Thứ Tư, 11 tháng 3, 2020


                          Truyện Thơ Hồi Giáo, Phần Một.
                         
                           
                           LỜI NÓI ĐẦU

Assalaamu Alaikum

Tôn giáo nào cũng tốt,
Vì hướng thiện, hướng lành.
Cả Đạo Hồi, Đạo Phật,
Đạo Thiên Chúa, Tin Lành.

Tôn giáo là nền tảng
Của đạo đức ở đời.
Mục đích của tôn giáo
Là giúp người, yêu người;

Giúp kiềm chế cái ác,
Phát huy lòng vị tha;
Giúp xã hội ổn định
Và phát triển hài hòa.

Tôn giáo và tín ngưỡng
Cũng cần như thức ăn.
Trong gian nguy, thử thách
Là chỗ dựa tinh thần.

Tôi là một phật tử,
Suốt đời theo Thích Ca,
Nhưng yêu mến Thiên Chúa,
Yêu mến Đức A-la.

Làng tôi nửa theo Chúa,
Nửa theo Phật, từ lâu
Sống yên vui, hòa thuận,
Vì biết tôn trọng nhau.

Tôi đã tới Đất Thánh,
Thành Giê-ru-sa-lem,
Thầy tín đồ khác đạo
Sống như người anh em.

Ở các nước Hồi Giáo
Tôi có dịp đến thăm,
Người dân rất hiếu khách,
Thân thiện và có tâm.

Tôn giáo nào cũng tốt,
Vì hướng thiện, hướng lành.
Cả Đạo Hồi, Đạo Phật,
Đạo Thiên Chúa, Tin Lành.

Chỉ có những kẻ ác,
Với ý đồ xấu xa,
Lợi dụng các tôn giáo
Để gieo rắc bất hòa.

Họ, thực ra là kẻ,
Cố tình hay vô tình,
Đang làm xấu hình ảnh
Và bản chất Đạo mình.

*
Dẫu là người ngoại đạo,
Tôi thích đọc Cô-ran,
Như tác phẩm văn học,
Đọc cả nhiều lời bàn.

Một cuốn sách vĩ đại,
Không chỉ toàn giáo điều,
Mà có rất nhiều chuyện
Dạy về tình thương yêu.

Tập thơ này bé nhỏ
Gồm nhiều câu chuyện hay
Rút từ cuốn kinh ấy
Và các chuyện sau này.

Hy vọng các bạn trẻ
Học hỏi được nhiều điều
Đức A-la đã dạy
Về tình thương, tình yêu.

Học và thêm hiểu biết
Về các Đạo ở đời.
Vì chỉ sự hiểu biết
Mới làm cho con người

Sống yên vui, hòa thuận,
Tôn trọng, giúp đỡ nhau.
Không thù hằn tôn giáo,
Không hiểu lầm, gây đau.

Cũng nhằm mục đích ấy,
Tôi viết trong sách này
Giáo lý và lịch sử
Của Đạo Hồi xưa, nay.

Vậy mời các bạn đọc
Qua lời thơ nôm na
Để nhận lời chúc phúc
Từ Đức Thánh A-la.

Thái Bá Tân
_____________


Phần Một - KHÁI QUÁT

KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO HỒI

Đạo Hồi, trên thế giới
Thường gọi là Islam,
Nhưng trở thành Hồi Giáo
Khi nhập vào Việt Nam.

Số là ở Trung Quốc
Những người theo Đạo này
Thuộc bộ lạc Hồi Hột,
Vùng Tân Cương ngày nay.

Trung Quốc gọi Hồi Giáo,
Ta gọi theo, và rồi,
Bất chấp tên quốc tế,
Nó trở thành Đạo Hồi.

Islam tiếng Ả Rập
Có nghĩa là suốt đời
Quy phục và phụng sự
Đức Tối Thượng trên trời.

*
Đầu thế kỷ thứ bảy
Đạo Hồi đã ra đời
Ở bán đảo Ả Rập
Đất rộng và thưa người.

Đạo Hồi là Đạo lớn,
Một phẩy ba tỉ người,
Thứ hai trên thế giới,
Có mặt ở nhiều nơi.

Các tín đồ Hồi Giáo
Chỉ tôn thờ một thần
Là A-la Tối Thượng.
Thánh Kinh là Cô-ran.

Thiên sứ Mu-ha-mat
Vâng mệnh Đức A-la
Thành lập và truyền bá
Đạo mới khắp gần xa.

Như mọi tôn giáo khác,
Khi vừa mới ra đời,
Đạo Hồi bị chống đối
Bởi xã hội đương thời.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Từ thành Mê-đi-na,
Sau tám năm chiến đấu,
Đã chiếm được Mê-ca.

Ngài cùng các chiến hữu
Bám trụ ở thành này,
Biến nó thành Thánh Địa,
Rồi dần dần, từ đây

Mở nhiều cuộc Thánh Chiến
Sang các nước lân bang,
Qui nạp tín đồ mới
Từ những người đầu hàng.

Đến thế kỷ mười một,
Hồi Giáo đã trở thành
Một tôn giáo quốc tế
Và phát triển rất nhanh.

Các tín đồ có mặt
Ở cả vùng Phi Châu,
Ba Tư, Địa Trung Hải,
Một số nước Châu Âu.

Ba thế kỷ sau đó
Đạo lan xuống phía Nam,
Nhiều nước Đông Nam Á,
Trong đấy có Việt Nam.


ĐẠO HỒI Ở VIỆT NAM

Theo Tống sử Trung Quốc,
Vào thế kỷ thứ mười,
Người Chăm ở Trung Bộ
Khi giết trâu tế trời,

Đã làm lễ cầu nguyện
Đức Thượng Đế A-la.
Tức Đạo Hồi có mặt
Ở Vương Quốc Chăm Pa.

Các nhà buôn Ả Rập
Mang Đạo Hồi đến đây,
Nhưng người dân bản xứ
Chưa muốn chấp nhận ngay.

Năm trăm năm sau đó,
Sau Một Bốn Bảy Mươi,
Nhiều người Chăm lưu tán
Và phân bổ khắp nơi.

Họ tới một số nước
Theo Hồi Giáo bấy giờ,
Như Vương Quốc Căm Bốt,
Mã Lai và In-đô.

Tiếp thu tôn giáo mới,
Họ quay về, và rồi,
Bỏ Ấn Giáo, đạo cũ,
Để truyền bá Đạo Hồi.

Đạo này chịu ảnh hưởng
Của Đạo Bà La Môn,
Thành một dạng đặc biệt,
Phát triển và lưu tồn.

Qua rất nhiều thử thách,
Tồn tại và thích nghi,
Đạo Hồi Nam Trung bộ
Thành Đạo Hồi Bà-ni.

Tướng Nguyễn, Trương Minh Giảng
Năm Một Tám Bốn Mươi
Rời bỏ đất Chân Lạp,
Kéo theo rất nhiều người

Vốn đã theo Hồi Giáo,
Đến thượng nguồn sông Tiền,
Thuộc An Giang, Châu Đốc,
Thành một cộng đồng riêng.

Cộng đồng này phát triển,
Bám trụ ở Việt Nam
Thành một vùng Hồi Giáo
Là Đạo Hồi Islam.

Đầu thế kỷ mười chín,
Vùng Gia Định, Sài Gòn,
Nhờ khai thông bến cảng,
Mở cửa đón nhà buôn.

Nhiều người trong số họ
Từ thế giới Đạo Hồi,
Như Ả Rập, Ấn Độ,
Hay Mã Lai, và rồi

Họ an cư lạc nghiệp,
Xây nhà thờ nơi này,
Thành một cộng đồng nhỏ
Theo Đạo Hồi ở đây.

Hiện nay trên toàn quốc
Các tín đồ Đạo Hồi
Sống rải rác, tổng cộng
Bảy mươi lăm nghìn người.

Khi chiến tranh kết thúc,
Tức vào năm bảy lăm,
Bỏ sang Mã Lai sống
Bảy lăm nghìn người Chăm.

Mười tám nghìn người khác,
Cũng tín đồ Bà-ni
Sang Yemen tị nạn,
Định cư ở Ta-iz.

Họ, tín đồ Hồi Giáo
Người Việt ở nước ngoài,
Được người dân bản địa
Kính trọng vì đức, tài.

Cả nước đang hoạt động
Bảy mươi chín thánh đường,
Phục vụ nghi lễ lớn
Và tụng niệm ngày thường.

Như tín đồ Đạo khác,
Các tín đồ Đạo Hồi
Được tự do tín ngưỡng,
Sống đẹp Đạo, tốt Đời.


KINH CÔ-RAN

Kinh Cô-ran Hồi Giáo
Dài hơn sáu nghìn câu,
Gồm ba mươi phần lớn,
Không kể phần nói đầu.

Là Thánh Thư Tuyệt Đối,
Một trăm mười bốn chương,
Viết bằng tiếng Ả Rập,
Thứ ngôn ngữ bình thường,

Kinh Cô-ran tập hợp
Lời dạy của A-la,
Tiên Tri Mu-ha-mat
Lĩnh hội và chép ra.

Hăm hai năm liên tục
Ngài đã làm việc này
Khi Ngài vào hang núi
Để tụng niệm đêm ngày.

Các tín đồ Hồi Giáo
Coi Thánh Kinh của mình
Là cuốn sách vĩ đại,
Toàn chân lý thông minh.

Kinh Cô-ran không chỉ
Gồm giáo lý răn đời,
Mà còn là bộ luật
Cư xử người với người.

Có nhiều chương, nhiều đoạn
Dạy về cách làm ăn,
Các quan hệ giao tiếp,
Vệ sinh và hôn nhân.

Còn có các qui định
Về đạo đức, tình thương,
Về tội ác, hình phạt
Và sinh hoạt đời thường.

Kinh Cô-ran Hồi Giáo
Lời của Đức A-la.
Đồng thời là cơ sở
Của Luật Sha-ri-a.


LUẬT SHA-RI-A

Sha-ri-a có nghĩa
Là Đạo, là Con Đường,
Là bộ Luật Cơ Bản
Áp dụng trong đời thường.

Bộ luật này qui định
Nhiều điều cấm khắt khe
Mà nếu ai vi phạm
Sẽ bị phạt nặng nề.

Các quốc gia Hồi Giáo,
Cả xưa cũng như nay,
Có khác nhau khi hiểu
Và thực hiện luật này.

Xin sơ bộ tóm lược
Một số điều như sau
Áp dụng cho phụ nữ
Và cho đấng mày râu.

VỚI ĐÀN ÔNG

Một, tụng kinh thành kính
Đúng năm lần mỗi ngày.
Thực hiện các qui định
Về tháng Lễ Ăn Chay.

Hai, tuy không bắt buộc,
Đàn ông để râu cằm.
Ba, đọc Kinh chăm chỉ,
Toàn ý và toàn tâm.

Bốn, trừ bọn phá Đạo,
Không được phép giết người.
Năm, khi nghe múa, nhạc,
Không nhảy nhót, vui cười.

Sáu, bị ném đá chết
Nếu mắc tội dâm tà.
Tội ngoại tình bị đánh
Đúng một trăm roi da.

Bảy, nghiêm cấm đánh vợ.
Trường hợp vợ quá hư,
Thì lựa lời khuyên bảo
Với thái độ nhân từ.

Tám, không được ăn cắp.
Nếu ăn cắp tay nào,
Sẽ bị chặt tay ấy,
Chặt thấp hoặc chặt cao.

Chín, nghiêm cấm uống rượu
Hoặc các chất có men.
Mười, vào ngày cưới vợ,
Phải nộp một khoản tiền.

Khi không thể chung sống,
Phải nhẹ nhàng chia tay.
Nếu được vợ đồng ý,
Chồng giữ khoản tiền này.

Mười, không ăn thịt lợn,
Cũng như thịt chó mèo,
Là giống ăn đồ bẩn
Và các thứ ôi thiu.

VỚI PHỤ NỮ

Một, ra đường nhất thiết
Phải có người đi cùng.
Người đó là nam giới,
Đằng mình hoặc đằng chồng.

Hai, đeo khăn Hijab,
Trùm đầu, bịt kín tai,
Để tránh sự thô lỗ
Cái nhìn của người ngoài.

Ba, tụng kinh đều đặn
Đúng mỗi ngày năm lần.
Không tụng cùng nam giới,
Kể cả với người thân.

Bốn, khi chồng nói đúng,
Tuyệt đối phải nghe chồng.
Năm không được nhìn thẳng
Vào mắt người đàn ông.

Sáu, bị ném đá chết
Nếu mắc tội dâm tà.
Tội ngoại tình bị đánh
Đúng một trăm roi da.

Bảy, lấy chồng cùng đạo.
Tám, không tô móng tay,
Cười to nơi công cộng,
Đeo trang sức hàng ngày.

Chín, trẻ con nam nữ
Không được ngồi chung bàn,
Không được học chung lớp
Và không chơi cùng sân.

Mười, khi chồng đi vắng,
Phụ nữ làm việc nhà,
Chăm con, lo nội trợ
Và cầu Đức A-la.


MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA ĐẠO HỒI

Giống như đạo Thiên Chúa,
Đạo Hồi, theo Cô-ran,
Cũng qui định rất rõ
Cụ thể mười điều răn.

Một, chỉ thờ một chúa,
Tức là Đức A-la.
Hai, tôn trọng người khác.
Ba, yêu quí mẹ cha.

Bốn, rộng lòng bố thí.
Năm, nghiêm cấm giết người.
Sáu, nhún nhường, khiêm tốn.
Bảy, nuôi trẻ mồ côi.

Tám, giữ gìn tình cảm
Trong sạch và tốt lành.
Chín, cư xử bình đẳng
Mười, không được ngoại tình.

Tuy nhiên, có ngoại lệ
Với điều năm - giết người:
Có thể giết kẻ ác
Để trừ hại cho đời.

Hoặc trong khi chiến đấu
Chống kẻ phá Đạo mình,
Nhưng đối xử nhân đạo
Và tha cho tù binh.


MƯỜI ĐIỀU LUẬT ĐỐI VỚI TÍN ĐỒ HỒI GIÁO

Một, bắt buộc cầu nguyện
Ngày năm lần hoặc hơn:
Vào lúc mặt trời mọc,
Trưa, xế chiều, hoàng hôn.

Cuối cùng là buổi tối.
Phải cầu nguyện chân thành,
Toàn tâm và toàn ý,
Để được ban phúc lành.

Hai, trong đời ít nhất
Một lần đến Mê-ca
Để hành hương, tay chạm
Vào hòn đá Ka-ba.

Ba, không ăn thịt lợn,
Đơn giản vì giống này
Bẩn thỉu và ô tạp,
Rúc trong phân suốt ngày.

Bốn, không ăn thịt chó,
Thịt chuột và thịt mèo,
Vì chúng ăn thịt sống,
Và những thứ hôi thiu.

Năm, nghiêm cấm uống rượu
Và các chất có men.
Sáu, nghiêm cấm cờ bạc,
Cùng các trò đỏ đen.

Bảy, cấm chuyện tình dục
Giữ đàn ông, đàn bà
Trước khi có lễ cưới.
Cấm cả việc dâm tà.

Tám, tín đồ Hồi giáo
Chỉ ăn thịt ha-lan,
Tức thịt đã giết mổ
Đúng như Kinh Cô-ran.

Chín, nghiêm cấm kỳ thị
Tôn giáo và màu da,
Vì đó là công việc
Của Đức Thánh A-la.

Mười, mỗi năm một tháng,
Gọi là Ra-ma-dan,
Phải ăn chay, để nhớ
Người nghèo khổ, bần hàn.

Tháng này, theo quí định,
Khi còn ánh mặt trời,
Không ai được ăn uống
Hoặc ca hát, vui chơi.

Chờ khi mặt trời lặn,
Muốn ăn mới được ăn.
Luật này cũng áp dụng
Cả với chuyện ái ân.

Tuy nhiên, có ngoại lệ
Với bà chửa, trẻ em.
Họ có thể ăn uống
Mà không chờ đến đêm.


SU-NI VÀ SHI-A

Hồi Giáo có hai nhánh,
Su-ni và Shi-a.
Dù cùng chung một gốc,
Nhưng thường hay bất hòa.

Sự bất hòa không phải
Ở tôn giáo, tinh thần,
Mà toan tính chính trị,
Sau thành nghiêm trọng dần.

Nguồn gốc chia rẽ ấy
Đã nẩy sinh từ ngày
Đức Mu-ha-mat chết
Và ai sẽ lên thay.

Một trong những chiến hữu
Thân cận nhất của Ngài,
Abu Bakr được chọn,
Thành Caliph 1) thứ hai.

Người chọn ông tự nhận
Là tín đồ Su-ni,
Nghĩa là theo truyền thống
Mu-ha-mat tiên tri.

Nhưng nhiều tín đồ khác
Lại chọn con rể Ngài,
Ali bin Abu Talib
Thành Caliph thứ hai.

Shi-a, tên đầy đủ
Là “Shia-t-Ali”
Tức Nhóm người ủng hộ
Con rể Đức Tiên Tri.

Vậy là một tôn giáo,
Hai lãnh tụ tinh thần.
Và cái hố ngăn cách,
Rất tiếc, cứ lớn dần.

Hiện nay trên thế giới,
Số tín đồ Đạo Hồi
Dòng Su-ni vượt trội,
Khoảng hơn tám phần mười.

Dòng Shi-a chủ yếu
Ở I-rắc, I-ran.
Cả hai dòng, tuy vậy
Vẫn dùng chung Cô-ran.

Chỉ khác nhau chút ít
Về đời sống tâm linh,
Các cách thức hành lễ,
Và lãnh tụ của mình.

Phần vì chiếm đa số,
Các tín đồ Su-ni
Tự nhận mình chính thống,
Theo truyền thống tiên tri.

Họ phân biệt đối xử
Với tín đồ Shi-a,
Ngăn không cho tham dự
Vào đại sự quốc gia.

Tiếc là cùng một Đạo,
Mà xưa nay hai dòng
Có nhiều cuộc xung đột
Đẫm máu và đau lòng.

1.    Vua, cũng là giáo chủ, lãnh tụ tôn giáo cao nhất của một nước thời ấy.


TIÊN TRI MU-HA-MAT

1
Tiên tri Mu-ham-mat
Có gốc gác, tổ tiên
Rất lâu đời, từ thuở
Tiên tri Is-ma-en.

Is-ma-en, ta biết
Là con Ap-ra-ham -
Ông tổ ba đạo lớn:
Đạo Ki-tô, Is-lam

Và đạo cổ Do Thái.
Có nghĩa là chúng ta,
Người của cả ba đạo
Cùng anh em một nhà.

Ngài sinh ngày mười bảy,
Tháng Ra-bi đẹp trời
Ở Mêc-ca, thánh địa,
Năm năm trăm bảy mươi.

Bố Ngài là thủ lĩnh
Một dòng họ vẻ vang.
Đông đúc và hùng mạnh,
Có nhiều trang sử vàng.

Ngài bắt đầu giảng đạo
Vào năm sáu trăm mười,
Hăm hai năm liên tục,
Khi nhận được ý Trời.

Ngài ốm nặng, rồi chết
Để lại nỗi thương đau,
Vào ngày thứ hăm tám,
Tháng Sa-pha buồn rầu.

2      
Còn nằm trong bụng mẹ,
Ngài đã mồ côi cha,
Để lại cô hầu gái
Và năm con lạc đà.

Lên bảy, mẹ Ngài chết,
Ông nội, rồi bác Ngài
Nhận Ngài về nuôi dưỡng,
Thương yêu như con trai.

Lớn lên, Mu-ha-mat
Rất khôi ngô, thông minh,
Trung thực và nhã nhặn,
Biết người và biết mình.        

Được yêu mến, kính trọng
Trong con mắt mọi người,
Ngài sẽ là thiên sứ
Truyền đạt ý Chúa Trời

Ngài thường hay theo bác
Sang các nước láng giềng,
Hiểu biết thêm cuộc sống,
Các nghi lễ linh thiêng.

Khi trở thành người lớn,
Ngài là một thương gia
Buôn hàng giữa Đa-mat
Và thành phố Mec-ca.

Thời gian này Ngài gặp
Và yêu Kha-đi-gia,
Một nhà buôn giàu có,
Cũng là một quí bà.     

Lúc Ngài hai mươi tuổi,
Kha-li-gia - bốn mươi,
Họ thành hôn, sau đó
Sống hạnh phúc suốt đời.

Ba con trai của họ
Đều mất sớm, trong nhà
Chỉ có cô con gái,
Tên là Fa-ti-ma.

A-li ibn Ta-lib
Là chồng Fa-ti-ma,
Một con người kiệt xuất,
Thông minh và tài ba.

A-li đã khởi xướng,
Sau cái chết của Ngài,
Một giáo phái quan trọng,
Nay gọi là Shi-ai.

3
Tiên tri Mu-ha-mat
Dành rất nhiều thời gian
Để tụng kinh, thờ cúng,
Cả khi bận, khi nhàn.

Ngài hay làm điều ấy
Ở hang núi Hi-ra,
Một nơi rất yên tĩnh,
Không xa thành Mec-ca.

Tiên tri Mu-ha-mat
Lần đầu lãnh ý Trời
Khi Ngài bốn mươi tuổi,
Vào năm sáu trăm mười.

Đức A-la cao cả
Giao cho Ngài từ nay
Truyền đạo Hồi tốt đẹp
Khắp cả trái đất này.

Đó là một đạo mới,
Chỉ thờ Thánh A-la,
Duy nhất chỉ mình Thánh.
Đạo dành cho mọi nhà.

Như với các Đạo khác,
Việc truyền Đạo lúc đầu
Gặp khá nhiều trắc trở,
Thậm chí cả buồn đau.         

Nhưng nhờ Ngài thuyết giảng,
Nhờ A-la lòng lành,
Số người theo Đạo mới
Đã không ngừng tăng nhanh.

Ở Mêc-ca thời ấy
Người ta thờ Đa Thần.
Các bộ lạc cai trị
Sợ Đạo Ngài lớn dần

Sẽ làm lu mờ họ,
Nên họ gây phiền hà,
Thậm chí còn truy bức
Các tín đồ A-la.

Bản thân Mu-ha-mat
Cũng suýt chết nhiều lần,
Thoát được, nhờ ông bác
Và một số bạn thân.

Cuối cùng, để tồn tại,
Ngài rời khỏi Mec-ca,
Cùng tín đồ Đạo mới,
Đến thành Mê-đi-na.   

4
Và ngày Ngài đến đấy,
Năm sáu trăm hăm hai
Đánh dấu lịch Hồi Giáo,
Cứ thế mãi kéo dài.

Cũng ở đấy, Ngài soạn
“Hiến pháp Mê-đi-na”,
Tập hợp các bộ lạc,
Quyết đánh thành Mêc-ca.

Khoảng tám năm sau đó
Các tín đồ đạo Hồi,
Lúc ấy hơn một vạn,
Chiếm Mêc-ca, và rồi

Ngài ra lệnh phá hết
Các miếu đền Đa Thần
Cùng các vật thờ cúng,
Ở xa cũng như gần.

Nhưng mấy tháng sau đó,
Năm sáu trăm ba hai,
Ngài ốm nặng, rồi mất.
Tất cả tiếc thương Ngài.       

Cả bán đảo Xê-út
Đã chuyển sang Đạo Hồi
Vào thời điểm Ngài chết.
Cầu mong Ngài thảnh thơi!


KHA-ĐI-GIA

 

Có một người giàu có

Làm nghề buôn bán xa

Thời ấy ở Ả Rập,

Là bà Kha-đi-gia.

 

Bà đã bốn mươi tuổi,

Góa chồng, có hai con,

Đang cần một người trẻ

Để giúp bà đi buôn.

 

Chàng trai Mu-ha-mat

Dẫn nhiều đàn lạc đà

Chở hàng đến Đa-mát

Để buôn bán thay bà.

 

Tận tụy và trung thực,

Chàng hóa ra là người

Có năng khiếu đặc biệt,

Buôn chuyến nào cũng lời.

 

Cảm phục tài năng ấy,

Cả tư chất, tính tình,

Bà chủ động đề nghị

Chàng trai làm chồng mình.

 

Dù có chênh lệch tuổi,

Chính xác là hai mươi,

Hai gia đình đồng ý

Làm lễ cho hai người.

 

Chính A-bu Ta-lib

Dàn xếp hôn nhân này,

Theo đúng truyền thống cổ

Được tôn trọng xưa nay.

 

Cưới xong, Mu-ha-mát

Dọn đến ở cùng bà,

Rồi sinh một bé gái,

Tên là Fa-ti-ma.

 

Bà có với chồng trước

Hai cô gái dịu hiền.

Cả ba cô chung sống

Hòa thuận và bình yên.

 

Có thêm một người nữa

Sống trong nhà Tiên Tri -

Con A-bu Ta-lib,

Tên gọi là A-li.

 

Mu-ha-mat với cậu

Thân thương như con trai.

Sau này, khi khôn lớn,

A-li cưới con Ngài.

 

Kể từ ngày có vợ,

Ngài thường hay một mình

Lặng lẽ ngồi thiền định,

Nhiều khi giấu gia đình.

 

Ngài thường đến hang núi

Được gọi là Nô-ô,

Đó là một hang đá

Vừa sâu vừa rất to.

 

Ở đấy, nơi tĩnh mịch,

Ngài chăm chú ngồi thiền,

Quên cả ăn, cả ngủ.

Có khi mấy ngày liền.

 

Nhiều lần Ngài quyết định

Cho A-li đi theo.

Cả hai người ngồi lặng,

Thiền từ sáng đến chiều.

 

Một hôm, như thường lệ,

Đang ngồi yên, mơ màng,

Ngài bỗng nghe bất chợt

Có tiếng nói trong hang.

 

Giọng nói nói: “Hãy đọc!”

Ngài đáp: “Nhưng đọc gì?”

“Rằng A-la tối thượng

Cho con làm Tiên Tri

 

Để truyền bá Đạo Pháp

Của Thánh Kinh Cô-ran

Cứu giúp người lầm lạc

Đang sống giữa trần gian.”

 

Đó là lần thứ nhất

Ngài lãnh hội ý hiền

Từ A-la Tối Thượng

Qua Thiên Sứ Gab-rien.

 

Tối ấy Ngài đem chuyện

Kể với Kha-đi-gia.

Bà tin chồng thực sự

Là Tiên Tri A-la.

 

Theo bà, nhiều người khác

Cũng tin vào điều này.

Sau đấy Ngài tiếp tục

Nghe A-la hàng ngày.

 

Ngài bắt đầu thuyết giảng

Đạo Hồi của A-la,

Cả sau khi chiến thắng

Chiếm được thành Mê-ca.

 

Giúp đỡ Ngài đắc lực

Là bà vợ của Ngài

Và A-li, con rể,

Vừa có đức, có tài.

 

Vợ Ngài cùng con rể

Và người thân là người

Thành tín đồ sớm nhất,

Khi Đạo mới ra đời.

 

 

GIÁO CHỦ A-LI

 

                   A-li ibn Ta-lib

Sinh năm Sáu Không Không,

Mất năm Sáu Sáu Một,

Ở Mê-ca, Trung Đông.

 

Con A-bu Ta-lib,

Được bà Kha-đi-gia
Đưa về nhà nuôi nấng

Như con cái trong nhà,

 

A-li thành con rể,

Rồi Ca-liph thứ tư,

Kế tục Mu-ha-mat,

Rất thông minh, nhân từ.

 

Ngài nổi tiếng dũng cảm,

Không biết sợ là gì,

Là người thân tín nhất

Của bố vợ, Tiên Tri.

 

Khi Tiên Tri ốm chết,

Vì không có con trai,

Người Shi-a tuyên bố

A-li kế vị Ngài.

 

Vì Ngài là con rể,

Được sinh ở Mê-ca,

Người đầu tiên chấp nhận

Đạo mới của A-la.

 

Thế nhưng Abu Bakr,

Rồi U-mar, Uth-man

Thay nhau làm Ca-liph,

Bất chấp tiếng phàn nàn.

 

Đó là nguyên nhân chính

Các bất đồng sau này

Giữa hai nhóm Hồi Gáo,

Cho đến tận ngày nay.

 

Chỉ khi Uth-man chết,

Ngài mới được lên thay,

Đúng lúc có bạo loạn

Liên quan đến chuyện này.

 

Ngài đã phải đối mặt

Một cuộc chiến kéo dài.

Và một buổi sáng nọ,

Trong nhà thờ, khi Ngài

 

Đang cầu kinh, bất chợt

Kẻ thù đã tấn công.

Hai ngày sau, Ngài chết,

Gây xúc động cộng đồng.

 

Các tín đồ Hồi Giáo

Yêu Giáo Chủ A-li

Vì trung thành, tận tụy

Với bố vợ, Tiên Tri;

 

Yêu vì Ngài dũng cảm,

Vì đối xử nghĩa tình

Với tín đồ khác nhánh

Và với cả tù binh.



Phần Hai
TRUYỆN VỀ TIÊN TRI MU-HA-MAT

TIÊN TRI MU-HA-MAT VÀ LOÀI VẬT

1
Thời ấy, ở Ả Rập
Khi mới có Đạo Hồi,    
Người ta thường đối xử
Với loài vật rất tồi.

Tiên tri Mu-ha-mat
Dạy: Loài vật ở đời
Cũng đáng được đối xử
Nhân đạo như với người.

Không được đánh đập chúng,
Cho uống nước hàng ngày.
Khi bò mệt, cho nghỉ,
Lúc khỏe mới đi cày.

Có một cô điếm nọ,
Ngài kể cùng bạn đường,
Nhờ cứu một con chó
Mà được lên thiên đường.

Ngoài chợ có con chó
Sắp chết khát, rất may
Được cô điếm nhìn thấy,
Dẫu nguy hiểm, cô này

Trèo xuống giếng lấy nước
Cho nó uống thật no.
Thánh A-la nhìn thấy,
Tha hết tội cho cô.

Trong khi đó, Ngài kể,
Lại có một bà già
Để con mèo chết đói
Vì bị nhốt trong nhà.

Bị ném xuống địa ngục,
Bị tra tấn đêm ngày
Chỉ vì bà già ấy
Để mèo chết cách này.

Thánh A-la vĩ đại
Ban thưởng hậu cho người
Xử tốt với loài vật
Như đối với người đời.

2
Tiên tri Mu-ha-mat,
Một lần nọ ở nhà,
Đang rửa đồ thờ cúng,
Có con mèo đi qua.

Thấy con vật đang khát,
Ngài vội vã dừng tay,
Lấy nước cho nó uống,
Mới làm tiếp việc này.

Riêng điều ấy đủ nói
Tình thương Ngài bao la.
Giúp con vật tội nghiệp
Rồi mới thờ A-la.

Ngài còn ra đạo luật
Bắt các lò sát sinh
Gây ít đau đớn nhất
Cho con vật của mình.

Ngài có nhiều đệ tử.
Lần nọ có một người
Thẳng tay đánh nô lệ,
Khiến anh ta kêu trời.

“Xin ông chủ đừng đánh.
Hãy vì Đức A-la,
Xin ông chủ đừng đánh!”
Nhưng ông kia không tha.

Được mọi người cấp báo,
Mu-ha-mat ra ngay.
Khi thấy tiên tri đến,
Ông kia mới ngừng tay.

Ngài nói: “Vừa lúc nãy,
Nhân danh thánh A-la
Người ta xin đừng đánh,
Mà ngươi cũng không tha?

Vậy sao ngươi có thể
Nhìn mặt ta lúc này?”
Ông kia nghe, xấu hổ
Chỉ cúi đầu, đứng ngây.

Và rồi, không ai bắt,
Ông ấy, một tín đồ,
Liền cho anh nô lệ
Được thành người tự do.


CẬU BÉ MỒ CÔI

Lúc ấy là lễ Eid,
Chấm dứt tháng ăn chay.
Ai cũng ăn mặc đẹp,
Vui cả đêm lẫn ngày.

Tiên Tri Mu-ha-mat,
Ở thành Mê-đi-na,
Chủ lễ xong, thong thả
Đang trên đường về nhà,

Bất chợt Ngài nhìn thấy
Một cậu bé bên đường.
Hình như cậu vừa khóc,
Với vẻ mặt chán chường.

Khác với bọn trẻ khác
Đang chơi đùa xung quanh,
Cậu co mình, ủ rũ,
Quần áo cũng chẳng lành.

Ngài lại gần và hỏi:
“Vì sao cháu buồn rầu?”
Nhưng chú bé không đáp,
Chỉ lặng lẽ cúi đầu.

Như người cha, âu yếm,
Ngài luồn các ngón tay,
Gỡ tóc rối cho cậu,
Rồi hỏi lại câu này.

“Cháu khóc bởi bố cháu
Hy sinh vì A-la.
Chồng mới của mẹ cháu
Đuổi cháu ra khỏi nhà.

Nên hôm nay, lễ Eid
Mà chẳng có gì ăn.
Đêm, không có nơi ngủ,
Không ai tặng áo quần…”

Tiên Tri Mu-ha-mat
Bảo cậu: “Bác hiểu rồi.
Vì bác ngay từ nhỏ
Cũng sống cảnh mồ côi.

Bây giờ thế này nhé.
Cháu nghĩ sao nếu ta
Là bố cháu, còn cháu
Là em Fa-ti-ma?”

Chỉ lúc ấy cậu bé
Mới ngước lên, tức thì
Cậu cúi xuống, sụp lạy
Dưới chân Ngài, Tiên Tri.

Ngay trong ngày hôm ấy
Ngài đưa cậu về nhà,
Tắm rửa, mua quần áo,
Sống cùng Fa-ti-ma.

Từ đấy đời cậu bé
Đầy ắp những tiếng cười.
Và vào ngày lễ Eid,
Mặc đẹp như mọi người.

Fa-ti-ma là con gái Tiên Tri Mu-ha-mat, sau này là vợ của Giáo Chủ A-li.


LỜI KHUYÊN CỦA TIÊN TRI MU-HA-MAT

Nói thật, chỉ nói thật
Là cách giúp chúng ta
Bỏ được nhiều thói xấu
Và tránh khỏi phiền hà.

Dưới đây là câu chuyện
Được truyền tụng bao đời
Về việc Mu-ha-mat
Đã cứu giúp một người.

Người ấy một lần nọ
Gặp Ngài, nói thế này:
“Tôi có nhiều tật xấu,
Mà xấu đã lâu nay.

Giờ muốn thành người tốt,
Ngài bảo phải làm gì?
Bắt đầu từ gì trước?
Xin hỏi Ngài Tiên Tri.”

Tiên Tri nghiêm khắc đáp:
“Là tín đồ Đạo Hồi,
Nói thật, chỉ nói thật.
Duy nhất cách ấy thôi!”

Người kia thề long trọng
Sẽ làm theo ý Ngài,
Định quyết tâm thay đổi,
Thành tử tế như ai.

Tối đó, như thường lệ,
Đến giờ đi kiếm ăn,
Tức là đi ăn trộm,
Ông này chợt bần thần:

“Chết, mình đi ăn trộm.
Một việc chẳng hay gì.
Sau được hỏi, không lẽ
Nói dối Đức Tiên Tri?

Nếu nói rõ sự thật,
Mọi người sẽ coi khinh.
Nói dối cũng không được,
Vì Ngài đã tin mình.”

Cuối cùng tối hôm ấy,
Người đàn ông ở nhà,
Bỏ hẳn thói ăn trộm,
Sống lương thiện, hiền hòa.

Hôm sau, ông chợt muốn
Uống rượu như mọi khi,
Nhưng rồi không, vì nhớ
Lời hứa với Tiên Tri.

Vì không muốn nói dối,
Nên cả thói xấu này
Rốt cục ông cũng bỏ,
Chỉ uống sữa hàng ngày.

*
Nói thật, chỉ nói thật
Là cách giúp chúng ta
Bỏ được nhiều thói xấu
Và tránh khỏi phiền hà.

Từ một tên ăn trộm,
Nhờ nói thật, một người
Đã trở thành tử tế,
Sống có ích cho đời.


TIÊN TRI MU-HA-MAT VÀ NGƯỜI DU MỤC

Một người du mục nọ
Nghe nói Đức Tiên Tri
Rất hào phóng, có thể
Tặng không tiếc cái gì.

Nên ông đã hăng hái,
Không quản ngại đường xa,
Cưỡi lạc đà, vất vả
Tới thành Mê-đi-na.

Đến nơi, ông nhanh chóng
Tìm gặp Đức Tiên Tri.
Ngài đang cùng các bạn
Đàm đạo như mọi khi.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Móc túi cho ông ta
Một món tiền nho nhỏ,
Gọi là để làm quà.

Ông này thấy tiền ít,
Liền tỏ ý chê bai,
Thậm chí dùng từ ngữ
Bất kính đối với Ngài.

Vì tội bất kính ấy,
Các bạn của Tiên Tri
Định chém ngay tại chỗ.
Ngài bảo: “Không hề gì!”

Rồi Ngài dẫn người ấy
Về nhà riêng của mình.
Một ngôi nhà khiêm tốn,
Của cải cũng thường tình.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Lục lọi mãi trong nhà,
Kiếm được cái gì đó,
Rồi đưa cho ông ta.

Giờ ông ta mới biết
Rằng chính Ngài cũng nghèo,
Và rằng cho như thế
Tức là đã cho nhiều.

Ông cúi đầu sụp lạy
Đức Tiên Tri, và rồi
Xin được Ngài chấp nhận
Thành tín đồ Đạo Hồi.


BA NGƯỜI BẠN

Một lần, khi đàm đạo
Như thường lệ hàng ngày,
Tiên Tri Mu-ha-mat
Kể câu chuyện thế này.

Một người đàn ông nọ
Bệnh sắp chết, rất lo
Phải một mình, lạnh lẽo
Và cô đơn dưới mồ.

Cuối cùng ông quyết định
Hỏi các bạn của ông
Có thể giúp bằng cách
Chết cùng ông hay không.

Người thứ nhất ông hỏi
Đã đáp lại thế này:
“Tôi và ông là bạn,
Mà bạn tốt xưa nay.

Ông sống, tôi giúp được.
Chết còn biết làm gì,
Ngoài việc giúp tiền bạc
Chôn cất, tiễn ông đi?”

Người bệnh nghe, buồn lắm,
Tìm đến người thứ hai.
“Tôi chỉ giúp được bác
Bằng việc khiêng quan tài.”

Dẫu không còn hy vọng,
Ông gặp người thứ ba.
Khác với hai người trước,
Thật không ngờ, ông ta

Đồng ý chết theo bạn,
Coi đó là lẽ thường.
Hơn thế còn đưa bạn
Lên tận chốn thiên đường.

Nghe xong lời hứa ấy,
Ông vui mừng, nhẹ người,
Về nhà nằm xuống ngủ,
Rồi bình thản qua đời.

*
Kể xong câu chuyện ấy,
Ngài nói với bạn mình:
“Bây giờ các vị biết
Ai chung thủy, có tình.

Thực ra không khó đoán
Ba người ấy là ai.
Đó là ba người bạn
Ta vẫn có hàng ngày.

Người thứ nhất là bạn,
Thứ hai là người nhà.
Những việc làm tốt đẹp
Là người bạn thứ ba.

Bạn đơn giản là bạn.
Ta chết, họ buồn đau
Đưa ta ra nghĩa địa,
Lặng lẽ đứng cúi đầu.

Thương ta hơn chút ít
Là người thân, người nhà.
Nhưng họ chỉ có thể
Khiêng quan tài đưa ta.

Nhưng người bạn tốt nhất
Là việc thiện đời thường
Sẽ theo ta xuống mộ
Để cùng lên thiên đường.


CHUYỆN TIÊN TRI MU-HA-MAT MUA ÁO

Tiên Tri Mu-ha-mat
Nhờ con rể của Ngài
Ra cửa hàng ngoài chợ
Mua giùm chiếc áo ngoài.

Con rể Ngài quay lại
Với chiếc áo trên tay.
“Mười hai đồng là giá
Con mua chiếc áo này.”

“Ta không cần áo tốt,
Chỉ cần ấm mùa đông.
Hãy ra hỏi ông chủ
Có cho trả lại không?”

Ông chủ quán đồng ý
Trả lại tiền, lát sau
Tiên Tri cùng con rể
Đi vào chợ với nhau.

Một cô bé nô lệ
Đang ngồi khóc bên đường.
Cô gầy gò, bé nhỏ,
Mái tóc xù đáng thương.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Nhẹ nhàng bước lại gần.
“Vì sao cháu phải khóc?”
Ngài hỏi, giọng ân cần.

“Ông chủ sai đi chợ,
Đưa cho cháu bốn đồng.
Cháu để rơi đâu mất,
Không dám về gặp ông.”

Ngài liền đưa cho cháu
Bốn trong số mười hai
Đồng đi-ham đang có
Định mua áo cho Ngài.

“Đây, bốn đồng cho cháu.
Hãy mua cái mình cần.
Rồi về nhà, nhanh nhé,
Kẽo lại nhỡ giờ ăn.”

Rồi Ngài lại đi tiếp,
Cảm thấy rất hài lòng.
Vào chợ, mua chiếc áo
Loại rẻ, chỉ bốn đồng.

Ngài mặc nó, thích lắm.
Đang trên đường về nhà,
Chợt thấy có ông lão
Đứng trần truồng, xuýt xoa.

Ngài cởi chiếc áo mới
Khoác lên người cho ông.
Rồi vào chợ mua tiếp
Một chiếc áo bốn đồng.

Quay ra, Ngài lại thấy
Cô bé ấy đáng thương,
Cô nô lệ bé nhỏ,
Vẫn ngồi khóc bên đường.

Hỏi, cô nói quá muộn
Nên không dám về nhà.
Sợ ông chủ sẽ đánh
Và bà chủ kêu la.

Thế là Ngài, dù bận,
Cầm tay cô bé này,
Dắt đưa về gặp chủ.
Vào tận nhà, ở đây

Ông chủ vui sướng quá,
Được Tiên Tri tới nhà,
Còn nói chuyện thân mật,
Và cuối cùng ông ta

Nhờ Tiên Tri khích lệ,
Không chỉ không đánh cô,
Mà long trọng tuyên bố
Cho cô được tự do.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Tạ ơn Đức A-la:
Mười hai đồng Ngài có
Tiêu hợp lý, đó là

Mua được hai áo ấm
Cho Ngài và cho người,
Cứu được một cô bé
Khỏi nô lệ suốt đời.


TỪ KẺ THÙ THÀNH BẠN

Tiên Tri Mu-ha-mat
(Cầu bình yên cho Ngài)
Sau sáu năm lập Đạo,
Muốn truyền bá ra ngoài.

Ngài gửi nhiều sứ giả
Tới các nước Trung Đông
Thuyết phục các lãnh chúa
Theo Đạo Hồi thêm đông.

Một trong những lãnh chúa,
U-than Thu-ma-ma,
Giàu có và hùng mạnh,
Ba-nu Ha-ni-pha.

Đang trong cơn tức giận,
Sứ giả đến, ông này
Liền từ chối đề nghị,
Ra lệnh đuổi đi ngay.

Hơn thế, ông còn muốn
Tìm cách giết hại Ngài,
Tức là giết cả Đạo,
Một thứ Đạo ngoại lai.

Với dã tâm như vậy,
Dẫu chẳng vì cớ gì,
Ông ta giết hàng chục
Tín đồ của Tiên Tri.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Buộc phải đưa ông ta
Vào danh sách cần giết,
Nhân danh Đức A-la.

Chẳng bao lâu sau đó,
Vì những lý do riêng,
Ông ta đến làm lễ
Ở Mêc-ca linh thiêng.

Rất tình cờ, lần ấy
Một tốp lính tuần tra
Của Tiên Tri bất chợt
Đã bắt giữ ông ta.

Thấy lạ, tốp lính ấy,
Dù không biết là ai,
Vẫn đưa tên lãnh chúa
Đến giao nộp cho Ngài.

Tiên tri Mu-ha-mat
Nhận ngay ra người này,
Ra lệnh cấp nước uống
Và thức ăn hàng ngày.

Hôm sau, Ngài đến hỏi:
“Ông muốn gì, nói đi.”
Ông kia ngẩng đầu đáp:
“Tôi không muốn nói gì.

Thích giết thì cứ giết.
Muốn tha thì cứ tha.
Muốn chuộc có tiền chuộc,
Khỏi nhiêu khê, phiền hà.”

Ngài lặng im không nói,
Cho nước uống, thức ăn,
Đối xử rất tử tế,
Cấp những thứ ông cần.

Hôm tiếp Ngài lại đến,
Lại vẫn câu hỏi này.
Vẫn câu trả lời ấy.
Cứ thế suốt mấy ngày.

Cuối cùng Ngài ra lệnh
Để cho ông ta đi,
Cùng thức ăn, nước uống,
Mà không đòi hỏi gì.

Ngỡ ngàng vì sung sướng,
Lãnh chúa Thu-ma-ma
Cảm ơn rồi nhanh chóng
Cưỡi lạc đà về nhà.

Rõ ràng ông xúc động,
Không biết đang nghĩ gì.
Tới một khu rừng vắng,
Nơi cây cỏ xanh rì,

Bất chợt ông dừng lại,
Lấy nước cho lạc đà,
Tắm rửa rất sạch sẽ,
Quay lại Mê-đi-na.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Như biết trước, đang chờ.
Cầm tay kẻ thù cũ
Rồi dắt vào nhà thờ.

Ở đấy, ông sụp lạy
Trước bàn thờ A-la,
Rồi đứng lên, tuyên bố:
“Tôi là Thu-ma-ma.

Từ nay tôi công nhận
Đức A-la hiển linh
Là vị thánh duy nhất
Tôi đã chọn cho mình.

Và rằng Mu-ha-mat
Là tiên Tri của Ngài,
Đồng thời là Ngôn Sứ
Được phái xuống cõi trần ai.”

Thế là vị thủ lĩnh
Đã nhập Đạo, và rồi
Tất cả dân trong nước
Thành tín đồ Đạo Hồi.


BÀI HỌC CHO VỊ GIÁO SĨ

Một giáo sĩ lần nọ
Vô cớ bị một người,
Bực mình chuyện gì đấy,
Nhiếc mắng không tiếc lời.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Lúc ấy ngồi không xa.
Ngẫu nhiên Ngài nghe hết
Mọi lời của ông ta.

Nhưng Ngài giữ im lặng,
Chỉ thỉnh thoảng nhếch môi.
Trong khi vị giáo sĩ
Rất khó chịu, và rồi

Cuối cùng lên tiếng mắng
Con người thô lỗ này.
Đức Tiên Tri thấy thế,
Đứng dậy, bỏ đi ngay.

Vị giáo sĩ lo sợ
Mình thất thố điều gì,
Bèn đuổi theo, gạn hỏi:
“Sao Ngài lại bỏ đi?”

Ngài đáp: “Khi im lặng
Không dùng lời mắng lời,
Nghĩa là có vị thánh
Đang ngự trị trong ngươi.

Còn khi ngươi mắng lại
Người vô cớ mắng mình,
Thì đó là biểu hiện
Của người không thông minh.

A-la dạy: Ai đó
Bị mắng oan là ngu
Mà nhẫn nhục chịu đựng,
Không tìm cách trả thù,

Thì người ấy đích thực
Thông minh, đáng được khen.
Đó là sự dũng cảm,
Không phải dấu hiệu hèn.

Vừa rồi ngươi mắng lại
Con người ấy làm gì?
Vì thế ta thất vọng,
Bèn đứng dậy bỏ đi.”


SỎI VÀ KIM CƯƠNG

Một tốp hành hương nọ
Đêm, đi tới nhà thờ,
Khi ngang qua núi đá,
Thì bỗng nghe bất ngờ

Có tiếng ai trong núi
Nói vọng ra thầm thì:
“Chú ý những viên sỏi
Rất nhiều dọc đường đi.

Không nhặt chúng, các vị
Sẽ hối hận sau này.
Nhưng rồi cũng hối hận
Nếu nhặt chúng đêm nay.”

“Vì sao lại thế nhỉ?
Cả nhặt và cả không,
Sau này đều hối tiếc.
Vậy có nên nhặt không?”

Tốp hành hương nghĩ thế.
Nhiều người bỏ đi qua.
Nhưng nhiều người cúi nhặt
Mang ít viên về nhà.

Thật không ngờ, sau đó,
Những viên sỏi bình thường,
Sau một đêm ngủ dậy,
Bỗng biến thành kim cương.

Hối hận và tiếc nhất
Tất nhiên là những người
Do dự không nhặt sỏi.
Đúng là phí của trời.

Cũng hối hận không kém
Là những người đêm qua,
Không phải không do dự,
Nhặt sỏi mang về nhà.

Hối hận vì nhặt ít.
Giá nhặt mấy túi đầy
Thì chắc chắn rằng họ
Sẽ giàu nhất đời này.

*
Tiên Tri Mu-ha-mat
Đã kể câu chuyện trên
Trong một lần thuyết giảng
Về cám dỗ đồng tiền.

Không có, ta cũng khổ.
Có rồi, chẳng sướng hơn.
Muốn có nữa, càng khổ.
Rõ ràng và giản đơn.

Cách duy nhất thoát khổ
Cho mỗi một chúng ta
Là ngày đêm tâm niệm
Và tin vào A-la.


TIÊN TRI MU-HA-MAT
NHẬN QUÀ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN

Tiên tri Mu-ha-mat,
Ngôn sứ của A-la,
Được người dân ngưỡng mộ,
Yêu quí khắp gần xa.

Thường đầu mùa thu hoạch
Trong vùng có nhiều người
Mang tặng Ngài hoa quả
Mới hái, ngon và tươi.

Nhận những món quà ấy,
Ngài chia cho bạn mình,
Luôn cảm ơn người tặng
Bằng lời lẽ chân tình.

Một hôm, có người nọ
Chắc đến từ phương xa,
Tặng Ngài ít hoa quả
Mới hái trong vườn nhà.

Ngài cảm ơn người ấy
Rồi lấy ăn thản nhiên,
Không mời các bạn hữu
Lúc ấy đang ngồi bên.

Khi bác kia đi khỏi,
Một người bạn thân tình
Ướm hỏi sao lúc nãy
Ngài lại ăn một mình.

Ngài mỉm cười rồi đáp:
“Vì trái cây bác này
Thực ra chưa chín lắm,
Vừa chua lại vừa cay.

Ta không mời các vị,
Sợ ăn, chê không ngon,
Mà điều ấy có thể
Làm người tặng thấy buồn.”


CHỈ TÊN ĐỨC A-LA LÀ ĐỦ

Tiên Tri Mu-ha-mat
Đã kể câu chuyện này
Trong một lần thuyết giảng,
Ý nghĩa và thật hay.

Một người Hồi Giáo nọ
Cần tiền đi buôn xa,
Vay của người Do Thái
Một nghìn đồng đi-na.

Người Do Thái hỏi lại:
“Thế ai làm chứng đây?”
“Tên A-la là đủ.
Ngài làm chứng việc này!”

Ông Do Thái đồng ý.
Người Hồi giáo lên đường.
Cùng thuyền và thủy thủ
Rẽ sóng vượt đại dương.

Ông buôn xa, thắng lớn.
Lúc quay về, không may
Thuyền của ông gặp bão,
Trôi lênh đênh nhiều ngày.

Cuối cùng nó chìm hẳn.
Ông và một ít người
Bơi vào hòn đảo nhỏ
Hoang vắng giữa trùng khơi.

Điều ông lo lắng nhất
Là khoản nợ của mình.
Ông không muốn thất hứa
Để chủ nợ coi khinh.

Cuối cùng ông quyết định
Lấy một khúc gỗ già,
Viết thư, cho vào ruột
Cùng một nghìn đi-na.

Xong, ông thả xuống biển,
Cầu A-la giúp ông
Đưa cho người Do Thái,
Chắc hẳn đang chờ mong.

*
Sáng nọ, như thường lệ,
Ông Do Thái nhẩn nhơ
Dạo ven biển, chợt thấy
Một khúc gỗ trên bờ.

Chắc nó bị sóng đánh,
Mới dạt lên đêm qua.
Ông suy nghĩ một lúc
Rồi vác nó về nhà.

Khi bổ nó làm củi,
Ông chợt thấy bên trong
Có nhiều tiền, hơn thế,
Cả thư gửi cho ông.

*
Lại nói ông Hồi Giáo
Bị kẹt trên đảo xa,
Được thuyền người khác cứu,
Cuối cùng cũng về nhà.

Tìm gặp người Do Thái
Là việc làm đầu tiên.
Để cảm ơn, xin lỗi,
Và trả lại món tiền.

Mọi chuyện thế là rõ.
Cả khách, cả chủ nhà
Trò chuyện rất vui vẻ,
Cùng tạ ơn A-la.


TIÊN TRI MU-HA-MAT ĐI LẤY CỦI

Tiên Tri Mu-ha-mat
Cùng các bạn, một lần
Cưỡi ngựa qua sa mạc,
Dừng lại để nấu ăn.

Họ quyết định giết thịt
Một con cừu mang theo.
Giữa đồng không mông quạnh,
Lúc ấy đã xế chiều.

“Tôi sẽ chọc tiết nó!”
Một người liền xung phong.
“Phần tôi, đi lấy nước.”
“Tôi làm việc cạo lông!..”

Tiên Tri Mu-ha-mat
Nói với các tín đồ:
“Còn việc đi lấy củi
Hãy để tự ta lo.”

Mọi người nghe, lập tức
Can ngăn Ngài không nên.
“Tự chúng tôi làm được.
Xin Ngài cứ ngồi yên.”

“Xin cảm ơn, - Ngài nói, -
Nhưng xưa nay A-la
Không hài lòng với kẻ
Muốn mình hơn người ta.

Tức muốn được biệt đãi
Và ưu ái hơn người.
A-la dạy: Tất cả
Đều bình đẳng ở đời.”

Nói đoạn, Ngài đứng dậy
Đi tìm củi, và Ngài
Một lát sau quay lại
Với một bó trên vai.


TIÊN TRI VÀ ÔNG NHÀ GIÀU

Một ông nhà giàu nọ
Đến tìm gặp Tiên Tri.
Ông ta vừa ngồi xuống,
Cũng gần như tức thì,

Một người khác, nghèo khổ,
Da nhăn nheo, xạm đen,
Quần áo cũ và rách,
Đến lặng lẽ ngồi bên.

Ông nhà giàu vội vã
Vén quần áo, và rồi
Nhăn mặt, hơi khó chịu,
Chuyển sang chỗ khác ngồi.

Tiên Tri Mu-ha-mat
Thấy vậy, khẽ lắc đầu.
Như vô tình, Ngài kể
Một câu chuyện như sau.

*
Có một ông giáo sĩ
Ngồi nghỉ dưới dàn bầu
Thì có con chim nhỏ
Ỉa, rơi đúng đỉnh đầu.

Ông giáo sĩ tức giận,
Ngước lên hỏi A-la:
“Sao Ngài cho tồn tại
Con vật này xấu xa?”

A-la mỉm cười đáp:
“Thế mà con vật này,
Không kém phần khó chịu
Cứ hỏi ta hàng ngày,

Rằng sao ta cho phép
Một giáo sĩ như ngươi,
Đầu hói, hay cáu bẳn
Được tồn tại trên đời.”

*
Ông nhà giàu nghe chuyện,
Cảm ơn Đức Tiên Tri
Rồi quay về chỗ cũ,
Lặng im, không nói gì.


Phần Ba
TRUYỆN THƠ HỒI GIÁO

IN-SHA A-LA!

Các tín đồ Hồi Giáo
Có thói quen, đó là
Trước khi làm gì đó,
Nói: “In-sha A-la!”

“Nếu A-la muốn vậy”
Là nghĩa của câu này
Trong ngôn ngữ Ả Rập.
Được sử dụng hàng ngày.

Người nói mong, nói thế
Thánh A-la lòng lành
Sẽ phù hộ cho họ,
Và công việc chóng thành.

Có một anh chàng nọ,
Ngang tàng và vô lo,
Một hôm đi ra chợ
Để mua một con bò.

Giữa đường, gặp người bạn.
Bạn hỏi: “Anh đi đâu?”
“Ra chợ mua bò sữa.”
Anh bạn kia lắc đầu:

“Đáng lẽ anh phải nhớ
Nói: “In-sha A-la”,
Để được Thánh giúp đỡ
Mua bò tốt về nhà.”

Anh chàng kia thì nghĩ:
“Có nói cũng bằng không.
Đi chợ, tiền đầy túi,
Thì mua gì chẳng xong!”

Nhưng vừa tới cổng chợ,
Thì anh chàng vô lo
Bị kẻ gian móc túi,
Nên không mua được bò.

Về nhà, cô vợ hỏi:
“Sao không thấy bò đâu?”
“Vì tiền tôi đánh mất.
Thôi, đành để lần sau

Ta mua con bò khác,
In… In-sha A-la.
Nhất định mua con khác,
Ừ, In-sha A-la!”

Mất tiền, bị vợ mắng,
Nên anh chàng suốt ngày
Cứ lặp đi lặp lại
Câu nói cửa miệng này.

Cô vợ thì buồn bã
Vừa nói vừa lắc đầu:
“Làm gì, phải nói trước,
Chứ không phải nói sau!”

Và rồi anh chàng ấy,
Bớt ngang tàng, vô lo.
Lần sau không quên nói,
Nên đã mua được bò.


SỰ TRỪNG PHẠT CỦA ĐỨC A-LA

Câu chuyện này có thật,
Chép trong Kinh Cô-ran,
Ở chương sáu mươi tám,
Có kèm theo lời bàn.

Một người đàn ông nọ,
Có vườn cây xùm xòa.
Ông hiền lành, tốt bụng,
Rất đẹp lòng A-la.

Sau mỗi lần thu hoạch,
Ông chừa lại ít nhiều,
Những quả ngon, lành lặn,
Phân phát cho người nghèo.

Được A-la phù trợ,
Ông giàu có hơn người,
Vườn cây càng xanh tốt,
Càng sống đẹp với đời.

Tiếc là khi ông mất,
Các con trai của ông,
Không được tốt như bố,
Mộ đạo lại càng không.

Chúng nghĩ: Bố mình dại.
Tự nhiên đem trái cây
Phát không cho người khác.
Chưa ai dại thế này.

Rồi đến mùa thu hoạch,
Chúng thì thầm bàn nhau
Không cho không ai cả,
Để giàu càng thêm giàu.

Cuối cùng chúng quyết định
Đêm, sai bọn người nhà
Hái trái cây, hái hết
Rồi giấu đi thật xa.

Buổi sáng, người nghèo đói
Đến xin như mọi khi,
Chỉ thấy khu vườn trống,
Cây trái chẳng còn gì.

Đúng giờ, như đã hẹn,
Chúng cùng bọn người nhà
Ra vườn, thì chợt thấy
Một ngọn lửa chói lòa

Từ trên trời bay xuống,
Thiêu trụi cả vườn cây.
Cây và quả cháy hết,
Thành một lớp tro dày.

Bây giờ chúng mới hiểu
Đó là Thánh A-la
Giáng lửa trừng phạt chúng
Vì việc làm xấu xa.

Thánh A-la luôn dạy,
Làm người phải thương nhau.
Người giàu biết chia sẻ
Mới là người thực giàu.


BÀI HỌC CỦA NGƯỜI TÀN TẬT

Có một anh chàng nọ,
Khỏe mạnh nhưng thích lười,
Chẳng chịu làm gì cả,
Suốt ngày chỉ ham chơi.

Mà không làm thì đói.
Tất nhiên anh ta nghèo.
Tự cho mình vận rủi,
Trách số phận đủ điều.

Có ông già tốt bụng,
Một lần rủ anh ta
Đến thăm khu trại hủi
Ở cách đấy không xa.

Họ đến vừa đúng lúc
Có kẻng báo giờ ăn.
Từ khắp nơi trong trại,
Lần lượt các bệnh nhân

Kéo nhau về đông đủ.
Những con người gầy gò,
Nhếch nhác và bệnh tật,
Nét mặt đầy buồn lo.

Chợt ông già tốt bụng
Chỉ tay và hất đầu,
Về phía hai người hủi
Đang lại gần, cõng nhau.

“Cháu xem, một người liệt,
Người kia thì mù lòa.
Người mù cõng người liệt
Mới đi về đến nhà.

Người liệt có đôi mắt,
Người mù có đôi chân.
Hai người cùng chung sức
Nên có được cái ăn.

Còn cháu, cháu khỏe mạnh.
Chân và mắt còn nguyên.
Sao cháu đói được nhỉ,
Lại còn kêu không tiền?

Thánh A-la nhân đức
Cho cháu được làm người.
Hơn nữa, lại khỏe mạnh.
Sao để lãng phí đời?”


CHỌN NGƯỜI LÀM VUA

Có một ông vua nọ
Ở một nước xa xôi,
Về già, nghĩ tới việc
Chọn người để kế ngôi.

Thay việc chọn hoàng tử
Hay các tướng có tài.
Ông nghĩ ra một cách
Hoàn toàn không giống ai.

Ông tập trung tất cả
Các chàng trai nước mình.
Mỗi người được vua tặng
Một hạt giống xinh xinh.

“Đây là hạt giống quí.
Mang về trồng ở nhà.
Ngày này, một năm nữa,
Mang cây đến cho ta.

Nhớ trồng trong chậu đất,
Nhớ tưới nước hàng ngày.
Ai có cây đẹp nhất,
Sẽ làm vua nước này.

Các chàng trai hăm hở
Mang hạt giống về trồng.
Để thành vua, giàu có,
Không người nào tiếc công.

Một người trong số họ
Cũng trồng và cũng chăm,
Thế mà, thật khó hiểu,
Hạt giống không nảy mầm.

Hàng ngày chàng tưới nước,
Xấu hổ và buồn rầu,
Nhưng là người trung thực,
Đúng hẹn, một năm sau

Chàng bê chiếc chậu đất
Không cây đến gặp vua.
Đến nơi, ai nhìn thấy
Cũng chế diễu, trêu đùa.

Trong khi chờ vua đến,
Các chậu của mọi người
Hạt giống nẩy mầm tốt,
Thành cây đẹp, xanh tươi.

Vua xem cây, có vẻ
Hơi khó chịu trong lòng.
Cuối cùng ông dừng lại
Trước chiếc chậu trống không.

Rồi anh chủ của nó,
Vua tuyên bố bất ngờ
Sẽ là vị vua mới.
Mọi người nghe, sững sờ.

Ngài nói: “Những hạt giống
Ta giao cho các ngươi
Đều đã bị luộc chín.
Và chỉ có một người

Là anh này trung thực,
Duy nhất không lừa ta.
Vì thế được ta chọn
Làm vua của nước nhà.”

*
Tiên tri Mu-ha-mat
Từng dạy ta trước đây,
Rằng những người trung thực
Là người tốt xưa nay.

Trung thực trong ý nghĩ
Và việc làm đời thường
Là cách chắc chắn nhất
Để được lên thiên đường.

Người có tính giả dối,
Sẽ làm việc đáng khinh,
Chết trong lửa địa ngục
Và tra tấn cực hình.


NGƯỜI MỘ ĐẠO VÀ ÔNG CHỦ CỬA HÀNG

Có một người mộ đạo
Suốt ngày chỉ cầu kinh,
Ăn chay và giữ giới,
Rất hài lòng với mình.

Ông không làm điều ác.
Cả suy nghĩ cũng không,
Và nghĩ mộ đạo nhất
Chắc không ai, ngoài ông.

Thế mà một đêm nọ,
Ông mơ thấy một người
Hơn ông về mộ đạo,
Lại hạnh phúc nhất đời.

Đó là ông hàng xóm,
Một ông chủ cửa hàng,
Suốt ngày lo bận bịu
Bán mấy thứ làng nhàng.

Tò mò, ông mộ đạo
Đến tìm hiểu xem sao,
Thì thấy ông hàng xóm
Chẳng ngơi tay chút nào.

Lúc đưa hàng cho khách,
Lúc lẩm nhẩm đếm tiền.
Toàn những chuyện trần tục,
Cái đầu không được yên.

“Xin chào bác hàng xóm.
Bác muốn mua gì không?”
“Không, có một câu hỏi
Tôi đang muốn hỏi ông”.

Và rồi ông mộ đạo
Kể giấc mơ của mình.
Chủ cửa hàng cười đáp:
“Đó là chuyện thường tình.

Tôi sẽ giải thích rõ.
Có điều ngay bây giờ
Bác giúp tôi một việc.
Bác làm chứ, tôi chờ.”

Rồi lấy dầu, ông rót
Vào một chiếc bát sành,
Đưa cho ông mộ đạo,
Bảo chạy, chạy thật nhanh

Sang bên kia khu phố,
Bát dầu vẫn trên tay.
Không để sánh một giọt,
Rồi lại chạy về đây.

Ông mộ đạo cầm bát
Chạy sang khu phố bên.
Lúc quay về, may mắn
Bát dầu vẫn còn nguyên.

Nhưng mồ hôi ướt áo,
Ông mệt, thở bằng tai.
Vì chạy, giữ chiếc bát,
Không sánh dầu ra ngoài.

Chủ quán nói: “Tốt lắm,
Vậy xin được hỏi ông:
Lúc chạy, ông có nghĩ
Tới Đức A-la không?”

“Không, vì tôi luôn sợ
Bát dầu sánh ra ngoài.
Hỏi lấy đâu tâm trí
Mà còn nghĩ đến Ngài?”

“Thế đấy, vì lo nghĩ
Mà ông quên A-la.
Còn tôi, luôn bận bịu
Việc cửa hàng, việc nhà.

Nhưng không một giây phút
Tôi không nghĩ đến Ngài.
Giờ thì ông tự biết
Ai mộ đạo hơn ai.”


CẬU BÉ MÙ

Xưa có một cậu bé
Mù mắt, phải xin ăn.
Suốt ngày ngồi góc chợ,
Chiếc mũ rách dưới chân.

Bên cạnh có tấm biển:
“Từ bé cháu bị mù.
Xin các bác thương hại,
Cho một vài đồng xu.

Hôm ấy chợ đông khách,
Tấp nập người vào ra,
Nhưng ít ai móc túi
Giúp cậu bé mù lòa.

Một người đàn ông nọ
Đã cho cậu mấy đồng.
Nhưng ông cầm tấm biển,
Quay mặt ngoài vào trong.

Ông viết lên mặt trái
Mấy chữ rồi bỏ đi.
Cậu bé biết điều ấy,
Nhưng im, không nói gì.

Một lúc sau, thật lạ,
Số người cho cậu tiền
Bỗng tăng lên nhanh chóng,
Không thể không ngạc nhiên.

Người đàn ông quay lại.
Thế mà giữa đám đông,
Cậu bé tinh, nhận biết,
Bèn lên tiếng hỏi ông:

“Cảm ơn bác giúp đỡ.
Bác đã viết những gì
Trên tấm biển của cháu?
Bác cho cháu biết đi.”

“Bác cũng viết như cháu,
Rằng cháu mù, có điều
Viết khác hơn một chút,
Nên hiểu khác ít nhiều.

Bác viết: “Trời đang đẹp.
Tiếc là cháu mù lòa,
Không thấy cái đẹp ấy.
Cái đẹp của A-la.’

Mọi người đọc, cảm nhận
Hạnh phúc của chính mình,
Rồi từ đấy, thương cảm,
Sống có nghĩa, có tình.”

*
Thánh A-la ban tặng
Cho ta mắt và tai,
Cùng trái tim thương cảm,
Và ai cũng như ai.

Có điều, người nhận biết.
Người, rất tiếc, lại không,
Quên không tạ ơn Thánh
Để ăn ở có lòng.


NGÔI NHÀ CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI THỢ MỘC

Có người thợ mộc nọ,
Giỏi nghề và thông minh,
Già, xin chủ nghỉ việc,
Về nghỉ với gia đình.

Chủ ông lấy làm tiếc,
Nhưng cũng phải bằng lòng.
Có điều, trước khi nghỉ,
Ông chủ đã nhờ ông

Dựng một ngôi nhà nữa,
Là ngôi nhà cuối cùng.
Coi như một kỷ niệm
Những năm tháng làm chung.

Người thợ mộc đồng ý.
Nhưng mong chóng về nhà,
Lại là ngôi nhà cuối,
Nên ông chẳng mặn mà.

Ông không thật chú ý
Vào công việc mình làm.
Các vật liệu ông chọn
Cũng là loại tạp nham.

Và rồi ngôi nhà ấy,
Cuối cùng cũng dựng xong.
Ông chủ trao chìa khóa
Và giấy tờ cho ông.

“Bác là người thợ giỏi,
Từng xây nhiều ngôi nhà.
Ngôi nhà này xinh đẹp
Tôi tặng bác làm quà!”

Ngạc nhiên và xấu hổ,
Bấy giờ người thợ già
Mới chợt tỉnh, sực nhớ
Lời dạy của A-la:

“Ngôi nhà ta sẽ ở
Phải chính tự ta xây
Bằng việc làm trung thực
Và ân nghĩa hàng ngày.”


ĐỘI QUÂN NGHÌN VOI

Câu chuyện này được chép
Trong Kinh Thánh Cô-ran.
Một câu chuyện có thật.
Điều ấy khỏi phải bàn.

Tiên tri Mu-ham-mat
Lúc ấy mới ra đời
(Cầu mong Ngài an lạc
Vĩnh viễn ở trên trời.)

Vua Ye-men hùng mạnh,
Tên là Ab-ra-ha,
Muốn xây nhà thờ lớn
Ở thủ đô Sa-na.

Nhà thờ ấy vĩ đại,
Phải tuyệt đẹp nhất đời.
Hơn nhà thờ Ka-bat
Ở Mêc-ca tuyệt vời.

Vua hy vọng nhờ vậy
Khách hành hương gần xa
Sẽ đến viếng thăm nó,
Thay cho thành Mêc-ca.

Hơn thế, người buôn bán
Cũng sẽ kéo về đây,
Mua sản vật nội địa,
Làm giàu cho xứ này.

Sau nhiều năm vất vả,
Nhà thờ được xây xong.
To lớn và đẹp nhất
Khắp hai miền Tây, Đông.

Một hôm, có người nọ
Từ đất thánh Mêc-ca,
Thuộc bộ tộc Qua-rit,
Tới thủ đô Sa-na.

Ông này rất phẫn nộ
Khi thấy khu nhà thờ.
Vâng, phẫn nộ đến mức
Tụt quần rồi bất ngờ

Ỉa và đái lên nó.
Còn bôi bẩn lên tường.
Đó là sự báng bổ
Trắng trợn và dị thường.

Khi vụ việc được báo
Vua Ab-ra-ha hay,
Thì ông người Qua-rit
Đã cao chạy xa bay.

Vua tức giận, quyết định
Dấy đại binh lên đường
Phá nhà thờ Ka-bat,
Mêc-ca, đất hành hương.

Đại quân đi rầm rập,
Cùng một nghìn tượng binh.
Phá sạch hết mọi cái
Trên đường đi của mình.

Hàng vạn người bị giết,
Cả ngươi trẻ, người già.
Đoàn quân cứ thẳng tiến
Về hướng thành Mêc-ca.

Gần đến nơi, bất chợt,
Có hàng triệu con chim
Từ trên trời lao xuống,
Chiếc mỏ nhọn như kim.

Chúng cắm vào da thịt
Của một nghìn con voi
Và cả của binh lính.
Vết thương tấy, mọc dòi.

Cả đại quân hùng mạnh
Của vua Ab-ra-ha
Bị tiêu diệt toàn bộ
Trước cửa thành Mêc-ca.

Đức A-la linh hiển
Đã làm phép, ra oai
Cứu nhà thờ Ka-bat,
Nơi linh thiêng thờ Ngài.


NGƯỜI HÀNH KHẤT Ở THÀNH ĐA-KA

Có một người hành khất
Xưa, ở thành Đa-ka,
Thủ đô Băng-la-đet,
Một thành phố phồn hoa.

Hàng ngày ông nhẫn nhục
Ngồi trước cổng nhà thờ,
Bên chiếc mũ cói rách
Và rồi lặng lẽ chờ.

Có hôm ông xin được,
Cũng nhiều hôm về không.
Nhưng ông thường chăm chú
Nghe giảng kinh bên trong.

Bên trong nhà thờ lớn
Luôn có người giảng kinh,
Về điều hay, lẽ phải
Và thế thái, nhân tình.

Một hôm ông nghe giảng
Về các cách kiếm tiền.
Hợp pháp và phi pháp,
Đáng chê và đáng khen.

Sau hôm nghe giảng ấy,
Thật lạ, ông già này,
Ai cho, nhiều hay ít,
Cũng không chịu nhận ngay.

Mà cứ hỏi bằng được
Tiền bố thí đâu ra.
Hợp pháp hay phi pháp.
Đúng là thật phiền hà.

Mọi người rất khó chịu.
Ai cũng nói một câu:
“Là tiền ăn cắp đấy.
Có lấy không?” Lắc đầu.

Một tên cướp biết chuyện,
Cho ông mấy đồng vàng,
Nhưng ông không chịu nhận,
Vì nó “không rõ ràng”.

Không nhận thì chết đói.
Ăn mày còn làm cao!
Và rồi ông chết thật.
Không khó hiểu vì sao.

Chỉ khi ông già chết,
Mọi người mới nhận ra,
Ông là người thực sự
Làm theo lời A-la.

Ngài dạy: “Phải sạch sẽ
Từ cơ thể, tay chân
Đến việc làm, ý nghĩ
Và trong cái mình ăn.”

Ông ăn mày chết đói
Cuối cùng được mọi người
Chôn cất rất trọng thể,
Như tấm gương cho đời.


NGƯỜI MỘ ĐẠO VÀ QUỈ XA-TĂNG

Có một người mộ đạo
Suốt ngày ngồi ở nhà
Đọc sách kinh, tế lễ
Và câu nguyện A-la.

Một hôm, ông nghe nói
Ở làng nọ, gần đây,
Người ta đang làm lễ
Thờ cúng một cái cây.

Ông thấy bị xúc phạm,
Cầm rìu ra khỏi nhà,
Quyết đốn hạ cây ấy,
Nhân danh Đức A-la.

Dọc đường, người mộ đạo
Chợt gặp quỉ Xa-tăng,
Vốn là thần cây ấy.
Nó chặn ông, mà rằng:

“Ông thờ ai, cứ việc.
Chuyện cái cây, can gì?
Mỗi người một tín ngưỡng.
Thôi ông về nhà đi!”

Nhưng ông kia không chịu.
Rồi hai người đánh nhau.
Quỉ Xa-tăng đuối sức,
Xin tha chết hồi lâu.

Nó nói: “Như ông biết,
A-la không bắt ông
Phải đốn hạ cây ấy.
Sao cứ phải bận lòng?

Nếu ông tha không giết
Và hứa không chặt cây,
Từ nay tôi sẽ tặng
Ba đồng vàng một ngày.

Mỗi sáng ông tỉnh dậy,
Lật gối là thấy vàng.
Tha hồ làm việc thiện
Và giúp đỡ họ hàng.”

Ông kia nghe, thấy được,
Bắt hắn thề, rồi tha.
Không còn thấy khó chịu
Khi vác ríu về nhà.

Sáng hôm sau tỉnh dậy,
Ông thấy vàng, ba đồng.
Hôm tiếp theo cũng thế.
Ngày thứ ba thì không.

Ông tức giận, lần nữa
Vác rìu đi chặt cây.
Rồi lại gặp con quỉ,
Rồi đánh nhau, lần này

Ông nhanh chóng thất bại.
Bị quỉ đè lên người.
Ông nói: “Sao thế nhỉ?
Lần trước ta thắng ngươi…”

Con quỉ đáp: “Lần trước
Ngươi thực lòng, A-la
Đã ban cho sức mạnh,
Nên ngươi đã thắng ta.

Còn lần này Ngài thấy
Ngươi lóa mắt vì vàng,
Ngài thất vọng, không giúp,
Nên ta thắng dễ dàng.”


NHÀ VUA VÀ ÔNG LÃO NGHÈO

Có một ông vua nọ
Lên xe đi một vòng
Khắp đất nước rộng lớn.
Người chào đón rất đông.

Biết trước vua đang đến,
Hàng chục nghìn thần dân
Chen chúc nhau nhòm ngó,
Ai cũng cố lại gần.

Thế mà ở thành nọ,
Có một ông lão nghèo,
Vua đến cũng mặc kệ,
Thậm chí không nhìn theo.

Thấy lạ, vua bèn hỏi:
“Ta là vua, tới đây.
Sao không như người khác,
Ngươi dửng dưng thế này?”

“Là vì, tâu hoàng thượng,
Từ rất lâu, trước Ngài,
Từng có ông vua tới,
Và con, cũng như ai,

Rất hăm hở chào đón.
Mấy hôm sau vua này
Đột tử, được chôn cất,
Ngẫu nhiên cùng một ngày

Với một gã hành khất.
Được mấy năm, và rồi
Lụt lớn, cả hai mộ
Đều bị nước cuốn trôi.

Xương của hai người ấy
Lẫn vào nhau, thưa Ngài.
Con không phân biệt nổi
Xương nào là của ai.

Thưa Ngài, tên hành khất
Và ông vua rất giàu,
Khi chết, nằm dưới mộ,
Thực tình chẳng khác nhau.

Nên xin Ngài tha tội,
Con đang bận làm ăn,
Đón Ngài mà bỏ việc,
Con nghĩ không thực cần.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét