THIÊN CHÚA HỦY
DIỆT
THÀNH SÔ-ĐÔM VÀ
GÔ-MÔ-RA
Người dân hai
thành phố
Sô-đôm,
Gô-mô-ra
Trở nên rất hư
đốn,
Chuyên làm điều
xấu xa.
Thiên Chúa rất
tức giận,
Báo cho Ap-ram
hay,
Rằng Ngài sẽ
hủy diệt
Cả hai thành
phố này.
Ap-ram xin
Thiên Chúa
Tha không giết
mọi người,
Nếu con số
người tốt
Ở đây là năm
mươi.
Chúa đồng ý,
nhân thể
Ông xin Chúa
nương tay,
Cả khi số người
tốt
Chỉ là mười ở
đây.
Lần nữa Chúa
đồng ý,
Rồi sai hai
thiên thần
Xuống các thành
phố ấy
Để tìm hiểu
người dân.
Hai thiên thần
bay xuống.
Lúc ấy là ban
đêm.
Ông Lot đón các
vị
Rất cung kính
ngoài thềm.
Ông Lot, như ta
biết,
Là cháu ông
Ap-ram,
Một người luôn
kính Chúa
Và hay lam, hay
làm.
Ông mời hai vị
khách,
Không biết là
thiên thần,
Vào nhà ông
nghỉ tạm,
Sai vợ dọn thức
ăn.
Trong khi, thật
xấu hổ,
Đàn ông các nhà
bên,
Nghe tin có
khách lạ,
Vội kéo nhau
đến liền.
Chúng đòi giao
cho chúng
Hai người khách
đàn ông
Để chúng hiếp
tập thể.
Một cảnh tượng
đau lòng.
Theo truyền
thống hiếu khách,
Giấu hai khách
của mình,
Ông Lot giao
cho chúng
Hai con gái còn
trinh.
Bọn đồng tính
luyến ái,
Vẫn nhất định
không tha.
Cuối cùng chúng
giận dữ,
Đạp cửa, xông
vào nhà.
Hai thiên thần
hóa phép
Làm mắt chúng
mù lòa,
Đưa gia đình
ông Lot
Tới khu làng
Dô-a.
Thiên Chúa liền
sau đấy
Làm trận mưa
lưu huỳnh
Thiêu trụi hai
thành phố
Xấu xa và đáng
khinh.
Vợ ông Lot,
thật tiếc,
Không nghe lời
thiên thần,
Ngoái lại nhìn,
lập tức
Biến thành cột
muối ăn.
GIU-SÊ
1
ÔNG GIU-SÊ BỊ BÁN SANG AI-CẬP
ÔNG GIU-SÊ BỊ BÁN SANG AI-CẬP
Như
đã nói, Gia-côp
Có
mười hai con trai.
Giu-sê
được yêu nhất
Vì
thông minh, có tài.
Lúc
lên mười bảy tuổi,
Chàng
bắt đầu chăn chiên.
Bố
cho chàng chiếc áo
Dài
tay và đắt tiền.
Các
anh chàng thấy thế,
Tỏ
ý rất bất bình.
Đơn
giản vì thấy bố
Yêu
chàng hơn yêu mình.
Lần
nọ chàng kể lại
Cho
các anh trai nghe
Một
giấc mơ, làm họ
Càng
thêm ghét Giu-sê.
Chàng
mơ đang bó lúa
Cùng
các anh ngoài đồng.
Bó
của chàng đứng thẳng,
Của
các anh thì không.
Hơn
thế, lúa của họ
Còn
cúi lạy lúa chàng.
Lễ
phép và cung kính
Như
lạy trước ngai vàng.
Các
anh tức giận nói:
“Cái
thằng này hỗn hào.
Mày
muốn làm vua hả,
Để
cai trị chúng tao?”
Lần
khác, chàng lại kể
Một
giấc mơ lạ đời:
Mười
một vì sao sáng
Cùng
mặt trăng, mặt trời
Tất
cả cùng quì mọp,
Cúi
lạy chàng rất lâu.
Bố
chàng không tin lắm,
Nhưng
ghi nhớ trong đầu.
Còn
các anh nghe thế,
Đã
ghét càng ghét thêm
Rồi
bắt đầu bàn bạc,
Tìm
cách làm hại em.
Một
hôm, ông Gia-côp
Bảo
Giu-sê ra đồng,
Xem
các anh chăn thú
Có
gì bất trắc không.
Khi
Giu-sê xuất hiện,
Các
anh chàng bảo nhau:
“Thằng
làm vua đang đến.
Ta
phải giết thật mau,
Rồi
ném xác xuống giếng.
Sau
đó, lúc về nhà,
Ai
hỏi, nói thú dữ
Đã
ăn thịt hắn ta.”
Con
đầu lòng Gia-côp,
Có
tên là Rưu-vên,
Nói:
“Không nên giết nó.
Nó
là em, không nên.
Tôi
không muốn đổ máu
Của
người anh em mình.
Ta
vứt nó xuống giếng.
Hợp
lý, cũng hợp tình.
Rưu-vên
nói như thế
Là
muốn cứu Giu-sê.
Định
sau sẽ quay lại,
Kéo
chàng lên, đưa về.
Các
anh chàng đồng ý.
Họ
trói, ném người em
Xuống
chiếc giếng cạn ước,
Rồi
ăn cơm thản nhiên.
Bất
chợt Giu-đa nói:
“Giu-sê
là em ta.
Giết
cũng chẳng có lợi.
Hay
ta bán đi xa?”
Mọi
người nghe, hợp lý,
Bèn
kéo Giu-sê lên,
Bán
hai mươi đồng bạc
Cho
người It-ma-ên.
Họ
là người buôn chuyến,
Tới
những miền rất xa.
Giu-sê
được bán lại
Cho
ông Pôn-ti-pha.
Ông
này là tướng giỏi,
Lập
được nhiều chiến công
Đang
chỉ huy quân đội
Của
vua Pha-ra-ông.
Khi
Ruu-vên quay lại,
Chẳng
thấy Giu-sê đâu.
Chàng
xé áo, ngồi khóc
Và
thương tiếc rất lâu.
Những
người anh em khác
Lấy
áo của Giu-sê
Nhúng
vào máu súc vật,
Rồi
chiều tối mang về.
Họ
nói với Gia-côp
Rằng
Giu-sê, tiếc thay,
Bị
thú dữ ăn thịt,
Còn
lại chiếc áo này.
Thương
con, Gia-côp khóc
Mọi
người đến bên ông
Cùng
lựa lời an ủi,
Ông
vẫn không nguôi lòng.
2
ÔNG
GIU-SÊ GIẢI THÍCH GIẤC MƠ
CHO
VUA PHA-RA-ÔNG
Vua
vùng đất Ai Cập,
Thường
gọi Pha-ra-ông,
Tống
ngục hai thái giám
Đã
làm trái ý ông.
Ngẫu
nhiên hai vị ấy
Lại
chính là những người
Giu-sê
được quản ngục
Cho
cùng giam một nơi.
Ngoài
ra, chàng được lệnh
Chăm
sóc hai vị này.
Giúp
phục vụ cơm nước
Và
dọn dẹp hàng ngày.
Một
sáng nọ, hai vị,
Ngủ
dậy, mặt thẫn thờ.
Hỏi
thì hai vị đáp
Họ
vừa có giấc mơ.
Hai
giấc mơ lạ lắm,
Chẳng
ai hiểu thế nào.
Giu-sê
xin họ kể,
Chàng
thử giải xem sao.
Một
vị nói: “Thật lạ,
Tôi
mơ thấy cây nho,
Bên
trên có ba nhánh,
Quả
chín mọng, rất to.
Chim
đến ăn nho chín.
Vua
đang ngồi trên ngai,
Tôi
hái nho, lấy chén,
Ép
thành nước, dâng ngài.”
Giu-sê
nói: “Ba nhánh
Có
nghĩa là ba ngày.
Ba
ngày nữa chắc chắn
Ông
thoát khỏi nơi này.
Lúc
ấy ông hãy nhớ
Tâu
với Pha-ra-ông,
Để
tôi cũng nhanh chóng
Được
tự do như ông.”
Giám
quan kia thì kể
Về
giấc mơ như sau:
“Tôi
mơ ba giỏ bánh
Được
đặt ngay trên đầu.
Cả
ba giỏ bánh ấy
Vốn
làm cho vua ăn.
Đựng
trong giỏ cao nhất
Có
đủ bánh vua cần.
Thế
mà chim bay đến
Móc
rỉa, ăn ngon lành.
Tôi
đau mà không thể
Xua
chúng khỏi đầu mình.”
Chàng
nói: “Ba giỏ bánh
Là
ba ngày của ông.
Tức
là ba ngày nữa
Đức
vua Pha-ra-ông
Sẽ
sai bọn đao phủ
Chém
đầu ông, treo lên.
Ông
sẽ thành mồi sống
Cho
lũ chim kền kền.”
Ba
ngày sau, quả thật,
Mọi
việc đã diễn ra
Đúng
như Giô-sê đoán.
Một
quan được vua tha.
Còn
quan kia bị giết,
Đầu
treo trên cành cây.
Từ
khắp nơi, chim chóc
Kéo
đến rỉa từng bầy.
Hai
năm sau, nằm ngủ,
Đức
vua Pha-ra-ông,
Mơ
thấy mình đang đứng
Một
mình bên bờ sông.
Bảy
con bò béo tốt
Từ
sông Nin đi lên.
Ăn
cỏ trong lau sậy
Mọc
rất nhiều hai bên.
Một
lúc sau lại thấy
Cũng
đúng bảy con bò,
Có
hình dạng xấu xí
Và
cơ thể gầy gò.
Bảy
con bò xấu ấy
Ăn
thịt bảy con kia.
Vua
giật mình tỉnh dậy,
Mồ
hôi vã đầm đìa.
Đêm
hôm sau, lần nữa
Đức
vua Pha-ra-ông
Mơ
thấy một bụi lúa
Rất
mẩy hạt, bảy bông.
Rồi
từ bụi lúa ấy,
Bảy
bông khác gầy gò,
Hạt
lép, chúng ăn hết
Bảy
bông lúa hạt to.
Vua
lo sợ, cho gọi
Các
pháp sư, chiêm tinh.
Yêu
cầu họ giải nghĩa
Hai
giấc mơ của mình.
Thế
mà những vị ấy,
Dẫu
uyên bác, tài ba,
Cố
vắt óc giải nghĩa,
Nhưng
giải mãi không ra.
Chợt
ông quan thái giám
Nhớ
giấc mơ của mình,
Cho
gọi Giu-sê đến
Rồi
kể hết sự tình.
Nghe
xong, Giu-sê nói:
“Thiên
Chúa báo cho vua
Về
một tai họa lớn -
Sắp
xẩy ra mất mùa.
Cả
hai giấc mơ ấy
Ý
nghĩa giống như nhau.
Bảy
con bò béo tốt,
Bảy
bông lúa vàng au
Là
bảy năm no đủ
Vì
được mùa ở đây.
Còn
bảy bông lúa lép
Và
bảy con bò gầy
Là
bảy năm sau đó
Trời
hạn hán, mất mùa,
Khắp
nơi dân thiếu đói
Trong
đất nước của vua.”
Pha-ra-ông
rất thích
Lời
giải ấy của ông,
Cho
ông làm tể tướng
Thưởng
bạc vàng, ruộng đồng.
“Nhờ
thần khí Thiên Chúa,
Con
người này tài ba
Từ
nay là tể tướng,
Quyền
lực chỉ sau ta.
Mọi
thần dân Ai Cập
Phải
nghe theo lệnh ông,
Như
phải nghe theo lệnh
Của
ta, Pha-ra-ông!”
3
GIA
ĐÌNH ĐOÀN TỤ
Như
Giu-sê báo trước,
Trong
suốt bảy năm trời
Mùa
màng rất tươi tốt,
Dân
no đủ khắp nơi.
Giu-sê
cho tích góp
Lương
thực chất đầy kho.
Kho
của ông nhiều lắm,
Kho
bé rồi kho to.
Ông
cũng khuyên tất cả,
Người
giàu và người nghèo,
Nên
tích trữ lương thực,
Tiếc,
ít người làm theo.
Và
rồi trời hạn hán,
Đất
nứt nẻ, khô cằn.
Hoa
màu không mọc được.
Người
không có gì ăn.
Mà
không chỉ một tháng,
Một
vài năm, tiếc thay,
Những
bảy năm đằng đẵng.
Lấy
gì sống qua ngày?
Dân
Ai Cập rồng rắn
Xếp
hàng trước nhà ông
Để
chờ mua lương thực,
Trả
bằng tiền, tiền đồng.
Còn
ở nước bên cạnh
Gia-côp
và các con,
Cũng
do trời hạn hán,
Thức
ăn đã không còn.
Khi
nạn đói kinh khủng
Bước
sang năm thứ hai,
Bắt
chước nhiều người khác,
Gia-côp
cho con trai
Tìm
đường tới Ai Cập,
Gặp
tể tướng nước này
Để
mua ít lương thực,
Hy
vọng sống qua ngày.
Tất
nhiên họ không biết
Tể
tướng là em mình.
Còn
Giu-sê thì biết,
Nhưng
ông vẫn làm thinh.
Hơn
thế, còn ra lệnh
Tống
giam họ ba ngày.
Sau
đó cho về nước
Với
xe lương thực đầy.
Lần
thứ hai họ đến,
Đích
thân được em mình
Là
tể tưởng Ai Cập
Đón
tiếp rất thân tình.
Các
thù xưa oán cũ
Được
nhanh chóng bỏ qua.
Giu-sê
ngay lập tức
Cho
người về đón cha.
Chẳng
bao lâu sau đó
Gia-côp
cùng gia đình,
Bảy
mươi người tất cả,
Dọn
sang với con mình.
Hay
tin có khách quí,
Đích
thân Pha-ra-ông
Chào
đón và mời họ
Sinh
sống ở nước ông.
*
Thọ
một trăm mười tuổi,
Quan
tể tướng Giu-sê
Lúc
chết, bắt con cháu
It-ra-en
phải thề
Khi
rời khỏi Ai Cập,
Ướp
xác ông bằng hương,
Cho
vào quan tài kín
Rồi
đưa về quê hương.
MÔ-SÊ
1
ÔNG MÔ-SÊ CHÀO ĐỜI
Cùng gia đình Gia-côp
Nhiều người It-ra-en
Phải chạy sang Ai Cập
Kiếm thức ăn, kiếm tiền.
Họ sinh con đẻ cái,
Số lượng ngày càng đông,
Sống thương yêu, khép kín
Thành nhóm và cộng đồng.
Sau khi Giu-sê chết,
Người Ai Cập dần dần
O ép người Do Thái
Trong công việc làm ăn.
Người Do Thái do vậy,
Trong một thời gian dài
Phải sống như nô lệ,
Dù thông minh, lắm tài.
Hơn thế, vua Ai Cập,
Lo cho dân của mình,
Lệnh: “Bé trai Do Thái
Phải giết khi mới sinh!”
Một bà Lê-vi nọ
Sinh được đứa con trai,
Phải bí mật giấu nó
Khỏi tai mắt người ngoài.
Khi không giấu được nữa,
Bà buộc phải cầm lòng
Cho nó vào chiếc thúng
Để trôi theo nước sông.
Bà sai con, chị nó,
Nấp trong bụi, đứng nhìn
Chiếc thúng cùng đứa bé
Trôi trên dòng sông Nin.
Đúng lúc ấy, phía dưới,
Con gái Pha-ra-ông
Đang tắm mát, chợt thấy
Chiếc thúng trôi giữa dòng.
Nàng tò mò muốn biết
Trong chiếc thúng có gì.
“Thì ra một đứa trẻ
Chắc con người Hip-ri.”
Chị đứa bé đi đến
Nói với nàng: “Thưa bà,
Bà muốn, con có thể
Tìm một người vú già.
Người Hi-pri, hẳn thế,
Để nuôi đứa bé này.”
Khi công chúa đồng ý,
Nó liền bỏ đi ngay.
Lát sau nó quay lại
Với bà mẹ của mình,
Cũng là mẹ đứa bé.
Một bé trai thật xinh.
“Bà hãy nuôi nấng nó.
Rồi ta sẽ trả công.
Ta nhận đỡ đầu nó.
Ta, con Pha-ra-ông.”
Nàng nhận lại đứa bé
Khi nó đã lớn khôn.
Đem về nuôi, chăm sóc,
Và yêu thương như con.
Ngẫm người, ngẫm hoàn cảnh,
Nàng cho nó cái tên
Là Mô-sê, có nghĩa
“Được từ nước vớt lên.”
2
ÔNG MÔ-SÊ PHẢI CHẠY TRỐN
Khi trưởng thành, lần nọ,
Mô-sê đi ra ngoài,
Thấy người dân Do Thái,
Hệt như tù khổ sai,
Phải làm việc quần quật,
Chang giữa nắng ngoài đồng,
Không khác gì nô lệ.
Nhìn mà không cầm lòng.
Thấy một tên Ai Cập
Đánh đồng bào của mình,
Ông tức giận, giết hắn,
Vùi xuống bãi lau sình.
Hôm sau ông lại đến,
Thấy hai người Hip-ri,
Tức là người Do Thái,
Không biết lý do gì,
Đang đánh nhau dữ dội.
Ông nói: “Cùng đồng bào,
Cùng chung kiếp nô lệ,
Nỡ đánh nhau được sao?”
“Ông là ai, xin hỏi,
Mà phán xét người ta?
Hay định giết tôi hả,
Như giết thằng hôm qua?”
Mô-sê nghe, chợt hiểu,
Có người nhìn thấy mình
Giết thằng khốn Ai Cập.
Vậy phải trốn đi nhanh.
Ông đến một vùng đất
Tên là Ma-đi-an,
Thì gặp một cô gái
Lấy nước bên giếng tràn.
Cô đang định lấy nước
Cho đàn cừu của cô,
Nhưng bị những người khác
Tranh mất phần, không cho.
Ông giúp cô lấy nước.
Âu cũng việc bình thường,
Không biết là con gái
Thầy Tư Tế địa phương.
Cô về kể với bố.
Ông bố rất hài lòng,
Cho mời Mô-sê đến
Cũng dùng bữa với ông.
Sau bữa cơm vui vẻ,
Thầy Tư Tế, chủ nhà,
Đề nghị người khách quí
Ở với ông, cùng nhà.
Đang không có nơi ở,
Mô-sê liền bằng lòng,
Về sau cưới làm vợ
Cô con gái của ông.
3
LỜI THIÊN CHÚA NÓI VỚI MÔ-SÊ
Ông Mô-sê lần nọ
Đi chăn dê và bò
Cho gia đình bố vợ
Là Tư Tế Git-rô.
Bất chợt ông nhìn thấy
Một bụi gai xa xa
Bốc lửa cháy ngùn ngụt,
Và Thiên Chúa hiện ra.
“Mô-sê”, Thiên Chúa gọi.
“Dạ thưa, có con đây.”
“Vì đây là đất thánh,
Con hãy cởi dép giày.
Ta chính là Thiên Chúa
Tổ phụ Ap-ra-ham,
I-sac và Gia-côp.
Cẩn thận, chớ lại gần.
Ta đã thấy cảnh khổ
Của các con dân ta
Ở đất nước Ai Cập,
Muốn đưa chúng đi xa
Tới một miền đất mới,
Thoáng rộng và tốt tươi,
Có đầy sữa và mật
Để nuôi sống mọi người.
Con được giao sứ mạng
Đưa con dân của ta
Thoát khỏi đất Ai Cập
Đầy khổ cực, xót xa.
Ta sai con đến gặp
Đích thân Pha-ra-ông
Để bàn về việc ấy.
Con có nhận lời không?”
“Con là ai mà dám
Gặp Đức Vua ở đây
Và đưa dân Do Thái
Thoát khỏi vùng đất này?”
“Con đừng lo, Thiên Chúa
Luôn bên con, và ta
Giúp con trong mọi việc
Trong chuyến này đi xa.
Hãy gặp các kỳ mục
Của dân It-ra-en,
Nói: “Tôi được Thiên Chúa
Phái đến giúp anh em.
Thiên Chúa đã biết chuyện
Anh em khổ xưa nay,
Hứa giúp dân Do Thái
Thoát khỏi vùng đất này.”
Các
kỳ mục chắc chắn
Sẽ
nghe con, và rồi
Đến
gặp vua Ai Cập,
Nói:
“Người dân chúng tôi
Đã
gặp đấng Thiên Chúa,
Nay
xin Pha-ra-ông
Vào
sa mạc làm lễ
Tạ
ân Ngài, được không?”
Ta
biết vua Ai Cập
Nhất
định sẽ lắc đầu,
Trước
khi ta, Thiên Chúa,
Cho
thấy các phép màu.”
Dẫu
trong lòng không muốn,
Nhưng
không thể làm gì,
Cuối
cùng vua Ai Cập
Sẽ
để các con đi.”
MƯỜI TAI HỌA XẢY RA VỚI VUA PHA-RA-ÔNG
Đúng như Thiên Chúa nói,
Pha-ra-ông, tiếc thay,
Không cho người Do Thái
Đi khỏi vùng đất này.
Điều ấy buộc Thiên Chúa
Ra tay làm phép màu
Để ông vua Ai Cập
Biết điều, không cứng đầu.
Qua Mô-sê, Thiên Chúa
Sai thầy A-ra-hon
Cầm một chiếc gậy lớn
Làm từ cành cây non,
Rồi ném cây gậy ấy
Trước mặt Pha-ra-ông.
Nó biến thành con rắn
Dữ tợn như con rồng.
Pha-ra-ông lập tức
Cho người mời đến ngay
Các pháp sư, phù thủy
Để chống con rắn này.
Họ thi nhau ném gậy,
Cũng thành rắn, tuy nhiên,
Những con rắn của họ
Bị rắn rồng ăn liền.
1.
NƯỚC
BIẾN THÀNH MÁU.
Vua Ai Cập hoảng sợ,
Nhưng vẫn không sờn lòng,
Không cho người Do Thái
Đi ra khỏi nước ông.
Mô-sê, theo lời Chúa,
Cầm con rắn khổng lồ,
Vốn trước là chiếc gậy,
Đập xuống nước sông hồ.
Lập tức nước thành máu,
Cá chết, xác nổi đầy.
Người dân khắp Ai Cập
Không thể uống nước này.
Thế mà vua của họ
Không cho người Hip-ri,
Tức là người Do Thái,
Được khăn gói ra đi.
2.
ẾCH NHÁI
Thiên Chúa lại làm phép.
Ếch nhái ngập đầy sông,
Cả trên đường, ngoài ruộng.
Không chỗ nào là không.
Chúng có trên giường ngủ,
Mọi xó xỉnh trong nhà,
Trong túp lều xơ xác,
Trong cung điện nguy nga.
Chúng bám đầy quần áo
Của vua Pha-ra-ông.
Vua gọi Mô-sê đến,
Khẩn khoản nói với ông:
“Ngươi hãy xin Thiên Chúa
Xua lũ ếch nhái này.
Lập tức, dân Do Thái
Được rời khỏi nơi đây.”
Thiên Chúa diệt ếch nhái.
Thế mà Pha-ra-ông
Lật lọng, không cho họ
Được đi khỏi nước ông.
3.
MUỖI
Qua Mô-sê, Thiên Chúa
Bảo thầy A-ha-ron
Lấy gậy đập xuống đất
Vừa đúng một vòng tròn.
Bụi bay lên mù mịt.
Lập tức, đám bụi này
Biến thành muỗi đen kịt,
Như một đám mây dày.
Đám mây muỗi khủng khiếp
Bao trùm lên khắp nơi.
Dính vào cây, vào lá,
Vào mắt mũi mọi người.
Các pháp sư, phù thủy
Của vua Pha-ra-ông
Cố tìm cách diệt muỗi,
Nhưng vô ích, uổng công.
Thế mà ông vua ấy,
Một ông vua lạ kỳ,
Không cho người Do Thái
Bỏ Ai cập ra đi.
4.
RUỒI NHẶNG
Mô-sê được Thiên Chúa
Dặn báo Pha-ra-ông
Ngài sẽ cho ruồi nhặng
Tàn phá đất nước ông,
Nếu một mực không chịu
Để những người Hip-ri,
Tức là con dân Chúa,
Được tự do ra đi.
Thế là khắp Ai Cập
Ruồi nhặng bay khắp nơi,
Tàn phá hết mọi thứ,
Che lấp cả mặt trời.
Đến mức vua khẩn khoản
Xin Thiên Chúa ngừng tay.
Nhưng lần nữa thất hứa.
Thật tráo trở vua này.
5. BỆNH DỊCH
Lại
lần nữa Thiên Chúa
Buộc phải dùng phép
màu,
Giáng đủ loại
ôn dịch
Gây chết chóc,
buồn đau.
Gia súc người
Ai Cập
Chết, xác nằm
khắp nơi,
Gồm cừu, dê, lừa,
ngựa,
Lây bệnh cả
sang người.
Trong khi đó,
thật lạ,
Gia súc người
It-ra-en
Vẫn béo tốt,
khỏe mạnh,
Đàn nào cũng
còn nguyên.
Thế mà rồi lần
nữa
Pha-ra-ông,
tiếc thay,
Không cho người
Do Thái
Được rời khỏi
nước này.
6. MỤN NHỌT
Và
Thiên Chúa lại bảo
Mô-sê, A-ha-ron
Vào bếp lấy bồ
hóng,
Tung trước Pha-ra-ông.
Bồ hóng thành
mụn nhọt,
Trên gia súc, trên người.
Sưng tấy và mưng mủ,
Thật hiếm có trên đời.
Một cảnh tượng kinh hãi
Ở Ai Cập xưa nay.
Sự trừng phạt của Chúa
Thật đáng sợ lần này.
Thế mà vua Ai Cập,
Ương bướng đến cực kỳ,
Khắp người đầy mụn nhọt,
Vẫn không chịu cho đi.
7.
MƯA ĐÁ
Lần nữa Thiên Chúa phán:
“Đòn trừng phạt hôm nay
Đáng lẽ đã giết hết
Vua và dân nước này.
Nhưng ta cho được sống
Để biết quyền y ta.
Để mọi người thấm thía,
Khắp mọi nơi, mọi nhà.”
Mô-sê, theo lời Chúa,
Giơ chiếc gậy lên trời.
Trời trở nên đen xịt,
Nhìn không thấy mặt người.
Lập tức có mưa đá.
Đá to bằng nắm tay,
Từ trên cao rơi xuống,
Liên tục suốt mấy ngày.
Hoa màu bị chết hết.
Cây cối đổ khắp nơi.
Mưa đá cũng làm chết
Nhiều súc vật và người.
Thật lạ, vua Ai Cập,
Chẳng biết vua nghĩ gì,
Vẫn bướng bỉnh không chịu
Cho người Do Thái đi.
8. CHÂU CHẤU
Thiên
Chúa lại làm phép:
Châu chấu bay khắp nơi,
Thành những đám mây lớn,
Che khuất cả mặt trời.
Chúng bay vào nhà ở
Của người nghèo, người giàu.
Ăn trụi hết cây lá,
Phá sạch hết hoa màu.
Các
con dân Ai Cập
Kêu với Pha-ra-ông:
“Xin Đức Vua nghĩ lại.
Đất nước sắp diệt vong.”
Vua xin Thiên Chúa cứu.
Ngài giơ tay lên cao.
Châu chấu liền biến mất,
Không còn một con nào.
Thế mà vua không chịu
Để người Do Thái đi,
Vì bị chính Thiên Chúa
Làm trái tim chai lì.
9. CẢNH TỐI TĂM
Mô-sê, theo lời Chúa,
Giơ hai tay lên trời.
Lập tức, trong giây lát,
Bóng tối trùm khắp nơi.
Toàn đất nước Ai Cập
Tối tăm trong ba ngày.
Khắp nơi tiếng than khóc
Suốt quãng thời gian này.
Nhưng lạ, trời vẫn sáng
Những nơi người Hip-ri
Và gia súc sinh sống,
Như không hề có gì.
Pha-ra-ông hoảng sợ,
Bảo Mô-sê: “Thôi, thôi!
Ta cho đi, đi hết,
Nhưng chỉ người mà thôi.
Còn gia súc, của cải
Phải để lại nơi này.
Và các ngươi có thể
Lên đường ngay hôm nay.
10. CÁC CON ĐẦU LÒNG PHẢI CHẾT
Nhưng Thiên Chúa lại phán
Với Mô-sê, rằng Ngài
Trước khi rời Ai Cập
Muốn lần nữa ra oai,
Giáng thêm tai họa nữa
Lên người dân nước này.
Ngài đi khắp đất nước,
Đúng nửa đêm hôm nay,
Ngài làm phép, giết hết
Những đứa con đầu lòng
Của người dân Ai Cập,
Kể cả Pha-ra-ông.
Và rồi đúng như thế.
Ngay rạng sáng hôm sau
Tất cả dân Ai Cập
Khóc thương đứa con đầu.
Toàn bộ dân Do Thái,
Do Mô-sê dẫn đường,
Đã đi vào sa mạc
Giữa sáng sớm mù sương.
DÂN
IT-RA-EN RỜI KHỎI ĐẤT AI CẬP
1
LỄ
VƯỢT QUA
Trước
đó, Thiên Chúa phán
Với
dân It-ra-en:
“Mỗi
gia đình phải nhớ
Để
dành một con chiên.
Chỉ
chiên đực, một tuổi,
Ngày
mồng mười, hôm nay,
Và
giữ nó cẩn thận
Đến
mười bốn tháng này
Toàn
cộng đồng Do Thái
Sẽ
dâng tế, rồi đem
Máu
nó bôi lên cửa,
Thịt
thì ăn ban đêm.
Thịt
ăn cùng rau đắng
Và
bánh mì không men.
Sáng
hôm sau, tất cả
Con
dân It-ra-en,
Không
bỏ gì sót lại,
Với
chiếc gậy cầm tay,
Rời
khỏi đất Ai Cập.
Và
đó chính là ngày
Lễ
Vượt Qua mừng Chúa
Đã
dẫn dắt các con
Đi
đến vùng đất mới
Rộng
và tươi tốt hơn.”
*
Từ
đấy dân Do Thái
Tổ
chức ngày lễ này
Như
ngày lễ lớn nhất,
Mãi
đến tận ngày nay.
Bắt
đầu từ chiều tối,
Mười
bốn tháng Ni-san,
Tháng
Ba, Tư, Dương lịch,
Mọi
người ngồi bên bàn,
Cùng
uống bốn cốc rượu,
Ăn
bánh mì không men
Với
vài loại rau đắng
Và
các món thịt chiên.
Người
Do Thái làm lễ
Suốt
hai tuần linh đình,
Để
tưởng nhớ Thiên Chúa
Đã
cứu giúp dân mình.
2
PHÉP LẠ TRÊN BIỂN ĐỎ
Hay tin dân Do Thái
Đã lên đường ra đi,
Vua Ai Cập chợt nghĩ:
“Ta đúng chẳng biết gì.
Để chúng đi khỏi nước,
Ai nô lệ cho ta?
Phải bắt chúng quay lại.
Có lẽ chưa đi xa.”
Rồi vua liền ra lệnh
Xe và lính đuổi theo.
Sáu trăm chiến xa tốt.
Binh lính thì rất nhiều.
Khi đến bờ Biển Đỏ
Quân của Pha-ra-ông
Đuổi kịp người Do Thái
Cắm trại thành đám đông.
Nhiều người trong số họ
Sợ hãi, trách Mô-sê.
Một số người thậm chí
Còn muốn được quay về.
Mô-sê đáp: Đừng sợ.
Anh em cứ ngồi yên.
Thiên Chúa sẽ nhất định
Cứu dân It-ra-en.”
Theo lời Thiên Chúa phán,
Mô-sê đưa hai tay
Là là trên mặt biển,
Và mặt biển, lạ thay,
Bị tách thành hai nửa,
Lộ một dải đất liền
Với hai bức tường nước
Sừng sững đứng hai bên.
Các con dân Do Thái
Đi vào dải đất này.
Quân Ai Cập truy đuổi,
Đi theo mà không hay.
Đến gần sáng, Thiên Chúa
Lại làm phép - chiến xa
Quân Ai Cập bị hỏng.
Binh lính thì kêu ca.
“Hãy giơ tay lần nữa!”
Ngài nói với Mô-sê.
Ngay lập tức nước biển
Từ khắp nơi đổ về.
Quân Ai Cập chết hết,
Không sống sót tên nào.
Trong khi người Do Thái
Như đi giữ đất cao.
Thế là một lần nữa
Thiên Chúa rất anh linh
Đã ra tay cứu giúp
Các con dân của mình.
3
BÁNH MAN-NA TỪ TRÊN TRỜI
Rời đất nước Ai Cập,
Người dân It-ra-en,
Vượt qua nhiều khổ ải,
Đến được sa mạc Sin.
Nhưng rồi đói và khát,
Rồi đường xa, nặng nề,
Không ít người lên tiếng
Oán trách ông Mô-sê.
Rằng họ thà ở lại
Làm nô lệ chẳng sao,
Hơn chết giữa sa mạc
Với bụng đói cồn cào.
Rằng cuối cùng không lẽ
Họ bỏ mình ở đây
Giữa bốn bề cát trắng,
Sau vất vả bao ngày?
Mô-sê được Thiên Chúa
Sai báo với mọi người:
Thiên Chúa sẽ làm phép
Bánh rơi từ trên trời.
Hàng ngày mọi người nhặt
Khẩu phần bánh của mình.
Ngày nào ăn ngày ấy,
Không nhặt nhiều để dành.
Vào các ngày thứ Sáu,
Khẩu phần sẽ gấp hai,
Để còn ăn Thứ Bảy.
Không ai giành phần ai.
Thiên Chúa còn cho thịt,
Cũng đều đặn hàng ngày.
Mọi người ăn lấy sức
Vượt qua khó khăn này.
Ngay buổi chiều hôm ấy,
Bỗng nhiên từ khắp nơi
Chim cút kéo nhau đến
Bay rợp cả bầu trời.
Các con chiên của Chúa
Bắt chúng, xâu từng dây.
Buổi sáng, xung quanh trại
Sương trắng phủ rất dày.
Khi sương tan, họ thấy
Một lớp bột mịn màng,
Như những chiếc bánh lớn
Nằm trên cát màu vàng.
Họ hỏi: “Cái gì vậy?”
Mô-sê đáp: “Cái này
Là bánh của Thiên Chúa
Cho chúng ta hàng ngày.”
“Man hu? Gì thế
nhỉ?”
Các con chiên hỏi nhau.
Và rồi hai chữ ấy
Thành tên bánh về sau.
Đó là một loại bánh
Giống bánh tráng, xốp phồng,
Rất mịn, màu ngà trắng,
Có hương vị mật ong.
Người Do Thái ăn nó
Trong bốn mươi năm liền
Khi họ rời Ai Cập
Tới đất It-ra-en.
4
MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA THIÊN CHÚA
Con dân người Do Thái
Rồng rắn một đoàn dài,
Đi, cuối cùng dựng trại
Trước ngọn núi Si-nai.
Mô-sê leo lên núi
Gặp Thiên Chúa anh linh.
Ngài phán, sai nhắn lại
Với con dân của
mình:
“Các ngươi nay
đã biết
Ta là người thế
nào.
Giúp thoát khỏi
Ai Cập,
Cho bánh, thịt
ra sao.
Nếu các ngươi
thực sự
Nghe theo lời
của ta,
Giữ đúng như
Giao Ước,
Một ngày kia
không xa,
Các ngươi, dân
Do Thái,
Có vương quốc
của mình,
Ở một vùng đất
thánh,
Màu mỡ và tốt
lành.
Ta hứa vùng đất
ấy,
Hứa che chở các
ngươi
Là con dân
Thiên Chúa,
Được ân phước
suốt đời.”
Ông Mô-sê xuống
núi,
Báo toàn trại
của mình:
“Ba ngày nữa
các bạn
Thấy Thiên Chúa
hiện hình.”
Đúng ba ngày
sau đó,
Sấm chớp nổ
vang trời.
Chợt Thiên Chúa
xuất hiện
Trong ánh lửa
sáng ngời.
Từ núi cao bốc
khói,
Thiên Chúa phán
thế này:
“Ta đã làm phép
lạ,
Đưa các người
tới đây.
Giờ hãy nghe ta
phán
Mười điều răn
như sau.
Các ngươi phải
thực hiện,
Với mình và với
nhau.
Một, con dân
Thiên Chúa
Không được thờ
phụng ai
Ngoài thờ ta,
Thiên Chúa,
Mãi mãi và lâu
dài.
Hai, phải luôn
ghi nhớ,
Không được dùng
danh ta,
Sai trái và bất
xứng,
Để làm việc
gian tà.
Ba, không được
làm ác.
Phải ăn ở có
tình.
Luôn thương yêu
người khác
Như chính bản
thân mình.
Bốn, sáu ngày
vất vả,
Ta tạo thế giới
này.
Ngày tiếp theo,
ta nghỉ.
Và đó cũng là
ngày
Được ta ban ân
phước,
Ngày Sa-bat,
các ngươi
Không ai phải
làm việc,
Được tùy mình
nghỉ ngơi.
Năm, các ngươi
phải nhớ
Luôn thờ kính
mẹ cha,
Để họ sống
trường thọ
Hưởng ân phước
của ta.
Sáu, không được
độc ác,
Không giết
người, sát sinh.
Bảy, phải
thương yêu vợ
Và không được
ngoại tình.
Tám, không được
trộm cắp.
Chín, không làm
chứng gian.
Mười, thấy của
người khác
Không được nổi
lòng tham.
Tức là không
ham muốn
Cái không phải
của mình,
Dù đó là lừa,
ngựa
Hay cô hầu gái
xinh.”
Thiên Chúa đã
phán thế
Từ đỉnh núi Si-nai
Mười điều răn
bắt buộc
Đối với con dân
Ngài.
5
CON BÊ BẰNG VÀNG
Mô-sê ở trên núi
Với Thiên Chúa khá lâu.
Dân It-ra-en đợi mãi,
Vẫn không thấy ông đâu.
Cuối cùng họ đến gặp
A-ra-hon, và rồi
Nói: “Ông chọn thần khác
Để dẫn dắt chúng tôi.”
A-ra-hon bảo họ
Gom vàng trong toàn dân,
Đúc một con bê nhỏ,
Mọi người tôn làm thần.
“Hỡi con dân Do Thái,
Thần của chúng ta đây.
Hãy cúi đầu thờ phụng
Con bê bằng vàng này!”
Thiên Chúa nghe, tức giận
Nói với ông Mô-sê:
“Dân ngươi đã hư hỏng.
Hãy nhanh chóng quay về.
Để mặc ta với chúng.
Chúng sẽ biết uy ta.
Sẽ có sự trừng phạt
Với mọi người, mọi nhà!”
Ông Mô-sê xuống núi
Sau bốn mươi đêm ngày
Được ở cùng Thiên Chúa
Trên núi cao đầy mây.
Khi mới đến gần trại,
Ông nhìn thấy con bê
Và đám đông nhảy múa
Xung quanh nó, say mê.
Trong tay ông lúc ấy
Là hai tấm bia dày.
Hai tấm bia Chứng Ước,
Chúa sai mang về đây.
Trên hai tấm bia ấy,
Cả mặt trước, mặt sau,
Đều có chữ của Chúa
Từng nét một, khắc sâu.
Ông đập chúng vỡ vụn
Vì phẫn nộ, bất bình,
Rồi lại leo lên núi,
Thưa với Chúa của mình:
“Đúng là đám dân ấy
Đã phạm tội, tiếc thay.
Nhưng con xin Thiên Chúa
Tha cho chúng lần này.”
6
HÒM BIA CỦA THIÊN CHÚA
Khi nghe xong, Thiên Chúa
Bảo Mô-sê thế này:
“Tiếc là con đập nát
Hai bia đá trước đây.
Vậy làm hai bia mới,
Mang lên núi cho ta.”
Rồi Thiên Chúa viết lại
Các dòng chữ, đó là
Mười Điều Răn quan trọng
Ngài nói với dân Ngài
Khi đứng trong khói lửa
Trên đỉnh núi Si-nai.
Ngài còn sai ông đóng
Một chiếc hòm gỗ dày,
Rồi mang bia xuống núi
Đựng trong chiếc hòm này.
Mô-sê vâng lời Chúa,
Cất giữ bia của Ngài
Trong hòm gỗ mới đóng,
Để truyền giữ lâu dài.
Cả đoàn người Do Thái
Đi tới Mô-xê-ra.
Ông A-ha-ron chết,
Con ông, Ê-la-đa
Thay ông làm tư tế,
Công tâm và nhiệt tình,
Lo các việc tế lễ
Như trước đây cha mình.
Thiên Chúa đã ưu ái
Giao chi tộc Lê-vi
Giữ Hòm Bia Chứng Ước
Trong suốt cả chuyến đi.
Mô-sê ở trên núi
Với Thiên Chúa, lần này
Cũng lâu như lần trước.
Vừa đúng bốn mươi ngày.
Nghe lời ông cầu khẩn,
Thiên Chúa đã mủi lòng,
Không đang tâm trừng phạt
Người anh em của ông.
Ngài phán: “Hãy xuống núi
Dẫn dắt đoàn con dân
Đi vào vùng Đất Hứa
Mà ta đã ban ân!”
ĐẾN MIỀN ĐẤT HỨA
1
DO THÁM MIỀN ĐẤT HỨA
Sau khi Mô-sê chết,
Chúa nói với Giô-suê:
“Ta giao con kế tục
Công việc của Mô-sê.
Hãy đưa con dân Chúa
Vượt qua sông Giô-đan,
Đi tới Miền Đất Hứa
Mà ta đã ân ban.
Ta sẽ luôn bên cạnh,
Giúp đỡ con khi cần.
Như Mô-sê ngày trước,
Hãy dẫn dắt con dân.”
Hai người rất thân tín
Được ông Giô-suê cho
Thám thính vùng đất Thánh,
Và thành Giê-ri-khô.
Từ Sít-tim, lặng lẽ
Họ đột nhập vào thành.
Đến nhà bà Ra-kháp,
Một phụ nữ lòng lành.
Có người đã bẩm báo
Với vua Giê-ri-khô
Về việc này bí mật.
Tất nhiên vua rất lo.
Vua lập tức ban lệnh
Để người dân trong thành
Bắt hai người Do Thái,
Giao nộp ngài thật nhanh.
Ngài còn cho binh lính
Đi lùng sục từng nhà.
Họ đến gặp Ra-kháp
Để tra hỏi, và bà
Nói hai người có đến,
Nhưng vừa ra khỏi thành,
Và rằng muốn bắt họ,
Cần phải đuổi theo nhanh.
Thật ra thì lúc ấy
Hai người It-ra-en
Đang được bà che giấu
Rất kín ở tầng trên.
Khi bọn lính đi khỏi,
Bà bảo hai người này:
“Tôi đoán, biết Thiên Chúa
Gửi hai người tới đây.
Toàn năng và uy lực,
Thiên Chúa của hai người
Mang lại nhiều phép lạ
Và hiện hữu khắp nơi.
Với hai người, lúc nãy
Tôi xử sự có tình.
Vậy xin nhân danh Chúa
Và tính mạng của mình,
Hãy thề, có chiến sự,
Khi các ông tới đây,
Sẽ bảo vệ mạng sống
Mọi người trong nhà này.”
Hai ông kia đồng ý,
Còn dặn bà đừng quên
Cột chỉ đỏ lên cửa,
Nhắc người It-ra-en.
Rồi từ trên gác thượng,
Bà thòng một sợi dây
Để hai người tụt xuống,
Nhanh chóng rời thành này.
Nhờ bà Ra-kháp giúp,
Họ bình yên quay về,
Đem mọi chuyện kể lại
Cho tư tế Giô-suê.
Vậy là biết được địch,
Giải tỏa nhiều mối lo,
Người Do Thái chuẩn bị
Đánh thành Giê-ri-khô.
2
CHIẾM THÀNH GIÊ-RI-KHÔ
Giê-ri-khô đóng chặt,
Nhất định không đầu hàng.
Người Do Thái muốn chiếm,
Nhưng không thể dễ dàng.
Đang thất vọng, buồn bực,
Ông Giô-suê, một ngày,
Thấy một người to lớn,
Chiếc gươm sáng cầm tay.
Biết đó là vị tướng
Của thiên binh nhà trời,
Giô-suê liền sụp lạy
Để lắng nghe ý Người.
Qua vị tướng, Thiên Chúa
Giúp các con dân mình,
Bằng cách bày mưu kế
Nhanh chóng hạ được thành.
Ông Giô-suê sau đó
Bảo người It-ra-en
Xếp thành hàng, rầm rộ,
Liên tục sáu ngày liền
Mỗi ngày đúng một lượt
Đi quanh Giê-ri-khô,
Cùng tù và, chiêng trống
Và những tiếng hô to.
Bước sang ngày thứ bảy,
Bảy tư tế dẫn đầu
Cùng Hòm Bia Giao Ước.
Đoàn người đi theo sau.
Tiếng tù và vang dậy.
Họ đi đúng bảy vòng.
Và vừa đi, tất cả
Vừa hô lớn: “Xung phong!”
Khi hết vòng thứ bảy,
Tường thành Giê-ri-khô
Lập tức liền sụp đổ.
Dân Do Thái reo hò,
Vào thành như chỗ trống.
Như đã hứa, họ tha
Không giết bà Ra-kháp
Và người thân của bà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét