TÓM LƯỢC LỊCH SỬ
1
Đời có ba đạo lớn
Như ta biết, đó là
Đạo Hồi, đạo Thiên Chúa,
Và đạo Phật Thích Ca.
Sáng lập ba đạo ấy
Là Thích Ca Mâu Ni,
Giê-su Đấng Cứu Thế,
Mu-ha-mát Tiên Tri.
Cả ba là người thật,
Được thần thoại ít nhiều,
Lập đạo để truyền bá
Tình thương và tình yêu.
Đạo Phật lâu đời nhất,
Hai nghìn năm trăm năm.
Rồi đến đạo Thiên Chúa,
Khoảng hơn hai nghìn năm.
Sáu trăm năm sau đó
Đạo Hồi mới hình thành,
Tức thế kỷ thứ bảy,
Và phát triển rất nhanh.
Trong số ba đạo ấy,
Đông dân và lâu đời,
Đạo Thiên Chúa đông nhất,
Gồm hơn hai tỉ người.
Đạo Thiên Chúa có gốc
Từ đạo It-ra-en,
Tức là đạo Do Thái,
Rồi dần phát triển lên.
Toàn bộ Kinh Cựu Ước
Như ta thấy ngày nay
Được đạo mới Thiên Chúa
Thừa hưởng từ đạo này.
Ngoài ra còn thừa hưởng
Các nghi lễ phụng thờ,
Các giáo lý cơ bản
Duy trì tận bây giờ.
Thiên Chúa có ba nhánh,
Phân bố ở nhiều nơi.
Một - Công Giáo La Mã,
Với hơn một tỉ người.
Trung tâm của Công Giáo
Là Tòa Va-ti-căng.
Hai là Chính Thống Giáo,
Chủ yếu vùng Ban Căng.
Tín đồ Chính Thống Giáo
Hơn hai trăm triệu người,
Ở Nga, Bun, Hy Lạp
Và rải rác nhiều nơi.
Với tín đồ nửa tỉ,
Nhánh thứ ba, Tin Lành,
Các tín đồ chủ yếu
Sống ở Mỹ và Anh.
2
Đạo Thiên Chúa nguyên thủy
Trong thiên niên kỷ đầu,
Dẫu còn có dị biệt,
Nhưng nhìn chung giống nhau.
Khi Đế quốc La Mã
Tách thành Tây và Đông,
Vào thế kỷ mười một
Đã nảy sinh bất đồng
Giữa hai truyền thống đạo
Phương Đông và Phương Tây.
Cả trong các giáo lý
Và nghi lễ hàng ngày.
Cuối cùng thì tách hẳn,
Thành Chính Thống Phương Đông
Và Công Giáo La Mã,
Dẫu chung một cộng đồng.
Đó là lần thứ nhất
Đạo Thiên Chúa tách đôi.
Nghi lễ có thể khác,
Nhưng thờ chung Chúa Trời.
Vào thế kỷ mười sáu,
Lu-thơ và Can-vanh
Tiến hành các cải cách
Ở châu Âu và Anh.
Họ không muốn tuân thủ
Các qui định khắt khe
Của Giáo Hội La Mã
Đang trói buộc nặng nề.
Họ chủ trương tinh giản
Các nghi lễ phụng thờ,
Cho mục sư lấy vợ,
Một việc cấm bấy giờ.
Đó là sự phản kháng
Với Tòa Thánh Rô-ma,
Dẫn đến các mâu thuẫn
Không thể nào dung hòa.
Và cuối cùng xuất hiện
Một nhánh mới - Tin Lành,
Phản ánh những thay đổi
Ở Mỹ và nước Anh.
__________
Trong tiếng Việt, thuật ngữ Thiên
Chúa giáo thường dùng để chỉ Giáo hội Công giáo Rôma, hay gọi
tắt là Công giáo. Tuy nhiên, bản
chất cụm từ "Thiên Chúa giáo" là chỉ về tất cả các tôn giáo thờ Thiên Chúa
là thần linh tối cao và duy nhất ngự trên trời . Ở đây thuật ngữ này dùng để
chỉ Kitô giáo,
gồm ba nhánh chính là Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, Tin Lành,
và nhánh trung dung Anh giáo. Tất cả đều
thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
ĐẠO THIÊN CHÚA Ở VIỆT NAM
Nước ta, đạo Thiên Chúa
Có mặt ở nhiều nơi.
Mười phần trăm dân số,
Sống “đẹp đạo, tốt đời”.
Tiếng chuông chiều thong thả,
Đỉnh tháp các nhà thờ,
Hình ảnh người đi lễ
Thân thuộc từ bao giờ.
Các tín đồ Thiên Chúa,
Các Phật tử xuất gia,
Người Cao Đài, Hòa Hảo,
Sống với nhau thuận hòa.
Mọi tôn giáo đều tốt,
Vì hướng thiện, hướng lành.
Tấm lòng người Việt rộng,
Nên đón nhận vào mình.
Tôn giáo là nền tảng
Đạo đức của nước nhà.
Dân tự do tín ngưỡng,
Nước phát triển, hài hòa.
*
Cuối thế kỷ mười sáu
Việt Nam đã bắt đầu
Có quan hệ buôn bán
Với các nước Châu Âu.
Thương gia các nước ấy
Tìm đường đến nước ta
Bán và mua hàng hóa,
Dùng thuyền chở về nhà.
Lúc ấy đạo Thiên Chúa
Muốn mở rộng cộng đồng,
Gửi nhiều nhà truyền đạo
Tới các nước Phương Đông.
Các nhà truyền đạo ấy
Nhiều lần đến nước ta.
Sớm nhất là các vị
Đến từ Bồ Đào Nha.
Họ chịu đựng gian khổ,
Sống lẫn với người dân,
Học phong tục, ngôn ngữ
Để truyền đạo dần dần.
Về sau, nhờ các vị,
Chữ Quốc Ngữ hình thành,
Giúp mở mang dân trí,
Tiếp thụ điều tốt lành.
Việc của nhà truyền đạo
Lúc thuận lợi, lúc không.
Nhưng tín đồ theo đạo,
Càng ngày càng thêm đông.
Theo các nhà sử học,
Đạo Thiên Chúa nước ta,
Năm khởi đầu được chọn
Là Một Năm Ba Ba.
Các giai đoạn phát triển
Chia thành ba như sau:
Giai đoạn một, gian khó,
Phải gây dựng từ đầu,
Kéo dài nửa thế kỷ,
Từ Một Sáu Một Năm,
Với muôn vàn bất trắc,
Đến Một Sáu Sáu Năm.
Việt Nam ta thời đó
Bị chia cắt làm hai
Bởi thế lực Trịnh Nguyễn,
Thành Đằng Trong, Đằng Ngoài.
Tiếp đến là giai đoạn
Hình thành, giai đoạn hai,
Từ Một Sáu Năm Chín
Đến Một Tám Không Hai.
Năm Một Sáu Năm Chín
Tòa Thánh Va-ti-căng
Ra Sắc Chỉ thành lập
Giáo phận ở hai Đằng.
Đằng Ngoài là Giáo phận
Từ sông Gianh trở ra,
Gồm Lào và năm tỉnh
Thuộc đất của Trung Hoa.
Đằng Trong là Giáo Phận
Bên kia bờ sông Gianh,
Bao gồm cả phần đất
Chân Lạp và Chiêm Thành.
Giám mục Bá Đa Lộc
Là người rất có công
Phát triển chữ Quốc Ngữ
Và mở rộng Cộng Đồng.
Ông đã giúp Nguyễn Ánh
Chống lại nhà Tây Sơn,
Nên công việc truyền đạo
Cũng được dễ dàng hơn.
Năm Một Bảy Chín Chín
Ông chết ở Quy Nhơn.
Hoàng tử Cảnh cũng mất.
Truyền đạo thành khó hơn.
Giai đoạn ba - Phát triển.
Từ Một Tám Tám Lăm,
Khi Pháp ký Hiệp Ước
Với triều đình An Nam.
Theo Hiệp Ước đã ký,
Công Giáo được tự do
Và công khai hoạt động,
Xây tu viện, nhà thờ.
Giai đoạn này kết thức
Năm Một Chín Sáu Mươi,
Khi Tòa Thánh La Mã
Cho phép được di dời,
Lập Tòa Khâm Sứ mới
Ở Sài Gòn, Miền Nam,
Đồng thời cũng thành lập
Hàng giáo Phẩm Việt Nam
Do người Việt quản lý.
Ba giáo tỉnh, đó là:
Hà Nội, Sài Gòn, Huế.
Và Nhà Thờ Đức Bà
Ở Sài Gòn, chính thức
Thành Vương Cung Thánh Đường.
Là nơi hành lễ chính,
Cả đại lễ, ngày thường.
TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
Tin lành là tin tốt
Ta mong đợi ở đời.
Đó là tin Thiên Chúa
Mang đến cho mọi người.
Khi Giê-su giáng thế,
Hăm Tư tháng Mười Hai,
Thiên Chúa cho loan báo
Qua ngôn sứ của Ngài:
“Ta báo các ngươi biết
Một tin rất tốt lành,
Rằng tại thành Đa-vít,
Đấng Cứu Thế hằng sinh.”
Tin lành ấy của Chúa
Các tín đồ sau này
Đặt tên một giáo phái
Là Tin Lành ngày nay.
*
Tin Lành được du nhập
Đầu thế kỷ hai mươi.
Dần dần các Giáo Hội
Được thành lập nhiều nơi.
Năm Một Chín Hai Bảy
Tổng Hội Thánh Tin Lành
Được chính thức thành lập,
Và phát triển rất nhanh.
Đến Một Chín Năm Bốn
Có năm vạn tín đồ,
Trăm mục sư truyền đạo
Được hành nghề tự do.
Suốt nhiều năm sau đó,
Trong thời gian chiến tranh
Nhiều đồng bào miền núi
Gia nhập đạo Tin Lành.
Riêng ở vùng Tây Bắc
Hơn mười lăm vạn người.
Tây Nguyên đến hàng triệu,
Phân bố ở nhiều nơi.
Cùng các Ki-tô hữu,
Các tín đồ Tin Lành
Sống “tốt đời, đẹp đạo”,
Trong giáo phận của mình.
KINH THÁNH
Kinh Thánh có hai cuốn,
Như ta biết xưa nay -
Cựu Ước và Tân Ước,
Con chiên đọc hàng ngày.
Là Kinh Do Thái Giáo,
Cựu Ước có từ lâu,
Bao gồm rất nhiều Sách
Bắt đầu từ Khởi Đầu,
Từ Thiên Chúa sáng thế,
Đến họ tộc loài người,
Sách Ngũ Kinh, Ngôn Sứ,
Sách Giáo Huấn dạy đời...
Còn cuốn Kinh Tân Ước
Nói về Chúa Ki Tô.
Nội dung gồm bốn quyển
Được viết bởi tông đồ.
Còn có Sách Công Vụ,
Sách Thư các thánh hiền.
Cuối cùng là cuốn sách
Gọi là Sách Khải Huyền.
LỜI CẦU NGUYỆN
Kinh Thánh là cuốn sách
Nói về Đức Chúa Trời,
Người tạo ra vạn vật,
Cả chúng ta, con người.
Đức Chúa Trời biết rõ
Tội lỗi của chúng ta.
Có tội, phải đền tội,
Trừ phi được Chúa tha.
Ta, loài người, phạm tội,
Nhưng được Đức Chúa Trời
Cho con Ngài giáng thế
Chịu phạt thay loài người.
Giê-su, con Thiên Chúa
Chịu bao nỗi xót xa,
Phải chết trên thập giá
Để gánh tội thay ta.
Sau đó Ngài sống lại,
Lên với Đức Chúa Trời,
Nhưng tình yêu ở lại
Với chúng ta, con người.
Ta thật lòng tin Chúa,
Chúa sẽ luôn bên ta.
Hàng ngày hãy cầu nguyện
Để mong được Chúa tha:
*
“Con kính lạy Thiên Chúa.
Con tin Đức Giê-su
Được Thiên Chúa phái xuống
Thế gian này âm u.
Con tin Ngài phải chết,
Gánh tội lỗi cho con,
Để con được giải thoát
Cả thể xác, tâm hồn.
Con cầu mong Thiên Chúa
Ở bên con suốt đời,
Tha cho con tội lỗi
Trót phạm khi làm người.
Con mong ngày nào đó
Được thanh thản, bình yên
Sống bên Chúa mãi mãi
Trên Thiên Đường. A-men!”
Phần Một - TRUYỆN CỰU ƯỚC
SÁNG THẾ
Lúc khởi đầu, Thiên Chúa
Tạo ra Đất và Trời.
Không hình hài, trống vắng,
Bóng tối trùm khắp nơi.
Thần khí của Thiên Chúa
Bay trên nước là là.
Ngài phán: Cần Ánh Sáng!
Và Ánh Sáng hiện ra.
Thấy Ánh Sáng là tốt,
Ngài phân chia, tách rời
Ánh Sáng và Bóng Tối
Cũng như Đất và Trời.
Thiên Chúa đặt tên gọi
Như ta biết ngày nay:
Đêm là khi trời tối,
Còn khi sáng là Ngày.
Và đó là kết quả
Ngày Sáng Thế đầu tiên.
Ngày thứ hai Thiên Chúa
Tạo Bầu Trời vô biên.
Ngày thứ ba Thiên Chúa
Tạo nên lớp Đất dày,
Rồi Đại Dương và Biển,
Tất cả các Loại Cây.
Ngày thứ tư, Thiên Chúa
Tạo Mặt Trăng, Mặt Trời
Và các Ngôi Sao sáng
Để có sáng khắp nơi.
Ngày thứ năm, Thiên Chúa
Tạo ra các loài Chim,
Cá và sinh vật biển,
Biết bay, biết lặn chìm.
Ngày thứ sáu, Thiên Chúa,
Làm việc không nghỉ ngơi,
Tạo nên các Loài Vật,
Tạo nên cả Con Người.
Ngày thứ bảy Ngài nghỉ.
Công việc đã làm xong.
Việc Sáng Thế kết thúc,
Và Ngài rất hài lòng.
Đó là ngày Sa-bat,
Ngày nghỉ của Chúa Trời,
Ngày thiêng liêng, sau đó
Là ngày nghỉ của Người.
__________
Trong
cuốn sách này tác giả phiên âm theo cách quen thuộc của đồng bào theo Đạo xưa
nay.
A-ĐAM VÀ Ê-VA
A-đam, như ta biết,
Là con người đầu tiên
Được Chúa vắt từ đất
Rồi hà hơi mà nên.
Con người này đặc biệt
Vì Thiên Chúa thông minh
Đã tạo nên theo đúng
Hình mẫu của chính mình.
Ngài tạo khu vườn đẹp,
Gọi là Vườn Địa Đàng,
Có nhiều cây xanh tốt,
Nhiều hoa, trái chín vàng.
Chính giữa khu vườn ấy
Có một cây Trường Sinh
Và một cây Tri Thức,
Ai ăn nó, tự mình
Sẽ nhận biết Điều Tốt
Và Điều Không Tốt Lành.
Ngài cho A-đam sống
Ở vườn này tươi xanh.
Ngài dặn, ông có thể
Muốn ăn gì thì ăn,
Nhưng ăn trái Tri Thức,
Sẽ chuốc vạ vào thân.
Thiên Chúa phán: không tốt
Khi Người Nam một mình.
Ta cho nó Người Nữ,
Dịu dàng và tươi xinh.
Rồi Ngài làm phép lạ,
Bắt A-đam ngủ say,
Rút chiếc xương sườn nhỏ,
Và từ khúc xương này
Ngài làm nên Người Nữ,
Đặt tên là Ê-va.
Người Nam là nam giới,
Người Nữ là đàn bà.
Và rằng thịt của thịt,
Xương thịt của một người,
Người Nam và Người Nữ
Phải yêu nhau suốt đời.
Trong số các loài vật,
Rắn là loài xấu xa.
Nó xúc xiểm, xu nịnh,
Kẻ thù của đàn bà.
Nó đến tìm Người Nữ,
Xúi bà ăn trái cây
Mọc trên cây Tri Thức,
Rằng ăn nó, sau này
Bà sẽ thành thông thái,
Biết phân biệt cho mình
Cái Thiện và Cái Ác,
Như các đấng thần linh.
Ê-va, dẫu còn sợ
Và chưa hết phân vân,
Nhưng do Rắn dụ dỗ,
Cuối cùng bà đã ăn.
Bà ăn trái cây cấm,
Lại còn đem mời chồng.
Ăn xong, họ xấu hổ
Khi thấy mình tồng ngồng.
Họ vội vã bẻ lá
Thay áo, quấn quanh người.
Sau đó, Thiên Chúa gọi,
Họ không dám trả lời.
Nhưng Ngài đã đoán hiểu
A-đam và Ê-va
Đã ăn trái cây cấm,
Nên giờ không dám ra.
Người Nữ đổ cho Rắn.
Người Nam đổ cho bà.
Thiên Chúa rất tức giận,
Bèn trừng phạt cả ba.
Loài Rắn bị nguyền rủa,
Phải trườn bò suốt đời,
Luôn luôn bị săn đuổi,
Kẻ thù của loài người.
Hai người bị Chúa phạt
Vì ăn trái cây này.
Họ và con cháu họ
Phải vất vả từ nay
Làm việc để kiếm sống,
Không được ở thiên đường,
Chịu mọi thứ bệnh tật
Và khó nhọc đời thường.
Đàn ông phải tranh đấu
Vật lộn vì miếng ăn.
Đàn bà khi sinh đẻ
Phải đau đớn, nhọc nhằn.
Hơn thế, ăn trái cấm,
Lại còn đưa cho chồng,
Đàn bà phải phụ thuộc
Và hầu hạ đàn ông.
Hai người bị Thiên Chúa
Đuổi khỏi Vườn Địa Đàng,
Xuống sống nơi hạ giới
Giữa mưa nắng phũ phàng.
CA-IN VÀ A-BEN
Người con đầu của họ
Có tên là Ca-in.
A-ben là con thứ,
Đẹp trai và ưa nhìn.
A-ben chăn gia súc.
Ca-in làm nghề nông.
Cả hai dâng lễ vật
Để Thiên Chúa hài lòng.
A-ben giết cừu béo
Cung kính dâng lên Ngài.
Ca-in cúng hoa quả
Và sản vật đất đai.
Ca-in rất khó chịu,
Thấy Thiên Chúa hài lòng
Lễ vật em dâng tặng,
Còn của mình thì không.
Chàng nung nấu điều ác.
Một hôm rủ em mình
Cùng ra đồng, rồi giết.
Một tội ác tầy đình.
Lúc về, Thiên Chúa hỏi:
“Em trai của con đâu?”
“Bẩm Chúa, con không biết.”
Chàng đáp rồi cúi đầu.
Thiên Chúa giận dữ phán:
“Ngươi đã giết em ngươi.
Máu A-ben thấm đất,
Đang bốc lên ngút trời.
Ngươi sẽ bị nguyền rủa
Bởi chính mảnh đất này.
Mảnh đất đã thấm máu
Của em ngươi hôm nay.
Và dẫu ngươi vất vả,
Cố cày cuốc đến đâu,
Nó không cho ngươi hưởng
Trái cây và hoa màu…”
Bị chính đất nguyền rủa,
Thiên Chúa không hài lòng,
Ca-in đành nhục nhã
Đi khuất về phía Đông.
*
Sau khi A-ben chết,
Ca-in bị lưu đày,
Ông A-đam sống tiếp
Rất lâu cho đến ngày
Chín trăm ba mươi tuổi,
Ông mới chịu qua đời.
Ông sinh thêm con nữa,
Tuổi - một trăm ba mươi.
Người này tên la Set,
Cũng hưởng thọ rất lâu.
Một trăm linh năm tuổi
Mới sinh người con đầu.
Con Set là E-noc,
Gọi A-đam là ông.
E-noc chín mươi tuổi
Mới có con đầu lòng.
Cứ thế, cây gia phả
Của A-đam, Ê-va
Lớn lên mãi, lớn mãi,
Cành và lá xùm xòa.
Một hậu duệ của
họ
Mới vô địch
sống lâu -
Chín trăm sáu
chín tuổi,
Tóc chưa bạc
trên đầu.
CHIẾC THUYỀN CỦA NÔ-Ê
Con cháu và chút chít
Của A-đ4 am, Ê-va
Về sau thành hư hỏng,
Độc ác và xấu xa.
Thiên Chúa lấy làm tiếc
Đã tạo ra loài người.
Và rồi Ngài quyết định
Xóa sổ họ trên đời.
Nhưng Ngài không nỡ giết
Một người tốt mọi bề,
Luôn nghe lời Thiên Chúa,
Là ông già Nô-ê.
Ngài bảo ông chuẩn bị
Chiếc thuyền lớn, và rồi
Đưa loài vật lên đó,
Cứ mỗi loài một đôi.
Tức có đực, có cái
Để nhân giống sau này,
Vì Ngài sẽ làm lụt
Kéo dài bốn mươi ngày.
Ông Nô-ê lúc ấy
Sáu trăm tuổi có thừa,
Làm đúng điều Chúa dặn.
Rồi sau đấy trời mưa.
Mưa tầm tã không dứt,
Như nước xối ào ào,
Làm ngập hết đồng ruộng,
Cả những ngọn núi cao.
Ông Nô-ê và vợ,
Cùng ba người con trai
Và một đôi đực cái
Của tất cả các loài
Vẫn bình yên vô sự
Khi ngồi trong chiếc thuyền.
Nước dâng cao, dâng mãi,
Nhưng cũng nâng thuyền lên.
Cuối cùng thì nước rút.
Con thuyền của Nô-ê
Trên núi A-ra-rat,
Nước còn trắng bốn bề.
Lênh đênh mười một tháng
Kể từ ngày trời mưa,
Ông thả chim câu trắng
Xem nước rút hết chưa.
Con chim bay một chốc
Lại quay về với ông.
Nước vẫn chưa rút hết,
Còn phải chờ trong lồng.
Một tuần sau, được thả,
Nó bay đi rất nhanh,
Lúc quay về, miệng ngậm
Một cành ô-liu xanh.
Đợi thêm bảy ngày nữa,
Ngồi trên thuyền, Nô-ê
Lại thả chim câu khác,
Nhưng nó không quay về.
Nghĩa là nước đã cạn.
Ông và cả gia đình
Bước xuống đất, xúc động,
Tạ ơn Chúa lòng lành.
Các loài chim, loài thú
Lần lượt ra từng đôi,
Bắt đầu cuộc sống mới
Rồi phát triển, sinh sôi.
THÁP BA-BEN
Sau khi nước rút hết,
Nô-ê dựng bàn thờ,
Làm lễ tạ ân Chúa.
Chúa hứa từ bây giờ
Sẽ không làm lụt nữa,
Không giết chết loài người.
Nói xong, Ngài liền dựng
Chiếc cầu vồng trên trời.
Chẳng bao lâu sau đó
Các con cháu của ông
Sinh sôi trên mặt đất,
Mỗi ngày một thêm đông.
Nói chung một ngôn ngữ,
Từ một gốc mà ra,
Họ tìm được vùng đất
Có tên là Si-na.
Thấy đất này màu mỡ,
Họ dừng lại ở đây,
Định xây một tòa tháp
Cao tít tận trời mây.
Đó sẽ là biểu tượng
Sức mạnh của loài người,
Quyết tâm và đoàn kết,
Thách thức cả với trời.
Từ trên cao nhìn xuống,
Thiên Chúa không hài lòng:
Con người quá kiêu hãnh,
Cậy mình mạnh và đông.
Rồi Ngài dùng phép lạ,
Mọi người không hiểu nhau
Do không chung ngôn ngữ,
Không ý hợp tâm đầu.
Thiên Chúa còn bắt họ
Phân tán đi khắp nơi.
Việc xây tháp bỏ dở,
Vì người không hiểu người.
AP-RA-HAM
1
Khoảng bốn nghìn năm trước,
Một hôm, Đức Chúa Trời,
Trong hào quang chói lọi,
Nói chuyện với một người:
“Con hãy bỏ tất cả
Để lên đường theo ta
Đi đến một vùng đất
Đầy mật ngọt và hoa.
Con sẽ được ban phước
Từ tay Đức Chúa Trời,
Thành ông tổ vĩ đại,
Nhiều thế hệ trên đời.
Người được Ngài nói chuyện
Tên là Ap-ram,
Cũng đã già lúc ấy,
Ở tuổi bảy mươi lăm.
Ap-ram nghe lời Chúa
Đưa vợ là Sa-nai
Cùng người cháu tên Lot
Và nô lệ theo Ngài.
Ông buồn khi được hứa
Về dòng giống trường tồn,
Vì vợ ông già lão,
Và chưa hề có con.
Thiên Chúa biết điều ấy,
Bèn bắt cô Ha-gam,
Một nô lệ Ai Cập,
Thành vợ hai Ap-ram.
Cô sinh được đứa bé,
Đặt tên It-ma-en,
Một đứa bé khỏe mạnh,
Thông minh và rất hiền.
Lúc chín mươi chín tuổi,
Ông được Đức Chúa Trời
Lập một bản Giao Ước,
Hứa giúp ông suốt đời.
Sau bản Giao Ước ấy,
Tên Sa-rai, A-bram
Được đổi thành tên mới:
Sa-ra, Ap-ra-ham.
Một buổi chiều ngày nọ,
Khi ngồi nghỉ trước nhà,
Ngước lên nhìn, ông thấy
Ba thiên sứ chói lòa.
Các thiên sứ cho biết
Nội trong vòng năm sau
Vợ cả ông sẽ có
Một đứa con, con đầu.
Sa-ra nghe, khinh ngạc,
Thậm chí còn phì cười.
Bà có con sao được
Khi đã ngoài chín mươi?
Thế mà nhờ phép Chúa,
Bà đã sinh con trai,
Đặt tên là I-sac,
Đúng như ý của Ngài.
2
Từ khi có I-sac,
Bà Sa-ra rất ghen
Với Ha-gam, vợ lẽ,
Và con, It-ma-en.
Bà sợ họ chiếm đoạt
Quyền thừa kế con bà,
Nên đòi chồng nhất định
Đuổi họ ra khỏi nhà.
Ap-ra-ham do dự,
Vì yêu It-ma-en.
Ông nghĩ xua đuổi họ
Là một việc không nên.
Nhưng Thiên Chúa báo mộng
Đứa con này của ông
Sẽ trở thành ông tổ
Một vùng đất mênh mông.
Sau nhiều ngày do dự,
Cuối cùng Ap-ra-ham
Đuổi mẹ con vợ lẽ,
Tức là nàng Ha-gam.
Đức Chúa Trời quyết định
Thử thách để xem ông
Có xứng đáng ông tổ
Hai quốc gia hay ông.
“Ngươi hãy đưa I-sac
Tới núi Mô-ri-a.
Hãy giết và nướng nó
Làm vật tế cho ta!”
Ap-ra-ham lập tức
Đưa đứa con thương yêu
Lên đỉnh ngọn núi ấy
Rồi chuẩn bị dàn thiêu.
Ông rút chiếc dao nhọn,
Và đúng lúc giơ tay
Thì có tiếng thiên sứ:
“Ap-ra-ham, dừng ngay!
Giờ thì Chúa đã biết
Lòng trung thành của ngươi.
Hãy quay về, lần nữa
Làm lễ tạ ân Người!”
3
Ap-ra-ham quả thật
Sau thành tổ nhiều đời
Của ba Đạo - Do Thái,
Thiên Chúa và Đạo Hồi.
It-ma-en, con trưởng,
Có mười hai con trai,
Mười hai vua Ả Rập,
Toàn hào kiệt, anh tài.
Còn con thứ I-sac -
Hai con trai sinh đôi,
Là E-sau, Gia-côp,
Không làm nhục giống nòi.
Về phần mình Gia-côp
Cũng mười hai con trai,
Mười hai vua Do Thái,
Và cũng bậc anh tài.
Vậy là người Ả Rập,
Và người It-ra-en,
Cả người Thiên Chúa Giáo,
Cùng chung một tổ tiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét