MẠC
GIA THƯ KIẾM
Một
sáng nọ tôi đang ngồi uống cà phê ngoài vườn thì bà giúp việc mang tới một bức
thư, nói người ta đưa từ chiều hôm qua nhưng quên mất. Bà vẫn quên như vậy, có
khi mấy ngày liền. Vì thư nhiều và thường chẳng có gì đặc biệt nên tôi không
giận.
Bức
thư viết:
“Thưa
ông,
Mọi
người sẽ cho rằng câu chuyện Tiểu Ái ông in ở tạp chí Nhà Văn tháng trước là chuyện bịa như hầu hết những
truyện ngắn khác xưa nay. Nhưng tôi thì tôi tin từng chữ ông viết. Đừng hỏi vì
sao. Cũng đừng nghĩ tôi điên. Tôi từng là nhà khảo cổ học, hàng chục năm chuyên
nghiên cứu điển tích Trung Quốc, thậm chí có thể cung cấp thêm một số chi tiết
liên quan đến Tiểu ái. Nếu muốn, ông còn được tận mắt nhìn thấy ở nhà tôi một
trong hai chiếc kiếm của Can Tương mà tôi nghĩ một người như ông không thể chưa
nghe nói đến. Hân hạnh được đón ông”.
Cuối
thư có chữ ký của người viết là Cao Kiêm Ngạc, và địa chỉ.
“Chuyện
gì vậy?” vợ tôi lúc ấy ngồi bên, hỏi khi thấy tôi đặt bức thư xuống bàn, mặt
bần thần.
“Một
ông điên nào đó nhận xét truyện Tiểu Ái. Bây giờ nhiều người điên thật. Nghe
nói riêng ở Hà Nội đã hơn mười nghìn.
Vợ
tôi cầm bức thư đọc qua rồi đứng dậy sửa soạn đi làm.
“Ừ,
điên thật. Có lẽ ông cũng là một trong con số mười nghìn kia.”
*
Có
nhiều truyền thuyết khác nhau về hai thanh kiếm nổi tiếng Can Tương, Mạc Gia,
hay còn gọi Hùng kiếm (kiếm ông) và Thư kiếm (kiếm bà).
Theo
Đông Chu Liệt Quốc thì Can Tương là thợ kim khí giỏi của nước Ngô. Một lần vua
Ngô lúc ấy là Hạp Lư sai ông đúc một thanh kiếm thật tốt, thật quí. Ông cho mở
lò ngay trước cửa Tượng Môn rồi chọn ngày tốt, giờ tốt, sai ba trăm đồng nam,
đồng nữ ngày đêm túc trực đốt than bên lò, nhưng đốt ba tháng liền mà vàng và
sắt vẫn không chảy. Ông buồn lắm, vì biết để đúc kiếm tốt, ngoài kim khí cần có
thêm “nhân khí”. tức là thần linh muốn được tế
bằng người sống, mà phải người cao quí, thân thích. Ông nghĩ ngay tới
Mạc Gia, vợ ông. Trước kia người thầy của ông cũng phải bắt vợ mình hy sinh như
vậy. Theo đạo lý tòng phu, trung quân, cuối cùng Mạc Gia chấp nhận. Bà tắm rửa
sạch sẽ, mặc quần áo mới rồi nhảy vào lò lửa đang cháy rừng rực. Quả một lúc
sau sắt và vàng đều chảy, Can Tương đem đúc được hai thanh kiếm tốt. Thanh đúc
trước đặt tên là Can Tương, có màu sáng trắng. Thanh sau nhỏ hơn chút ít, màu
xanh nhạt buồn buồn, gọi là Mạc Gia. Cả hai đều rất sắc, đến mức con ruồi vô ý
đậu lên lưỡi sẽ bị cắt làm đôi. Ông đem thanh đúc trước dâng lên vua Ngô, được
vua tặng một trăm nén vàng. Sau này có người mách còn thanh nữa, vua cho quân
đến lấy. Can Tương không chịu, rút kiếm Mạc Gia định chống trả. Thanh kiếm bỗng
hóa thành con rồng xanh. Ông cưỡi lên lưng rồng rồi bay mất, từ đấy không tin
tức gì nữa. Đến đời nhà Tấn, tức khoảng sáu trăm năm sau, huyện lệnh Phong
Thành là Lôi Hoán ngẫu nhiên đào được cái rương bằng đá dài sáu thước, rộng ba
thước, mở ra thấy hai thanh kiếm cổ, lấy đất ở núi Tây Sơn mà đánh thì một
thanh sáng chói, thanh kia màu lam nhạt. Trên kiếm, chỗ sát tay cầm có ghi hai
chữ Can Tương và Mạc Gia. Ông đem thanh Hùng kiếm tặng thừa tướng Trương Hoa.
Một hôm hai người mang kiếm báu đi chơi, đến bến Diên Bình Tây thì bỗng nhiên
cả hai thanh kiếm nhảy xuống sông, biến thành hai con rồng ngũ sắc. Từ đấy
không ai biết gì thêm về hai thanh Can Tương và Mạc Gia.
Sách
Liệt Dị Truyện, tương truyền của Tào Phi, thì chép như sau: “Can Tương rèn kiếm
cho vua Sở ba năm mới xong. Ông dâng Thư kiếm cho vua, còn Hùng kiếm thì dấu
đi, bảo vợ: ‘Ta dấu kiếm ở phía bắc Nam Sơn, phía đông Bắc Sơn, cạnh cây tùng
mọc trên đá. Nếu vua biết mà giết ta, và nếu mình sinh con trai thì hãy bảo nó
tới đấy lấy kiếm mà trả thù’. Quả nhiên vua biết chuyện, giết Can Tương. Mạc
Gia đẻ con trai, đặt tên là Xích Tỵ. Lớn lên, Tỵ đào bới khắp nơi, chặt hết cả
tùng bách ở Nam Sơn và Bắc Sơn vẫn không thấy kiếm đâu, sau tình cờ đào dưới
cột nhà mình lại thấy. Vua Sở chiêm bao có người muốn hại mình, bèn sai quân
đến giết Xích Tỵ. Tỵ trốn vào núi Chu Hưng, gặp được người đồng ý giúp chàng
báo thù cho cha. Theo kế, Tỵ dùng Mạc Gia thư kiếm tự cắt đầu mình, đưa cho
người ấy mang vào cung nộp vua Sở. Vua sai ném vào vạc dầu, nhưng nấu ba ngày
đêm đầu Tỵ vẫn không chìm. Thấy lạ vua ghé lại xem, liền bị người kia dùng kiếm
chém đầu rơi xuống vạc, rồi ông ta cũng tự cắt đầu mình ném vào đó. Một lúc sau
cả ba đầu đều chìm, da thịt tróc hết, không phân biệt được của ai là cái nào.
Người ta đành đem cả ba chôn chung một mộ, gọi là mộ ba vua. Văn hào Lỗ Tấn về
sau dựa trên tích này viết truyện ngắn “Luyện kiếm” nổi tiếng của ông.
Cuốn
“Sưu Thần Ký” của Can Bảo đời Tấn, cuốn “Sở Vương Trù Kiếm Ký” của Triệu Hoa
đời Hậu Hán và chắc còn nhiều cuốn khác mà tôi không biết cũng nhắc đến hai
thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia. Tất cả chỉ là những truyền thuyết, người ta
đọc như đọc những câu chuyện cổ tích ly kỳ. Riêng tôi chỉ thấy hay và xúc động
những chi tiết liên quan đến Mạc Gia, người đàn bà - nạn nhân muôn thuở của đàn
ông và những giáo lý độc ác họ nghĩ ra.
Còn
cái ông Cao Kiêm Ngạc kỳ cục này thì liên quan gì? Làm sao một trong hai thanh
kiếm kia rơi vào tay ông ta, nếu quả trên đời có những thanh kiếm như thế? Ông
ta là kẻ điên khùng, hẳn vậy. Nhưng sao dám hứa cho tôi xem? Hay có âm mưu mờ
ám gì chăng? Tôi cứ băn khuăn mãi điều ấy. Cuối cùng, do bị ám ảnh không sao
thoát ra nổi, tính tò mò khiến tôi quyết định đến gặp ông ta theo địa chỉ đã
ghi. Tôi rủ vợ đi cùng nhưng bà ấy không chịu.
*
Hóa
ra ông Ngạc ở trong một ngôi nhà tử tế, khu phố tử tế. Bản thân ông hình như
cũng là người tử tế nốt. Chí ít không điên hoặc dở hơi như tôi vẫn ngại. Đó là
một ông già gầy gò trong bộ vét rộng màu xám kiểu cổ, đã cũ nhưng còn tươm tất.
Thoạt nhìn trông ông từa tựa một con chim. Con cú xám. Mái tóc ông bạc gần hết,
chiếc mũi nhọn, khuôn mặt dài và quắt. Lúc tôi bước vào, ông đang ngồi trên
chiếc ghế không lưng tựa cạnh bàn và cúi xuống làm gì đó, đúng cái thế một con
cú co ro trên cây, nên tôi mới nảy ra sự so sánh ấy, chứ bản thân con người ông
không toát lên sự gian trá hay độc ác nào. Một người tử tế như đã nói.
Ông
ngước đôi mắt chim nhìn tôi, đầu hơi ngoẹo sang một bên.
“Tôi
biết thế nào ông cũng đến”, ông nói, có vẻ biết rõ tôi là ai, và không mảy may
ngạc nhiên. “Mà đến là đúng. Ông sẽ không hối tiếc đâu”.
“Vì
tò mò thôi, - tôi thành thật đáp. - Chứ chẳng vì tin những gì ông nói”.
“Không
sao. Rồi ông sẽ tin”.
Nói
đoạn, ông nhẹ nhàng bước vào phòng trong. Cả cách đi của ông cũng giống loài
chim. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Không gì đặc biệt, ngoài việc trong phòng có rất
nhiều đồ cổ để rải rác trong tủ, các góc và trên tường. Cả căn phòng cũng thuộc
loại phòng xưa, sạch và ngăn nắp theo cách riêng của mình. Điều này làm tôi
đoán ông sống độc thân.
Lát
sau chủ nhà quay ra với một thanh gỗ dẹt hình chữ nhật đen xạm vì thời gian, nhìn
kỹ thấy giống chiếc vỏ kiếm.
“Nó
đây, Thanh Mạc Gia thư kiếm tôi nói đây. Đúng chiếc Can Tương đã đúc. Có phần
máu thịt của vợ ông ta trong đấy.”
Ông
Ngạc lại chăm chú nhìn tôi, đầu vẫn ngoẹo như trước.
“Tôi
biết ông không tin. Nếu có tin thì đang tự hỏi bằng cách nào nó lọt vào tay
tôi. Đúng không?”
Tôi
gật đầu.
“Trước
hết ta thống nhất với nhau một điều. Như tôi tin và không căn vặn gì về câu
chuyện Tiểu Ái của ông, xin ông cứ tin những gì nghe, thấy hôm nay và không hỏi
những câu ngốc nghếch. Đời có nhiều sự lạ, tiếc bây giờ người ta quá thiển cận
không nhận ra. Tôi là hậu duệ của cụ Cao Biền Trung Hoa ngày xưa. Chắc ông biết
cụ. Cụ người Bột Hải, một nhà thơ lớn đời Đường. Hình như ông có dịch một số
bài tứ tuyệt của cụ? - Tôi lại gật đầu, thầm ngạc nhiên ông già này cũng đọc
tập Cổ Thi Tác Dịch tôi in mấy năm trước. - Vậy thì như ông biết, cụ được phong
Chinh Nam Tướng Quân sang trấn trị Giao Châu từ năm 864 tới năm 875. Cụ có công
khai khẩn nhiều vùng đất, góp phần làm nên nước Việt Nam ta ngày nay. Tất cả
người Việt mang họ Cao đều con cháu cụ. Cụ giỏi phong thủy và thường cưỡi diều
bay đi khắp nơi để yểm địa mạch. Các giai thoại về cụ chắc ông còn biết nhiều
hơn tôi. Tiếc rằng sau khi được gọi về nước làm Tiết độ sứ Hồ Nam, cụ bị bọn
gian thần gièm pha mà buộc phải tự tử. Tự tử chứ không bị giết như sử sách
chép. Cụ đủ khôn ngoan để biết trước sự việc và lo kế trù liệu. Một tháng trước
khi chết, cụ sai người con út là Cao Kiệm mang báu vật duy nhất của gia tộc là
thanh kiếm này sang Giao Châu cất giấu. Rất tiếc tôi không biết cụ có nó từ bao
giờ và cách nào. Chỉ biết Cao Kiệm định cư hẳn ở Giao Châu, chính xác là ở tổng
An Lão, Bắc Ninh ngày nay và lập nên dòng họ Cao đông đúc của chúng tôi ở đó.
Còn thanh bảo kiếm thì được truyền hết đời này sang đời khác cho đến tôi”.
Ông
Ngạc đứng dậy, rút thanh kiếm khỏi vỏ. Nó mỏng và khá dài. Không phải màu xanh
nhạt mà hơi trắng xỉn, đôi chỗ đen như vết gỉ. Trông nó khá bình thường, là
điều ít nhiều làm tôi thất vọng.
“Ông
có thấy hai chữ Mạc Gia đây không?”
Tôi
cúi xuống nhìn nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy nét mờ vòng vèo chỗ sát đuôi kiếm.
Tuy vậy tôi vẫn có cái cảm giác hồi hộp thật lạ khi chạm ngón tay vào thanh
kiếm mát lạnh như chạm vào quá khứ xa xôi cùng những truyền thuyết ly kỳ về nó,
dù thực ra tôi chưa tin lắm những gì đang được chứng kiến.
“Đừng
chạm vào lưỡi. Sắc lắm đấy!”
Rồi
như để chứng minh cho độ sắc của thanh kiếm, ông vung tay chém cây nến còn mới
nguyên dài bằng gang tay trên chiếc đôn gỗ lim cạnh đấy.
“Ông
xem này, - ông Ngạc nói, chìa cây nến cho tôi. - Tôi mới chém ngang qua nó,
nhưng lưỡi kiếm sắc đến mức dẫu bị cắt làm đôi, cây nến vẫn còn nguyên, đơn
giản vì không có thời gian để đứt. Chỉ để lại một nhát cắt rất mảnh, nếu mắt
kém chắc ông không thấy”.
Tôi
nhìn thấy vết cắt ấy, thấy cả lưỡi kiếm chém đúng giữa thân nến, nhưng không
thể tin cách ông giải thích.
Biết
tôi đang băn khuăn, ông Ngạc đưa mắt nhìn quanh như muốn thử lần nữa. Bỗng
nhiên tôi thấy sợ. Một nỗi sợ mơ hồ như đang bị lôi vào một âm mưu mờ ám, dẫu
con người đang cầm thanh kiếm sắt ngọt trước mặt có vẻ tử tế và chắc không muốn
hại tôi.
Chợt
một con mèo tam thể rất to nhưng gầy từ phòng trong đi ra. Nó nhảy lên đứng
trên góc xa chiếc bàn lớn tôi đang ngồi, rồi uể oải vươn cổ ngáp đúng lúc ông
Ngạc vẩy lưỡi kiếm về phía nó. Con mèo kêu một tiếng. Chẳng hiểu vì bị chém hay
nó vẫn kêu như vậy mỗi lần ngáp.
“Tôi
mới chém đứt cổ nó xong. Đứt mà không đứt như vừa nói. Bây giờ chắc ông đã
tin?”
Tôi
ngồi im, phần vì sững sờ, phần chẳng biết nói gì.
“Vậy
hóa ra chém mà không chém?” Cuối cùng tôi lên tiếng.
“Theo
cách ông nghĩ thì đúng thế. - Ông Ngạc mãi lúc sau mới đáp. Ông cẩn thận cho
kiếm vào vỏ. Tôi lén thở dài nhẹ nhõm. May ông không có ý định thử chém người.
- Tức là một thanh kiếm vô tích sự vì không còn chức năng chém giết? Không. Đây
là Mạc Gia Thư kiếm, báu vật có một không hai trên đời. Chuyện nó hóa rồng xanh
cùng nhiều chuyện khác là do người ta phịa, nhưng quả đúng thanh kiếm có phép
lạ. Muốn giết ai, chỉ cần trỏ mũi kiếm vào người đó. Ông lại ngạc nhiên? Vì nó
sắc và mạnh đến mức có thể làm chết người qua khoảng cách, tất nhiên nếu khoảng
cách ấy không quá lớn”.
“Thế
thì thật nguy hiểm, - tôi nghĩ. - Vì vô ý hoặc do đùa, người ta có thể gây án
mạng”.
“Đúng.
Nhưng không phải trong bất kỳ tay ai nó cũng có được phép lạ ấy” Ông Ngạc nói.
Tôi
thầm ngạc nhiên sao ông đoán hiểu điều tôi nghĩ. Hay tôi đã nói lên thành lời?
“Chỉ
những người chủ hợp pháp của nó mới làm được. - Ông nói tiếp. - Mà lúc chỉa mũi
kiếm, phải có ý nghĩ muốn giết người ấy. Ông có muốn tôi thử cho xem không?”
“Không,
cảm ơn”, tôi vội đáp.
“Ông
ta kể mình nghe, cho mình xem tất cả những điều này để làm gì nhỉ? - Tôi lại
nghĩ. - Ông ta cần gì ở mình? Chắc mình được mời đến đây không phải vô cớ ”.
“Vâng,
không vô cớ, tôi muốn thương lượng với ông một chuyện”.
Ông
Ngạc nói ngay. Lần này thì tôi tin chắc ông có khả năng đọc được ý nghĩ người
khác, và thầm nhắc mình phải cẩn thận.
“Chuyện
gì?” tôi hỏi.
“Nếu
ông đồng ý, tôi xin được đổi thanh kiếm gia bảo này lấy cánh tay nàng Tiểu Ái”.
“Nhưng
đó là câu chuyện tôi phịa hoàn toàn. - Tôi kêu lên, suýt nữa phì cười. - Tôi là
nhà văn như ông biết, và chẳng hề có cánh tay Tiểu Ái nào cả. Cái tên ấy cũng
do tôi phịa ra!”
“Không
quan trọng. Tiểu Ái hay không Tiểu Ái không quan trọng. Cái quan trọng là từng
có một cô gái bị chặt tay như thế, và nhờ ông, cô gái ấy đã sống lại và được
mọi người biết đến, được cùng ai đó làm đàn bà trên giường. Có thể ông không có
cánh tay Tiểu Ái thật nhưng tôi hy vọng ông còn giữ được cái gãi lưng bằng nhựa
hình bàn tay người mua năm ngoái ở Trung Quốc. Cái mà ông viết bị con chó con
gặm mất một ngón và bà vợ ghen đem giấu đi ấy mà. Bây giờ ông vẫn có nó chứ?”
“Có.
Luôn ở ngay trên bàn làm việc của tôi. Nhưng tôi cũng phịa cả chi tiết nó bị vợ
giấu...”
“Không
quan trọng. Vậy ông có đồng ý đổi nó cho tôi để lấy thanh kiếm này không? Một
khi chẳng xem trọng nó như thế thì chắc ông không tiếc. Xin ông khỏi bận tâm
tôi cần nó làm gì. Tôi là người tử tế như ông nghĩ, và tất nhiên chỉ làm những
việc tử tế”.
“Nhưng
đây là Mạc Gia Thư kiếm, bảo bối vô giá của dòng họ ông?”
“Thì
cánh tay Tiểu Ái, hay cái gãi lưng nhựa rẻ tiền trên bàn như ông nói, cũng là
vật quí hiếm không kém. Vả lại tôi đã già, sống một mình và hiện không người
thân thích. Lớp người trẻ chi họ Cao Kiêm chúng tôi ngày nay chẳng đứa nào ra
hồn, không đáng truyền lại một vật quí hiếm thế này. Trong tay kẻ xấu, nó có
thể gây tai họa. Thà giao cho ông còn hơn. Lại được thêm nàng Tiểu Ái. Thế nào,
ông đồng ý chứ?”
“Tôi
sẽ làm gì với một thanh kiếm quí như thế?” Tôi hỏi, thầm nghĩ ông già này có lẽ
điên thật, nhưng vội đỏ mặt khi chợt nhớ ông ta biết đọc ý nghĩ người khác. Quả
có điên mới nghĩ ra được một vụ đổi chác kỳ cục như thế. Tức là ông ta cho
không tôi thanh kiếm.
“Đó
là việc của ông. Cũng như việc của tôi muốn làm gì với Tiểu Ái thì làm. Hy vọng
ông sẽ không giết người một cách vô cớ...”
“Tôi
không bao giờ giết người”.
“Vậy
thì hãy giữ nó như một thứ đồ cổ. Ông chẳng thích đồ cổ lắm đó sao?”
Thấy
tôi có vẻ xuôi xuôi, ông Ngạc nói thêm:
“Xin
ông đừng lo tôi thiệt. Có thể ông chưa biết hết giá trị cái gãi lưng của ông.
Tôi sẽ có cách lấy nó mà chẳng phiền ông mang đến đây. Còn cây kiếm này thì coi
như đã thuộc về ông. Hoàn toàn hợp pháp. Thế là chúng ta thỏa thuận xong. Cảm
ơn ông”.
Ông
Ngạc lại nghiêng đầu nhìn tôi bằng đôi mắt chim màu xám của mình rồi đứng dậy,
ông thong thả đi vào phía trong. Chiếc áo vét rộng màu xám xòe hai thân như hai
cánh chim đang vỗ. Một chốc sau ông biến mất (có cảm giác như ông nhẹ nhàng bay
đi), để tôi một mình ngơ ngác bên bàn với thanh kiếm Mạc Gia trên tay.
*
Về
nhà, việc đầu tiên tôi làm là chạy tới bàn xem chiếc gãi lưng có còn ở đấy
không. Không! Tôi ngồi xuống giường, thừ người một lúc. Vậy là ông Cao Kiêm
Ngạc đã lấy nó đi. Bao giờ và cách nào không biết, nhưng chắc chắn là ông. Nó
vẫn luôn nằm ở chỗ cố định ấy và chẳng ai ngoài tôi động đến nó.
Cái
ông Ngạc này là ai nhỉ? Người hay ma? Hay chim cú? Hay đơn giản tất cả chỉ là
một trò đùa chẳng mấy thú vị?
Còn
bàn tín bán nghi, nhưng tôi bị kích động thực sự và rất hồi hộp. Dù trong nhà
chẳng có ai trừ bà giúp việc luôn ở trong bếp, tôi vẫn đóng chặt cửa phòng mình
và quyết định thử chiếc kiếm.
Tôi
run run rút nó khỏi vỏ, để ngửa lên mặt bàn, và cũng run run như thế, đặt lên
lưỡi kiếm một tờ giấy trắng mới cứng. Ngay lập tức tờ giấy bị cắt làm đôi. Lưng
tôi ướt đẫm từ lúc nào. Sẵn trên bàn có cây nến, không còn nguyên nhưng khá
dài, tôi vội cầm kiếm cắt ngang. Chậm thôi, có lẽ vì vậy đoạn bị cắt rơi xuống
chứ không dính liền như ở nhà ông Ngạc. Tôi thử lần nữa, nhanh hơn, mạnh hơn,
rồi cầm lên xem, còn bẻ bẻ ở chỗ mới bị chém. Quả nó không sao. Thậm chí không
thấy cả vết chém. Tôi lại ngồi thừ người nhìn thanh kiếm, không phải không
thoáng lo sợ. Tuy nhiên, vẫn còn một điều nữa phải thử. Nhà tôi không nuôi mèo
nhưng có con chó con nghịch ngợm, hay sủa vu vơ. Nó là con chó dễ thương, nó
yêu tôi nhất vì không bị tôi mắng và hay được cho ăn. Tôi không thể đem nó làm
vật thí nghiệm.
Cuối
cùng, ngồi trước bàn làm việc nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ có kính che, tôi giơ
thanh kiếm nheo mắt chỉ đúng vào một quả trên cây cau trước nhà, ở khoảng cách
bảy mét. Cả buồng còn xanh non, không hiểu sao nó có màu vàng. Vừa ngắm, tôi
vừa mong nó rụng. Mấy giây sau, nó rụng thật, hình như bị bổ làm đôi. Sau đó
tôi chĩa mũi kiếm vào quả bóng nhựa màu xanh bọn trẻ đá lên mái nhà hàng xóm từ
bao giờ. Lập tức nó cũng rơi xuồng đất. Tôi còn thử một số khoảng cách khác và
phát hiện thấy nó chỉ có tác dụng trong vòng hai mươi lăm, ba mươi mét. Thế
cũng xa lắm rồi.
Tôi
cho kiếm vào vỏ, giấu kỹ dưới gầm tủ rồi lên giường nằm suy nghĩ miên man.
*
Vâng,
không nghi ngờ gì nữa, tôi đang có trong tay Mạc Gia thư kiếm, thanh kiếm quí
giá nhất trên đời, quí hơn cả nàng Tiểu Ái kiều diễm, nếu quả thật nàng đang ẩn
mình trong chiếc gãi lưng rẻ tiền của tôi mà ông Cao Kiêm Ngạc đang giữ. Tôi
thầm mỉm cười thương hại ông già tội nghiệp. Mong cho ông được hạnh phúc với
nàng.
Nhưng
tôi sẽ làm gì với thanh kiếm quí có phép lạ ấy? Trước hết tôi quyết định giấu
kín không cho ai biết, vì sợ vợ tôi tò mò có thể bị đứt tay hoặc thậm chí làm chết
tôi hay ai đó. Tôi có thể đơn giản giữ nó như giữ một thứ đồ cổ quí hiếm, ông
Ngạc từng nói như vậy. Tất nhiên, nhưng nó không chỉ là đồ cổ mà còn là thứ vũ
khí lợi hại. Vậy là tôi được trao phép lạ có thể hủy diệt cái gì đó, ai đó mà
không ai biết. Chẳng phải đấy không là một cám dỗ lớn? Tuy nhiên vốn hiền lành,
lại đã qua từ lâu cái thời có thể hung hăng gây gổ nên bây giờ tôi hoàn toàn
không có nhu cầu giết người. Mà cũng không có ai thù oán đến mức phải giết.
Tôi
có anh hàng xóm là một chủ doanh nghiệp tư nhân trẻ. Một tay hãnh tiến lắm tiền
nhiều thế lực. Kể ra anh ta cũng chẳng quá tồi so với người khác, có điều thích
khoe giàu một cách lộ liễu nên bị cả xóm ghét, chính xác hơn là ghen tị. Tôi
thì dửng dưng, chỉ hơi khó chịu vì chiếc Mercedes mới toanh của anh ta hay đột
ngột bấm còi (để nhắc người khác nhớ đến sự hiện diện của nó), lại thường xuyên
để chềnh ềnh trước nhà tôi làm vướng lối đi. Hôm nọ thấy tôi vội vã ra bến xe
buýt, anh ta ngỏ ý mời lên xe đi cùng vì tiện đường. Có thể chân thành chứ
chẳng ý gì, nhưng tôi vẫn thấy như bị xúc phạm. Lúc này từ trong phòng nhìn ra, với thanh kiếm có phép
lạ bên cạnh, tôi bất chợt thấy mình có ý nghĩ muốn chĩa mũi kiếm sắc nhọn vào
lốp hay lớp sơn bóng lộn của chiếc xe, biểu tượng giàu có và địa vị xã hội,
đồng thời cũng là cái làm người sở hữu nó trở nên kệch cỡm. Chắc thấy xe xẹp
lốp hoặc thân bị chọc thủng, anh ta sẽ đau đớn lắm. Hay cứ dạy cho anh ta một
bài học?
Vì
không là người ác, cuối cùng tôi đã không làm điều ấy. Nhưng ý nghĩ kỳ cục này
cứ lẫn quất mãi trong đầu, đến mức không tập trung làm việc được. Cuối cùng tôi
giấu thanh kiếm vào chỗ cũ và bỏ đi dạo.
Thường
vẫn thế, khi ta cố không nghĩ đến cái gì đó thì cái ấy càng ám ảnh ta nhiều
hơn. Đúng, tôi đang bị thanh kiếm ám ảnh, ám ảnh ghê gớm. Suốt buổi chiều hôm
ấy tôi không nghĩ được gì khác ngoài nó. Thậm chí tay như ngứa ngáy. Bước đi
trên hè phố, tôi hình dung đang cầm kiếm giết kẻ ác giúp đời. Giết cả bọn khủng
bố quốc tế như Bin Laden chẳng hạn. Ngớ ngẩn, nhưng quả thật tôi có những ý nghĩ
như vậy. Hệt như một tên khát máu giết người không ghê tay. Thấy con chó chạy
ngang, tôi nghĩ kể cũng hay nếu chém nó đứt đôi mà không đứt đôi như cây nến ở
nhà ông Ngạc.
Chiều
hôm ấy tôi phóng xe đến nhà ông và không tin nổi mắt mình khi thấy ở đúng số
nhà trên phố hôm trước tôi đã đến theo đúng địa chỉ ghi trong thư, bây giờ là
một ngôi nhà khác hẳn với bà lão chủ nhà đang ngồi bán mấy thứ vặt vãnh trước
cửa. Vậy là ông Ngạc này không phải người mà ma quỉ. Tôi lo lắng nghĩ rồi bỏ đi
luôn.
Buổi
tối ngồi ăn cơm, tôi nhìn chiếc cổ trắng hơi đẫy đà của vợ và lại nghĩ đến
thanh kiếm. Tôi rùng mình hình dung thấy thanh kiếm sắc ngọt chém đứt cái cổ
trắng đẫy đà ấy mà đầu vẫn không rơi. Không có máu. Không chết.
“Ông
nhìn gì thế?” vợ tôi hỏi.
“Hình
như dạo này bà béo ra”.
“Vớ
vẩn. ăn đi. Lại phịa ra một nàng Tiểu Ái nào nữa chắc? Đã điên còn làm người
khác điên theo”.
Vợ
tôi vẫn có kiểu nói như vậy nhưng thường lại nghĩ khác nên tôi không bao giờ
cãi lại. “Lần này thì là chuyện thật đấy, không đùa chút nào đâu!” tôi nghĩ
nhưng không nói ra miệng.
Tôi
ngủ một đêm chập chờn với những giấc mơ kỳ cục và kinh hãi.
*
“Ban
đêm ông dậy lục tủ lạnh đấy à?” Vợ tôi hỏi khi ngồi vào bàn ăn sáng.
“Không,
- tôi đáp. - Thì sao?”
“Chẳng
sao cả. Tôi nghe có tiếng động”.
“Hình
như nhà ta có ma...” bà giúp việc rụt rè lên tiếng. “Đêm qua, lúc gần sáng cháu
thấy động ở phòng khách, sợ con mèo nhà bà Nguyệt làm đổ mấy lọ sứ nên chạy vào
xem. Cháu hoảng hồn đứng lặng người khi thấy ai đó mặc đồ xanh đang múa may
quay cuồng như tấm vải lớn lượn vòng với cái gì đó sáng loáng trong tay. Cháu
sợ quá không kêu lên nổi. Khi dụi mắt nhìn kỹ thì chẳng thấy gì nữa. Nói ông bà
đừng cười, nhưng người ấy, tấm vải ấy múa thế này này...” Bà đưa bàn tay đang
cầm đũa khua một vòng trước mặt. “Sau đó cháu chẳng dám ngủ nữa, cũng chẳng dám
vào phòng khách, nhưng chắc chắn người đó còn múa thêm một lúc mới thôi”.
“Nhảm
nhí. Ma với quỉ!” tôi nói át đi.
“Người
ta bảo xóm ta trước đây là nghĩa địa phải không ạ?”
“Cũng
nhảm nhí nốt. Ao muống chứ nghĩa địa nào?” Tôi đáp dù biết quả đúng như thế.
Nghĩa địa làng Ngọc Lâm. Nhưng chắc điều này không liên quan gì đến chuyện bà
ta kể. Chúng tôi sống ở đây gần chục năm mà chẳng có gì xẩy ra.
Cả
ba ngày tiếp theo bà giúp việc vẫn kêu nhà có ma, mặt phờ phạc hẳn do mất ngủ
và lo sợ. Vợ tôi không nói gì thêm nhưng chắc nghĩ chồng đêm đêm vẫn lục tủ
lạnh.
Tôi
lại lấy thanh kiếm ra xem. Nó vẫn ở chỗ cũ, lạnh lẽo và vô hồn. Từ trong phòng,
qua lớp kính cửa sổ, tôi thử nghịch, làm đứt một cành lớn hoa giấy, cách chỗ
ngồi đến mười lăm mét. Những ý nghĩ vớ vẫn lại lởn vởn trong đầu. Hai tay như
ngứa ngày muốn làm điều gì. Sự ngứa ngáy của người có sức mạnh muốn đem ra thử.
Đấy là sự lạ vì xưa nay tôi ít khi bị phân tán tư tưởng, càng không nghĩ vẩn vơ
việc chém giết. Nghĩa là đã xuất hiện một sự thay đổi nào đó trong tôi. Thanh
kiếm! Chính sức mạnh và phép lạ của nó làm tôi thay đổi. Thay đổi theo hướng
nguy hiểm. Thế thì thật đáng sợ.
Tối
ấy đang ngủ, tôi chợt mở mắt và thấy đứng ngay đầu giường là một người phụ nữ,
hay đúng hơn cái gì đó giông giống người phụ nữ với thanh kiếm sáng loáng trong
tay. Tưởng mình mơ tôi dụi mắt, vẫn thấy người ấy đứng yên và đang chăm chú
nhìn tôi. Dụi lại lần nữa thì chẳng còn thấy đâu. Sáng hôm sau chưa kịp dậy,
tôi đã nghe bên ngoài nhốn nháo tiếng người. Thì ra có kẻ ghen tị độc ác đã
dùng dao đâm thủng hai vết lớn vào thân xe bóng lộn chiếc Mercedes của anh hàng
xóm vẫn đỗ bên cổng nhà tôi như mọi lần...
P.S.
Chuyện
này xẩy ra cách đây ba ngày. Trong khoảng thời gian ấy công an đã kịp đưa cậu
Hoàng lên đồn. Cậu ta thuộc loại “thanh niên chậm tiến”, con một gia đình trong
xóm vừa có trận cãi nhau với chủ chiếc Mercedes. Tôi kịp thuyết phục bà giúp
việc đừng vì sợ ma vu vơ mà bỏ về quê. Trong ba ngày ấy, tôi cũng kịp lén lút
đem thanh Mạc Gia Thư kiếm quí hiếm đến một lò rèn ở phố Sinh Từ nhờ rèn thành
mấy chiếc liềm cắt cỏ. Vì sao lại liềm cắt cỏ? Đơn giản lúc ấy tôi không nghĩ
được gì khác ngoài chúng. Tôi vốn từ nông thôn, ngày bé từng chăn trâu cắt cỏ.
Ông chủ lò rèn có vẻ tiếc khi phải đem thanh kiếm cổ làm thành những vật tầm
thường như vậy. Ông gạ mua, trả giá cao nhưng tôi không chịu. Cuối cùng, sau ba
giờ mấy người làm việc cật lực trước sự chứng kiến của tôi, tôi có được bốn
chiếc liềm mang về nhà. Những chiếc liềm bình thường, thậm chí hơi thô. Tôi giữ
một chiếc cho mình làm kỷ niệm, còn lại có dịp sẽ gửi về quê.
Vậy
là thoát được thanh kiếm quí. Thật lạ rằng tôi có thể giải quyết mọi việc đơn
giản và nhanh chóng đến vậy, và không mảy may luyến tiếc. Bà giúp việc không còn thấy ma, do vậy
đêm ngủ không bật đèn sáng trưng như trước. Tôi cũng lấy lại được sự thanh
thản, trong đầu không còn luẩn quẩn những ý nghĩ kỳ cục, trừ một ý nghĩ nhỏ
rằng một người bình thường có thể sống thảnh thơi, hạnh phúc suốt đời nếu không
vì bỗng nhiên có được sức mạnh hay loại vũ khí phi thường nào đó. Lúc ấy mọi
việc sẽ phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Cho mình và cho người khác.
À,
còn thêm điều này nữa. Đêm qua tôi đã gặp Mạc Gia. Vâng, đúng thế. Số là đang
ngủ, tôi có cảm giác như ai đang chăm chú nhìn mình. Mở mắt ra thì thấy người
đàn bà áo xanh hôm nọ. Bà xưng tên và cho biết trước đây bà chỉ là cô gái nông
thôn nghèo bình dị, vì có chút nhan sắc nên bị Can Tương bắt về làm lẽ, sau
cũng chính ông ta xô bà vào lò luyện kiếm chứ chẳng phải tự bà hy sinh vì chồng
như người ta nói. Từ ấy bà phải làm cái
việc chém giết mà bà luôn kinh tởm. Nay được giải phóng về với nơi mình
vốn quen thuộc là làm ruộng, bà rất mừng, do vậy bà đến để cảm ơn tôi trước khi
lên đường trở lại quê cũ.
Câu
chuyện ly kỳ đến mức tôi không dám tin là
thật, và dù được tận mắt nhìn thấy bà, nghe bà nói, tôi vẫn nghĩ có thể
đấy đơn giản chỉ là một giấc mơ. Dạo này già, thỉnh thoảng tôi vẫn có những
giấc mơ như vậy.
Hà Nội, tháng Năm, 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét