Thứ Tư, 11 tháng 3, 2020

Truyện Thơ Hồi Giáo



Truyện Thơ Hồi Giáo, phần Hai
GÃ KEO KIỆT VÀ THẦN CHẾT

Một gã keo kiệt nọ
Cứ ky cóp dần dần
Bằng cho vay nặng lãi,
Nhịn tiêu và nhịn ăn.

Cuối cùng gã có được
Ba nghìn đồng đi-na,
Một số tiền rất lớn,
Cùng nhiều đất, nhiều nhà.

Một hôm, gã chợt muốn
Sống đúng nghĩa làm người,
Tức là sống thoải mái
Trong đúng một năm trời.

Rồi sau sẽ quyết định
Nên sống tiếp thế nào.
Chịu khổ thế là đủ.
Sướng một chút không sao.

Một quyết định dũng cảm,
Rất đúng, rất đáng khen.
Thế nhưng tối hôm ấy
Thần Chết đứng kề bên.

Gã keo kiệt hoảng hốt,
Bèn quì xuống van nài:
“Xin hãy cho tôi sống.
Tôi sẽ trao cho Ngài

Một phần ba tài sản
Để sống thêm ba ngày.
Thần Chết không đồng ý.
“Vậy thì xin thế này:

Hai ngày thôi cũng được.
Tôi còn ít việc nhà.
Xin được trao Thần Chết
Đúng hai nghìn đi-na.”

Thần Chết vẫn không chịu.
“Vậy cho tôi thời gian
Đủ viết bản di chúc
Cho con cháu, người thân.”

Thần Chết đã đồng ý.
Và anh keo kiệt này
Có mấy lời nhắn nhủ
Rất ý nghĩa sau đây:

“Tiền bạc là rất quí,
Còn quí hơn gấp mười,
Là ta phải biết sống
Đúng với nghĩa làm người.

Đừng lãng phí cuộc sống.
Tiền kiếm được phải tiêu.
Sống như A-la dạy,
Với tấm lòng thương yêu.”


CHUYỆN VỀ CA SĨ GIA-DAN

Lần nọ ibn Ma-sut
Ở thành phố Qua-pha,
Gặp một nhóm người xấu
Đang ăn tiệc tùng, hát ca.

Trong bọn người xấu ấy
Ông thấy có một người,
Bề ngoài trông giản dị,
Nhưng giọng hát tuyệt vời.

Ông thốt lên kinh ngạc:
“Giọng hát ấm, nồng nàn.
Giá người ta dùng nó
Để đọc kinh Cô-ran!”

Ông bỏ đi, luyến tiếc.
Người có giọng hát hay,
Tên Gia-dan, bèn hỏi:
“Ai vừa đi ngang đây

Và đã nói gì vậy?”
Người ta đáp: “Là Ngài
Ab-du-la Ma-sut,
Một con người toàn tài.

Tiên tri Mu-ha-mat
Là bạn thân của ông.
Ông ấy nói anh bạn
Có giọng hát ấm nồng.

Và rằng giọng hát ấy
Nếu hát Kinh Cô-ran
Sẽ rất tuyệt, rất hợp.”
Nghe nói thế, Gia-dan

Đứng lặng vì xúc động,
Rồi bỏ dở cuộc chơi,
Đi theo ibn Ma-sut,
Nguyện trung thành suốt đời.

Từ đấy ông nổi tiếng
Đọc Cô-ran rất hay,
Nghiên cứu về Hồi Giáo,
Thành học giả sau này.


ĐẠI GIÁO CHỦ U-MA

Tối nọ, như thường lệ,
Đại giáo chủ U-ma
Đi dạo quanh vùng đất
Ngoại ô Mê-đi-na.

Bất chợt Ngài dừng lại,
Bảo nô lệ của mình:
“Ta thấy ngoài sa mạc
Có ánh đèn lung linh.

Có thể ai cần giúp
Giữa sa mạc mênh mông.
Ta hãy đi ra đó,
Xem giúp được gì không.”

Đến nơi, Ngài chợt thấy
Trong lều vải xác xơ
Một người đàn bà trẻ
Và mấy đứa con thơ.

Ngài lại gần rồi hỏi:
“Sao chúng khóc thế này?”
“Vì nhà tôi hết bánh.
Chúng đói mấy hôm nay.

Tôi phải nấu nước lã
Giả làm cháo, mà rồi
Chúng không tin, vẫn khóc.
Thật khốn khổ con tôi.

Khi đến ngày phán xét,
Đại Giáo Chủ Ô-ma
Sẽ nhận được lời trách
Từ Đức Thánh A-la.

Vì ông, Đại Giáo Chủ,
Cũng là vua lâu nay,
Mà đang tâm nỡ để
Con tôi đói thế này!”

Bà đã nói như thế,
Không biết Ngài là ai.
Ngài không giận, lặng lẽ
Cúi đầu nghe, rồi Ngài

Hỏi: “Làm sao Giáo Chủ
Biết con bà đói ăn?”
“Đã là Đại Giáo Chủ,
Thì phải biết người dân.

Tự mình không biết được
Thì sai người của mình
Đi khắp nơi để biết
Về thế thái nhân tình.”

U-ma, Đại Giáo Chủ,
Vội vã quay về nhà,
Chất một bao tải lớn
Gồm bột, trái chà và

Cùng dầu mỡ, quần áo
Và ít tiền, rồi Ngài
Nâng cái bao lớn ấy,
Tự mình vác lên vai.

At-lam, người nô lệ,
Thấy thế, sợ hết hồn:
“Không, thưa Ngài, không thể!
Đó là việc của con!”

“Gánh nặng này nặng lắm.
Để ta gánh, At-lam.
Việc của ta, hẳn thế,
Vậy thì để ta làm.

Mai sau, Ngày Phán Xét,
Chắc chắn Đức A-la
Sẽ hỏi và chất vấn
Việc làm này của ta.”

Tối hôm ấy lũ trẻ
Ăn no, lại vui chơi.
Đại Giáo Chủ nhìn chúng,
Chảy nước mắt, mỉm cười.

Người mẹ trẻ sung sướng,
Nói: “In-sha A-la,
Ông xứng đáng thay thế
Đại Giáo Chủ U-ma!”

(In-sha A-la. Tiếng Ả Rập: “Nếu Đức A-la muốn thế”. Câu nói thường ngày của người Hồi Giáo.)


CẬU BÉ VÀ CON CHÓ

Theo kể lại, ngày nọ,
Ap-đu-la Gia-pha,
Có việc, đi đâu đó,
Ngang một cánh rừng già.

Đến một khu vườn quả,
Ngài nhìn thấy một người,
Một cậu bé nô lệ,
Đang chang nắng giữa trời.

Mồ hôi cậu nhễ nhại,
Làm việc không ngơi tay.
Rồi có người mang tới
Suất ăn cho cả ngày.

Cũng vừa đúng lúc ấy
Một con chó trụi lông
Chạy lại, nghếch mõm đợi,
Nước dãi chảy thành dòng.

Cậu lấy một chiếc bánh
Nhỏ bằng hai ngón tay,
Không ăn, mà cúi xuống
Đưa cho con chó này.

Khi ăn xong chiếc bánh,
Con chó vẫn không đi.
Nó ngước lên nhìn cậu
Với ánh mắt nằn nì.

Cậu cho nó chiếc nữa,
Tức là chiếc thứ hai.
Ăn xong, con chó đói
Nước dãi vẫn chảy dài.

Cậu do dự một chốc,
Rồi cho chiếc thứ ba.
Gia-pha nhìn thấy hết,
Dù đang đứng từ xa.

Ngài lại gần rồi hỏi:
“Suất của cậu hôm nay
Có bao nhiêu chiếc bánh
Để ăn dần cả ngày?”

“Tất cả có ba chiếc.”
Cậu trả lời Gia-pha.
“Sao cậu đem cho hết
Con chó ấy, cả ba?”

“Vì cháu thấy nó đói.
Nó là con chó hoang.
Chắc từ xa mới tới,
Không phải chó trong làng.

Vì thế cháu không thể
Không cho nó ăn no…”
“Nhưng cháu sẽ nhịn đói.”
“Cháu quen rồi, đừng lo.”

“Cậu bé này thật tốt, -
Ap-đu-la Gia-pha
Thầm nghĩ. - Và cao thượng
Hơn tất cả chúng ta!”

Rồi Ngài gặp ông chủ,
Mua lại cậu bé này.
Cho ít tiền làm vốn,
Mua tặng cả vườn cây.

Abdulah ibn Jafar là con trai Jafar ibn Abu Talib và là cháu của Ali, con rể của Tiên Tri Muhammad.


CHIẾC BÁT BẰNG GỖ

Có một ông già nọ,
Gầy yếu, bạc trắng đầu.
Cuối đời dọn đến ở
Cùng con trai, con dâu.

Vì già, tay run rẩy,
Mắt gần như mù lòa,
Nên ăn cơm, ông cụ
Cứ làm đổ ra nhà.

Thêm tội đánh rơi bát,
Làm vỡ cốc, vỡ bình.
Vợ chồng con xấu hổ,
Khó chịu với cha mình.

Cuối cùng, không nhịn được,
Họ dọn riêng cho ông
Một chiếc bàn ăn nhỏ
Ở tít trong góc phòng.

Trên chiếc bàn ăn ấy
Bát đĩa và thìa canh
Đều được làm bằng gỗ,
Rơi, vẫn còn nguyên lành.

Thế là, tội ông cụ,
Ăn, rơi vãi đầy người.
Con trai và cô vợ
Không thèm hỏi một lời.

Nhà có đứa con nhỏ
Năm tuổi, mũi thò lò.
Muốn ăn cùng ông nội
Nhưng bố mẹ không cho.

Một hôm, anh bố thấy
Con mình đang nghịch dao,
Đẽo gọt cái gì đấy.
Hỏi làm gì, vì sao?

“Con đang làm chiếc bát
Bằng gỗ từ cây này.
Để sau già, bố mẹ,
Ăn như ông hôm nay.”

Anh bố nghe, đứng lặng,
Đau đớn và thẹn thùng.
Tối đến, mời ông cụ
Ngồi cùng bàn ăn chung.

*
Thánh A-la vĩ đại
Vẫn luôn dạy chúng ta:
Con cái phải kính trọng,
Thương yêu bố mẹ già.

Ở đời, thành già lão,
Lẩn thẩn là bình thường.
Bố mẹ càng già yếu,
Lại càng phải yêu thương.


CHUYỆN BUỒN VỀ NGƯỜI GIÀU CÓ

Một người đàn ông nọ
Ở nước At-đa-ha
Nổi tiếng rất giàu có,
Tuyên bố lúc về già:

“Bao nhiêu năm tích góp,
Đến nay ta là người
Không chỉ đông con cháu,
Mà còn giàu nhất đời.

Ta giàu đến mức đủ
Nuôi cháu con, nô tỳ
Một trăm năm trước mắt,
Mà không phải làm gì!”

Đúng là ông giàu thật -
Một kho đầy ắp vàng,
Thêm hai kho châu báu.
Nhiều nhà cửa dọc ngang.

Thế mà lúc ông chết,
Lũ con, thật xấu xa,
Lo tranh nhau của cải,
Không đứa nào chôn cha.

Mấy ngày sau xác rữa,
Mùi thối bay khắp nơi.
Hàng xóm lấy chiếu rách,
Bịt mũi, đắp lên người.

Lũ con cháu bất hiếu
Vẫn không chịu chôn ông.
Vì của cải nhiều quá
Chia mãi vẫn chưa xong.

Cuối cùng, không chịu nổi,
Người ta dùng dây thừng
Cột chân ông để kéo,
Đưa xác chết vào rừng.

Xác ông già lúc ấy
Đã thối rữa, trơ xương,
Nên bị kéo, đứt gãy,
Rồi rơi rớt dọc đường.

*
Cái con người thực sự
Cần tích góp cho mình
Không phải là tiền bạc,
Mà cuộc sống tâm linh.

Tức là lo tích góp
Nhân và đức hàng ngày,
Như A-la đã dạy.
Xin nhớ bài học này.


VUA MÁC-MÚT VÀ ANH ĐẦY TỚ

Câu chuyện này có thật
Ở Áp-ga-ni-stan,
Qua suốt nhiều thế hệ
Lưu truyền trong dân gian.

Vua Sun-tan Mac-mut
Có người đầy tớ yêu
Tên là A-y-at,
Được vua rất yêu chiều.

Vì anh, dẫu đầy tớ,
Nhưng là người thông minh,
Trung thành và tận tụy
Với ông chủ của mình.

Quan trong triều thấy thế,
Tỏ ý ghen anh này.
Dè bỉu, bảo anh ngốc,
Hám lợi và thơ ngây.

Vua Mac-mút bênh vực
Anh đầy tớ của mình.
Muốn để mọi người biết
Ai ngốc, ai thông minh.

Ngài cho ra thông báo,
Được đem dán khắp nơi,
Rằng muốn đem của cải
Phân phát cho mọi người.

Rằng ngày ấy, giờ ấy,
Vua mời quan và dân
Vào cung, cứ thỏa thích
Lấy những cái mình cần.

Ai thích gì, đơn giản
Chạm bàn tay của mình
Vào cái họ muốn có,
Thì nó là của mình.

Đúng ngày giờ, háo hức
Mọi người kéo vào cung.
Rồi xẩy ra cái việc
Tranh cướp rất hãi hùng.

Kẻ chạm vào bức tượng,
Tủ quần áo, cái giường,
Người chạm vào bàn ghế,
Chiếc thảm hay cái gương…

Anh hầu A-y-at
Cùng vua đứng bên ngai.
Bất chợt, anh âu yếm
Đặt tay lên đầu Ngài.

Chàng nói to: “Dừng lại!
Ta đã chạm vào vua.
Vậy, theo như luật định,
Bây giờ ta là vua.

Tức ta là ông chủ,
Toàn quyền ở nơi này.
Hãy nghe ta chăm chú.
Ta ra lệnh dừng ngay!

Ai về nhà người ấy.
Cái gì nằm ở đâu
Hãy đặt đúng chỗ cũ.
Không, sẽ bị chém đầu!”

Đến bây giờ tất cả
Mới nhận ra một điều:
Anh hầu thông minh nhất,
Và lặng lẽ nghe theo.

*
Tham lam và ngu dốt,
Luôn có rất nhiều người
Ham giàu, cố vơ vét
Hết mọi cái trên đời.

Trong khi ta nên cố
Làm đẹp lòng A-la.
Có Ngài là ta có
Mọi cái trong đời ta.


CHIẾC HỒ ĐẦY SỮA

Có một ông vua nọ
Bắt thần dân của ngài
Đào một chiếc hồ lớn
Vừa rộng lại vừa dài.

Xong, ngài liền ban lệnh
Ngay đêm ấy, mỗi người
Chuẩn bị một cốc sữa,
Loại sữa ngon và tươi.

Rồi đem cốc sữa ấy
Đổ vào hồ mới đào,
Để hồ đầy sữa ngọt
Và sóng sữa dâng trào.

Lệnh vua, như ta biết,
Phải làm đúng, làm ngay.
Thế mà có một gã
Lại nghĩ bụng thế này:

“Ta đem cốc nước lã
Thay cốc sữa, không sao.
Đông người, trời lại tối,
Ai biết đâu vào đâu!”

Nói là làm, đêm ấy
Hỉ hả anh chàng này,
Yên tâm cốc nước nhỏ
Lẫn trong hồ sữa đầy.

Sáng hôm sau tỉnh dậy,
Vua và toàn gia đình
Ra xem hồ, đứng lặng,
Không tin vào mắt mình.

Thay cho hồ sữa ngọt,
Trước mặt ngài, buồn sao,
Chỉ là hồ nước lã.
Không một giọt sữa nào.

Hóa ra đêm hôm ấy,
Tất cả dân nước ngài
Nghĩ như anh chàng nọ,
Đúng, không trừ một ai.

*
Câu chuyện này triết lý
Của thế giới Đạo Hồi
Cho ta một bài học
Thấm thía về người đời.


SA-ĐI DỰ TIỆC CƯỚI

Sa-đi, nhà thơ lớn,
Nổi tiếng khắp Tây Đông,
Tác giả hai bộ sách
Là Vườn Quả, Vườn Hồng.

Giống các nhà thơ khác,
Suốt đời ông rất nghèo.
Sống thanh đạm, giản dị,
Quần áo cũng không nhiều.

Có ông nhà giàu nọ
Cưới vợ cho con trai,
Mời nhà thơ đến dự,
Chủ yếu cho nó oai.

Quan khách đến nhiều lắm,
Mà toàn những người giàu.
Mặc áo quần sặc sỡ,
Lộng lẫy đủ các màu.

Nhà thơ đến, giản dị
Trong bộ áo sờn lông,
Và dù rất vĩ đại,
Không ai quan tâm ông.

Chủ nhà không đon đả.
Thậm chí bọn gia nhân
Cũng không thèm chú ý,
Để ông đứng ngoài sân.

Trong khi những người khác,
Do ăn mặc hơn người,
Được đón tiếp nồng hậu,
Đầu cúi, miệng luôn cười.

Sa-đi, nhà thơ lớn,
Nổi tiếng khắp Tây Đông,
Người viết hai kiệt tác
Vườn Quả và Vườn Hồng,

Thế mà bị khinh rẻ,
Tẽn tò đứng ngoài sân.
Chỉ vì áo ông mặc
Giản dị, kiểu bình dân.

Cuối cùng, ông quay gót,
Tới cửa hàng phố bên,
Nơi cho thuê quần áo,
Cả loại rất đắt tiền.

Rồi nhà thơ vĩ đại
Một lát sau quay vào,
Diện bộ áo lộng lẫy,
Ai cũng cúi thấp chào.

Ai cũng mời đon đả,
Đặc biệt là chủ nhân,
Lắm lời và khúm núm,
Mời ngồi xuống bàn ăn.

Với nét mặt khinh bỉ,
Nhà thơ chỉ làm thinh.
Thỉnh thoảng gắp cá thịt
Cho tay áo của mình:

“Mày gắng ăn đi nhé.
Đừng khách khí, ăn đi.
Quần áo mới quan trọng.
Còn người chẳng là gì.”

Mọi người nhìn, kinh ngạc:
“Sao ngài làm thế này?”
“Không phải tôi, bộ áo
Là khách mời hôm nay!”

Ông nói rồi đựng dậy,
Rũ tay áo, đi về.
Để lại chủ và khách
Sự xấu hổ ê chề.


ĐÁ VÀ CÁT

Xưa, đôi bạn thân nọ
Có công chuyện, một lần
Phải đi qua sa mạc,
Cát thiêu đốt dưới chân.

Hơn thế, thức ăn hết,
Nước cũng cạn từ lâu,
Nên đâm ra cáu kỉnh,
Và cuối cùng cãi nhau.

Một anh, không kìm nổi,
Tát vào má bạn mình.
Không hề đánh trả bạn,
Người bị tát làm thinh.

Sau đó, anh cúi xuống,
Viết trên cát bằng tay:
“Người bạn thân thiết nhất
Đã tát tôi hôm nay.”

Rồi hai người đi tiếp,
Cuối cùng gặp dòng sông.
Đang tắm, người bị tát
Bỗng chìm nghỉm giữa dòng.

Người tát bạn vội vã
Nhảy xuống, vớt anh lên.
Anh vội lấy tảng đá,
Dùng búa, khắc lên trên

Một dòng chữ nguệch ngoạc,
Nhưng rất rõ, thế này:
“Người bạn thân thiết nhất
Đã cứu tôi hôm nay.”

“Sao cậu viết lên cát
Khi bị tát, bây giờ
Cậu lại khắc lên đá
Việc được cứu lên bờ?”

Người bạn anh hỏi thế.
Và anh đáp: “Là vì
Việc xấu, viết lên cát
Để gió thổi bay đi.

Còn việc tốt, ngược lại,
Nhất là việc cứu người,
Thì phải khắc lên đá
Để nhớ mãi suốt đời.”


GIÀU, NGHÈO

Có một giáo sĩ nọ,
Là A-bu Đac-đa,
Uyên thâm và thông thái,
Nổi tiếng khắp gần xa.

Một hôm, đang thuyết giảng
Thì vợ ông chạy vào,
Kêu nhà đã hết bột,
Tiền chẳng còn đồng nào.

Ông vờ không nghe thấy,
Vẫn giảng tiếp bình thường,
Về hạnh phúc, đau khổ,
Địa ngục và thiên đường.

Ông nói: “Ta, tất cả
Phải tiêu tiền, phải ăn.
Nhưng người giàu luôn có
Hơn mức họ đang cần.

Nên phần dư thừa ấy
Chỉ để ngắm hàng ngày.
Không cần, và vô bổ.
Luôn vẫn thế xưa nay.

Còn người nghèo, ta biết,
Cũng phải tiêu, phải ăn.
Khổ, những ít ai chết,
Thường đủ cái mình cần.

Và dẫu cũng vô bổ,
Họ được ngắm hàng ngày
Cái dư thừa người khác.
Không ai cấm việc này.

Vậy là chúng ta thấy,
Khi ta giàu hay nghèo,
Rốt cục đều thế cả.
Sự khác nhau không nhiều.

Hơn thế, sau khi chết,
Xuống địa ngục, người giàu
Phải chứng minh trước quỉ
Sự thừa ấy do đâu.

Còn người nghèo có khổ
Chút ít trong đời thường,
Nhưng bù lại, khi chết
Thảnh thơi lên thiên đường.

*
Bà vợ của giáo sĩ
Vô tình nghe, nghe xong,
Bà ra về, từ đấy
Thôi không mè nheo chồng.


HAI CON SÓI TRONG TA

Một giáo sĩ Hồi Giáo
Nổi tiếng rất thông minh,
Một hôm, lúc nhàn rỗi,
Nói với cậu cháu mình:

“Cháu không nên tức giận,
Cả khi gặp bất công.
Tức giận cũng vô ích,
Chỉ thêm bực trong lòng.

Sự giận dữ, cháu ạ,
Khiến người ta thành mù.
Tự mình ngậm thuốc độc,
Hy vọng giết kẻ thù.

Ngày xưa, lúc còn bé,
Hệt như cháu hôm nay,
Ông cũng thường tức giận,
Nên rất hiểu điều này.

Ông biết, hai con sói
Luôn thường trực trong ông.
Một lúc hai con sói,
Đúng thế, cháu tin không?

Một con, dù hung dữ,
Nhưng thường chỉ nằm yên.
Không làm hại ai cả.
Hung dữ mà rất hiền.

Nó lặng lẽ chuẩn bị
Sức lực để có ngày
Cần thiết, sẽ quyết chiến
Vì lẽ phải, điều ngay.

Nhưng hoàn toàn ngược lại
Là con sói thứ hai.
Hung dữ và hiếu chiến,
Không phân biệt đúng sai.

Là vì nó tức giận
Và hằn học với đời.
Tức giận nên mù quáng,
Sẵn sàng cắn chết người.

Thế đấy, hai con sói
Luôn thường trực trong ông.
Khó dung hòa được chúng.
Ông nói thế, hiểu không?

Mà hai con sói ấy
Gầm ghè, không chịu nhau.
Con nào cũng muốn thắng,
Cố ngoi lên hàng đầu…”

“Thưa ông, vậy rốt cục,
Cho cháu hỏi được không:
Thường thì con nào thắng,
Hai con sói trong ông?”

Mỉm cười, ông giáo sĩ:
Xoa đầu cháu, ân cần:
“Là con ông nuôi dưỡng
Và thường xuyên cho ăn!”


BÁNH HÔM QUA ĐẮT HƠN BÁNH HÔM NAY

Câu chuyện này có thật:
Một giáo sĩ Đạo Hồi
Khi đi qua làng nọ,
Dừng lại nghỉ, và rồi

Ông ngạc nhiên khi thấy
Quán bánh mì trong làng
Có xếp hai dãy bánh,
Với bảng giá rõ ràng:

“Bánh hôm nay, mỗi chiếc
Một phần tư đi-na.
Đắt gấp đôi giá ấy
Là bánh làm hôm qua.”

Ông hỏi ông chủ quán:
“Sao lạ lùng thế này,
Rằng bánh làm hôm trước
Đắt gấp đôi hôm nay?”

“Là vì, thưa giáo sĩ, -
Ông chủ quán trả lời. -
Dân làng này sùng đạo,
Nên xưa nay mọi người

Chỉ thích mua bánh cũ,
Bánh được làm hôm qua.
Vì chí ít bánh ấy
Gần với Đức A-la,

Gần với Mu-ha-mat,
Dù chỉ hơn một ngày.
Họ yêu Ngài thế đấy.
Luôn thế đấy xưa nay.”


CHA CON

Có một anh chàng nọ
Bố mẹ gửi đi xa,
Học xong và đỗ đạt,
Rồi trở về thăm nhà.

Một hôm, anh cùng bố,
Nghễnh ngãng, chân lại què,
Cùng ra ngồi trước ngõ,
Chiêm ngưỡng cảnh đồng quê.

Bỗng có một con quạ
Bay đến, đậu trên cây.
“Con chim gì ấy nhỉ,
Vừa mới bay đến đây?”

Anh con đáp: “Thưa bố.
Đó là con quạ đen.
Chắc từ xa bay đến.”
Ông già nghe, lặng yên.

Nhưng ít phút sau đó
Ông lại hỏi con trai:
“Con chim gì ấy nhỉ?”
Anh con lén thở dài:

“Con quạ đen, thưa bố.
Chỉ con quạ mà thôi.
Vừa lúc nãy bố hỏi,
Con đã trả lời rồi.”

Tưởng như thế là rõ,
Vậy mà rồi ông già
Ngồi im được một chốc,
Lại hỏi lần thứ ba.

Rồi thêm hai lần nữa,
Tổng cộng là năm lần
Về con chim gì đó
Đậu đâu đấy rất gần.

Không giữ được bình tĩnh,
Anh con trai thông minh,
Được học hành, đỗ đạt,
Cáu gắt với cha mình.

Ông bố anh lặng lẽ
Chống gậy đi vào nhà.
Và tay cầm cuốn sổ,
Một lát sau đi ra.

Đó là cuốn nhật ký
Sờn cả trong lẫn ngoài.
Ông viết đã lâu lắm,
Về mình và con trai.

Anh con ngồi lặng lẽ
Đọc, rồi mắt lệ nhòa
Khi đến đoạn thời bé
Anh đã hỏi người cha,

Cũng về chuyện con quạ.
Mà những hăm lăm lần.
Cha anh không cáu gắt,
Mà trả lời ân cần.

*
Bài học là thế đấy.
Ta cậy giỏi, thông minh,
Nhiều khi không chịu hiểu
Tình yêu bố mẹ mình.


HAI ÔNG GIÀ

Câu chuyện này cảm động,
Các bạn đã đọc chưa?
Không sao, nếu đã đọc,
Đọc lại cũng không thừa.

Tôi đọc nó trong tập
“Truyện Hồi Giáo ngày nay”.
Một câu chuyện cảm động,
Đại khái ý thế này.

*
Có hai ông già nọ,
Ốm, nằm chung một phòng
Trong bệnh viện thành phố,
Đất chật và người đông.

Một người bị bệnh nặng,
Nằm bất động trên giường.
Người kia thỉnh thoảng dậy,
Trầm ngâm ngồi tựa tường.

Bên cạnh là ô cửa
Duy nhất trong cả phòng.
Bên ngoài trời xám xịt,
Vì đang là mùa đông.

Những lúc không mệt lắm,
Họ kể chuyện gia đình,
Chuyện cháu con, thế sự,
Chuyện buồn vui đời mình.

Bất chợt bệnh phát triển,
Người phải nằm liệt giường
Nghĩ chắc mình sắp chết,
Luôn thở dài chán chường.

Người ngồi bên cửa sổ
Thì từ đấy hàng ngày
Miêu tả để bạn biết
Cảnh đẹp thành phố này.

Rằng bên ngoài cửa sổ
Đang mùa xuân, công viên
Đàn thiên nga bơi lội
Trên mặt hồ bình yên.

Rằng lũ trẻ bắt bướm,
Hái hoa trên cỏ xanh;
Rằng cuộc sống thật đẹp,
Hạnh phúc và yên bình,

Có hôm ông còn kể
Rằng ngoài phố bây giờ
Có diễu binh to lắm,
Phố đầy hoa và cờ.

Bạn ông, dẫu tai điếc,
Mắt gần như mù lòa,
Vẫn hình dung thấy phố
Ngập một màu cờ hoa.

Cứ thế, nghe bạn kể,
Người ốm nằm liệt giường
Thấy khao khát muốn sống,
Thôi không còn chán chường.

*
Một hôm, cô y tá
Thấy bệnh nhân của cô
Gục đầu bên cửa sổ,
Chết lịm từ bao giờ.

Một tháng sau, bệnh giảm,
Người phải nằm liệt giường
Xin phép được ngồi dậy,
Tựa lưng vào mép tường.

Ông hồi hộp chờ đời
Giây phút nhìn ra xa
Để được thấy hồ nước
Và thành phố đầy hoa.

Nhưng rồi ông thất vọng:
Ngoài cửa sổ, trước ông
Là một bức tường trống,
Cả rêu bám cũng không.

Ông đã hiểu, bất chợt,
Hai mắt lệ ướt nhòa.
Trân trân nhìn phía trước,
Xót thương người bạn già.


ĐỨC A-LA VÀ NGƯỜI ĐẮM TÀU SỐNG SÓT

Một tàu buôn bị đắm.
Duy nhất chỉ một người
Dạt lên hòn đảo vắng
Chơ vơ giữa biển trời.

Hòn đảo không người ở
Cả muông thú cũng không.
Vừa bé vừa cằn cỗi,
Giữa bốn bề mênh mông.

Tuyệt vọng đến cùng cực,
Suốt cả ngày anh ta
Dán mắt nhìn ra biển
Và cầu Đức A-la.

Cầu mãi cũng chẳng được,
Chờ thuyền, không thấy đâu,
Con người bất hạnh ấy
Cuối cùng đành buồn rầu

Nhặt nhạnh các khúc gỗ
Sóng đánh dạt lên bờ,
Dựng túp lều trú tạm,
Che nắng và che mưa.

Xong, anh chàng lê bước
Vào rừng tìm trái cây.
Lúc quay ra, hốt hoảng
Khi thấy túp lều này

Tự nhiên bốc lửa cháy.
Khói đen cuộn lên cao
Thành một cột dày đặc,
Mà không hiểu thế nào.

Quá đau khổ, anh khóc,
Rồi ngửa mặt, giơ tay,
Trách A-la sao nỡ
Bắt phải chịu thế này.

Đang than thân trách phận,
Không ngờ một lát sau,
Ngồi bên túp lều cháy,
Anh thấy một con tàu.

Đó là loại tàu lớn,
Ba tầng, cắm nhiều cờ.
Rồi một chiếc thuyền nhỏ
Nhanh chóng tiến vào bờ.

Sau khi được cứu sống,
Ăn uống và tắm xong,
Được gặp ông thuyền trưởng,
Anh tò mò hỏi ông:

“Làm sao các ông biết
Tôi bị kẹt nơi này?”
“Vì thấy tín hiệu khói
Nên chúng tôi đến đây.

Anh gửi tín hiệu ấy.
Không anh thì A-la.
Vì Ngài luôn có mặt
Để cứu giúp chúng ta.”


NGƯỜI ĐÀN ÔNG VÀ BỐN BÀ VỢ

Một thương gia Hồi Giáo,
Thuộc tầng lớp người giàu,
Một lúc có bốn vợ
Sống hòa thuận với nhau.

Bà vợ tư xinh đẹp
Được ông chiều nhất nhà,
Từ thức ăn, đồ uống
Đến áo đẹp, nước hoa.

Ông cũng yêu thương lắm
Bà vợ ba của mình,
Và thường khoe với bạn,
Vì bà giàu và xinh.

Có điều ông nơm nớp
Lo có thể bà này
Bỏ ông theo người khác
Tự lúc nào không hay.

Bà vợ hai, phải nói,
Ông cũng quí, có điều
Cố tình giữ khoảng cách,
Không bộc lộ tình yêu.

Khi khó khăn, hoạn nạn
Ông luôn tìm đến bà,
Mà bà thì rộng lượng
Và đầy lòng vị tha.

Nên lần nào cũng vậy,
Ông nhận được lời khuyên,
Tình yêu thương gắn bó
Và đôi khi cả tiền.

Chỉ bà vợ thứ nhất
Không được yêu, là người
Lại yêu ông hơn cả,
Và chung thủy suốt đời.

Bà là người cầm chịch
Và chỗ dựa tinh thần,
Giúp ông không sa ngã
Bằng những lời khuyên răn.

Cũng vì luôn bị nhắc
Lẽ phải và điều hay,
Nên ông không yêu mến
Và ngại gặp bà này.

*
Một hôm ông ốm nặng,
Biết sẽ chết, và ông
Bất chợt thấy luyến tiếc
Và đau nhói trong lòng.

“Ta có bốn bà vợ,
Nhiều đầy tớ, gia nhân,
Thế mà nay đơn độc,
Phải từ giã cõi trần.

Ta đã sống tình nghĩa
Với tất cả bốn bà.
Có bà nào đồng ý
Sẵn sàng chết theo ta?”

Khi được ông ướm hỏi,
Bà thứ tư lắc đầu:
“Tôi không là con ngốc.
Chết theo ông? Còn lâu.”

Bà thứ ba liền đáp:
“Quả tình tôi yêu ông.
Nhưng đời này đẹp lắm,
Tôi còn muốn lấy chồng.”

Bà thứ hai ái ngại,
Nhìn ông, lệ hai hàng:
Yên tâm, tôi nhất định
Đưa ông ra nghĩa trang.”

Đang lúc ông thất vọng
Với thái độ người thân,
Bỗng vang lên giọng nói
Nhỏ nhẹ và ân cần:

“Là người vợ chung thủy,
Suốt đời sống bên chồng.
Tất nhiên nay ông chết,
Tôi sẽ chết theo ông.”

Đó là giọng bà cả.
Lặng lẽ nắm tay bà,
Ông buồn, rất hối hận,
Đôi mắt lệ ướt nhòa.

*
Thực ra trên thực tế,
Thì đàn ông chúng ta
Luôn có bốn bà vợ
Sống chung trong một nhà.

Bà tư ta yêu quí
Là thân xác chúng ta.
Còn của cải ta có
Là bà vợ thứ ba.

Vì thế ta chăm chút
Từ đồ uống, thức ăn
Đến trang điểm, đi lại
Và giày dép, áo quần.

Của cải và tiền bạc
Ta rất thích đem khoe.
Khoe, mà lo ngay ngáy
Rằng chúng đi không về.

Mà một khi ta chết,
Tiền bạc chẳng là gì,
Thân xác sẽ thối ruỗng,
Đành một mình ra đi.

Người thân và bố mẹ
Là người vợ thứ hai.
Đúng, họ yêu ta thật,
Nhưng chắc chắn không ai

Sẽ vì ta mà chết.
Họ thương khóc, và rồi
Đưa ta ra nghĩa địa
Và quay về, thế thôi.

Còn người vợ thứ nhất
Là tâm hồn chúng ta,
Cái thường bị coi nhẹ
Trong cuộc sống phù hoa.

Chỉ tâm hồn vĩnh cửu.
Tâm hồn và tinh thần
Là cái quan trọng nhất,
Hơn áo mặc, cơm ăn.

Thật tiếc, khi ta chết
Mới ý thức điều này.
Và đó là cái giá
Nhiều đau buồn xưa nay.


LÀM VUA MỘT NĂM

Nước nọ có lệ lạ
Đã hàng trăm năm nay -
Ai làm vua cũng được,
Với điều kiện thế này:

Con người tình nguyện ấy
Làm vua một năm trời,
Rồi bị đầy ra đảo
Hoang vu và không người.

Nghĩa là sẽ chết đói
Một mình nơi đảo xa.
Cái giá một năm sống
Trong cung điện xa hoa.

Vào ngày đáng buồn ấy,
Khi buộc phải lên đường,
Vua được ăn mặc đẹp,
Cũng nhiều người khóc thương.

Một năm được sung sướng,
Để rồi chết, tất nhiên,
Là cái giá rất đắt,
Nhất là với thanh niên.

*
Có một chàng trai nọ
Từ xa đến, và rồi
Tình nguyện làm vua mới.
Cuối cùng được lên ngôi.

Không như các vua trước,
Tranh thủ được làm vua,
Săn bắn và yến tiệc
Cùng các trò vui đùa,

Chàng chăm lo việc nước,
Giảm sưu thuế cho dân,
Rồi lặng lẽ ra lệnh
Sai các quan đại thần

Ra thăm dò hòn đảo
Về báo cho vua hay.
Vua, lần nữa lặng lẽ
Sai quân lính đêm ngày

Chở đá cát và gỗ
Cùng nhiều thợ lành nghề
Xây bến tàu, nhà cửa,
Làm đường và đắp đê.

Và rồi, sau mấy tháng,
Trên hòn đảo hoang sơ
Xuất hiện cả cung điện
Cùng vườn hoa, nhà thờ.

Vua khuyến khích dân chúng
Mang gia đình ra đây.
Miễn thuế, miễn lao dịch,
Đất tốt, đủ cấy cày.

Vậy là khi đến hạn,
Vua yên tâm ra đi,
Vì biết nơi phải đến
Không thiếu một thứ gì.

Sống trên đảo, chắc chắn
Chàng vẫn sướng như vua,
Có cung điện, lương thực
Và hoa trái bốn mùa.

*
Đức A-la đã dạy:
Sống cuộc sống hôm nay,
Ta phải luôn chuẩn bị
Cho cuộc sống sau này.

Ta, chứ hẳng ai khác
Phải lát đá làm đường
Để đến giờ phải chết
Thanh thản lên thiên đường.


SƯỚNG TRƯỚC HAY KHỔ TRƯỚC ?

Có một chàng trai nọ,
Đêm mơ thấy A-la
Báo cuộc đời chàng sống
Cho đến khi chết già

Được chia thành hai nửa.
Một nửa sướng và giàu.
Còn nửa kia, ngược lại,
Chỉ khổ và buồn đau.

Ngài cho chàng được chọn
Trong hai nửa đời này,
Hoặc sướng hoặc khổ trước,
Không hơn kém một ngày.

Vốn là người nể vợ,
Nên bất cứ việc gì
Chàng cũng hỏi ý vợ.
Vợ chàng đáp tức thì:

“Cứ chọn nửa sướng trước.
Trẻ phải sướng, về sau,
Già thường dễ chịu đựng
Gian khổ và buồn đau.”

Kể từ ngày hôm ấy,
Niềm vui và bạc vàng
Như thể ai sai khiến,
Cứ tìm đến nhà chàng.

Chàng thành giàu, giàu lắm.
Ngồi trên cả núi tiền.
May chàng không hư hỏng,
Mà làm theo vợ khuyên.

Vợ khuyên sống thanh đạm,
Chỉ tiêu cái cần tiêu.
Bao của cải còn lại
Phân phát cho người nghèo.

Hai vợ chồng hạnh phúc,
Dẫu không cần nhiều tiền.
Năm tháng trôi lặng lẽ,
Trong êm ấm, bình yên.

Họ thanh thản chờ đợi
Sống nửa cuộc đời sau,
Mà A-la đã báo,
Đầy bất hạnh, buồn đau.

Và rồi ngày ấy đến.
Đêm, chàng mơ A-la
Đứng bên giường, Ngài nói:
“Con rất hợp ý ta.

Vì con không hư hỏng
Cả khi có tiền nhiều,
Hơn thế, còn hào phóng
Giúp đỡ những người nghèo,

Ta cho con được sống
Phần sau cuộc đời mình
Trong giàu có, hạnh phúc,
Êm ấm và thanh bình.”

Thế là lại tiếp tục
Niềm vui và bạc vàng,
Như thể ai sai khiến,
Tự tìm đến nhà chàng.

Bài học này quí giá
Lần nữa nhắc chúng ta
Phải thương yêu người khác
Và làm theo A-la.

*
Trong Cô-ran, Ngài dạy:
Phải yêu quí người thân,
Nếu được, dành cho họ
Những cái họ đang cần.

Hãy giúp người cơ nhỡ
Và những người đói nghèo.
Quan trọng là sự giúp,
Không quan trọng ít nhiều.

Một khi không giúp được,
Thì ít nhất lựa lời
Mà nói năng tế nhị
Để không xúc phạm người.

Hơn thế, ai hoang phí
Của cải của chính mình
Sau phải uống địa ngục
Để chịu các nhục hình.


HỌC ĐIỀU KHÔNG THỂ DẠY

Theo người ta kể lại,
Xưa ở thành Bas-ra
Có một người giàu có
Sống độc thân, đã già.

Nhà có cậu con một,
Thông minh và đẹp trai,
Được ông gom tiền bạc,
Gửi đi học nước ngoài.

Sau mấy năm đèn sách,
Chàng trai trở về nhà,
Không phải không hãnh diện,
Khoe với người bố già:

“Thưa bố, con đã học
Hết điều hay, lẽ khôn
Một người thầy giỏi nhất
Có thể dạy cho con!”

Ông bố nghe, mừng lắm,
Nhưng không lộ ra ngoài,
Chỉ lặng lẽ nghiêm mặt
Rồi nói với con trai:

“Con học thế chưa đủ.
Hãy quay lại với thầy
Học cái không thể dạy,
Rồi nhanh chóng về đây!”

Dẫu mới về, đang mệt,
Chưa kịp ăn uống gì,
Anh con đành nghe bố,
Lần nữa lại ra đi.

Anh đến gặp thầy cũ,
Xin thầy dạy cho mình
Những điều không thể dạy
Về cái tâm, cái tình.

Ông thầy nghe, đồng ý,
Giao sáu mươi con bò,
Bắt lên chăn trên núi,
Đủ nước uống, ăn no.

Và điều quan trọng nhất -
Chỉ trong vòng hai năm,
Đàn bò phải sinh sản,
Sáu mươi thành một trăm.

Thế là chàng trai ấy,
Xinh đẹp và thông minh,
Trở thành người chăn thú,
Sống trên núi một mình.

Một mình không bè bạn.
Chỉ núi và cỏ xanh
Cùng đàn bò im lặng
Và những ngọn gió lành.

Tất cả không thơ mộng
Như chàng nghĩ ban đầu.
Sự cô đơn, tĩnh mịch
Làm trái tim nhói đau.

Vốn quen nơi đô thị,
Lần đầu tiên thế này,
Chàng vô cùng tuyệt vọng,
Hằn học và đắng cay.

Chẳng thể làm gì được,
Muốn buồn thì cứ buồn,
Chàng vẫn phải chăn thú
Một mình giữa núi non.

Mọi cái, như ta biết,
Lâu ngày rồi cũng quen.
Không quen cũng chẳng được,
Cả khi suýt phát điên.

Rồi từ sự quen ấy
Chuyển sang chuyện bình thường.
Ý nghĩ được thanh lọc,
Trái tim thêm yêu thương.

Nhờ thiên nhiên hoang dã
Và cuộc sống khó khăn,
Trong chàng các thói xấu
Được gạt bỏ dần dần.

Rồi đàn bò chàng có,
Nhờ chăn tốt, hai năm
To béo và sinh sản,
Sáu mươi thành một trăm.

Cuối cùng chàng đưa chúng
Về giao lại cho thầy.
Ông thầy già âu yếm
Nói với chàng: “Hôm nay

Con đã học được cái
Không thể dạy ở đời.
Nhờ nó, con có thể
Kiêu hãnh sống làm người.”


BÀI HỌC VỀ GIÁ TRỊ

Một giáo sĩ Hồi Giáo
Gần như suốt cả đời
Chuyên giảng kinh, lần nọ
Ông nói về con người.

Tay cầm tờ giấy bạc,
Ông đứng trước đám đông:
“Một trăm đi-na mới,
Có ai muốn lấy không?”

Nhiều người nghe, lập tức
Hăng hái giơ cao tay.
“Tốt lắm, nhưng trước hết
Tôi sẽ làm thế này!”

Rồi ông vò tờ bạc,
Vứt xuống đất. “Thế nào,
Các bạn vẫn muốn nó?”
Nhiều cánh tay giơ cao.

“Còn thế này? - ông nói,
Rồi dí mạnh gót chân
Lên tờ giấy bạc ấy,
Khá lâu và nhiều lần. -

Bị vứt, bị chà đạp,
Còn ai muốn nó không?”
Số người muốn tờ bạc
Hóa ra vẫn rất đông.

“Đây là một bài học
Rất quí cho chúng ta.
Dẫu sao, tờ giấy ấy
Vẫn một trăm đi-na.

Và giá trị của nó
Không giảm một xu nào,
Dù bị ghét, dẫm đạp
Và xúc phạm ra sao.

Ta, con người cũng vậy,
Không ít lúc trong đời
Bị ai đó dẫm đạp,
Nhưng ta vẫn là người.

Đừng tự ti, thất vọng.
Như tờ trăm đi-na.
Khi ta có giá trị,
Thì ta luôn là ta.

Rất có thể ai đó
Xô bạn xuống bùn đen.
Chính vì bạn có giá,
Họ sẽ cúi nhặt lên.”


NGƯỜI ĐÀN ÔNG VÀ CON BƯỚM

Một người đàn ông nọ
Thấy trước sân nhà mình
Một chiếc kén bướm nhỏ,
Màu ngà ngà, thật xinh.

Tò mò, ông ngồi xuống,
Đặt nhẹ lên lòng tay,
Chợt thấy nó động đậy,
Bên nọ rồi bên này.

Rồi một lỗ bé tí
Xuyên thủng lớp vỏ ngà,
Cuối cùng, đầu con bướm,
Còn ươn ướt, nhô ra.

Con bướm cố hết sức
Để chui hết cái đầu.
Nhưng lỗ còn quá bé,
Nó vật lộn hồi lâu.

Cuối cùng nó nằm nghỉ,
Vẻ mệt mỏi, chán chường.
Người đàn ông nhìn nó,
Bỗng cảm thấy thương thương.

Ông vào nhà lấy kéo,
Cắt một lỗ to, dài.
Con bướm ngay lập tức
Dễ dàng chui ra ngoài.

Người đàn ông những tưởng
Nó sẽ vụt bay lên.
Nhưng không, con bướm ấy
Vẫn lười biếng nằm yên.

Thấy lạ, ông nhìn kỹ:
Cái bụng nó quá to,
Mà đôi cánh quá nhỏ.
Hơn thế, còn chưa khô.

Cuối cùng, ông chợt hiểu,
Rằng ông đã vô tình
Làm hại cả đời nó,
Bằng lòng tốt của mình.

Ngu ngốc, nên vội vã
Ông giúp nó ra ngoài,
Khi chưa phải vật lộn
Để cánh cứng và dài.

Thế là con bướm ấy
Không vươn lên bay xa
Như những con bướm khác,
Rồi thành mồi cho gà.

*
Đức A-la cố ý
Tạo ra nhiều khó khăn
Để chúng ta rèn luyện
Và cứng cáp thêm dần.

Khó khăn và gian khổ
Cũng cần cho con người
Để bay xa, đứng vững
Và sống đẹp ở đời.


CON CHIM KHÔNG THÍCH BAY

Vua Ả Rập Xê-út
Được ông bạn châu Phi
Tặng một con chim quí,
Hiếm và đẹp cực kỳ.

Có điều con chim ấy,
Quí và hiếm vô cùng,
Từ khi đem về nước
Và được đưa vào cung,

Nó chỉ ngồi một chỗ,
Ủ rũ trên cành cây.
Ăn và ngồi một chỗ,
Lười biếng không chịu bay.

Chim khi bay mới đẹp.
Nên vua không tiếc tiền
Mời người đến đàn hát,
Nó vẫn cứ ngồi yên.

Cả pháp sư, vũ nữ
Và những tiếng vỗ tay
Cũng không thể làm nó
Một lần cất cánh bay.

Cuối cùng, thử hết cách,
Một quan lớn đại thần
Cho người sang làng cạnh
Mời một bác nông dân.

Lát sau, vua hậm hực
Như mọi lần, ra ngoài,
Chợt thấy con chim quí
Bay lượn trên đầu ngài.

Đúng là nó tuyệt đẹp,
Lông sặc sỡ nhiều màu,
Lúc bay cao, lúc thấp,
Xòe đuôi rồi nghiêng đầu.

Vua ngạc nhiên, liền hỏi:
“Ai bắt được nó bay?”
Bác nông dân cúi lạy
Rồi đáp lại thế này:

“Bẩm con, tâu bệ hạ.
Thực tình đơn giản thôi:
Con chỉ lấy dao chặt
Cành cây nó đang ngồi!”

*
Ta, con người, thực tế,
Được sinh ra để bay,
Thế mà ta lười biếng,
Ngồi một chỗ suốt ngày.

Ta bỏ nhỡ cơ hội
Chỉ vì thích tiện nghi,
Thích chiếc ghế quen thuộc
Mà ngại bay, ngại đi.

Bay, đi, người mới đẹp.
Đã đẹp, đẹp gấp đôi.
Vậy hãy dũng cảm chặt
Cành cây ta đang ngồi.


CỤ GIÀ BỊ ĐIẾC

Có một cụ già nọ,
Bước sang tuổi tám hai,
Đang khỏe mạnh, béo tốt,
Bỗng mắc chứng đau tai.

Cụ đến gặp bác sĩ.
Phẫu thuật ư? Ô-kê.
Ông bác sĩ giúp cụ
Lấy lại khả năng nghe.

Rồi ông bác sĩ ấy
Liền đưa cho cụ già
Tờ hóa đơn thanh toán.
Cụ nhìn, bỗng khóc òa.

Ông bác sĩ an ủi:
“Nếu cụ thấy giá cao,
Mặc dù giá vừa phải,
Tôi sẽ bớt phần nào.”

“Tôi không khóc chuyện ấy,
Mà khóc chuyện thế này:
Tôi đã tám mươi tuổi,
Và từ xưa tới nay

Đức A-la vĩ đại
Cho tôi nghe, thưa ông,
Nghe rất rõ mọi chuyện,
Mà không lấy một đồng.”

*
Chúng ta được ban tặng
Từ bàn tay A-la
Nhiều ân phước tốt đẹp,
Thế mà rồi chúng ta

Không ý thức điều ấy.
Coi như chuyện đương nhiên
Cho đến khi bị tước,
Và chạm đến túi tiền.


CON ẾCH RƠI XUỐNG HỐ

Có một tốp ếch nọ
Cùng đi chơi trong rừng.
Vừa đi vừa trò chuyện
Và vui hát tưng bừng.

Chợt, hai con vô ý
Rơi xuống chiếc hố sâu.
Tất nhiên chúng muốn thoát
Và đã cố rất lâu,

Nhưng không nhảy lên được.
Còn bọn ếch bên trên
Bảo vô ích, đừng nhảy,
Tốt nhất cứ nằm yên.

Một con nghe, thôi nhảy.
Con kia cứ phớt lờ.
Nó nhảy nữa, nhảy mãi,
Cuối cùng lên được bờ.

Bọn ếch xúm lại nói:
“Cái thằng này kỳ ghê.
Ai cũng bảo đừng nhảy.
Hay là mày không nghe?”

“Dạ thưa, em bị điếc
Nên quả không nghe gì.
Thấy mọi người hò hét,
Em cứ tưởng: Nhảy đi!

Cảm ơn các anh chị
Đã khích lệ, thật may.
Nhờ sự khích lệ ấy,
Em thoát tai nạn này.”

*
Lời nói có sức mạnh.
Lời an ủi, lời khuyên
Có thể làm người ngã
Biết gượng dậy, đứng lên.

Ngược lại, lời cay độc
Hay những lời thị phi
Làm người nghe suy sụp,
Chẳng mang lợi ích gì.

Vậy lựa lời mà nói.
Hãy nhớ lời A-la:
Nói tốt với người khác
Là nói tốt với ta!


QUÁN TRỌ CUỘC ĐỜI

Một ẩn sĩ nổi tiếng
Đến gặp vua Meysem:
“Quán trọ này còn chỗ
Cho ta trú qua đêm?”

Vua ngạc nhiên, khó chịu,
Lớn tiếng hỏi ông già:
“Ngươi mù sao, không thấy
Lâu đài này của ta.

Một lâu đài đồ sộ,
Nổi tiếng nhất phương Đông.
Tường dát vàng, dát bạc,
Không dưới một nghìn phòng!”

Ông già ẩn sĩ nói:
“Xin bệ hạ cho hay
Trước ngài ai đã sống
Trong “tòa lâu đài” này?

“Thân mẫu ta, hẳn vậy.”
“Còn trước đấy là ai?”
“Là ông ta…” Ẩn sĩ
Cung kính nói: “Thưa ngài,

Giờ thì ngài đã thấy,
Lâu đài ngài nghìn phòng,
Cũng chỉ là quán trọ
Che nắng gắt, mưa giông.

Giờ ngài sống trong nó
Là sống tạm mấy ngày,
Như ông bà, bố mẹ
Đã sống tạm trước đây.

Xin hỏi ngài lần nữa,
Thưa đức vua Meysem:
Quán trọ này đủ chỗ
Cho tôi trú qua đêm?”

*
Cuộc đời là quán trọ.
Ta nói thế nhiều lần.
Đời phù du, tạm bợ,
Thế mà ta, người trần,

Ta đua nhau, cặm cụi
Vơ mọi thứ vào mình,
Để rồi ngày càng ngập
Trong bể khổ vô minh.

Sớm muộn ai cũng chết.
Ngắn ngủi một cuộc đời.
Cái ta tưởng ta có
Hóa ra là của đời.

Thì A-la đã dạy:
Mọi cái đều vô thường.
Quan trọng là sống tốt
Để được lên thiên đường.


QUAN TRỌNG LÀ CÁCH NÓI

Một nhà chiêm tinh nọ
Được vua gọi vào chầu.
“Ngươi hãy nói ta biết,
Ta sống thọ bao lâu?”

“Dạ, muôn tâu hoàng thượng,
Đại đức và đại tài,
Ngài sống lâu, đến mức
Con cháu chết trước Ngài!”

Nhà vua nghe chữ chết,
Rất khó chịu trong lòng,
Cho đó là điềm gỡ,
Rồi ra lệnh chém ông.

Một nhà chiêm tinh khác
Cũng được hỏi câu này.
“Bẩm, hoàng thượng rất thọ.
Hiếm có ở đời này.

Ngài là người thọ nhất
Trong hoàng cung, thọ hơn
Tất cả các bà vợ,
Thậm chí cả cháu con!”

Nghe ông này nói thế,
Vua thực sự hài lòng,
Bèn ra lệnh ban thưởng
Mấy đồng vàng cho ông.

Vậy là chúng ta thấy.
Cùng một ý như nhau.
Nói thế này được thưởng.
Nói thế kia mất đầu.

*
Tiên Tri Mu-ha-mat
Và cả Đức A-la
Rất coi trọng lời nói,
Và luôn dạy chúng ta

Phải lựa lời mà nói.
Lời nói không mất tiền.
Muốn ác thì nó ác.
Muốn hiền thì nó hiền.


NGỰA VÀ DÊ

Một người nông dân nọ
Nhà rất nghèo, anh ta
Chỉ có một con ngựa
Và một con dê già.

Khốn nỗi, bỗng con ngựa
Tự nhiên ốm mới phiền.
Không làm việc, không đứng,
Suốt ngày chỉ nằm yên.

Chủ nhà gọi thầy thuốc.
Thầy thuốc nói: “Hôm nay
Tôi cho ba thang thuốc
Đủ uống cho ba ngày.

Nếu sau đó không khỏi,
Con ngựa vẫn nằm yên,
Thì thôi, đành giết thịt,
Còn kiếm được chút tiền.

Con dê già nghe vậy,
Rất lo cho bạn mình.
Nó lựa lời an ủi
Bằng lời lẽ chân tình.

Rằng phải gắng uống thuốc,
Phải khỏi bệnh thật nhanh,
Không thì ba ngày nữa
Người ta sẽ giết anh!

Phần nhờ bạn khích lệ,
Phần sợ bị lột da,
Con ngựa đã đứng dậy
Đúng vào ngày thứ ba.

Ông chủ vui, liền nói:
“Vậy thì ngay hôm nay
Đem con dê giết thịt
Để ăn mừng vụ này!”


HÒN ĐÁ GIỮA ĐƯỜNG

Một bác nông dân nọ,
Trời chưa sáng, đầy sương,
Đi chợ, vấp hòn đá
Nằm ngay chính giữa đường.

“Hòn đá lớn như thế,
Ai để đây, làm gì?
Vấp ngã nguy hiểm lắm.”
Ông cằn nhằn, rồi đi.

Buổi tối, bà bán sữa
Vấp phải hòn đá này.
Bà đã né tránh nó
Khi nhìn thấy ban ngày.

Bà nguyền rủa hòn đá,
Vội vã tránh ra xa,
Rồi gánh sữa đi tiếp,
Bực mình đến tận nhà.

Suốt mấy ngày hòn đá
Nằm chềnh ềnh giữa đường.
Nhiều người thấy, né tránh,
Nhiều người vấp, bị thương.

Ai cũng nguyền rủa nó,
Thế mà rồi không ai
Chịu khó cúi xuống đẩy,
Hay kéo nó ra ngoài.

Cuối cùng, một giáo sĩ
Vừa giảng đạo làng bên,
Nhìn thấy, xắn tay áo,
Kéo nó sang một bên.

Xong, ông thấy mảnh giấy
Chỗ hòn đá, giữa đường:
“Vì việc làm tốt ấy,
Con sẽ lên thiên đường.”

Ông giáo sĩ quỳ lạy,
Tạ ơn Đức A-la,
Rồi khăn gói đi tiếp,
Vui cho đến tận nhà.

*
Nói, ai cũng nói được,
Mà thường nói rất hay.
Làm mới thực sự khó.
Xấu tốt ở chỗ này.


NGƯỜI ĐI TÌM KIM CƯƠNG

Một bác châu Phi nọ,
Sống hạnh phúc, hài lòng.
Hài lòng vì hạnh phúc,
Hạnh phúc vì hài lòng.

Mọi chuyện đang tốt đẹp,
Dung dị và đời thường.
Chợt bác nghe người nói
Về giá trị kim cương.

Rằng nếu ai đó có
Một viên bằng ngón tay,
Thì người ấy có thể
Làm chủ thành phố này.

Còn may mắn có được
Một viên bằng quả hồng
Thì làm vua cai trị
Một nước rộng mênh mông.

Ông nghe, hơi bị choáng.
Rồi bứt rứt, bồn chồn.
Lần đầu, đêm hôm ấy,
Ông ngủ thấy mất ngon.

Mất ngon vì lo nghĩ,
Lo nghĩ nên mất ngon.
Lần đầu ông bị khổ
Vì bứt rứt, bồn chồn.

Sáng hôm sau, vội vã
Ông bán hết cửa nhà
Và điền trang, quyết định
Sẽ lên đường đi xa.

Ông phải tìm bằng được
Viên kim cương của mình,
Một viên to, thật đẹp,
Đủ sắc màu lung linh.

Ông tìm nó, tìm mãi,
Châu Phi rồi châu Âu,
Cả châu Á, châu Mỹ,
Mà chẳng tìm thấy đâu.

Ông cảm thấy đau khổ
Và luôn không hài lòng.
Không hài lòng vì khổ.
Khổ vì không hài lòng.

Cuối cùng ông kiệt sức,         
Một mình nơi phương xa.
May mà không chết đói
Và về được đến nhà.

Điền trang cùng nhà cửa
Trước ông bán cho người
Giờ vẫn nguyên như cũ,
Cây cối vẫn xanh tươi.

Ông chủ mới có vẻ
Hạnh phúc và hài lòng.
Hài lòng vì hạnh phúc,
Hạnh phúc vì hài lòng.

Ông chủ cũ khát nước,
Bò đến khe nước nông
Trong khu vườn rậm rạp
Vốn xưa là của ông.

Dưới đáy khe ông thấy
Những viên sỏi bình thường,
Tròn, đủ màu lấp lánh
Như những viên kim cương.

*
Đừng bỏ cái đang có
Trong hạnh phúc đời thường
Để chạy theo ảo vọng,
Tìm những viên kim cương.

Viên kim cương quí nhất,
Cần nhất cho chúng ta
Là hết lòng thành kính
Và nghe theo A-la!


NHÀ VUA VÀ ẨN SĨ

Có ông vua hùng mạnh
Một hôm đi chơi xa
Cùng các quan văn võ,
Đường ngập cờ và hoa.

Nhìn thấy vua, lập tức
Ai cũng cúi đầu chào.
Riêng có một ẩn sĩ
Đứng yên, đầu ngẩng cao.

Vua liền cho gọi tới.
Hỏi thì đáp: “Người ta
Chào vua vì tiền bạc,
Vì vinh quang phù hoa.

Với tôi, những cái ấy
Chẳng chút ý nghĩa nào.
Mà một khi đã vậy,
Vì sao tôi phải chào?

Lại còn điều này nữa -
Tôi là người tự do,
Nên không chào nô lệ.”
Nhà vua nghe, quát to:

“Ngươi bảo ta nô lệ,
Một ông vua quang minh?”
“Vâng, ngài là nô lệ
Cho cái ngai của mình.

Cho cả cơn tức giận,
Lòng tham và nỗi lo.
Tôi thoát những cái ấy,
Nên là người tự do.”

Vua nghe, thấy có lý,
Nén cơn giận đùng đùng,
Cúi đầu chào ẩn sĩ
Rồi quay ngựa, về cùng.


HÃY TIN Ở A-LA!
 
Hai mẹ con nhà nọ
Lội qua con suối nông.
Bà mẹ nói: “Giữ chặt
Bàn tay mẹ, nhớ không?”
 
Đứa bé đáp: “Con nhớ.
Nhưng thưa mẹ, tốt hơn,
Qua những chỗ nguy hiểm,
Mẹ hãy cầm tay con.”
 
“Ừ, mẹ cầm cũng được.
Nhưng có khác gì nhau?”
“Có khác đấy mẹ ạ.
Nhỡ gặp chỗ nước sâu
 
Có thể con hoảng sợ,
Buông tay mẹ thì sao.
Còn với mẹ, con biết
Mẹ sẽ không lúc nào,
 
Cả khi nguy hiểm nhất,
Chịu buông rơi tay con.
Vì vậy, con nghĩ mẹ
Cầm tay con thì hơn.
 
*
Đức A-la vĩ đại
Là Mẹ của chúng ta.
Vậy, hãy trao tất cả
Vào tay Đức A-la!


BA MƯƠI NĂM ĐI LỄ NHÀ THỜ

Một hôm có người nọ
Gặp giáo sĩ của mình
Rồi cao giọng trách mắng
Với thái độ bất bình.

“Tôi ba mươi năm chẵn
Đi lễ nhà thờ này.
Ba mươi nghìn bài giảng
Tôi đã nghe hàng ngày.

Vậy mà tôi, thú thật,
Chẳng nhớ nổi bài nào.
Mà cũng chẳng nhờ thế,
Tôi tốt hơn, vì sao?”

Một người khác đứng cạnh,
Nghe thế, liền trả lời:
“Còn tôi thì lấy vợ
Đã ba mươi năm trời.

Trong quãng thời gian ấy
Bà vợ nấu cho tôi
Hơn ba mươi nghìn bữa
Sáng, trưa, chiều, và rồi

Quả thật tôi không nhớ
Tôi ăn gì hàng ngày,
Nhưng tôi biết nhờ vậy
Mới sống đến ngày nay.

Tôi cũng từng nghe giảng
Ba mươi năm như ông,
Và cũng không nhớ nổi
Thậm chí một vài dòng.

Nhưng tôi biết chắc chắn,
Nhờ những bài giảng này
Niềm tin tôi không chết,
Mà sống đến ngày nay.”


IBN SINA VÀ ANH CHÀNG TÂM THẦN

Câu chuyện này có thật,
Vào thời Ibn Sina,
Một người rất thông thái,
Nổi tiếng khắp gần xa.

Có anh chàng trẻ tuổi,
Thông minh, không ngu đần,
Con nhà giàu, chỉ tiếc
Lại mắc bệnh tâm thần.

Anh chàng này to béo,
Luôn miệng kêu suốt ngày:
“Tôi là con bò đực.
Đưa tôi đi giết ngay!”

Nhiều thầy thuốc tài giỏi
Được mời đến, kê đơn.
Anh chàng không chịu uống,
Bệnh càng trầm trọng hơn.

Cuối cùng gia đình ấy
Phải nhờ Ibn Sina.
Ông nhận lời, rồi dặn
Phải nói với anh ta,

Rằng ngày mai đồ tể
Sẽ đến nhà giết bò.
Anh kia nghe, mừng lắm,
Cố tình ăn thật no.

Rồi Ibn Sina đến.
Ông quát: “Bò đực đâu?”
“Đây, tôi là bò đực.
Hãy cho giết tôi mau!”

Ông dùng dây trót chặt
Người bệnh giữa sàn nhà.
Dí một con dao lớn
Vào sát cổ anh ta.

“Ôi, giết đi, thích quá.
Vì tôi là con bò.
Tôi muốn chóng được giết
Lúc đang béo và to.”

Anh ta vươn dài cổ,
Chờ lưỡi dao, mỉm cười.
Ibn Sina lặng lẽ
Đưa tay sờ khắp người.

Rồi bất chợt, ông nói:
“Con bò này quá gầy.
Hãy ăn nhiều cho béo
Thêm ba tháng mười ngày.

Rồi ta sẽ quay lại
Và giết thịt ngươi sau.
Nhớ ăn cho thật béo.
Chắc không phải chờ lâu.”

Tuy ít nhiều thất vọng,
Nhưng anh chàng tâm thần,
Vì mong chóng được giết,
Nên từ đó ham ăn.

Anh chàng đã ăn hết
Những thức ăn ngon lành
Được trộn lẫn cùng thuốc,
Nên khỏi bệnh rất nhanh.

Rồi “đồ tể” lại đến.
Con bệnh và người nhà
Mở tiệc lớn chiêu đãi,
Cảm ơn Ibn Sina.

PS.
Có thể bạn không biết
Ông là người đầu tiên
Nghĩ ra chiếc mũ vải
Mà ngày nay sinh viên

Khi nhận bằng tốt nghiệp
Vẫn thường đội trên đầu.
Chiếc mũ vuông truyền thống
Vốn đã có từ lâu.


HAI Ổ BÁNH CỦA ĐỨC A-LA

Có hai anh chàng nọ,
Một lần cùng đi chơi.
Đường thì xa, trời nắng,
Mãi vẫn không tới nơi.

Không may chuyến đi ấy
Nhiều sự cố ngẫu nhiên,
Nên kéo dài, hơn thế,
Trong túi lại hết tiền.

Đến một trạm nghỉ nọ,
Đang đói ăn, một người,
Là tín đồ Hồi Giáo,
Vào nhà thờ, và rồi

Một lát sau quay lại
Với ổ bánh trên tay.
“Đức A-la, - anh nói. -
Cho ta ổ bánh này.”

Hai người ăn, đi tiếp.
Tạ ơn Đức A-la.
Ngoài trời vẫn nắng nóng,
Đường đi vẫn còn xa.

Đến một trạm nghỉ khác
Thì đến lượt người kia
Xung phong đi tìm bánh,
Một lúc sau quay về,

Tay ôm hai ổ bánh
Còn nóng và rất to.
Hỏi thì anh ta đáp:
“Tớ vừa vào nhà thờ.

Tớ làm lễ nhập Đạo,
Cầu A-la, và Ngài
Đã hào phóng cho bánh.
Không phải một, mà hai.”

*
Toàn năng và vĩ đại,
Với lòng lành, A-la
Luôn dang tay giúp đỡ,
Chào đón mỗi chúng ta.


VUA MA-MUN VÀ CÔ GÁI ĐẸP

Nghe người ta kể lại,
Vua Mamun thông minh,
Khi thành đại giáo chủ,
Đã kén chọn cho mình

Một cô gái xinh đẹp,
Phải nói đẹp tuyệt trần.
Thế mà cô gái ấy
Đêm, không cho vua gần.

Vua ngạc nhiên, tức giận
Rút kiếm định chém đầu.
Rồi tò mò, vua hỏi
Vì sao và do đâu?

“Vì miệng đức vua thối.
Hơi thở thối vô cùng.
Nên tôi thà chịu chết
Hơn phải chịu nằm chung!”

Không quen nghe người khác
Nói xấu hay chê mình,
Vì là vua vĩ đại,
Một ông vua anh minh,

Nên ngài gọi thầy thuốc
Đến chữa bệnh cho ngài.
Và rồi bệnh ngài khỏi,
Miệng thơm như hương nhài.

Sau đấy, vua thường nói:
“Bạn tốt và chân tình
Là người cho ta biết
Các khuyết điểm của mình.”


NHÀ VUA VÀ ĐÔI GIÀY

Xưa, có ông vua nọ
Làm một chuyến vi hành
Tới các vùng hẻo lánh
Trong vương quốc của mình.

Thay cho việc cưỡi ngựa,
Ngồi kiệu hay đi xe,
Vua quyết định đi bộ,
Hệt như bác nhà quê.

Đường khó đi, đầy sỏi
Và đá nhọn như chông,
Nên một lúc vua mệt,
Và rất không hài lòng.

Ngài về cung, ra lệnh
Lấy da thuộc thật mềm
Trải kín đường trong nước
Để vua đi cho êm.

Các quan nghe, kinh sợ,
Gãi tai rồi gãi đầu:
Tức phải giết hàng triệu
Con bò và con trâu!

Lệnh vua không thể trái.
Làm thế nào bây giờ?
Trong khi đang bối rối,
Có anh hầu bất ngờ

Đưa ra một ý tưởng
Rất thông minh thế này:
Thay cho việc giết mổ
Triệu gia súc kéo cày,

Để lấy da phủ kín
Tất cả mọi con đường,
Vua có thể đơn giản
Cắt miếng da bình thường

Khâu thành đôi giày nhỏ
Đế da được thuộc mềm.
Đường có xấu đến mấy,
Vua đi vẫn thấy êm.

Vua nghe, rất ưng ý,
Liền ra lệnh làm ngay.
Hàng triệu con gia súc
Thoát chết nhờ anh này.

*
Qua đây ta học được
Một bài học thông minh:
Muốn mọi thứ tốt đẹp,
Phải thay đổi từ mình!


SƯ TỬ, KHỈ, DÊ VÀ LỢN LÒI

Một con sư tử nọ
Đói, đi săn, và rồi
Bắt được ba con thú -
Khỉ, dê và lợn lòi.

Nó hỏi dê: “Hãy nói,
Hơi thở ta thế nào!”
“Dạ bẩm ngài, thơm lắm.
Phải nói thơm ngạt ngào!”

“Ta chuyên ăn thịt sống,
Nên miệng thối xưa nay.
Mày là kẻ nịnh hót.
Ta sẽ ăn thịt mày!”

Ăn xong, nó bèn hỏi:
“Mày, lợn lòi, thì sao.
Hãy nói cho ta biết,
Hơi thở ta thế nào?”

Lợn lòi, rút kinh nghiệm,
Nhanh nhẩu đáp: “Thực tình
Hơi thở ngài thối lắm.
Ngửi mà thấy phát kinh!”

Sư tử quát: “Mày láo,
Dám cả gan chê ta.
Vậy thì mày phải chết.
Cấm không được xin tha!”

Cuối cùng, nó hỏi khỉ
Cũng với câu hỏi này.
Khỉ gãi tai, rồi đáp:
“Rất tiếc, mấy hôm nay

Cái mũi con bị tịt,
Con chẳng hiểu vì sao.
Do vậy, không thể biết
Hơi thở ngài thế nào”.

Sư tử nghe, thích lắm:
“Mày nói hợp ý ta.
Dù biết mày khôn lõi,
Nhưng mà thôi, ta tha!”

*
Câu chuyện này từ tập
“Truyện Đạo Hồi xưa nay”.
Ngẫm kỹ, ta sẽ thấy
Có bài học như sau:

Sống ở đời, dễ chết
Là những anh thật thà.
Láu cá quá cũng chết.
Chỉ sống loại thứ ba

Là loại người thực tế,
Chẳng quá ngu, quá khôn,
Biết tùy cơ ứng biến
Đ tiếp tục sinh tồn.


Lời bạt -
TẢN MẠN VỀ ĐẠO HỒI

Đức A-la từng cấm
Việc mình tự giết mình.
Đó là việc man rợ,
Đáng trách và đáng khinh.

Vậy, đánh bom tự sát
Là phản Đạo, và rồi
Chính những kẻ khủng bố
Làm hoen ố Đạo Hồi.

*
Ở các nước Hồi Giáo,
Nhìn phụ nữ, bề ngoài,
Ta tưởng họ yếm thế.
Thực ra điều đó sai.

Họ rất được tôn trọng,
Đến mức như thánh thần.
Được phép chạm người họ
Chỉ chồng và người thân.

Họ luôn được bảo vệ
Bởi truyền thống, chính quyền.
Trong hợp đồng hôn thú,
Chồng phải cho vợ tiền.

Số tiền ấy, không nhỏ,
Ràng buộc người đàn ông
Phải ăn ở tử tế,
Với đúng nghĩa là chồng.

Họ không có nghĩa vụ
Kiếm tiền cho gia đình.
Chồng không dám thô lỗ,
Lại càng không ngoại tình.

Việc trùm khăn, che mạng
Là thói quen lâu đời.
Vừa vệ sinh, vừa tránh
Những cái nhìn lả lơi.

Mỗi nước một tập tục,
Đáng kính trọng như nhau.
Chưa nói chuyện che mạng
Khó phân biệt nghèo giàu.

Tiên tri Mu-ha-mat
Có nhiều con, nhưng Ngài
Từng nhiều lần tuyên bố
Thích con gái hơn trai.

*
Thích nhất - người Hồi Giáo
Không uống rượu bao giờ.
Đàn ông không uống rượu
Thì phụ nữ được nhờ.

Rượu - kẻ thù số một
Của hạnh phúc gia đình.
Lại vừa đỡ tốn kém,
Cho người và cho mình.

Là tế bào cơ bản
Của xã hội chúng ta.
Gia đình mà bền vững,
Xã hội sẽ yên hòa.

*
Kể cũng hơi bất tiện
Ngày cầu kinh năm lần.
Cầu kinh để sống tốt
Lại là việc rất cần.

Cầu kinh là trực tiếp
Đối mặt với A-la.
Sau đó, ai còn dám
Làm những việc xấu xa?

*
Tôn giáo và cuồng tín -
Hai khái niệm khác nhau.
Mà khác nhau ghê gớm,
Như nước lã với dầu.

Cuồng tín là khủng bố
Tôn giáo là yêu thương.
Người Hồi Giáo mến khác,
Nhã nhặn trong đời thường.

*
Theo luật, người Hồi Giáo
Được lấy những bốn bà.
Nhưng tuyệt đại đa số
Chỉ một vợ trong nhà.

Thế mà họ hạnh phúc,
Cũng chẳng cần ngoại tình.
Vì sao? Vì tôn giáo
Giúp họ kiềm chế mình.

*
Tôn giáo là nền tảng
Của đạo đức ở đời,
Chứ không phải thuốc phiện
Nhằm ru ngủ con người.

Tôn giáo giúp hướng thiện,
Kìm cái ác trong ta.
Xã hội thiếu tôn giáo,
Xã hội không hài hòa.

HẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét