TIỂU
ÁI
Antôn
Sêkhốp, nhà văn Nga thế kỷ mười chín nổi tiếng về sở trường truyện ngắn, có lần
nói với bạn bè một ý đại khái thế này, rằng nếu nhà văn thực sự có tài thì từ
bất kì cái gì, thậm chí từ cái tầm thường, nhỏ nhặt nhất cũng có thể viết thành
một truyện ngắn. Và để chứng minh cho quan điểm ấy của mình, ông đã viết truyện
Cái đinh. Xuất phát điểm đơn giản chỉ là chiếc đinh gỉ trên tường, ngẫu nhiên
các bạn nhìn thấy khi đứng dậy chia tay sau bữa ăn, rồi nửa đùa nửa thật họ yêu
cầu ông thử viết về nó. Thế mà thành một truyện hay.
Hôm
nọ, tình cờ tôi đem chuyện này kể với vợ. Bà ấy luôn là người đầu tiên đọc
những gì tôi viết, đôi lúc có vài nhận xét xác đáng mà dẫu bảo thủ, tôi vẫn
phải thừa nhận và lặng lẽ làm theo.
“Sao
ông không thử làm như Sêkhốp?” - bà ấy thản nhiên nói.
“Tôi
không phải Sêkhốp. Ông ấy là thiên tài. Vả lại, nghề của tôi như bà biết, không
phải viết mà dịch”, - tôi nói với sự khiêm tốn chân thành. Mấy chục năm nay tôi
chỉ dịch, dịch thơ, một nghề tôi cho không kém vinh quang so với sáng tác.
Thỉnh thoảng lúc chán tôi mới viết truyện, rỗi thì viết chứ chẳng tham vọng gì
nhiều.
“Đành
thế, nhưng cứ thử, xem ông có là người “thực sự có tài” hay không”.
Máu
tự ái tôi nổi lên:
“Thử
thì thử! Thế bà muốn tôi viết về cái gì?”
Vợ
tôi đưa mắt nhìn quanh. Phòng làm việc của tôi luôn ngổn ngang đủ loại sách
báo; chiếc giường một vừa để nghỉ và ngủ; chiếc ghế xoay vắt đầy quần áo mặc
dở; trên bàn có chiếc vi tính cùng chồng đĩa nhạc; tường treo mấy bức tranh sơn
dầu loại rẻ tiền và chiếc đàn vi-ô-lông kỷ niệm một thời sinh viên đam mê mà
bây giờ, dẫu đã thuộc người già, lại to béo, thỉnh thoảng tôi vẫn đem ra cò cử
bất chấp sự phản đối của hàng xóm và gia đình. Tôi thầm mong vợ chọn chiếc đàn
hoặc chiếc vi tính, biểu tượng của tình cảm và công nghệ hiện đại ít nhiều còn
có thể phịa ra cái để viết. Nhưng không, cuối cùng bà ấy nhìn tôi, nói như ra lệnh:
“Ông
hãy viết về cái gãi lưng đang cầm trên tay ấy!”
“Sao,
viết về cái này?” tôi thốt lên, ngừng gãi, chìa ra trước mặt chiếc gãi lưng
bằng nhựa màu hồng rẻ tiền mua ở Thượng Hải năm ngoái khi hai bố con tôi tới đó
theo một tour du lịch trọn gói. Một đầu nó có hình bàn tay năm ngón, ngón út bị
con cún láo lếu gặm gãy, đầu kia là quả bóng cao su sơn đỏ đã sờn rách đôi chỗ,
có lò xo dùng để đấm lưng. Một sản phẩm chẳng mấy nghệ thuật nhưng rất tiện lợi
và tôi vẫn thường cần đến.
“Đúng,
ông hãy thử viết về nó. Chiếc đinh của Sêkhốp còn nhỏ nhặt, tầm thường hơn
nhiều. Ít ra nó cũng cho biết tài năng ông đến đâu”.
Tôi
lại chạm tự ái.
“Được.
Vậy ngày mai vào giờ này mời bà xuống đọc. Biết đâu tôi chẳng thông minh hơn bà
tưởng.”
Còn
lại một mình, tôi thẫn thờ hồi lâu ngồi nhìn chiếc gãi lưng khốn khổ mà từ đó
tôi phải tìm đủ cảm xúc và trí tưởng tượng để viết thành một truyện ngắn với
đúng nghĩa của nó. Ơn Chúa, cái truyện ấy cuối cùng cũng viết xong, chậm nửa
ngày. Tôi không đặt tên Chiếc gãi lưng, mà là Bàn tay ngà ngọc, vừa hợp nội
dung, vừa đỡ phần dung tục.
*
Dù
còn trẻ, nhà ngoại giao M. từ lâu đã say mê thú chơi đồ cổ, đặc biệt những thứ
liên quan đến Trung Quốc. Chơi với đúng nghĩa của nó, không bao giờ đo giá trị
bằng tiền. Và cũng rất sành. Chuyến công tác Bắc Kinh lần này là dịp hiếm, vì
anh phụ trách một Vụ châu Âu ở Bộ nên ít có điều kiện sang đây. Ngày nghỉ đầu
tiên anh nhờ một đồng nghiệp lâu năm ở sứ quán dẫn đi lùng sục các cửa hàng
nhỏ, phố nhỏ mà thường chỉ người bản địa mới biết và cũng là nơi có nhiều cơ
may tìm được thứ gì đó độc đáo mà không quá đắt. Những thứ ấy thật ra có nhiều,
rất thích, rất đáng mua nhưng vì ít tiền, cuối cùng đắn đo mãi, anh quyết định
mua một cái mà chắc chẳng mấy ai muốn mua. Chính ông chủ cửa hàng (một người
Hoa bé loắt choắt, mặt nhọn và nhăn nhúm) cũng không nghĩ anh sẽ mua nó, nhất
là với cái giá rất cao lão đòi và không chịu bớt một xu. Vâng, nó đắt thật,
nhưng đáng giá đồng tiền, và anh gật đầu. Dân chơi đồ cổ thường vẫn vậy, đã
thích cái gì thì không thể nào dứt ra được.
Đó
là chiếc gãi lưng hình bàn tay một cô gái, được làm bằng ngà hay thứ gỗ trắng
cứng mịn nào đó, lâu ngày đã ngả màu nhưng chưa sứt gãy và cũng chưa có vết
xước sâu nào. Nó khá to và nặng so với những thứ cùng loại ngày nay, dễ phải
bằng cánh tay thật của một đứa bé. Anh hỏi thuộc đời nào, ông già chủ quán chỉ
đáp: “Lâu rồi. Lâu lắm rồi. Chính xác đời nào lão chẳng biết, nhưng nó có từ
lâu, lâu lắm rồi. Anh tinh lắm, tinh lắm!”
Quá
bận với các bản báo cáo và họp hành, về nước đến một tuần M. mới có dịp lấy ra
xem. Người chơi đồ cổ đích thực ngắm nghía đồ chơi của mình không như người
bình thường. Họ cần có hứng, có thời gian thích hợp. Lúc ấy đã gần mười hai giờ
đêm. Anh tắt vi tính, thận trọng mở va-li lấy nó ra. Thoạt đầu anh hơi thất vọng,
chắc một phần vì số tiền lớn phải chi cho nó. Đẹp, có thể rất quý nhưng cũng
chỉ là cái gãi lưng hình cánh tay phụ nữ, thứ đồ dùng không hiểu sao người
phương Tây ít ai sử dụng vì một mặc cảm mơ hồ nào đó. Chắc họ thích những bàn
tay bằng xương bằng thịt ấm áp và dịu dàng hơn.
Anh
cầm nó trên tay, ngắm nghía từ mọi góc độ, thầm nghĩ đúng nó là đồ cổ thật,
chắc thuộc một gia đình quyền quý nào đó cách đây vài trăm năm, khó có thể lâu
hơn. Các ngón tay búp măng thon dài, móng được cắt nhọn và cũng rất dài, sơn
màu hồng nhạt. Chỗ khuỷu tay có đường chạm thành nếp ngấn sống động. Cao hơn
một chút là mặt cắt ngang rất phẳng và nhẵn, cứ như bị lưỡi kiếm sắc chặt một
nhát đứt đôi. Phần trên khuỷu tay hơi gập, vừa đủ dài để làm tay cầm. Anh cho
như thế là tàn nhẫn từ phía người nghĩ ra kiểu dáng này cho nó.
M.
ngồi yên, mân mê cánh tay ngà rất lâu, mỗi lúc càng thấy thích. Mấy lần định
cất lại vào va-li mà không hiểu sao cứ chần chừ mãi. Nhiều khi có cảm giác như
đang nâng niu một bàn tay thật, thậm chí thấy mềm, âm ấm. Cuối cùng anh nằm
xuống giường, chặn màn, để nó bên cạnh và tắt đèn.
Nhà
anh ít người. Cả hai cô con gái đang học phổ thông bên Mỹ, nơi anh mới kết thúc
nhiệm kì công tác nên các con ở lại học nốt chương trình. Gia đình anh xưa nay
có thói quen mỗi người ngủ một phòng. Bây giờ thì mỗi người một tầng. Vợ anh ở
tầng hai, anh ngủ luôn ở phòng làm việc tầng một, còn bà giúp việc thì trong
phòng bếp rộng gần ba chục mét.
Đang
thiu thiu ngủ bỗng ngứa lưng, M. cầm luôn cánh tay ngà gãi nhẹ. Thật dễ chịu. Gãi
đúng chỗ ngứa, lần nào cũng đúng, sắc và gọn. Bất chợt anh giật thót người khi
có cảm giác bàn tay ngà kia xoãi ngón xoa xoa vào chỗ ngứa. Xoa hai lần. Anh
hốt hoảng dùng tay kia kiểm tra lại. Vẫn là cánh tay ngà đồ cổ như trước, cứng
và vô tri giác. Thở dài nhẹ nhõm, anh cho mình vừa nằm mê, rồi quay người ngủ
tiếp, cánh tay ngà để cạnh, gần như chạm mặt.
Một
lúc sau, có thể một giờ hoặc lâu hơn, anh lại lơ mơ cảm thấy có bàn tay ai đang
dịu dàng mơn trớn má mình. Vì nghĩ lại mơ, anh nằm yên tận hưởng cảm giác dễ
chịu ấy. Nhưng sự mơn trớn lần này có vẻ mỗi lúc một thật hơn và cũng âu yếm
hơn. Anh tỉnh ngủ hẳn, những ngón tay phụ nữ thon dài kia còn dính trên má. Anh
sờ tay, giật mình vì thấy có người nằm cạnh, ấm và mềm. Vợ à? Cô ấy có bao giờ
tự xuống thế này đâu? Anh khéo léo luồn tay về phía chiếc công tắc đèn ngủ.
“Ôi,
cô là ai thế này?” anh ngồi bật dậy, khẽ thốt lên sau mấy giây lặng đi vì ngạc
nhiên và sợ hãi. Đó là một cô gái xinh đẹp, rất khác thường cả về dáng người,
cách ăn mặc, kiểu đầu tóc và cả cách son phấn. Phải cố lắm anh mới không kêu
to, hai mắt nhìn trân trân không chớp. Anh lùi lại cho đến khi chạm lưng vào
tường, trống ngực đập thình thịch.
“Thiếp
là Tiểu Ái, nữ sĩ của Thái Tử Đan nước Yên”, cô gái thỏ thẻ đáp, chỉ thoáng
chút ngượng ngùng kiểu con gái đài các chứ không hề bối rối.
“Tiểu
Ái nào? Thái Tử Đan nước Yên nào? Tôi không hiểu”.
“Chàng
thích đồ cổ Trung Hoa mà dường như không am tường lắm về lịch sử nước này.
Vâng, thiếp là Tiểu Ái, nữ sĩ và cũng là tì thiếp yêu của Thái Tử Đan nước Yên
cách đây hơn hai nghìn năm. Vì muốn diệt Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, để
trừ hậu họa, Thái Tử phải nhờ đến Kinh Kha, một thích khách nổi tiếng nước
Ngụy. Những ngày trước lúc lên đường, ngài tìm mọi cách chiều lòng Kinh Kha:
nào vàng bạc châu báu, tiệc tùng, nào đàn hát suốt ngày với vô số cung tần mĩ
nữ hầu hạ. Vậy mà Kinh Kha có vẻ không mấy mặn mà với việc người ta yêu cầu
làm. Một tối nọ, khi xem thiếp đàn, ông ta buột miệng khen đôi tay thiếp đẹp.
Thế là sáng hôm sau Thái Tử chặt tay thiếp, cho vào chiếc hộp phủ lụa đỏ đem
đến. Bây giờ chàng nhớ rồi chứ?”
Tiểu
Ái nói, khẽ cúi đầu e lệ đúng cung cách phụ nữ cái thời xa xưa ấy. M. vẫn nhìn
nàng không chớp mắt. Nàng thật xinh đẹp, dịu dàng. Tuy nhiên, anh vẫn thấy có
cái gì đấy đáng ngờ, hơi ranh ma trong ánh mắt cô gái bí ẩn này.
“Vâng,
- anh đáp. - Tôi có biết tích ấy, dù không dám tin là thật. Có phải sau đấy
Kinh Kha vì thương cảm đã đem chôn cất tử tế đôi tay của cô không?”
“Không.
Nhiều người nghĩ vậy nhưng thực ra không phải thế. Ông ấy quả rất thích đôi tay
đẹp của thiếp, nên cho mời thầy thuốc đến ướp khô, từ đó luôn giữ chúng bên
mình. Sau này Kinh Kha bị Tần Thủy Hoàng giết chết, đôi tay thiếp thất lạc, qua
hết người này đến người khác. Một tay thiếp bị người Anh thiêu cháy cùng Di Hòa
Viên của Từ Hy Thái Hậu cách đây không lâu, còn tay nữa thì hiện đang ở đây với
chàng. Vì thế mà thiếp có mặt hôm nay. Chàng không thích thiếp chăng? - Nói
đoạn, Tiểu Ái choàng tay ôm cổ M. Một ma lực nào đó khiến người anh mềm nhũn,
ngoan ngoãn tuân theo ý nàng. - Từ nay thiếp sẽ ở bên chàng, chiều chuộng chàng
như xưa từng chiều chuộng Thái Tử Đan nước Yên...”
Rồi
tự nhiên đèn tắt, không ai bật mà tắt. M. thấy mình từ từ rơi vào khoái lạc đê
mê, có thật mà không có thật.
Từ
đêm ấy họ sống với nhau như vợ chồng. Vâng, chỉ ban đêm, khi M. tắt đèn lên
giường, còn ban ngày Tiểu Ái vẫn chỉ là cánh tay bằng ngà vô tri giác được anh
đặt bên cạnh để gãi lưng khi ngứa, vì anh thích cảm giác được bàn tay ngà ngọc
của nàng gãi. Ngoài ra mọi chuyện vẫn bình thường. Đêm nào cũng mất ngủ vì hoan
lạc nhưng anh chẳng vì thế mà xanh xao gầy yếu. Không hề có biểu hiện thay đổi
nào dù nhỏ trong cách anh làm việc ở cơ quan hoặc cư xử với vợ ở nhà. Anh nhanh
chóng thích nghi với cuộc sống mới hai mặt, hơn thế còn lấy làm thích. Tiểu Ái
quả là người đàn bà đam mê và biết chiều chuộng. Đôi lúc anh cũng thoáng lo sợ
khi nghĩ mình đang dan díu với ma, một việc chẳng hay ho gì. Còn nàng, anh nhận
thấy, dường như không có ý làm hại anh. Nàng vẫn yêu kiều, lễ phép và càng ngày
càng tỏ ra gắn bó, cứ như muốn thế chỗ vợ anh vậy. Nhưng vì sao nàng phải làm
thế? Nàng thực sự cần gì ở anh? Mà rồi làm sao có thể xảy ra được cái chuyện kì
quặc này giữa một kỹ nữ thời Tần Thủy Hoàng và anh, một công chức ngoại giao
bình thường của thế kỷ hai mươi mốt? Và quan trọng hơn, tất cả những việc này
sẽ đưa anh đến đâu? Hạnh phúc gia đình anh sẽ ra sao? Là người duy lí và tỉnh
táo, M. tự đặt cho mình những câu hỏi không dễ trả lời ấy. Lờ mờ cảm thấy nguy
hiểm đang đến gần, anh muốn chủ động làm cái gì đó, mà phải làm ngay khi chưa
muộn. Tuy nhiên, sức quyến rũ của Tiểu Ái quá lớn khiến anh cứ khất lần cái
việc cần làm ấy hết ngày này sang ngày khác, cho đến một hôm...
Một
hôm vợ anh bước vào phòng làm việc của chồng, một điều ít khi xảy ra. Chị là giám
đốc một doanh nghiệp làm ăn phát đạt, xa lạ với văn chương và đồ cổ, những thứ
chị cho là vớ vẩn, mặc dù chưa bao giờ kêu ca hoặc ngăn cản chồng. Chị là người
vợ tốt, quán xuyến và thương yêu chồng con. Sự có mặt của vợ làm M. bối rối,
như thể anh bị bắt quả tang ngoại tình và đang giấu người tình ngay trong căn
phòng này. Rỗi việc, vợ anh ghé vào hỏi vài câu vu vơ chứ chẳng có mục đích cụ
thể nào.
“Cái
gì thế này?” chị hỏi, mắt to mò nhìn cánh tay ngà trên đầu giường.
“Thì
em thấy đấy, - anh đáp, cười gượng gạo. - Cái gãi lưng ấy mà. Anh mua ở Bắc
Kinh vừa rồi. Người Tàu nghĩ ra lắm thứ độc đáo thật. Nó cổ lắm đấy, có từ
thời...” anh chợt ngừng vì lỡ miệng sợ đi quá xa.
Chị
vợ lặng lẽ cầm nó lên tay, ngắm nghía một lúc rồi thử đưa lên má gãi gãi. Bất
chợt chị kêu thét lên:
“Trời
ơi, cái của nợ này nó cấu em! Anh xem này!”
Một
vết xước màu đỏ khoảng vài phân bên khóe mắt trái chị.
“Nhảm
nhí! Nó bằng gỗ chứ đâu phải người mà cào cấu được.” anh nói, cố giấu vẻ ngạc
nhiên lo sợ. “Nhưng móng nó sắc, đáng lẽ em nên cẩn thận”.
Vợ
anh vứt cánh tay xuống giường, ôm mặt bước ra khỏi phòng.
M.
nhìn, thấy nó xấu hơn ngày thường, vẻ như đang cau có một cách độc ác. Tối hôm
ấy anh hỏi Tiểu Ái vì sao làm vậy, nàng im lặng mãi mới nói: “Thiếp nhỡ thôi
chứ chẳng cố tình”.
M.
để ý sau mỗi lần anh lên ngủ với vợ theo “nghĩa vụ”, Tiểu Ái luôn tỏ ra khó
chịu, mặc dù không nói gì. Anh biết nàng ghen. Thật kì cục. Hơn thế, hôm nào M.
để Tiểu Ái nằm một mình, vợ anh cũng kêu khó chịu trong người. Dạo này cô ấy
trông xanh xao, mỏi mệt. Cả điều này cũng kì cục nốt, vì bản thân anh chẳng
sao, mặc dù kể từ ngày có Tiểu Ái hầu như anh không ngủ. Anh thực sự lo lắng
cho vợ.
“Em
chớ có làm gì hại vợ anh đấy nhé!” một hôm anh bảo nàng. Nàng lặng lẽ gật đầu
nhưng anh vẫn nhận thấy những tia nhìn đáng sợ trong ánh mắt.
Dẫu
thích cuộc sống hai mặt hiện tại, M. không thể tiếp tục thờ ơ với tính mạng vợ
và hạnh phúc gia đình mình. “Cái việc gì đó” cần làm bây giờ trở nên rõ nét và
thôi thúc hơn. Tóm lại, anh đang lặng lẽ tìm cách thoát khỏi Tiểu Ái thế nào
cho êm thấm nhất. Các truyện của Nguyễn Dữ và Bồ Tùng Linh đã dạy anh điều này.
Đừng dại mà đùa với ma!
Một
tối nọ, vừa ngồi xuống trước máy vi tính, M. thấy H., một đồng nghiệp trẻ ở Bộ
xồng xộc bước vào, nói có tài liệu nhờ anh dịch gấp kịp họp ngày mai. H. là
người hãnh tiến, thích bay bổng, lãng mạn, có khả năng nhưng cư xử dở nên không
được mọi người thích, kể cả anh. Cũng vì tính lãng mạn bay bổng ấy, có người
gọi là hâm, mãi đến giờ anh ta vẫn chưa vợ, dù đã ba mươi lăm tuổi. Đối tượng nào
cũng bị anh ta chê không tinh tế hoặc quá tầm thường.
Xong
việc, H. còn nấn ná ở lại, đảo mắt qua giá sách, nhìn một lượt khắp phòng rồi
cầm chiếc gãi lưng đồ cổ lên tay, khen lấy khen để và hỏi một thôi về nó. M.
khó chịu trước sự suồng sã của con người luôn chê người khác thiếu tinh tế này.
Bất ngờ một ý tưởng vụt lóe trong đầu: “Hắn thích thì sao không cho luôn đi!
Hắn đang sống một mình, có thể Tiểu Ái sẽ là người hợp với hắn”.
“Nếu
cậu muốn, mình tặng cậu đấy. Coi như quà đi Trung Quốc vừa rồi”, anh nói.
“Anh
giễu em? Cái này là đồ cổ, chắc phải quý và đắt lắm?”
“Không,
bình thường thôi. Cậu không thích à?”
H.
nhìn anh ngờ vực. Khi thấy anh nghiêm túc, liền gật đầu cảm ơn rối rít và vội
về ngay như sợ bị đòi lại.
Còn
lại một mình, M. thẫn thờ hồi lâu. Vậy là anh đã thoát được Tiểu Ái, không phải
không nhớ tiếc những giây phút hạnh phúc bên nàng. Trong nhà bây giờ chỉ còn
lại một người đàn bà là vợ anh, chắc sẽ nhanh chóng khỏe mạnh bình thường như
trước. Anh mừng trút được cảm giác có lỗi với vợ, nhưng cũng thầm lo sẽ bị Tiểu
Ái làm hại về tội chia tay nàng cách ấy. Ma là chúa hay trả thù...
Tuy
nhiên, anh đã lo một cách vô ích. Một tuần, một tháng rồi mấy tháng trôi qua
chẳng có chuyện gì không hay xảy ra với anh. Còn H. thì béo tốt hẳn lên, yêu
đời, yêu người hơn, vẻ hạnh phúc ngời ngời trên mặt. Anh ta bây giờ không muốn
nghe ai nói chuyện manh mối cho mình nữa, mấy lần còn hùng hồn tuyên bố sẽ sống
độc thân suốt đời. Hình như anh ta cố tình tránh mặt M.
“Không
sao, - anh nghĩ. - Thế là mọi việc đều ổn. Một win-win deal”. Thuật ngữ ngoại giao chỉ một vụ dàn xếp hai
bên cùng có lợi.
*
Tôi
hồi hộp theo dõi từng biểu hiện nhỏ trên mặt vợ khi bà ấy đọc truyện ngắn này.
Chả gì thì chỉ ít phút nữa bà ấy sẽ cho biết tôi là thiên tài hay bất tài. Đọc
xong, bà ấy hồi lâu nhìn tôi, nhất là cái gãi lưng hàng chợ ngẫu nhiên tôi đang
cầm trên tay, vẻ như nghi kị điều gì. Cuối cùng, với mặt thản nhiên như lúc
chưa cầm tập bản thảo, vợ tôi chỉ nói một câu ngắn gọn: “Bàn tay ngà ngọc không
ổn! Phải đổi thành Tiểu Ái!”
Rồi
bà thản nhiên bỏ ra ngoài, để lại mình tôi với cảm giác mù mờ không hiểu mình
thuộc loại nhà văn nào.
PS.
Xin
được thêm mấy dòng: Mặc dù không thích, tôi vẫn đổi tên truyện ngắn này thành
Tiểu Ái theo yêu cầu của vợ. Suy cho cùng việc này không quan trọng. Cái quan
trọng và đang làm tôi băn khoăn không ít, là ngay hôm sau, bất ngờ tôi phát
hiện thấy chiếc gãi lưng bằng nhựa vô hại của tôi bỗng biến đâu mất. Nhà chỉ có
vợ chồng tôi và bà già giúp việc hay làm vỡ bát đĩa nhưng chưa tắt mắt cái gì
bao giờ. Thế mà tự nhiên mất. Lạ thật!
Không
lẽ vợ tôi nghi có Tiểu Ái trong nhà?
Hà Nội, 10. 5. 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét