào nước Anh cùng với công
tước Uyliam - người chiến thắng của xứ Noócmăng. Con cháu của ông này,
Bêti thề, đã đạt tới các tước hiệu và quyền lực rất cao trong khi chiến đấu hết
thế hệ này đến thế hệ khác vì các vua Anh và được các vua Anh rất yêu mến.
Dần dần cô ta kể đến cuộc chiến Hoa hồng trắng và
Hoa hồng đỏ. Trong cuộc chiến tranh này, ông nội cô ta đã bị đuổi, bị tước hết
ruộng đất và chức tước, vì vậy bố cô ta, người duy nhất của gia đình lâm vào
cảnh nghèo đói. Nhưng ông đã lấy một người vợ thuộc dòng họ cao quý hơn cả dòng
họ mình: ba là con cháu trực tiếp của một dòng họ Xăcgông lừng danh, còn lâu
đời hơn nhiều so với các dòng họ Noócmăng khác.
Macgaret và Pitơ ngạc nhiên khi nghe Bêti kể
thế. Nhưng đến chỗ này, theo hiệu của
hoàng hậu, yêu cầu Bêti sớm kết thúc câu chuyện về tổ tiên mình. Chừng ấy đủ để
tòa công nhận dòng họ của cô ta không kém phần danh giá so với bất kì dòng họ
lâu đời nào khác ở nước Anh.
Sau đó Bêti bị hỏi về quan hệ của cô ta và Môrela ở
Luân Đôn. Cô ta liền kể việc hắn tán tỉnh cô ta với những từ ngữ thật ngợi cảm,
và đầy đủ các chi tiết nhỏ nhặt nhất, đến nỗi cuối cùng cả lần này cô ta cũng
bị yêu cầu dừng lại. Cũng thế xảy ra với các câu hỏi tiếp theo. Không kém phần
thôngminh so với viên luật sư của Môrela, nhiều lúc dùng cả tiếng Anh, Bêti đã
đập lại ông ta bằng những câu trả lời thông minh và những từ ngữ sắc sảo, cho
đến khi cuối cùng con người tội nghiệp này không biết làm gì hơn đành ngồi
xuống, vừa lấy tay lau mồ hôi trán, vừa thầm nguyền rủa cô ta.
Sau đó hai người thư kí của Môrela tuyên thệ, tiếp
theo là những người hầu của hắn. Mặc dù không
hào hứng lắm, tất cả những người này đã khẳng định những điều Bêti nói
là đúng sự thật, trong đó có việc hầu tước nâng khăn che mặt, hôn cô ta, vân
vân và vân vân... Thế là Bêti kết thúc phần trình bày của cô ta trước tòa, tự
dành cho mình quyền được hầu tòa
Vua, hoàng hậu và các quan cố vấn hội ý với nhau trong mấy phút.
Hình như các ýkiến không thống nhất với nhau - một số cho rằng tòa không nên xử
tiếp, mà phải chuyển ngay vụ này sang
một loại tòa án khác thì đề nghị cứ tiếp tục. Cuối cùng hoàng hậu nói phải để
hầu tước Môrela trình bày trước tòa - có thể ông ta sẽ chứng minh được rằng tất
cả câu chuyện này chỉ là bịa đặt, và thậm chí ông ta không có mặt ở Granađa
trong khi xảy ra lễ cưới.
Vua và những người khác nghe theo. Môrela tuyên thệ. Hắn kể việc
hắn lần đầu gặp Macgaret, Bêti và Pitơ trong ngày lễ ở Luân Đôn như thế nào, và
đã đem lòng yêu Macgaret, rồi tiễn cô ta về nhà thương gia Giôn Caxten ra sao.
Say này hắn đã khám phá ra rằng Caxten vốn ngày nhỏ đã cùng bố bỏ
chạy Tây Ban Nha và rằng ông ta là một người Do Thái ngoại đạo nhưng giả vờ làm
người theo đạo Thiên Chúa. Điều này làm mọi người có mặt hết sức sửng sốt, còn
nét mặt của hoàng hậu thì đanh lại. Tuy nhiên ông ta đã lấy một người vợ theo
đạo Thiên Chúa, con gái ông ta cũng được nhập đạo này và suốt đời là một con
chiên ngoan đạo. Thậm chí cô ta không hề biết rằng bố cô ta đang theo đạo Do
Thái. Hắn tin chắc điều này, nếu không hắn - Môrela đã không lấy cô ta làm vợ.
Vua và hoàng hậu, - hắn nói tiếp, - cũng biết rằng vì những lí do đặc biệt mà
hai người đã rõ, hắn có nhiệm vụ phải nắm toàn bộ sự thật về những người Do
Thái sống ở nước Anh. Điều này hắn đã viết trong thư báo cho họ, và do đắm tàu
và do bận các việc riêng nên hắn chưa kịp đích thân báo lại.
Trong khi kể tiếp, Môrela công nhận đã tán tỉnh cô
hầu gái Bêti để có điều kiện tới gần Macgaret, là người có ông bố không tin hắn
và hình như biết được đôi điều về công việc hắn đang làm. Còn về dòng dõi quý
phái của Bêti thì quả hắn rất nghi ngờ.
Nghe thế Bêti liền đứng dậy nói to:
- Tôi tuyên bố hầu tước Môrela là một thằng mất dạy
và là một kẻ nói dối. Trong một ngón tay út của tôi còn có nhiều những giọt máu
cao quý hơn trong toàn bộ cơ thể hắn, và toàn bộ cơ thể mẹ hắn.
Môrela kể tiếp về việc hắn cầu hôn Macgaret nhưng bị nàng từ chối.
Hắn hiểu nàng từ chối vì đã trót đính hôn với một người bà con của mình là Pitơ
Brum, một kẻ hay gây gổ trước đó đã gặp chuyện phiền phức ở Luân Đôn vì tội
giết người. Còn ở đây, ở Tây Ban Nha thì lại giết một người lính của Liên minh
Ecmanđađa Thần thánh. Vì yêu nàng và biết có thể mang lại cho nàng một địa vị
cao sang và sự giàu có, hắn đã nảy ra ý định bắt cóc nàng. Để thực hiện điều
ấy, dù không muốn, hắn đã phải bắt cóc luôn cả Bêti.
Sau nhiều chuyện không hay xảy ra, hắn đã về tới
Granađa, nơi hắn cho Macgaret tựmắt nhìn thấy Pitơ Brum, lợi dụng hoàn cảnh bị
giam giữ của mình, đã tán tỉnh yêu đương với một người phụ nữ sống trong nhà
hắn có tên là Inex mà lúc nãy vừa được nhắc tới.
Lúc này Pitơ không kìm nổi, đã đứng dậy nói thẳng
vào mặt Môrela rằng hắn là một kẻ bịa đặt. Chàng còn nói thêm rằng nếu có điều
kiện, chàng sẽ chứng minh cho hắn biết điều ấy. Tuy nhiên, vua đã ra lệnh cho
Pitơ ngồi xuống và phải im lặng.
Khi thấy người yêu của mình không chung thủy Môrela
kể tiếp, cuối cùng Macgaret đã đồng ý làm vợ hắn với điều kiện bố nàng, Pitơ
Brum và cô hầu Bêti Đin phải được tự do rời khỏi Granađa...
-... Là nơi ông không có quyền giữ họ lại, ông hầu
tược ạ, - hoàng hậu nói xen vào, - họa chăng trừ ông bố - Giôn Caxten. - Bà nói
thêm một cách đầy hàm ý.
- Vâng tôi rất lấy làm tiếc mà thú nhận rằng quả
thật tôi đã không có quyền gì để giữ họ lại.
- Nghĩa là ông không có cơ sở nào, - hoàng hậu nói
tiếp, vẻ gay gắt, - cả về mặt luật pháp lẫn về mặt đạo đức, để xúc tiến cuộc
hôn nhân này.
Nghe thế, các luật sư liền gật đầu tán thưởng.
Môrela còn dám khẳng định rằng hắn có cơ sở để làm
điều ấy và ít ra thì chính Macgaret đã
đồng ý lấy hắn. Đúng ngày tổ chức lễ cưới, các tù nhân đã được thả tự do, nhưng
bây giờ hắn hiểu rằng nhờ âm mưu của Inex- cô ta bị Caxten và những người bạn
Do Thái của ông ta mua chuộc, - tiểu thư Macgaret đã ra đi theo họ, thay cho cô
hầu Bêti, người mà hắn sau đó đã đưa tới bàn thờ làm lễ cưới, vì tưởng nhầm là
Macgaret.
Về cái hôn trước lễ cưới thì hắn nói rằng việc này
đã xảy ra trong một căn phòng mờ tối, rằng bây giờ hắn mới biết lúc ấy mặt và
tóc của Bêti đã được trang điểm để giống
Macgaret. Còn những gì xảy ra sau đó thì hắn tin chắc rằng cốc rượu mà hắn uống
trước khi dẫn cô dâu tới bàn thờ đã bị bỏ thuốc ngủ, vì hắn chỉ nhớ lễ cưới một
cách rất lờ mờ, còn tiếp theo thì hắn hoàn toàn không nhớ gì, cho đến khi hôm
sau, tỉnh dậy đầu nhức nhối, hắn nhìn thấy Bêti đang ngồi bên cạnh.
Còn về giấy tờ mà Bêti vừa cho tòa xem, thì hắn nhận
hắn có viết thật, nhưng chỉ cốt để trốn thoát khỏi cô ta, vì lúc ấy hắn đang
tức giận và thất vọng. Hắn biết trước rằng nếu ở lại thêm, hắn sẽ gây ra tội ác
và sẽ giết chết cô ta, người đã lừa dối hắn một cách trắng trợn như thế. Vua và
hoàng hậu đã chú ý tới việc tờ giấy ủy quyền ghi tên nữ hầu tước Môrela, nhưng
bởi lẽ cuộc hôn nhân này không hợp pháp, nên không hề có nữ hầu tước Môrela.
Nghĩa là tờ giấy này không có chút giá trị nào. Đây là tất cả sự thật, một sự
thật không thể thêm bớt thêm được nữa.
Chương
XXII
GIÔN CAXTEN BỊ KẾT ÁN
N
|
ói
xong, hầu tước Môrela ngồi xuống. Vua và hoàng hậ bắt đầu thì thầm với nhau
điều gì đó. Lúc ấy quan chánh án chính thức hỏi Bêti có định chất vẫn hầu tước
Môrela điều gì không. Một cách đầy tự tin, Bêti liền đứng dậy, và qua người
phiên dịch, bình thản nói rằng cô ta đang có rất nhiều điều muốn vặn lại hắn.
Tuy nhiên, cô ta không định hạ thấp mình bằng cách hỏi hắn bất kì một điều gì,
chừng nào sự bẩn thỉu mà hắn vừa trút lên người cô ta chưa được rửa sạch, mà
chỉ có máu mới rửa sạch được nó. Môrela tuyên bố rằng cô ta là một người đàn bà
tứ cố vô thân, và rằng cuộc hôn nhân giữa cô ta và hắn là không hợp pháp. Nhưng
vì là phụ nữ và không thể yêu cầu hắn
phải dùng mũi kiếm để chứng minh cho lời buộc tội của mình, nên Bêti cho rằng
cô ta có quyền đáp lại theo các điều luật của danh dự, và xin phép được tìm một
người nào đó để bảo vệ cái tên cao quý của cô ta và để trừng phạt kẻ vu khống
hèn hạ, đáng khinh bỉ kia - nếu một người đàn bà cô đơn đang sống ở một nước xa
lạ như cô ta có thể tìm được một người như thế.
Sau lời nói này của Bêti, giữa lúc mọi người đang im
lặng Pitơ bỗng đứng dậy.
- Tôi xin phép Đức vua và hoàng hậu được trở thành người bảo vệ
danh dự cho Bêti, - chàng nói. - Như Đức vua và hoàng hậu thấy, chính hầu tước
Môrela cũng nói rằng ông ta đã gây cho tôi thật nhiều điều bất hạnh. Thêm vào
đó, ông ta còn giả dối tuyên bố rằng tôi đã không trung thành với người vợ chưa
cưới của tôi là tiểu thư Macgaret. Tất nhiên tôi có quyền trả thù ông ta về
điều vu khống này. Cuối cùng tôi xin được phép tuyên bố rằng tiểu thư Bêti là
một người phụ nữ tốt, ngay thẳng và chưa hề làm điều gì đáng xấu hổ. Với tư
cách một người đồng hường và là người bà con của tiểu thư, tôi muốn đứng ra bảo
vệ danh dự cho người đàn bà này. Tôi là một người nước ngoài, và ở đây tôi có
ít bạn bè, hoặc có thể nói hoàn toàn không có, nhưng tôi tin Đức vua và hoàng
hậu sẽ không từ chối cho tôi được làm điều ấy, một điều mà trên khắp thế giới
và trong mọi trường hợp, bất kỳ một người quý tộc nào cũng có quyền yêu cầu.
Tôi thách đấy hầu tước Môrela nhận lời tham gia một trận đấy tay đôi với tôi,
trong đó, người thua cuộc sẽ phải chết. Và đây là những lời thách của tôi!
Nói đoạn, Pitơ đi ngang qua khoảng trống được ngăn
bởi hàng dây trước tòa, cởi chiếc găng tay da đang mang rồi vứt thẳng vào mặt
Môrela. Chàng nghĩ sau một sự xúc phạm như thế, hắn không thể không nhận lời
thi đấu.
Môrela gầm lên nguyền rủa, đặt tay vào chuôi kiếm,
nhưng trước khi hắn kịp rút kiếm, các sĩ quan bảo vệ đã chạy tới, và vua lên
giọng nghiêm khắc ra lệnh chấm dứt cuộc cãi vã trước mặt ngài và hoàng hậu. -
Xin Đức vua tha lỗi cho tôi! - Môrela vừa hổn hển thở vừa nói. - Nhưng ngài
cũng thấy thằng cha người Anh này xử sự với tôi, một đại quý tộc Tây Ban Nha,
như thế nào!
- Vâng, hoàng hậu nói, - nhưng chúng tôi cũng từng
nghe cách ông, một đại quý tộc Tây Ban Nha, xử sự với người Anh này, và cả việc
ông đã buộc ông ta một tội mà chắc tiểu thư Macgaret không thể tin nổi.
- Tất nhiên là không thưa hoàng hâu, - Macgaret vội
nói. - Hãy cho phép tôi được tuyên thệ, tôi sẽ cải chính nhiều điều hầu tước
vừa nói trước tòa. Chưa bao giờ tôi muốn lấy ông làm chồng, cũng như không muốn
lấy bất kì người đàn ông nào khác ngoài người này, - nàng khẽ chạm vào tay
Pitơ. - Tất cả những điều ông ta hay tôi đã làm đều nhằm mục đích thoát khoải
cái cạm bẫy độc ác chúng tôi đang lâm vào.
- Ta và Đức vua tin điều ấy - Hoàng hậu mỉm cười
nói, rồi quay sang khẽ bàn bạc với vua và các quan tòa.
Họ nói chuyện với nhau rất lâu và khẽ, nên không ai
nghe rõ lời nào, đồng thời họ luôn nhìn lúc thì bên này, lúc bên kia, vẻ do dự.
Có một vị linh mục nào đó được mời tới tham gia quyết định, và Macgaret cho đó
là một điềm xấu. Cuối cùng họ thống nhất được với nhau. - Và Ixaben với tư cách
là hoàng hậu của xứ Caxtili, trịnh trọng đọc bản tuyên án bằng một giọng khe
khẽ và bình tĩnh. Trước hết quay sang Môrela, bà nói:
- Thưa hầu tước, ông đã đưa ra một lời buộc tội rất lớn đối với
người đàn bà đã khẳng định ông là chồng bà ta, và đối với một người Anh có vợ
chưa cưới bị ông dùng mưu và sức mạnh bắt cóc về đây như chính ông đã thừa
nhận. Nhân danh chính mình và nhân danh hai người đàn bà kia, ông ta thách ông
hầu tước đấu kiếm, ông có nhận lời không?
- Thưa hoàng hậu, tôi sẵn sàng nhận lời, - Môrela
hằn học đáp. - Xưa nay chưa ai nghi ngờ điều gì về lòng dũng cảm của tôi, nhưng
tôi buộc phải nhắc lại rằng tôi... - hắn dừng lại một chốc rồi nói tiếp: - Đức
vua và hoàng hậu đã biết rằng tôi không chỉ là một đại quý tộc Tây Ban Nha...
vì vậy, lẽ nào tôi có thể hạ mình đấu kiếm với người làm công của một tên lái
buôn Do Thái? Cái tước hiệu và địa vị của ông ta ở nước Anh là vậy.
- Nhưng ông đã hạ mình đấu kiếm với tôi trên tàu "Xanh
Antôniô" - Pitơ giận dữ kêu lên, - sao bây giờ ông cảm thấy xấu hổ tiếp
tục cuộc đấu mà ông đã bắt đầu? Vả lại, tôi là một đại diện một dòng họ rất
được kính trọng ở đất nước tôi, và tôi có thể nói với ông rằng trong tình yêu
và trong chiến trận, tôi tự cho mình không thua kém bất cứ một người nào trong
đám người chuyên bắt cóc phụ nữ và những tên con hoang đốn mạt đang sống ở đất
nước này.
Một lần nữa vua và hoàng hậu lại hội ý với nhau về
dòng dõi cao quý của các đối thủ. Vào thời ấy đây là một vấn đề rất quan trọng,
đặc biệt ở Tây Ban Nha. Cuối cùng hoàng hậu Ixaben nói:
- Theo luật pháp của nước chúng tôi, thì một đại quý
tộc Tây Ban Nha không được đấu kiếm tay đôi với một người ngoại quốc bình
thường. Ông hầu tước đã tự nêu lên vấn đề này, chúng tôi không phản đối, và cho
rằng ông ta không bắt buộc phải nhận lời thách thức để bảo vệ danh dự của mình.
Tuy nhiên, khi thấy hầu tước Môrela sẵn sàng nhận lời thách thức ấy, chúng tôi
quyết định sẽ làm tất cả những gì làm được, để không ai có thể nói rằng một
người Tây Ban Nha xúc phạm một người Anh và bị người đó thách đấu trước mặt vua
và hoàng hậu, nhưng đã không nhận lời chỉ vì một lí do duy nhất là không cân
xứng về tước hiệu. Thưa ông Brum, nếu ông đồng ý nhận từ nay chúng tôi cái mà
những đồng bào khác của ông sẵn sàng nhận, thì vốn xem ông là một người dũng
cảm, trung thực và xuất thân từ một dòng họ cao quý, chúng tôi định phong ông
thành hiệp sĩ mang huân chương cao quý Xanhlagô, và bằng cách ấy trao cho ông
quyền cư xử ngang hàng hay đấu kiếm với bất kì một nhà quý tộc Tây Ban Nha nào,
nếu người đó không phải là con cháu trực tiếp của vua, là điều mà chúng tôi
nghĩ hầu tước Môrela đầy quyền năng và nổi tiếng không có quyền đòi hỏi.
- Xin cám ơn Đức vua và hoàng hậu, - vô cùng ngạc
nhiên, Bêti sung sướng đáp, - vì danh dự mà Đức vua và hoàng hậu đã trao cho
tôi. Có lẽ tôi chẳng cần tới nó, nếu bố tôi không đứng ở bên kia trong khi tham
gia trận đánh ở cánh đòng Boxvot. Một lần nữa xin cảm ơn Đức vua và hoàng hậu,
và bây giờ tôi nghĩ hầu tước Môrela sẽ không cho là điều nhục nhã khi đấu kiếm
với tôi để giải quyết mối bất hòa như ông ta mong muốn.
- Ông Pitơ Brum, lại đây và hãy quỳ gối xuống, -
Hoàng hậu ra lệnh cho Pitơ ngừng lời.
Chàng nghe theo, Ixaben cầm lấy thanh kiếm từ tay
vua và bắt đầu làm lễ phong hiệp sĩ cho chàng. Vừa cầm kiếm gõ vào vai phải
Pitơ ba lần, bà vừa nói những lời có tính chất truyền thống.
- Hãy đứng dậy xơ Pitơ Brum, hiệp sĩ mang huân
chương cao quý Xanhlagô.
Pitơ đứng dậy, cúi chào và khi lùi lại phía sau theo
đúng nghi thức đòi hỏi, chàng vấp suýt ngã từ bệ cao xuống. Một vài người cho
đấy là điềm tốt đối với Môrela. Vua Phecđinăng nói:
- Xơ Pitơ,
viên quan phụ trách nghi lễ của ta sẽ báo ngày giờ diễn ra cuộc đấy tay đôi
giữa ông và hầu tước, làm sao để thích hợp nhất cho cả hai ông. Tạm thời ta ra
lệnh cho các ông không có một lời hay một hành động không cần thiết nào trong
quan hệ giữa hai người, và phải chờ mặt đối mặt trong một cuộc huyết chiến để
biết được quyết định của Đức Chúa.
Những người có mặt cho rằng phiên tòa đã kết thúc,
một số định đi ra, nhưng hoàng hậu giơ tay ngăn lại nói:
- Vẫn còn một số vấn đề chúng ta cần quyết định. Thí
dụ tiểu thư đây, - bà Bêti, - yêu cầu được xem cuộc hôn nhân giữa tiểu thư và
hầu tước Môrela là hợp pháp, còn hầu tước thì cho là ngược lại. Có đúng thế không
nhỉ? Chúng ta không có quyền giải quyết vấn đề này, vì có liên quan tới các bí
mật của giáo hội. Chúng ta nhường quyền quyết định cho Đức Giáo hoàng La Mã hay
cơ quan được ngài uỷ quyền, và hi vọng với sự thông minh vốn có của mình, ngài
sẽ xét xử nó đúng theo cách mà ngài cho là cần thiết, tất nhiên nếu hai bên
đương sự muốn trình vụ này lên tòa án của ngài. Nếu Đức Giáo hoàng La Mã không
có ý kiến gì khác, tạm thời chúng ta quyết định tuyên bố rằng từ nay, ở khắp
nơi trên đất nước Tây Ban Nha, tiểu thư Bêti Đin sẽ được gọi là nữ hầu tước
Môrela, và trong suốt cả đời mình, hầu tước Môrela, chồng tiểu thư sẽ pahỉ trao
cho tiểu thư các quyền hành tương xứng. Sau khi hầu tước chết, nếu không có
quyết định khác của tòa án La Mã, tiểu thư sẽ được thừa kế phần đất đai và của
cải mà theo luật pháp Tây Ban Nha, với tư cách là vợ, tiểu thư có quyền đòi
hỏi.
Trong khi Bêti luôn gật đầu cám ơn Đức vua và hoàng
hậu sôi nổi đến mức các đồ trang sức trên ngực va vào nhau thành tiếng, còn
Môrela thì chau mày giận dữ, mặt sa sầm xuống như đám mây đen khi trời sắp
giông, thì những người có mặt lại vừa khẽ thì thầm với nhau, vừa đứng dậy định
ra về. Nhưng một lần nữa hoàng hậu lại giơ tay:
- Chúng tôi muốn hỏi xơ Pitơ Brum và người vợ chưa
cưới của ông là tiểu thư Macgaret, có còn muốn lấy nhau như trước nữa không?
Pitơ nhìn Macgaret, Macgaret nhìn Pitơ, và chàng
liền đáp to, dõng dạc:
- Thưa hoàng hậu, đó là điều mong muốn lớn nhất của
chúng tôi.
Hoàng hậu khẽ mỉm cười:
- Còn ông, ông Caxten, ông có đồng ý gả con gái cho
hiệp sĩ này không?
- Vâng, tất nhiên, - Caxten đáp một cách tự tin. -
Nếu không có ông kia, - Caxten giận dữ nhìn về phía Môrela, - thì hai người này
đã từ lâu thành vợ thành chồng, và số tài sản khiêm tốn mà tôi có đã được
chuyển sang cho họ, thông qua những người tôi tin cậy ở nước Anh.
- Tốt lắm - hoàng hậu nói. - Còn một điều nữa.
Thưa tiểu thư Macgaret, tiểu thư có muốn làm lễ cưới với xơ Pitơ trước khi xơ
Pitơ đấu kiếm với hầu tước Môrela không? Hãy suy nghĩ trước khi trả lời, vì nếu
đồng ý, chẳng bao lâu nữa tiểu thư có thể trở thành góa chồng, còn nếu không,
có thể tiểu thư sẽ chẳng bao giờ là vợ xơ Pitơ.
Macgaret và Pitơ trao đổi với nhau vài câu, rồi nàng
trả lời chung cho cả hai người:
- Nếu người yêu của tôi chết, - giọng nói dịu dàng của nàng run run
khi nói những lời này, - thì dù sao trái tim tôi cũng sẽ tan vỡ. Thế thì cứ để
cho tôi được mang tên chàng sống nốt quãng đời còn lại, và biết rằng trong nỗi
buồn vô hạn của tôi, tôi sẽ chẳng còn bị phiền lòng vì tình yêu người khác. Tôi
muốn được làm vợ chàng trên thiên đường.
- Tiểu thư nói hay lắm! - Hoàng hậu nói. - Chúng tôi
tuyên bố rằng hai người sẽ được làm lễ cưới tại nhà thờ của chúng tôi ở Xêvin
cùng ngày hầu tước Môrela và xơ Pitơ gặp nhau. Ngoài ra, để tránh những điều
không hay có thể xảy ra với tiểu thư sẽ là khách của ta từ nay cho đến khi tổ
chức lễ cưới. Còn ông, xơ Pitơ, ông sẽ trở về nhà tù, nhưng ông được hoàn toàn
tự do muốn gặp bất kì người nào, muốn đi đâu ông muốn, và cũng được chúng tôi
che chở vì rất có thể ông sẽ bị hãm hại.
Hoàng hậu ngừng lời, nhưng vua Phecđinăng bỗng lên
tiếng, bằng giọng nói gay gắt và the thé của mình:
- Sau khi giải quyết xong vấn đề phong hiệp sĩ và
công nhận hôn nhân, chúng ta chỉ còn lại một vấn đề mà ta không muốn bắt đôi
môi dịu dàng của hoàng hậu phải nói. Vấn đề này liên quan tới cuộc sống bất tử
của tâm hồn và và nhà thờ đạo Thiên Chúa trên trái đất. Chúng ta được biết rằng
con người này, Giôn Caxten, một thương gia ở Luân Đôn, là một người Do Thái. Để
mưu lợi, suốt đời ông ta giả vờ làm một tín đồ Cơ Đốc, và với tư cách ấy đã lấy
một người phụ nữ theo đạo Cơ Đốc làm vợ. Vả lại, ông ta là thần dân của nước ta
vì sinh ở Tây Ban Nha, nên ông ta sẽ bị xét xử theo luật pháp nhà thờ của chúng
ta.
Vua dừng lời, Macgaret và Pitơ lo sợ nhìn nhau. Chỉ
một mình Caxten là đứng yên bất động, dù hơn ai hết ông hiểu rõ điều gì đang
chờ đợi ông sau những lời ấy.
- Chúng ta sẽ không xét xử Giôn Caxten, - vua nói
tiếp, - vì không đủ thẩm quyền để xét xử một vấn đề lớn như thế, nhưng chúng ta
sẽ phải trao ông ta vào tay tòa án dị giáo để tòa án này quyết định.
Macgaret kêu to lên một tiếng. Pitơ nhìn quanh như
tìm kiếm sự giúp đỡ. Trong đời mình, chưa bao giờ chàng cảm thấy bị xúc động
mạnh như thế. Hầu tước Môrela thì mỉm cười lần đầu tiên trong ngày. ít ra hắn
cũng thoát khỏi một kẻ thù của mình. Còn Caxten thì đi lại gần Macgaret và âu
yếm ôm hôn nàng. Sau đó ông bắt tay Pitơ và nói:
- Hãy giết chết tên ăn cắp kia đi, - ông bắt đầu chỉ
về phía Môrela, - bố biết con sẽ giết chết hắn, và thậm chí có thể giết chết cả
mười đứa như hắn. Hãy trở thành người chồng tốt của con gái ta. Ta biết con sẽ
tốt với nó, nếu không, ta đã bỏ con để ở lại nơi không có người Do Thái, người
theo đạo Thiên Chúa, không có cả linh mục lẫn vua và hoàng hậu. Còn bây giờ các
con phải lặng lẽ chịu đựng cái phải chịu đựng như ta đang chịu rời bỏ các con
để đi sang thế giới bên kia. Thưa Đức vua và hoàng hậu, tôi sẽ không tìm cách
tự thanh mình khi bị tòa án dị giáo tra hỏi. Mọi việc sẽ tiến hành nhanh chóng
vì tôi không định che giấu điều gì, mà sẽ nói hết mọi sự thật, mặc dù tôi làm
điều ấy không phải vì sợ hãi hay vì đau đớn. Thưa Đức vua và hoàng hậu, Đức vua
và hoàng hậu đã hứa để hai người này được kết hôn với nhau. Họ là những tín đồ
Thiên Chúa ngoan đạo từ lúc mới sinh ra. Tôi muốn hỏi Đức vua và hoàng hậu liệu
cái tội ác chống tôn giáo mà tôi bị buộc tội có làm chia cắt hay gây cho họ một
sự liên lụy nào không?
- Ta hứa với ông, - hoàng hậu vội nói như sợ vua nói trước, - ta
hứa với, Giôn Caxten, rằng việc của ông, dù có bị kết án nặng nền thế nào chăng
nữa, sẽ không hề liên qua tới họ, cũng như tài sản của họ, - bà chậm rãi nói
thêm.
- Một lời hứa nghiêm túc, - vua lẩm bẩm nói.
- Đây là lời hứa của ta, - hoàng hậu tuyên bố một
cách cương quyết, - và trong bất kì trường hợp nào ta cũng sẽ giữ đúng. Hai
người này sẽ được kết hôn với nhau, và nếu xơ Pitơ không chết, họ sẽ không an
toàn rời Tây Ban Nha, và không một tòa án nào của đất nước này có thể buộc tội
họ thêm bất cứ điều gì. Họ cũng sẽ không bị truy lùng hay khởi tố ở bất kì một
nước nào khác thay mặt vua và hoàng hậu Tây Ban Nha hay các quan chức của ta.
Cứ để những lời này ta đang nói được chép thành hai bản, một bản có chữ kí của
ta được cất giữ trong khu lưu trữ, còn bản kia trao cho tiểu thư Macgaret.
- Thưa hoàng hậu, - Caxten nói, - tôi xin cảm ơn
hoàng hậu. Bây giờ có chết, tôi cũng là người hạnh phúc. Tôi xin liều mình báo
với hoàng hậu rằng nếu vừa rồi hoàng hậu không nói những lời ấy, thì tôi đã tự
mình đâm chết tôi trước mặt hoàng hậu. Và tôi muốn nói thêm rằng cái tòa án dị
giáo mà hoàng hậu đã lập ra, có ngày sẽ phá hủy toàn bộ đất nuớc Tây Ban Nha và
biến nó thành tro bụi.
Caxten nói xong, và khi ý nghĩa những lời nói mạnh
bạo của ông được những người đang có mặt những tiếng thở dài đầy vẻ lo sợ.
Nhưng đúng lúc ấy những người đứng sau Caxten giãn ra, và hai hàng dài linh mục
đầu đội mũ chóp che kín mặt và một đám lính canh xuất hiện - rõ ràng những
người này đã đứng chờ sẵn từ trước. Chúng tiến lại gần Caxten, sờ vào vai ông
và đứng bao quanh như muốn che ông khỏi thế giới bên ngoài. Caxten đã biến mất
trong đám đông bọn người này.
Trong trí nhớ của Pitơ cái ngày lạ lùng ấy ở Ancasa
bao giờ cũng bị che phủ bởi một lớp sương mù mờ ảo. Điều này chẳng có gì đáng
lạ. Suốt mấy giờ liền chàng bị đem ra xét xử, tính mạng treo trên đầu sợi tóc,
thế mà bỗng nhiên chàng được tha bổng. Chàng đã nhìn thấy Bêti được biến từ một
cô hầu giản dị thành một bà hầu tước đường bệ và lộng lẫy, như hạt trứng bé nhỏ
biến thành con bướm sặc sỡ. Chàng cũng được nghe thấy cô ta đứng lên kết án
chồng mình, là người lừa dối cô và bị cô ta lừa đối lại. Và cả việc nhờ óc
thông minh và tính tình cương quyết, cô ta đã thắng cuộc trong vụ án.
Với tư cách là người bảo vệ của cô ta và Macgaret,
chàng đã thách Môrela đấu kiếm, và khi hắn mượn cớ không ngang hàng về tước
hiệu để từ chối, thì theo ý của hoàng hậu Ixaben - người qua Macgaret biết rõ
về các âm mưu của Môrela, bỗng nhiên chàng được phong làm hiệp sĩ Tây Ban Nha
mang huân chương cao quý Xanhlôga.
Ngoài ra, ước mong lớn nhất của chàng đã thành sự
thật - chàng sẽ được gặp kẻ thù của mình mà chàng có lí do chính đáng để căm
ghé trong một cuộc đấu công bằng và danh dự. Chàng được hứa là chỉ một vài tuần
nữa Macgaret sẽ trở thành vợ chàng, mặc dù có thể chỉ là vợ chàng trong một
thời gian rất ngắn. Cho đến lúc ấy chàng sẽ được hoàng hậu che chở, bảo vệ khỏi
sự phản bội và những âm mưu hèn hạ khác của Môrela. Đồng thời, chàng và
Macgaret cũng được hứa rằng từ nay sẽ không còn ai có thể buộc tội họ bất kì
điều gì trong bất kì trường hợp nào.
Và cuối cùng, khi mọi việc tưởng sẽ kết thúc tốt đẹp
nếu không thể tới cuộc đấu sắp tới, mà vốn quen với những việc tương tự, chàng
không hề lo lắng, khi chiếc cốc đời chàng tưởng đã được rửa sạch khỏi bụi bẩn
và được rót đầy rượu của chiến tranh và tình yêu, khi những tưởng được nâng kề
sát môi chàng, thì trớ trêu thay, thần số mệnh đã thay rượu đỏ tình yêu bằng
thuốc độc cay đắng. Caxten, bố vợ chưa cưới của chàng, người chàng yêu đến thế,
đã bị vứt xuống tầng ngầm của nhà tù tòa án dị giáo, nơi chàng biết rõ ông chỉ
có thể đi ra với chiếc áo vàng choàng kín người để phải chết một cách từ từ và
đau đớn trên ngọn lửa ở Quêmanđêrô, nơi những người dị giáo bị thiêu cháy.
Chiến thắng Môrela để làm gì, nếu thậm chí Đức Chúa
cho chàng sức mạnh để thắng hắn? Vui gì cái tiệc cưới bị ám ảnh bởi cái chết
đau đớn của ông bố nàng trên ngọn lửa? Lẽ nào có lúc nào đó họ quyên được mùi
khói của ngọn lửa này? Caxten là một người dũng cảm, và không một sự tra tấn
nào có tehẻ bắt ông từ bỏ được tôn giáo của mình. Chắc chắn ông không vì đau
đớn mà che giấu việc ông đã theo tôn giáo ấy, mặc dù ngày bé ông được bố ông
cho nhập đạo Thiên Chúa để được sống yên ổn và tiếp tục sự dối trá ấy để kinh
doanh buôn bán và lấy vợ là một con chiên Cơ Đốc. Vâng, thế là Caxten sẽ bị
giết chết và việc chàng cứu ông khỏi bàn tay của tòa án dị giáo và vua
Phecđinăng sẽ chẳng khác gì việc con chim bồ câu chống đỡ bầy diều hâu độc ác
khỏi phá tổ của mình.
Ôi, cái đòn cuối cùng này thật đáng sợ. Suốt đời
Pitơ sẽ không bao giờ quên được hình ảnh ấy! Một gian phòng rộng với những cổng
vòm được trang trí bằng các hình vẽ và những cột đá cẩm thạch, những tia nắng
buổi chiều lọt qua cửa sổ có màu đổ như máu chiếu xuống những chiếc áo đen của
đám linh mục; tiếng kêu cháy lòng của Macgaret và khuôn mặt nhợt nhạt của nàng
khi bố nàng bị lôi đi, và nàng ngất, ngã vào ngực Bêti được trang điểm bằng
những viên đá quý, nụ cười hiểm độc trên môi Môrela; tiếng cười đáng sợ của vua
Phecđinăng; sự thương hại trong đôi mắt hoàng hậu; những tiếng thì thầm hồi hộp
của đám đông; những lời chất vấn ngắn gọn của các luật sư; tiếng ngòi bút sột
soạt của viên thư kí luôn hững hờ với tất cả trừ công việc của mình, khi ông ta
ghi chép biên bản; và nổi bật lên trên tất cả những điều ấy là hình ảnh cao
lớn, đàng hoàng, bất động, và thách thức của Caxten khi ông bị vây quanh bởi
các tín đồ của thần chết và đang lùi xa dần, xa dần theo hành lang sẫm tối dẫn
đến cái chết.
Chương
XXIII
CHA ENRIKÊ VÀ BẾP LÒ CỦA NGƯỜI THỢ LÀM
BÁNH
M
|
ột tuần lễ trôi qua. Macgaret sống trong cung vua, Pitơ tới thăm
hai lần, và sau lần nào cũng thấy nàng đang vô cùng thất vọng. Thậm chí cả việc
họ kết hôn vào thứ bảy tới - hôm đó cũng là ngày sẽ diễn ra cuộc đấu giữa Pitơ
và Môrela - cũng không an ủi được nàng và làm nàng vui hơn. Vì ngày tiếp theo,
tức là ngày chủ nhật ở Xêvin sẽ là ngày được gọi là "ngày hành động tôn
giáo". Hôm đó những người dị giáo gồm những người Do Thái, những người Mô
và bất kì ai mang tội phản đạo, sẽ bị trừng phạt vì các tội lỗi của mình, - một
số bị thiêu trên ngọn lửa ở Quênanđêrô; số khác phải công khai thừa nhận các
tội lỗi ghê gớm của mình trước khi họ bị giam giữ suốt đời trong các ô tù cá
nhân; số còn lại sẽ bị bóp chết rồi sau đó xác bị ném vào lửa. Người ta đã biết
rằng Giôn Caxten sẽ được dành một vị trí xứng đáng trong ngày đó.
Macgaret quỳ lạy khóc xin hoàng hậu tha cho bố nàng,
nhưng nước mắt nàng tác động lên trái tim bà không khác gì giọt nước rơi lên
viên kim cương. Dịu dàng, dễ thương người trong một số vấn đề, nhưng khi việc
liên quan tới tôn giáo thì bà trở thành ranh ma như con cáo và độc ác như con
hổ. Thậm chí bà còn bực mình với những lời cầu xin của Macgaret. Không lẽ bà
làm chừng ấy cho Macgaret còn chưa đủ? Không lẽ bà không giữ lời hứa với tư
cách là hoàng hậu của mình, rằng nếu bị kết tội, bà cũng không tước của bị cáo
những tài sản mà ông ta đang có ở Tây Ban Nha? Không lẽ bà không hứa sẽ không
áp dụng đối với Macgaret những hình phạt mà theo luật pháp và phong tục nước
bà, con cái những người phạm tội như thế sẽ gánh chịu? Lẽ nào Macgaret không
được kết hôn cùng người yêu của mình, và nếu còn sống, anh ta cùng nàng sẽ được
về nước trong danh dự? Thậm chí bà không bắt nàng phải chứng kiến cảnh bố nàng
phải đền tội. Với tư cách một con chiên Cơ Đốc ngoan đạo, lẽ ra nàng phải vui
mừng mới phải, bây giờ bố nàng đã có điều kiện khuất phục linh hồn mình trước
Chúa và số phận. Ông ta sẽ là bài học tốt cho những kẻ dị giáo. Hay có thể
chính nàng cũng là một người phản đạo?
Hoàng hậu bừng bừng tức giận cho đến khi cuối cùng,
hoàn toàn mỏi mệt và thất vọng, Macgaret bỏ đi, tự hỏi mình một tôn giáo có thê
được gọi là tốt không, khi nó yêu cầu con cái phải tố giác bố mẹ và bắt bố mẹ
phải chịu nhiều đau khổ? Đức Chúa và các tông đồ của Ngài nói về điều ấy ở chỗ
nào? Còn nếu điều đó không được nói tới, thì ai nghĩ ra nó?
- Hãy cứu lấy bố! Cứu lấy bố! - Macgaret thất vọng
khóc với Pitơ. - Hãy cứu lấy bố, nếu không em thề với anh, rằng dù em có yêu
anh đến đâu, và dù chúng ta đã làm lễ cưới với nhau, anh cũng sẽ không bao giờ
là chồng em.
- Em nói thế không đúng, - Pitơ lắc đầu, - vì có
phải anh đưa bố vào tay những con quỷ ấy đâu? Có lẽ anh thà chết như bố thì
hơn. Nhưng dù sao, anh sẽ cố làm tất cả những điều mà con người có thể làm được
để cứu bố.
- Không, không! - Macgaret kêu to. - Anh không được
làm gì cả, kẻo lại chuốc vạ vào thân!
Nhưng Pitơ đã bỏ đi không nghe nàng nói.
Đêm hôm ấy, Pitơ ngồi trong căn phòng nhỏ bí mật ở
một trong những phố làm nghề bánh mì ở Xêvin. Ngoài chàng, ở đây còn có một vài
người nữa - đó là cha Enrikê, nay là thư kí của tòa án dị giáo, mặc thường
phục, Inex, Becnanđex và ông lão Do Thái Ixraen từ Granđã tới.
- Tôi đã đưa lão tới đây, - Inex nói, chỉ tay vào
cha Enrikê, - không cần biết tôi làm điều đó bàng cách nào, các ông cứ tin rằng
đây là một việc khá mạo hiểu mà không lấy gì làm thích thú lắm. Để rồi xem có
được ích lợi gì không?
- Không ích lợi gì hết, - cha Enrikê trâng tráo nói,
- ngoài việc tôi cho vào túi của tôi mười đồng tiền vàng.
- Một nghìn đồng tiền vàng, nếu ông bạn của chúng tôi được cứu
thoát nguyên vẹn và lành lặn, - Ixraen khẽ nói. - Ôi, lạy Chúa! Ông thử nghĩ
xem - một nghìn đồng tiền vàng!
Đôi mắt của viên thư kí tòa án dị giáo ánh lên.
- Số tiền ấy đối với tôi sẽ không thừa, - lão nói, -
và trong vòng độ mười năm địa ngục sẽ bớt thêm một tên Do Thái bẩn thỉu, nhưng
quả tình tôi không biết làm điều ấy bằng cách nào. Nhưng tôi biết một điều
khác, là tất cả các ông cũng sẽ chung một số phận như hắn, vì hối lộ nhân viên
tòa án dị giáo là một tội vô cùng lớn.
Nghe thế, Becnanđex sợ tái mặt, Ixraen thì bắt đầu
cắn móng tay, nhưng Ixraen lại vỗ vào vai linh mục.
- Ông định phản bội chúng tôi chắc? - Nàng hỏi bằng
cả giọng dịu dàng của mình. - Ông hãy nghe tôi nói đây: Tôi có biết đôi điều về
các loại thuốc độc, và xin thề với ông rằng nếu ông định làm điều gì đấy hại
chúng tôi, thì chưa đầy một tuần sau ông đã phải co quắp mà chết, và sẽ không
ai biết được ai đầu độc ông. Hoặc tôi có thể phù phép ông - ông biết đấy, tôi
sống hàng chục năm giữa những người Mô không phải vô ích, lúc ấy đầu ông sẽ
phình to, người ông sẽ teo lại còn miẹng ông thì phun ra những lời phản đạo mà
ông không hề biết, cho đến khi người ta đem ông thui trên ngọn lửa giàn thiêu.
- Cô sẽ phù phép tôi à? - Cha Enrikê run run hỏi
lại. - Chính hôm nay cô đã phù phép tôi, nếu không làm sao cô có thể bắt tôi
đến đây được?
- Vì thế, nếu không muốn sớm về chầu thế giới bên
kia, - Inex vừa nói tiếp, vừa dịu dàng vỗ vào vai lão, - thì ông hãy suy nghĩ
đi, suy nghĩ nhiều vào, và hãy tìm một lối thoát nào đó, tên đày tớ trung thành
của tòa án dị giáo ạ.
- Một nghìn đồng tiền vàng! Một nghìn đồng! - Ông
già Ixraen dằn đi dằn lại từng tiếng. - Nhưng nếu ông không tìm được cách gì đó
giải thoát cho ông bạn của chúng tôi, thì sớm hay muộn, bây giờ hay một tháng
nữa, cái chết, một cái chết từ từ và đau đớn sẽ đến với ông.
Bây giờ thì cha Enrikê đã lo sợ một cách thực sự.
- Các ông không có điều gì phải lo sợ về tôi, - lão
nói, giọng khàn khàn.
- Tôi lấy làm mừng rằng cuối cùng ông đã hiểu chúng
tôi, ông bạn thân mến ạ, - Inex lại nói rằng cái giọng nhẹ nhàng và pha chút
giễu cợt của mình. Như một ác thần, nàng luôn đứng phía sau lão linh mục. Nàng
lại nhẹ nhàng vỗ vai lão, nhưng lần này bằng lưỡi của con dao găm sắc nhọn. -
Còn bây giờ thì phải nhanh chóng cho chúng tôi biết kế hoạch của ông ra sao.
Muộn rồi đấy, vào giờ này tất cả các vị thánh như ông đã đến lúc đi ngủ.
- Tôi chẳng có kế hoạch gì cả. Cô hãy tự mình nghĩ
lấy! - Lão giận dữ đáp.
- Tốt lắm, ông bạn ạ, tốt lắm. Thế thì tôi xin chia
tay với ông, vì có lẽ chúng ta sẽ không còn gặp nhau trên đời này nữa.
- Cô định đi đâu chăng? - Cha Enrikê lo lắng hỏi.
- Vào cung vua, để gặp Môrela và gặp một người bạn
và là người bà con của ông ta. Ông hãy nghe tôi nói đây. Người ta có thể tha
thứ cho tôi tội dính vào vụ đám cưới giả kia, nếu tôi cho họ biết rằng có một
vị linh mục đểu giả nào đó đã biết rằng hắn sẽ làm trò bịt mắt chú rể. Tôi sẽ
có cách chứng minh điều tôi nói. Tôi hi vọng ông còn nhớ rằng ông đã kí giấy
nhận tiền tôi giao. Sau đó thì ông cũng dễ hình dung chuyện gì sẽ xảy ra với
một vị linh mục đã chuốc lấy sự căm thù của một nhà đại quý tộc Tây Ban Nha và
một người bà con có thế lực khác của ông ta.
- Tôi là người của tòa án dị giáo, vì vậy không ai
dám động đến tôi! - Lão kêu lên.
- Tôi nghĩ là sẽ có một dám làm điều đó. Nhà vua
chẳng hạn.
Cha Enrikê bất lực ngã người vào lưng ghế. Bây giờ
thì lão hiểu người bà con có thế lực của Môrela mà Inex ám chỉ là ai. Lão biết
lão đã mắc bẫy.
- Ngày chủ nhật, buổi sáng, - lão khẽ nói bằng giọng
khàn khàn, - đoàn tội phạm sẽ được dẫn đi quan các phố để tới quảng trường nhà
hát, nơi sẽ có lễ cầu hồn cho những người phải đi tới Quêmanđêrô. Khoảng tám
giờ, trong một thời gian ngắn, đoàn tội phạm sẽ đi dọc bờ biển, là nơi ít người
xem nên không có lính canh. Nếu cho độ mười người khỏe mạnh và dũng cảm giả mặc
làm nông dân chờ ở đấy, có sẵn thuyền, thì có thể họ sẽ giải thoát được... -
lão im lặng không nói tiếp.
Suốt buổi ngồi im theo dõi, bây giờ Pitơ mới
lên tiếng nói:
- Nếu thế thì, thưa cha, làm sao những con người
dũng cảm kia có thể biết được đâu là người mà họ phải cứu?
- Tên phản đạo Giôn Caxten, - lão linh mục đáp, - sẽ
ngồi trên lưng một con lừa, mình khoác chiếc áo nhục nhã được làm từ da con cừu
có vẽ các hình quỷ sứ và những cái đầu bốc lửa. Tôi biết vẽ nên đã tự mình vẽ
tất cả những hình ấy một cách công phu và rất đẹp. Vả lại, chỉ một mình ông ta
bị đeo một chiếc thòng lọng trên cổ, nên lại càng dễ nhận thấy.
- Tại sao ông Caxten ngồi trên lưng lừa? - Pitơ giận
dữ hỏi. - Có phải vì các ông tra tấn ông ấy đến mức không đi nổi không?
- Không, không! - Cha Enrikê vội nói, co rúm người
dưới cái nhìn rực lửa của Pitơ. - Ông ấy không bị tra hỏi một lần nào, và cũng
không một lần nào bị đánh đập. Thưa hiệp sĩ, tôi xin thề với ông như thế! Chẳng
cần thiết phải làm điều ấy vì Caxten đã công khai công nhận mình là một tên Do
Thái hèn hạ.
- Khi nói năng nên cẩn thận, ông bạn, - Inex ngắt
lời và xuê xoa vỗ vào vai lão. - ở đây có những người không cùng chung quan
điểm với các ông ở tòa án dị giáo. Thưa ngài linh mục đầy quyền uyên bác, xin
ngài hãy dạy cho mình cái phép lịch sự, không thì khi ra khỏi nhà này, người
ngài sẽ dài thêm đến cả một khủy tay cơ đấy!
- Nói tiếp đi! - Pitơ ra lệnh cho lão.
- Vả lại, có lệnh không được tra tấn ông ấy, - Cha
Enrikê run run nói tiếp. - Các quan trọng trong tòa án dị giáo cho rằng - tất
nhiên về phía họ như thế là không tốt, ông ấy có những người cùng mưu ở đây, và
rồi tên tuổi những người ấy ông Caxten sẽ phải nói ra, nhưng trong lệnh nói rõ
ràng ông ấy suốt một thời gian dài sống ở nước Anh và vừa mới tới Tây Ban Nha,
nên không thể có đồng bọn được. Vì vậy mà ông Caxten vẫn còn nguyên vẹn và lành
lặn. Tôi được biết rằng chưa bao giờ từng có một người Do Thái tội lỗi nào đi
tới ngọn lửa giàn thiêu một cách đàng hoàng như thế, dù trước đây nổi tiếng
giàu có và đáng kính đến đâu chăng nữa.
- Thế thì may cho ông, nếu ông không nói dối, - Pitơ
đáp. - Nói tiếp đi!
- Ngoài ra chẳng còn gì để nói. Tôi có thể nói thêm
rằng lúc ấy tôi sẽ đi bên cạnh ông Caxten cùng hai người lính gác và tất nhiên
nếu ông ta bị bắt đi, lại không có sẵn thuyền để đuổi theo, chúng tôi đành bó
tay. Chả là, những người làm việc trong nhà thờ, hiền lành và không hiếu chiến
như chúng tôi, thậm chí có thể bỏ chạy khi thấy một hành động thô lỗ nào đó.
- Tôi khuyên ông nên chạy thật nhanh và thật xa, -
Pitơ bảo lão. - Nhưng Inex này, có cái gì để đảm bảo rằng Đức cha đây sẽ không
lừa dối chúng ta? Vì ngài có thể đưa vào bẫy bất kì người nào.
- Một nghìn đồng tiền vàng, một nghìn đồng, - ông
già Ixraen lặp đi lặp lại như một con vẹt ngái ngủ. - Có thể ông ta còn hi vọng
kiếm được nhiều tiền hơn thế từ cái chết của chúng ta đấy, Inex ạ. Trong trò
chơi này, cô thông thạo hơn chúng tôi, ý kiến của cô thế nào, Inex? Làm sao
chúng ta có thể bắt ông ta giữ đúng lời hứa được?
- Tôi nghĩ chỉ có cái chết mới làm nổi điều ấy. -
Becnanđex nói. Ông hiểu rất rõ mối nguy hiểm đang đe dọa ông với tư cách là
cộng sự và là người bà con của Caxten, cũng như với tư cách là người đứng tên
chủ chiếc tàu "Macgaret" mà Caxten sẽ dùng để chạy trốn. - Chúng tôi
đã biết tất cả những điều ông ta có thể cho biết, và nếu được thả ra, sớm hoặc
muộn ông ta sẽ phản bội chúng ta. Giết quách đi, để ông ta không còn làm vướng
đường chúng ta, còn xác thì cho vào bếp lò.
Nghe thế, cha Enrikê liền quỳ mọp xuống đất và bắt
đầu khóc than xin tha chết.
- Ông còn khóc nỗi gì? - Inex vừa hỏi vừa nhìn lão bằng
đôi mắt trầm ngâm. - Vì cái chết của ông còn nhẹ nhàng hơn nhiều so với cái
chết mà tòa án các ông đổ xuống đầu những người đàn ông và những người đàn bà
tử tế hơn ông gấp nghìn lần. Riêng tôi thì tôi nghĩ rằng lời khuyên của ông
Becnanđex là rất đáng nghe theo. Thà để một mình ông chết còn hơn tất cả chúng
tôi phải chết. Ông cũng thừa biết chúng tôi không thể tin ông. Có ai có đoạn
dây thừng nào không nhỉ?
Cha Enrikê liền bò dưới chân Inex và vừa hon gấu váy của nàng, vừa
luôn mồm nhân danh các thánh xin nàng tha chết. Vì yêu nàng mà lão mắc vào cái
bẫy này, lão nói thế.
- Ông yêu tiền thì đúng hơn, đồ khốn nạn! - Inex
dùgn mũi giầy hất lão ra. - Khi đi đường với nhau và cả trước đây nữa, tôi bắt
đầu buộc phải nghe những lời yêu đường lảm nhảm của ông, nhưng bây giờ mà nói
những lời như thế ở đây thì thật không đúng chỗ. Nếu lần nữa, ông lại nói đến
tình yêu, thì lập tức ông sẽ bị ném vào bếp lò của người làm bánh này. Thôi,
ông đã quên, nhưng tôi thì tôi còn nhớ rằng ông đang nợ tôi một món rất lớn. Trước
khi Môrela thưởng công cho ông đã nhiệt tình giúp đỡ bằng cách cho ông về
Môtrin để trở thành một trong những tay chân của hắn, thì ông đã có dính tới
công việc của tòa án dị giáo ở đây. ở Xêvin này, đúng thế không? Tôi có một
người chị gái... - Inex cúi xuống khẽ nhắc tên người ấy vào tai lão.
Lão kêu lên một tiếng kinh sợ.
- Tôi hoàn toàn không liên quan gì tới cái chết của
bà ấy! - Lão vội cãi - Một người nào đấy khác đã vu khống bà ấy vào trao bà ấy
vào tay các quan chức tòa án dị giáo.
- Vâng, tôi biết người ấy là ông. Ông, một thằng
khốn nạn với tâm hồn của một con rắn độc. Vì tức giận chị tôi, ông đã đưa ra
những chứng cứ giả dối. Chính tự ông đã mật báo về Caxten, nói rằng khi ở nhà
ông ở Môtrin, ông ta đã đi ngang qua cây thánh giá mà không cúi chào. Chính ông
đã thuyết phục cấp trên hỏi cung ông ta, nói rằng ông ta giàu và các bạn của
ông ta cũng giàu nên có thể moi được của họ một số tiền không nhỏ. Chính ông
cũng nghĩ tới việc sẽ nhận được phần mình, phải không? Tôi biết hết mọi chuyện.
Thậm chí cả những việc xảy ra trong nhà tù của tòa án dị giáo cũng lọt đến tai
Inex này. Thế nào, ông vẫn cho rằng bếp lò của người làm bánh quá nóng với ông
à?
Đến lúc này thì vì sợ, cha Enrikê líu lưỡi không nói
được gì nữa. Lão nằm trên sàn nhà, liếc nhìn người đàn bà có trái tim sắt đá và
giọng nói dịu dàng này. Inex đã lừa lão và biến lão thành vũ khí của mình. Nàng
đã lôi lão tới đây, nàng căm thù lão, và căm thù không phải không có nguyên cớ.
- Có lẽ tốt hơn ta không nên làm bẩn tay bằng cách
giết hắn, - Pitơ nói. - Chẳng có gì thích thú khi phải bóp cổ một con chuột. Có
thể thả nó ra để theo dõi. Còn cách nào nữa không Inex?
Inex suy nghĩ một chốc rồi lấy chân đá vào cha
Enrikê.
- Dậy đi ông thư kí tòa án dị giáo, dậy và ngồi
xuống viết đi. Viết lách không phải là việc khó đối với ông. Bút mực đây. Tôi
sẽ đọc cho ông viết.
Em Inex thân mến!
Bức thư của em mà anh rất mong đợi cuối cùng đã tới
được ngôi nhà thiêng liêng đáng nguyền rủa này với anh, nơi bọn anh đang gột bỏ
các tội lỗi khỏi những tên phản đạo vì sự cứu rỗi linh hồn chúng và tước đoạt
của cải chúng vì lợi ích của bọn anh...
- Tôi không thể viết được. - Cha Enrikê rên lên, -
đây là một điều phản đạo ghê gớm.
- Không, đây là sự thật. - Inex đáp.
- Điều phản đạo và sự thật nhiều khi chỉ là một. Tôi
có thể sẽ bị thiêu sống vì thế.
- Đó cũng chính là điều mà người ngoại đạo khác nhắc
tới. Họ phải chết vì sự thật, tại sao ông không thể chết như họ? Hãy nghe đây,
- Inex nói, giọng càng nghiêm khắc. - Thế nào: ông muốn chết trên ngọn lửa giàn
thiêu ở Quêmanđêrô - điều này sẽ xảy ra ngay sau lúc ông phản bội chúng tôi,
hay ông muốn bị đốt cháy một cách khiêm tốn hơn trong bếp lò của người làm bánh
độ nửa tiếng nữa? Viết tiếp bức thư của mình đi, ông bác học thông thái! Ông đã
viết xong những gì tôi đọc rồi chứ? Nào, bây giờ xin tiếp tục:
Anh đã hiểm tất cả những điều em nói với anh về
phiền tòa ở Ancasa có Đức vua và hoàng hậu tham dự. Anh hi vọng cô người Anh
kia sẽ thắng cuộc. Đó là một trò đùa thật dáng yêu mà anh đã chơi khăm với lão
hầu tước đáng kính ở Granađa. Những trò đùa tinh tế kiểu ấy thậm chí bọn Anh ở
đây, ở tòa án dị giáo này, cũng không có. Tốt lắm, lão hầu tước nợ anh, và thế
là anh đã bắt hắn trả đầy đủ. Anh những muốn được nhìn thấy cái mặt của hắn khi
hắn nhận thấy người vợ mới cưới của mình là cô hầu, còn bà chủ thì đã bỏ chạy
với một thằng khác. Cháu của một ông vua, đang mơ ước trở thành Đức vua, thế mà
lại lấy một con hầu người Anh làm vợ! Tốt lắm, tốt lắm, em Inex thân yêu ạ. Còn
về tên Do Thái Giôn Caxten kia thì anh nghĩ anh có thể lo liệu được, chỉ cần có
tiền, vì em biết đấy,anh không bao giờ làm điều gì cả, nếu không có tiền. Nghĩa
là...
Tiếp theo, với một sự mạch lạc tuyệt vời, Inex
đã đọc cho hắn chép cái kế hoạch cứu thoát Caxten của hắn mà bạn đọc đã biết.
Cuối cùng, nàng kết thúc bức thư như sau:
Những tên làm việc trong tòa án dị giáo ấy là những
con thú khát máu. tất cả những lời nói tốt đẹp của chúng về cuộc đấu tranh vì
sự trong sạch của giáo hội chẳng qua chỉ là làn gió thổi trong khe núi, và
chúng cũng nghĩ về giáo hôi không nhiều hơn ngọn núi nghĩ về con gió. Chúng
muốn tra tấn ông già đáng thương ấy, vì nghĩ có thể moi được ở ông ta những
đồng tiền vàng, nhưng anh đã viết can thiệp đúng lúc, nên mưu gian của chúng
không thành. Em yêu, anh phải dừng bút ở đây và đã đến lúc phải đi có việc,
nhưng anh hi vọng sẽ được gặp em như ta đã thống nhất trước, và chúng ta sẽ ở
bên nhau một đêm vui vẻ. Cho anh gửi lời hỏi thăm ông hầu tước mới lấy vợ, nếu
em gặp ông ấy.
Enrikê của em.
TB: Cái công việc của anh đang làm cũng không kiếm được
nhiều tiền như em tưởng, vì vậy anh sẽ rất vui mừng nếu được kiếm tiền chút
đỉnh đâu đó bên ngoài để có tiền mua cho em món quà mà đôi mắt xinh đẹp của em
ánh lên mỗi lần nhìn thấy.
- Thế đấy! - Inex khẽ nói. - Tôi nghĩ chừng ấy cũng
quá đủ để đưa ông lên giàn thiêu ba hoặc bốn lần. Hãy đưa tôi đọc lại nào: tôi
muốn kiểm tra xem ông viết có đúng không, và đã kí tên chưa, vì trong những
trường hợp thế này, nét chữ của người viết sẽ rất quan trọng. Được, tốt lắm.
Bây giờ thì ông đã biết rằng, nếu ông không thực hiện lời hứa, hay nói một cách
khác, nếu Giôn Caxten không được cứu thoát hoặc ai đấy biết được âm mưu nho nhỏ
này của chúng ta, thì lập tức bức thư này sẽ được gửi tới nơi cần gửi, và một
ông thư kí tòa án dị giáo nào đó sẽ lấy làm tiếc rằng ông ta đã sinh ra trên
đời. Ông sẽ chết, - nàng nói bằng cái giọng thì thầm dễ sợ của mình, - chết một
cách từ từ, đau đớn như chị gái tôi đã chết.
- Một nghìn đồng tiền vàng, nếu thành công và ông
còn sống để nhận số tiền ấy, - Ixraen
nói. - Tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình. Cái chết, sự nhục nhã và các
đòn tra tấn hay một nghìn đồng tiền vàng? Ông chọn đi! Bây giờ thì ông đã biết
rõ điều kiện củ chúng ta. Ông Becnanđex, ông hãy lấy băng bịt mắt cha Enrikê
lại rồi dẫn ông ta ra khỏi đây, chứ không ông ta làm ô nhiễm không khí căn
phòng này mất. Nhưng trước hết Ixraen đi giấu bức thư đã. Cô biết giấu ở đâu
rồi đấy.
Cũng đêm hôm ấy, có hai người trùm áo choàng dài đi
trên một chiếc thuyền nhỏ đi về phía tàu "Macgaret", đó là Pitơ và
Becnanđex. Cột thuyền xong, họ leo lên tàu và đi vào ca bin. Thuyền trưởng Xmit
đang đợi họ ở đấy. Viên thuyền trưởng già dũng cảm rất vui mừng khi gặp lại
Pitơ. Ông ôm chặt chàng vào vòng tay của mình. Đây là lần đầu họ nhìn thấy nhau
kể từ ngày Pitơ liều mạng nhảy sang tầu "Xanh Antôniô".
- Tàu đã sẵn sàng đi ra biển rồi chứ? - Pitơ hỏi.
- Chưa bao giờ nó sẵn sàng như lúc này, - viên
thuyền trưởng đáp. - Khi nào tôi sẽ nhận được lệnh kéo buồm.
- Khi ông chủ Caxten có mặt trên tàu, - Pitơ đáp.
- Nếu thế thì chúng ta sẽ phải chết ở đây, vì ông ấy
đã rơi vào tay tòa án dị giáo. Các ông có kế hoạch nào không. Pitơ? Đã nghĩ ra
cách gì chưa? Có hi vọng gì không?
- Có, thưa ông thuyền trường, tôi hi vọng sẽ thành công, nếu có
được độ mươi chàng trai người Anh khỏe mạnh.
- Muốn hơn nữa cũng có. Nhưng kế hoạch của ông thì
sao?
Pitơ kể cho thuyền trưởng Xmit nghe tất cả.
- Không đến nỗi quá tồi, - vừa nói, ông thuyền
trưởng vừa đấm nắm tay của mình xuống đầu gối, - nhưng mạo hiểm, rất mạo hiểm.
Cái cô Inex này chắc phải là một người tốt lắm. Tôi sẵn sàng cưới cô ta làm vợ
mà không cần biết quá khứ của cô ta là gì.
Pitơ phá lên cười, thử hình dung trong đầu ông ta và
Inex sẽ là một cặp vợ chồng thế nào.
- Ông hãy nghe tôi nói hết đã, - chàng nói tiếp. -
Thứ bảy này tôi và Macgaret sẽ làm lễ cưới với nhau, sau đó, trước khi mặt trời
lặn, tôi và hầu tước Môrela sẽ đấu kiếm ở sân vận động lớn, nơi các cuộc đấu bò
thường được tổ chức. Ông và khoảng năm sáu thủy thủ nữa sẽ có mặt lúc ấy. Tôi
có thể thắng mà cũng có thể chết...
- Không! Không bao giờ! - Viên thuyền trưởng kêu
lên. - Tôi thì tôi chẳng đêm đánh đổi, thậm chí cả một đôi giày cũ để lấy cái
gã Tây Ban Nha hào nhoáng kia. Ông sẽ thắng hắn, tất nhiên, mà thắng một cách
vẻ vang!
- Có trời biết được, - Pitơ đáp. - Nếu tôi thắng,
tôi và vợ tôi sẽ từ biệt vua và hoàng hậu rồi đi ra phía bờ sông, nơi có thuyền
đang đợi sẵn, và các ông sẽ đưa tôi tới tàu "Macgaret". Nếu tôi chết,
cũng bằng cách này, các ông đưa xác tôi lên tàu. Tôi muốn xác tôi được ướp
trong rượu nho rồi đem về Anh chôn. Trong trường hợp nào các ông cũng phải cho
tàu đi xuôi theo dòng sông ra cửa biển để chúng nghĩ các ông đã rời Tây Ban Nha
về nước. Khi thủy triều lên, lợi dụng bóng tối, các ông quay trở lại cho tàu
nấp sau những chiếc tàu cũ đã hỏng. Nếu có ai hỏi vì sao các ông quay lại thì
hãy nói rằng có ba bốn thủy thủ còn chưa lên tàu nên phải quay lại tìm, hay có
thể nghĩ ra một cớ gì khác. Sau đó, trong trường hợp nếu tôi bị giết, ông cùng
mười thủy thủ khỏe và dũng cảm nhất đổ bộ lên bờ. Chỗ nào thì ông Becnanđex sẽ
chỉ cho các ông. Mọi người phải mặc quần áo Tây Ban Nha để khỏi bị nghi ngờ, và
nhớ trang bị vũ khí thật đầy đủ. Các ông phải giả vờ làm những người vô công
rồi nghề từ một con tàu nào đó lên bờ xem thi đấu. Tôi đã giải thích cho ông
biết cách nhận ra Caxten như thế nào. Vừa thấy ông ta, các ông phải ập đến và
chém chết bất cứ người nào định cản các ông lại, đưa ông ấy xuống thuyền rồi ra
sức chèo tới tàu. Khi thấy các ông tới gần, các thủy thủ trên tàu phải nhanh
chóng nhổ neo và kéo buồm. Kế hoạch là thế, nhưng chỉ một mình Chúa biết liệu
có thành công không. Tất cả phụ thuộc vào vận may và những người thủy thủ của
chúng ta. Ông đồng ý tham gia việc này vì tình yêu đối với một con người tốt
đẹp và vì tất cả chúng tôi chứ? Nếu thành công, các ông sẽ trở thành giàu có suốt
đời.
- Vâng, - viên thuyền trưởng đáp. - Bàn tay của tôi
đây. Nếu sức người có thể làm được, chúng tôi sẽ cứu thoát ông ta khỏi cái địa
ngục này. Điều này cũng rõ ràng như tên của tôi là Xmit. Và tôi sẽ hành động
không phải vì tiền. Bao lâu nay chúng tôi vô công rồi nghề chờ các ông và tiểu
thư Macgaret ở đây, nên sẽ vui mừng nếu có dịp được giãn gân cốt. ít ra thì
trước khi việc này kết thúc sẽ có mấy thằng Tây Ban Nha phải bỏ xác trên bờ.
Còn nếu thất bại, tôi sẽ để lại một người thuyền phó và một số thủy thủ để đưa
tàu về Tinburi. Nhưng chúng ta sẽ tháng, tôi tin chắc như thế. Một tuần nữa,
cũng vào giờ này, tàu chúng ta sẽ đi qua vịnh Bixcây, và sẽ không có một tên
Tây Ban Nha nào ở cách chúng ta ba trăm dặm. Tất nhiên trên tàu có ông, vợ và
ông chủ Caxten. Tôi nói thế, nghĩa là tôi biết chắc như thế.
- Vì sao ông biết được? - Pitơ tò mò hỏi.
- Vì đêm qua tôi đã mơ thấy tất cả những điều ấy.
Tôi thấy ông và tiểu thư Macgaret ngồi cạnh nhau, ôm ấp, âu yếm như đôi chim bồ
câu. Còn tôi thì đứng nói chuyện với ông chủ. Trong lúc ấy mặt trời đã lặn, gió
thổi từ phía tây nam tới và một cơn giông đang sắp sửa ập đến. Tôi nói với ông
rằng tôi đã mơ thấy tất cả những điều ấy, mà tôi thì ít khi mơ thấy điều gì.
Chương
XXIV
CHIM ƯNG TẤN CÔNG
C
|
uối
cùng, ngày tổ chức lễ cưới của Macgaret và Pitơ đã tới. Chàng cưỡi ngựa đi ra
từ cổng nhà tù, và theo lệnh, chàng dừng lại ở cổng lâu đài hoàng hậu. Chàng
mặc toàn đồ trắng, mang khiên giáp màu trắng do hoàng hậu gửi tặng với hàm ý
chúc chàng thắng lợi trong cuộc dấu với Môrela. Cổ chàng đeo ruybăng và huân
chương hiệp sĩ Xanhlôga. Trên khiên chàng có vẽ hình một con chim ưng đáp xuống
- đó là biểu tượng của Pitơ. Trên chiếc áo khoác trắng của chàng cũng có hình
một con chim ưng như thế. Cưỡi ngựa đi sau chàng là một nhà quý tộc danh giá
tay cầm cây giáo và chiếc mũ sắt có cắm những lông chim của chàng. Chàng và
người này có cả một đoàn lính của vua đi theo hộ tống.
Cổng lâu đài mở rộng, và Macgaret cỡi một con ngựa
trắng tuyệt đẹp có bộ yên cương bằng bạc đi ra. Chiếc khăn che mặt được nâng
lên một chút đủ để nhìn thấy khuôn mặt nàng. Nàng được những bà quý phái cũng
cưỡi ngựa trắng đi theo. Đi theo nàng còn có cả một người, hầu như lấn át nàng
bằng bộ quần áo lộng lẫy của mình. Đó là Bêti, nữ hầu tước Môrela - ít ra thì
tạm thời có thể như thế - cùng đám tùy tùng đông đảo của mình.
Mặc dù Macgaret không bao giờ được gọi khác ngoài
hai từ xinh đẹp, thế mà hôm nay khi cúi chào chú rể trước cổng lâu đài, trông
nàng có vẻ mệt mỏi và nhợt nhạt. Điều này chẳng có gì đáng lạ, vì nàng biết chỉ
ít giờ nữa con bài mạng sống của Pitơ sẽ được đặt lên bàn chơi của một cuộc
huyết chiến, còn ngày mai bố nàng sẽ bị thiêu sống trên giàn thiêu ở
Quêmanđêrô.
Pitơ và Macgaret gặp nhau, chào nhau; tiếng kèn đồng
vang lên, và cả đoàn người lộng lẫy bắt đầu đi theo các phố hẹp của thành
Xêvin. Cả hai người thậm chí không nói chuyện với nhau, dù chỉ ít lời, vì trái
tim họ đã quá tràn đầy, và vị họ đã nói khôngết với nhau những điều cần nói.
Bây giờ họ chờ đợi phần kết của câu chuyện. Tuy nhiên, Bêti, người được nhiều người trong đám đông tưởng nhầm
là cô dâu vì trông cô ta hạnh phúc hơn nhiều, lại không thể im lặng nổi. Cô ta
trách Macgaret không vui mừng trong ngày thế này.
- Ôi! Bêti, Bêti! - Macgaret đáp, - làm sao tôi có
thể vui được khi trái tim đôi đang nặng trĩu vì những gì sẽ xảy ra ngày mai?
- Ngày mai thế nào thì kệ nó! - Bêti kêu lên. - Với
tôi, cái nặng trĩu của ngày hôm nay cũng quá đủ, thế mà tôi chẳng buồn. Trong
đời, chúng ta chưa bao giờ được cưỡi
ngựa đi thế này, khi mọi người đang nhìn chúng ta, và bất cứ người đàn bà nào ở
Xêvin cũng ghen tị với chúng ta và với sự sủng ái của hoàng hậu đối với chúng
ta.
- Tôi nghĩ họ chỉ nhìn và ghen tị với cô thôi, - Macgaret nói rồi
đưa mắt nhìn người đàn bà lộng lẫy đang đi cạnh nàng.
Nàng hiểu rằng sắc đẹp của Bêti đã lấn át sắc đẹp
nàng - ít ra thì dưới con mắt của đám đông trên phố là vậy - như bông hồng rực
rỡ dưới ánh mặt trời làm lu mờ bông huệ trắng.
- Có thể, Bêti mỉm cười. - Nếu đúng thế thì chỉ vì
tôi nhìn đời một cách nhẹ nhàng hơn, và thậm chí tôi biết cười cả vào lúc trái
tim tôi đang chảy máu. Suy cho cùng thì địa vị của cô chắc chắn hơn địa vị của
tôi nhiều. Nếu chồng cô bao giờ sắp lao vào cuộc đấu một mất một còn, thì chồng
tôi cũng vậy. Thế mà nói riêng với nhau, tôi nghĩ Pitơ sẽ thắng. Anh ta là một
con người kiên nhẫn và khỏe mạnh lạ lùng, đến mức khó có người Tây Ban Nha nào
sánh kịp.
- Vâng, đúng thế, - Macgaret khẽ mỉm cười nói. - Pitơ là người bảo
vệ danh dự cho cô, và nếu chàng thua, thì suốt đời cô bị xem là một người hầu
gái không họ hàng, quên quán.
- Tôi từng là một người hầu gái, hay ít ra cũng gần như thế, - Bêti
trầm tư nói, - còn về dòng họ thì quả đúng như tôi nói. Nhưng để bù lại, tôi có
thể đứng vững ở nơi người khác phải quỵ ngã. Vì vậy, tất cả những điều này
chẳng làm tôi lo lắng mấy. Tôi chỉ lo lắng một điều, là chuyện gì sẽ xảy ra nếu
người bảo vệ danh dự cho tôi giết chết chồng tôi?
- Thế cô không muốn Môrela bị giết chết à? -
Macgaret nhìn Bêti.
- Có lẽ không, - Bêti đáp bằng giọng run run, và
trong chốc lát cô ta ngoảnh mặt đi chỗ khác. - Tôi biết hắn là một thằng khốn
nạn, nhưng cô thấy đấy, bao giờ cô cũng căm thù hắn. Vì thế tôi không thể làm
điều gì để chống lại chính mình, nhưng dù sao tôi cũng muốn hắn phải đấu kiếm
với một người nào đấy khác, có cánh tay nhẹ hơn tay Pitơ. Vả lại, nếu hắn chết,
nhất định những người thừa kế của hắn sẽ sinh sự kiện cáo với tôi.
- ít ra thì bố cô ngày mai không bị đem thiêu trên
giàn thiêu, - Macgaret nói, để chuyển đề tài câu chuyện mà rõ ràng không lấy gì
làm thích thú lắm.
- Không, Macgaret ạ. Nếu bố tôi phạm tội thì chắc chắn người ta sẽ
thiêu sống ông, và có lẽ bây giờ ông vẫn tiếp tục cháy trong ngọn lửa địa ngục.
Nhưng có Chúa chứng giám, tôi sẽ chẳng bao giờ ném một cành củi nào vào ngọn
lửa thiêu ông. Nhưng bố cô có bị một mối nguy hiểm như thế đe dọa đâu, nên
chẳng việc gì cô phải đau buồn đến vậy.
- Sao cô nói thế? - Macgaret ngạc nhiên hỏi.
- Tôi không biết, nhưng tôi tin chắc Pitơ sẽ cứu
được ông Caxten ra khỏi tại họa này. Pitơ là một chiếc gậy mà người ta có thể
tựa khi sắp ngã, mặc dù anh ta trông thật khô khan và quá ít lời... Hãy nhìn
ngôi nhà thờ kia kìa, đẹp không? Cả một đám đông đang chờ chúng ta ở đó. Bây
giờ cô phải tươi lên mới được. Hãy cúi đầu và mỉm cười như tôi đây.
Họ tiến lại gần nhà thờ, và Pitơ liền xuống ngựa đỡ
người yêu của mình xuống. Cả đoàn người xếp thẳng hàng theo các chức bậc của
mình rồi tiến vào nhà thờ, được các chức sắc nhà thờ đi theo.
Macgaret chưa bao giờ vào nhà thờ này và sẽ chẳng
bao giờ còn thấy lại nó, nhưng hình ảnh của nó sẽ bám theo nàng suốt đời. Một
sự mát mẻ mờ tối sau ánh nắng mặt trời chói chàng; bảy lói đi lớn kéo dài đến
vô tận, rẽ ngang rẽ dọc trong nhà thờ; những cột đá ảm đạm vươn tít mãi trên
cao như những thân cây trong rừng vươn tới mặt trời; một thứ bong tối trang
nghiêm, mờ ảo được điểm xuyết bởi những tia sáng chiếu qua các cửa sổ trên cao;
khu bàn thờ mạ vàng lấp lánh; những tiếng hát, những ngôi mộ - tất cả như trùm
lấy nàng, đè xuống và in sâu dấu ấn trong tâm trí nàng.
Họ chậm chạp tiến lại gần các bậc thang của khu bàn
thờ khổng lồ. ở đây có rất nhiều người tới xem đợi sẵn. Và cũng ở đây, phía bên
kia, vua và hoàng hậu Tây Ban Nha đang ngồi. Bằng sự có mặt của mình, họ muốn
làm tăng danh giá thêm cho đám cưới này. Ngoài ra khi cô dâu tới hoàng hậu Ixraen
đứng dậy, cúi xuống hôn vào má nàng, như một cử chỉ đặc biệt yêu mến. Dàn đông
ca bắt đầu hát, nhạc nổi lên. Thật là cảnh tượng chỉ có ở một trong những nhà
thờ nổi tiếng nhất châu Âu. Tuy nhiên, nhìn những bộ quần áo lấp lánh của các
vị linh mục được gọi tới đây để làm lễ cưới cho nàng, và nhìn họ luôn đi lại để
thực hiện cái nghi lễ huyền bí này, Macgaret lại nghĩ về một hiện thực cũng
long trọng như thế nhưng được tổ chức vào ngày mai ở quảng trường lớn nhất của
thành Xêvin, nơi cũng chính những vị linh mục này sẽ đọc lời tuyên án nhiều
người - có thể trong số họ có bố nàng - để sau đó đưa họ lên giàn thiêu.
Tay cầm tay, Macgaret và Pitơ quỳ xuống trước bàn
thờ. Những sợi khói thơm bốc lên từ que hương đang lăc lư, tan dần trong bóng
tối mờ mờ. Cũng thế ngày mai ngọn khói của giàn thiêu sẽ ngùn ngụt bốc lên
trời. Cứ thế, nàng đứng yên bên cạnh chồng mình, người chồng mà cuối cùng nàng
đã giành được sau biết bao nhiêu đau khổ, và rất có thể mất đi trước khi màn
đêm buông xuống. Các linh mục lên tiếng hát, và vị giám mục mặc bộ quần áo lộng
lẫy cúi xuống đầu họ, khẽ nói những lời nói đúng nghi lễ hôn nhân. Ngón tay
nàng được đeo nhân, những lời thề được nói ra, lời chúc phước được ban cho họ.
Và thế là họ trở thành vợ thành chồng. Từ nay chia cắt nổi họ chỉ có thể là cái
chết, cái chết lúc này đang đứng kề bên họ.
Khi tất cả kết thúc, Macgaret và Pitơ đứng dậy, quay
người và trong chốc lát đứng sững lại. Macgaret đưa mắt nhìn quanh và bỗng
nhiên nàng nhìn thấy khuôn mặt ảm đạm của Môrela đang đứng cạnh giữa đám tùy
tùng của hắn. Hắn cũng nhìn nàng, rồi đi đến gần, hắn cúi thấp đầy khẽ nói:
- Chúng ta cùng tham gia chơi một trò chơi lạ lùng,
tiểu thư Macgaret ạ. Tôi rất muốn biết nó sẽ kết thúc thế nào. Tôi sẽ chết hôm
nay hay tiểu thư sẽ trở thành góa chồng? Trò chơi này được bắt đầu ở đâu? Không
phải ở đây, tôi nghĩ thế. Và ở đâu chúng ta sẽ được gặt cái mà chúng ta gieo
xuống? Đừng nghĩ xấu về tôi, vì tôi yêu tiểu thư mà tiểu thư thì không yêu tôi.
Hắn lại cúi chào, lúc đầu trước Macgaret, sau đó
trước Pitơ, rồi hắn bỏ đi không thèm chú ý tới Bêti đang đứng cạnh và đang nhìn
hắn bằng đôi mắt mở to, như thể cũng cố đoán xem rồi cái trò chơi này sẽ kết
thúc thế nào.
Được các quần thần bao quanh, vua và hoàng hậu đi ra
khỏi nhà thờ, theo sau là đôi vợ chồng mới cưới. Lại lần nữa họ leo lên mình
ngựa, và dưới ánh nắng chói chang của mặt trời phương nam, giữa tiếng hô chào
mừng của đám đông, họ đi về phía lâu đài, nơi bữa tiệc cưới đang chờ đợi họ. ở
đấy họ, đã được dành sẵn một chiếc bàn, chỉ thấp hơn một chút so với bàn của
vua và hoàng hậu. Bữa tiệc cưới thật linh đình và kéo dài rất lâu, nhưng
Macgaret và Pitơ hầu như không ăn gì, và không uống tí rượu nào, trừ cốc rượu
họ phải uống theo nghi lễ. Cuối cùng kèn đồng nổi lên, vua và hoàng hậu đứng
dậy. Bằng cái giọng thanh thanh của mình, vua tuyên bố rằng ngài không tạm biệt
khách khứa, vì chỉ chốc nữa tất cả sẽ lại gặp nhau, nhưng ở một chỗ khác. ở đấy
chú rể dũng cảm người Anh, nhằm mục đích bảo vệ danh dự cho vợ và một đồng bào
khác của mình, sẽ đấu kiếm sống chết với một trong những đại quý tộc Tây Ban
Nha, người đã bị người đồng bào kia của Pitơ buộc tội đã làm hại bà ta. Cuộc
đấu này, than ôi không phải là một cuộc mua vui, mà nó sẽ là một trận huyết
chiến.Vua nói, ngài không thể chúc ai trong hai người thắng cuộc, nhưng ngài
tin rằng, bất kì người Xêvin nào cũng không thể không có thái độ kính trọng đối
với cả người tháng lẫn người bại. Đồng thời ngài cũng tin cả hai đối thủ sẽ
xứng đáng là những hiệp sĩ dũng cảm của nước Tây Ban Nha và nước Anh.
Kèn đồng lại nổi lên, và các quan cận thần được chỉ
định tháp tùng Pitơ liền đi tới gần chàng, báo rằng đã đến lúc chàng phải mặc
áo giáp và chuẩn bị vũ khí. Cô dâu và chú rể đứng dậy, những người đứng quanh
liền tản ra hai bên để không nghe câu chuyện của hai người, nhưng vẫn tò mò
nhìn họ.
- Chúng ta chia tay, - Pitơ nói, - thế mà anh chẳng
biết nói gì.
- Chồng của em đừng nói gì cả, - Macgaret đáp. -
Những lời anh nói sẽ làm em yếu đuối. Anh đi đi, và hãy dũng cảm. Hãy chiên đấu
vì danh dự của anh, của em và của nước Anh. Sống hay chết, anh vẫn là người em
yêu, và sống hay chết, chúng ta sẽ còn gặp nhau. Lời cầu nguyện của em sẽ ở bên
anh, Pitơ, lời cầu nguyện và tình yêu mãi mãi của em ở bên anh. Có thể chúng sẽ
làm đôi tay anh thêm mạnh và trái tim anh thêm vững tin.
Sau đó, vì không muốn ôm hôn chàng trước mặt mọi
người, Macgaret cúi thấp trước Pitơ, thấp đến nỗi đầu gối nàng gần chạm đất.
Pitơ cũng cúi thấp người trước nàng. Thật là một cuộc chia tay lạ lùng và đầy
vẻ hùng tráng, ít ra thì những người đang đứng xung quanh đã nghĩ như vậy.
Khoác tay Bêti, Macgaret rời Pitơ, đi ra.
Hai giờ nữa trôi qua. Đấu trường Plaxa đơ Tôrôx, nơi
sẽ xay ra trận đấu kiếm - vì quảng trường chính của thành phố, nơi các cuộc thi
thường được tổ chức, đang bận chuẩn bị làm nơi xét xử của tòa án dị giáo ngày
hôm sau - đã chật ních người. Đó là một đấu trường rộng lớn, có thể được xây
dựng từ thời người La Mã còn ở đây. Nó là nơi vẫn diễn ra các trò chơi đủ loại,
trong đó có cả những trận đấu bò. Mười hai nghìn người xem có thể ngồi hết trên
các dãy ghế dài xếp cao dần xung quanh vũ đài. Hôm nay khó mà tìm được chỗ nào
trống. Vũ đài đủ rọng để ngựa có thể lấy đà từ bất kì chỗ nào phóng đi hết tốc
lực. Nó được phủ cát trắng, có lẽ cũng giống ngày xưa khi các đấu sĩ còn chém
giết nhau ở đây. Trên cổng chính, đối diện với vũ đài là chỗ vua, hoàng hậu và
các cận thần của mình ngồi, trong số họ có Macgaret. Nàng ngồi sau hơn một
chút, thẳng người và im lặng như một pho tượng. Khuôn mặt nàng được che kín bởi
chiếc khăn voan ngày cưới. Phía đối diện, biên kia vũ đài là Bêti và đám tùy
tùng của cô ta đang ngồi, trên những hàng ghế có mái che, vì cô ta chính là
người đã gây nên trận đấu này, ít ra là về mặt hình thức. Cô ta cũng ngồi yên
bất động, thu hút sự chú ý của những người có mặt từ mọi phía. Trong khi chờ
đợi trận đấu bắt đầu, mọi người chỉ bàn tán về cô ta, và những lời bàn tán ấy
nổi lên xung quanh, rì rầm như những đợt sóng biển vỗ vào bờ lúc đêm khuya.
Kèn đồng vang lên, sau đó tất cả im lặng. Với những
người truyền lệnh mặc quần áo thêu chỉ vàng đi trước, từ cửa chính, hầu tước
Môrela cùng tùy tùng đi ra vũ đài. Hắn cưỡi một con ngựa màu đen tuyệt đẹp, mặc
quần áo đen, và những chiếc lông đà điểu cắm trên mũ cũng màu đen. Trên chiếc
khiên màu đỏ của hắn có vẽ hình một đại bàng đầu đội vương miện, phía trước là
dòng chữ đầy kiêu hãnh: Những gì tôi chiếm được, tôi sẽ hủy diệt. Môrela dừng
lại ở giữa vũ đài, cho ngựa giơ hai chân trước quay nhìn quanh khắp vũ đài một
vòng. Hắn chào vua và hoàng hậu bằng cách giơ lên hạ xuống chiếc giáo dài có
đầu bọc thép nhọn. Đám đông hò hét cổ vũ hắn. Sau đó hắn cùng đoàn tùy tùng đi
về góc phía bắc của vũ đài.
Lại một lần nữa kèn đồng vang lên. Một người truyền
lệnh xuất hiện, và tiếp theo ông ta là xơ Pitơ Brum, một người nghiêm khắc và
cao lớn, cưỡi một con ngựa trắng đi ra. Chàng mặc toàn đồ trắng, lấp lánh dưới
ánh mặt trời. Chiếc mũ và những chiếc lông chim cắm trên mũ cũng màu trắng.
Trên chiếc khiên của chàng có vẽ hình con chim ưng đang lao xuống và dòng chữ
mạ vàng: Vì tình yêu và danh dự. Chàng cũng ra đứng chính giữa vũ dài, bình
tĩnh đi quanh một vòng như thể đang đi trên đường, và chàng cũng giơ ngọn giáo
của mình chào lại. Lần này thì người xem im lặng, vì chàng là người nước ngoài.
Tuy nhiên những người lính đứng lẫn trong khán giả nói với nhau, rằng Pitơ có
vẻ là một người dũng cảm, và thắng chàng không phải dễ.
Lần thứ ba tiếng kèn lại vàng lên, và cả hai hiệp sĩ
tiến lại gần nhau rồi cũng dừng lại trước vua và hoàng hậu. Người truyền lệnh
chính đọc to các điều kiện của trận đấu. Các điều kiện khá ngắn gọn: cuộc đấu
sẽ kéo dài cho đến khi một trong hai đối thủ chết hoặc nếu không bị vua và
hoàng hậu bắt dừng lại giữa chừng. Các hiệp sĩ sẽ cưỡi ngựa hoặc xuống bộ đánh
nhau, bằng giáo, kiếm, hay dao găm, nhưng khi vũ khí gãy không được thay thế,
cũng như không được thay thế cả ngựa lẫn áo giáp. Người thắng cuộc sẽ được đội
danh dự đưa ra khỏi đấu trường, và ông ta sẽ được phép đi bất kì nơi nào ông ta
muốn, trong nước cũng như ngoài nước. Đồng thời ông ta không bị buộc tội bất kì
điều gì, cũng như không phải sợ ai trả thù bằng máu. Xác của người thua trận sẽ
được trao cho bạn bè ông ta để chôn cất theo đúng các nghi lễ cần thiết. Trong
bất kì trường hợp nào, kết quả của trận đấu cũng không ảnh hưởng tới quyết định
của các tòa án dân sự hoặc giáo hội về đơn kiện của người đàn bà bắt phải công
nhận mình, là nữ hầu tước Môrela, hoặc từ phía hầu tước Môrela cao quý mà bà ta
gọi là chồng.
Khi điều kiện cuộc đấu được thông báo, người ta hỏi
các đối thủ có đồng ý với các điều kiện ấy không. Cả hai liền đáp to và rõ
ràng: "đồng ý". Sau đó người truyền lệnh thay mặt xơ Pitơ Brum, hiệp
sĩ Xanhlôga, thách thức hầu tước Môrela cao quý tham gia trận huyết chiến, vì
ông hầu tước này đã xúc phạm tới người bà con của xơ Brum, là tiểu thư người
Anh Elidabet Đin, khi tiểu thư khẳng định mình là vợ của hầu tước, sau khi đã
làm lễ kết hôn theo đúng luật. Đồng thời hầu tước Môrela bị thách đấu cả vì
việc ông ta xúc phạm nhiều lần tới xơ Brum và vợ là tiểu thư Macgaret. Người
truyền lệnh của Pitơ ném găng tay xuống đất. Macgaret dùng mũi giáo nhọn nhặt
lên, ném về phía sau qua vai mình, và bằng cách ấy hắn đã nhận lời thách đấu.
Các đối thủ xuống ngựa, những tên lính hầu của họ
chạy tới kiểm tra lại áo giáp, vũ khí và yên cương đã tốt và chắc chắn chưa.
Mọi thứ đều tốt đẹp. Lúc ấy những người giúp việc của các quan truyền lệnh dắt
ngựa về phía đối diện của vũ đài. Một tiếng kèn thổi to theo lệnh của nhà vua.
Những tên lính hầu liền buông dây cương xuống đát và lùi lại phía sau. Kèn lại
vang lên một lần nữa. Các hiệp sĩ nhặt dây cương, cúi thấp trên bờm ngựa. Người
xem im lặng, căng thẳng chờ đợi, và giữa sự im lặng ấy bỗng nổi lên tiếng kèn
thứ ba. Đối với Macgaret, tiếng kèn này vang to như tiếng báo của thần số mệnh.
Từ mười hai nghìn cái miệng tuôn ra một tiếng thở pháo, như ngọn gió bay trên
biển cả rồi tắt dần phía xa xa. Như hai mũi tên đang bắn vào nhau, hai hiệp sĩ
càng ngày càng phi nhanh hơn. Và kìa, họ gặp nhau. Hai mũi giáo đâm mạnh vào
khiên, và cả hai đối thủ lảo đảo suýt ngã. Các mũi giáo nhọn ánh lên, lúc chĩa
lên trời, lúc đâm sang ngang và ngồi vững vàng trên lưng ngựa, hai hiệp sĩ lao
qua ngang nhau, và va vào nhau, nhưng không ai bị thương. Hiệp thứ nhất kết
thúc.
Tiếng kèn lại vang lên, và một lần nữa hai đối thủ
lại tiến về phái nhau và gặp nhau ở chính giữa vũ dài. Như lần trước, các mũi
giáo lại đam trúng khiên, nhưng lần này mạnh hơn nhiều, đến mức giáo của Pitơ
gãy thành nhiều mảnh, còn giáo của Môrela trượt theo khiên đối thủ và dính vào
lớp vải bọc khiên. Pitơ lảo đảo trên ngựa và ngã hẳn về phía sau. Khi tưởng
chàng sắp ngã xuống đất, thì dây cột chiếc mũ sắt đứt tung, và chiếc mũ bay
khỏi đầu chàng. Môrela phóng tới, đâm giáo vào mũ chàng và giơ lên.
- Chim ưng ngã rồi! - Người xem kêu to. - Anh ta
đang ngã khỏi mình ngựa!
Nhưng Pitơ không ngã. Chàng vứt chiếc giáo gãy, và
tay bám vào yên, chàng lại gieo lên mình ngựa, Môrela định dùng ngựa để quay
lại. Nhưng con ngựa của hắn vẫn phi nhanh về phía trước và không chịu đứng lại
cho đến khi nó thấy một bức tường cao trước mặt. Cuối cùng hai đấu thủ lại mặt
đối mặt với nau. Nhưng lần này Pitơ không còn giáo và mũ, còn mũi giáo của
Môrela thì dính chặt vào chiếc mũ sắt của chàng. Môrela cố gỡ ra nhưng những
được.
- Rút kiếm ra! - Có người kêu to với Pitơ.
Đó là tiếng kêu của thuyền trưởng Xmit và các thủy
thủ của ông ta. Pitơ định rút kiếm nhưng chàng đã không làm thế. Vẫn để kiếm
trong vỏ, chàng thúc ngựa nhằm Môrela lao thẳng tới.
- Bây giờ chim ưng sẽ bị đâm chết! - Có tiếng hò reo
xung quanh. - Đại bàng sẽ thắng! Đại bàn sẽ thắng!
Hình như đúng thế thật. Mũi giáo của Môrela đang chĩa đúng vào
khuôn mặt để trần của Pitơ. Nhưng khi mũi giáo đã đến gần, bất ngờ chàng quăng
dây cương và dùng khiên đập mạnh vào chiếc lông chim của mũ chàng đang cắm ở
đầu mũi giáo đối thủ. Chàng đã tính đúng: mũi giáo của Môrela thấp, nhưng đủ để
chàng cúi rạp xuống yên ngựa để tránh không bị đâm vào mặt. Khi hai người ở
ngang nhau, Pitơ liền vung cánh tay trái rất dài của chàng móc vào Môrela như
một chiếc móc sắt rồi kéo hắn khỏi yên ngựa. Còn con ngựa tráng thì phải chở cả
hai người. Môrela ôm lấy cổ Pitơ, và cơ thể hai người quyện vào nhau, màu đen
lẫn với màu trắng. Cả hai đều chao đảo trên mình ngựa, còn con ngựa thì hoảng
sợ chạy khắp vũ đài cho đến khi đột ngột rẽ sang bên. Hai đối thủ ngã xuống
cát, và vì quá đau nên cả hai nằm bất động một lúc.
- Ai thắng rồi? - Có tiếng kêu to trong đám đông.
Có tiếng trả lời:
- Cả hai đã lại sẵn sáng đấu tiếp!
Ngồi vươn mình về phía trước, Macgaret kéo bỏ khăn
che mặt và nhìn xuống vũ đài. Mặt nàng tái nhợt như người đã chết.
- Hãy nhìn kìa: họ cùng ngã với nhau, cùng nhau động
đậy, và bây giờ đã đứng dậy, cả hai cùng lành lặn.
Pitơ và Môrela nhảy lùi lại phía sau để tránh xa
nhau, và cùng rút những thanh kiếm dài của mình ra. Và trong khi được tên lính
hầu lo lắng bắt ngựa và nhặt những mảnh giáo gãy thì họ đã đứng, mặt đối mặt,
sẵn sàng thủ thế. Vì không có mũ nên Pitơ giơ cao khiên để che đầu. Chàng bình
tĩnh chờ đối phương tấn công.
Môrela là người đầu tiên tấn công. Lưỡi kiếm của hắn
chém mạnh vào kim loại, phát ra một âm thanh ghê người. Trước khi hắn kịp quay
giữ thế thủ, thì Pitơ đã đánh đòn tấn công, nhưng Môrela kịp cúi thấp người,
nên mũi kiếm chỉ chém đứt những chiếc lông đen trên mũ hắn. Với tốc độ của một
tia chớp, mũi kiếm của Môrela lại nhằm thẳng mặt Pitơ phóng tới. Nhưng chàng đã
kịp thời né tránh, nên hắn đâm hụt. Môrela lại tấn công và chém một nhát mạnh
đến mức dù Pitơ kịp giơ khiên đỡ, nhưng lưỡi kiếm của hắn vẫn trượt theo khiên
và chém đúng cổ và vai của chàng, máu đỏ thẫm ướt chiếc áo giáp màu trắng, và
Pitơ lảo đảo.
- Đại bàng thắng rồi! Đại bàng thắng rồi! Tây Ban
Nha và đại bàng! - Một chục nghìn cái miệng cùng kêu to.
Sau đó là một phút im lặng, và trong cái phút im
lặng ấy, thì đám đông bỗng vang lên một giọng nói đàn bà và Macgaret nhận ra
ngay là của Inex:
- Không, chim ưng đang tấn công!
Lời của nàng chưa dứt, thì có lẽ do quá tức giận vì bị thương và lo
sợ thất bại, Pitơ kêu to: "Dòng họ Brum muôn năm" vừa đem hết tất cả
sức lực còn lại của mình lao thẳng vào Môrela, và người xem liền thấy một nửa
chiếc mũ của hắn rơi lăn lóc xuống cát. Lúc này đến lượt Môrela lảo đảo. Hơn
thế, hắn còn để rơi chiếc khiên xuống đất.
- Tốt lắm! Đánh thế mới gọi là đánh! - Có tiếng hò
reo trong đám đông. - Chim ưng!
Pitơ nhìn thấy đấu thủ để rơi khiên, cũng vớt khiên
của mình, vừa cầm chặt kiếm bằng cả hai tay, chàng lao vào Môrela. Chàng vứt
khiên, có thể vì đó là một cử chỉ cao thượng đối với kẻ thù - những người xem
đã nghĩ và hoan nghênh chàng vì điều ấy, nhưng cũng có thể vì chàng muốn giải
phóng tay trái mình cho đỡ vướng. Từ giờ phú này mặc dù chàng không có mũ,
nhưng kết quả cuộc đấu không còn làm ai nghi ngờ gì nữa. Bêti thường nói về
Pitơ như về một chiếc binh kiên trì và có cánh tay rất nặng. Lần này chàng đã
chứng minh rằng cô ta nói đúng. Sung sức như vừa bước lên vũ đài, Pitơ liên
tiếp tấn công hết lần này đến lần khác.Kiếm của chàng chém mạnh vào bộ áo giáp
được làm bằng thứ thép Tôlê của đối phương chan chát như chiếc búa nện lên đe.
Đó là những nhát chém khủng khiếp, nhưng chiếc áo giáp vẫn chịu nổi, và đem hết
sức chống đỡ, Môrela cứ lùi dần, lùi dần cho đến khi cuối cùng dừng lại trước
khán đài, nơi vua và hoàng hậu và Macgaret đang ngồi.
Bằng khóe mắt của mình, Pitơ nhận thấy họ ngồi ở đáy
và chàng thầm quyết định sẽ kết thúc cuộc đấu chính ở đây và ngay lúc này. Vừa
đỡ xong một đợt tấn công tuyệt vọng của đối thủ, Pitơ liền giáng cho hắn một
đòn trời đánh. Lưỡi kiếm của chàng lấp lánh như cầu vồng, và mặc dù chiếc áo
giáp bằng thép đỡ nổi, nhưng Môrela loạng choạng suýt ngã. Lợi dụng điều này,
Pitơ giơ cao kiếm, và vừa kêu to: "Macgaret!" chàng vừa đem hết sức
chém mạnh xuống đầu hắn. Lưỡi kiếm lóe lên như tia chớp, nhanh đến mức ai nhìn
thấy cũng phải lấy làm ngạc nhiên. Môrela tìm cách chống đỡ lại. Vô ích. Thanh
kiếm của hắn bay ra xa, chiếc mũ bị chém đứt đôi, và xoạc rộng chân, hắn nặng
nền ngã xuống đất.
Tiếp theo là một sự im lặng tuyệt đối. Bỗng có một
giọng phụ nữ vang lên lanh lảnh:
- Chim ưng thắng rồi! Chim ưng của nước Anh
thắng rồi!
Sau đó là những tiếng reo hò nồng nhiệt: "Ông
ta đã chết", "Không, ông ta còn động đậy!", "Giết
đi!", "Tha cho ông ta sống, ông ta là một tay kiếm rất cừ".
Pitơ đứng tựa người vào thanh kiếm của mình nhìn đối
thủ bị thương nằm dưới đất. Sau chàng ngước lên nhìn vua và hoàng hậu, nhưng họ
vẫn ngồi yên không biểu lộ thái độ gì. Chàng nhìn thấy Môrela đang định đứng
dậy kêu to lên điều gì đó, nhưng những người phụ nữ ngồi bên đã giữ nàng lại.
Một sự im lặng tuyệt đối đang bao trùm lên xung quanh, hàng nghìn con người
đang căng thẳng chờ đợi. Pitơ nhìn Môrela. Than ôi, hắn còn sống. Lưỡi kiếm và
chiếc mỹ rắn chắc của hắn đã giảm nhẹ sức mạnh của nhát chém. Hắn chỉ bị thương
và đang ngất đi.
- Tôi phải làm gì bây giờ? - Pitơ hỏi vua và hoàng
hậu.
Hình như vua đang lo lắng, ngài muốn nói điều gì,
nhưng hoàng hậu ghé vào tai nói vài câu gì đó, và ngài lại ngồi yên như cũ. Cả
hai im lặng chăm chú theo dõi những gì đang xảy ra. Cuối cùng, hiểu được sự im
lặng đáng sợ ấy nghĩa là gì Pitơ liền vứt kiếm, rút dao găm ra để cắt đứt dây
buộc mũ che đầu Môrela. Chàng sắp sửa đâm nhát dao cuối cùng.
Đúng lúc ấy thì chàng nghe có tiếng động vọng lại từ
phía đằng kia vũ đài. Chàng quay sang nhìn và được thấy một cảnh tợng lạ lùng
nhất xưa này chàng chưa hề thấy. Từ khán đài đối diện, một người phụ nữ đang
leo xuống, nhẹ nhàng như một con mèo. Và cũng với sự nhanh nhẹn của con mèo, cô
ta nhảy từ độ cao gần hai mét xuống, rồi vừa vén váy vừa chạy về phía chàng. Đó
là Bêti. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là Bêti, Bêti trong bộ quần áo lộng lẫy
của mình, và với mái tóc để xõa đang bay theo gió. Pitơ ngạc nhiên nhìn cô ta.
Tất cả xung quanh cũng sững sờ yên lặng. Nửa phút sau cô ta đã đứng cạnh chàng,
và cúi thấp xuống người Môrela, cô ta quát:
- Để hắn yên! Tôi đã nói với anh là để hắn yên!
Pitơ không biết nên nói và làm gì. Chàng bước lên
định nói chuyện với cô ta, nhưng cô ta đã chạy tới vồ lấy thanh kiếm của Pitơ
lúc ấy đang nằm dưới đất. Cô ta nhặt nó lên, lùi lạ phía sau với Môrela rồi kêu
to:
- Trước hết anh phải đánh nhau với tôi đã, Pitơ!
Và quả thật co ta đã nhanh nhẹn lao lên tấn xông
Pitơ bằng chính thanh kiếm của chàng, buộc chàng phải lùi lại để khỏi bị chém
chết. Một làn sóng tiếng cười lan rộng theo các dãy ghế trên khán đài. Thậm chí
cả Pitơ cũng phá lên cười. Chưa bao giờ có điều tương tự từng xảy ra ở Tây Ban
Nha. Khi tiếng cười lắng xuống, Bêti, người có giọng nói không hề lí nhí một
chút nào, liền kêu to bằng thứ tiếng Tây Ban Nha khủng khiếp của mình:
- Trước khi giết chồng tôi, cứ để anh ta giết tôi
đã! Hãy giao chồng tôi cho tôi!
- Thì cô cứ lấy đi, nếu muốn, - Pitơ đáp.
Lập tức Bêti liền quẳng kiếm và bằng đôi tay khỏe
mạnh của mình, cô ta bế xốc Môrela đang nằm bất tỉnh dưới đất như bế một đứa
bé: cái đầu đang chảy máu của hắn nằm yên trên vai cô ta. Bêti định mang hắn
đi, nhưng không đủ sức.
Người xem hò reo tán thưởng cô ta, còn Pitơ thì thất
vọng quẳng con dao của mình xuống đất và lại quay về phía vua và hoàng hậu. Vua
đứng dậy, đưa tay ra hiệu cho những tên lính hầu của Môrela đến nhặt xác hắn.
Bêti giúp chúng một tay.
- Nữ hầu tước Môrela, - vua nói, lần đầu tiên gọi cô
ta bằng cái danh hiệu ấy, - danh dự của bà đã được khôi phục, người bảo vệ bà
đã chiến thắng. Bà muốn nói gì không?
- Không muốn nói gì cả, - Bêti đáp, ngoài việc tôi
yêu con người này, dù ông ta xử tệ với tôi. Tôi biết là khi đấu kiếm với Pitơ,
ông ta sẽ phải trả giá cho các tội lỗi của mình. Tôi xin nhắc lại là tôi yêu
ông ta, và nếu Pitơ muốn giết ông ta thì trước hết phải giết tôi đã.
- Xơ Pitơ Brum, - vua nói, - tùy ông quyết định.
Chúng tôi trao mạng sống người này cho ông - ông có thể tha không giết, hay có
thể làm bất kì điều gì ông muốn.
Pitơ suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Tôi sẽ tha cho ông ta sống, nếu ông ta công nhận
người đàn bà này là vợ hợp pháp của mình, suốt đời sống với bà ta và không bao
giờ còn kiện tụng chống bà ta nữa.
- Thật là ngốc, làm sao hắn có thể làm nổi điều ấy
bây giờ, - Bêti nói to, - khi bằng thanh kiếm khỏe mạnh của anh, anh đã đánh
bật khỏi đầu hắn tất cả mọi ý nghĩ và lời nói!
- Nếu vậy, có thể ai đứng ra bảo đảm hộ cho ông ta
chăng? - Pitơ bình tĩnh hỏi.
- Ta, - hoàng hậu Ixaben nói, lần đầu tiên suốt từ
khi cuộc đấu được bắt đầu. - Ta sẽ làm điều đó thay mặt hầu tước Môrela trước
tất cả những người đang ngồi đây, ta hứa với ông điều ấy, xơ Pitơ Brum. Ta còn
nói thêm: Nếu ông ta sống lại và muốn vi phạm lời cam kết mà ta thay mặt ông ta
đã tuyên bố để cứu ông ra khỏi chết, thì tên tuổi ông ta sẽ bị đem ra làm trò
cười nhục nhã cho thiên hạ. Hỡi những người truyền lệnh, hãy nhắc to lại điều
này!
Những người truyền lệnh thổi kèn và một người trong
số họ dõng dạc nhắc lại lệnh của hoàng hâu. Người xem hò reo hoan nghênh bà.
Sau dấy, những tên lính hầu đưa Môrela đi. Lúc này
hắn vẫn chưa tỉnh lại. Với bộ quần áo dính đầy máu, Bêti đi cạnh hắn. Người ta
mang con ngựa của Môrela lại cho Pitơ, và mặc dù đang bị thương, chàng nhảy lên
lưng ngựa đi một vòng quanh vũ đài. chàng được đón tiếp bằng những tràng vỗ tay
kéo dài mà xưa nay đấu trường này chưa hề biết đến. Sau khi giơ kiếm chào lại,
Pitơ và các tên lính hầu của chàng đã biến mất sau cánh cổng mà trước đấy chàng
đã xuất hiện để đi vào đấu trường.
Cuộc đấu tay đôi và sau này được gọi là "trận
huyết chiến giữa một con đại bàng Tây Ban Nha và một con chim ưng Anh
quốc" đã kết thúc một cách khác thường như vậy.
Chương
XXV
TÀU "MACGARET" RA BIỂN
Đ
|
êm
xuống. Quá yếu ớt vì bị chảy máu nhiều, Pitơ vất vả đi đến chào từ biệt vua và
hoàng hậu Tây Ban Nha. Hai người này đã nói với chàng một lô những lời tốt đẹp.
Họ gọi chàng là tấm gương sáng chói của giới hiệp sĩ, và nếu chàng đồng ý ở lại
phục vụ họ, thì họ sẽ giao cho chàng quyền cao chức trọng. Tuy nhiên Pitơ chỉ
cảm ơn và từ chối, nói rằng chàng đã phải chịu quá nhiều tai họa ở đất nước Tây
Ban Nha này, nên không thể sống ở dây được. Vua và hoàng hậu ôm hôn vợ chàng,
tức là nàng Macgaret xinh đẹp, người bây giờ đang bám lấy ông chồng bị thương
của mình như một sợi dây leo bám chặt cây sồi, và không chịu rời chàng nửa
bước. Bởi vì vừa mới lúc nãy nàng đã mất hết hi vọng được ôm chàng sống sót.
Vâng, vua và hoàng hậu hôn nàng, sau đó hoàng hậu cởi chiếc dây chuyền quý đang
mang đeo vào cổ nàng, như món quà tiễn biệt được bà tặng. Hoàng hậu chúc nàng
sống hạnh phúc với một người chồng dũng cảm như thế.
- Than ôi, thưa hoàng hậu, - Macgaret đáp, và đôi
mắt đen của nàng ứa đầy lệ, - làm sao tôi có thể hạnh phúc khi nghĩ tới ngày
mai.
Ixaben đỏ mặt nói:
- Tiểu thư Macgaret Brum, tiểu thư hãy cảm ơn vì
những gì ngày hôm nay đã mang lại. Đừng nghĩ tới ngày mai với những gì có thể
xảy ra. Đi đi, cầu Chúa phù hộ cho hai người!
Rồi Pitơ và Macgaret ra đi, một toán nhỏ các thủy
thủ mặc áo khoác Tây Ban Nha đi theo. Trong thời gian xảy ra trận đấy, những
người này ngồi trên khán đài xuýt xoa mỗi lần "đại bàng" tấn công, và
đã bùng lên hoan hô khi "chim ưng" chiến thắng. Bây giờ họ đang dẫn,
hay nói đúng hơn đang bế Pitơ đi trong bóng tối về hướng con thuyền đang đợi
sẵn ở một nơi không xa cách trường đấu. Họ lặng lẽ chèo thuyền đi để không ai
nhìn thấy, cả người xem lẫn cả những tên lính hầu của Pitơ cũng vậy. Mọi người
tin chắc rừng chàng sẽ cùng vợ trở lại lâu đài vua như chàng đã hứa. Cứ thế họ
chèo thuyền đi tới tàu "Macgaret". Con tàu nhổ neo và đi xuôi theo
dòng sông ra cửa biển.
Đó là một đêm thật nặng nền, không có chỗ cho tình yêu và sự âu
yếm. Lẽ nào Pitơ và Macgaret có thể nghĩ tới những điều ấy, khi họ bị dày vò
bằng những sự nghi ngờ và nỗi sợ, khi họ đã trải qua những điều kinh khủng và
những niềm vui vô hạn như hôm nay? Vết thương của Pitơ sâu và khá nặng. Mặc dù
tấm khiên đã đỡ phần nào sức mạnh của cú chém, và mũi kiếm của Môrela may mắn
chỉ chạm vào phần mềm trên vai, nhưng chàng đã để mất khá nhiều máu. Thuyền
trưởng Xmit, một nhà phẫu thuật tài giỏi hơn nhiều so với người ta tưởng, đã
cho lấy cồn rửa sạch vết thương của Pitơ, làm chàng rất đau, sau đó lấy một sợi
chỉ lụa khâu lại. Hai tay và hai bắp chân Pitơ đầy những vết tím bầm khủng khiếp,
còn lưng chàng thì bị nát nhừ khi chàng cùng Môrela ngã từ lưng ngựa xuống đất.
Pitơ nằm hôn mê hầu như suốt đêm hôm ấy. Khi trời
rạng sáng, chàng chỉ có thể ngồi nhỏm dậy trên giường để cùng Môrela quỳ xuống
cầu xin Đức Chúa cho bố nàng thoát khỏi bàn tay những người linh mục Tây Ban
Nha độc ác.
Trong đêm, lợi dụng thủy triều, thuyền trưởng Xmit cho tàu quay
ngược lại, đậu lẫn giữa những con tàu hư hỏng vô chủ như Pitơ đã dặn. Trước đấy
ông ta cho xóa tên tàu và viết lên đó hai chữ "Xanh Maria", là tên
một con tàu nghe nói đang đậu trong cảng, cũng có hình dáng và sức chở như tàu
"Macgaret". Cũng có thể vì thế hoặc vì trên sông lúc ấy có nhiều tàu
nên đã không ai trong số các nhà chức trách chú ý tới sự quay lại của họ, mà
giả sử có nhận ra, thì cũng cho là điều không quan trọng và sẽ không báo lên
cấp trên. ít ra tạm thời một việc đều tốt đẹp.
Theo tin tức của linh mục Enrikê, đã được kiểm tra
lại bằng các nguồn khác, thì đoàn người thuộc "một hành động tôn
giáo" sẽ phải đi tới bờ sông vào khoảng tám giờ, đi dọc theo nó chỉ một
trăm mét rồi sẽ sang một đường phố dẫn tới quảng trường, nơi được chuẩn bị để
tiến hành lễ cầu hồn. ở đấy những người đã được "rửa tội" xong sẽ bị
nhốt vào cũi để đưa đi Quêmanđêrô.
Và lúc sáu giờ sáng, thuyền trưởng Xmit tập hợp
trong cabin mười hai thủy thủ mà ông đã chọn để giúp mình thực hiện kế hoạch.
Pitơ, có Macgaret đứng bên cạnh, đã báo cho họ biết một cách tỉ mỉ kế hoạch
hành động và yêu cầu họ hãy làm tất cả những gì có thể làm được để cưú ông chủ
của họ khỏi một cái chết thê thảm.
Các thủy thủ tuyên thệ: họ đang nóng lòng muốn được
sớm ra tay, đang sôi máu lên vì tức giận, đấy là chưa kể tới việc họ được hứa
sẽ có phần thưởng lớn, cả cho những gia đình có người không may bị chết. Sau đó
họ ăn sáng, chọn kiếm và dao, rồi khoác lên mình những chiếc áo dài Tây Ban
Nha, mặc dù thực ra khó có thể gọi những chàng trai quên ở Êxec và Luân Đôn này giống người Tây Ban Nha
được. Thuyền đã sẵn sàng, và mặc dù còn đứng chưa vững, Pitơ vẫn nói rằng chàng
sẽ đi với họ. Nhưng thuyền trưởng Xmit, có lẽ được Macgaret nói trước, liền dẫm
mạnh chân lên boong tàu, tuyên bố rằng ông là người chỉ huy ở đây, và nhất
quyết không cho chàng đi. Ông nói chiếm thêm vào chỗ trong con thuyền nhỏ bé,
và không thể làm gì được để giúp họ, cả trên cạn lẫn dưới nước. Vả lại, hôm qua
Pitơ đã được hàng nghìn người nhìn thấy mặt, nên chắc chắn chàng sẽ bị phát
hiện, trong khi sẽ không có ai chú ý tới những người thủy thủ từ một con tàu
nào đó lên bờ đẻ dạo chơi hay xem lễ. Cuối cùng, chàng nên ở lại trên tàu
"Macgaret", vì nếu có chuyện gì xấu xảy ra, sẽ còn lại quá ít người
để đưa tàu nhanh chóng ra biển khơi và về tới nước Anh.
Pitơ vẫn tiếp tục đòi được đi, cho đến khi Macgaret
ôm chàng hỏi phải chăng chàng muốn một lúc nàng phải mất cả bố lẫn chồng, vì rất
có thể họ sẽ thất bại. Chỉ lúc ấy Pitơ, vì quá đau và yếu, mới chịu nhân
nhượng. Thuyền trưởng Xmit dặn dò người thuyền phó những điều cuối cùng, bắt
tay Pitơ và Macgaret, rồi cùng mười hai thủy thủ của mình xuống thuyền. Cố
tránh sau những con tàu cũ, con thuyền tiến vào bờ.
Tàu "Macgaret" ở cách bờ một quãng tên bay, và ở trên
boong giữa mũi và đuôi hai chiếc tàu cũ khác, có thể nhìn rõ lên bờ. Pitơ và
Macgaret ngồi ở đấy. Một thủy thủ trèo lên cột buồm, là nơi có thể nhìn thấy
hầu như toàn bộ thành phố, thậm chí cả lâu đài cổ của người Mô, bây giờ là chỗ
tòa án dị giáo đóng. Cuối cùng người thủy thủ này kêu lên, rằng đoàn người đã
đi ra khỏi lâu đài. Anh ta nhìn thấy cờ xí và nhiều người ngồi xem bên cửa sổ
hoặc trên mái nhà. Ngoài ra, để báo tin ấy, chuông nhà thờ cũng bắt đầu vang
lên từng tiếng chậm rãi. Sau đó là một sự im lặng kéo dài. Họ nhìn thấy một
toán thủy thủ mặc áo khoác dài Tây Ban Nha lên tới bờ và đứng dẫn với một toán
người không đông lắm đang đứng ở đấy. Phần lớn người xem hiện tập trung ở quảng
trường và các phố lân cận.
Cuối cùng, khi chuông đồng hồ nhà điểm tám tiếng cả
đoàn người "oai hùng" ấy - nó được gọi như vậy - đã ra tới bờ sông.
Đi đầu là một toán lính có trang bị bằng các mũi giáo, tiếp theo là một cây
thánh giá màu đen do một linh mục vác. Theo sau ông ta là các quan chức khác
của nhà thờ, mặc quần áo trắng toát tượng trưng cho sự trong sạch. Sau đó xuất
hiện những người đang vác các hình người đàn ông và đàn bà được làm bằng gỗ hay
da thú. Những người này đang chạy ra nước ngoài hoặc đã chết nên mới thoát khỏi
bàn tay của tòa án dị giáo. Tiếp theo là các quan tài, mỗi chiếc được bốn người
khiêng. Trong các quan tài ấy là xương cốt của những kẻ phản đạo đã chết.
Sau đó là những kẻ phản đạo đã hối lỗi. Đầu họ bị
cạo trọc, chân trần, một số mặc quần áo đen, số khác được khoác lên người một
tấm vải màu vàng có hình chữ thập đỏ, gọi là "sanbemlô". Tiếp tho
những người này là một toán những kẻ phản đạo khá bị kết án phải đem thiêu sống
trên giàn thiêu. Họ đeo lên người một tấm da cừu có vẽ các sừng của quỷ sức và
chân dung của chính họ với những ngọn lửa bao quanh. Trên dầu những con người
bất hạnh này là những chiếc mũ cao như mũ của các giám mục, gọi là
"côrôđa", trên đó có vẽ hình những ngọn lửa. Một sợi dây thừng được
thít chặt giữa hai hàm răng họ để không thể làm bẩn xung quanh bởi những lời lẽ
phản đạo. Tay họ cầm những ngọn nến, chốc chốc lại được các linh mục đi cạnh
thắp lại nếu bị tắt.
Trái tim của Pitơ và Macgaret đau nhói khi họ thấy
cuối cuộc diễu hành khủng khiếp ấy là một người cỡi lừa mang tấm da cừu, đội
"côrôđa" và cổ đeo một chiếc thòng lòng. Cha Enrikê đã nói dúng -
không còn nghi ngờ gì nữa, đó là Giôn Caxten. Pitơ và Macgaret nhìn bộ trang
phục nhục nhã của ông mà cứ tưởng mình đang nằm mơ. Đi sau ông là những người
ăn mặc lộng lãy. Đó là quan chức tòa án dị giáo, các nhà quý tộc và các thành
viên của Hội đồng dị giáo. Trước họ là một ngọn cờ gọi là "Cờ thiêng liêng
của lòng tin".
Khi Caxten đi ngang qua một tốp nhỏ những người thủy
thủ, thì hình như có chuyện gì đó xảy ra với sợi dây dắt con lừa mà ông đang
cưỡi. Con lừa đứng lại, và một người mặc quần áo thư kí của tòa án đi tới, có
lẽ để sửa lại dây buộc, và bằng cách ấy đã làm ngừng lại đoàn người đang đi
sau. Những người đi trước đi hết quãng đường dọc theo bờ sông và đã rẽ sang
đường góc. Không hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng tên phản đạo buộc phải xuống lừa.
Người ta kéo hắn khỏi lưng con vật một cách thô bạo, còn con vật thì hình như
được giải phóng khỏi gánh nặng, lấy làm thích thú, nghếch cao đầu rồi kêu toáng
lên.
Một số người từ đám đông không lớn lắm đi dọc bờ
sông liền đi tới như thể định giúp đỡ. Trong họ có một số người cũng mặc như
các thủy thủ trên tàu Macgaret. Các sĩ quan và các nhà quý tộc đi sau bắt đầu
quát, "đi đi! đi đi!" nhưng những người đang đứng quanh con lừa lại
xô nó cùng kẻ dị giáo mà nó chở lại gần dòng sông. Lúc ấy mấy tên lính canh phi
ngựa đến để xem chuyện gì đã xảy ra.
Bỗng nhiên có sự lộn xộn xảy ra, mà không ai biết
nguyên nhân do đâu. Mấy giây sau, Macgaret và Pitơ, lúc này đang nắm chặt tay
nhau, nhìn thấy người cưỡi lừa được nhanh chóng kéo theo các bậc lên xuống về
phía có con thuyền của tàu "Macgaret". Ông thuyền phó đang đứng cạnh
tay lái cũng nhìn thấy điều này. Ông ta huýt sáo ra hiệu,và theo hiệu này, dây
thừng cột neo bị chặt đứt - không có thời gian để kéo neo lên, - còn bác thủy
thủ liền trương buồm, và con tàu bắt đầu chuyển động.
Trong khi trận đánh vẫn tiếp tục trên bờ, Caxten đã
được đưa lên thuyền cùng với một số thủy thủ, nhưng những thuỷ thủ còn lại vẫn
ở trên bờ để giữ không cho một đám đông các linh mục và quan chức nhà thờ được
trang bị vũ khí cướp lại Caxten. Một linh mục tay cầm kiếm lách qua các thủy
thủ và cũng bị xô nhào xuống thuyền. Cuối cùng tất cả đã lên thuyền trừ một
người - đó là thuyền trưởng Xmit lúc này đang bị ba đối thủ tấn công. Các mái
chèo được nâng lên, nhưng các thủy thủ vẫn đợi. Ông thuyền trưởng vung kiếm, và
một trong ba kẻ tấn công ông ngã gục. Hai tên còn lại lao bừa vào ông, một đứa
nhảy lên lưng, đứa khác ôm vào cổ. Ông thuyền trưởng đem hết sức nhảy ùm xuống
nước, kéo theo cả hai tên ấy. Một tên không ai còn nhìn thấy nữa, vì thuyền
trưởng Xmit đã đâm kiếm xuyên người hắn, còn tên thứ hai thì lặn dưới nước gần
con thuyền, lúc này đã ở xa bờ mấy mét. Một thủy thủ vung mái chèo nện vào đầu
hắn, và hắn chìm nghỉm.
Tuy nhiên không thấy thuyền trưởng Xmit đâu. Pitơ và
Macgaret đã nghĩ rằng ông bị chìm. Hình như các thủy thủ cũng nghĩ như vậy, vì
họ đã bắt đầu chèo thuyền, nhưng bỗng nhiên một cánh tay to lớn sạm nắng nhô
lên mặt nước và bám lấy đuôi thuyền.
- Chèo đi các cậu, tôi ở đây! - Một giọng nói ồm ồm vang lên.
Các thủy thủ chèo mạnh, đến nỗi mái chèo cong lên
thành hình cánh cung. Trong lúc ấy, hai thủy thủ túm lấy vị linh mục trước đó
đã nhảy xuống thuyền, rồi ném hắn xuống sông. Hắn còn quẫy cựa một lúc, nhưng
vì không biết bơi, hán đưa tay chới với trong không khí rồi chìm hẳn. Nhờ dòng
chảy con thuyền đi nhanh, chẳng mấy chốc đã tới mũi của một trong những con tàu
cũ mà tàu "Macgaret" dựa vào để lẩn trốn. Gió thổi nhẹ, và tàu
"Macgaret" tăng tốc độ.
- Cho thang xuống và chuẩn bị dây thừng! - Pitơ kêu
to.
Lệnh của chàng đã được thi hành ngay, nhưng vẫn không kịp, vì liền
lúc ấy có tiếng va của con thuyền vào mạn tàu. Các thủy thủ kịp túm lấy dây
thừng để giữ con thuyền. Trong khi ấy thuyền trưởng Xmit liền bám lấy tấm ván
phía sau đuôi tàu, nước hầu như phủ kín đầu ông.
- Trước hết hãy cứu thuyền trưởng đã! - Pitơ ra
lệnh.
Một thủy thủ chạy xuống theo các bậc thang rồi ném
cho ông thuyền trưởng một chiếc thòng lọng. Ông thuyền trưởng bắt nó bằng một
tay rồi từ từ cột vào người. Các thủy thủ khác túm vào dây kéo ông lên boong.
Ông nằm sõng soài, hổn hển thở, miệng luôn ợ ra nước. Con tàu đi mỗi lúc một
nhanh hơn, nhanh đến mức họ lặng người đi vì sợ con thuyền bị va vào tàu khác
và sẽ chìm.
Nhưng các thủy thủ biết rõ công việc của mình. Họ từ
từ xô thuyền ra phía sau, cho đến khi mũi nó nàng với chân cầu thang. Người đầu
tiên được họ đỡ lên là Caxten. Ông bám vào bậc thang, và những cánh tay khỏe
mạnh khác đỡ ông. Từng bước một, ông bò lên dần, cho đến khi chiếc mũ khủng
khiếp có vẽ hình quỷ sứ, khuôn mặt với bộ râu bị cạo nhẵn có những chấm trắng
và cái miệng há to cho đến bây giờ vẫn còn bị buộc chặt bởi một đoạn dây thừng
to, nhô lên trên boong tàu. Sau này ông thuyền phó có nói rằng Caxten lúc ấy
trông giống như quỷ Satăng vừa chạy thoát từ địa ngục. Các thủy thủ kéo ông
lên, và ông ngất đi trong vòng tay của con gái. Theo sau ông, các thủy thủ lần
lượt trèo lên tàu, tất cả đều còn sống, dù hai người bị thương, máu loang lổ.
Vâng, không có ai hi sinh, tất cả đã trở về tàu "Macgaret" an toàn.
Sau khi nôn ọe xong những ngụm nước sông cuối cùng,
thuyền trưởng Xmit ra lệnh mang cho ông một cốc rượu, và ông liền uống hết.
Trong khi ấy Pitơ và Macgaret tháo bỏ đoạn dây thừng đáng ghét khỏi miệng
Caxten và cho ông uống một ngụm cồn. Như một con chó khổng lồ, thuyền trưởng
Xmit rùng mình giũ nước khỏi người, rôi những nói một lời nào, ông tới cầm lái
thay cho ông thuyền phó: lái tàu đi theo sông là một việc khó, mà đoạn sông này
thì không ai biết rõ bằng thuyền trưởng Xmit. Đúng khi tàu "Macgaret"
đến ngang Tháp Vàng nổi tiếng, bỗng có tiếng đại bác nổ to, nhưng viên đạn bay
ngang, rơi cách xa tàu.
- Hãy trông kìa! - Macgaret kêu to, tay chỉ những
người cưỡi ngựa đang phi dọc bờ sông phía nam.
- Chúng muốn báo cho các đồn phía trước, - Pitơ lên
tiếng, - Chúa đã cho ta cơn gió này, và ta phải nhanh chóng vượt ra tới biển.
Gió mỗi lúc một mạnh hơn, thổi từ phương bắc tới, nhưng dù sao hôm
ấy cũng là một ngày dài và thật nặng nền. Hết giờ này đến giờ khác, tàu họ chạy
theo dòng sông đang mỗi lúc một rộng thêm. Lúc thì họ chạy ngang những khu làng
mạc, nơi có một vài một tốp người nhìn thấy họ, liền giơ vũ khí ra dọa; lúc họ
đi ngang qua những khu đầm lầy vắng vẻ và những khu rừng thông bằng phẳng.
Khi họ tới Bônanxa, mặt trời đã xuống rất thấp, còn
khi vượt qua Anh Luca thì mạt trời lặn hẳn. ở cửa sông rộng lớn, nơi những con
sóng trắng cuộn lên do gặp một gờ sông hẹp, họ thấy có hai chiếc tàu chiến chạy
bằng sức chèo đang vội vã lao tới để bắt họ. Những chiếc tàu này chạy rất khỏe,
và thiết tưởng không thể có cách nào thoát khỏi chúng.
Macgaret và Caxten được đưa xuống khoang tàu. Các
thuỷ thủ ai ở vào vị trí người ấy. Pitơ cương quyết đi về phía đuôi tàu, nơi
ông thuyền trưởng Xmit đang kiên nhẫn đứng bên tay lái và nhất thiết không cho
ai đụng đến ông. Thuyền trưởng nhìn lên bầu trời, lên bờ và ra phía biển rộng
mong đợi trước mặt. Sau đó ông ta ra lệnh kéo tất cả các buồm lên, và ông mím
môi nhìn những chiếc tàu chiến đang đứng rình họ như những con chó ngay cửa
biển. Hai chiếc tàu này đứng chặn ngang giữa lạch sông, hai bên là các bãi nông
sùi bọt trắng không một con tàu nào có tehẻ đi qua nổi.
- Ông định làm gì bây giờ? - Pitơ hỏi.
- Thưa ông Pitơ, - thuyền trưởng Xmit nghiến răng
nói, - hôm qua, khi ông đánh nhau với thằng Tây Ban Nha kia, tôi không hề hỏi
ông định làm gì với hắn. Xin ông hãy im lặng và để cho tôi quyết định tất cả.
"Macgaret" là một con tàu chạy nhanh,
nhưng chưa bao giờ nó chạy nhanh như lúc này. Gió réo lên phía sau nó. Các cột
buồm vững chắ của nó cong xuống như cần câu, còn các dây buộc thì kêu lên cót
két dưới sức nặng của những cánh buồm đầy gió. Mạn trái của nó nghiêng gần như
sắp chạm mực nước, vì thế Pitơ phải nằm trên boong - chàng không đứng dậy nổi.
Chàng thấy nước đã mấp mé cách chàng hơn nửa mét.
Hai chiếc tàu chiến đứng thành hàng chắn đường tàu
"Macgaret". Khi cách tàu "Macgaret" nửa dặm, chúng liền
quay mũi vào nhau, và biết chắc rằng không tàu nào có thể vượt qua nổi các bãi
nông. Chúng chờ tàu "Macgaret" giảm tốc độ - nhất định sẽ phải thế,
lúc ấy chúng sẽ dùng móc móc tàu chúng vào tàu "Macgaret", và sẽ giết
chết đội thủy thủ ít người của nó. Thuyền trưởng Xmit ra lệnh điều gì đó cho
ông thuyền phó, và thế là bỗng nhiên dưới ánh sáng của mặt trời đang lặn, một
ngọn cờ Anh quốc phần phật tung bay trên đỉnh cột buồm chính. Thấy thế các thủy
thủ reo lên sung sướng, và chiếc buồm cuối cùng còn lại được kéo lên. Bây giờ
thỉnh thoảng mạn trái con tàu đã chìm hẳn xuống nước, Pitơ, đã bắt đầu cảm thấy
nước biển mặn cắn vào tấm lưng bị thương của chàng.
Các thuyền trưởng Tây Ban Nha vẫn giữ nguyên tàu của
chúng ở vị trí cũ. Chúng không sao hiểu nổi những gì đang thấy: Người thuyền
trưởng của con tàu nước ngoài này điên chăng, hay hắn không biết lái tàu đi
trên sông? Vì chắc chắn con tàu sẽ chìm, kéo luôn tất cả những người trên nó.
Chúng đứng yên chờ đợi khi ngọn cờ có vẽ hình con báo và các cánh buồm lộng gió
được kéo xuống. Nhưng con tàu "Macgaret" vẫn lao thẳng về phía chúng
với một tốc độ ghê gớm. Khi khoảng cách chỉ còn lại không đầy một phần tư dặm,
và thấy nó vẫn không thay đổi hướng đi, các thuyền trưởng trên hai chiếc tàu
chiến Tây Ban Nha hiểu rằng tàu "Macgaret" đang lao vào chỗ chết,
nhưng không phải chết một mình.
Bắt đầu có sự lộn xộn trên các tàu Tây Ban Nha. Có
tiếng quát nhau, tiếng huýt sáo, và tiếng các tên cai chạy xuống khoang để thúc
giục các tay chèo nô lệ. Trong ánh hoàng hôn, các mái chèo vung lên hạ xuống có
màu đỏ như máu. Mũi của hai tàu chiến bắt đầu tách ra - một mét, hai mét, và có
thể hai, ba chục mét. Như một viên đá ném xuống mặt nước, như một mũi tên được
phóng đi, nhờ gió nâng đỡ, tàu "Macgaret" bay thẳng qua khe hở đó.
Rồi chuyện gì đã xảy ra? Xin hãy hỏi những người
đánh cá ở Xanh Luca và những tên cướp biển ở Bônanxa, nơi chuyện này được truyền
tụng hết đời này sang đời khác. Các mái chèo lớn gãy răng rắc như củi khô.
Boong trên của chiếc tàu chiến nằm phía trái bị tàu "Macgaret" cào
rách như một tờ giấy, còn một hông của tàu bên phải bị va bẹp rúm. Và tàu
"Macgaret" vượt qua an toàn.
Thuyền trưởng Xmit quay nhìn lại phía sau - cả hai
chiếc tàu chiến Tây Ban Nha đang chìm. Như những con thiên nga bị thương, chúng
dập dềnh nghiêng ngả trên bãi nông sùi bọt trắng. Sau đó ông buông bánh lái, và
gọi người thợ mộc tới hỏi tàu có bị thương không?
- Không thủng chỗ nào, thưa ông - người kia đáp, -
nhưng ta sẽ buộc phải sơn lại. Chẳng khác gì cây gỗ sồi va vò vỏ trứng. Vả lại
tàu ta lúc đó đang đi nhanh.
- Tốt! - Thuyền trưởng Xmit nói. - Hai bên là bãi
cạn, chỉ còn lại một lối thoát duy nhất - sống hoặc chết! Nhưng lúc ấy tôi tin
chắc chúng sẽ phải né cho ta đi. Hãy mời ông thuyền phó lại đây cầm lái. Tôi
phải đi ngủ.
Mặt trời đã chìm hẳn xuống đại dương đang sôi động.
Và vượt khỏi bàn tay của Tây Ban Nha, con tàu "Macgaret" quay cái mũi
sây sát của mình về phía Uetxan. Về phía nước Anh.
Đoạn
kết
Đ
|
ã mười năm trôi qua kể từ ngày thuyền trưởng Xmit
lái con tàu "Macgaret" vượt qua cửa sông Građankivi một cách tài tình
như vậy.
Đang cuối tháng năm. ở Êxec các rừng cây đã xanh,
chim hót líu lo, và những đồng cỏ đầy hoa. ở thung lũng Đêthem tuyệt vời ta có
thể thấy một ngôi nhà không cao với nhiều mái nhỏ nhọn hoắt. Đó là một ngôi nhà
cổ xinh đẹp được xây bằng gạch đỏ và gỗ nay đã xạm đen vì năm tháng. Ngôi nhà
đứng trên một ngọn đồi không cao. Liền phía sau là một khu rừng, còn trước mặt
là một con đường hai bên có những cây sồi to, chạy dài ngang qua khu vườn, tới
con đường lớn đi về phía Cônsextơ và Luân Đôn. Vào một ngày tháng Năm, một ông
già tóc bạc phơ có đôi mắt đen nhanh nhẹn đang bước đi trên con đường rợp bóng
cây xanh ấy. Cùng đi với ông có ba đứa trẻ - một cậu bé mười tuổi và hai cô bé
hơn đang bám tay vào gấu áo ông già, và luôn miệng hỏi ông mọi chuyện.
- Ông ơi, chúng ta đang đi đâu? - Một cô bé hỏi.
- Tới thăm thuyền trưởng Xmit, cháu ạ, - ông già
đáp.
- Cháu không thích thuyền trưởng Xmit, - cô bé thứ
hai lên tiếng, - ông ấy to béo và chẳng bao giờ nói chuyện!
- Nhưng cháu lại thích ông ấy, - cậu bé nói xin vào,
- ông ấy cho cháu một con dao tuyệt đẹp mà cháu rất cần khi chơi trò thủy thủ.
Và cả mẹ, cả bố, cả ông cũng yêu ông ấy, vì ông ấy đã cứu ông khỏi bị bọn Tây
Ban Nha độc ác thiêu chết. Có đúng thế không ông?
- Đúng thế, cháu ạ, - ông già đáp. - Trông kìa, một
con sóc đang chạy trên cỏ. Các cháu có bắt được nó trước khi nó chạy tới cây không?
Bọn trẻ ùa lao theo, và vì cây không cao nên chúng
cũng leo lên theo con sóc. Trong khi ấy Giôn Caxten - vì quả người này đúng là
Giôn Caxten - đi ra khỏi cổng vườn và tiến về phía một ngôi nhà nhỏ bên đường.
Trên chiếc ghế cạnh nhà có một người to béo đang ngồi. Có lẽ ông ta đã chờ
khách từ trước. Ông ta chỉ cho khách một chỗ bên cạnh trên ghế. Khi Caxten ngồi
xuống, ông ta hỏi:
- Sao hôm qua ông chủ không tới?
- Vì phong thấp, ông bạn ạ, - Caxten trả lời. - Tôi
mắc chứng bệnh này trong khi bị giam ở tầng hầm của tòa án dị giáo đáng nguyền
rủa nọ ở Xêvin. Cái tầng hầm ấy thật ẩm ướt và lạnh lẽo, - ông nói thêm.
- Thế mà đối với nhiều người nó lại quá nóng bức, -
thuyền trưởng Xmit lầu bầu nói. - Vả lại, thường sau tầng hầm ấy là ngọn lửa
giàn thiêu rừng rực. Kể cũng lạ là sau đó chẳng bao giờ ta còn nghe nhắc đến vụ
này nữa. Tôi nghĩ tất cả do việc hoàng hậu Ixaben yêu mến Macgaret của chúng
ta, nên đã không yêu cầu vua Anh can thiệp vào việc này, nghĩa là không muốn
khuấy đục nước lên làm gì.
- Có thể là thế, - Caxten nói. - Quả thực lúc ấy
nước có đục thật.
- Đục à? Như nước sông Tem lúc thủy triều rút vậy.
Hoàng hậu Ixaben là một người phụ nữ thông minh. Không ai bằng bà biết cách làm
nhục người khác như bà đã làm nhục Môrela khi trao hắn cho Bêti, và thay mặt
hắn hứa sẽ công nhận cô ta là vợ hắn. Sau vụ ấy, hắn chẳng còn gì đáng nguy
hiểm trong việc âm mưu chống lại nhà vua. Vâng, hắn buộc phải trở thành trò
cười cho cả nước, mà những người như hẳn thì chẳng bao giờ còn làm nên trò
trống gì nữa. Chắc ông còn nhớ cái câu tục ngữ Tây Ban Nha này: "Kiếm vua
chém đứt cổ, lửa giàn thiêu của nhà thờ thiêu chết người, nhưng những bài hát
vui ngoài phố còn tai hại hơn gấp bội". Tôi rất muốn biết những gì đã xảy
ra với tất cả những người quen của chúng ta.
Còn ông thì thế nào, ông chủ? Tất nhiên không kể đến Becnanđex - đã
nhiều năm nay ông ta sống ở Pari và nghe nói sống không đến nỗi tồi lắm.
- Vâng, Caxten mỉm cười, - tất nhiên tôi cũng muốn
biết, miễn là phải tới Tây Ban Nha.
Đúng lúc ấy bọn trẻ quay lại, cùng một lúc chạy ùa vào cổng.
- Này, những tên cướp tí hon kia, không được dẫm nát
hoa của tôi đâu nhé! - Thuyền trưởng Xmit vừa quát, vừa giơ gậy ra dọa, trong
khi bọn trẻ trốn sau lưng, nhăn mặt nhăn mũi trêu ông.
- Con sóc đâu, Pitơ? - Caxten hỏi.
- Bọn cháu đuổi nó từ cây xuống, ông ạ, rồi vây
quanh trên bờ suối, và ở đó...
- ở đó thì sao? Có bắt được không?
- Thưa ông, không. Khi bọn cháu tưởng đã bắt được
rồi thì nó nhảy xuống nước, bơi đi.
- Có một số người xử sự đúng như thế trong những
tình huống khó khăn, - Caxten vừa cười nói, vừa nhớ lại một bờ sông xa xưa.
- Bực thật! - Đứa bé phụng phịu nói to. - Đáng lẽ
sóc không được bơi mới phải. Nếu bắt được, cháu sẽ nhốt nó vào lồng.
- Ông nghĩ bây giờ con sóc ấy suốt đời sẽ ở
lại trong rừng.
- Ông ơi! Ông ơi! - Cô bé thứ nhất ló đầu vào cổng
kêu to. Có nhiều người đang cưỡi ngựa tới đây. Ông lại đây mà xem! Đẹp lắm.
Cái tin này làm hai ông già tò mò, vì thường không
có nhiều người tới khu Đêthem này. ít ra thì họ cũng đứng dậy, mặc dù khá vất
vả, và họ cùng đi về phía cổng. Vâng, đứa bé đã nói đúng: cả một đoàn người
ngựa đông đảo đang ở cách họ khoảng hai trăm mét. Cưỡi một con ngựa tuyệt vời
đi phía trước một là người đàn bà cao, mặc đồ đen bằng lụa, mặt được che bởi
một chiếc mạng cũng màu đen. Cưỡi ngựa đi cạnh bà ta là một người đàn bà khác,
khăn áo trùm kín người, như thể khí hậu nơi này quá lạnh lẽo. Một chú bé xinh
đẹp cưỡi một con ngựa đi giữa họ. Tiếp theo là khoảng sáu hoặc tám người hầu cả
nam lẫn nữ và một cỗ xe lớn chất đầy đồ đạc do bốn con ngựa khỏe mạnh xứ
Flamăng kéo.
- Ai đấy nhỉ? - Vừa nhìn, Caxten vừa khẽ kêu lên.
Thuyền trưởng Xmit cũng nhìn về phía trước và hít
hít mũi như ông vẫn thường làm như thế khi ở trên boong tàu vào buổi sáng đầu
sương mù xa xưa nọ.
- Tôi thấy như có mùi của bọn Tây Ban Nha, - ông
thuyền trưởng nói, - mà tôi thì không yêu cái mùi ấy. Ông hãy nhìn cỗ xe của
họ. Nào ông chủ, ông thấy con tàu ba buồm sặc sỡ này làm ông nhớ tới ai.
Caxten lắc đầu vẻ bất lực.
- Tôi nhớ tới một cô gái cao dong dỏng, sặc sỡ đang
chạy trên nền cát trắng trong cuộc đấu kiếm ở Xêvin. à, mà tôi quên rằng lúc đố
ông không có ở đó.
Họ nghe một giọng nói to, lanh lảnh đang ra lệnh bằng tiếng Tây Ban
Nha cho ai đó chạy đi hỏi xem cổng vào ở đâu. Caxten liền nhận ngay ra người
phụ nữ đang cưỡi ngựa.
- Ôi, Bêti! - Caxten kêu lên. - Tôi xin lấy bộ râu
Abraam này thề rằng đây là Bêti!
- Tôi cũng nghĩ thế, có điều ông chủ không nên nhắc
đến Abraam làm gì. ở những nước theo đạo Thiên Chúa, nhắc tên Ngài là điều nguy
hiểm. Ông có thể nói: "Thề bằng các chìa khóa của thánh Pitơ", hay
"Thề bằng các thứ bệnh của thánh Pôn" cũng được.
- Này cháu, - Caxten nói với một trong những đứa
cháu của mình, - cháu hãy chạy vào nhà nói với bố mẹ có co Bêti tới thăm, mang
theo mình cả một nửa nước Tây Ban Nha. Nhanh lên: hãy nhớ tên là Bêti nhé!
Cô bé ngạc nhiên chạy đi, còn Caxten và Xmit thì đi
về phía những người khách mới đến.
- Chúng tôi có thể giúp bà được gì không, thưa bà? -
Caxten hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha.
- Nữ hầu tước Môrela, nếu ông muốn... - Bà kia đáp
bằng tiếng Tây Ban Nha, sau đó nói tiếp bằng tiếng Anh. - Trời ơi! Đây là Giôn
Caxten, ông chủ cũ của tôi, có điều bộ râu xưa màu đen nay thành màu trắng!
- Nó bắt đầu đổi màu từ khi lão linh mục - thợ cạo
cạo râu tôi trong nhà tù của tòa án dị giáo, Caxten nói. - Nào xuống ngựa đi,
Bêti thân mến... à, xin lỗi, bà nữ hầu tước Môrela vô cùng danh giá và đáng
kính. - Hãy hôn tôi đi!
- Cháu sẽ hôn hai mươi lần nếu bác muốn! - Bêti kêu
lên, rồi từ lưng ngựa nhảy ào xuống vòng ôm của Caxten, và nếu không được ông thuyền
trưởng Xmit đỡ, chắc cả hai đã ngã xuống cỏ.
- Còn ai thế này? - Bêti hỏi, sau khi hôn Caxten và
bắt tay ông thuyền trưởng, - mà không cần phải hỏi nữa: Chúng có đôi mắt của cô
em họ của cháu và chiếc mũi dài củ Pitơ. Bây giờ hai người thế nào?
- Rồi một vài phút nữa cô sẽ biết, hãy cho người và
đồ đạc vào nhà, tuy tôi chẳng biết họ sẽ ở đâu cho hết. Còn cô thì đi với chúng
tôi.
Bêti có ý lưỡng lự, vì cô ta muốn gây hiệu quả thật
lớn bằng cách xuất hiện một lúc với cả đoàn tùy tùng đông đúc. Nhưng đúng lúc
ấy Pitơ và Macgaret xuất hiện, - Macgaret bế một đứa bé trên tay, còn Pitơ thì vẫn như xưa: người gầy, chân và
tay đều dài, khuôn mặt nghiêm khắc với đôi mắt hiền hậu. Đi sau họ là đám người
hầu và cô bé Macgaret.
Đúng là một cuộc gặp gỡ thật xúc động và ồn ào. Nhưng cuối cùng cả
đám tùy tùng đã được dẫn vào nhà, và đồ đạc được đỡ xuống. Theo sau họ là bọn
trẻ và cậu bé Tây Ban Nha mà chúng đã kịp làm quen. Chỉ còn lại Bêti và người
phụ nữ đang bọc kín mình trong khăn choàng và quần áo. Pitơ nhìn người này một
lát, thấy có vẻ quen quen.
Hình như bà ta nhận thấy chàng đang quan sát mình.
Như thể ngẫu nhiên, bà ta hất ngược một trong những chiếc khăn đang che kín
mặt, để lộ một con mắt dịu dàng và trong sáng, và một bên má màu xạm nắng. Pitơ
liền nhận ra đó là ai.
- Cô khỏe không, Inex? - Chàng vừa nói vừa mỉm cười,
chìa tay cho Inex, vì quả thật chàng rất vui mừng được gặp lại nàng.
- Một du khách tội nghiệp ở một đất nước xa lạ và
lạnh lẽo cảm thấy mình khỏe thế nào, thì tôi cũng khỏe thế ấy, ông Pitơ ạ, -
nàng đáp bằng giọng mỏi mệt. - Nhưng tôi tự an ủi mình rằng tôi đang được gặp
lại một người bạn cũ mà lần cuối cùng tôi nhìn thấy trong quầy hàng của một ông
thợ làm bánh. Ông nhớ chứ?
- Nhớ! - Pitơ kêu to. - Làm sao có thể quên những
chuyện như thế được? Inex, sau này cha Enrikê ra sao? Tôi có nghe nhiều tin
khác nhau về ông ta.
- Khó có thể nói điều gì cụ thể về lão, - Inex đáp, hé mở đôi môi
đỏ luôn mỉm cười của mình. - Trong lâu đài cổ của người Mô, nơi tòa án dị giáo
làm việc, có quá nhiều phòng gia, nên dù được thông báo rất tốt, cũng khó lòng
mà biết được ai bị giam ở đâu. Tôi chỉ biết một điều là lão linh mục tội nghiệp
ấy đã phải khốn đốn vì chúng ta. Người ta nghi ngờ về cách xử sự của lão trong
cuộc diễu hành ra quảng trường thành phố. Điều này có thể thuyền trưởng Xmit
còn nhớ, - Inex hất đầu chỉ về phía ông thuyền trưởng. - Ngoài ra đối với một
người có chức vụ như lão, việc tới thăm các khu Do Thái và viết các bức thư
không cẩn thận quả là một điều rất nguy hiểm. Không, không phải bức thư ông
đang nghĩ đâu, tôi là người biết giữ lời hứa. Đấy là những bức thư lão viết yêu
cầu tôi cho xin bức thư tai hại kia. Một số trong các bức thư ấy đã lọt ra
ngoài.
- Lão bị giết rồi à? - Pitơ hỏi.
- Tôi nghĩ thậm chí còn tội tệ hơn, - Inex đáp. -
Lão đã bị chôn sống.
- Tội nghiệp lão! - Pitơ thở dài nói.
- Vâng, - Inex đăm chiêu đáp. - Các thầy thuốc
thường không thích các loại thuốc do chính họ làm ra.
- Tôi thấy là hầu tước Môrela đã không truy lùng cô,
- Pitơ nói sau khi nhìn về phía Bêti.
- Chỉ linh hồn của ông ta thôi, không hơn,
thưa ông Pitơ.
- Nghĩa là ông ta đã chết? Cái gì giết chết ông ta?
- Tiếng cười, tôi nghĩ thế, hay nói đúng hơn chính
việc ông ta đã trở thành trò cười đã giết chết ông ta. Ông ta đã bình phục hẳn
sau lần bị ông chém bị thương. Tất nhiên sau đó ông ta phải giữ đúng như lời
hứa của hoàng hậu, và đã phải công nhận Bêti là vợ của mình. Ông ta không thể
không làm điều ấy sau khi Bêti đã giành lại ông ta từ tay ông, bằng chính thanh
kiếm của ông, và chạy chữa lành lặn. Nhưng thế cũng chưa hết. Trên các đường
phố người ta đã hát giễu ông ta, và hỏi thăm về bà mẹ nuôi của ông ta là hoàng
hậu Ixaben, vì chính hoàng hậu đã thay mặt ông ta hứa và thề. Sau đó người ta
còn hỏi ông ta rằng bà nữ hầu tước có làm gãy mũi giáo nào khi bảo vệ ông ta
nữa không, vân vân và vân vân.
- Tội nghiệp! - Pitơ nói với vẻ thông cảm thật sự. -
Số phận thật nghiệt ngã! Thà ông ta bị tôi giết chết còn hơn.
- Tất nhiên. Nhưng đừng nói điều này trước mạt Bêti
- cô ta tin rằng Môrela là một người chồng hạnh phúc dưới sự che chở của cô ta.
Ông ta lặng lẽ chịu đựng, đến nỗi cả tôi, căm thù ông ta đến thế mà cũng lấy
làm thương hại. Ông thử nghĩ xem: một trong những người kiêu hãnh nhất Tây Ban
Nha, một đại quý tộc nổi tiếng, cháu ruột của Đức vua, trụ cột của giáo hội,
đại sức Tây Ban Nha ở xứ Mô, thế mà bị biến thành trò cười cho đám dân hạ lưu,
và cả giứi quý tộc nữa.
- Quý tộc? Ai thế?
- Hầu như tất cả, vì hoàng hậu đã làm gương cho họ
noi theo. Tội biết cái gì làm bà ta căm ghét ông ta đến thế. - Inex nói thêm, chăm
chú nhìn Pitơ, nhưng không chờ trả lời, nàng tiếp: - Hoàng hậu làm điều ấy rất
thông minh, bằng cách bao giờ cũng dành riêng các buổi tiếp đón thân mật cho
Bêti, mời cô ta tới chơi và luôn khen ngợi vẻ đẹp kiểu Anh của cô... Mà những
gì hoàng hậu đã làm thì tất cả sẽ làm theo, đến mức cô chủ dễ bốc đồng của tôi
suýt nữa ngất đi vì chóng mặt. Còn hầu tước Môrela thì luôn cảm thấy khó chịu,
và sau khi thành Granađa bị chinh phục, ông ta tới đó để được sống yên ổn. Bêti
cũng đi theo. Cô ta là một người vợ tốt và đã tiết kiệm cho ông ta khá nhiều
tiền. Cô ta mới chôn cất Môrela được một năm - ông ta chết một cách lặng lẽ, và
cô ta dựng cho chồng một trong những bức tượng lớn nhất Tây Ban Nha, đến nay
còn chưa hoàn thành. Đấy, tất cả câu chuyện là thế. Bây giờ cô ta đưa con trai,
cậu hầu tước trẻ tuổi, tới đây, sống ở nước Anh một hoặc vài năm, vì cô ta có
trái tim rất hiền hậu,và cũng rất muốn gặp lại mọi người ở đây. Vả lại cô ta
cho rằng sẽ tốt hơn nếu để con trai rời Tây Ban Nha trong một thời gian. Còn tôi
thì bây giờ, sau cái chết của Môrela, tôi là một thứ hai trong nhà - một lúc
vừa là thư kí vừa là người thu nhận tin tức chính, vân vân.
- Cô lấy chồng rồi chứ? - Pitơ hỏi.
- Không, Inex đáp. - Lúc trẻ, tôi đã gặp quá nhiều
đàn ông, và tôi nghĩ như thế là đủ. Hay có thể nói rằng, - Inex ngước đôi mắt
dịu dàng và long lanh nhìn Pitơ, - đã từng có một người tôi rất cảm tình, đến
mức...
Inex ngừng lời. Lúc ấy họ đang đi trên chiếc cầu nằm
đối diện tòa lâu đài cổ. Cô Bêti lộng lẫy và nàng Macgaret xinh đẹp được bao
quanh bởi nhiều người khác, đang vừa nói chuyện với nhau, vừa đi qua cửa vào
một phòng ngoài rộng rãi. Inex nhìn theo họ. Nàng thấy cạnh chân cầu thang có
chiếc áo giáp màu trắng loang lổ các vết đâm và chiếc khiên bị vỡ có vẽ hình
con chim ưng vàng - món quà của hoàng hậu Ixaben, - mà Pitơ đã sử dụng để đấu
và chiến thắng Môrela. Sau đó nàng lùi lại một bước rồi đưa mắt nhìn tòa nhà
với vẻ dò xét.
Vươn cao lên trên mỗi mái nhà của tòa nhà là một
chiếc tháp bằng đá được xây với mục đích tự vệ. Xung quanh tòa nhà là một đường
hào sâu và rộng. Bên trong đường hào ấy, ở góc phía nam của lâu đài, được bao
quanh bởi những cây phong và những cây tùng lâu năm, có một khu vườn nhỏ cách
biệt với các đường đi lại và các bụi hoa đang nở. ở cuối khu vườn, hầu như
khuất sau những cây liễu, là một bể bơi bằng đá cẩm thạch. Mới nhìn, Inex hiểu
ngay rằng với sự cho phép của hoàn cảnh và khí hậu, Pitơ đã xây khu vườn này
bắt chước một khu vườn khác ở một thành phố phương nam xa xôi là Granađa, bắt
chước cả từng bậc thang và ghế đá. Inex quay sang Pitơ, và lấy vẻ bình thản,
nàng nói:
- Thưa ông Pitơ, ông không từ chối đi dạo với tôi
trong khu vườn này chiều hôm nay chứ? Hình như trên cái tháp kia không có cửa
sổ nào cả.
Pitơ đỏ bừng mạt, đỏ như vết
sẹo trên má. Chàng cười đáp:
- Thế nhỡ có thì sao? Ta vào nhà thôi, Inex. Chưa ai
được chúng tôi vui mừng đón tiếp như cô, nhưng tôi sẽ không bao giờ đi dạo tay
đôi với cô trong vườn nữa
_____________
MỤC LỤC
Chương XIII
chuyện xảy ra ở quán trọ
Chương
XIV Inex và khu vườn của nàng
Chương
XV đóng vai của mình
Chương
XVI Bêti ra tay
Chương
XVII âm mưu
Chương
XVIII Ecmađađa thần thánh
Chương
XIX Bêti trả thù
Chương
XX hoàng hậu Ixaben
Chương
XXI Bêti trình bày trước tòa
Chương
XXII Giôn Caxten bị kết án
Chương
XXIII Cha Enrikê và bếp lò của người
thợ
làm bánh
Chương
XXIV Chim
ưng tấn công
Chương
XXV Tàu "Macgaret" ra biển
Đoạn
kết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét