THÁI THUẬN
(1441 - ?)
Ông là nhà thơ lớn
Vào thời kỳ Lê Sơ.
Quê thừa tuyên Kinh Bắc,
Tỉnh Bắc Ninh bây giờ.
Ngày trẻ ông đi lính,
Sung vào đội tượng binh,
Dạy voi và quản tượng.
Trải qua nhiều chiến chinh.
Về sau mới đi học.
Năm Một Bốn Bảy Năm
Ông thi đỗ tiến sĩ,
Làm quan Viện Hàn Lâm
Rồi ông được cất nhắc
Thành Tham Chính Hải Dương.
Lêm khiết và chính trực,
Được mọi người yêu thương.
Cũng trong thời gian ấy
Ông được Lê Thánh Tông
Xuống chỉ sai công cán
Nhiều tỉnh ở miền trong.
*
Như đã nói, Thái Thuận
Là nhà thơ có tài.
Sinh thời ông sáng tác
Nhiều lắm, hàng nghìn bài.
Tiếc, phần lớn thất lạc.
Sau khi chết, con trai
Và học trò sưu tập
Được hơn hai trăm bài.
Gộp lại thành một tập,
Lưu lại cho người đời.
Lần đầu được xuất bản
Vào năm Một Năm Mười.
Hơn một nửa tập ấy
Về sau Lê Quý Đôn
Đưa vào tập Thi Lục,
Truyền lại cho cháu con.
Người đương thời nhận xét
Thơ Thái Thuận Tiên Sinh
Không màu mè hoa mỹ,
Mà tinh tế, trữ tình.
Ngô Thì Nhậm thì nói:
“Thơ ông thật dễ thương.
Đúng khuôn vàng thước ngọc.
Phong cách thời Vãn Đường”.
Lê Thánh Tông nhận xét:
“Giản dị và mộng mơ,
Ông là ngôi sao sáng
Trên bầu trời văn thơ”.
Chắc có lẽ vì thế
Ngài đặc cách cho ông
Làm Tao Đàn Phó Súy.
Chỉ sau Lê Thánh Tông.
THÁI THUẬN TIÊN SINH
1
Huyện Kim Hoa ngày ấy
Có một nàng rất xinh,
Thơ văn hay, chữ tốt,
Vợ của Phù Tiên Sinh.
Nàng xuất thân danh giá,
Dẫu có lúc bần hàn,
Được học hành tử tế,
Tên là Ngô Chi Lan.
Lê Thánh Tông nghe tiếng,
Bèn cho mời vào triều
Giúp dạy các cung nữ,
Ban ân huệ rất nhiều.
Mỗi lần vua mở yến,
Nàng được phép đứng chầu.
Vua xướng thơ, lập tức
Nàng họa lại từng câu.
Không may, bốn mươi tuổi,
Nàng lâm bệnh qua đời,
Mộ táng bên bãi cạn,
Để tiếng tốt cho đời.
2
Cuối đời Lê Uy Mục,
Có một anh học trò
Tên Tử Biên, ăn học
Lâu ngày ở kinh đô.
Một hôm, nhớ bố mẹ,
Về Thái Nguyên thăm nhà,
Chàng bỗng gặp mưa lớn
Khi đến huyện Kim Hoa.
Giữa đồng không mông quạnh,
Bốn bề trời tối đen,
Bỗng xa xa le lói,
Mờ ảo một ánh đèn.
Chàng lại gần và thấy
Một ngôi nhà lợp tranh
Gọn gàng và ấm cúng,
Cây rậm rạp xung quanh.
Chàng muốn vào trú tạm,
Người gác cổng không cho.
Nhìn vào trong, chàng thấy
Hai người đang chuyện trò.
Đó là một mệnh phụ
Đài các, đẹp như tiên,
Và một ông đứng tuổi
Đang cầm sách ngồi bên.
Bất chợt, mệnh phụ nói:
“Trời mưa gió thế này,
Người ta xin vào trú,
Sao không cho vào ngay?”
Chàng Tử Biên lặng lẽ
Theo người hầu vào trong,
Ngồi nghỉ trên nền cứng
Ở chái nhà phía đông.
Khoảng canh hai, bất chợt
Chàng thấy một ông già
Đẹp lão và quắc thước
Cưỡi trên một con la.
Con la ấy màu tía,
Tấm vải phủ màu hồng.
Còn râu ông và tóc
Trắng và mịn như bông.
Hai người kia ra đón:
“Thật phiền Thái Tiên sinh!”
Khách đáp: “Muốn đàm đạo
Phải có tâm, có tình.”
Rồi cả chủ và khách
Cùng nói chuyện văn chương,
Hết bài này bài khác,
Vui, say mê khác thường.
Bất chợt, ông khách nói:
“Hình như đang có người
Lén nghe ta đàm đạo.”
Mệnh phụ chủ nhà cười:
“Bàn chuyện văn là tốt,
Nghe lén cũng chẳng sao.
Vậy mời anh bạn trẻ
Muốn nghe thì cứ vào!”
Chàng Tử Biên cả sợ,
Nhưng cũng ghé ngồi nghe,
Cúi lạy, xin các vị
Chỉ giáo cho đôi bề.
Thái Tiên sinh lẳng lặng
Lấy đâu đó trong người
Một tập giấy bọc vải,
Đưa cho chàng, mỉm cười:
“Về thơ văn, tốt nhất,
Con hãy đọc tập này.
Khỏi cần tìm đâu nữa,
Mọi cái đều ở đây.”
Rồi cả chủ và khách
Cúi chào nhau, chia tay.
Chàng Tử Biên chợt tỉnh
Khi trời mới rạng ngày.
Chàng giật mình, kinh hãi
Thấy đang nằm giữa đồng
Cạnh hai ngôi mộ cũ
Bên bờ một dòng sông.
Kinh ngạc hơn: cuộn giấy
Ông khách đưa cho chàng
Đang nằm kia, gần cạnh,
Rực rỡ dưới nắng vàng.
Chàng liền mở, chỉ thấy
Bốn chữ đẹp tuyệt vời
Là “Lã Đường Thi Tập”,
Nét mực vẫn còn tươi.
Về sau, chàng dò hỏi
Biết đôi mộ ngoài đồng
Là mộ của mệnh phụ
Ngô Chi Lan và chồng.
Còn Lã Đường thi sĩ
Là bút hiệu xưa nay
Của nhà thơ Thái Thuận,
Một cây bút bậc thầy.
Sinh Một Bốn Bốn Mốt,
Mất chưa rõ, bình sinh
Ông người xã Song Liễu,
Huyện Thuận Thành, Bắc Ninh.
Năm Hồng Đức thứ sáu,
Tức Một Bốn Bảy Lăm,
Ông thi đậu tiến sĩ
Rồi làm quan nhiều năm.
Thái Thuận là sao sáng
Trong Hội Thơ thời ông -
“Tao Đàn phó nguyên súy”,
Chỉ sau Lê Thánh Tông.
Thơ ông sâu và nhã,
Nghe nói hàng nghìn bài,
Không may thất lạc hết,
Mai một một danh tài.
Được thi nhân gợi ý,
Tử Biên về làng ông
Tìm “Lã Đường Thi Tập”,
Thoạt nhìn mà đau lòng.
Mối mọt ăn gần hết
Rời rạc mấy trăm trang.
Chỗ đọc được, chỗ mất,
Vất vả mãi, rồi chàng
Chép lại được trọn vẹn
Cũng vài trăm bài thơ.
Đời sau dùng bản ấy
Truyền mãi đến bây giờ.
3
Câu chuyện này tôi kể
Lấy trong cuốn Truyền Kỳ
Của tác giả Nguyễn Dữ,
Có thật mà ly kỳ.
Nhân đây cũng xin nói,
Thái Thuận trong truyện này
Là cụ tổ đáng kính
Của họ Thái ngày nay.
Tôi là một hậu duệ
Cũng đến mấy chục đời.
Gia phả họ ghi rõ
Từng tên làng, tên người.
Hiện tôi may có được
Cuốn Lã Đường của Ngài,
Và lạm phép tạm dịch
Khoảng hơn một trăm bài.
Thích thì mời các vị
Vào đọc thơ Cụ tôi
Trong “Cổ Thi Tác Dịch”,
In cũng mấy năm rồi.
Cái hay và cái đẹp
Nhường cụ Thái Tiên Sinh.
Còn cái dở, cái chán
Tôi xin nhận về mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét