Thứ Hai, 2 tháng 3, 2020

Kịnh Thánh


THIÊN CHÚA HỦY DIỆT
THÀNH SÔ-ĐÔM VÀ GÔ-MÔ-RA

Người dân hai thành phố
Sô-đôm, Gô-mô-ra
Trở nên rất hư đốn,
Chuyên làm điều xấu xa.

Thiên Chúa rất tức giận,
Báo cho Ap-ram hay,
Rằng Ngài sẽ hủy diệt
Cả hai thành phố này.

Ap-ram xin Thiên Chúa
Tha không giết mọi người,
Nếu con số người tốt
Ở đây là năm mươi.

Chúa đồng ý, nhân thể
Ông xin Chúa nương tay,
Cả khi số người tốt
Chỉ là mười ở đây.

Lần nữa Chúa đồng ý,
Rồi sai hai thiên thần
Xuống các thành phố ấy
Để tìm hiểu người dân.

Hai thiên thần bay xuống.
Lúc ấy là ban đêm.
Ông Lot đón các vị
Rất cung kính ngoài thềm.

Ông Lot, như ta biết,
Là cháu ông Ap-ram,
Một người luôn kính Chúa
Và hay lam, hay làm.

Ông mời hai vị khách,
Không biết là thiên thần,
Vào nhà ông nghỉ tạm,
Sai vợ dọn thức ăn.

Trong khi, thật xấu hổ,
Đàn ông các nhà bên,
Nghe tin có khách lạ,
Vội kéo nhau đến liền.

Chúng đòi giao cho chúng
Hai người khách đàn ông
Để chúng hiếp tập thể.
Một cảnh tượng đau lòng.

Theo truyền thống hiếu khách,
Giấu hai khách của mình,
Ông Lot giao cho chúng
Hai con gái còn trinh.

Bọn đồng tính luyến ái,
Vẫn nhất định không tha.
Cuối cùng chúng giận dữ,
Đạp cửa, xông vào nhà.

Hai thiên thần hóa phép
Làm mắt chúng mù lòa,
Đưa gia đình ông Lot
Tới khu làng Dô-a.

Thiên Chúa liền sau đấy
Làm trận mưa lưu huỳnh
Thiêu trụi hai thành phố
Xấu xa và đáng khinh.

Vợ ông Lot, thật tiếc,
Không nghe lời thiên thần,
Ngoái lại nhìn, lập tức
Biến thành cột muối ăn.


GIU-SÊ

1
ÔNG GIU-SÊ BỊ BÁN SANG AI-CẬP

Như đã nói, Gia-côp
Có mười hai con trai.
Giu-sê được yêu nhất
Vì thông minh, có tài.

Lúc lên mười bảy tuổi,
Chàng bắt đầu chăn chiên.
Bố cho chàng chiếc áo
Dài tay và đắt tiền.

Các anh chàng thấy thế,
Tỏ ý rất bất bình.
Đơn giản vì thấy bố
Yêu chàng hơn yêu mình.

Lần nọ chàng kể lại
Cho các anh trai nghe
Một giấc mơ, làm họ
Càng thêm ghét Giu-sê.

Chàng mơ đang bó lúa
Cùng các anh ngoài đồng.
Bó của chàng đứng thẳng,
Của các anh thì không.

Hơn thế, lúa của họ
Còn cúi lạy lúa chàng.
Lễ phép và cung kính
Như lạy trước ngai vàng.

Các anh tức giận nói:
“Cái thằng này hỗn hào.
Mày muốn làm vua hả,
Để cai trị chúng tao?”

Lần khác, chàng lại kể
Một giấc mơ lạ đời:
Mười một vì sao sáng
Cùng mặt trăng, mặt trời

Tất cả cùng quì mọp,
Cúi lạy chàng rất lâu.
Bố chàng không tin lắm,
Nhưng ghi nhớ trong đầu.

Còn các anh nghe thế,
Đã ghét càng ghét thêm
Rồi bắt đầu bàn bạc,
Tìm cách làm hại em.

Một hôm, ông Gia-côp
Bảo Giu-sê ra đồng,
Xem các anh chăn thú
Có gì bất trắc không.

Khi Giu-sê xuất hiện,
Các anh chàng bảo nhau:
“Thằng làm vua đang đến.
Ta phải giết thật mau,

Rồi ném xác xuống giếng.
Sau đó, lúc về nhà,
Ai hỏi, nói thú dữ
Đã ăn thịt hắn ta.”

Con đầu lòng Gia-côp,
Có tên là Rưu-vên,
Nói: “Không nên giết nó.
Nó là em, không nên.

Tôi không muốn đổ máu
Của người anh em mình.
Ta vứt nó xuống giếng.
Hợp lý, cũng hợp tình.

Rưu-vên nói như thế
Là muốn cứu Giu-sê.
Định sau sẽ quay lại,
Kéo chàng lên, đưa về.

Các anh chàng đồng ý.
Họ trói, ném người em
Xuống chiếc giếng cạn ước,
Rồi ăn cơm thản nhiên.

Bất chợt Giu-đa nói:
“Giu-sê là em ta.
Giết cũng chẳng có lợi.
Hay ta bán đi xa?”

Mọi người nghe, hợp lý,
Bèn kéo Giu-sê lên,
Bán hai mươi đồng bạc
Cho người It-ma-ên.

Họ là người buôn chuyến,
Tới những miền rất xa.
Giu-sê được bán lại
Cho ông Pôn-ti-pha.

Ông này là tướng giỏi,
Lập được nhiều chiến công
Đang chỉ huy quân đội
Của vua Pha-ra-ông.

Khi Ruu-vên quay lại,
Chẳng thấy Giu-sê đâu.
Chàng xé áo, ngồi khóc
Và thương tiếc rất lâu.

Những người anh em khác
Lấy áo của Giu-sê
Nhúng vào máu súc vật,
Rồi chiều tối mang về.

Họ nói với Gia-côp
Rằng Giu-sê, tiếc thay,
Bị thú dữ ăn thịt,
Còn lại chiếc áo này.

Thương con, Gia-côp khóc
Mọi người đến bên ông
Cùng lựa lời an ủi,
Ông vẫn không nguôi lòng.

2
ÔNG GIU-SÊ GIẢI THÍCH GIẤC MƠ
CHO VUA PHA-RA-ÔNG

Vua vùng đất Ai Cập,
Thường gọi Pha-ra-ông,
Tống ngục hai thái giám
Đã làm trái ý ông.

Ngẫu nhiên hai vị ấy
Lại chính là những người
Giu-sê được quản ngục
Cho cùng giam một nơi.

Ngoài ra, chàng được lệnh
Chăm sóc hai vị này.
Giúp phục vụ cơm nước
Và dọn dẹp hàng ngày.

Một sáng nọ, hai vị,
Ngủ dậy, mặt thẫn thờ.
Hỏi thì hai vị đáp
Họ vừa có giấc mơ.

Hai giấc mơ lạ lắm,
Chẳng ai hiểu thế nào.
Giu-sê xin họ kể,
Chàng thử giải xem sao.

Một vị nói: “Thật lạ,
Tôi mơ thấy cây nho,
Bên trên có ba nhánh,
Quả chín mọng, rất to.

Chim đến ăn nho chín.
Vua đang ngồi trên ngai,
Tôi hái nho, lấy chén,
Ép thành nước, dâng ngài.”

Giu-sê nói: “Ba nhánh
Có nghĩa là ba ngày.
Ba ngày nữa chắc chắn
Ông thoát khỏi nơi này.

Lúc ấy ông hãy nhớ
Tâu với Pha-ra-ông,
Để tôi cũng nhanh chóng
Được tự do như ông.”

Giám quan kia thì kể
Về giấc mơ như sau:
“Tôi mơ ba giỏ bánh
Được đặt ngay trên đầu.

Cả ba giỏ bánh ấy
Vốn làm cho vua ăn.
Đựng trong giỏ cao nhất
Có đủ bánh vua cần.

Thế mà chim bay đến
Móc rỉa, ăn ngon lành.
Tôi đau mà không thể
Xua chúng khỏi đầu mình.”

Chàng nói: “Ba giỏ bánh
Là ba ngày của ông.
Tức là ba ngày nữa
Đức vua Pha-ra-ông

Sẽ sai bọn đao phủ
Chém đầu ông, treo lên.
Ông sẽ thành mồi sống
Cho lũ chim kền kền.”

Ba ngày sau, quả thật,
Mọi việc đã diễn ra
Đúng như Giô-sê đoán.
Một quan được vua tha.

Còn quan kia bị giết,
Đầu treo trên cành cây.
Từ khắp nơi, chim chóc
Kéo đến rỉa từng bầy.

Hai năm sau, nằm ngủ,
Đức vua Pha-ra-ông,
Mơ thấy mình đang đứng
Một mình bên bờ sông.

Bảy con bò béo tốt
Từ sông Nin đi lên.
Ăn cỏ trong lau sậy
Mọc rất nhiều hai bên.

Một lúc sau lại thấy
Cũng đúng bảy con bò,
Có hình dạng xấu xí
Và cơ thể gầy gò.

Bảy con bò xấu ấy
Ăn thịt bảy con kia.
Vua giật mình tỉnh dậy,
Mồ hôi vã đầm đìa.

Đêm hôm sau, lần nữa
Đức vua Pha-ra-ông
Mơ thấy một bụi lúa
Rất mẩy hạt, bảy bông.

Rồi từ bụi lúa ấy,
Bảy bông khác gầy gò,
Hạt lép, chúng ăn hết
Bảy bông lúa hạt to.

Vua lo sợ, cho gọi
Các pháp sư, chiêm tinh.
Yêu cầu họ giải nghĩa
Hai giấc mơ của mình.

Thế mà những vị ấy,
Dẫu uyên bác, tài ba,
Cố vắt óc giải nghĩa,
Nhưng giải mãi không ra.

Chợt ông quan thái giám
Nhớ giấc mơ của mình,
Cho gọi Giu-sê đến
Rồi kể hết sự tình.

Nghe xong, Giu-sê nói:
“Thiên Chúa báo cho vua
Về một tai họa lớn -
Sắp xẩy ra mất mùa.

Cả hai giấc mơ ấy
Ý nghĩa giống như nhau.
Bảy con bò béo tốt,
Bảy bông lúa vàng au

Là bảy năm no đủ
Vì được mùa ở đây.
Còn bảy bông lúa lép
Và bảy con bò gầy

Là bảy năm sau đó
Trời hạn hán, mất mùa,
Khắp nơi dân thiếu đói
Trong đất nước của vua.”

Pha-ra-ông rất thích
Lời giải ấy của ông,
Cho ông làm tể tướng
Thưởng bạc vàng, ruộng đồng.

“Nhờ thần khí Thiên Chúa,
Con người này tài ba
Từ nay là tể tướng,
Quyền lực chỉ sau ta.

Mọi thần dân Ai Cập
Phải nghe theo lệnh ông,
Như phải nghe theo lệnh
Của ta, Pha-ra-ông!”

3
GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ

Như Giu-sê báo trước,
Trong suốt bảy năm trời
Mùa màng rất tươi tốt,
Dân no đủ khắp nơi.

Giu-sê cho tích góp
Lương thực chất đầy kho.
Kho của ông nhiều lắm,
Kho bé rồi kho to.

Ông cũng khuyên tất cả,
Người giàu và người nghèo,
Nên tích trữ lương thực,
Tiếc, ít người làm theo.

Và rồi trời hạn hán,
Đất nứt nẻ, khô cằn.
Hoa màu không mọc được.
Người không có gì ăn.

Mà không chỉ một tháng,
Một vài năm, tiếc thay,
Những bảy năm đằng đẵng.
Lấy gì sống qua ngày?

Dân Ai Cập rồng rắn
Xếp hàng trước nhà ông
Để chờ mua lương thực,
Trả bằng tiền, tiền đồng.

Còn ở nước bên cạnh
Gia-côp và các con,
Cũng do trời hạn hán,
Thức ăn đã không còn.

Khi nạn đói kinh khủng
Bước sang năm thứ hai,
Bắt chước nhiều người khác,
Gia-côp cho con trai

Tìm đường tới Ai Cập,
Gặp tể tướng nước này
Để mua ít lương thực,
Hy vọng sống qua ngày.

Tất nhiên họ không biết
Tể tướng là em mình.
Còn Giu-sê thì biết,
Nhưng ông vẫn làm thinh.

Hơn thế, còn ra lệnh
Tống giam họ ba ngày.
Sau đó cho về nước
Với xe lương thực đầy.

Lần thứ hai họ đến,
Đích thân được em mình
Là tể tưởng Ai Cập
Đón tiếp rất thân tình.

Các thù xưa oán cũ
Được nhanh chóng bỏ qua.
Giu-sê ngay lập tức
Cho người về đón cha.

Chẳng bao lâu sau đó
Gia-côp cùng gia đình,
Bảy mươi người tất cả,
Dọn sang với con mình.

Hay tin có khách quí,
Đích thân Pha-ra-ông
Chào đón và mời họ
Sinh sống ở nước ông.

*
Thọ một trăm mười tuổi,
Quan tể tướng Giu-sê
Lúc chết, bắt con cháu
It-ra-en phải thề

Khi rời khỏi Ai Cập,
Ướp xác ông bằng hương,
Cho vào quan tài kín
Rồi đưa về quê hương.


MÔ-SÊ

1
ÔNG MÔ-SÊ CHÀO ĐỜI

Cùng gia đình Gia-côp
Nhiều người It-ra-en
Phải chạy sang Ai Cập
Kiếm thức ăn, kiếm tiền.

Họ sinh con đẻ cái,
Số lượng ngày càng đông,
Sống thương yêu, khép kín
Thành nhóm và cộng đồng.

Sau khi Giu-sê chết,
Người Ai Cập dần dần
O ép người Do Thái
Trong công việc làm ăn.

Người Do Thái do vậy,
Trong một thời gian dài
Phải sống như nô lệ,
Dù thông minh, lắm tài.

Hơn thế, vua Ai Cập,
Lo cho dân của mình,
Lệnh: “Bé trai Do Thái
Phải giết khi mới sinh!”

Một bà Lê-vi nọ
Sinh được đứa con trai,
Phải bí mật giấu nó
Khỏi tai mắt người ngoài.

Khi không giấu được nữa,
Bà buộc phải cầm lòng
Cho nó vào chiếc thúng
Để trôi theo nước sông.

Bà sai con, chị nó,
Nấp trong bụi, đứng nhìn
Chiếc thúng cùng đứa bé
Trôi trên dòng sông Nin.

Đúng lúc ấy, phía dưới,
Con gái Pha-ra-ông
Đang tắm mát, chợt thấy
Chiếc thúng trôi giữa dòng.

Nàng tò mò muốn biết
Trong chiếc thúng có gì.
“Thì ra một đứa trẻ
Chắc con người Hip-ri.”

Chị đứa bé đi đến
Nói với nàng: “Thưa bà,
Bà muốn, con có thể
Tìm một người vú già.

Người Hi-pri, hẳn thế,
Để nuôi đứa bé này.”
Khi công chúa đồng ý,
Nó liền bỏ đi ngay.

Lát sau nó quay lại
Với bà mẹ của mình,
Cũng là mẹ đứa bé.
Một bé trai thật xinh.

“Bà hãy nuôi nấng nó.
Rồi ta sẽ trả công.
Ta nhận đỡ đầu nó.
Ta, con Pha-ra-ông.”

Nàng nhận lại đứa bé
Khi nó đã lớn khôn.
Đem về nuôi, chăm sóc,
Và yêu thương như con.

Ngẫm người, ngẫm hoàn cảnh,
Nàng cho nó cái tên
Là Mô-sê, có nghĩa
“Được từ nước vớt lên.”

2
ÔNG MÔ-SÊ PHẢI CHẠY TRỐN

Khi trưởng thành, lần nọ,
Mô-sê đi ra ngoài,
Thấy người dân Do Thái,
Hệt như tù khổ sai,

Phải làm việc quần quật,
Chang giữa nắng ngoài đồng,
Không khác gì nô lệ.
Nhìn mà không cầm lòng.

Thấy một tên Ai Cập
Đánh đồng bào của mình,
Ông tức giận, giết hắn,
Vùi xuống bãi lau sình.

Hôm sau ông lại đến,
Thấy hai người Hip-ri,
Tức là người Do Thái,
Không biết lý do gì,

Đang đánh nhau dữ dội.
Ông nói: “Cùng đồng bào,
Cùng chung kiếp nô lệ,
Nỡ đánh nhau được sao?”

“Ông là ai, xin hỏi,
Mà phán xét người ta?
Hay định giết tôi hả,
Như giết thằng hôm qua?”

Mô-sê nghe, chợt hiểu,
Có người nhìn thấy mình
Giết thằng khốn Ai Cập.
Vậy phải trốn đi nhanh.

Ông đến một vùng đất
Tên là Ma-đi-an,
Thì gặp một cô gái
Lấy nước bên giếng tràn.

Cô đang định lấy nước
Cho đàn cừu của cô,
Nhưng bị những người khác
Tranh mất phần, không cho.

Ông giúp cô lấy nước.
Âu cũng việc bình thường,
Không biết là con gái
Thầy Tư Tế địa phương.

Cô về kể với bố.
Ông bố rất hài lòng,
Cho mời Mô-sê đến
Cũng dùng bữa với ông.

Sau bữa cơm vui vẻ,
Thầy Tư Tế, chủ nhà,
Đề nghị người khách quí
Ở với ông, cùng nhà.

Đang không có nơi ở,
Mô-sê liền bằng lòng,
Về sau cưới làm vợ
Cô con gái của ông.

3
LỜI THIÊN CHÚA NÓI VỚI MÔ-SÊ

Ông Mô-sê lần nọ
Đi chăn dê và bò
Cho gia đình bố vợ
Là Tư Tế Git-rô.

Bất chợt ông nhìn thấy
Một bụi gai xa xa
Bốc lửa cháy ngùn ngụt,
Và Thiên Chúa hiện ra.

“Mô-sê”, Thiên Chúa gọi.
“Dạ thưa, có con đây.”
“Vì đây là đất thánh,
Con hãy cởi dép giày.

Ta chính là Thiên Chúa
Tổ phụ Ap-ra-ham,
I-sac và Gia-côp.
Cẩn thận, chớ lại gần.

Ta đã thấy cảnh khổ
Của các con dân ta
Ở đất nước Ai Cập,
Muốn đưa chúng đi xa

Tới một miền đất mới,
Thoáng rộng và tốt tươi,
Có đầy sữa và mật
Để nuôi sống mọi người.

Con được giao sứ mạng
Đưa con dân của ta
Thoát khỏi đất Ai Cập
Đầy khổ cực, xót xa.

Ta sai con đến gặp
Đích thân Pha-ra-ông
Để bàn về việc ấy.
Con có nhận lời không?”

“Con là ai mà dám
Gặp Đức Vua ở đây
Và đưa dân Do Thái
Thoát khỏi vùng đất này?”

“Con đừng lo, Thiên Chúa
Luôn bên con, và ta
Giúp con trong mọi việc
Trong chuyến này đi xa.

Hãy gặp các kỳ mục
Của dân It-ra-en,
Nói: “Tôi được Thiên Chúa
Phái đến giúp anh em.

Thiên Chúa đã biết chuyện
Anh em khổ xưa nay,
Hứa giúp dân Do Thái
Thoát khỏi vùng đất này.”

Các kỳ mục chắc chắn
Sẽ nghe con, và rồi
Đến gặp vua Ai Cập,
Nói: “Người dân chúng tôi

Đã gặp đấng Thiên Chúa,
Nay xin Pha-ra-ông
Vào sa mạc làm lễ
Tạ ân Ngài, được không?”

Ta biết vua Ai Cập
Nhất định sẽ lắc đầu,
Trước khi ta, Thiên Chúa,
Cho thấy các phép màu.”

Dẫu trong lòng không muốn,
Nhưng không thể làm gì,
Cuối cùng vua Ai Cập
Sẽ để các con đi.”
                   

MƯỜI TAI HỌA XẢY RA VỚI VUA PHA-RA-ÔNG

Đúng như Thiên Chúa nói,
Pha-ra-ông, tiếc thay,
Không cho người Do Thái
Đi khỏi vùng đất này.

Điều ấy buộc Thiên Chúa
Ra tay làm phép màu
Để ông vua Ai Cập
Biết điều, không cứng đầu.

Qua Mô-sê, Thiên Chúa
Sai thầy A-ra-hon
Cầm một chiếc gậy lớn
Làm từ cành cây non,

Rồi ném cây gậy ấy
Trước mặt Pha-ra-ông.
Nó biến thành con rắn
Dữ tợn như con rồng.

Pha-ra-ông lập tức
Cho người mời đến ngay
Các pháp sư, phù thủy
Để chống con rắn này.

Họ thi nhau ném gậy,
Cũng thành rắn, tuy nhiên,
Những con rắn của họ
Bị rắn rồng ăn liền.


1.    NƯỚC BIẾN THÀNH MÁU.

Vua Ai Cập hoảng sợ,
Nhưng vẫn không sờn lòng,
Không cho người Do Thái
Đi ra khỏi nước ông.

Mô-sê, theo lời Chúa,
Cầm con rắn khổng lồ,
Vốn trước là chiếc gậy,
Đập xuống nước sông hồ.

Lập tức nước thành máu,
Cá chết, xác nổi đầy.
Người dân khắp Ai Cập
Không thể uống nước này.

Thế mà vua của họ
Không cho người Hip-ri,
Tức là người Do Thái,
Được khăn gói ra đi.


2. ẾCH NHÁI

Thiên Chúa lại làm phép.
Ếch nhái ngập đầy sông,
Cả trên đường, ngoài ruộng.
Không chỗ nào là không.

Chúng có trên giường ngủ,
Mọi xó xỉnh trong nhà,
Trong túp lều xơ xác,
Trong cung điện nguy nga.

Chúng bám đầy quần áo
Của vua Pha-ra-ông.
Vua gọi Mô-sê đến,
Khẩn khoản nói với ông:

“Ngươi hãy xin Thiên Chúa
Xua lũ ếch nhái này.
Lập tức, dân Do Thái
Được rời khỏi nơi đây.”

Thiên Chúa diệt ếch nhái.
Thế mà Pha-ra-ông
Lật lọng, không cho họ
Được đi khỏi nước ông.


3.    MUỖI

Qua Mô-sê, Thiên Chúa
Bảo thầy A-ha-ron
Lấy gậy đập xuống đất
Vừa đúng một vòng tròn.

Bụi bay lên mù mịt.
Lập tức, đám bụi này
Biến thành muỗi đen kịt,
Như một đám mây dày.

Đám mây muỗi khủng khiếp
Bao trùm lên khắp nơi.
Dính vào cây, vào lá,
Vào mắt mũi mọi người.

Các pháp sư, phù thủy
Của vua Pha-ra-ông
Cố tìm cách diệt muỗi,
Nhưng vô ích, uổng công.

Thế mà ông vua ấy,
Một ông vua lạ kỳ,
Không cho người Do Thái
Bỏ Ai cập ra đi.


4. RUỒI NHẶNG

Mô-sê được Thiên Chúa
Dặn báo Pha-ra-ông
Ngài sẽ cho ruồi nhặng
Tàn phá đất nước ông,

Nếu một mực không chịu
Để những người Hip-ri,
Tức là con dân Chúa,
Được tự do ra đi.

Thế là khắp Ai Cập
Ruồi nhặng bay khắp nơi,
Tàn phá hết mọi thứ,
Che lấp cả mặt trời.

Đến mức vua khẩn khoản
Xin Thiên Chúa ngừng tay.
Nhưng lần nữa thất hứa.
Thật tráo trở vua này.

 

5. BỆNH DỊCH

                   
                    Lại lần nữa Thiên Chúa
Buộc phải dùng phép màu,
Giáng đủ loại ôn dịch
Gây chết chóc, buồn đau.

Gia súc người Ai Cập
Chết, xác nằm khắp nơi,
Gồm cừu, dê, lừa, ngựa,
Lây bệnh cả sang người.

Trong khi đó, thật lạ,
Gia súc người It-ra-en
Vẫn béo tốt, khỏe mạnh,
Đàn nào cũng còn nguyên.

Thế mà rồi lần nữa
Pha-ra-ông, tiếc thay,
Không cho người Do Thái
Được rời khỏi nước này.


6. MỤN NHỌT


                    Và Thiên Chúa lại bảo
Mô-sê, A-ha-ron
Vào bếp lấy bồ hóng,
Tung trước Pha-ra-ông.

Bồ hóng thành mụn nhọt,
Trên gia súc, trên người.
Sưng tấy và mưng mủ,
Thật hiếm có trên đời.

Một cảnh tượng kinh hãi
Ở Ai Cập xưa nay.
Sự trừng phạt của Chúa
Thật đáng sợ lần này.

Thế mà vua Ai Cập,
Ương bướng đến cực kỳ,
Khắp người đầy mụn nhọt,
Vẫn không chịu cho đi.


7. MƯA ĐÁ

Lần nữa Thiên Chúa phán:
“Đòn trừng phạt hôm nay
Đáng lẽ đã giết hết
Vua và dân nước này.

Nhưng ta cho được sống
Để biết quyền y ta.
Để mọi người thấm thía,
Khắp mọi nơi, mọi nhà.”

Mô-sê, theo lời Chúa,
Giơ chiếc gậy lên trời.
Trời trở nên đen xịt,
Nhìn không thấy mặt người.

Lập tức có mưa đá.
Đá to bằng nắm tay,
Từ trên cao rơi xuống,
Liên tục suốt mấy ngày.

Hoa màu bị chết hết.
Cây cối đổ khắp nơi.
Mưa đá cũng làm chết
Nhiều súc vật và người.

Thật lạ, vua Ai Cập,
Chẳng biết vua nghĩ gì,
Vẫn bướng bỉnh không chịu
Cho người Do Thái đi.


8. CHÂU CHẤU


                    Thiên Chúa lại làm phép:
Châu chấu bay khắp nơi,
Thành những đám mây lớn,
Che khuất cả mặt trời.

Chúng bay vào nhà ở
Của người nghèo, người giàu.
Ăn trụi hết cây lá,
Phá sạch hết hoa màu.

                    Các con dân Ai Cập
Kêu với Pha-ra-ông:
“Xin Đức Vua nghĩ lại.
Đất nước sắp diệt vong.”

Vua xin Thiên Chúa cứu.
Ngài giơ tay lên cao.
Châu chấu liền biến mất,
Không còn một con nào.

Thế mà vua không chịu
Để người Do Thái đi,
Vì bị chính Thiên Chúa
Làm trái tim chai lì.


9. CẢNH TỐI TĂM

                   
Mô-sê, theo lời Chúa,
Giơ hai tay lên trời.
Lập tức, trong giây lát,
Bóng tối trùm khắp nơi.

Toàn đất nước Ai Cập
Tối tăm trong ba ngày.
Khắp nơi tiếng than khóc
Suốt quãng thời gian này.

Nhưng lạ, trời vẫn sáng
Những nơi người Hip-ri
Và gia súc sinh sống,
Như không hề có gì.

Pha-ra-ông hoảng sợ,
Bảo Mô-sê: “Thôi, thôi!
Ta cho đi, đi hết,
Nhưng chỉ người mà thôi.

Còn gia súc, của cải
Phải để lại nơi này.
Và các ngươi có thể
Lên đường ngay hôm nay.

 

10. CÁC CON ĐẦU LÒNG PHẢI CHẾT

 

Nhưng Thiên Chúa lại phán

Với Mô-sê, rằng Ngài

Trước khi rời Ai Cập

Muốn lần nữa ra oai,

 

Giáng thêm tai họa nữa

Lên người dân nước này.

Ngài đi khắp đất nước,

Đúng nửa đêm hôm nay,

 

Ngài làm phép, giết hết

Những đứa con đầu lòng

Của người dân Ai Cập,

Kể cả Pha-ra-ông.

 

Và rồi đúng như thế.

Ngay rạng sáng hôm sau

Tất cả dân Ai Cập

Khóc thương đứa con đầu.

 

Toàn bộ dân Do Thái,
Do Mô-sê dẫn đường,
Đã đi vào sa mạc
Giữa sáng sớm mù sương.

 

DÂN IT-RA-EN RỜI KHỎI ĐẤT AI CẬP

1
LỄ VƯỢT QUA

Trước đó, Thiên Chúa phán
Với dân It-ra-en:
“Mỗi gia đình phải nhớ
Để dành một con chiên.

Chỉ chiên đực, một tuổi,
Ngày mồng mười, hôm nay,
Và giữ nó cẩn thận
Đến mười bốn tháng này

Toàn cộng đồng Do Thái
Sẽ dâng tế, rồi đem
Máu nó bôi lên cửa,
Thịt thì ăn ban đêm.

Thịt ăn cùng rau đắng
Và bánh mì không men.
Sáng hôm sau, tất cả
Con dân It-ra-en,

Không bỏ gì sót lại,
Với chiếc gậy cầm tay,
Rời khỏi đất Ai Cập.
Và đó chính là ngày

Lễ Vượt Qua mừng Chúa
Đã dẫn dắt các con
Đi đến vùng đất mới
Rộng và tươi tốt hơn.”

*
Từ đấy dân Do Thái
Tổ chức ngày lễ này
Như ngày lễ lớn nhất,
Mãi đến tận ngày nay.

Bắt đầu từ chiều tối,
Mười bốn tháng Ni-san,
Tháng Ba, Tư, Dương lịch,
Mọi người ngồi bên bàn,

Cùng uống bốn cốc rượu,
Ăn bánh mì không men
Với vài loại rau đắng
Và các món thịt chiên.

Người Do Thái làm lễ
Suốt hai tuần linh đình,
Để tưởng nhớ Thiên Chúa
Đã cứu giúp dân mình.

2
PHÉP LẠ TRÊN BIỂN ĐỎ

Hay tin dân Do Thái
Đã lên đường ra đi,
Vua Ai Cập chợt nghĩ:
“Ta đúng chẳng biết gì.

Để chúng đi khỏi nước,
Ai nô lệ cho ta?
Phải bắt chúng quay lại.
Có lẽ chưa đi xa.”

Rồi vua liền ra lệnh
Xe và lính đuổi theo.
Sáu trăm chiến xa tốt.
Binh lính thì rất nhiều.

Khi đến bờ Biển Đỏ
Quân của Pha-ra-ông
Đuổi kịp người Do Thái
Cắm trại thành đám đông.

Nhiều người trong số họ
Sợ hãi, trách Mô-sê.
Một số người thậm chí
Còn muốn được quay về.

Mô-sê đáp: Đừng sợ.
Anh em cứ ngồi yên.
Thiên Chúa sẽ nhất định
Cứu dân It-ra-en.”

Theo lời Thiên Chúa phán,
Mô-sê đưa hai tay
Là là trên mặt biển,
Và mặt biển, lạ thay,

Bị tách thành hai nửa,
Lộ một dải đất liền
Với hai bức tường nước
Sừng sững đứng hai bên.

Các con dân Do Thái
Đi vào dải đất này.
Quân Ai Cập truy đuổi,
Đi theo mà không hay.

Đến gần sáng, Thiên Chúa
Lại làm phép - chiến xa
Quân Ai Cập bị hỏng.
Binh lính thì kêu ca.

“Hãy giơ tay lần nữa!”
Ngài nói với Mô-sê.
Ngay lập tức nước biển
Từ khắp nơi đổ về.

Quân Ai Cập chết hết,
Không sống sót tên nào.
Trong khi người Do Thái
Như đi giữ đất cao.

Thế là một lần nữa
Thiên Chúa rất anh linh
Đã ra tay cứu giúp
Các con dân của mình.

3
BÁNH MAN-NA TỪ TRÊN TRỜI

Rời đất nước Ai Cập,
Người dân It-ra-en,
Vượt qua nhiều khổ ải,
Đến được sa mạc Sin.

Nhưng rồi đói và khát,
Rồi đường xa, nặng nề,
Không ít người lên tiếng
Oán trách ông Mô-sê.

Rằng họ thà ở lại
Làm nô lệ chẳng sao,
Hơn chết giữa sa mạc
Với bụng đói cồn cào.

Rằng cuối cùng không lẽ
Họ bỏ mình ở đây
Giữa bốn bề cát trắng,
Sau vất vả bao ngày?

Mô-sê được Thiên Chúa
Sai báo với mọi người:
Thiên Chúa sẽ làm phép
Bánh rơi từ trên trời.

Hàng ngày mọi người nhặt
Khẩu phần bánh của mình.
Ngày nào ăn ngày ấy,
Không nhặt nhiều để dành.

Vào các ngày thứ Sáu,
Khẩu phần sẽ gấp hai,
Để còn ăn Thứ Bảy.
Không ai giành phần ai.

Thiên Chúa còn cho thịt,
Cũng đều đặn hàng ngày.
Mọi người ăn lấy sức
Vượt qua khó khăn này.

Ngay buổi chiều hôm ấy,
Bỗng nhiên từ khắp nơi
Chim cút kéo nhau đến
Bay rợp cả bầu trời.

Các con chiên của Chúa
Bắt chúng, xâu từng dây.
Buổi sáng, xung quanh trại
Sương trắng phủ rất dày.

Khi sương tan, họ thấy
Một lớp bột mịn màng,
Như những chiếc bánh lớn
Nằm trên cát màu vàng.

Họ hỏi: “Cái gì vậy?”
Mô-sê đáp: “Cái này
Là bánh của Thiên Chúa
Cho chúng ta hàng ngày.”

Man hu? Gì thế nhỉ?”
Các con chiên hỏi nhau.
Và rồi hai chữ ấy
Thành tên bánh về sau.

Đó là một loại bánh
Giống bánh tráng, xốp phồng,
Rất mịn, màu ngà trắng,
Có hương vị mật ong.

Người Do Thái ăn nó
Trong bốn mươi năm liền
Khi họ rời Ai Cập
Tới đất It-ra-en.

4
MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA THIÊN CHÚA

Con dân người Do Thái
Rồng rắn một đoàn dài,
Đi, cuối cùng dựng trại
Trước ngọn núi Si-nai.

Mô-sê leo lên núi
Gặp Thiên Chúa anh linh.
Ngài phán, sai nhắn lại
Với con dân của mình:

“Các ngươi nay đã biết
Ta là người thế nào.
Giúp thoát khỏi Ai Cập,
Cho bánh, thịt ra sao.

Nếu các ngươi thực sự
Nghe theo lời của ta,
Giữ đúng như Giao Ước,
Một ngày kia không xa,

Các ngươi, dân Do Thái,
Có vương quốc của mình,
Ở một vùng đất thánh,
Màu mỡ và tốt lành.

Ta hứa vùng đất ấy,
Hứa che chở các ngươi
Là con dân Thiên Chúa,
Được ân phước suốt đời.”

Ông Mô-sê xuống núi,
Báo toàn trại của mình:
“Ba ngày nữa các bạn
Thấy Thiên Chúa hiện hình.”

Đúng ba ngày sau đó,
Sấm chớp nổ vang trời.
Chợt Thiên Chúa xuất hiện
Trong ánh lửa sáng ngời.

Từ núi cao bốc khói,
Thiên Chúa phán thế này:
“Ta đã làm phép lạ,
Đưa các người tới đây.

Giờ hãy nghe ta phán
Mười điều răn như sau.
Các ngươi phải thực hiện,
Với mình và với nhau.

Một, con dân Thiên Chúa
Không được thờ phụng ai
Ngoài thờ ta, Thiên Chúa,
Mãi mãi và lâu dài.

Hai, phải luôn ghi nhớ,
Không được dùng danh ta,
Sai trái và bất xứng,
Để làm việc gian tà.

Ba, không được làm ác.
Phải ăn ở có tình.
Luôn thương yêu người khác
Như chính bản thân mình.

Bốn, sáu ngày vất vả,
Ta tạo thế giới này.
Ngày tiếp theo, ta nghỉ.
Và đó cũng là ngày

Được ta ban ân phước,
Ngày Sa-bat, các ngươi
Không ai phải làm việc,
Được tùy mình nghỉ ngơi.

Năm, các ngươi phải nhớ
Luôn thờ kính mẹ cha,
Để họ sống trường thọ
Hưởng ân phước của ta.

Sáu, không được độc ác,
Không giết người, sát sinh.
Bảy, phải thương yêu vợ
Và không được ngoại tình.

Tám, không được trộm cắp.
Chín, không làm chứng gian.
Mười, thấy của người khác
Không được nổi lòng tham.

Tức là không ham muốn
Cái không phải của mình,
Dù đó là lừa, ngựa
Hay cô hầu gái xinh.”

Thiên Chúa đã phán thế
Từ đỉnh núi Si-nai
Mười điều răn bắt buộc
Đối với con dân Ngài.

5
CON BÊ BẰNG VÀNG

Mô-sê ở trên núi
Với Thiên Chúa khá lâu.
Dân It-ra-en đợi mãi,
Vẫn không thấy ông đâu.

Cuối cùng họ đến gặp
A-ra-hon, và rồi
Nói: “Ông chọn thần khác
Để dẫn dắt chúng tôi.”

A-ra-hon bảo họ
Gom vàng trong toàn dân,
Đúc một con bê nhỏ,
Mọi người tôn làm thần.

“Hỡi con dân Do Thái,
Thần của chúng ta đây.
Hãy cúi đầu thờ phụng
Con bê bằng vàng này!”

Thiên Chúa nghe, tức giận
Nói với ông Mô-sê:
“Dân ngươi đã hư hỏng.
Hãy nhanh chóng quay về.

Để mặc ta với chúng.
Chúng sẽ biết uy ta.
Sẽ có sự trừng phạt
Với mọi người, mọi nhà!”

Ông Mô-sê xuống núi
Sau bốn mươi đêm ngày
Được ở cùng Thiên Chúa
Trên núi cao đầy mây.

Khi mới đến gần trại,
Ông nhìn thấy con bê
Và đám đông nhảy múa
Xung quanh nó, say mê.

Trong tay ông lúc ấy
Là hai tấm bia dày.
Hai tấm bia Chứng Ước,
Chúa sai mang về đây.

Trên hai tấm bia ấy,
Cả mặt trước, mặt sau,
Đều có chữ của Chúa
Từng nét một, khắc sâu.

Ông đập chúng vỡ vụn
Vì phẫn nộ, bất bình,
Rồi lại leo lên núi,
Thưa với Chúa của mình:

“Đúng là đám dân ấy
Đã phạm tội, tiếc thay.
Nhưng con xin Thiên Chúa
Tha cho chúng lần này.”

6
HÒM BIA CỦA THIÊN CHÚA

Khi nghe xong, Thiên Chúa
Bảo Mô-sê thế này:
“Tiếc là con đập nát
Hai bia đá trước đây.

Vậy làm hai bia mới,
Mang lên núi cho ta.”
Rồi Thiên Chúa viết lại
Các dòng chữ, đó là

Mười Điều Răn quan trọng
Ngài nói với dân Ngài
Khi đứng trong khói lửa
Trên đỉnh núi Si-nai.

Ngài còn sai ông đóng
Một chiếc hòm gỗ dày,
Rồi mang bia xuống núi
Đựng trong chiếc hòm này.

Mô-sê vâng lời Chúa,
Cất giữ bia của Ngài
Trong hòm gỗ mới đóng,
Để truyền giữ lâu dài.

Cả đoàn người Do Thái
Đi tới Mô-xê-ra.
Ông A-ha-ron chết,
Con ông, Ê-la-đa

Thay ông làm tư tế,
Công tâm và nhiệt tình,
Lo các việc tế lễ
Như trước đây cha mình.

Thiên Chúa đã ưu ái
Giao chi tộc Lê-vi
Giữ Hòm Bia Chứng Ước
Trong suốt cả chuyến đi.

Mô-sê ở trên núi
Với Thiên Chúa, lần này
Cũng lâu như lần trước.
Vừa đúng bốn mươi ngày.

Nghe lời ông cầu khẩn,
Thiên Chúa đã mủi lòng,
Không đang tâm trừng phạt
Người anh em của ông.

Ngài phán: “Hãy xuống núi
Dẫn dắt đoàn con dân
Đi vào vùng Đất Hứa
Mà ta đã ban ân!”


ĐẾN MIỀN ĐẤT HỨA

1
DO THÁM MIỀN ĐẤT HỨA

Sau khi Mô-sê chết,
Chúa nói với Giô-suê:
“Ta giao con kế tục
Công việc của Mô-sê.

Hãy đưa con dân Chúa
Vượt qua sông Giô-đan,
Đi tới Miền Đất Hứa
Mà ta đã ân ban.

Ta sẽ luôn bên cạnh,
Giúp đỡ con khi cần.
Như Mô-sê ngày trước,
Hãy dẫn dắt con dân.”

Hai người rất thân tín
Được ông Giô-suê cho
Thám thính vùng đất Thánh,
Và thành Giê-ri-khô.

Từ Sít-tim, lặng lẽ
Họ đột nhập vào thành.
Đến nhà bà Ra-kháp,
Một phụ nữ lòng lành.

Có người đã bẩm báo
Với vua Giê-ri-khô
Về việc này bí mật.
Tất nhiên vua rất lo.

Vua lập tức ban lệnh
Để người dân trong thành
Bắt hai người Do Thái,
Giao nộp ngài thật nhanh.

Ngài còn cho binh lính
Đi lùng sục từng nhà.
Họ đến gặp Ra-kháp
Để tra hỏi, và bà

Nói hai người có đến,
Nhưng vừa ra khỏi thành,
Và rằng muốn bắt họ,
Cần phải đuổi theo nhanh.

Thật ra thì lúc ấy
Hai người It-ra-en
Đang được bà che giấu
Rất kín ở tầng trên.

Khi bọn lính đi khỏi,
Bà bảo hai người này:
“Tôi đoán, biết Thiên Chúa
Gửi hai người tới đây.

Toàn năng và uy lực,
Thiên Chúa của hai người
Mang lại nhiều phép lạ
Và hiện hữu khắp nơi.

Với hai người, lúc nãy
Tôi xử sự có tình.
Vậy xin nhân danh Chúa
Và tính mạng của mình,

Hãy thề, có chiến sự,
Khi các ông tới đây,
Sẽ bảo vệ mạng sống
Mọi người trong nhà này.”

Hai ông kia đồng ý,
Còn dặn bà đừng quên
Cột chỉ đỏ lên cửa,
Nhắc người It-ra-en.

Rồi từ trên gác thượng,
Bà thòng một sợi dây
Để hai người tụt xuống,
Nhanh chóng rời thành này.

Nhờ bà Ra-kháp giúp,
Họ bình yên quay về,
Đem mọi chuyện kể lại
Cho tư tế Giô-suê.

Vậy là biết được địch,
Giải tỏa nhiều mối lo,
Người Do Thái chuẩn bị
Đánh thành Giê-ri-khô.

2
CHIẾM THÀNH GIÊ-RI-KHÔ

Giê-ri-khô đóng chặt,
Nhất định không đầu hàng.
Người Do Thái muốn chiếm,
Nhưng không thể dễ dàng.

Đang thất vọng, buồn bực,
Ông Giô-suê, một ngày,
Thấy một người to lớn,
Chiếc gươm sáng cầm tay.

Biết đó là vị tướng
Của thiên binh nhà trời,
Giô-suê liền sụp lạy
Để lắng nghe ý Người.

Qua vị tướng, Thiên Chúa
Giúp các con dân mình,
Bằng cách bày mưu kế
Nhanh chóng hạ được thành.

Ông Giô-suê sau đó
Bảo người It-ra-en
Xếp thành hàng, rầm rộ,
Liên tục sáu ngày liền

Mỗi ngày đúng một lượt
Đi quanh Giê-ri-khô,
Cùng tù và, chiêng trống
Và những tiếng hô to.

Bước sang ngày thứ bảy,
Bảy tư tế dẫn đầu
Cùng Hòm Bia Giao Ước.
Đoàn người đi theo sau.

Tiếng tù và vang dậy.
Họ đi đúng bảy vòng.
Và vừa đi, tất cả
Vừa hô lớn: “Xung phong!”

Khi hết vòng thứ bảy,
Tường thành Giê-ri-khô
Lập tức liền sụp đổ.
Dân Do Thái reo hò,

Vào thành như chỗ trống.
Như đã hứa, họ tha
Không giết bà Ra-kháp
Và người thân của bà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét