Thơ Phật
NHỮNG LỜI VÀNG PHẬT
DẠY
*
Không được làm điều
ác.
Luôn làm những điều
lành.
Giữ tâm ý trong sạch,
Sẽ an lạc, yên bình.
*
Hãy gấp làm việc lành,
Ngăn tâm làm việc ác.
Người chưa làm việc
lành,
Tức cái tâm còn ác.
*
Ý quan trọng hơn Pháp.
Nếu ý thiện và lành,
Hành động tự sẽ thiện,
Như bóng không rời
hình.
*
Người trí không dao
động,
Như tảng đá bên khe,
Vẫn bình yên, tự tại,
Bất chấp lời khen chê.
*
Không Huệ, sẽ không
Thiền.
Không Thiền, không có
Huệ.
Ai có Thiền, có Huệ,
Người ấy gần Niết Bàn.
*
Pháp Thí thắng mọi
Thí.
Pháp Vị thắng mọi Vị.
Ái Diệt thắng Khổ Đau.
Pháp Hỷ thắng mọi Hỷ.
*
Ai thắng được Ái Dục
Sẽ thoát khỏi buồn phiền,
Như giọt sương buổi
sang
Chóng khô trên lá sen.
*
Không thể lấy Thù Hận
Diệt Thù Hận. Ở đời
Cái chiến thắng Thù
Hận
Không gì, ngoài Tình
Người.
*
Ai mặc áo cà-sa
Mà Tâm còn vương vấn,
Lòng còn đang thù hận,
Thì phí áo cà-sa.
*
Không đúng mà tưởng
đúng.
Không sai mà tưởng
sai.
Nghĩa là tu chưa đúng,
Nghĩa là đường còn
dài.
*
Ngôi nhà, mái chưa
chắc,
Nước mưa sẽ thấm vào.
Tu mà tâm chưa tịnh,
Tham dục sẽ thấm vào.
*
Người sống không phóng
dật,
Không buông thả, ăn
chơi,
Là người xây đê vững
Ngăn nước lụt cuộc
đời.
*
Cái Tâm mà không thiện
Là tự làm hại mình.
Ý nghĩ mà vẩn đục,
Dễ rơi vào Vô Minh.
*
Đừng cười chê người
khác
Việc đáng làm không
làm.
Hãy trách mình có lúc
Việc đáng làm không
làm.
*
Hương hoa thơm không
thể
Bay ngược gió. Tuy
nhiên,
Lời nói hay, việc
thiện
Lan tỏa khắp mọi miền.
*
Hương một rừng hoa đẹp
Không bằng lời nói hay
Của một người đức hạnh
Rách rưới như ăn mày.
*
Nghe và theo Chính
Pháp,
Lòng người sẽ tịnh
yên,
Như nước hồ sâu thẳm,
Không gợn một bóng
đen.
*
Vì chưa chịu vứt bỏ
Tham Sân Si nặng nề,
Ở đời rất ít kẻ
Vượt qua được Sông Mê.
*
Bỏ đam mê sở hữu
Để thư thái trong
lòng,
Người trí tự tẩy uế,
Bắt đầu từ bên trong.
*
Ai lòng trong như
suối,
Như đất, không hận
thù,
Vững vàng như trụ đá,
Người ấy là chân tu.
*
Cái Tâm mà an tịnh,
Lời an, Nghiệp cũng
an.
Thấu hiểu được Chính
Pháp,
Bận mấy cũng thấy
nhàn.
*
Người chân tu lưu trú
Không cố định nơi nào.
Tự do và tự tại
Như đàn ngỗng trên
cao.
*
Để giữ được đầu óc
Luôn tỉnh táo, an
bình,
Mọi người có trách
nhiệm
Chăm lo sức khỏe mình
*
Cả hàng nghìn lời
giảng
Rối rắm và dài dòng,
Không bằng một câu
ngắn
Làm người nghe ấm
lòng.
*
Nơi chiến trường ác
liệt
Có thắng nghìn tinh binh,
Không đáng khen, không
khó
Bằng chiến thắng chính
mình.
*
Không được lửa đốt
cháy,
Ngọn nến không lung
linh.
Con người không thể
sống
Thiếu cuộc sống tâm
linh.
*
Không tìm thấy chân lý
-
Hai nguyên nhân như
sau:
Một là bỏ dang giở.
Hai là không bắt đầu.
*
Người nào biết kiềm
chế
Các suy nghĩ của mình,
Người ấy sẽ đắc đạo,
Thoát khỏi vòng Vô
Minh.
*
Không ai cứu được ta
Ngoài chính bản thân
ta.
Cũng không ai, dẫu
muốn,
Sống và chết hộ ta.
*
Chỉ những người ngu
ngốc
Mới tìm cớ để lười.
Người thông minh thực
sự
Luôn bận rộn suốt đời.
*
Ghen tị là ngu ngốc,
Chỉ gây khổ cho mình.
Ai có tính ghen tị,
Đầu óc không yên bình.
*
Hãy cân nhắc thật kỹ
Những lời sắp nói ra.
Vì người nghe có thể
Buồn vì lời của ta.
*
Nghìn ngọn nến thắp
sáng
Từ một ngọn. Ở đời,
Hạnh phúc sẽ vô tận,
Nếu chia cho mọi
người.
*
Không có gì đáng sợ
Bằng thói quen nghi
ngờ.
Nghi ngờ, lo thất bại
Làm chết yểu ước mơ.
*
Nghi ngờ khiến bạn tốt
Trở thành thù hận
nhau.
Nó là con dao sắc
Làm trái tim nhói đau.
*
Anh thương yêu người
khác
Mà không thương yêu
mình,
Thế là chưa đầy đủ,
Chưa hợp lý, hợp tình.
*
Ba điều quan trọng
nhất:
Một - có nghĩa, có
tình.
Hai là biết buông bỏ.
Ba là sống hết mình.
*
Cho dù anh có nói
Cả một nghìn lời hay.
Không kèm theo hành
động,
Vô bổ nghìn lời này.
*
Bám theo cái gì đó
Không ngừng nghỉ đêm
ngày,
Cuối cùng cũng phải
bỏ.
Đơn giản vì mỏi tay.
*
Phải nghi ngờ tất cả,
Nhưng không nghi ngờ
mình.
Chỉ tin sau khi có
Các bằng chứng chứng
minh.
*
An lạc là bậc trí,
Không hận giữa hận
thù.
Giữa những người thù
hận,
Biết sống không hận
thù.
*
Bông hoa đẹp đến mấy,
Không hương cũng vứt
đi.
Người nói hay đến mấy,
Không làm cũng vứt đi.
*
Ngu bình thường, nếu
biết
Rằng mình là người
ngu.
Ngu mà tưởng mình giỏi
Thì đúng là đại ngu.
*
Không có kẻ hơn mình,
Không có kẻ ngang mình
Để học hỏi, kết bạn,
Thì thà sống một mình.
*
Như con ong hút mật
Hút mật, không phá
hoa,
Các tỳ kheo khất thực
Không làm phiền chủ
nhà.
*
Không phải là điều dữ
Kết thân với người
lành.
Không phải là sự dốt
Học hỏi người thông
minh.
*
Người ham danh, ngu
dốt
Thích ngồi ở chỗ cao.
Người thực sự tài đức
Ngồi bất cứ chỗ nào.
*
Người tốt làm việc
thiện
Chỉ được người tốt
yêu.
Người ác thì ghen tị
Và tìm cách đặt điều.
*
Nông dân lo cày ruộng.
Thợ gốm lo vắt bình.
Người trí lo tu tập.
Trẻ nhỏ lo học hành.
*
Biết xa lìa ngũ dục,
Bỏ cái Tham Sân Si,
Lòng ta sẽ đầy ắp
Cái Hỷ Xả Từ Bi.
*
Người chưa theo Chính
Pháp,
Cái Tham còn nặng nề,
Thì làm sao có thể
Vượt qua được Sông Mê?
*
Bỏ gia đình chật hẹp,
Thoát cám dỗ ma tà,
Người trí luôn chọn
cách
Tu hành và xuất gia.
*
Giàu có hay nghèo đói,
Khi trở thành tỳ kheo,
Mọi người đều bình
đẳng,
Không giàu, cũng không
nghèo.
*
Chỉ các vị La Hán
Bỏ hết Tham Si Sân,
Được Chính Nghiệp giải
thoát
Khỏi Nhân Quả, Kiếp
Luân.
*
Người chân tu đích
thực
Thích sông núi, đất
trời.
Ngược lại, người phàm
tục
Thích những chỗ đông
người.
*
Tụng cả ngàn câu kệ
Dẫu chân thành, say
mê,
Không bằng một câu nói
Làm ấm lòng người
nghe.
*
Chiến thắng mình rất
khó.
Để chiến thắng chính
mình,
Phải kiềm chế tham dục
Đang luôn cám dỗ mình.
*
Suốt năm làm công đức
Cũng không bằng một
lần
Bước ra cửa, lặng lẽ
Dâng cơm mời sư ăn.
*
Có sống đến trăm tuổi,
Phá giới, không tu
thiền,
Không bằng sống một
phút
Trì giới và tu thiền.
*
Có sống đến trăm tuổi
Mà trong vòng Vô Minh,
Không bằng sống một
phút
Thoát được vòng Vô
Minh.
*
Nếu đã nhỡ làm Ác,
Không được làm Ác
thêm.
Thay vào đó, sám hối.
Sám hối suốt ngày đêm.
*
Phải luôn nhớ làm
Lành.
Bao giờ cũng làm Lành.
Vì chế ngự làm Ác
Chính là nhờ làm Lành.
*
Chớ coi thường điều Ác,
Dù nhỏ nhặt hàng ngày.
Giọt nước rơi, dù nhỏ,
Cuối cùng bình cũng
đầy.
*
Gieo Ác thì gặt Ác.
Gieo Lành thì gặt
Lành.
Không người nào có thể
Thoát được Nghiệp của
mình.
*
Không ai thoát cái
chết.
Cũng không ai xưa nay
Thoát được cái Nghiệp
Ác
Mình đã làm trước đây.
*
Không phải là ích kỷ
Việc mình biết thương
mình.
Thân mình chưa lo nổi,
Còn giúp gì chúng
sinh?
*
Ai cũng sợ cái chết
Và sợ bị đánh đau.
Tự suy mình thì biết.
Vậy đừng làm hại nhau.
*
Trước những lời độc ác
Anh im lặng, thì anh
Đã tước hết vũ khí
Của người muốn hại
mình.
*
Người nói lời độc ác
Mà người khác không
nghe.
Thì lời độc ác ấy
Rốt cục chỉ mình nghe.
*
Còn trẻ mà bất lực
Không lo được cho
mình,
Thì về già, sức yếu
Làm được gì cho mình?
*
Người mà biết hổ thẹn
Rồi lặng lẽ tu mình,
Tức là tới đắc đạo
Đã đi nửa hành trình.
*
Người mà đã ngu dốt,
Không học hành, chân
tu,
Thì chỉ như trâu ngựa,
Lớn xác mà vẫn ngu.
*
Giảng đạo cho người
khác,
Mà trước hết chính
mình
Chưa thành người đắc
đạo,
Thì là điều đáng
khinh.
*
Suy cho cùng, sướng
khổ
Đều hoàn toàn do ta.
An lạc hay lo lắng
Đều hoàn toàn do ta.
*
Không nên vì người
khác
Mà quên bản thân mình.
Người biết lo cho mình
Mới giúp được người
khác.
*
Cuộc đời này bèo bọt
Như đám mây trên trời.
Ai hiểu được điều ấy
Mới an lạc, thảnh thơi.
*
Hãy luôn giữ Năm Giới.
Xua cái buồn khỏi rầu.
Luôn ăn uống chừng
mực.
Hàng ngày thiền thật
lâu.
*
Người ta hay làm Ác
Vì có lợi cho mình.
Người ta ít làm Lành,
Vì không lợi cho mình.
*
Thắng, sẽ bị thù oán.
Sẽ đau buồn nếu thua.
An lạc và hạnh phúc
Khi không màng thắng
thua.
*
Hỷ Ái gây đau khổ,
Biệt ly và buồn lo.
Bỏ hết được Hỷ Ái,
Ta thoát được buồn lo.
*
Không kiêu căng, giận
dữ,
Không ràng buộc điều
gì.
Thoát được Tham Sân
Si,
Tức là đã thành Phật.
*
Tức giận với người
khác
Là chuốc vạ vào mình.
Tha lỗi cho người khác
Tức là tha cho mình.
*
Lấy Thật thắng Giả
Dối.
Lấy Thiện thắng Gian
Tà.
Lấy Không Giận thắng
Giận.
Lấy Cúng Dường thắng
Ma.
*
Kiềm chế không tức
giận.
Chỉ nói lời tốt lành.
Luôn chăm lo đạo pháp,
Tâm trí sẽ tốt lành.
*
Không lửa nào dữ dội
Bằng lửa dục ái tình.
Không đêm nào đen tối
Bằng đêm tối Vô Minh.
*
Người thực sự tài giỏi
Trước hết phải là
người
Tự mình thắng Sân Hận,
Rồi mới cứu giúp Đời.
*
Mang bát đi khất thực
Chưa hẳn là tỳ kheo.
Chuyên tu hành thanh
tịnh
Mới đích thực tỳ kheo.
*
Người tử tế phải tránh
Những kẻ xấu đáng chê.
Phải dọn sạch cỏ dại
Trước khi trồng Bồ Đề.
*
Đã là người tâm thiện,
Không phạm tội sát
sinh,
Không nói dối, uống
rượu
Để mình tự hại mình.
*
Có lỗi thì nhận lỗi.
Không có thì bảo
không.
Tự khắc sẽ thanh thản,
Không vấn vương trong
lòng.
*
Hãy nên làm một mình.
Hãy nên đi một mình.
Hãy một mình tu luyện
Để đắc đạo một mình.
MƯỜI BỐN ĐIỀU RĂN CỦA
PHẬT
Kẻ thù nguy hiểm
nhất
Của mình là chính
mình.
Sai lầm to lớn nhất
Là tự đánh mất
mình.
Cái ngu dốt lớn nhất
Là dối lừa, ba hoa.
Tội lỗi to lớn nhất -
Bất hiếu với mẹ cha.
Lễ dâng tặng lớn nhất
Là khoan dung với
người.
Niềm an ủi lớn nhất
Là bố thí cho đời.
Sự khâm phục lớn nhất
-
Ngã, đứng dậy rồi đi.
Điều đáng thương hại nhất
Là khi anh tự ti.
Tài sản đáng giá nhất
-
Sức khỏe và thông
minh.
Món nợ khó trả nhất -
Chưa ăn ở có tình.
Điều đáng lên án nhất
Là tự cao, khinh đời.
Cái buồn đáng buồn
nhất
Là ghen tị với người.
Sai lầm to lớn nhất
Là thất vọng, ê chề.
Còn khiếm khuyết lớn
nhất
Là ngu dốt, u mê.
TAM BẢO VÀ NGŨ GIỚI
Phật dạy, muốn theo Phật,
Phải làm lễ quy y
Tức quy y Tam Bảo,
Nương tựa cửa Từ Bi.
Thứ nhất là Phật Bảo:
Yêu tin Phật thực lòng.
Phật là đức cứu độ,
Với tình yêu mênh mông.
Nó là Tuệ Cụ Túc,
Tức có được Niềm Tin
Vào con đường đã chọn
Để Nghe, Ngẫm và Nhìn.
Thứ hai là Pháp Bảo,
Tức Giáo Lý của Ngài,
Theo đó, phải diệt dục
Để thoát khổ trần ai.
Nó là Tín Cụ Túc,
Niềm Tin để mọi người
Chăm chân tu, hành đạo
Cứu mình và cứu đời.
Thứ ba là Tăng Bảo.
Tăng là các nhà sư
Giúp ta đến với Phật
Khoan dung và nhân từ.
Nó là Thí Cụ Túc:
Các nhà sư giúp ta,
Ta phải nuôi nấng họ.
Mối quan hệ hài hòa.
Ba Cụ Túc đã nói
Cùng Cụ Túc thứ tư
Thành Tứ Bất Hoại Tín
Của Đạo Phật nhân từ.
Đó là Giới Cụ Túc,
Tức là Năm Điều Răn
Mà chúng ta phải tránh
Khi sống ở đời trần.
Không vi phạm Năm Giới:
Một, không được Sát Sinh.
Hai, không được Trộm Cắp,
Lấy cái không của mình.
Ba, liên quan sắc dục,
Quyết không được Dâm Tà.
Bốn, không được Nói Dối,
Nói dối là xấu xa.
Năm, không được Uống Rượu.
Rượu làm mất thông minh,
Làm tổn hại sức khỏe
Và tan nát gia đình.
Giữ được Năm Giới ấy,
Ta sẽ sống thảnh thơi,
Yên tâm với hậu kiếp,
Không phạm tội ở đời.
Cuộc sống là giấc ngủ,
Mọi cái đều đổi thay.
Chỉ Tam Bảo, Ngũ Giới
Bất biến ở đời này.
BỐ THÍ VÀ CÚNG DƯỜNG
Sống, phải làm việc
thiện,
Mà không mong đợi gì.
Việc thiện giúp tâm
sáng,
Hỷ Xả và Từ Bi.
Bi là giúp người khác
Thoát nỗi khổ cuộc
đời.
Từ - đem niềm vui đến
Cho tất cả mọi người.
Làm việc thiện, chủ
yếu
Là bố thí, cúng dường.
Không toan tính, vụ
lợi,
Trọn vẹn tình yêu
thương.
Bố thí là gieo thiện,
Gieo mầm đức, sau này
Người gieo hái quả
phước
Từ việc làm hôm nay.
Bố thí không nhất
thiết
Giá trị lớn, hoặc
nhiều,
Để cúng dường Tam Bảo,
Và giúp đỡ người
nghèo.
Phật dạy, giúp kẻ khó
Trong cuộc sống đời
thường
Là việc làm kính Phật,
Cũng một dạng cúng
dường.
Bố thí phổ biến nhất
Là cho tiền, thức ăn,
Tức tài thí, vật thí,
Đáng quí và rất cần.
Nhưng quan trọng hơn
cả
Là Pháp Thí, tức là
Giúp người khác cùng
hiểu
Và theo Phật Thích Ca.
Vì người biết theo
Phật
Là người sống có tâm,
Xa lánh những điều ác,
Giúp hạt thiện nảy
mầm.
Pháp Thí là phổ biến
Giáo lý Phật Thích Ca
Bằng viết hoặc in
sách,
Phân phát cho mọi nhà.
Giúp một người hiểu
biết,
Thì về sau người này
Sẽ giúp nhiều người
khác
Hiểu cái đúng, cái
hay.
Cứ thế, chân lý Phật,
Bác ái và từ bi,
Sẽ dần dần lan tỏa,
Chiến thắng Tham Sân
Si.
Cuối cùng - Vô Úy Thí
Là đem lại tình
thương,
Niềm vui, sự tĩnh tại
Trong cuộc sống đời
thường.
Thí chủ sẽ tìm cách,
Bằng lời dạy, lời
khuyên,
Giúp người khác nghị
lực,
Niềm tin và bình yên.
Tóm lại, như Phật dạy,
Làm bố thí giúp đời
Là việc làm đẹp nhất
Suốt trong cả kiếp
người.
Giá trị của bố thí
Không ở ít hay nhiều,
Mà ở lòng thí chủ,
Ở tình thương, tình
yêu.
Đức Phật cũng từng
dạy:
Cứu được một mạng
người
Hơn xây bảy chùa lớn,
Dù cao đẹp nhất đời.
VÃNG SANH
Đôi khi rất đơn giản,
Ta nghĩ sống làm
người,
Chết là coi như hết.
Ngắn ngủi một cuộc
đời.
Vì thế ta sống vội,
Chỉ biết ngày hôm nay,
Không lo, không chuẩn
bị
Cho thế giới sau này.
Không sợ luật Nhân
Quả,
Không biết vòng Luân
Hồi,
Ta buông xuôi, sống
thả,
Kiểu bèo dạt mây trôi.
Không một lần tự hỏi,
Không vương vấn trong
đầu:
Chúng ta từ đâu đến,
Và chết sẽ về đâu?
*
Sau sáu năm khổ hạnh,
Thái tử Tất Đạt Đa
Ngồi lặng lẽ thiền
định
Dưới cây bồ đề già.
Sang ngày thứ bốn
chín,
Mồng Tám tháng Mười
Hai,
Ngài chứng đạo Vô
Thượng,
Trở thành Phật, và
Ngài
Nay hoàn toàn giác
ngộ,
Tường tận hết Lục
Thông,
Biết được Sinh và Tử,
Luật Luân Hồi quay
vòng.
Ngài nói rằng người
chết,
Trong bốn mươi chín
ngày,
Sẽ vãng sanh trở lại
Trong sáu cõi dưới
đây:
Một, người tu Thập
Thiện,
Nhiều công đức với
đời,
Khi chết, được siêu
thoát,
Vãng sanh lên Cõi
Trời.
Hai, người giữ Ngũ
Giới,
Chuyên tâm làm việc
lành,
Khi lâm chung sẽ được
Vào Cõi Người vãng
sanh.
Những người tu Thập
Thiện,
Siêu thoát lên Cõi
Trời,
Khi hưởng hết phước
báo,
Lại quay về Cõi Người.
Ba, người có công đức,
Nhưng còn Tham Si Sân,
Ngạo mạn và ích kỷ,
Sẽ vào cõi Quỉ Thần.
Cõi này còn được gọi
Là cõi A Tu La.
Nửa tốt và nửa xấu
Như hầu hết chúng ta.
Ba Cõi còn lại khác:
Tùy tội lỗi của mình,
Mà khi chết buộc phải
Đầu thai thành Súc
Sinh,
Hoặc Ngạ Quỉ, quỉ đói,
Hay đày đọa suốt đời
Dưới chín tầng Địa
Ngục
Tăm tối, không mặt
trời.
Phật nói: Số người
chết
May mắn được đầu thai
Thành người, ít như
đất
Dắt ở móng tay Ngài.
Tức là số còn lại
Khổ nhiều kiếp, nhiều
đời,
Cho đến khi hết nợ
Mới lại được làm
người.
Các chúng sinh khi
sống
Phải sống thiện hàng
ngày
Để tránh ba Cõi Dữ
Của các kiếp sau này.
Luân Hồi và Nhân Quả
Là Luật của đất trời.
Không ai thoát được
nó,
Cả vật và cả người.
NGHIỆP
Nhân Quả trong tiếng
Phạn
Được gọi là Karma,
Thường hay dịch là
Nghiệp,
Phiên âm thành Yêt Ma.
Nghiệp dẫn tới Quả
Báo,
Liên tiếp mãi không
thôi,
Tạo thành Luật Nhân
Quả,
Trong vòng lớn Luân
Hồi.
Hồi là quay trở lại.
Luân nghĩa là bánh xe.
Bánh xe quay, thực
chất,
Quay đi lại quay về.
Con người sinh, rồi
chết.
Chết rồi lại được
sinh.
Con người mới là Quả
Của Nhân cũ của mình.
Ai đó, theo Phật dạy,
Được sinh ở đời này,
Tức là đã từng sống
Nghìn vạn kiếp trước
đây.
Người sinh ra, hình
tướng
Đẹp hay xấu khác nhau.
Cũng khác nhau sướng
khổ,
Phải nghèo hay được
giàu.
Đó là Nghiệp, Nhân
Quả.
Mọi cái có nhân duyên.
Ở ác thì gặp ác,
Ở hiền sẽ gặp hiền.
Muốn biết Nhân ngày
trước,
Hãy nhìn Quả hôm nay.
Nhìn việc làm hiện tại
Để biết Số sau này.
Muốn giàu, phải bố
thí,
Làm những điều tốt
lành.
Kiếp sau muốn sống
thọ,
Kiếp này không sát
sinh.
Muốn mặt mày tươi đẹp,
Phải vào chùa dâng
hoa.
Muốn tinh thần thoải
mái,
Không nóng giận, dâm
tà.
Tất cả đều do Nghiệp.
Mà Nghiệp gồm ba phần,
Mỗi phần có hai loại.
Nghiệp gồm Ý, Khẩu,
Thân.
Ý Nghiệp quan trọng
nhất.
Nó chi phối mọi điều.
Thiện Ý là trí tuệ,
Từ bi và thương yêu.
Ác Ý là nghĩ xấu,
Nghĩ chuyện Tham Sân
Si.
Nóng giận và ghen ghét,
Chẳng coi ai ra gì.
Khẩu Nghiệp là lời
nói.
Ác Khẩu là điêu toa,
Nói dối, gây hiềm
khích,
Hoặc khai man trước
tòa.
Thiện Khẩu là nói
thật,
Nói điều hay, điều
lành,
Giảng kinh hay thuyết
pháp,
Sâu xa và chân thành.
Thân Nghiệp và Khẩu
Nghiệp
Dễ nhận thấy ở người.
Cái Ác và cái Thiện
Trong việc làm và lời.
Thân Ác là làm ác,
Như trộm cắp, sát
sinh,
Đánh đập người, súc
vật,
Phá chùa, phá đền
đình.
Thân Thiện thì ngược
lại,
Bố thí và cúng dường,
Giúp đỡ người nghèo
khổ,
Sống bằng tình yêu
thương.
*
Vậy là ta đã biết,
Mọi cái có nhân duyên.
Ở ác thì gặp ác,
Ở hiền sẽ gặp hiền.
Nhưng nhiều người sống
thiện
Vẫn gặp ác, vì sao?
Còn lắm kẻ sống ác
Vẫn sướng, là thế nào?
Là vì hạt giống Thiện
Và giống Ác ở đời,
Như mọi hạt giống
khác,
Phải chờ mưa, chờ thời.
Nghiệp và Luật Nhân
Quả
Như Lưới Trời bủa vây.
Không người nào có thể
Thoát được Lưới Trời
này.
PHẬT A DI ĐÀ
Tên Phật, theo tiếng
Phạn,
Là A-mi-tab-ha,
Tức Vô Lượng Ánh Sáng,
Tức Phật A Di Đà.
Đức A Di Đà Phật
Là vị Phật đầu tiên
Trong vô số Đức Phật
Được tôn làm người
hiền.
Ngài được thờ nhiều
nhất
Trong Ma-hay-a-na,
Tức Đại Thừa, nhánh
Phật
Thịnh hành ở nước ta.
Theo truyền thuyết kể
lại,
Vô lượng kiếp trước
đây
Có vị vua hùng mạnh
Bất chợt trong một
ngày
Được Đức Phật thuyết
giáo,
Ngài từ ngôi, qui y,
Sau thành Phật, biểu
tượng
Của Trí Tuệ, Từ Bi.
Ngài bèn lấy Phật hiệu
Là Phật A Di Đà,
Pháp danh là Pháp
Tạng,
Đức độ và tài ba.
Thích Ca Mâu Ni Phật
Nói Ngài ở Tây Phương,
Hay Tây Phương Cực
Lạc,
Kiểu một dạng thiên
đường.
Cực lạc là sướng nhất,
Phong cảnh đẹp tuyệt
vời.
Ai muốn gì có ấy,
Nhưng chẳng ai ham
chơi.
Thay vào đó, tất cả
Nghe Phật A Di Đà
Thuyết pháp để thành
Phật,
Sống giữa cõi chói
lòa.
Nhiều phật tử tâm niệm
Khi chết được vãng sanh
Vào cõi trời của Phật,
Cực lạc và yên lành.
Trong lịch sử Đạo
Phật,
Phép niệm A-di-đà
Là một mốc quan trọng
Ở rất nhiều quốc gia.
Đây là cách tu mới -
Qua niệm Phật đời
thường,
Phật tử mong được đến
Cõi Cực Lạc Tây
Phương.
Để tới đấy, đơn giản,
Lúc lâm chung, người
ta
Nhớ mười lần tụng niệm
“Nam mô A-di-đà.”
Tưởng dễ, nhưng rất
khó,
Vì sắp chết, con người
Thường đau đớn, lú lẫn
Và quên hết sự đời.
Do vậy lúc còn sống
Các phật tử hàng ngày
Niệm càng nhiều càng
tốt
Câu niệm quen thuộc
này.
*
Ở các chùa hiện tại,
Ngoài tượng Phật Thích
Ca,
Ta còn thấy cả tượng
Đức Phật A-di-đà.
Tượng Ngài thường sơn
đỏ,
Tượng trưng mặt trời
hồng
Ở Tây Phương Cực lạc
Soi sáng mọi tấm lòng.
Tay Ngài cầm bát pháp,
Có khi một bông sen,
Đưa xuống, như nâng đỡ
Các phật tử cùng lên.
Đặc điểm nổi bật nhất
Của tượng A-di-đà,
Là tóc hình xoắn ốc,
Khác tóc Phật Thích
Ca.
Dưới chân tượng túc
trực
Một đôi công rất hiền,
Và công là biểu tượng
Giữ cuộc sống bình
yên.
Ai cũng muốn khi chết
Được hưởng lạc, yên
hòa.
Vậy hãy nhớ niệm Phật.
Nam mô A-di-đà.
NIỆM PHẬT
1
Có người đàn bà nọ,
Hiền thục và thông
minh,
Nhờ nghe Phật giảng
pháp,
Nên hiểu đời, hiểu
mình.
Bà hiểu về địa ngục,
Về nhân quả, hàng ngày
Rất chăm lo niệm Phật
Để siêu thoát sau này.
Bà còn khuyên hàng xóm
Và người thân của bà
Lúc nào cũng phải nhớ
Niệm Phật A Di Đà.
Thế mà bà bất lực
Không thuyết phục được
chồng.
Mà bà thì lo sợ
Địa ngục đang chờ ông.
Một hôm bà nghĩ kế,
Nói với ông thế này:
“Bây giờ nhiều trộm
cướp.
Tôi ở nhà suốt ngày.
Nhà lắm người qua lại,
Chẳng biết ai là ai.
Ta lấy chiếc chuông
nhỏ
Đem treo ở cổng ngoài.
Cứ phòng trước cho
chắc.
Mỗi lần ông về nhà,
Hãy rung chuông và
nói:
Nam mô A Di Đà.
Tôi nghe, ra mở cửa
Vì biết đó là ông.
Chỉ đơn giản như vậy.”
Và thế là ông chồng,
Dẫu không theo đạo
Phật,
Nhưng mỗi lần về nhà
Đều rung chuông và
nói:
Nam mô A Di Đà.
Vì không tin chính
pháp,
Nên khi chết, tiếc
thay,
Ông phải xuống địa
ngục,
Bị tra tấn hàng ngày.
Cả một bầy quỉ dữ
Ném ông vào vạc dầu,
Rồi vớt ra tùng xẻo,
Cưa chân và chặt đầu.
Đau quá, ông kêu thét.
Rồi buột miệng nói ra
Cái câu ông thường
nói:
Nam mô A Di Đà.
Đột nhiên vạc dầu tắt.
Cả địa ngục tối đen
Bỗng bất ngờ rực sáng.
Bốn bề thật tĩnh yên.
Có sứ giả mang đến
Lệnh của chính Diêm
Vương
Cho ông được trở lại
Với cõi người bình
thường.
“Tên này dẫu tội lỗi,
Nhưng công đức đủ dày
Vì đã niệm danh Phật.
Ta tha tội đọa đày.”
2
Lúc Đức Phật chứng quả
Phép Vô Thượng Bồ Đề,
Ngài bắt đầu giảng
pháp.
Rất nhiều người đến
nghe.
Trong số những người
ấy,
Một số vị sau này
Chứng quả A La Hán,
Luôn đi gió về mây.
Họ thoát vòng nhân
quả,
Thoát khổ đau, và rồi
Thoát cả vòng sinh tử
Cùng các kiếp luân
hồi.
Một vị trong số đó
Đã phát nguyện, ra tay
Cứu những người tội
lỗi,
Cả kiếp trước, kiếp
này.
Ông giúp họ giải thoát
Bằng tài đức của mình,
Chết, khỏi làm ngạ quỷ
Hay chịu kiếp súc
sinh.
Trong số bạn thời nhỏ,
Ông có một người quen,
Một hoàng tử cao quí
Nhưng độc ác và hèn.
Hoàng tử này bất hiếu,
Lập mưu giết vua cha
Để leo lên ngôi báu,
Sống thác loạn, xa
hoa.
Là một A La Hán,
Ông biết trước người
này
Sẽ chết, xuống địa
ngục
Chỉ sau đúng bảy ngày.
Ông đến báo điều ấy.
Tên vua nghe, thất
kinh,
Quỳ lạy ông, bạn cũ,
Xin ra tay cứu mình.
Ông nói: “Đã quá muộn.
Chỉ còn lại bảy ngày.
Có muốn tạo công đức,
Cũng rất khó điều này.
Chỉ còn lại một cách,
Là sửa lễ, dâng hoa
Và luôn miệng niệm Phật:
Nam mô A Di Đà!”
Tên vua ác bất hiếu
Đã nhất nhất nghe lời.
Nhờ thế được giải
thoái
Và tái sinh làm người.
3
Ngày xưa ở Ấn Độ
Có một vị thiền sư,
Giỏi pháp và đức độ,
Hòa nhã và nhân từ.
Ông giảng giáo lý
Phật,
Giác ngộ rất nhiều
người.
Nhờ thế họ sống tốt
Và có ích cho đời.
Thế mà ông không thể
Giác ngộ được cha
mình,
Một ông già bướng
bỉnh,
Sống trong vòng vô
minh.
Ông nói: “Để tĩnh tại
Và siêu thoát sau này,
Bố phải đọc Kinh Phật
Và niệm Phật hàng
ngày.”
Ông già đáp: “Vẽ
chuyện,
Làm những việc không
cần.
Đọc Kinh và niệm Phật
Thì lấy gì mà ăn.”
Thuyết phục mãi không
được,
Thiền sư rất buồn
phiền.
Cuối cùng nghĩ được kế
Với ông bố tham tiền.
“Một ông nhà giàu nọ
Nói với con điều này.
Vì ông ấy rất bận,
Không niệm Phật hàng
ngày.
Nên bỏ tiền nhờ bố
Hãy niệm Phật giúp
ông.
Cứ mỗi lần niệm Phật,
Bố được trả một đồng.
Bao nhiêu lần tùy ý.
Niệm càng nhiều càng
hay.
Bố nhớ đếm cẩn thận
Rồi nhận tiền cuối
ngày.”
Ông bố già bướng bỉnh
Liền đồng ý, tất
nhiên.
Và luôn miệng niệm
Phật
Để có được nhiều tiền.
Vừa niệm, ông vừa
nghĩ:
“Đúng là bọn nhà giàu.
Có tiền, tiêu hoang
phí
Vào những việc không
đâu.”
Ngày thứ hai, thật lạ.
Ông thấy hết buồn
phiền.
Vẫn luôn miệng niệm
Phật
Mà không nghĩ đến
tiền.
Tối thứ ba, giận dữ,
Ông bảo con trai mình:
“Cất tiền! Tự ta muốn
Niệm Phật và cầu
kinh!”
Từ đấy ông chăm chỉ
Niệm Phật A Di Đà,
Cả khi đi công chuyện,
Cả khi ngồi ở nhà.
Vì việc tụng niệm Phật
Làm ông bớt buồn
phiền,
Lòng thảnh thơi, tĩnh
lặng
Và ít nghĩ đến tiền.
4
Niệm Phật là công việc
Rất cần thiết hàng
ngày.
Giúp không làm việc
ác,
Không đi chệch đường
ngay.
Niệm Phật mở tri tuệ,
Làm tĩnh lặng cõi
lòng.
Được siêu thoát, cứu
độ
Nhờ ân đức tổ tông.
Niệm Phật để con cháu
Và gia đình bình yên.
Không đau ốm, bệnh
tật,
Tránh được mọi ưu
phiền.
Niệm Phật giải ân oán
Và nghiệp chướng trước
đây.
Để sống thiền, tĩnh
tại,
Phải niệm Phật hàng
ngày.
DIÊM VƯƠNG VÀ ĐỊA NGỤC
Diêm Vương trong tiếng Phạn
Là Ya-ma-ra-ja.
Khi dịch sang tiếng Hán,
Thành Diêm Ma La Già.
Nguyên gốc là như thế,
Nhưng sau, trong đời thường,
Người ta thích gọi tắt -
Diêm La Vương, Diêm Vương.
Trong giáo lý Đạo Phật,
Do Đức và do Tâm,
Ngài được giao trọng trách
Quản lý cả Cõi Âm.
Diêm Vương, theo truyền thuyết,
Là vua Vệ Xá Li,
Một người cũng từng mắc
Cái thói Tham Sân Si.
Trong một trận đánh lớn,
Quân ông thua, và ông
Trước khi chết chỉ có
Duy nhất một ước mong,
Là cai quản Địa Ngục.
Chư Phật rủ lòng thương
Cho ông được toại nguyện,
Trở thành Diêm La Vương.
Ông, cùng chín vị tướng
Và chín mươi nghìn quân,
Phải rũ sạch tội cũ
Bằng cách ngày ba lần
Bị bắt há to miệng
Để nuốt đồng đun sôi.
Họ phải chịu đau đớn
Đến sạch tội mới thôi.
Chín vị tướng tài giỏi
Sau thành người đứng đầu
Chín tầng của Địa Ngục.
Còn binh sĩ về sau
Trở thành lính cai ngục
Dữ dằn và vô tâm.
Một đội quân đông đúc
Thường trực dưới cõi âm.
Diêm Vương, khi đến hẹn,
Thông báo với mọi người
Giờ chết và cái giá
Họ phải trả cho Đời.
Ngài là người chính trực,
Xét xử rất công minh.
Thiện Ác, Công và Tội
Rất có lý, có tình.
Ngài có bà em gái
Tên gọi là Ya-mi,
Được giao việc cai quản
Các tội nhân nữ nhi.
*
Địa Ngục, trong
tiếng Phạn
Gọi là Na-ra-ka.
Tiếng Hán là Nại
Lạc,
Hoặc Na Lạc, Na La.
Người đời, sau khi
chết,
Tùy theo tội của mình
Bị đưa xuống Địa Ngục
Để Diêm Vương anh minh
Xét xử theo tội lỗi,
Sẽ đày đến tầng nào
Trong chín tầng Địa
Ngục,
Từ tầng thấp lên cao.
Cả chín tầng Địa Ngục
Đều khủng khiếp, ngoài
ra
Có mười sáu ngục phụ,
Sâu và rộng bao la.
Trong đó kinh khủng
nhất
Là ngục gọi A Tỳ,
Nơi đầy đọa những kẻ
Phạm tội ác cực kỳ.
1
Tầng đầu địa ngục
Ở tầng đầu địa ngục,
Sau khi xét, những
người
Có công ngang bằng tội
Được chuyển đến tầng
mười.
Tức là tầng, ở đó
Sau một thời gian dài
Tu niệm Phật, và họ
Được chuyển kiếp đầu
thai.
Tuy là tầng nhẹ nhất,
Tội nhân ở tầng này
Chịu cực hình tra tấn,
La hét suốt đêm ngày.
Người rượu chè, cờ
bạc,
Làm người thân đau
lòng
Phải leo những chiếc
cột
Được nung đỏ, bằng
đồng.
Người giết mổ động vật
Để xiên nướng trước
đây,
Giờ phải nằm giường
lửa
Trên chông nhọn và
dày.
Tội được coi nặng nhất
Là tội tự giết mình,
Không phụng dưỡng bố
mẹ
Và chăm sóc gia đình.
Tiếp đến là các tội
Bất hiếu, buôn bán
gian,
Tà dâm và nói dối,
Lười biếng, thích an
nhàn…
2
Tầng thứ hai
Người phạm tội, khi
chết
Bị bắt xuống tầng này
Càng bị đánh, tra tấn,
Đầy đọa suốt đêm ngày.
Mà sự đầy đọa ấy
Lặng lẽ dưới cõi âm,
Cứ kéo dài liên tục,
Một trăm hay nghìn
năm.
Sống, lấy que sắt nhọn
Xiên động vật, chúng
sinh.
Chết, bị giáo nung đỏ
Đâm xuyên qua người
mình.
Đâm đến nát cơ thể,
Chết, sống lại, và rồi
Lại bị giáo đâm tiếp,
Cứ thế mãi không thôi.
Sống, ai dùng dao
kiếm,
Khiêu khích gây chiến
tranh,
Cậy mạnh, hiếp kẻ yếu,
Làm khốn khổ dân lành,
Thì chết, xuống địa
ngục,
Một thanh kiếm khổng
lồ
Sẽ thái mỏng người họ
Thành từng miếng nhỏ
to.
Ai sống mà ác khẩu,
Sẽ bị một lưỡi câu
Nung đỏ, móc vào lưỡi,
Rồi kéo, như kéo trâu.
Ai khi sống dẫm đạp
Những con vật nhỏ
nhoi,
Thì chết sẽ bị đánh
Bằng gậy và bằng roi.
Ai ăn thịt có máu
Hoặc phạm tội sát
sinh,
Người ấy bị thái nhỏ
Sau khi chịu nhục
hình.
Ai ăn uống phung phí,
Để một hạt cơm rơi,
Mà không chịu cúi
nhặt,
Phải ăn một bát dòi.
Loại dòi cứng như đá,
Trong nước tiểu, trong
phân
Luôn bốc mùi hôi thối.
Mỗi ngày ăn mười lần.
Người ăn nói hỗn láo,
Làm bố mẹ buồn đau,
Sẽ bị thiêu trong lửa
Và nhúng vào vạc dầu.
3
Tầng thứ ba
Ở tầng này Địa Ngục
Tất cả các tội nhân
Bị tra tấn, đày đọa
Rùng rợn hơn nhiều
lần.
Ai làm quan, tham
nhũng
Và chôm chỉa của đời,
Bị dơi và quạ đói
Hút hết máu trong
người.
Làm quan không liêm
khiết,
Cướp miếng ăn của dân,
Kẻ đào trộm mồ mả,
Kẻ phá hoại hôn nhân,
Đều chung một hình
phạt
Là một sợi xích to
Móc vào đầu, bắt kéo
Những tảng đá khổng
lồ.
Ai bắt cóc phụ nữ
Hoặc giở trò hiếp dâm,
Sẽ bị treo trên lửa
Thiêu sống một nghìn
năm.
Cướp tài sản người
khác
Bằng giấy giả, khai
man,
Sẽ bị móc hai mắt
Và moi hết ruột gan.
Phụ nữ mà dâm loạn,
Lẳng lơ với chồng
người
Sẽ bị rút gân cốt,
Giã trong cối suốt
đời.
4
Tầng thứ tư
Ở tầng này chủ yếu
Giam giữ các tội nhân
Đã phạm các trọng tội
Khi còn ở dương trần.
Nếu may, được siêu
thoát,
Lần nữa lại đầu thai,
Họ vẫn bị bệnh tật
Và xấu xí hình hài.
Kẻ làm, buôn bạc giả,
Kẻ phỉ báng thánh thần
Sẽ phải chịu tùng xẻo,
Bắt đầu từ tay chân.
Kẻ lột da loài vật
Hoặc làm nghề sát
sinh,
Bị bắt cầm dao sắc
Để tự lột da mình.
Kẻ cố tình ngược đãi
Con riêng của vợ,
chồng,
Sẽ bị nghiền nát vụn
Dưới bánh xe lửa hồng.
Để tranh dành tài sản
Mà anh em kiện nhau,
Sẽ bị xẻo tai mũi
Và lột hết da đầu.
Người đố kỵ, ác khẩu,
Đặt điều vu người
ngay,
Sẽ bị dòi ăn lưỡi,
Từng tí một hàng ngày.
Người khi sống lười
biếng,
Không dạy dỗ con mình,
Còn vũ phu với vợ,
Hỗn với bố mẹ mình,
Khi chết xuống địa
ngục,
Bị ném xuống tầng này,
Bị nướng trên chảo
lửa,
Ngâm vào vạc dầu đầy.
5
Tầng thứ năm
Kẻ bội bạc, thất
nghĩa,
Chuyên lấy oán báo ân,
Đầu nghĩ điều thất đức
Mà giọng lưỡi ân cần,
Hàng ngày phải chịu
cảnh
Bầy quỉ đói tranh nhau
Móc lục phủ, ngũ tạng,
Luộc chín trong vạc
dầu.
Kẻ vì tiền, làm giả
Thuốc chữa bệnh cho
người,
Bị bắt nuốt dao kéo
Và gươm nhọn suốt đời.
Kẻ đang tâm ăn thịt
Và uống máu chó mèo,
Sẽ bị ăn, xâu xé
Bởi một bầy chó mèo.
6
Tầng thứ sáu
Bị nghiền trong cối đá
Nếu mắc tội ngoại
tình.
Những người nhiều thê
thiếp,
Suốt đời phải nuốt
đinh.
Những ai đã có vợ
Còn tán tỉnh vợ người,
Thì thận và hòn dái
Làm mồi cho lũ dơi.
Ai săn bắn động vật
Hay làm vỡ trứng chim,
Sẽ bị các loài thú
Đến móc mắt, moi tim.
Người đang tâm đánh
trẻ,
Bị lột hết da đầu,
Sau đó, đúng một tháng
Bị luộc trong vạc dầu.
Chồng mà nỡ đánh vợ,
Thì cả ngày lẫn đêm
Bị một bầy quỉ cái
Đánh bằng roi da mềm.
7
Tầng thứ bảy
Ai xúi dục người khác
Kiện cáo để kiếm tiền,
Sẽ bị cắt cụt lưỡi
Làm mồi cho kền kền.
Con dâu mà độc ác,
Làm hại bố mẹ chồng,
Sẽ bị lột quần áo,
Bắt nằm trên bàn
chông.
Con trai mà nghe vợ,
Hỗn với bố mẹ mình,
Suốt đời bị tùng xẻo
Và chịu các nhục hình.
Bất hiếu là trọng tội,
Loại lớn nhất trên
đời.
Thậm chí cả quỉ dữ
Không xem họ là người.
Họ sẽ bị đày đọa
Suốt cả đêm lẫn ngày,
Và bị kinh tởm nhất
Ở tầng địa ngục này.
8
Tầng thứ tám
Tội nhân bị đầy xuống
Tầng thứ tám thì thôi,
Coi như không lối
thoát.
Sẽ ở đây suốt đời.
Còn nếu được hóa kiếp,
Sau nghìn năm cực
hình,
Sẽ biến thành ngạ quỉ,
May lắm, thành súc
sinh.
Những người thích dùng
lửa
Đốt tổ kiến, tổ ong
Hay hun chuột, hun
cáo,
Giết sinh vật ngoài
đồng,
Thì sẽ bị nướng chín
Trong một chiếc lò
hầm,
Lật trên rồi lật dưới,
Trong suốt một nghìn
năm.
Ở tầng tám Địa Ngục
Nhiều hình phạt rợn
người
Chờ những kẻ phạm tội
Khi còn sống ở đời:
Quỳ Bàn Chông sắc nhọn
Dành cho kẻ gian tà,
Tham nhũng và hối lộ,
Chuyên ăn hiếp đàn bà.
Người bị Cắt, Cưa, Xẻ
Là hình phạt cho ai
Trộm cắp, chơi bạc bịp,
Và phụ nữ phá thai.
Bị Rắn Lửa đày đọa
Dành cho tội ki bo,
Không cúng tiền, bố
thí,
Chỉ nhận mà không cho.
Uống Nước Đồng Sôi Đỏ,
Mà phải uống suốt đời,
Là hình phạt cho kẻ
Chuyên ác khẩu hại
người.
9
Tầng thứ chín
Tầng thứ chín Địa
Ngục,
Còn gọi là A Tỳ,
Là tầng có hình phạt
Ghê rợn và cực kỳ.
Đây là tầng sâu nhất,
Rộng lớn, nhiều tầng
ngầm,
Xung quanh rừng rực
lửa,
Nơi đày đọa nghìn năm
Những kẻ phạm trọng
tội,
Như tội giết mẹ cha,
Mưu mô làm người khác
Phải tan cửa nát nhà.
Tội lừa thầy, phản bạn,
Cấu kết với ngoại
bang,
Rước voi dày mả tổ,
Giết bà con xóm làng.
Tội đầu cơ lương thực
Khi hạn hán, mất mùa.
Tội không giúp người
đói,
Còn bày trò trêu đùa.
Tội làm nhân chứng
giả,
Dám đặt điều khai man.
Tội quan ăn của đút
Rồi thiên vị, xử oan.
Tội a dua, nịnh hót,
Để chiều lòng bề trên,
Tìm mọi cách hãm hại
Tìm mọi cách hãm hại
Người hơn mình, tài
hiền…
Hình phạt thì ghê gớm,
Đến không nói nên lời.
Tội nhân phải gào thét
Và đau đớn suốt đời.
Họ bị rắn, bọ cạp
Gặm từng tí hàng ngày,
Người bị ép thành bột,
Bị tháo khớp chân tay.
Bị một hòn núi lớn
Giã liên tục vào đầu.
Bị cởi trần hứng chịu
Những trận mưa kim
khâu…
*
Tầng thứ mười: Qua cầu Nại Hà, ăn cháo đầu thai
Qua chín tầng Địa
Ngục,
Bị đầy đọa, tội nhân
Gột sạch hết tội lỗi,
Đầu thai lên dương
trần.
Từ Địa Ngục, ma quỉ
Đưa họ lên tầng mười,
Nơi họ được xem xét
Tùy tội và tùy người.
Người phước nhiều ác
ít
Sẽ đi qua Cầu Vàng.
Theo công tội, lần
lượt,
Cầu Bạc, cầu Ván Ngang.
Cầu cuối cùng đợi họ
Gọi là Cầu Nại Hà,
Mà ai đầu thai tiếp
Cũng phải bước chân
qua.
Khi vượt qua cầu ấy,
Đích thân Chuyển Luân
Vương
Tay cầm gậy, thong thả
Đi trước để dẫn đường.
Sau đó, mỗi người húp
Một bát cháo Mạnh Bà
Để quên các kiếp trước
Và tội lỗi vừa qua.
Ít người được thoát
tội,
Lại đầu thai thành
người.
Phần lớn thành ngạ quỉ
Và súc sinh suốt đời.
SÁU PHÁP BA LA MẬT
Ba La Mật, tiếng Phạn
Là Pu-ra-mi-ta,
Gồm có sáu pháp chính
Của những người xuất
gia.
Ba La Mật có nghĩa
Là vượt qua sông Mê.
Một quá trình tu dưỡng
Giúp phát tâm Bồ Đề.
Đây là Bồ Tát đạo,
Trước, giải thoát cho
mình,
Còn gọi là tự độ,
Sau, cứu giúp chúng
sinh.
Sáu pháp Ba La Mật:
Một, Bố Thí giúp
người.
Hai, Trì Giới, giữ
luật.
Ba, Kiên Nhẫn ở đời.
Bốn, Rèn Luyện Tinh
Tấn.
Năm, Thiền Định hàng
ngày.
Sáu, chăm lo Trí Tuệ
Để bát Tuệ luôn đầy.
1
BỐ
THÍ
Bố thí có ba loại.
Tài thí là loại đầu,
Tức bố thí tiền bạc.
Pháp thí là loại sau.
Pháp thí đem chân lý
Của Phật đến cho
người.
Dạy Từ Bi Hỷ Xả
Để sống tốt ở đời.
Vô úy là bố thí
Niềm vui và lời
khuyên,
Để người khác an lạc,
Thoát khỏi nỗi buồn
phiền.
Bố thí có ba bậc,
Tùy đức độ từng người,
Là Hạ, Trung và
Thượng.
Tất cả nhằm giúp đời.
Hạ, bố thí cơm nước,
Quần áo cũ, dầu đèn.
Trung, bố thí nhà cửa,
Vàng bạc và thuốc men.
Thượng, bố thí cao
nhất,
Của các bậc thánh
linh,
Sẵn sàng đem bố thí
Đầu, mắt, chân tay
mình.
Xét theo luật nhân
quả,
Bố thí nghĩa là cho,
Nhưng cũng nghĩa là
nhận
Cái ngày xưa mình cho.
Người nhận của bố thí
Là người có phước
lành,
Giờ khó khăn, nhận lại
Cái đức xưa của mình.
Tương tự, người bố thí
Đang tu đức này nay
Bằng cách giúp người
khác,
Để được giúp sau này.
2
TRÌ
GIỚI
Để Thân, Khẩu và Ý
Tránh được điều không
hay,
Không làm điều bất
thiện,
Phải trì giới hàng
ngày.
Tức là luôn tâm niệm
Để ghi nhớ trong lòng,
Không phạm năm điều
cấm,
Trong ý nghĩ cũng
không.
Một, được không nói dối.
Hai, không được sát
sinh.
Ba, không được trộm
cắp,
Lấy cái không của
mình.
Bốn, không được uống
rượu.
Năm, không được tà
dâm.
Giữ được năm giới ấy,
Sẽ thanh thản cõi tâm.
Trì giới phải tự
nguyện,
Không để khoe với đời.
Liên tục và kiên nhẫn,
Không một phút buông
lơi.
3
NHẪN
NHỤC
Nhẫn nhục là đức tính
Cần thiết cho con
người
Để được sống thanh
thản
Và thành đạt trong
đời.
Nhẫn nhục có ba cấp.
Thân nhẫn là cấp đầu.
Nhẫn nhục chịu mưa
gió,
Đói khát và buồn đau.
Khẩu nhẫn là cấp tiếp.
Nhẫn nhục nén trong
lòng,
Không nói lời than
trách,
Cả khi chịu bất công.
Quan trọng và cao nhất
Là Ý nhẫn, là khi
Tâm ý không thù hận,
Không để bụng điều gì.
Khi đạt được Ý nhẫn,
Lòng an lạc, yên bình.
Tham Sân Si tự biến,
Thoát được vòng vô
minh.
4
TINH
TẤN
Theo nghĩa thông dụng
nhất,
Tinh tấn là chuyên
cần,
Quyết tâm và cố gắng
Để vượt mọi khó khăn
Đời thường đầy cám dỗ,
Vất vả đủ trăm điều.
Người tu hành còn khổ
Và vất vả hơn nhiều.
Vì thế phải tinh tấn,
Luôn nhắc nhở chính
mình,
Để vượt qua cám dỗ,
Thoát khỏi vòng vô
minh.
Muốn đắc quả, giác
ngộ,
Thì với người tu hành,
Phải một lòng tu pháp,
Không để ý xung quanh.
Chính nhờ sự tinh tấn,
Thái tử Tất Đạt Đa
Vượt được nhiều khổ ải
Để thành Phật Thích
Ca.
Kiên nhẫn và tinh tấn
Giúp ta thắng cái
lười,
Đạt được đích mình
muốn,
Tránh thói xấu cuộc
đời.
5
THIỀN
ĐỊNH
Thiền định trong tiếng
Phạn
Gọi là Dhyana,
Tức tư duy, tĩnh tại,
Là quá trình khi ta
Chuyên tâm ngồi một
chỗ,
Trong tư thế tọa
thiền,
Suy ngẫm về tâm thức,
Thân và trí tĩnh yên.
Sau sáu năm khổ hạnh,
Thái tử Tất Đạt Đa,
Nhờ chuyển sang thiền
định,
Mới thành Phật Thích
Ca.
Thiền định là một cách
Ta tìm lại chính mình,
Thanh lọc các ý nghĩ,
Đạt cái thiền, cái
minh.
Như tụng kinh, niệm
Phật,
Hoặc thanh tịnh ăn
chay,
Thiền, phải thiền liên
tục,
Kiên nhẫn và hàng
ngày.
6
TRÍ
TUỆ
Theo Phật học, Trí tuệ
Có hai loại như sau.
Một là Căn bản trí,
Trí tuệ gốc ban đầu.
Căn bản trí là trí
Có sẵn trong mỗi
người,
Được thiên nhiên ban
phú
Ngay từ lúc chào đời.
Tuy nhiên, cái trí ấy
Có thể bị lãng quên
Nếu không chịu rèn
luyện,
Sống vô minh, thấp
hèn.
Vì vậy phải cần đến
Cấp Trí tuệ thứ hai,
Gọi là Hậu đắc trí,
Giúp ta thành hiền
tài.
Trí này chỉ có được
Qua quá trình dài lâu
Thiền định và trì
giới,
Đọc sách và nguyện
cầu.
Một khi có được nó,
Ta thoát vòng vô minh,
Phân biệt rõ sai đúng,
Cứu người và cứu mình.
Việc rèn luyện trí tuệ
Để sống tốt, thành
người
Đòi hỏi phải kiên
nhẫn,
Và kéo dài suốt đời.
TIỀN KIẾP CỦA PHẬT
THÍCH CA
Ngày xưa ở Ấn Độ
Có một vị vua già.
Tên ngài là A Dục,
Con là Câu Nà La.
Câu Nà La có nghĩa
Mắt chim câu hiền
lành,
Vì thái tử nước ấy
Rất hiền và thông
minh.
Vua là ông vua tốt.
Thái tử được dân yêu
Vì chàng rất khiêm
tốn,
Trung thực, hiểu biết
nhiếu.
Không may hoàng hậu
chết,
Vua cưới thêm một
người,
Đẹp thì rất xinh đẹp,
Nhưng độc ác, hợm đời.
Mụ rất ham quyền lực,
Không ngần ngại điều
gì,
Thích thao túng mọi
chuyện.
Tên mụ là Xích Di.
Bỗng nhiên vua lâm
bệnh,
Các thầy thuốc bó tay,
Thế mà mụ tài giỏi
Cứu được vua lần này.
Suốt đời mụ mong ước
Con mụ nối ngôi cha,
Nên dễ hiểu, mụ ghét
Thái tử Câu Nà La.
Nhân chữa vua khỏi
bệnh,
Mụ xin được một ngày
Vua cho giữ quốc ấn.
Vua chiều mụ điều này.
Quốc ấn của vương quốc
Là vật bất ly thân,
Nó dùng để đóng dấu
Các lệnh truyền, công
văn.
Mụ xúi dân làm loạn
Ở một thành phía Tây,
Khuyên vua cho thái tử
Đến cai trị nơi này.
Thế là chàng phải đến
Một nơi đầy hiểm nguy,
Bất chấp lời can gián
Của vợ, Ma Đa Vì.
Chàng vừa đi hôm trước
Thì hôm sau, lạ thay,
Có lệnh vua mật gửi
Các quan ở thành này.
Lệnh niêm phong, khẩn
cấp,
Có quốc ấn triều đình,
Bắt móc mắt thái tử
Rồi bẩm báo về kinh.
Các quan thấy lệnh lạ
Chưa dám vội thi hành,
Mà đem trình thái tử.
Chàng đọc nó, giật
mình,
Rồi đau buồn, chàng
nói:
“Đây đúng lệnh vua
cha,
Lại có thêm con dấu,
Vậy cứ móc mắt ta!”
Nhưng quả không ai nỡ.
Cuối cùng, một người
say,
Sau khi được ban
thưởng,
Đang tâm làm việc này.
Chàng còn bảo dân
chúng
Nhất thiết không giúp
chàng,
Vì lệnh cấm điều đó.
Dân thương khóc, bàng
hoàng.
Thế là chàng thái tử
Ngồi giữa nắng một
mình.
Con ngựa quí chàng
cưỡi
Lặng lẽ chạy về kinh.
Vợ chàng nhìn thấy nó
Biết có chuyện không
hay,
Liền báo vua A Dục,
Vua phái người đi
ngay.
Thế là rõ mọi
chuyện.
Vua cho gọi Xích Di,
Lệnh phải đem xẻo
thịt,
Xẻo hết, chẳng chừa
gì.
Bỗng nhiên chàng thái
tử
Lại bênh mụ, xin tha.
Chàng nói người lương
thiện,
Chân tu và thật thà
Có thể bị trừng phạt
Vì tiền kiếp của mình.
Rồi chàng kể câu
chuyện
Về cái ác, vô
minh.
*
Ngày xưa, đã lâu lắm,
Một thợ săn vui mừng
Vì một lúc bắt được
Năm mươi con dê rừng.
Nhưng nếu giết tất cả,
Không mang hết thịt về
Nên quyết định móc mắt
Cả năm mươi con dê.
Vì bị mù nên chúng
Luôn quanh quẩn rất
gần,
Chỉ chờ anh ta đến
Bắt từng con ăn dần.
“Tâu phụ hoàng, người
ấy,
Móc mắt không ghê tay,
Chính là con kiếp
trước,
Nên mới nông nỗi này.
Việc con bị móc mắt
Không hẳn tội Xích Di,
Vậy mong ngài suy xét
Mà tha chết cho dì.
Nếu những gì con kể
Mà ngài vẫn chưa tin
Và dùng dằng chưa
quyết,
Thì xin mời ngài
nhìn.”
Nói đoạn, chàng vái
lạy,
Rồi ngồi xuống, uy
nghi:
“Nếu lời tôi nói đúng,
Mắt sáng lại tức thì!”
Lập tức mắt thái tử
Trở lại sáng như xưa.
Xích Du bị đầy ải,
Chàng được nối ngôi
vua.
Câu chuyện này có
thật.
Thái tử Câu Nà La
Chính là người tiền
kiếp
Của Đức Phật Thích Ca.
NHỮNG THÍ DỤ THÂM SÂU
Đức Phật, như ta biết,
Khi giảng đạo cho
người,
Đưa ra nhiều thí dụ
Thâm sâu và dạy đời.
Đó là những câu chuyện
Sinh động và thông
minh
Giúp người nghe chiêm
nghiệm,
Rút bài học cho mình.
Ngài nói, sẽ vô ích
Nếu ta muốn giúp đời
Mà tự mình không muốn
Tu dưỡng để thành
người.
Chẳng khác gì đêm tối
Đèn của ta hết dầu
Mà ta muốn chiếu sáng
Giúp người khác qua
cầu.
Nấu canh ăn cũng vậy,
Canh không bao giờ sôi
Khi bếp không có lửa,
Khuấy mãi cũng thế
thôi.
Những ai trong cuộc
sống
Tìm cái vui nhất thời
Ngài ví như con trẻ
Còn nhỏ tuổi, ham
chơi.
Chúng thích liếm mật
ngọt
Trên lưỡi dao - điều
này
Sẽ làm chúng sớm muộn
Cũng đứt môi, đứt tay.
Cuộc đời là bể khổ,
Ngài dạy thế nhiều
lần.
Khổ vì Lão, Bệnh, Tử,
Khổ vì Tham, Si, Sân.
Cuộc đời là đêm tối,
Bốn xung quanh màu
đen.
Chỉ ít giây sung sướng
Khi tia chớp lóe
lên.
*
Ngài bảo các đệ tử:
“Hãy nhìn kìa, bầy sâu
Đang ăn quả táo thối.
Mà cắn xé, tranh nhau.
Chúng tưởng chúng hạnh
phúc
Ăn thứ nhơ bẩn này.
Ta, người thường, thấy
chúng
Là loài đáng thương
thay.
Còn những người giác
ngộ
Thì thấy người vô minh
Như sâu ăn táo thối,
Rất hài lòng với
mình.”
*
Để răn người keo kiệt
Và tham lam trên đời,
Ngài kể một câu chuyện
Rằng xưa có một người
Bỗng nhiên bị mất hết
Cả nhà cửa, ruộng
đồng,
Rồi vợ con cũng chết,
Cuối cùng trơ tay
không.
Hơn thế, do khinh xuất
Ông bị giam suốt đời.
Vậy mà lạ, trong ngục,
Ông thấy mình thảnh
thơi,
Thậm chí còn hạnh phúc
Vì thấy được tự do.
Không còn gì để mất,
Nên không gì để lo.
Thế đấy, Đức Phật dạy,
Chính vì lo làm giàu
Và vì lo giữ của
Mà con người khổ đau.
*
Một người hỏi Đức Phật:
Một người hỏi Đức Phật:
Để đạt được chân
thiền,
Vì sao cứ nhất thiết
Phải ngồi lâu, ngồi
yên?
Ngài sai lấy chậu nước
Nhúng tay, quấy một
vòng,
Ôn tồn hỏi người ấy:
“Con có thấy gì
không?”
“Bạch, không, chỉ thấy
nước.”
Chờ nước lặng. Vỗ vai,
Ngài nói: “Con nhìn
lại.”
“Bạch thầy, con thấy
Ngài!”
“Giờ chắc con đã hiểu
Để đạt được chân
thiền,
Vì sao phải im lặng
Ngồi lâu và ngồi yên.”
*
Ngài nói, mưa chỉ một,
Và chia đều cho nhau:
Bãi cỏ và vườn thuốc,
Ruộng lúa và nương
dâu.
Nhưng các cây hút ẩm
Lại rất khác, thế là
Có loài thì lụi chết,
Có loài lại ra hoa.
Có loài biết cách hút
Tinh túy của đất trời
Để thành cây thuốc quí
Giúp chữa bệnh cho
người.
Cũng vậy, giáo lý Phật
Không phân biệt nghèo
giàu,
Dòng dõi và đẳng cấp.
Ai cũng hưởng như
nhau.
Thế mà có người ngộ,
Có người vẫn vô minh,
Có người không thoát
khổ,
Có người giải phóng
mình.
Có người đi theo đạo
Để hành đạo giúp đời.
Cũng có người theo nó
Để phá đạo, hại người.
LỜI PHẬT DẠY CON TRAI
Người con trai duy
nhất
Của Đức Phật Thích Ca,
Cũng trở thành phật
tử,
Tên là La Hầu La.
Cậu ít tuổi, ngỗ
nghịch,
Nhưng được mọi người
chiều,
Nên đôi khi nói dối,
Kiểu trẻ con, đáng
yêu.
Một hôm Phật bảo cậu:
“Con hãy mang ra đây
Một chậu nước thật
sạch
Để ta rửa chân tay.”
Cậu mang chậu nước
đến.
Đức Phật rửa chân
xong,
Hỏi cậu có muốn uống
Nước trong chậu này
không.
Cậu lắc đầu, từ chối,
Nói nước bẩn, và Ngài
Bảo cậu bê đi đổ
Rồi dẫn cậu ra ngoài:
“Giờ thì con đã thấy,
Nước bẩn không ai xin.
Cũng vậy, khi nói dối,
Miệng bẩn, không ai
tin.”
La Hầu La chợt hiểu,
Từ đó chẳng bao giờ
Còn nói dối thêm nữa,
Dẫu đáng yêu, ngây
thơ.
*
Một hôm, Ngài ngồi
nghỉ
Dưới bóng mát hàng cây,
Rồi gọi con trai đến,
Nhẹ nhàng nói thế này:
“Con hãy học ở đất
Sự nhẫn nhục, khiêm
nhường.
Đất lặng lẽ chấp nhận
Cái xấu xa, tầm
thường.
Bị người ta vứt bẩn,
Hay khạc nhổ, không
sao,
Đất thản nhiên chịu
dựng,
Không nói một lời nào.
Và khi vụ mùa đến,
Đất trao tặng cho đời
Những bông lúa trĩu
nặng,
Những cành hoa xinh
tươi.
Hơn thế, con phải học
Để làm sao trong con
Có Từ Bi Hỷ Xả
Để sống có tâm hồn.
Có Từ để đối Giận,
Vì Từ là Tình Thương
Của con với người khác
Ở đời này vô thường.
Có Bi để đối Ác,
Vì Bi là khi con
Làm vợi đau người
khác,
Mà không cần đền ơn.
Có Hỷ để đối Ghét,
Vì Hỷ là thật lòng
Mừng người khác hạnh
phúc,
Cầu cho họ thành công.
Có Xả để tha thứ
Những lỗi lầm của
người.
Xả giúp con thanh
bạch,
Sống có ích cho
đời.
Vậy Từ Bi Hỷ Xả
Là Tứ Vô Lượng Tâm.
Có được bốn cái ấy,
Con và Phật ngang tầm.
Lại nữa, con phải hiểu
Bản chất luật Vô
Thường,
Để xua cái Tham Dục,
Để ngự trị Tình
Thương.
Vạn vật luôn thay đổi.
Có mà lại như không.
Không mà lại như có.
Hãy ghi nhớ trong
lòng”.
TỲ KHEO U-TY-A
Xưa, ở thành Xá Vệ,
Có chàng U-ty-a,
Con một nhà giàu có,
Xin phép Phật xuất gia.
Được Đức Phật đồng ý,
Chàng trở thành tỳ kheo,
Đến sống trong tịnh xá
Cùng các nhà sư nghèo.
Chàng là người mộ đạo,
Tu luyện rất chuyên cần.
Chỉ có một điều nhỏ
Khiến chàng thấy khó khăn.
Là ngoài đời phải giữ
Chỉ năm giới mà thôi.
Với tỳ kheo, số giới
Là hai trăm năm mươi.
Chừng ấy điều cấm đoán
Làm chàng mụ cả đầu,
Không tài nào nhớ nổi,
Nên một thời gian sau
Chàng đem tâm tư ấy
Đến gặp Phật Thích Ca,
Xin phép được hoàn tục,
Quay về sống ở nhà.
“Hai trăm năm mươi giới -
Phật đáp, - con kêu nhiều.
Ta giảm xuống còn một,
Con vẫn làm tỳ kheo?”
U-ty-a đồng ý,
Xin phép lại quy y,
Háo hức mong được biết
Điều giới ấy là gì.
“Chỉ một giới duy nhất
Con phải nhớ từ nay.
Nhớ và luôn thực hiện,
Cả đêm cũng như ngày.
Đó là khi con nghĩ
Hay định làm điều gì.
Cả điều lớn, điều nhỏ,
Mọi lúc và mọi khi,
Con phải luôn tự hỏi:
Điều ấy tốt hay không?
Tốt thì làm, ngược lại,
Xấu thì dứt khoát không.”
Chỉ một giới, đơn giản.
Dễ nhớ, dễ thực hành:
Quyết không làm việc xấu.
Chỉ làm việc tốt lành.
Nhờ giữ được giới ấy,
Tỳ kheo U-ty-la
Chứng quả A La Hán,
Được theo hầu Thích Ca.
*
Câu chuyện này có thật,
Được chép trong Sách Kinh.
Từ đó ta có thể
Rút bài học cho mình.
Rằng năm giới Đạo Phật
Ngăn cái Tham Sân Si,
Rốt cục đều qui tụ
Ở nghĩ gì, làm gì.
Tóm lại: Không làm ác,
Chỉ làm điều tốt lành
Và hàng ngày thanh lọc
Các ý nghĩ của mình.
CHIẾC ĐÈN CỦA BÀ GIÀ
HÀNH KHẤT
Có ông vua giàu có
Mời Đức Phật giảng
kinh,
Cúng nghìn chiếc đèn
lớn
Bày tỏ tấm lòng mình.
Cùng lúc, một bà lão
Sống bằng nghề ăn mày,
Cũng nghe Ngài giảng
đạo,
Nghe xong, bà lão này
Với hai xu trong túi,
Mua chỉ được ít dầu,
Rót vào chiếc đèn nhỏ,
Dâng Ngài, cúi thấp
đầu.
Sáng hôm sau, tỉnh
dậy,
Vua thấy, lạ lùng sao,
Nghìn chiếc đèn vua
tặng
Tắt hết từ lúc nào.
Còn chiếc đèn bé tí
Của bà lão ăn mày
Vẫn tiếp tục tỏa sáng.
Vua hỏi: “Sao thế
này?”
Phật đáp: “Không quan
trọng
Đèn nhỏ hay đèn to,
Dầu nhiều hay dầu ít,
Mà tấm lòng người cho.
Đèn sáng nhờ ánh sáng
Xuất phát từ tấm lòng.
Bố thí mà vô cảm
Thì cũng chỉ bằng
không.”
TRUYỆN SƯ CỤ VÀ ĐỒ ĐỆ
CỦA MÌNH
Xưa, có một sư cụ
Cùng đồ đệ của mình
Đi trên con đường
vắng,
Mới được nửa hành
trình.
Trời nắng như đổ lửa.
Chẳng ai nói với ai.
Đồ đệ sau sư cụ,
Chiếc túi nặng trên
vai.
Thấy nông dân cày
ruộng,
Giun dế bị xới tung,
Chim sẻ sà xuống bắt,
Anh đau xót vô cùng.
“Kiếm ăn thật vất vả.
Thật bèo bọt kiếp
người.
Ta sẽ tu thành phật
Để cứu giúp cõi đời.”
Ngay lập tức sư cụ
Bảo đưa túi cho ngài,
Mời anh ta đi trước,
Rồi khoác túi lên vai.
Anh đồ đệ không hiểu,
Nhưng buộc phải nghe
lời.
Thế là anh đi trước,
Nhẹ nhàng và thảnh
thơi.
Đường xa, trời vẫn
nắng,
Nông dân vẫn làm đồng,
Mồ hôi chảy nhễ nhại,
Chim vẫn bay trên
không.
Anh đồ đệ thấm mệt,
Nghĩ: “Quả thật đời
này
Có quá nhiều đau khổ,
Muốn cứu, cứu sao đây?
Hay có lẽ tốt nhất,
Chỉ lo cứu lấy mình.
Làm sao ta có thể
Cứu đồng loại, chúng
sinh?”
Sư cụ là La Hán,
Đọc được ý nghĩ người.
Ngài trả lại chiếc
túi,
Lại đi trước, thảnh
thơi.
Cứ thế, họ thay đổi,
Lúc người trước, người
sau.
Cả hai đi lặng lẽ,
Nắng vẫn gắt trên đầu.
Cuối cùng người đồ đệ
Đánh bạo hỏi vì sao.
Sư cụ thong thả đáp:
“Hễ bất cứ lúc nào
Con nghĩ đến cứu độ
Cho toàn thể chúng
sinh,
Con trở thành Bồ Tát,
Đi trước là hợp tình.
Nhưng lúc con ích kỷ
Muốn mình con thoát
đau,
Con là người trần tục,
Nên phải đành đi sau.”
SÂN KHẤU CUỘC ĐỜI
Đức Phật Tổ thường nói
Rằng chúng ta, con
người,
Thực sự là bầy rối
Trên sân khấu cuộc
đời.
Rằng chúng ta phải
diễn
Rất nhiều vai khác
nhau,
Dù muốn hay không
muốn,
Toàn những vai buồn
đau.
Cái đau của mất mát,
Mất tiền bạc, mất nhà.
Đau cả vì bệnh tật,
Để cuối cùng chúng ta,
Không một ai ngoại lệ,
Đều phải chui xuống
mồ,
Đến lúc ấy có lẽ
Mới thoát khỏi buồn
lo.
Vậy muốn tránh điều
đó,
Ta phải làm thế nào?
Đức Phật nói: Đơn giản
Ta phải sống làm sao
Để không phải đóng
kịch.
Cái sân khấu cuộc đời
Ta phải cố rời bỏ,
Sống đúng nghĩa làm
người.
Nghĩa là ta quay lại
Với Sự Thật, Thiên
Nhiên,
Với tư duy thông tuệ,
Cuối cùng là Sống
Thiền.
Các trường phái đạo
Phật
Phát triển lời khuyên
này
Thành giáo lý chủ yếu
Cả mấy nghìn năm nay.
TRUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ
TỤNG KINH
Xưa, có một bà nọ,
Một hôm gặp sư thầy,
Nói: “Tôi không giác
ngộ,
Dù tụng kinh hàng
ngày.”
Sư thầy đáp: “Bà biết,
Tụng kinh chẳng khó
gì.
Cái khó là phải tụng
Đều đặn và kiên trì.
Bà kia liền thú nhận,
Nói bận việc gia đình
Nên đôi lúc bắt buộc
Phải tạm ngừng tụng
kinh.
Nhưng từ nay, bà hứa
Đều đặn tụng hàng
ngày,
Quyết không để phân
tán,
Theo lời dạy của thầy.
Một năm sau, bà đến:
“Bạch sư thầy, vì sao
Con làm như thầy dặn,
Mà chẳng ngộ chút
nào?”
“Là vì, - sư thầy đáp,
-
Bà thực sự tụng kinh,
Kiên nhẫn và đều đặn,
Nhưng ý nghĩ của mình
Vẫn còn bay đâu đó.
Vừa tụng kinh, trong
đầu
Bà vừa lo đủ chuyện.
Thế thì quả còn
lâu...”
Người đàn bà chợt
hiểu,
Liền vội vã về ngay.
Bà không chỉ tụng niệm
Rất kiên nhẫn hàng
ngày,
Mà chuyên tâm, chuyên
ý
Vào lời niệm của mình,
Hoàn toàn không phân
tán
Bởi những điều xung
quanh.
Mấy năm sau, lần nữa
Bà đến gặp sư thầy,
Cúi thật thấp và nói:
“Hôm nay con đến đây
Để cảm ơn, từ biệt.
Nhờ thầy dạy mà con
Đã tu thành chính quả
Cả thể xác, tâm hồn.
Con tin con chắc chắn
Sẽ được lên Niết Bàn.
Tạm thời trên mặt đất
Thoát bể khổ trần
gian.”
TRUYỆN ÔNG BỐ GIÀU VÀ
ANH CON NGHÈO
Ngày xưa có ông bố
Và anh con chia tay
Mỗi người đi một ngả,
Hẹn gặp nhau sau này.
Đúng mười năm sau đó
Ông bố thành rất giàu.
Anh con thì nghèo rớt,
Ăn bữa cháo, bữa rau.
Anh quá nghèo, xấu hổ,
Không đến gặp cha mình
Theo như lời đã hẹn.
Nghĩ mà thấy thương
tình.
Tại cái số nó thế
Chứ anh không ham
chơi,
Cần cù, không nghiện
ngập,
Thế mà nghèo suốt đời.
Một hôm, vì đói quá
Anh ngửa tay xin ăn,
Lại xin đúng nhà bố,
May chỉ gặp gia nhân.
Đứng từ xa, ông bố
Đã nhận ra con mình.
Thấy thế, ông thương
lắm,
Nhưng bấm bụng làm
thinh.
Rồi ông cho người nói
Rằng có việc đang cần,
Nếu chịu khó làm việc,
Anh sẽ được nuôi ăn.
Anh con liền đồng ý,
Được đưa tới một nơi
Ở rất xa nơi ấy
Làm việc mấy năm trời.
Anh làm việc chăm chỉ,
Làm vất vả, không tiền
Chỉ được ăn no đủ,
Không một lời than
phiền.
Bỗng một hôm ông chủ,
Cho gọi anh vào nhà.
Lần đầu tiên gặp mặt
Giữa anh con và cha.
Lúc ấy đang có mặt
Đông đủ đại gia đình.
Ông chỉ anh và nói
Đây là con trai mình.
Ông kể chuyện ngày
trước
Hai cha con xa nhau,
Rồi anh con nghèo đói,
Còn ông thì rất giàu.
Và rằng ông thử
thách
Con mình mấy năm qua.
Anh đã vượt được nó,
Và nay ông tuổi già,
Đã làm sẵn di chúc
Để lại cho con trai
Hết những gì ông có,
Tức toàn bộ gia tài.
Anh con trai sung
sướng,
Chỉ còn biết đứng
ngây.
Khi kể xong câu
chuyện,
Đức Phật nói thế này:
“Kỳ thực, núi của ấy
Do anh ta làm ra.
Có điều chuyển cho bố
Để giữ cho anh ta.
Ta làm việc, có thể
Thành quả chưa có
ngay.
Một khi làm việc tốt,
Nó sẽ đến sau này.”
HOA SEN MỌC TỪ BÙN
Thời ấy, ở Xá Vệ
Có một người bình dân,
Thuộc vào hàng hạ
đẳng,
Chuyên làm nghề gánh
phân.
Như thường lệ, ngày nọ
Đức Phật đi vào thành
Để thuyết giáo Đạo
Pháp.
Buổi sáng, nắng vàng chanh.
Không phân biệt giai
cấp,
Không phân biệt nghèo
giàu,
Ngài đi qua các phố,
Cả những đường hẻm
sâu.
Người gánh phân nghèo
ấy,
Có tên là Ni Đề,
Như mọi ngày, lúc đó
Đang đi gánh phân
thuê.
Anh chàng nhìn thấy
Phật,
Đứng thẫn thờ hồi lâu,
Chiêm ngưỡng khuôn mặt
đẹp,
Vành hào quang trên
đầu.
Tự nhiên anh chàng
muốn
Được đến đứng thật
gần,
Nhưng rụt rè, không
dám,
Mặc cảm nghề gánh
phân.
Hiểu được ý nghĩ ấy,
Phật bước về phía anh.
Anh hốt hoảng bỏ chạy,
E sợ điều không lành.
Đức Phật cười, liền
hỏi:
“Vì sao con sợ ta?”
“Con nghèo hèn, - anh
đáp -
Đẳng cấp Chiên Đà La.
Con chỉ được tiếp xúc
Với những người như
con,
Và hết lòng phục dịch
Đẳng cấp Bà La Môn.”
Nghe thế, Phật giảng
giải
Về giáo lý của Ngài,
Về bình đẳng, bác ái,
Rằng ai cũng như ai.
Ni Đề nghe, sung
sướng.
Sung sướng nhất là khi
Được mời làm đệ tử
Của Đức Phật từ bi.
Sau đó anh theo Phật
Xuống tắm rửa dưới
sông,
Rồi quay về tịnh xá,
Khi Ni Đề tắm xong.
Vậy là Phật đã nhận
Một người gánh phân
nghèo,
Rồi được Ngài thâu
nạp,
Cho trở thành tỳ kheo.
Do chuyên tâm tu luyện
Vị tỳ kheo mới này
Chứng quả A La Hán,
Trí dày, đức cũng dày.
*
Lại nói vua Xá Vệ,
Tức Ba Tư Nặc vương,
Bấy lâu nay khó hiểu
Sao nhiều người bình
thường
Mà được Phật thâu nạp,
Như thằng Ni Đề này.
Đó là tiền lệ xấu,
Gây nhiều điều không
hay.
Vua bèn đến tịnh xá,
Xin Phật đuổi Ni Đề,
Từ nay không còn nhận
Bọn nghèo hèn, nhà
quê.
Khi đến nơi Phật ở,
Vua thấy một tỳ kheo,
Ngồi trên tảng đá lớn,
Mặc quần áo người
nghèo.
Vua nhờ tỳ kheo ấy
Vào bẩm báo với Ngài.
Người kia chui vào đá
Mà không thấy ra
ngoài.
Lát sau lại xuất hiện,
Cũng từ đá ngoi lên,
Báo Đức Phật đang đợi.
Vua rất đỗi ngạc
nhiên.
Khi hầu chuyện Đức
Phật,
Vua thành thật hỏi
Ngài
Tỳ kheo chui xuyên đá
Đang ngồi kia là ai?
“Là Ni Đề La Hán,
Vốn là một thần dân
Của kinh thành Xá Vệ,
Chuyên làm nghề gánh
phân.”
Ngài nói, dẫu nghèo
khổ
Và đẳng cấp thấp hèn,
Nhưng cần cù, thông
tuệ,
Đã tự mình vươn lên.
Rằng Ni Đề học đạo
Và khổ luyện lâu nay,
Chứng quả A La Hán
Nên mới có tài này.
Vua lặng im, suy nghĩ.
Phật ôn tồn nói thêm:
“Trong bùn có sen
trắng,
Ngài có muốn cầm xem?”
Giờ thì vua đã hiểu
Cái thâm ý của Ngài,
Rằng cả người hèn mọn
Cũng không hề thua ai.
Rằng ở đời quan trọng
Là có tài, thông minh,
Chứ không phải đẳng
cấp
Hay xuất thân của
mình.
Vậy là vua Xá Vệ
Từ chỗ ghét thành yêu,
Tỳ kheo tài giỏi ấy,
Vốn anh gánh phân
nghèo.
Gơn thê, vua xin Phật
Cho La Hán Ni Đề
Hôm sau vào thành nội
Giảng pháp cho vua
nghe.
TRUYỆN HAI ĐẠO SĨ VÀ
CÔ GÁI XINH ĐẸP
Có hai đạo sĩ nọ
Đang cùng đi trên
đường,
Bỗng gặp một cô gái
Xinh đẹp và dễ thương.
Cô gái ấy xinh đẹp
Ngồi bên dòng suối
sâu,
Muốn sang bên kia suối
Mà tiếc chẳng có cầu.
Có việc, cần đi gấp,
Biết làm sao bây giờ?
Lội thì sợ ướt váy,
Nên cô đành cứ chờ.
Hay chuyện, hai đạo sĩ
Dừng lại, dáng phân
vân,
Rồi một người trong họ
Dùng hai cánh tay trần
Bế cô vượt qua suối.
Rồi hai người lại đi.
Một người đã phạm
giới,
Nhưng không ai nói
gì.
Tối đến anh bạn trách
Sao dám bế đàn bà.
Người kia thản nhiên
đáp,
Vô tư và thật
thà:
“Ừ thì tôi phạm giới,
Chỉ một chốc mà thôi.
Vả lại tôi làm thế
Là chỉ để giúp người.
Còn anh, anh không
giúp,
Nhưng lại bế cô ta
Từ bờ con suối ấy
Đến tận đây, tận nhà.
Câu chuyện này của
Phật
Dạy ta hiểu: Đôi khi
Người thực sự phạm
giới
Là người không làm gì.
AI LÀ NGƯỜI TA YÊU
NHẤT ?
Một hôm, Ba Tư Nặc,
Vua Xá Vệ thanh cao,
Hỏi hoàng hậu Mạt Lợi:
“Nàng yêu nhất người
nào?”
“Thiếp yêu nhất bệ hạ.
Đó là điều tất nhiên.
Nhưng nếu ngài cho
phép,
Thiếp xin được nói
thêm,
Rằng người thiếp yêu
nhất,
Yêu hơn hết trên đời
Là chính bản thân
thiếp,
Mọi lúc và mọi nơi.
Vua nghe xong, im
lặng.
Rồi Mạt Lợi hỏi ngài:
“Vậy người ngài yêu
nhất,
Xin được hỏi là ai?”
“Là nàng!” Vua liền
đáp.
“Thế ngài sẽ làm gì
Nếu thiếp không chung
thủy?
Sẽ chém đầu? Tru di?”
Bị dồn ép nhiều quá,
Vua gật đầu và
cười.
“Vậy là vua nỡ giết
Người ngài yêu nhất
đời.
Giờ thì ngài tự biết
Thực ra ngài yêu ai.
Đó cũng là sự thật
Thiếp chẳng dám giấu
ngài.”
Như ta biết, Mã Lợi
Là con một nô tỳ,
Và chính nàng dẫn đến
Cái chết thành Ca Tỳ.
Thông minh và trung
thực
Nàng trả lời giúp ta
Cái câu thường được
hỏi
Ngoài đời và trong
nhà.
Chính Đức Phật từng
dạy,
Thực ra ta yêu mình -
Điều ấy chẳng gì xấu -
Hơn yêu mọi chúng
sinh.
Có điều ta ngại nói,
Hay ta tự dối lòng.
Và đó là sự thật,
Dù ta thích hay không.
CON DAO TRONG LÒNG
Cũng ở thành Xá Vệ,
Nước Ấn Độ ngày nay,
Đức Phật thường khất
thực
Hết nhà nọ, nhà này.
Có một người độc ác
Cầm dao định đâm Ngài.
Lập tức một lớp kính
Bao bọc xung quanh
Ngài.
Anh ta đâm chém mãi
Mà không trúng nhát
nào.
Cuối cùng anh ta nói:
“Mở cửa cho ta vào!”
Phật đáp: “Được, trướt
hết,
Bỏ dao xuống nền nhà.”
Anh ta bỏ, rồi nói:
“Sao tường vẫn ngăn
ta?”
“Vì con dao anh bỏ
Là con dao trong tay.
Còn có con dao khác
Trong tim anh lúc
này.”
Giờ thì anh kia biết
Đang nói chuyện với
ai.
Liền cúi đầu tạ tội
Trước Đức Phật, và Ngài
Bước ra từ tường kính,
Vành hào quang sáng
lòa.
Ngài thành tâm giáo
huấn
Giúp người này cải tà.
TRUYỆN ĐẠO SĨ VÀ THẦN
HỘ MỆNH
Ngày xưa, một đạo sĩ
Sống ngay trên bờ
sông.
Mùa nước lũ sắp tới
Có thể cuốn nhà ông.
Có nhiều người đến
nhắc
Phải di dời thật
nhanh.
Ông nói thần báo mộng,
Hứa bảo vệ cho mình.
Người ta lại tới nhắc
Khi nước đã dâng to,
Nói ông gặp nguy hiểm,
Nhưng ông không hề lo.
Cuối cùng nước lũ đến,
Cuốn nhà ông xuống
sông.
Còn đạo sĩ, thật tiếc,
Bị chết đuối giữa
dòng.
Sau khi chết, ông gặp
Thần hộ mệnh, và rồi
Trách thần hứa bảo vệ,
Thế mà ông chết trôi.
Thần đáp thần đã giúp
Bằng cách cử nhiều
người
Đến nhắc ông nguy
hiểm,
Nhưng ông chẳng di
dời.
*
Đức Phật cho ta thấy
Một chân lý, đó là
Ngài chỉ con đường
sáng,
Không làm hộ cho ta.
Và rằng giáo lý Phật
Chia đều cho chúng
sinh.
Còn hiểu và thực hiện
Là tùy thuộc ở mình.
TRUYỆN ĐỨC PHẬT VÀ
NHÀ SƯ BỊ SẮC DỤC QUẤY
PHIỀN
Có một nhà sư nọ
Chăm kinh kệ và thiền.
Hiềm một nỗi, đôi lúc
Bị sắc dục quấy phiền.
Ông đến gặp Đức Phật:
“Bạch Thế Tôn, xin
ngài
Giúp con diệt sắc dục,
Tránh nỗi khổ trần ai.
Các cô gái xinh đẹp
Cám dỗ con nhiều lần,
Làm phân tán tâm
tưởng,
Làm khó chịu xác
thân.”
Đức Phật nghe, lặng lẽ
Đưa chiếc bút: “Từ nay
Con hãy vẽ lên mặt
Những kẻ cám dỗ này.”
Hôm sau nhà sư thấy
Một cô gái đi ngang,
Cô gái đẹp, hấp dẫn,
Lòng không khỏi xốn
xang.
Chưa kịp vẽ lên mặt
Cô gái ấy đa tình,
Thì cô đã đi mất,
Để sư buồn một mình.
Lát sau vào tắm rửa,
Sư soi gương, ngạc
nhiên
Thấy trên trán có mực,
Một dấu bằng đồng
tiền.
Qua truyện này của
Phật
Ta hiểu rõ ý Ngài:
Sự quấy nhiễu thực
chất
Không phải từ bên
ngoài.
Chính người “bị quấy
nhiễu”
Đã tự quấy nhiễu mình.
Vậy trách mình trước
đã
Rồi trách người quấy
tình!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét