Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

DANH NHÂN VIỆT 2

 

HAI BÀ TRƯNG

(Mất năm 43)

 

Bắt đầu giai đoạn mới

Trong lịch sử nước nhà -

Một nghìn năm lệ thuộc

Vào phong kiến Trung Hoa.

 

Vào năm Một Bảy Chín

Trước Công Nguyên, Triệu Đà

Sáp nhập vào Nam Việt

Nước Âu Lạc của ta.

 

Nam Việt, như ta biết

Là Lưỡng Quảng ngày nay,

Vùng đất thuộc Trung Quốc,

Tức Quảng Đông, Quảng Tây.

 

Triệu Đà chia Âu Lạc

Thành hai quận, đông dân

Và rộng lớn lúc ấy,

Là Giao Chỉ, Cửu Chân.

 

Giao Chỉ ở Miền Bắc,

Còn Cửu Chân bây giờ

Thuộc vùng Thanh Nghệ Tĩnh,

Phong cảnh đẹp, nên thơ.

 

Vào năm Một Một Một,

Nhà Hán chiếm nước ta.

Lập thêm một quận nữa,

Nhật Nam, quận thứ ba.

 

Quận này đất cũng rộng,

Nhưng người thưa, hanh khô,

Từ Quảng Bình cát trắng

Đến Quảng Nam bây giờ.

 

Nhà Hán nhập ba quận

Vào vùng đất người Tàu,

Thành một Châu rộng lớn,

Đặt tên là Giao Châu.

 

Thủ phủ của Châu ấy

Đóng ở huyện Thuận Thành.

Luy Lâu là tên cũ,

Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

 

Thái Thú đứng đầu quận.

Thứ Sử đứng đầu Châu.

Tất cả đều người Hán.

Còn Lạc Tướng, Lạc Hầu

 

Vẫn giữ nguyên người Việt.

Cai trị vẫn như xưa.

Dân chịu nhiều sưu thuế,

Thân phận như trâu, lừa.

 

Năm Ba Tư, Tô Định

Được nhà Hán cử sang

Làm Thái Thú Giao Chỉ.

Tên này loại làng nhàng,

 

Nhưng nham hiểm, độc ác,

Chuyên vơ vét cho mình,

Làm nhiều điều ngang ngược,

Gây khổ cho dân tình.

 

*

Bấy giờ ở vùng đất

Nay thuộc huyện Mê Linh,

Có hai chị em gái

Vừa đẹp vừa thông minh.

 

Con một vị Lạc Tướng,

Trưng Trắc là cô đầu.

Cô em là Trưng Nhị,

Ghét Tô Định từ lâu.

 

Quan Thái Thú Tô Định,

Gian xảo và đê hèn

Lập mưu giết Thi Sách,

Con quan huyện Châu Diên.

 

Ông là chồng Trưng Trắc,

Trước đó từng bất bình

Với cách quan nhà Hán

Cai trị dân nước mình.

 

Vào đầu năm Canh Tý,

Tức là năm bốn mươi,

Hai Bà Trưng khởi nghĩa   

Thu hút rất nhiều người.

 

Trước hết đền nợ nước,

Sau để trả thù nhà.

Nghĩa quân thắng dòn dã,

Nức lòng dân gần xa.

 

Theo truyền thuyết kể lại,

Hay tin, Nguyễn Tam Trinh

Từ Mai Động kéo đến

Cùng hai nghìn tráng binh.

 

Hơn ba nghìn lính nữ

Theo chủ tướng, Ông Cai,

Gia nhập quân khởi nghĩa,

Từ vùng đất Thanh Oai.

 

Quân Hai Bà rất mạnh.

Sáu lăm thành đầu hàng.

Tô Định trốn về nước,

Nhục nhã và vội vàng.

 

Hai Bà lập nước mới,

Kinh đô ở Mê Linh,

Đuổi Thái Thú phương Bắc,

Cai trị theo cách mình.

 

Đứng đầu đất nước ấy

Là hai vị nữ vương.

Xưa nay trong lịch sử,

Một sự kiện phi thường.

 

Năm Bốn Hai, nhà Hán

Sai Mã Viện Phục Ba,

Lưu Long làm phó tướng,

Sang chiếm lại nước ta.

 

Cùng rất nhiều xe ngựa

Và hai vạn tinh binh,

Chúng tấn công Hợp Phố,

Và cướp bóc dân tình.

 

Mã Viện đi đường thủy,

Lưu Long đi đường rừng,

Gặp phải sự chống cự

Của quân Hai Bà Trưng.

 

Quân Mã Viện thế mạnh,

Áp tới tận La Thành.

Nghĩa quân không chống nổi,

Co cụm bảo vệ mình.

 

Sau một năm cầm cự,

Dũng cảm và kiên cường,

Quân Hai Bà đành rút,

Binh sĩ chết đầy đường.

 

Cuối cùng đến Phúc Thọ,

Giặc dụ dỗ ra hàng,

Nhưng Hai Bà tuẫn tiết,

Nhảy xuống dòng Hát Giang.   

 

Ở đấy giờ đang có

Ngôi đền thờ Hai Bà.

Một tấm gương trung liệt,

Trả nợ nước, thù nhà.

 

Quân Mã Viện tuy thắng,

Nhưng thiệt hại nặng nề.

Mười phần chết sáu, bảy

Ở vùng đất Cấm Khê.

 

*

Lại nói tướng Mã Viện,

Khi việc bình định xong,

Hắn ngạo nghễ cho đúc

Chiếc cột lớn bằng đồng.

 

Trên cột đồng hắn khắc

Hai dòng chữ sơn son:

“Khi cột đồng này gãy,

Đất Giao Chỉ không còn.”

 

Thật láo và hợm hĩnh

Viên tướng người Tàu này.

Cột đồng giờ chẳng thấy,

Nước Việt vẫn còn đây.

 

Hơn thế, còn hùng mạnh,

Đã đánh đuổi nhiều lần

Khiến quân giặc phương Bắc.

Hoảng sợ, chẳng dám gần.

 

 

NỮ TƯỚNG LÊ CHÂN

(Mất năm 43 sau CN)

 

1

Tương truyền xưa, làng nọ,

Ở Đông Triều, Quảng Ninh,

Có một thầy thuốc giỏi

Lại có đức, có tình.

 

Ông chữa bệnh miễn phí.

Còn đến chữa tận nhà.

Được mọi người mến mộ,

Khắp cả gần lẫn xa.

 

Hiềm một nỗi, mong mãi

Mà hai vợ chồng ông

Không có con thừa tự

Để nối dõi tổ tông.

 

Một hôm, dẫu sức yếu,

Hai ông bà dắt nhau

Lên chùa thiêng Yên Tử

Để dâng lễ, thỉnh cầu.

 

Đêm về ông nằm mộng

Hai thiên sứ áo vàng

Đến tìm ông, và họ

Đưa lên gặp Ngọc Hoàng.

 

Đến nơi, ông cả sợ,

Liền sụp lạy, bên tai,

Từ rất cao đâu đó

Vang vọng tiếng của Ngài:

 

“Ngươi ăn ở phúc đức.

Quả không sai lời đồn.

Vậy thì ta ban thưởng

Cho ngươi được có con.

 

Vừa rồi một ngọc nữ

Phạm lỗi trên Cõi Trời.

Vậy ta sẽ cho xuống

Đầu thai thành con ngươi.

 

Bốn mươi năm dưới ấy,

Nó sẽ làm hiển vinh

Cho non sống, đất nước,

Tiên tổ và gia đình”.

 

Sáng hôm sau, tỉnh dậy,

Lòng vẫn đầy nghi ngờ,

Ông thầy thuốc không biết

Là chuyện thật hay mơ.

 

Một sáng nọ, bà vợ

Leo lên một ngọn đồi,

Thấy dấu chân rất lớn.

Bà ướm thử, và rồi

 

Trong người bỗng rạo rực.

Sau chín tháng mười ngày,

Bà sinh một bé gái,

Âu yếm bế trên tay.

 

Bà đặt tên cho bé

Cái tên đẹp - Lê Chân.

Lê là họ của bố.

Chân là chuyện ướm chân.

 

*

Đúng như Ngọc Hoàng nói,

Bà là người nhà Trời.

Vừa tinh thông võ nghệ,

Vừa xinh đẹp tuyệt vời.

 

Đẹp đến mức Tô Định,

Quan thái thú người Tàu

Gặp nàng liền gạ gẫm,

Nhưng nàng quyết lắc đầu.

 

Hắn tức giận, ra lệnh

Bắt, giết bố mẹ bà.

Đang đêm bà phải trốn,

Đến một miền đất xa.

 

Đó là cửa sông Cấm,

Đất An Dương hoang cằn,

Lúc ấy còn vắng vẻ.

Thưa người và ít dân.

 

Bà quai đê, lấn biển,

Lập trại rồi khai hoang.

Dạy nhân dân trồng trọt,

Quy tụ người, lập làng.

 

Nỗ lực ban đầu ấy

Đã biến vùng đất này

Thành vùng đất trù phú,

Là Hải Phòng ngày nay.

 

Ngoài chăm lo sản xuất,

Bà chiêu mộ nông dân.

Rồi ngày đêm luyện tập.

Quân số cứ tăng dần.

 

Năm Bốn Mươi, nghe tiếng

Hai Bà Trưng dấy binh

Bà tham gia khởi nghĩa

Cùng đội quân của mình.

 

Cưỡi trên con voi lớn,

Luôn đi đầu, tiên phong.

Bà chiến đấu dũng cảm.

Lập được nhiều chiến công.

 

Khi thái thú Tô Định

Phải chạy về Bắc Phương,

Mất sáu lăm thành lớn,

Hai Bà Trưng xưng vương,

 

Bà được giao đảm nhận

Chức quan Chưởng Quản Binh,

Tổ chức và luyện tập

Quân sĩ trong thời bình.

 

Năm Bốn Ba, Mã Viện

Mang đại binh kéo sang.

Hai Bà Trưng thất thủ,

Trẫm mình ở Hát Giang.

 

Để giữ lòng tuẫn tiết,

Đại nữ tướng Lê Chân

Cũng làm theo hai vị

Rồi từ biệt cõi trần.

 

 

BÀ TRIỆU

(225 -248)

 

Nhiều nơi dân khởi nghĩa

Chống lại ách ngoại bang,

Khiến vua quan Trung Quốc

Phải hoảng sợ, kinh hoàng.

 

Thái Thú quận Giao Chỉ

Là Tiết Tống tâu vua:

“Dân Giao Chỉ khó trị,

Đất lam chướng bốn mùa…”

 

Năm Hai Trăm Bốn Tám,

Giữa thế kỷ thứ Ba,

Một cuộc khởi nghĩa lớn

Có nhiều người tham gia.

 

*

Có truyền thuyết kể lại,

Xưa ở quận Cửu Chân

Có một con voi trắng

To đẹp như voi thần.

 

Nó xuống núi phá phách,

Dẫm đạp hết mùa màng.

Nhiều khi còn táo tợn

Xông cả vào xóm làng.

 

Con voi ấy to lớn,

Duy nhất chỉ một ngà.

Ai nhìn thấy cũng sợ,

Phải né tránh từ xa.

 

Thế mà một cô gái,

Xinh đẹp, để vai trần,

Quyết tay không bắt nó   

Giúp trừ hại cho dân.

 

Cô đi trước, khiêu khích,

Nhử nó ra đầm sình,

Rồi nhảy lên đầu nó

Đưa về nuôi nhà mình.    

 

Về sau, cô gái ấy

Chiêu quân chống giặc Ngô,

Luôn cưỡi nó ra trận,

Voi một ngà, khổng lồ.

 

Truyền thuyết còn kể lại

Rằng ngực cô rất dài,

“Dài tới hơn ba thước”,

Thường phải vắt lên vai.

 

Quân giặc nhìn, cả sợ,

Liền bỏ chạy thoát thân.

Cô gái ấy xinh đẹp,

Oai nghiêm như vị thần.

 

*

Cô gái trong huyền thoại,

Tên là Triệu Thị Trinh,

Một anh hùng dân tộc,

Dám vì dân quên mình.

 

Bà người huyện Yên Định,

Tỉnh Thanh Hóa bây giờ,

Không may bố mẹ chết

Khi đang còn trẻ thơ.

 

Anh bà, Triệu Quốc Đạt,

Nuôi em như mẹ hiền.

Ông là một hào trưởng,

Làm huyện lệnh Quan Yên.

 

Lớn lên, bà giỏi võ,

Có sức khỏe hơn người,

Lại nung nấu chí lớn

Muốn ra tay giúp đời.

 

Gặp người chị dâu ác,

Bà trốn nhà đi xa,

Lên rừng chiêu binh mã,

Hơn nghìn người theo bà.

 

Thấy giặc Ngô tàn ác,

Bà về bàn với anh

Cùng khởi binh chống lại,

Và được anh đồng tình.

 

Từ căn cứ Yên Định,

Nghĩa quân lấn đánh dần,

Chiếm quận lỵ Tư Phố,

Rồi cả vùng Cửu Chân.

 

Quốc Đạt lâm bệnh chết,

Bà cầm quân thay anh.

Ra trận mặc giáp bạc,

Cưỡi voi, cài trâm anh.

 

Trông bà thật lẫm liệt,

Xinh đẹp như nữ thần,

Nên người ta thường gọi

Là “Nhụy Kiều Tướng quân.”

 

*

Nghe tin có bạo loạn,

Vua Ngô rất lo âu,

Liền cử tướng Lục Dận

Làm thứ sử Giao Châu.

 

Cùng sáu nghìn binh mã,

Theo đường bộ tới đây,

Hắn quyết tâm đàn áp

Cuộc khởi nghĩa lần này.

 

Hắn dùng tiền mua chuộc

Nhiều hào trưởng địa phương,

Hứa phong cho Bà Triệu

Chức Lệ Hải Bà Vương.

 

Tất nhiên Bà từ chối,

Nhất quyết không đầu hàng.

Nghĩa binh được khích lệ,

Tinh thần càng vững vàng.

 

Nhiều trận đánh ác liệt

Ở căn cứ Bồ Điền.

Nhưng do lực quá yếu,

Thiếu lương thực và tiền,

 

Nên chỉ sau hai tháng

Cầm cự rất kiên cường,

Thành Bồ Điền thất thủ,

Rơi vào tay đối phương.

 

Bà Triệu đã tuẫn tiết

Trên núi Tùng đầy mây.

Ở vùng đất Triệu Lộc,

Huyện Hậu Lộc ngày nay.

 

Bà mới hăm ba tuổi,

Chết, để lại tấm lòng

Và chiến công hiển hách,

Sống mãi với non sông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét