BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Tựa
Một trang sử chói lọi.
Một áng văn tuyệt vời,
Bản Bình Ngô Đại Cáo.
Thế mà tiếc, nhiều người
Không biết, không thèm đọc
Để hiểu sử nước nhà
Và công lao giữ nước
Của các bậc ông cha.
Họ sợ đọc khó hiểu.
Giọng thơ văn một thời.
Sợ dài, hoặc đơn giản
Không muốn đọc vì lười.
Vậy thì tôi chuyển thể
Thành loại thơ ngũ ngôn.
Nôm na và dễ hiểu,
Vốn dành cho trẻ con.
Tạm thời cứ thế đã.
Rồi sau phải tự mình
Đọc đầy đủ bản gốc
Của Nguyễn Trãi tiên sinh.
Đọc nguyên bản mới thấy
Cái hào hùng, cái hay
Của nhà thơ vĩ đại
Năm trăm năm trước đây.
*
Nguyễn Trãi
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Từng nghe
Xưa nay việc nhân nghĩa
Là cốt ở yên dân.
Trước hết phải trừ bạo
Là việc người cầm quân.
Như ta đây, Đại Việt,
Văn hiến có từ lâu.
Núi sông chia đã rõ.
Phong tục có khác nhau.
Thế lúc yếu, lúc mạnh,
Nước lúc suy, lúc hưng.
Nhưng lúc nào cũng có
Các hào kiệt, anh hùng.
Cho nên
Lưu Cung đã thất bại.
Triệu Tiết phải tiêu vong.
Toa Đô bị bắt sống.
Ô Mã chết dưới sông.
Dân Đại Việt là thế.
Cả xưa và cả nay.
Sử sách đã ghi chép.
Chiến công hiển hách này.
Vừa rồi
Nhà Hồ chính sự rối.
Làm oán hận lòng dân.
Quân cuồng Minh gây hấn.
Quan bán nước cầu thân.
Bao dân đen bị nướng
Trên ngọn lửa hung tàn.
Nhiều con đỏ phải chết
Dưới địa ngục trần gian.
Lọc lừa muôn nghìn kế.
Mấy mươi năm thù hằn.
Nhân nghĩa nát, sưu thuế
Đề nặng lên đầu dân.
Người bị ép xuống biển
Còng lưng mò ngọc trai.
Kẻ bị bắt lên núi
Đãi vàng, lấy sừng nai.
Rồi phu phen, phục dịch,
Đắp đất rồi xây nhà.
Tan nát nghề canh cửi.
Bỏ bê việc nông gia.
Trúc Nam Sơn không đủ
Ghi hết tội ác này.
Nước Đông Hải không thể
Rửa sạch mùi trên tay.
Dân làm sao chịu nổi.
Trời làm sao dung tha.
Vậy phải cần ai đó
Đứng lên cứu nước nhà.
Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa.
Chốn hoang dã nương mình.
Thề một phen sống mái
Với cuồng giặc Nhà Minh.
Cam nằm gai nếm mật
Chốc đã mười mấy năm.
Quên ăn vì tức giận.
Mải đọc sách, quên nằm.
Chỉ băn khoăn một nỗi
Cờ khởi nghĩa dấy lên
Lúc quân thù đang mạnh
Mà vắng bóng người hiền.
Sao bay giờ tuấn kiệt
Như sao sớm trên trời.
Nhân tài cũng ít lắm,
Ít như lá thu rơi.
Họ ở đâu, không thấy.
Để một mình nghĩa quân
Lo kẻ thù ngang dọc.
Lương hết đã mấy tuần.
Thôi thì vì đại nghĩa,
Phải cố gắng vượt qua.
Trời đang giao mệnh lớn
Vì nợ nước, thù nhà.
Cũng may mà dân chúng
Đã đồng lòng đi theo.
Dựng cần trúc nghìn ngọn.
Phấp phới lá cờ nheo.
Ba quân, tướng và sĩ
Đều hăng hái một lòng.
Cùng hô vang quyết chiến.
Hòa rượu với nước sông.
Biết lấy yếu đánh mạnh.
Lấy ít để chống nhiều.
Ém quân chờ mai phục,
Tiến lên như sóng triều.
Trọn hay
Việc quân, đem đại nghĩa
Để chiến thắng hung tàn.
Muốn diệt được cường bạo
Phải lấy cái chí nhân.
Trận Bồ Đằng chớp giật.
Miền Trà Lân tro bay.
Thanh thế quân càng mạnh.
Sĩ khí càng hăng say.
Bọn Trần Trí, Sơn Thọ
Nghe hơi mà hết hồn.
Bọn Lý An, Phương Chính
Thua, mảnh giáp chẳng còn.
Quân Lam Sơn thừa thế
Chiếm được thành Tây Đô.
Rồi tuyển binh, đánh tới,
Thu lại đất Đông Đô.
Tuy Động, thây chất núi.
Ninh Kiều, máu thành sông.
Lý Lượng đành bỏ mạng.
Chịu nhục tướng Vương Thông.
Những tưởng thua đau thế
Thì rút hoặc quy hàng.
Nhưng không, chúng vẫn đánh,
Lũ cuồng giặc ngoại bang.
Bởi thế
Thằng nhãi con Tuyên Đức
Vẫn không thôi động binh.
Vẫn đem dầu chữa cháy
Là bọn tướng nhà Minh.
Năm Đinh Mùi, tháng Chín
Từ Khâu Ôn, Liễu Thăng
Kéo quân sang tiếp viện,
Rồi tràn xuống đồng bằng.
Tháng Mười, cũng năm ấy,
Mộc Thạch từ Vân Nam
Rầm rộ theo nhiều ngả,
Tiến vào đất nước Nam.
Quân ta đã lường trước,
Ém sẵn để chặn đường.
Lại sai tướng mai phục
Cướp nguồn tiếp quân lương.
Chi Lăng, ngày mười tám,
Tướng Liễu Thăng thua đau.
Trận Mã Yên sau đó
Hắn bị chém đứt đầu.
Ngày hăm lăm, đại bại,
Tướng Lương Minh tử vong.
Lý Khánh, ngày hăm tám,
Phải tự vẫn giữa đồng...
Thừa thắng, ta xông tới,
Luôn tả đột hữu xung.
Thế chẻ tre hừng hực,
Dồn giặc vào đường cùng.
Quân ta đánh một trận.
Kình ngạc đã sạch không.
Đánh hai trận, tan tác
Muông thú ở ngoài đồng.
Thôi Phụ phải lê gối
Dâng giấy xin được tha.
Hoàng Phúc phải tự trói
Để được quay về nhà.
Hai đạo quân cứu viện
Bị ta đánh tan hoang.
Người thì phải chết trận.
Kẻ cởi giáp xin hàng.
Ta không những không giết,
Còn úy lạo cho về.
Cấp đầy đủ lương thực,
Xe ngựa và thuyền bè.
Bọn Mã Kỳ, Phương Chính
Được năm trăm chiếc thuyền
Ra đến biển còn sợ
Và lòng dạ chưa yên.
Được mấy nghìn xe ngựa,
Bọn Vương Thông, Mã Anh
Về nhà còn kinh hãi,
Run như lá trên cành.
Vì tham sống, sợ chết,
Giặc thực lòng xin hòa.
Vì nghĩa, ta chấp nhận
Để chấn hưng nước nhà.
Vậy là nay xã tắc
Đã sạch bóng quân thù.
Giang sơn về một mối,
Quang cảnh hết âm u.
Âu cũng nhờ trời đất
Và tổ tiên anh linh
Phù hộ mà đất nước
Lần nữa được yên bình.
Nay vâng mệnh xuống chiếu
Để thông báo tin này.
Để xa gần bá cáo
Và ai nấy đều hay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét