CHỜ ĐỢI
Như rất nhiều những cặp vợ chồng
khác thời chiến tranh, họ lấy nhau, ở với nhau một thời gian rồi mỗi người một
nơi, chồng chiến trường, vợ hậu phương. Và cũng như hầu hết những người vợ khác
cùng cảnh ngộ, nữ nhân vật câu chuyện của chúng ta phải chịu đựng tất cả những
gì chiến tranh có thể bắt người phụ nữ chịu đựng. Một mình làm lụng nuôi mình,
nuôi con, nhớ thương và chờ đợi. Chờ lặng lẽ, tấm tức, chờ cho tới khi cuối
cùng chồng trở về, nếu may mắn còn sống để trở về, hoặc tới khi có người mang
đến tờ giấy báo tử. Cũng chẳng gì lạ. Bao đời nay ngưòi phụ nữ Việt Nam vẫn
phải chịu đựng như vậy. Ở nơi khác việc này có thể mang một ý nghĩa quan trọng
hơn, có màu sắc bi thương hơn, nhưng ở Việt Nam nó là chuyện bình thường. Bình
thường vì nó xẩy ra với quá nhiều người, quá thường xuyên, đến mức dần dần bị
xem gần như việc đương nhiên. Thật chua xót và cũng thật đau đớn khi những bi
kịch bị biến thành chuyện thường nhật, đến mức nhiều người không nhận thấy cái
giá rất đắt người phụ nữ Việt Nam phải giả cho hai chữ chung thủy và đảm đang
họ được nêu gương để cả thế giới khâm phục.
Nếu không là hàng xóm trực tiếp
chứng kiến những gì xẩy ra, bản thân tôi cũng khó tin câu chuyện sắp kể là có
thật, dù suy cho cùng nó vẫn chỉ là một trong vô số những trường hợp tôi vừa
nói, bình thường và ít ai chú ý.
*
Hai người đều dân Hà Nội gốc và
thuộc con nhà gia giáo, có học. Họ cưới nhau chưa đầy một tháng thì cách mạng
bùng nổ. Lúc đó anh vừa tốt nghiệp trường luật. Theo dự định, bố anh, một luật
sư nổi tiếng và giàu có, sẽ gửi anh sang Pháp tập sự một thời gian rồi trở về
làm việc ngay trong văn phòng ông, dưới sự che chở của chính ông. Trước đó mọi
việc với anh đều suôn sẻ và chắc sẽ tiếp tục suôn sẻ như thế, nếu không có cách
mạng.
Cách mạng biến anh từ một trí
thức cậu ấm thành người chiến sĩ trung đoàn Thủ đô, rồi tháng Mười Hai năm 46
anh theo các đồng chí của mình lên chiến khu. Vợ anh ở lại Hà Nội trông coi một
cửa hàng nữ trang nhỏ thay cho bố mẹ đẻ đã già. Chị xinh đẹp, nết na, được giáo
dục theo lối phong kiến dù xuất thân từ một gia đình buôn bán đã mấy đời nay.
Học xong tú tài, chị an phận thủ thường sống lặng lẽ với bố mẹ, chẳng có ước
mơ, dự định nào cao xa ngoài mong ước yên bề gia thất, và chị đã được toại
nguyện với người chồng chị cho là lý tưởng. Lúc ấy tất nhiên chị chưa thể hình
dung nổi trong những năm dài phía trước cái gì đang chờ đợi chị, hay chính xác
hơn, chị phải chờ đợi cái gì.
Như những người vợ khác có chồng
đi bộ đội, tất nhiên chị chờ chồng. Chồng đi được mấy tháng thì chị sinh con,
con gái. Bố mẹ chị lần lượt qua đời chẳng bao lâu sau đó, để lại hai mẹ con chị
với cửa hàng ế ẩm thời chiến. Toàn bộ gia đình nhà chồng, phần thất vọng vì có
anh con trai duy nhất theo Việt Minh, phần vì sợ chiến tranh nên đã sang Pháp
sống từ trước. Họ có cho chị ít tiền gọi là "giúp nuôi cháu". Từ đấy
chị chẳng biết tin gì về họ. Còn tin chồng thì thỉnh thoảng vẫn được các liên
lạc từ chiến khu mang về. Thư cuối cùng nói anh được phân công tác mới và do
vậy từ nay không trực tiếp chiến đấu nữa. Chị lấy thế làm mừng, hy vọng anh sẽ
sống để trở về với vợ con khi chiến tranh kết thúc.
Sau chiến thắng ở Điện Biên, chị
bắt đầu thấp thỏm chờ đợi, chờ hết ngày này sang ngày khác. Mỗi lần nghe có
tiếng chân ngoài ngõ là chị lại cuống lên, bỏ cả việc đang làm chạy ra, để rồi
lại thất vọng. Một hôm, khoảng hai tuần sau khi bộ đội vào tiếp quản thủ đô, có
người đến đưa cho chị tờ giấy, báo tin "chồng chị đã anh dũng hy sinh
trong khi làm nhiệm vụ".
- Hy sinh? Tức là chết? - cầm tờ
giấy trên tay, chị bàng hoàng hồi lâu không nói nên lời. - Nhưng chồng tôi có
tham gia chiến đấu đâu mà hy sinh? Có lẽ các anh nhầm...
- Anh ấy hy sinh thế nào quả
chúng tôi không biết, nhưng nhầm thì chắc chắn không. Chúng tôi không được phép
nhầm trong những việc thế này. - Mấy người kia đáp.
- Các anh có thể cho biết thêm
tin tức về chồng tôi được không ?
- Tiếc là không. Chúng tôi chỉ
biết anh ấy là người rất tốt, rất dũng cảm, thông minh, rất... Chị có thể tự hào về anh ấy. Người ta đang
làm thủ tục tặng thưởng huân chương cho chồng chị. Lần nữa chúng tôi xin chân thành
chia buồn với chị và gia đình. Tổ quốc, nhân dân sẽ không bao giờ quên ơn những
người đã đóng góp xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chị hãy can đảm
vượt lên mất mát, đau thương mà sống. Khó khăn, tổ chức sẽ giúp đỡ. Xin chào
chị.
Mấy người kia ra đi, để chị đứng
ngây giữa nhà với tờ giấy định mệnh trong tay. Có lẽ do đã hiểu được ý nghĩa
câu chuyện, con gái chị chạy lại ôm áo mẹ khóc. Chị thì lúc này chưa khóc được,
nhưng chưa tin hay chưa muốn tin những gì mới xẩy ra.
Mấy ngày sau, với sự hăng hái của
một ngưòi đàn bà đang ấm ức muốn biết điều gì đó, chị tìm đến những nơi chị
nghĩ cần đến để hỏi thêm về cái chết của chồng. Nếu không may đã hy sinh (là
điều chị cảm thấy khó hiểu - anh ấy chẳng bảo đã chuyển công tác và không trực
tiếp chiến đấu nữa đấy sao?) thì hy sinh như thế nào và ở đâu, để sau này còn
tìm đến bốc mộ đưa về Hà Nội. Người ta không thể không biết điều ấy. Vốn ít
nói, hay xấu hổ và rút rát, bây giờ chị như người khác hẳn, đôi khi còn to
tiếng cả với người chị đến tìm hỏi. Tuy nhiên, ở đâu chị cũng chỉ nhận được
những câu trả lời chung chung như đã nghe ở nhà. Chị đòi được gặp cấp cao nhất,
và người ta cho chị gặp.
Đó là một ngưòi đàn ông đứng tuổi
gầy đét với nét mặt khắc khổ, giọng dễ nghe và đặc biệt có nụ cười thật dễ mến.
Chị hơi ngạc nhiên khi thấy ông ta không mặc quân phục mà chỉ mặc bộ đại cán
bình thường, còn mới nhưng hơi rộng so với khổ người.
Ông lắng nghe chị một cách rất
chăm chú, không ngắt lời lần nào, chốc chốc lại gật đầu tán thưởng. Được nụ
cười dễ mến kia khích lệ, chị nói liền một mạch, nói thẳng hết những điều chị
nghĩ rồi ngồi im chờ được giải thích.
Ông "cấp cao nhất" ấy
không trả lời thẳng những câu hỏi của chị. Thay vào đó, ông lịch sự mời chị
uống nước, lựa lời an ủi thật tế nhị. Rồi ông thong thả nói rất lâu về những
thuận lợi và khó khăn của cách mạng trong giai đoạn mới, thậm chí cả về tình
hình thế giới, cứ như ông đang thuyết giảng tại một khóa tập huấn chính trị nào
đó.
Chị thất vọng, lơ đãng ngồi nghe
về những cuộc chiến đấu công khai và bí mật, về việc trong chiến tranh nói
riêng và hoạt động cách mạng nói chung điều gì cũng có thể xẩy ra, thậm chí cả
những điều không ai nghĩ tới. Ông còn nói về sự hy sinh thầm lặng nào đó của
người chiến sĩ, về lòng thủy chung và thái độ biết kiên nhẫn chờ đợi của người vợ...
Khi nói những lời này, không hiểu sao ông dừng lại nhìn chị như ngụ ý điều gì.
"Không lẽ ông ta muốn bảo
mình tiếp tục chờ đợi, - chị giật mình tự hỏi. - Chờ đợi ai và chờ đợi cái gì
khi chính ông ta lúc nãy vừa nhắc lại rằng chồng mình đã hy sinh?" Chị
định hỏi nhưng nghĩ thế nào lại thôi.
Tiễn khách ra tận cửa, ông kia
đặt nhẹ bàn tay gầy gò của mình lên vai chị và nói thêm, gần như y nguyên câu
nói chị đã nghe từ mấy người nọ hôm mang giấy báo tử đến nhà.
- Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi công
những người đã hy sinh cho cách mạng. Chị hãy can đảm vượt lên đau thương, mất
mát mà sống. Có gì khó khăn, chúng tôi sẽ giúp đỡ. Xin chị biết cho, chúng tôi
luôn bên cạnh chị.
Chị không thật hiểu ông ta nói thế nghĩa là gì.
Cả những lời lúc nãy cũng không hiểu. Lúc đầu chúng quả có làm lóe lên đôi chút
hy vọng, rằng biết đâu chồng chị có thể chưa chết nhưng vì lý do tế nhị nào đó
người ta không muốn chị biết sự thật. Hay anh ấy mất tích, đào ngũ, hoặc thậm
chí phản bội chạy sang phía giặc? Nếu vậy sao còn định tặng huân chương? Chị
biết xưa nay gia đình những kẻ phản bội bị phân biệt đối xử rất nặng.
Lễ truy điệu và truy tặng huân
chương cho chồng chị được tổ chức cùng một ngày, đủ đại diện các cấp, rất long
trọng và đúng nghi thức. Chị cảm thấy hình như có chút phô trương cố ý.
Thất vọng vì sau khi đã gặp
"cấp cao nhất" mà chẳng biết thêm điều gì, chị đành cam chịu không
tìm hỏi nữa, dù chưa hết nghi hoặc. Rồi thời gian và cuộc sống vất vả và những
lo toan hàng ngày cũng làm chị nguôi ngoai dần. Chị lặng lẽ sống cùng con gái
như bao gia đình khác thời ấy. Với tư cách là vợ liệt sĩ, đều đặn mỗi năm hai
lần, vào dịp tết âm lịch và ngày 27 tháng Bảy, chị đón khách đến thăm hỏi và
tặng quà, trong đó có cả ông cấp cao với nụ cười dễ mến. Không bao giờ ông quên
động viên chị "vượt lên đau thương mất mát để tiếp tục sống". Có lần
ông còn nhắc đến cả hai tiếng chờ đợi. Nhưng chị đã không còn băn khuăn vì nó.
Qua mấy đợt cải tạo thương
nghiệp, cửa hàng nữ trang nhỏ bé của chị vẫn được để yên như theo lệnh ai đó từ
trên xuống. Tuy nhiên, do khó khăn vật chất thời hậu chiến và do cả lối sống
mới xã hội chủ nghĩa khắc khổ, mặt hàng nữ trang trở thành thứ xa xỉ không cần
thiết. Chị mấy lần định chuyển sang nghề khác mà chưa được. Không ít lúc chị
lâm vào cảnh túng quẫn thực sự, và, thật kỳ lạ, những lúc ấy chị thường gặp may
bất ngờ. Thí dụ đang khi cửa hàng ế ẩm nhất thì bỗng có ông khách đến mua với
khối lượng lớn mà chẳng cần mặc cả. Hoặc đi trên đường, chị bất ngờ nhặt được
chiếc ví đựng đầy tiền. Vốn trung thực, chị mang nộp đồn công an. Mấy ngày sau
công an lại đem nó đến cho chị, bảo không tìm được người mất, chị cứ giữ mà dùng.
Lúc đầu còn cho là chuyện ngẫu
nhiên, nhưng sau nhiều lần, chị đâm nghi. Chị chợt nhớ những lời bóng gió
"chúng tôi luôn ở bên chị và giúp đỡ khi cần thiết" người ta đã nói.
Nếu vậy sao không đàng hoàng mà giúp lại phải dùng đến cách lén lút đáng ngờ
ấy? Chị nhớ có lần đi chợ về, thấy một người đàn ông đánh rơi cái gì đó xuống
đường, chị cúi nhặt lên. Lại chiếc ví đựng tiền. Chị vội vã kêu to, đạp xe theo
người kia để trả lại, nhưng anh ta cố tình không nghe rồi phóng xe mất hút như
bị ma đuổi.
Chị biết ơn những người giúp đỡ
chị, tất nhiên, nhưng không thích và thực sự không muốn được tiếp tục giúp theo
cách này. Nó có cái gì đấy bí ẩn, mờ ám và đáng sợ. Nhưng bất chấp ý muốn của
chị, thỉnh thoảng chị vẫn có khách sộp, thỉnh thoảng vẫn nhặt được tiền. Có
điều, chị không còn mang lên đồn công an nữa.
Năm tháng cứ thế lặng lẽ trôi
qua. Chị cũng lặng lẽ hòa mình vào nhịp sống chung của toàn xã hội. Các kỷ niệm
xưa cứ phai dần, phai dần. Thực tế nghiệt ngã bắt người ta phải sống bằng hiện
tại, và chị đang sống với nó. Tự chị cũng lấy làm ngạc nhiên rằng càng ngày chị
càng ít nghĩ về chồng. Bây giờ chị thực sự tin anh đã hy sinh và đã thôi chờ
đợi. Điều này làm chị thanh thản. Thế mà đúng lúc chị tưởng đang được hưởng sự
thanh thản ấy thì người ta lại đến để nhắc chị về anh, về cách mạng với những
hy sinh cao cả mà nó đòi hỏi ở mọi người. Lần nữa người ta lại bóng gió nhắc
đến hai chữ chờ đợi...
Một hôm, chị khó chịu hỏi thẳng
ông "cán bộ cấp cao nhất" khi ông đến thăm và tặng quà như thường lệ:
- Có chuyện gì các anh cứ cho tôi
biết hết cả đi, đừng úp mở mãi như thế. Có phải chồng tôi chưa chết và đang làm
một nhiệm vụ gì đấy bí mật, đến mức các anh còn giấu cả tôi phải không?
Ông kia ngồi im hồi lâu, mãi đến
khi đứng dậy ra về mới nói, giọng buồn buồn:
- Không, chồng chị đã hy sinh.
Tôi khẳng định với chị điều này. Nhưng... Chào chị, tôi về.
Lúc con gái chị vừa học hết phổ
thông, bỗng bà mẹ chồng từ Pháp về thăm quê trong một đoàn Việt Kiều yêu nước.
Bà cụ, lúc này đã già và yếu lắm rồi, khẩn khoản xin chị cho mang cháu sang
Pháp học đại học để sống cùng bà cho đỡ buồn vì ông chồng bà đã chết. Thoạt
đầu, nghĩ đến việc phải xa con, chị hoảng sợ, vội vàng từ chối. Nhưng trước
những lời van vỉ không phải không có lý của mẹ chồng và cũng vì tương lai của
con, dần dần chị xiêu lòng. Thời ấy được đi nước ngoài khó lắm, chị biết thế,
nên mặc dù đồng ý, chị vẫn thầm hy vọng người ta không cho nó đi. Thế mà nó
được đi. Tất nhiên trước đó ông "cán bộ cấp cao" có đến gặp chị để
hỏi chuyện này, và chị gật đầu.
Vậy là chỉ còn lại mình chị. Năm
tháng tiếp tục trôi qua, lặng lẽ như chính cuộc đời cô đơn của chị. Có lẽ nó
vẫn tiếp tục trôi qua như thế nếu không có một người đàn ông xen vào. Đó là ông
một cán bộ miền nam tập kết góa vợ, trạc tuổi chị, lúc này đã ngoài bốn mươi.
Chị làm quen với ông ở nhà một người bạn. Có thể ngẫu nhiên, cũng có thể do
người bạn kia chủ ý sắp xếp. Họ cảm tình với nhau, thân nhau, và sau một thời
gian ngắn, ông này "xin được cưới chị làm vợ, nếu chị không có gì phản
đối". Ông nói nguyên văn như vậy. Chị thầm cười cách tỏ tình kiểu hành
chính của ông, và đã không "không có gì phản đối". Một cuộc sống mới
dường như đang mở ra trước chị. Thế mà bỗng nhiên con người vừa hăm hở muốn tổ
chức lễ cưới càng sớm càng tốt ấy lại cố tình né tránh chị. Cảm thấy ít nhiều
bị xúc phạm, chị quyết định hỏi cho ra nhẽ. Vất vả lắm chị mới tìm gặp được ông
ta và hỏi luôn:
- Có người không cho anh lấy tôi
à?
Ông kia không đáp, chỉ buồn rầu
nhìn chị như người có lỗi. Thế là chị hiểu. Mối nghi ngờ lờ mờ trước đó đã được
khẳng định.
Ngay hôm sau chị đến gặp ông
"cán bộ cao cấp". Ông này dường như không ngạc nhiên khi thấy tự chị
tìm đến, dù đây là lần đầu chị làm thế sau bao nhiêu năm.
- Tại sao các ông không cho tôi
lấy chồng ?
- Chị bình tĩnh ngồi xuống, uống
với tôi chén nước đã. - Ông kia thong thả đáp. - Chị biết đấy, chúng tôi không
có quyền và không thể ngăn ai đó lấy vợ lấy chồng. Chuyện riêng tư mà...
- Nhưng các ông đã không cho anh
ấy lấy tôi. Cũng thế cả.
- Anh ấy bảo với chị thế à? Mặc
dù tôi chưa biết anh ấy là ai.
- Không, anh ấy không nói thế,
nhưng...
- Chị thấy chưa, - đến lượt ông
cán bộ ngắt lời chị. - Chúng tôi chỉ mong hạnh phúc cho chị, người vợ thủy
chung của một chiến sĩ cách mạng, một phụ nữ...
- Ông nói thủy chung. Suốt đời
tôi phải thủy chung với chồng tôi, người đã chết cách đây hai mươi năm hay sao?
Chị vừa nói vừa khóc rồi bỏ chạy
ra ngoài. Chị cảm thấy căm ghét con người tốt bụng, bí ẩn và đáng sợ này. Suốt
đêm hôm ấy chị nằm tấm tức mãi. Chị trách ông miền nam hèn, trách ông cán bộ
độc ác, trách chồng sớm hy sinh, nếu thực sự đã hy sinh, để chị phải suốt đời
đau khổ.
Mấy ngày sau, chị lại "tình
cờ" nhặt được ví tiền. Không thèm giở ra xem, chị giận dữ vứt nó vào thùng
rác bên cạnh.
Chưa đầy nửa năm, lần nữa tình
yêu lại đến với chị. Hay đúng hơn, chị chủ động tìm nó. Vốn xinh đẹp, dẫu đã có
tuổi, lại dịu dàng, tế nhị, đối với chị chuyện này không khó. Trong chị, sự ấm
ức, chua xót của người đàn bà bị xúc phạm tự lúc nào dần dần biến thành sự phản
kháng tự nhiên, gần như thách thức. Chị muốn được tự quyết định đời mình và sẵn
sàng đấu tranh vì nó.
Người chị yêu và cũng rất yêu chị
lần này là một nhà khoa học không hiểu sao bốn mươi lăm tuổi vẫn chưa vợ. Anh
cận thị nặng, ít nói và thường hỏi những câu rất buồn cười. Chị thấy yêu yêu
cặp kính dày cộp và những câu hỏi ngô nghê ấy. Anh sống độc thân trong căn
phòng tập thể mười hai mét vuông, sách vở chiếm hơn nửa. Ấy là chị nghe nói vậy
chứ chưa bao giờ đến nhà anh, và cũng không cho anh đến nhà mình.
Chị đã có kinh nghiệm và rất đề
phòng. Hai người chỉ hẹn gặp nhau trong công viên hay một hàng kem nào đó.
Thường chỉ vào buổi tối. Chị khéo léo che dấu tình yêu một thời gian khá lâu,
cho đến một hôm, khi đang đi dạo cùng anh bên bờ hồ Thuyền Quang, linh tính
mách chị hình như đang có ai theo dõi phía sau. Để kiểm tra, chị kéo anh ngồi
xuống quán nước bên đường. Người kia cũng dừng lại, vờ lơ đãng nhìn quanh. Họ
đi, anh ta cũng đi theo. Chị lo sợ, bảo nhà khoa học ngay sáng hôm sau xuống
Hải Phòng, quê ngoại chị, và hai người sẽ làm lễ cưới ở đó. Anh kia không hiểu,
chỉ lắc đầu cười chị có những ý nghĩ kỳ cục.
Mấy hôm sau, đến lượt nhà khoa
học người yêu của chị tìm cách lánh mặt. Anh dài dòng viện đủ lý do thanh minh
nhưng chị không muốn nghe. Chị cũng chẳng buồn tìm gặp để chất vấn ông
"cán bộ cấp cao" kia nữa. Những năm tiếp theo chị còn vài lần thử tìm
hạnh phúc cho mình nhưng lần nào cũng không thành do có sự can thiệp của bàn
tay vô hình nào đó chị biết mà chẳng thể làm gì được. Cuối cùng, hoàn toàn mệt
mỏi và thất vọng, chị đầu hàng buông theo số phận, nhẫn nhục sống trong đau khổ
và "chờ đợi" như người ta mong muốn ở chị. Chờ đợi cái không bao giờ
đến.
Nhưng chị nhầm...
*
Cuối tháng Năm 1975, có một người
đàn ông đến tìm chị, lúc này được gọi là bà. Từ lâu tiếng chân người lạ ngoài
cửa đã không còn làm bà chú ý. Thui thủi một mình, bà sống vật vờ như chiếc
bóng, như con sâu bị dẫm dưới đế giày không còn ngoi lên được. Có thể vì thế mà
bà trông già hơn tuổi, thân hình khô đét, mái tóc bạc gần hết, và trên mặt có
nhiều, rất nhiều những nếp nhăn.
- Ai cần gì thì vào đi, cửa mở, -
bà thờ ơ nói.
Người ấy là chồng bà. Cả hai đứng
lặng nhìn nhau hồi lâu. Họ đã nhận ra nhau, mỗi người đeo đuổi những ý nghĩ riêng
và không ai dám lên tiếng trước. Cuối cùng ông nói, khẽ đến mức chính ông cũng
không nghe rõ:
- Xin bà hãy tha lỗi cho tôi. Tôi
biết bà phải chịu nhiều đau khổ. Tôi thương bà lắm nhưng chẳng giúp được bà
điều gì. Bà biết đấy, tôi hoạt động bí mật trong lòng địch. Hoàn cảnh bắt buộc
phải thế. Tổ chức cũng rất thương bà, nhưng...
- Không, ông đã lừa dối tôi. Tổ
chức của ông cũng lừa dối tôi, hủy hoại cả cuộc đời tôi. Trời ơi, sao các ông
ác thế! Tôi có tội tình gì mà các ông nỡ làm tôi khổ thế! - Đôi mắt bà từ nãy
đến giờ nhìn trân trân, ráo hoảnh bỗng dàn dụa. Bà khóc. Khóc to mà không sợ
hàng xóm nghe thấy.
Chồng bà đứng im, mắt cũng rưng
rưng. Ông hiểu. Ông cứ để bà khóc, chừng nào còn nước mắt.
Rồi bà nhìn thẳng vào mắt ông,
nói một thôi không nghỉ những gì bị nén trong lòng bao năm nay. Trông bà lúc ấy
thật dễ sợ.
- Các ông không chỉ lừa dối mà
còn coi thường tôi, khinh tôi. Tại sao người ta không cho tôi biết ông còn sống
và đang làm cái việc ông vừa nói? Sợ tôi không giữ được bí mật sao? Sợ tôi tố
giác với địch sao? Ông bảo người ta thương tôi. Thương kiểu ấy à? Họ cứ bóng
gió bảo tôi chờ đợi. Chờ đợi ai? Chờ đợi cái gì và bao lâu? Ông tưởng phụ nữ, cả khi trung hậu đảm đang
và thủy chung như họ nghĩ, có thể suốt đời chịu đựng được điều ấy sao? Nếu biết ông chưa chết, tôi sẵn sàng chờ ông,
chờ ba mươi năm, năm mươi năm, chờ cho đến khi tôi chết mà không kêu một lời
nào. Đằng này...
- Thì bây giờ tôi đã về đây với
bà.- Ông rụt rè cắt ngang. - Bà chỉ phải chờ có ba mươi năm.
- Nhưng ba mươi năm qua không
phải chờ đợi mà là ba mươi năm đau khổ, vì không biết phải chờ cái gì. Đúng
hơn, đó là ba mươi năm không được chờ đợi. Các ông bảo các ông chiến đấu vì
hạnh phúc của nhân dân. Tôi không là nhân dân sao? Sao các ông không nghĩ tới
hạnh phúc của tôi?
- Thì nào tôi nào có sướng gì hơn
bà. Tất cả tại chiến tranh.
Bà im lặng, lấy khăn lau nước
mắt.
- Vâng, tôi biết. Ông cũng khổ,
có thể còn khổ hơn tôi. Lại nguy hiểm nữa, nhưng ông không nghĩ rằng cả tôi và
ông sẽ đỡ khổ hơn nếu tôi được biết sự thật?
- Vâng, có thể bà nói đúng, nhưng
đây là nguyên tắc của ngành tình báo. Không ai được phép biết tôi còn sống
ngoài chính bản thân tôi, ông bộ trưởng và lãnh đạo trực tiếp của tôi...
- Cái ông mặc áo đại cán, người
gầy gầy?
- Vâng. Ông ấy là thủ trưởng
ngành, một vị tướng.
- Một vị tướng thật đáng yêu!
Chồng bà lờ như không nghe lời
nhận xét châm chọc của vợ. Người ta đã báo ông biết hết mọi chuyện.
Sau đó, bình tĩnh trở lại, hai
người ngồi nói chuyện suốt đêm. Không biết họ nói với nhau những gì, chỉ thấy
hôm sau ông chồng lại xách túi trở về cơ quan. Ở đấy, người ta bố trí cho ông
một căn phòng vừa làm việc vừa làm nơi ở, với một chiến sĩ cần vụ lo việc nấu
ăn, giặt dũ cho ông. It lâu sau ông xin nghỉ hưu vì lý do sức khỏe, dù mới được
phong hàm đại tá. Còn bà thì vẫn ở nhà cũ của mình, tiếp tục sống như bao năm
nay đã sống. Thỉnh thoảng ông có đến thăm bà, lần nào cũng mang theo những món
quà nho nhỏ mà ông biết bà rất thích. Ông cư xử, ăn nói như một người khách và
cũng được bà đáp lại theo cách ấy. Có thể thân mật hơn chút ít, đại khái như
cách các cặp vợ chồng ly thân vẫn đối xử với nhau. Còn vị tướng nọ thì nghe nói
một lần tới thăm, bà không tiếp, sau chẳng thấy đến nữa.
Cứ thế thời gian trôi qua, hết
năm này đến năm khác. Bây giờ cả hai người đã là những cụ già đáng kính ở tuổi
trên dưới tám mươi. Các cụ vẫn mạnh khỏe, minh mẫn, và thỉnh thoảng vẫn gặp
nhau. Có lần người ta còn thấy hai cụ cùng chống gậy dạo quanh hồ Hoàn Kiếm.
Nhưng những lần như thế hiếm lắm.
*
Như đã nói, tôi ngẫu nhiên là hàng
xóm của cụ bà. Thỉnh thoảng tôi được cụ nhờ đến nhà cụ ông nhắn tin hay mang
chút quà vặt vãnh nào đó. Đôi khi chỉ là tấm bưu thiếp hay một bông hoa. Một
chứ không phải cả bó, mà lại luôn là hoa hồng màu trắng. Vì sao tôi không biết
và cũng chẳng bao giờ hỏi cụ.
Có lần tôi đùa nói:
- Cụ ghê thật. Thù dai thế. Cháu
phục cụ đấy.
Cụ nhìn tôi không đáp. Tôi cứ
tưởng sẽ bị cụ mắng. Nhưng không, cụ chỉ cười. Một nụ cười móm thật đáng yêu.
-
Cậu mới
lớn, lại đàn ông, hiểu gì đàn bà mà đòi xen vào.
Hà Nội, 21. 12. 2000
BIỂN NHA TRANG
- Tôi vừa gặp ông lão nhà tôi
đấy, cô ạ.
Người đàn bà ngồi bên không đáp.
Mụ đang bận nhặt mớ rau muống già cho bữa cơm chiều. Qua ô cửa hẹp của căn
phòng gác hai tường tróc loang lổ, những tia nắng vàng vọt yếu ớt rọi vào,
khiến mụ vốn mắt kém, cứ nhầm lẫn lá
xanh với lá vàng. Vả lại cái câu nói ấy mụ nghe mãi rồi, đến chán không muốn
nghe nữa. “Rõ lẩm cẩm. Chết thì chết quách đi cho xong, lại còn gặp với chả
không. Cứ như uyên ương đang yêu nhau không bằng”.
- Rồi sao nữa? Chắc hai cụ hú hí
với nhau thích lắm nhỉ? - cuối cùng mụ lên lên tiếng châm chọc.
Mụ ít học, thô lỗ và tham lam,
nhưng không hẳn là người độc ác. Hoàn cảnh bắt mụ thành người như vậy. Mụ bán
rau ở phố bên, có thằng con nghiện hút và lão chồng vừa vũ phu vừa nát rượu. Mụ
được thuê trông coi bà lão hơn bảy mươi tuổi đang ốm nằm chờ chết trên giường
bên cạnh. Nghe nói bà lão bị ung thư gì đó, ở bệnh viện hơn hai tháng, sống
bằng đủ các loại chai lọ và ống nhựa, sau thấy tốn kém quá mà chẳng ích gì
(riêng tiền giường đã hai trăm nghìn đồng một ngày), người ta đưa bà về nhà. Cứ
tưởng rút mớ chai lọ và dây dợ kia là bà lão chết ngay, thế mà vẫn cứ sống,
nghĩa là nằm bất động một chỗ, ăn uống đái ỉa một chỗ, và cũng ít khi tỉnh táo
lại nói những câu ngớ ngẩn như lúc nãy.
Ở nhà, người ta đã lo sẵn mọi thứ
cho đám tang, phân công cụ thể người nào làm việc gì, vậy mà mãi người bệnh
chẳng chịu chết cho, khổ cả mình lẫn người khác. Lúc đầu còn có người đến thăm
hỏi, chăm sóc, sau rồi thưa dần, thưa dần, cuối cùng còn lại mụ trông thuê này.
Bà lão chỉ có một anh con trai
năm nay ngoài bốn mươi, vợ bỏ mang con đi theo. Còn chồng bà thì chết cách đây
những ba chục năm. Anh con ở nhà trông mẹ được đúng một tuần thì bỏ đi làm,
phần do công việc, phần quá mỏi mệt vì
chờ đợi, vì căn phòng chật hẹp, nặng nề và đầy mùi hôi thối. Anh ta đảo qua nhà
mỗi ngày hai lần vào buổi trưa và chập tối, mà cũng chỉ mấy phút rồi đi ngủ đâu
đấy ở nhà bạn, viện cớ bận. Mọi việc khoán trắng cho mụ bán rau. Tuy nhiên, mụ
chẳng phải làm gì nhiều. Cái gọi là vệ sinh mụ chỉ làm qua quít, đủ để khỏi đến
mức không chịu nổi. Còn ăn uống thì chẳng lo vì bà lão gần như không có nhu
cầu. Quan trọng nhất là mụ phải luôn có mặt ở đây cả ngày lẫn đêm để khi chết
thì gọi điện báo ngay cho anh con. Thế mà mụ vẫn bỏ đi lo công chuyện riêng một
vài giờ là thường. Lúc đầu mụ được thuê hai mươi lăm nghìn đồng một ngày, sau
bắt bí lên bốn mươi nghìn mà anh con vẫn phải chịu. Mụ mừng có được việc làm
nhàn nhiều tiền, lại khỏi bị ông chồng say đánh đập, miễn là đều đặn đưa tiền
cho hắn uống rượu. Thành ra mụ là người duy nhất mong bà lão sống lâu. Càng lâu
càng tốt, nhưng không được khỏi bệnh để mụ mất việc.
- Tôi vừa gặp ông nhà tôi đấy, cô
ạ, - bà lão lại nói, không hướng vào người nghe. Đây là lúc hiếm hoi bà tỉnh để
có thể nói được, dù rất khó khăn.
- Thôi, cụ im đi cho khỏe. - Mụ
trông thuê thô lỗ đáp. - Ông ấy chết từ đời tám hoánh nào, gặp quái được. Chỉ
giỏi phịa.
- Không, tôi gặp thật mà. Gặp cái
thời chúng tôi mới quen nhau ấy.
- Thế ông ấy nói gì với cụ?
- Chẳng nói gì cả. Chỉ lặng lẽ
cởi quần áo của tôi thôi...
- Rõ dơ! - mụ hàng rau nhăn mặt.
- Già chết đến đít mà còn đem chuyện khỉ ra kể. - Mụ cũng không hiểu vì sao tự
nhiên mụ cáu kỉnh như vậy với bà già tội nghiệp đáng lẽ mụ phải mang ơn. Mụ còn
trẻ, to béo, đang độ xồn xồn mà anh
chồng nghiện ngập của mụ chẳng được tích sự gì.- Rồi sau thì sao? Chắc thích
lắm nhỉ?
Bà lão không nói nữa, có thể vì
phật ý. Cũng có thể vì lại thiếp đi hoặc đang chìm vào cái quá khứ xa xăm kia,
khi chồng bà lần đầu làm cái việc bị mụ bán rau cho là “dơ” ấy.
*
Thời mới hòa bình, một đơn vị bộ
đội miền Nam tập kết ra Bắc có đóng quân chừng một tháng ở làng Vĩnh Yên bên
Kênh Nhà Lê. Cái làng nông thôn yên ả ấy bỗng một hôm trở nên sôi động hẳn lên
khi đang đêm dân quân giải về một cô gái người làng và một anh bộ đội của đơn
vị trên. Họ bị bắt quả tang “đang ngồi cạnh nhau trên Gò Chùa vào lúc mười một
giờ rưỡi!”
Không biết anh kia thế nào, chứ
cô gái thì bị cả tổ chức thanh niên và phụ nữ kiểm điểm suốt hai đêm liền.
“Chúng tôi yêu nhau và không làm điều gì xấu cả”, cô yếu ớt cãi lại. “Yêu nhau
sao không xin phép đoàn thể? Không làm gì sao phải ra tận Gò Chùa, lại vào lúc
đêm hôm khuya khoắt? Nhất định phải có chuyên!” Cô chẳng biết nói gì thêm, mà
có nói cũng không ai tin, nhưng quả đúng họ yêu nhau và tối ấy họ “không làm
điều gì xấu” thật. Thậm chí không dám cầm tay nhau. Còn cái “chuyện dơ” kia thì
mãi sau này mới xẩy ra, vào đêm cuối cùng trước khi đơn vị bộ đội lên đường,
cũng ở Gò Chùa nhưng may không bị dân quân bắt gặp.
Đêm ấy hầu như chỉ mình anh nói,
còn cô bẽn lẽn ngồi bên say sưa lắng nghe. Anh kể nhiều về quê hương anh ở Nha
Trang với bãi biển cát trắng mịn, “còn nước thì xanh biếc, em tin không, xanh
trong đến mức có thể nhìn thấy cả từng viên sỏi sâu hàng chục mét dưới đáy!”
Tất nhiên cô tin và hình dung bãi biển Nha Trang của anh rất đẹp, đẹp hơn cả tờ
tranh họa báo cắt dán trên tường nhà cô. “Hai năm nữa, sau tổng tuyển cử, anh
sẽ đưa em về làm dâu quê anh và chúng ta sẽ tắm trên bãi biển ấy. Không phải
mặc cả quần áo mà tắm như ở đây đâu. Mặc áo bơi cơ. Em thích không?” “Thích.
Nhưng thế thì ngượng lắm”.
Quê cô cũng có biển, chỉ cách
làng ba cây số về phía dưới, nước cũng trong nhưng không xanh, còn bãi biển thì
bẩn, đầy rác rưởi, phân trâu bò và phân người. Cô chưa tắm biển bao giờ, mặc áo
bơi mà tắm lại càng không. Cô ngượng, nhưng từ đó bắt đầu thầm mơ ước có ngày
được cùng anh tắm ở bãi biển Nha Trang thần tiên ấy.
Trong đầu óc chất phác của cô gái
nông thôn chưa bao giờ đi xa quá phố huyện này đã hình thành ngày càng rõ nét
bãi biển ước mơ của cô, với những hàng dừa cao vút tận trời, với nước biển xanh
như màu mực viết thằng bé nhà bên. Trời cũng xanh như thế. Nắng chói chang
nhưng không gắt. Còn xa xa là chiếc cầu vồng rực rỡ đủ bảy màu như trong chuyện
cổ tích. Cô biết trời nắng không có cầu vồng, thế mà lần nào nhắm mắt tưởng
tượng, không hiểu sao cô vẫn thấy nó. Còn trên biển thì chẳng có ai ngoài cô và
anh đang tắm, hạnh phúc như hoàng tử và công chúa. Chỉ những con cá nhỏ đủ màu
lượn lờ quanh họ. Ớớc mơ ấy trở nên rất hiện thực, rất gần, tưởng có thể chạm
tay vào được, và cô tin chẳng bao lâu nữa cô sẽ trở thành công chúa sống bên
hoàng tử của mình trên bãi biển Nha Trang.
Tuy nhiên, trong khi chờ được nếm
mùi hạnh phúc trên thiên đường, cô phải trải qua không ít khổ đau nơi địa ngục.
Số là chỉ mấy tháng sau, cô bị đem ra cuộc họp chung của cả làng để mọi người
xỉ vả về tội chửa hoang. Thời ấy tội này lớn lắm, trên tội ăn cắp, dưới tội
giết người. Giết người, ăn cắp vào tù là yên, còn chửa hoang là vết nhục cả đời,
của mình và cha mẹ, là cái gương xấu để người ta đem ra răn đe các cô gái trẻ.
Lúc này người yêu cô đang ở tận Tây Bắc xa đến cả nghìn cây số.
Hay tin, anh viết ngay cho ủy ban
xã một bức thư có xác nhận của đơn vị, khẳng định họ thực sự yêu nhau và nay
mai anh sẽ xin về phép làm lễ cưới. Làng không chịu, cứ kiểm điểm, cứ phạt, ít
ra về tội dám “ăn cơm trước kẻng” “không phù hợp đạo đức cách mạng và con người
mới xã hội chủ nghĩa!” Mức phạt là tạ nếp và con lợn sáu mươi cân để tạ tội dân
làng. Thế là nhẹ, chứ thời trước còn bị đánh đòn, cắt tóc bôi vôi và phải luôn
đeo hai chữ chửa hoang trước bụng. “May cho mày đấy. Không nhờ cách mạng thì
còn khốn!”
Cô chỉ thương bà mẹ già phải mang
nhục vì mình (bố cô chết từ lâu trước đó), tiếc tạ nếp cùng con lợn, chứ phần
cô, cô dửng dưng không sợ gì. Cô còn cố tình ưỡn cái bụng chửa hoang trước mặt
mọi người. Điều này suýt nữa khiến người ta tăng gấp đôi mức phạt. Cô tin ở anh
và giấc mơ biển Nha Trang của hai người. Tiếc rằng anh, vì nhiều lý do, mãi gần
một năm sau mới về được để cưới cô làm vợ, lúc đứa con đã ra đời nhưng cũng
chết ngay sau đó. Anh đưa cô lên Điện Biên làm cấp dưỡng trong đơn vị mình. Họ
sống ở đấy cho đến năm 1970 khi anh được chuyển về Hà Nội và phân căn phòng
mười tám mét ở khu phố cổ hiện nay.
Vậy là giấc mơ tắm biển Nha Trang
của họ vẫn chưa thực hiện được. Họ hẹn chờ ngày đất nước thống nhất. Dẫu lúc ấy
có thể đã già nhưng họ vẫn sẽ là công chúa và hoàng tử cùng nhau bơi trong làn
nước xanh biếc có những con cá đủ màu vây quanh, có mặt trời ấm áp và cả chiếc
cầu vồng rực rỡ như cô mong muốn. Họ sống vì nhau và vì ước mơ lãng mạn đó.
Tiếc thay anh không sống được đến
năm bảy lăm để đưa vợ về thăm quê mình. Anh chết vào mùa đông 1972 vì một cơn
nhồi máu cơ tim. Người con trai cô sinh ở Điện Biên lúc này đã lớn. Nếu muốn nó
có thể đưa cô đi, hoặc cô tự đi một mình cũng được, nhưng một mình thì cô không
muốn vì điều ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Trong ước mơ của cô luôn có hai người, nay
một người không còn, do vậy cũng không còn ước mơ ấy nữa. Thực sự cô cũng không
còn sống với đúng nghĩa của nó. Cô trở nên thờ ơ với mọi chuyện. Có thể vì thế
mà cô đã không dạy dỗ đứa con duy nhất của họ đến nơi đến chốn chăng? Cô yêu
con, tất nhiên, nhưng tình yêu ấy chẳng thấm gì so với tình yêu vợ chồng cô
cùng mơ ước biển Nha Trang của họ...
*
- Tôi lại gặp ông nhà tôi đấy, cô
ạ, - bà lão lại khẽ cựa mình. Chắc bà không biết và cũng chẳng muốn biết người
đang nghe là ai.
Mụ hàng rau lúc này đang ăn vụng
sữa của người bệnh, giật mình, vội chùi mép, nhẹ nhàng đặt hộp sữa đặc vào chỗ
cũ. Mụ khó chịu, nói:
- Gặp gì mà nhiều thế. Lại cởi
quần nhau nữa chứ gì?
- Không. Tôi và ông ấy bay trên
biển Nha Trang...
- Còn vào tận đấy để bay lượn với
nhau! Khéo vẽ chuyện. Thích chứ? - mụ mỉa mai, thầm hình dung bộ xương già khô
héo đang chờ chết trên giường bay như thế nào giữa bao la trời biển.
- Thích lắm. Biển đẹp lắm. Chỉ
toàn màu xanh và màu hồng. Cả đàn cá cũng bay với chúng tôi. Chúng tôi bay, bay
mãi, cuối cùng ông ấy đỡ tôi ngồi lên chiếc cầu vồng sát chân trời. Sợ, nhưng
mà thích lắm. Đẹp lắm cô ạ...
“Bà lão này điên mẹ mất rồi,” mụ
kia lẩm bẩm, rồi yên tâm cầm hộp sữa mút chùn chụt.
Mặt trời còn lâu mới lặn, nhưng
căn phòng nhỏ với chiếc cửa sổ duy nhất ngoảnh ra phố không đủ ánh sáng. Tiếng
người rao tào phớ từ dưới đường vọng lên nghe vừa buồn cười vừa não ruột. Mụ
trông thuê bật đèn, đang định bỏ ra ngoài thì bà lão khẽ gọi:
- Này cô.
- Lại chuyện gì nữa? Tè ra quần
à? Chốc nữa thay luôn thể. - Mụ xẳng giọng đáp.
- Không, tôi muốn nhờ cô việc
này.
- Việc gì?
- Cô làm ơn lấy hộ tôi chiếc lọ
trên bàn thờ.
- Lọ nào?
- Chiếc lọ sứ màu đen có nắp ấy.
Cô đưa nó lại đây cho tôi.
Không biết bà lão cần nó làm gì,
nhưng tò mò, mụ cũng làm theo. Chiếc lọ to bằng quả dưa hấu và khá nặng. Nghi
bên trong có thể có đồ quí, mụ mở nắp cho tay vào sờ nhưng chẳng thấy gì ngoài
mấy tờ vàng mã và lưng lọ tro không mịn lắm.
- Cái quái gì thế này? - mụ hỏi
khi trao chiếc lọ cho bà lão. Mụ còn ngạc nhiên hơn khi thấy bà lão ôm chặt nó
vào ngực. Trên khuôn mặt nhăn nheo xuất hiện hai giọt nước mắt lớn màu đục. Bà
vừa đưa cả hai tay xoa xoa khắp chiếc lọ, vừa mấp máy môi nói gì đó mụ nghe
không rõ. Rồi bà mở nắp lọ lấy ra một nhúm tro, áp vào miệng. Sợ chiếc lọ nặng
có thể làm bà lão nghẹt thở, vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xẩy ra, mụ kia vội
dằng lấy nó, đặt lên bàn thờ như cũ.
- Bây giờ cô muốn đi đâu thì đi,
- bà lão yếu ớt nói rồi lại nằm thiếp
đi, nét mặt thư thái.
... Đó là chiếc lọ đựng ít tro
hài cốt của chồng bà. Không biết trước đó hai người có dặn dò gì nhau không,
nhưng khi chồng chết, bà lão khăng khăng đòi thiêu xác. Thời ấy chưa có lò
thiêu hiện đại như bây giờ ên người ta phải tẩm xăng mà đốt, cái gì chưa cháy
hết thì đem dã nhỏ. Sau đó bà còn bắt cho một ít tro vào lọ để lên bàn thờ. Mọi
người phản đối kịch liệt, đặc biệt anh con, với lý do như thế là điềm gở, có
thể mang tai họa cho cả nhà. Cuối cùng mọi người vẫn phải nghe theo. Suốt mấy
chục năm nay ngày nào bà cũng thắp hương, thì thầm trò chuyện với chồng, lần
nào cũng không quên chạm tay vào chiếc lọ.
Một hôm có ông khách đến chơi.
Vừa bước vào nhà ông ta đã nhíu mũi đưa mắt nhìn quanh: “Tôi thấy trong nhà này
có sự hiện diện của người chết!” Bà lặng lẽ chỉ tay vào chiếc lọ trên bàn thờ.
Ông kia hiểu, khuyên bà nên đem chôn thành mộ. Anh con nhân chuyện này càng
thúc ép mẹ nhưng bà một mực không chịu. Mọi người bảo chính vì thế mà gia đình
bà sa sút. Đứa con trai không hư nhưng cũng chẳng ngoan, công việc làm ăn trầy
trật và đường vợ con chẳng ra gì. Bản thân bà thì ốm đau luôn, nhưng bà không
tin tất cả đều do chiếc lọ ấy, và cứ bắt giữ nó trong nhà cho đến tận bây giờ.
*
Sáu giờ tối anh con trai mới đến
thăm mẹ. Mụ trông thuê vẫn đi đâu chưa
về. Anh ta gắt om lên rồi quay sang hỏi, vồn vã một cách thiếu tự nhiên:
- Mẹ có đỡ hơn không ạ? Mẹ đã ăn
gì chưa? Bây giờ mẹ thấy trong người thế nào?
Bà lão nằm yên, mở mắt và khẽ gật
đầu. Anh con đã mấy lần khịt khịt mũi vẻ khó chịu, nhưng vẫn cố nán thêm chốc
nữa, sốt ruột đi đi lại lại.
- Mẹ có cần con làm gì không ạ?
Bà lão muốn ngồi dậy nhưng không
được, bèn ra hiệu kê thêm chiếc gối cho đầu cao lên.
- Con lấy ghế ngồi xuống đây. Mẹ
có chuyện này muốn nói với con.
- Dạ, có gì xin mẹ cứ nói.
- Có lẽ mẹ sắp đi rồi. Mẹ muốn
con hứa với mẹ một điều. Con hứa và sẽ làm đúng như thế. Con có hứa không?
- Có. Con xin hứa sẽ làm tất cả
những gì mẹ dặn. - Anh con vội đáp, lần này thì thành thật vì biết đây là lời
trăn trối cuối cùng của mẹ.
- Kia là chiếc lọ với ít tro hài
cốt bố con. - Bà lão chỉ tay về phía bàn thờ. -
Bố con là người tuyệt vời, chỉ tiếc bỏ mẹ con mình ra đi sớm quá. Mẹ
muốn sau khi chết con cho thiêu xác rồi trộn tro hài cốt của mẹ với của bố con.
Sau đó con đem vào quê bố, đi thuyền ra biển thật xa rồi rắc xuống nước. Suốt
đời mẹ và bố con chỉ có một ước mơ được cùng nhau tắm biển Nha Trang nhưng rồi
con biết đấy, vì chiến tranh, vì bố con đi trước, nên cuối cùng ước mơ ấy đến
nay vẫn chưa thực hiện được. Giờ chỉ còn cách như mẹ vừa nói. Vì vậy mẹ mới giữ
chiếc lọ kia trong nhà bao năm nay. Chỉ thế thôi. Con giúp mẹ nhé. Nếu không,
mẹ sẽ chẳng thể nào nhắm mắt nổi.
Anh con nâng bàn tay khô héo của
mẹ áp vào má mình. Lúc này thực tình anh ta rất thương mẹ.
- Xin mẹ yên tâm. Con sẽ làm đúng
như lời mẹ dặn.
- Thế thì mẹ chẳng còn mong gì
nữa. Bây giờ con có thể đi được rồi. Cứ để mẹ một mình, không sao.
- Không, không, hôm nay con sẽ ở
lại đây suốt đêm với mẹ. - Anh con vội nói, xúc động và chân thành.
Bà lão quay người, nhắm mắt, có
vẻ như lại ngất xỉu.
Cuối cùng mụ bán rau cũng về. Anh
con trách mụ mấy câu lấy lệ, nấn ná thêm chốc nữa rồi bảo ra ngoài ăn tối, lát
sau quay lại. Nhưng vốn vô tâm, hời hợt, dễ xúc động và cũng dễ quên, anh ta đi
rồi biệt tăm luôn.
*
Đêm hôm ấy bà lão chết. Chính xác
lúc nào không rõ vì như mọi ngày, mụ trông thuê ngủ liền một mạch đến năm giờ
sáng thì dậy. Theo thói quen, mụ đặt một ngón tay lên mũi bà lão. Không thấy
thở. “Thôi, bỏ mẹ. Bà ta chết rồi!” Và mụ vội vã chạy đến chiếc máy điện thoại.
Xác bà lão được thiêu như mong
muốn. Còn trộn tro hài cốt hai người để rắc xuống biển Nha Trang thì không, vì
đã mười năm nay anh con giấu mẹ đem tro thi hài bố chôn thành mộ ở Bát Bạt. Còn
tro trong chiếc lọ trên bàn thờ là đồ giả. Bà lão được chôn cạnh chồng. Hai
ngôi mộ xinh xắn, có bia đá, có ảnh, và đều được đổ xi măng chắc chắn. Anh con
lấy thế làm hài lòng, tự coi mình là người con có hiếu. Kể ra đôi khi cũng thấy
lương tâm cắn dứt vì đã không làm đúng lời mẹ trăn trối, nhưng anh ta luôn tìm
được lý do để an ủi mình.
“Các cụ già rồi mà còn lãng mạn.
Quăng xuống biển cho cá nó ăn à? Rồi sau con cháu biết tìm đâu mà hương khói?
Hà
Nội, 25. 5. 2001
MẤT NGỦ
Như nhiều người già khác, ông
Dụng mắc chứng mất ngủ, đặc biệt thời gian này, khi ông mới về hưu. Mấy chục
năm ông làm ở ủy ban chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em của thành phố. Công việc
nhàn, chẳng có gì lý thú, thậm chí “vô bổ” như nhiều khi ông nghĩ. Thế mà bỗng
nhiên không còn được làm cái công việc tẻ nhạt và vô bổ ấy nữa, ông cảm thấy
hụt hẫng, người cứ thế nào, thừa tay chân, thừa thời gian, thừa những suy nghĩ
chẳng đâu vào đâu, đáng lẽ cũng thừa cả ngủ vì ông nằm rất nhiều. Nhưng ông lại
mất ngủ.
Vào một đêm mất ngủ như thế, lúc
ấy đã khuya, chắc phải đến mười hai giờ, ông bỗng nghe con Mực nhà ông sủa gắt.
Thường nó vẫn sủa vu vơ khi có ai trong xóm về khuya. Nhưng lần này thì tiếng
nó khác. Tiếng sủa báo có kẻ gian. Nó khôn lắm, về mặt này có thể nói còn khôn
hơn cả người. Rồi im. Chừng mười lăm, hai mươi phút sau lại sủa. Ông nghe nó
nhảy xổ lên cánh cổng và hình dung thấy nó bám hai chân trước lên thanh sắt
nhìn “kẻ gian” với vẻ hăm dọa, cái mõm đầy nanh sắc nhô ra ngoài.
Ngõ nhà ông tối, chỉ được chiếu
sáng bằng ngọn đèn tròn tù mù sáu mươi watt treo trước cổng nhà ông Hoạch cuối
ngõ theo yêu cầu của tổ dân phòng, nhưng chắc con Mực nhìn rõ. Nghe nói không
chỉ mũi mà mắt loài chó cũng tinh lắm. Con béc-giê của vợ chồng ông Bàn giàu
nhất xóm này, chủ một quán nhậu lớn ở chân cầu Long Biên, cũng sủa gay gắt
không kém. Ở đây nhiều nhà nuôi chó, vậy là chúng đua nhau đánh thức cả xóm
dậy. Cả con chó Nhật bé bằng nắm tay nhà ông Hoạch cũng ti toe phụ họa.
Ông Dụng đi ra ban-công, nhìn
xuống và thấy hai thằng choai choai đang đèo nhau bằng xe đạp, tới nhà ông
Hoạch kịch đường, chúng quay ra rồi biến mất. Bầy chó tiếp tục sủa chốc nữa rồi
cũng im. Ngõ phố lại chìm trong im lặng. Đôi nhà còn đỏ đèn. Mọi người chắc đã
ngủ, hoặc giả vờ ngủ, coi như không có gì xẩy ra. ít nhất đối với nhà mình. Đây
là xóm mới, nằm khuất trong một ngõ cụt sát phố Nguyễn Văn Cừ, gồm mười tám căn
nhà riêng biệt do thành phố xây để bán, ai có tiền thì mua, do vậy được coi là
khu xịn, thậm chí trong giấy tờ bán nhà ghi là Khu biệt thự, mặc dù nhà cái nọ
dính vào cái kia. Người mua là dân các nơi khác đến, thuộc loại khá giả, nhưng
nhà ai biết nhà nấy và chỉ giao tiếp ở mức lịch sự vừa phải. Ông Dụng đưa mắt
nhìn một vòng, chẳng thấy động tĩnh gì bèn quay vào nằm.
“Cái bọn choai choai này là ghê
lắm đấy, - bà vợ ông thường nói. - Chúng nghiện ngập, cờ bạc, giết người như
ngóe. Tốt nhất đừng dây, nhỡ gặp chúng phải tránh thật xa!” Ông thấy vợ nói
đúng. Chuyện gì bà ấy nói cũng đúng. Cả xóm này mọi người nghĩ như bà. Có lẽ vì
thế mà như nhiều hôm khác, hôm nay chẳng ai, kể cả ông trưởng xóm kiêm tổ viên
tổ tuần tra mà ông ta không bao giờ tham gia, chạy ra đuổi chúng, chí ít hỏi
chúng đêm hôm vào đây làm gì. Nhiều lần chúng ngang nhiên tụm ba tụm bảy đánh
bạc hoặc tiêm chích cả ban ngày mà không người nào dám nói một câu. Coi như
không thấy. Không biết. Không dây! Dây vào ngộ nhỡ chúng đâm cho một nhát mà
chết à?
Lát sau chó lại sủa ran. Chắc hai
thằng kia quay lại. “Kệ. Nhà mình không là đối tượng của chúng, - ông nghĩ. -
Vả lại con Mực sẽ chẳng chịu để yên cho chúng muốn làm gì thì làm.” “Tao thách
bọn mày vào đấy!” - Chắc đầu ngõ ông chủ quán nhậu có con béc-giê hung dữ cũng
đang nghĩ như ông. Các nhà khác thì có lẽ cảm thấy yên tâm vì nhà mình kín cổng
cao tường, cửa đóng chặt cả trên lẫn dưới.
Chó vẫn tiếp tục sủa và mỗi lúc
một gay gắt. Con Mực nhảy chồm chồm lên tấm cửa sắt. Chắc có chuyện. Ông Dụng
định dậy ra xem, nhưng không hiểu sao lại thôi. Nhiều người trong xóm lúc ấy có
lẽ cũng chung tâm trạng như ông, và vẫn nằm yên trong nhà. Sau đấy bỗng có
tiếng kêu thất thanh. Tiếng kêu cứu của một đứa bé. Bé gái. Hình như tiếng cái
Hồng, con vợ chồng cậu Châu cách nhà ông một nhà về phía phải, sát nhà ông
Hoạch. Mọi người, trong đó có ông Dụng,
chạy bổ ra ban công, và từ vị trí an toàn ấy, tất cả gần như đồng thanh kêu to:
“Trộm! Có trộm!” Chủ yếu để bọn kia thấy động bỏ đi. Rồi mọi người xuống gác,
cố nói thật to, cố mở khóa cổng thật chậm để biết chắc mình không là người đầu
tiên bước ra nơi nguy hiểm. Nhiều người còn dắt theo cả chó, những con chó
trước đấy bị nhốt sau song sắt.
Khi mọi người đổ ra ngõ thì tất
nhiên bọn bất lương đã biến mất, vì ít nhất đã năm phút trôi qua kể từ lúc có
tiếng kêu cứu, có thể còn lâu hơn. Người ta thấy cánh cổng nhà vợ chồng anh
Châu mở toang, còn cháu Hồng, mười ba tuổi, con gái duy nhất của họ thì nằm
chết ngay ở bậc tam cấp, máu me đầm đìa. Nó nằm ngửa, bị đâm một nhát khá lớn ở
bụng, lòi cả một đống ruột ra ngoài. Đến bây giờ dân trong xóm mới biết nó ở nhà
một mình đã ba hôm nay vì cả bố lẫn mẹ đang theo cơ quan Bộ ngoại giao nghỉ mát
ở Cửa Lò, nó bận thi học sinh giỏi tin học toàn thành phố nên không đi. Sau
này, khi công an bắt được thủ phạm - hai tên lưu manh choai choai ở khu tập thể
nhà máy xe lửa Gia Lâm - người ta biết thêm rằng nó bị đâm chết khi vừa kêu
cứu, vừa cố giữ chiếc vi tính xách tay bố mẹ mới tặng. Một trong hai thằng kia
giật mãi không được, cáu tiết dùng con dao Thái đâm một nhát vào bụng, nó ngã
gục làm vết đâm rộng thêm nên ruột mới trào ra. Thằng này sau bị kết án tử
hình. Bạn hắn tù mười năm. Còn dân trong xóm thì bị chính lương tâm mình kết
án, nặng nhẹ tùy sự nhạy cảm và cách nhìn nhận sự việc của từng người...
*
Có lẽ người bị ‘kết án” nặng hơn
cả là ông Dụng, vì ông hay mặc cảm và bị cái gọi là lương tâm dằn vặt nhiều
hơn. Như những người khác, khi công an điều tra hỏi vì sao biết có kẻ gian mà
không ra can thiệp ngay, ông nói bình thường chó vẫn sủa như vậy, và rằng ông
già, khi tới nơi thì đã muộn. Ông biết ông nói dối. Chừng này tuổi mà còn nói
dối một cách trơ trẽn. Ông đã có thể ra ban-công lần chó sủa rộ thứ hai, thứ
ba, và nếu vẫn thấy hai thằng ấy mà ông biết chắc đến đây chỉ để ăn trộm, đáng
lẽ ông phải ra hỏi chúng, đuổi chúng đi, cùng lắm gọi to mọi người dậy. Chắc
chắn lúc ấy chúng không dám ra tay và cháu Hồng sẽ không bị giết một cách thảm
thương như vậy. Nhưng ông đã hèn nhát không dám làm thế. Ông sợ bị chúng chém
hoặc dùng kim chích ma túy đâm vào người. Sao ông không đi ra cùng con Mực?
Chắc nó biết cách bảo vệ chủ. Ừ nhỉ, ông quên không nghĩ tới điều đó. Quên một
phần vì “không muốn dây vào chúng”, vì đơn giản nghĩ con chó giữ riêng nhà ông
đã đủ. Ông chủ cửa hàng nhậu có lần từng chỉ vào con béc-giê của mình, nói:
“Lúc ấy mà tôi kịp thả con này ra thì hai thằng kia chỉ có chết!” nhưng ông ta
đã không thả. Người khác cũng không. Lũ chó ngu ngốc, không khôn như người,
nhất định chúng sẽ chịu chơi, chịu “dây” với bọn kia và do vậy chắc sẽ ngăn
được vụ án mạng. Nếu có lương tâm, lương tâm lũ chó bây giờ trong sạch.
Càng nghĩ, ông Dụng càng buồn và
thấy mình có tội. Không nghi ngờ gì nữa, trong cái chết của cháu Hồng ông chịu
một phần trách nhiệm. Ông đã tính tới chuyện thú hết với công an, rằng chính
ông và những người hàng xóm của ông mới là thủ phạm thực sự. Nhưng liệu tòa án
có thể vì thế mà kết tội ông được không? Không có bộ luật nào kết tội những
người không kịp ra cứu giúp người khác khi gặp nạn. Không ai bắt bẻ ông được.
Vâng, không ai trừ lương tâm, mà lương tâm ông bây giờ đang cắn rứt. Ông đã có
thể cứu được đứa bé nhưng ông hèn, ông sợ chết, ông quá khôn. Thế mà hàng chục
năm trời ông được gọi là cán bộ bảo vệ trẻ em cơ đấy. Suốt mấy chục năm ấy và
cả đời mình thực ra ông chẳng bảo vệ được ai. Việc ông làm chung qui chỉ là nói
những lời đạo đức giả, tham dự các cuộc họp triền miên và mỗi năm vài lần trao
những túi quà người ta chuẩn bị sẵn. Tên ông là Đinh Hữu Dụng mà thực sự ông là
người vô dụng. Bạn bè, đôi khi cả chính ông, cũng nhiều lần nói đùa như thế.
Choáng váng vì cái chết của con
gái, vợ chồng anh Châu xin đi làm tại một Đại sứ quán ở châu Phi, để lại ngôi
nhà trống rỗng và khu xóm nhỏ đang bối rối dằn vặt với những gì mới xẩy ra.
Không ai bảo ai, mọi người cố tránh
không nhắc đến chuyện này. Cũng chẳng ai lên tiếng tự bào chữa hay trách cứ
mình.
*
Chứng mất ngủ của ông Dụng ngày
một thêm trầm trọng. Nhiều đêm liền ông không hề chợp mắt. Thậm chí ông bắt đầu
xem nó là bệnh, đi khám bác sĩ và uống đủ các loại thuốc vợ ông mua về bắt uống.
Dạo này bị công an truy quét, bọn nghiện ngập và tội phạm không dám đến đây
nữa, cả ban ngày cũng như ban đêm. Chó cũng ít sủa hơn. Tuy nhiên, ba hôm nay
ông nhận thấy một điều khác thường, là lúc gần sáng con Mực nhà ông cứ tru lên
khe khẽ. Tiếng tru nghe rất lạ, như thể nó đang sợ hãi điều gì. Con chó Nhật
ông Hoạch cũng ngứa mồm sủa theo. Các con chó khác, trong đó có con béc-giê
hung dữ của ông chủ quán bia, không thấy lên tiếng. Cả ba hôm ông đều ra xem
nhưng không thấy gì.
Đấy, bây giờ con Mực lại sủa đấy,
hay đúng hơn, đang rên ư ử. Ông nhìn
đồng hồ. Ba giờ sáng. Trời tối, lại có gió lạnh. Xung quanh không tiếng động,
trừ tiếng con Mực. Ông rón rén nhỏm dậy. Khác mọi lần, ông không ra hẳn ngoài
ban-công mà chỉ đứng bên trong, vén rèm cửa sổ nhìn ra. Lối đi phía dưới vắng
tanh. Ngọn đèn sáu mươi watt trước nhà ông Hoạch chiếu tù mù, nhưng cũng đủ
sáng để nhìn thấy bất kỳ người nào, nếu có. Nhưng ông nhìn mãi mà chẳng thấy
ai. Trong khi đó con Mực vẫn tiếp tục khẽ sủa một cách lo lắng và sợ hãi. Nghĩa
là có chuyện. Không ngẫu nhiên nó sủa như thế. Nuôi nó mười năm nay, ông biết.
Ông khoác thêm chiếc áo, lặng lẽ
đi xuống, lặng lẽ mở cửa rồi mở cổng bước ra ngoài, không quên mang theo chiếc
gậy đề phòng bất trắc. Con Mực thấy ông, vẫy đuôi rối rít. Nó rón rén đi trước,
tai cụp, đầu cúi sát đất. Có nó, ông thấy yên tâm hơn. Bên ngoài trời vẫn tối
đen và ẩm ướt. Xung quanh yên ắng lạ thường. Bất chợt ông nhìn thấy có cái bóng
mờ mờ trước mặt. Ông định kêu to đánh thức mọi người, nhưng nghĩ có thể nhìn
nhầm nên lại thôi. Cái bóng nhỏ màu trăng trắng đứng co ro bên cửa nhà anh
Châu, chỉ cách ông khoảng mươi mét. Trộm chăng? Hình như không, vì nếu thế nó
đã bỏ chạy khi nghe ông cố tình hắng giọng. Vậy thì là cái gì?
“Ai đấy?” - ông hỏi to rồi mạnh
dạn bước lại gần. Con Mực đi theo, sủa lên một tiếng đầy hăm dọa. Cái bóng
trắng vẫn đứng yên. Nó không có ý bỏ chạy hoặc sợ hãi. Khi lại gần, ông Dụng
thấy hình như đó là một đứa trẻ. Nó đứng tựa lưng vào tường rào, hai tay ôm cái
gì đấy trước bụng.
“Trời ơi, Hồng đấy à, cháu?” ông
khẽ thốt lên, quên mất rằng con bé đã chết hai tháng nay.
Cái bóng gật đầu, không nói gì.
Ông Dụng cúi xuống nhìn kỹ thì thấy đúng là nó. Nó đang đỡ mớ ruột bầy nhầy
trên tay. Dưới ánh điện tù mù, ông thấy nó khóc, đôi mắt mở to đau đớn nhìn
ông.
“Trời ơi!” - ông Dụng lại thốt
lên, kinh hoàng nhìn mớ ruột. “Cái gì thế này?” Con bé im lặng, nhìn xuống
chiếc bụng bị đâm thủng rồi nhìn ông, vẻ van nài. Con Mực không rên nữa. Nó
cuống quýt chạy quanh chủ và cái bóng ma. Ông Dụng chẳng hiểu nó muốn gì. Ông
đứng lặng, lúng túng hồi lâu. Cuối cùng ông ngồi xuống ngang tầm đưa bé, nhẹ
nhàng nâng từng đoạn ruột bầy nhầy dính máu nhét lại vào bụng nó. Ông làm việc
này thong thả, thận trọng như một bác sĩ phẫu thuật và bình tĩnh một cách lạ
lùng. Thậm chí tay ông không run. Con bé vẫn lặng lẽ đứng yên, chỉ thỉnh thoảng
khẽ co giật như bị đau. “Cháu gắng chịu chút nữa. Bác xong ngay bây giờ. Cháu
ngoan lắm. Giỏi lắm!” - Ông dỗ nó như dỗ đứa cháu ngoại năm tuổi mỗi lần bắt
uống thuốc đắng.
Con bé mấp máy môi điều gì đó khi
ông làm xong, thận trọng đưa cả lòng bàn tay vuốt lại lần nữa như vá chỗ rách ở
bụng nó. Ông kéo quần nó cao lên, cài cúc áo thật chặt cho nó rồi ngước mắt, có
ý hỏi “Bây giờ cháu đỡ đau rồi chứ?” Con bé gật đầu nhìn ông và con Mực lần chót,
rồi từ từ tan trong lớp sương mù ẩm ướt. Ông Dụng ờ lên một tiếng vì ngạc
nhiên. Ông thực sự không hiểu chuyện vừa rồi là có thực hay chỉ một giấc mơ.
Dạo này ông hay có những giấc mơ kỳ quái như vậy. Khi vào nhà bật đèn, ông thấy
hai tay dính đầy máu...
Từ hôm ấy, đêm đêm vào lúc gần
sáng, con Mực nhà ông thôi không sủa nữa. Hồn ma cái Hồng không quay lại thêm
lần nào. Tuy vậy, chẳng vì thế mà ông Dụng đỡ mất ngủ. Bây giờ đến lượt ông, bị
chứng mất ngủ hành hạ, cứ gần sáng ông lại ra khỏi nhà vật vờ đi đi lại lại
trong ngõ. Lúc đầu lũ chó sủa ghê lắm, nhưng rồi dần dần chúng quen, không còn
làm ầm ĩ bắt mọi người tỉnh dậy.
Hà
Nội, 8. 8. 2002
TIỂU ÁI
Antôn Sêkhốp, nhà văn Nga thế kỷ
mười chín nổi tiếng về sở trường truyện ngắn, có lần nói với bạn bè một ý đại
khái thế này, rằng nếu nhà văn thực sự có tài thì từ bất kì cái gì, thậm chí từ
cái tầm thường, nhỏ nhặt nhất cũng có thể viết thành một truyện ngắn. Và để
chứng minh cho quan điểm ấy của mình, ông đã viết truyện Cái đinh. Xuất phát điểm
đơn giản chỉ là chiếc đinh gỉ trên tường, ngẫu nhiên các bạn nhìn thấy khi đứng
dậy chia tay sau bữa ăn, rồi nửa đùa nửa thật họ yêu cầu ông thử viết về nó.
Thế mà thành một truyện hay.
Hôm nọ, tình cờ tôi đem chuyện
này kể với vợ. Bà ấy luôn là người đầu tiên đọc những gì tôi viết, đôi lúc có
vài nhận xét xác đáng mà dẫu bảo thủ, tôi vẫn phải thừa nhận và lặng lẽ làm
theo.
“Sao ông không thử làm như
Sêkhốp?” - bà ấy thản nhiên nói.
“Tôi không phải Sêkhốp. Ông ấy là
thiên tài. Vả lại, nghề của tôi như bà biết, không phải viết mà dịch”, - tôi
nói với sự khiêm tốn chân thành. Mấy chục năm nay tôi chỉ dịch, dịch thơ, một
nghề tôi cho không kém vinh quang so với sáng tác. Thỉnh thoảng lúc chán tôi
mới viết truyện, rỗi thì viết chứ chẳng tham vọng gì nhiều.
“Đành thế, nhưng cứ thử, xem ông
có là người “thực sự có tài” hay không”.
Máu tự ái tôi nổi lên:
“Thử thì thử! Thế bà muốn tôi
viết về cái gì?”
Vợ tôi đưa mắt nhìn quanh. Phòng
làm việc của tôi luôn ngổn ngang đủ loại sách báo; chiếc giường một vừa để nghỉ
và ngủ; chiếc ghế xoay vắt đầy quần áo mặc dở; trên bàn có chiếc vi tính cùng
chồng đĩa nhạc; tường treo mấy bức tranh sơn dầu loại rẻ tiền và chiếc đàn
vi-ô-lông kỷ niệm một thời sinh viên đam mê mà bây giờ, dẫu đã thuộc người già,
lại to béo, thỉnh thoảng tôi vẫn đem ra cò cử bất chấp sự phản đối của hàng xóm
và gia đình. Tôi thầm mong vợ chọn chiếc đàn hoặc chiếc vi tính, biểu tượng của
tình cảm và công nghệ hiện đại ít nhiều còn có thể phịa ra cái để viết. Nhưng
không, cuối cùng bà ấy nhìn tôi, nói như ra lệnh:
“Ông hãy viết về cái gãi lưng
đang cầm trên tay ấy!”
“Sao, viết về cái này?” tôi thốt
lên, ngừng gãi, chìa ra trước mặt chiếc gãi lưng bằng nhựa màu hồng rẻ tiền mua
ở Thượng Hải năm ngoái khi hai bố con tôi tới đó theo một tour du lịch trọn
gói. Một đầu nó có hình bàn tay năm ngón, ngón út bị con cún láo lếu gặm gãy,
đầu kia là quả bóng cao su sơn đỏ đã sờn rách đôi chỗ, có lò xo dùng để đấm
lưng. Một sản phẩm chẳng mấy nghệ thuật nhưng rất tiện lợi và tôi vẫn thường
cần đến.
“Đúng, ông hãy thử viết về nó.
Chiếc đinh của Sêkhốp còn nhỏ nhặt, tầm thường hơn nhiều. Ít ra nó cũng cho
biết tài năng ông đến đâu”.
Tôi lại chạm tự ái.
“Được. Vậy ngày mai vào giờ này
mời bà xuống đọc. Biết đâu tôi chẳng thông minh hơn bà tưởng.”
Còn lại một mình, tôi thẫn thờ
hồi lâu ngồi nhìn chiếc gãi lưng khốn khổ mà từ đó tôi phải tìm đủ cảm xúc và
trí tưởng tượng để viết thành một truyện ngắn với đúng nghĩa của nó. Ơn Chúa,
cái truyện ấy cuối cùng cũng viết xong, chậm nửa ngày. Tôi không đặt tên Chiếc
gãi lưng, mà là Bàn tay ngà ngọc, vừa hợp nội dung, vừa đỡ phần dung tục.
*
Dù còn trẻ, nhà ngoại giao M. từ
lâu đã say mê thú chơi đồ cổ, đặc biệt những thứ liên quan đến Trung Quốc. Chơi
với đúng nghĩa của nó, không bao giờ đo giá trị bằng tiền. Và cũng rất sành.
Chuyến công tác Bắc Kinh lần này là dịp hiếm, vì anh phụ trách một Vụ châu Âu ở
Bộ nên ít có điều kiện sang đây. Ngày nghỉ đầu tiên anh nhờ một đồng nghiệp lâu
năm ở sứ quán dẫn đi lùng sục các cửa hàng nhỏ, phố nhỏ mà thường chỉ người bản
địa mới biết và cũng là nơi có nhiều cơ may tìm được thứ gì đó độc đáo mà không
quá đắt. Những thứ ấy thật ra có nhiều, rất thích, rất đáng mua nhưng vì ít
tiền, cuối cùng đắn đo mãi, anh quyết định mua một cái mà chắc chẳng mấy ai
muốn mua. Chính ông chủ cửa hàng (một người Hoa bé loắt choắt, mặt nhọn và nhăn
nhúm) cũng không nghĩ anh sẽ mua nó, nhất là với cái giá rất cao lão đòi và
không chịu bớt một xu. Vâng, nó đắt thật, nhưng đáng giá đồng tiền, và anh gật
đầu. Dân chơi đồ cổ thường vẫn vậy, đã thích cái gì thì không thể nào dứt ra
được.
Đó là chiếc gãi lưng hình bàn tay
một cô gái, được làm bằng ngà hay thứ gỗ trắng cứng mịn nào đó, lâu ngày đã ngả
màu nhưng chưa sứt gãy và cũng chưa có vết xước sâu nào. Nó khá to và nặng so
với những thứ cùng loại ngày nay, dễ phải bằng cánh tay thật của một đứa bé.
Anh hỏi thuộc đời nào, ông già chủ quán chỉ đáp: “Lâu rồi. Lâu lắm rồi. Chính
xác đời nào lão chẳng biết, nhưng nó có từ lâu, lâu lắm rồi. Anh tinh lắm, tinh
lắm!”
Quá bận với các bản báo cáo và
họp hành, về nước đến một tuần M. mới có dịp lấy ra xem. Người chơi đồ cổ đích
thực ngắm nghía đồ chơi của mình không như người bình thường. Họ cần có hứng,
có thời gian thích hợp. Lúc ấy đã gần mười hai giờ đêm. Anh tắt vi tính, thận
trọng mở va-li lấy nó ra. Thoạt đầu anh hơi thất vọng, chắc một phần vì số tiền
lớn phải chi cho nó. Đẹp, có thể rất quý nhưng cũng chỉ là cái gãi lưng hình
cánh tay phụ nữ, thứ đồ dùng không hiểu sao người phương Tây ít ai sử dụng vì
một mặc cảm mơ hồ nào đó. Chắc họ thích những bàn tay bằng xương bằng thịt ấm
áp và dịu dàng hơn.
Anh cầm nó trên tay, ngắm nghía
từ mọi góc độ, thầm nghĩ đúng nó là đồ cổ thật, chắc thuộc một gia đình quyền
quý nào đó cách đây vài trăm năm, khó có thể lâu hơn. Các ngón tay búp măng
thon dài, móng được cắt nhọn và cũng rất dài, sơn màu hồng nhạt. Chỗ khuỷu tay
có đường chạm thành nếp ngấn sống động. Cao hơn một chút là mặt cắt ngang rất
phẳng và nhẵn, cứ như bị lưỡi kiếm sắc chặt một nhát đứt đôi. Phần trên khuỷu
tay hơi gập, vừa đủ dài để làm tay cầm. Anh cho như thế là tàn nhẫn từ phía
người nghĩ ra kiểu dáng này cho nó.
M. ngồi yên, mân mê cánh tay ngà
rất lâu, mỗi lúc càng thấy thích. Mấy lần định cất lại vào va-li mà không hiểu
sao cứ chần chừ mãi. Nhiều khi có cảm giác như đang nâng niu một bàn tay thật,
thậm chí thấy mềm, âm ấm. Cuối cùng anh nằm xuống giường, chặn màn, để nó bên
cạnh và tắt đèn.
Nhà anh ít người. Cả hai cô con
gái đang học phổ thông bên Mỹ, nơi anh mới kết thúc nhiệm kì công tác nên các
con ở lại học nốt chương trình. Gia đình anh xưa nay có thói quen mỗi người ngủ
một phòng. Bây giờ thì mỗi người một tầng. Vợ anh ở tầng hai, anh ngủ luôn ở
phòng làm việc tầng một, còn bà giúp việc thì trong phòng bếp rộng gần ba chục
mét.
Đang thiu thiu ngủ bỗng ngứa
lưng, M. cầm luôn cánh tay ngà gãi nhẹ. Thật dễ chịu. Gãi đúng chỗ ngứa, lần
nào cũng đúng, sắc và gọn. Bất chợt anh giật thót người khi có cảm giác bàn tay
ngà kia xoãi ngón xoa xoa vào chỗ ngứa. Xoa hai lần. Anh hốt hoảng dùng tay kia
kiểm tra lại. Vẫn là cánh tay ngà đồ cổ như trước, cứng và vô tri giác. Thở dài
nhẹ nhõm, anh cho mình vừa nằm mê, rồi quay người ngủ tiếp, cánh tay ngà để
cạnh, gần như chạm mặt.
Một lúc sau, có thể một giờ hoặc
lâu hơn, anh lại lơ mơ cảm thấy có bàn tay ai đang dịu dàng mơn trớn má mình.
Vì nghĩ lại mơ, anh nằm yên tận hưởng cảm giác dễ chịu ấy. Nhưng sự mơn trớn
lần này có vẻ mỗi lúc một thật hơn và cũng âu yếm hơn. Anh tỉnh ngủ hẳn, những
ngón tay phụ nữ thon dài kia còn dính trên má. Anh sờ tay, giật mình vì thấy có
người nằm cạnh, ấm và mềm. Vợ à? Cô ấy có bao giờ tự xuống thế này đâu? Anh
khéo léo luồn tay về phía chiếc công tắc đèn ngủ.
“Ôi, cô là ai thế này?” anh ngồi
bật dậy, khẽ thốt lên sau mấy giây lặng đi vì ngạc nhiên và sợ hãi. Đó là một
cô gái xinh đẹp, rất khác thường cả về dáng người, cách ăn mặc, kiểu đầu tóc và
cả cách son phấn. Phải cố lắm anh mới không kêu to, hai mắt nhìn trân trân
không chớp. Anh lùi lại cho đến khi chạm lưng vào tường, trống ngực đập thình
thịch.
“Thiếp là Tiểu Ái, nữ sĩ của Thái
Tử Đan nước Yên”, cô gái thỏ thẻ đáp, chỉ thoáng chút ngượng ngùng kiểu con gái
đài các chứ không hề bối rối.
“Tiểu Ái nào? Thái Tử Đan nước
Yên nào? Tôi không hiểu”.
“Chàng thích đồ cổ Trung Hoa mà
dường như không am tường lắm về lịch sử nước này. Vâng, thiếp là Tiểu Ái, nữ sĩ
và cũng là tì thiếp yêu của Thái Tử Đan nước Yên cách đây hơn hai nghìn năm. Vì
muốn diệt Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, để trừ hậu họa, Thái Tử phải nhờ đến
Kinh Kha, một thích khách nổi tiếng nước Ngụy. Những ngày trước lúc lên đường,
ngài tìm mọi cách chiều lòng Kinh Kha: nào vàng bạc châu báu, tiệc tùng, nào
đàn hát suốt ngày với vô số cung tần mĩ nữ hầu hạ. Vậy mà Kinh Kha có vẻ không
mấy mặn mà với việc người ta yêu cầu làm. Một tối nọ, khi xem thiếp đàn, ông ta
buột miệng khen đôi tay thiếp đẹp. Thế là sáng hôm sau Thái Tử chặt tay thiếp,
cho vào chiếc hộp phủ lụa đỏ đem đến. Bây giờ chàng nhớ rồi chứ?”
Tiểu Ái nói, khẽ cúi đầu e lệ
đúng cung cách phụ nữ cái thời xa xưa ấy. M. vẫn nhìn nàng không chớp mắt. Nàng
thật xinh đẹp, dịu dàng. Tuy nhiên, anh vẫn thấy có cái gì đấy đáng ngờ, hơi
ranh ma trong ánh mắt cô gái bí ẩn này.
“Vâng, - anh đáp. - Tôi có biết
tích ấy, dù không dám tin là thật. Có phải sau đấy Kinh Kha vì thương cảm đã
đem chôn cất tử tế đôi tay của cô không?”
“Không. Nhiều người nghĩ vậy
nhưng thực ra không phải thế. Ông ấy quả rất thích đôi tay đẹp của thiếp, nên
cho mời thầy thuốc đến ướp khô, từ đó luôn giữ chúng bên mình. Sau này Kinh Kha
bị Tần Thủy Hoàng giết chết, đôi tay thiếp thất lạc, qua hết người này đến
người khác. Một tay thiếp bị người Anh thiêu cháy cùng Di Hòa Viên của Từ Hy
Thái Hậu cách đây không lâu, còn tay nữa thì hiện đang ở đây với chàng. Vì thế
mà thiếp có mặt hôm nay. Chàng không thích thiếp chăng? - Nói đoạn, Tiểu Ái
choàng tay ôm cổ M. Một ma lực nào đó khiến người anh mềm nhũn, ngoan ngoãn tuân
theo ý nàng. - Từ nay thiếp sẽ ở bên chàng, chiều chuộng chàng như xưa từng
chiều chuộng Thái Tử Đan nước Yên...”
Rồi tự nhiên đèn tắt, không ai
bật mà tắt. M. thấy mình từ từ rơi vào khoái lạc đê mê, có thật mà không có
thật.
Từ đêm ấy họ sống với nhau như vợ
chồng. Vâng, chỉ ban đêm, khi M. tắt đèn lên giường, còn ban ngày Tiểu Ái vẫn
chỉ là cánh tay bằng ngà vô tri giác được anh đặt bên cạnh để gãi lưng khi
ngứa, vì anh thích cảm giác được bàn tay ngà ngọc của nàng gãi. Ngoài ra mọi
chuyện vẫn bình thường. Đêm nào cũng mất ngủ vì hoan lạc nhưng anh chẳng vì thế
mà xanh xao gầy yếu. Không hề có biểu hiện thay đổi nào dù nhỏ trong cách anh
làm việc ở cơ quan hoặc cư xử với vợ ở nhà. Anh nhanh chóng thích nghi với cuộc
sống mới hai mặt, hơn thế còn lấy làm thích. Tiểu Ái quả là người đàn bà đam mê
và biết chiều chuộng. Đôi lúc anh cũng thoáng lo sợ khi nghĩ mình đang dan díu
với ma, một việc chẳng hay ho gì. Còn nàng, anh nhận thấy, dường như không có ý
làm hại anh. Nàng vẫn yêu kiều, lễ phép và càng ngày càng tỏ ra gắn bó, cứ như
muốn thế chỗ vợ anh vậy. Nhưng vì sao nàng phải làm thế? Nàng thực sự cần gì ở
anh? Mà rồi làm sao có thể xảy ra được cái chuyện kì quặc này giữa một kỹ nữ
thời Tần Thủy Hoàng và anh, một công chức ngoại giao bình thường của thế kỷ hai
mươi mốt? Và quan trọng hơn, tất cả những việc này sẽ đưa anh đến đâu? Hạnh
phúc gia đình anh sẽ ra sao? Là người duy lí và tỉnh táo, M. tự đặt cho mình
những câu hỏi không dễ trả lời ấy. Lờ mờ cảm thấy nguy hiểm đang đến gần, anh
muốn chủ động làm cái gì đó, mà phải làm ngay khi chưa muộn. Tuy nhiên, sức
quyến rũ của Tiểu Ái quá lớn khiến anh cứ khất lần cái việc cần làm ấy hết ngày
này sang ngày khác, cho đến một hôm...
Một hôm vợ anh bước vào phòng làm
việc của chồng, một điều ít khi xảy ra. Chị là giám đốc một doanh nghiệp làm ăn
phát đạt, xa lạ với văn chương và đồ cổ, những thứ chị cho là vớ vẩn, mặc dù
chưa bao giờ kêu ca hoặc ngăn cản chồng. Chị là người vợ tốt, quán xuyến và
thương yêu chồng con. Sự có mặt của vợ làm M. bối rối, như thể anh bị bắt quả
tang ngoại tình và đang giấu người tình ngay trong căn phòng này. Rỗi việc, vợ
anh ghé vào hỏi vài câu vu vơ chứ chẳng có mục đích cụ thể nào.
“Cái gì thế này?” chị hỏi, mắt to
mò nhìn cánh tay ngà trên đầu giường.
“Thì em thấy đấy, - anh đáp, cười
gượng gạo. - Cái gãi lưng ấy mà. Anh mua ở Bắc Kinh vừa rồi. Người Tàu nghĩ ra
lắm thứ độc đáo thật. Nó cổ lắm đấy, có từ thời...” anh chợt ngừng vì lỡ miệng
sợ đi quá xa.
Chị vợ lặng lẽ cầm nó lên tay,
ngắm nghía một lúc rồi thử đưa lên má gãi gãi. Bất chợt chị kêu thét lên:
“Trời ơi, cái của nợ này nó cấu
em! Anh xem này!”
Một vết xước màu đỏ khoảng vài
phân bên khóe mắt trái chị.
“Nhảm nhí! Nó bằng gỗ chứ đâu
phải người mà cào cấu được.” anh nói, cố giấu vẻ ngạc nhiên lo sợ. “Nhưng móng
nó sắc, đáng lẽ em nên cẩn thận”.
Vợ anh vứt cánh tay xuống giường,
ôm mặt bước ra khỏi phòng.
M. nhìn, thấy nó xấu hơn ngày
thường, vẻ như đang cau có một cách độc ác. Tối hôm ấy anh hỏi Tiểu Ái vì sao
làm vậy, nàng im lặng mãi mới nói: “Thiếp nhỡ thôi chứ chẳng cố tình”.
M. để ý sau mỗi lần anh lên ngủ
với vợ theo “nghĩa vụ”, Tiểu Ái luôn tỏ ra khó chịu, mặc dù không nói gì. Anh
biết nàng ghen. Thật kì cục. Hơn thế, hôm nào M. để Tiểu Ái nằm một mình, vợ
anh cũng kêu khó chịu trong người. Dạo này cô ấy trông xanh xao, mỏi mệt. Cả
điều này cũng kì cục nốt, vì bản thân anh chẳng sao, mặc dù kể từ ngày có Tiểu
Ái hầu như anh không ngủ. Anh thực sự lo lắng cho vợ.
“Em chớ có làm gì hại vợ anh đấy
nhé!” một hôm anh bảo nàng. Nàng lặng lẽ gật đầu nhưng anh vẫn nhận thấy những
tia nhìn đáng sợ trong ánh mắt.
Dẫu thích cuộc sống hai mặt hiện
tại, M. không thể tiếp tục thờ ơ với tính mạng vợ và hạnh phúc gia đình mình.
“Cái việc gì đó” cần làm bây giờ trở nên rõ nét và thôi thúc hơn. Tóm lại, anh
đang lặng lẽ tìm cách thoát khỏi Tiểu Ái thế nào cho êm thấm nhất. Các truyện
của Nguyễn Dữ và Bồ Tùng Linh đã dạy anh điều này. Đừng dại mà đùa với ma!
Một tối nọ, vừa ngồi xuống trước
máy vi tính, M. thấy H., một đồng nghiệp trẻ ở Bộ xồng xộc bước vào, nói có tài
liệu nhờ anh dịch gấp kịp họp ngày mai. H. là người hãnh tiến, thích bay bổng,
lãng mạn, có khả năng nhưng cư xử dở nên không được mọi người thích, kể cả anh.
Cũng vì tính lãng mạn bay bổng ấy, có người gọi là hâm, mãi đến giờ anh ta vẫn
chưa vợ, dù đã ba mươi lăm tuổi. Đối tượng nào cũng bị anh ta chê không tinh tế
hoặc quá tầm thường.
Xong việc, H. còn nấn ná ở lại,
đảo mắt qua giá sách, nhìn một lượt khắp phòng rồi cầm chiếc gãi lưng đồ cổ lên
tay, khen lấy khen để và hỏi một thôi về nó. M. khó chịu trước sự suồng sã của
con người luôn chê người khác thiếu tinh tế này. Bất ngờ một ý tưởng vụt lóe
trong đầu: “Hắn thích thì sao không cho luôn đi! Hắn đang sống một mình, có thể
Tiểu Ái sẽ là người hợp với hắn”.
“Nếu cậu muốn, mình tặng cậu đấy.
Coi như quà đi Trung Quốc vừa rồi”, anh nói.
“Anh giễu em? Cái này là đồ cổ,
chắc phải quý và đắt lắm?”
“Không, bình thường thôi. Cậu
không thích à?”
H. nhìn anh ngờ vực. Khi thấy anh
nghiêm túc, liền gật đầu cảm ơn rối rít và vội về ngay như sợ bị đòi lại.
Còn lại một mình, M. thẫn thờ hồi
lâu. Vậy là anh đã thoát được Tiểu Ái, không phải không nhớ tiếc những giây
phút hạnh phúc bên nàng. Trong nhà bây giờ chỉ còn lại một người đàn bà là vợ
anh, chắc sẽ nhanh chóng khỏe mạnh bình thường như trước. Anh mừng trút được
cảm giác có lỗi với vợ, nhưng cũng thầm lo sẽ bị Tiểu Ái làm hại về tội chia
tay nàng cách ấy. Ma là chúa hay trả thù...
Tuy nhiên, anh đã lo một cách vô
ích. Một tuần, một tháng rồi mấy tháng trôi qua chẳng có chuyện gì không hay
xảy ra với anh. Còn H. thì béo tốt hẳn lên, yêu đời, yêu người hơn, vẻ hạnh
phúc ngời ngời trên mặt. Anh ta bây giờ không muốn nghe ai nói chuyện manh mối
cho mình nữa, mấy lần còn hùng hồn tuyên bố sẽ sống độc thân suốt đời. Hình như
anh ta cố tình tránh mặt M.
“Không sao, - anh nghĩ. - Thế là
mọi việc đều ổn. Một win-win deal”.
Thuật ngữ ngoại giao chỉ một vụ dàn xếp hai bên cùng có lợi.
*
Tôi hồi hộp theo dõi từng biểu
hiện nhỏ trên mặt vợ khi bà ấy đọc truyện ngắn này. Chả gì thì chỉ ít phút nữa
bà ấy sẽ cho biết tôi là thiên tài hay bất tài. Đọc xong, bà ấy hồi lâu nhìn
tôi, nhất là cái gãi lưng hàng chợ ngẫu nhiên tôi đang cầm trên tay, vẻ như
nghi kị điều gì. Cuối cùng, với mặt thản nhiên như lúc chưa cầm tập bản thảo,
vợ tôi chỉ nói một câu ngắn gọn: “Bàn tay ngà ngọc không ổn! Phải đổi thành
Tiểu Ái!”
Rồi bà thản nhiên bỏ ra ngoài, để
lại mình tôi với cảm giác mù mờ không hiểu mình thuộc loại nhà văn nào.
PS.
Xin được thêm mấy dòng: Mặc dù
không thích, tôi vẫn đổi tên truyện ngắn này thành Tiểu Ái theo yêu cầu của vợ.
Suy cho cùng việc này không quan trọng. Cái quan trọng và đang làm tôi băn
khoăn không ít, là ngay hôm sau, bất ngờ tôi phát hiện thấy chiếc gãi lưng bằng
nhựa vô hại của tôi bỗng biến đâu mất. Nhà chỉ có vợ chồng tôi và bà già giúp
việc hay làm vỡ bát đĩa nhưng chưa tắt mắt cái gì bao giờ. Thế mà tự nhiên mất.
Lạ thật!
Không lẽ vợ tôi nghi có Tiểu Ái
trong nhà?
Hà
Nội, 10. 5. 2002
MẠC GIA THƯ KIẾM
Một sáng nọ tôi đang ngồi uống cà
phê ngoài vườn thì bà giúp việc mang tới một bức thư, nói người ta đưa từ chiều
hôm qua nhưng quên mất. Bà vẫn quên như vậy, có khi mấy ngày liền. Vì thư nhiều
và thường chẳng có gì đặc biệt nên tôi không giận.
Bức thư viết:
“Thưa ông,
Mọi người sẽ cho rằng câu chuyện
Tiểu Ái ông in ở tạp chí Nhà Văn tháng
trước là chuyện bịa như hầu hết những truyện ngắn khác xưa nay. Nhưng tôi thì
tôi tin từng chữ ông viết. Đừng hỏi vì sao. Cũng đừng nghĩ tôi điên. Tôi từng
là nhà khảo cổ học, hàng chục năm chuyên nghiên cứu điển tích Trung Quốc, thậm
chí có thể cung cấp thêm một số chi tiết liên quan đến Tiểu ái. Nếu muốn, ông
còn được tận mắt nhìn thấy ở nhà tôi một trong hai chiếc kiếm của Can Tương mà
tôi nghĩ một người như ông không thể chưa nghe nói đến. Hân hạnh được đón ông”.
Cuối thư có chữ ký của người viết
là Cao Kiêm Ngạc, và địa chỉ.
“Chuyện gì vậy?” vợ tôi lúc ấy
ngồi bên, hỏi khi thấy tôi đặt bức thư xuống bàn, mặt bần thần.
“Một ông điên nào đó nhận xét
truyện Tiểu Ái. Bây giờ nhiều người điên thật. Nghe nói riêng ở Hà Nội đã hơn
mười nghìn.
Vợ tôi cầm bức thư đọc qua rồi
đứng dậy sửa soạn đi làm.
“Ừ, điên thật. Có lẽ ông cũng là
một trong con số mười nghìn kia.”
*
Có nhiều truyền thuyết khác nhau
về hai thanh kiếm nổi tiếng Can Tương, Mạc Gia, hay còn gọi Hùng kiếm (kiếm
ông) và Thư kiếm (kiếm bà).
Theo Đông Chu Liệt Quốc thì Can
Tương là thợ kim khí giỏi của nước Ngô. Một lần vua Ngô lúc ấy là Hạp Lư sai
ông đúc một thanh kiếm thật tốt, thật quí. Ông cho mở lò ngay trước cửa Tượng
Môn rồi chọn ngày tốt, giờ tốt, sai ba trăm đồng nam, đồng nữ ngày đêm túc trực
đốt than bên lò, nhưng đốt ba tháng liền mà vàng và sắt vẫn không chảy. Ông
buồn lắm, vì biết để đúc kiếm tốt, ngoài kim khí cần có thêm “nhân khí”. tức là
thần linh muốn được tế bằng người sống,
mà phải người cao quí, thân thích. Ông nghĩ ngay tới Mạc Gia, vợ ông. Trước kia
người thầy của ông cũng phải bắt vợ mình hy sinh như vậy. Theo đạo lý tòng phu,
trung quân, cuối cùng Mạc Gia chấp nhận. Bà tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới
rồi nhảy vào lò lửa đang cháy rừng rực. Quả một lúc sau sắt và vàng đều chảy,
Can Tương đem đúc được hai thanh kiếm tốt. Thanh đúc trước đặt tên là Can
Tương, có màu sáng trắng. Thanh sau nhỏ hơn chút ít, màu xanh nhạt buồn buồn,
gọi là Mạc Gia. Cả hai đều rất sắc, đến mức con ruồi vô ý đậu lên lưỡi sẽ bị
cắt làm đôi. Ông đem thanh đúc trước dâng lên vua Ngô, được vua tặng một trăm
nén vàng. Sau này có người mách còn thanh nữa, vua cho quân đến lấy. Can Tương
không chịu, rút kiếm Mạc Gia định chống trả. Thanh kiếm bỗng hóa thành con rồng
xanh. Ông cưỡi lên lưng rồng rồi bay mất, từ đấy không tin tức gì nữa. Đến đời
nhà Tấn, tức khoảng sáu trăm năm sau, huyện lệnh Phong Thành là Lôi Hoán ngẫu
nhiên đào được cái rương bằng đá dài sáu thước, rộng ba thước, mở ra thấy hai
thanh kiếm cổ, lấy đất ở núi Tây Sơn mà đánh thì một thanh sáng chói, thanh kia
màu lam nhạt. Trên kiếm, chỗ sát tay cầm có ghi hai chữ Can Tương và Mạc Gia.
Ông đem thanh Hùng kiếm tặng thừa tướng Trương Hoa. Một hôm hai người mang kiếm
báu đi chơi, đến bến Diên Bình Tây thì bỗng nhiên cả hai thanh kiếm nhảy xuống
sông, biến thành hai con rồng ngũ sắc. Từ đấy không ai biết gì thêm về hai
thanh Can Tương và Mạc Gia.
Sách Liệt Dị Truyện, tương truyền
của Tào Phi, thì chép như sau: “Can Tương rèn kiếm cho vua Sở ba năm mới xong.
Ông dâng Thư kiếm cho vua, còn Hùng kiếm thì dấu đi, bảo vợ: ‘Ta dấu kiếm ở
phía bắc Nam Sơn, phía đông Bắc Sơn, cạnh cây tùng mọc trên đá. Nếu vua biết mà
giết ta, và nếu mình sinh con trai thì hãy bảo nó tới đấy lấy kiếm mà trả thù’.
Quả nhiên vua biết chuyện, giết Can Tương. Mạc Gia đẻ con trai, đặt tên là Xích
Tỵ. Lớn lên, Tỵ đào bới khắp nơi, chặt hết cả tùng bách ở Nam Sơn và Bắc Sơn
vẫn không thấy kiếm đâu, sau tình cờ đào dưới cột nhà mình lại thấy. Vua Sở
chiêm bao có người muốn hại mình, bèn sai quân đến giết Xích Tỵ. Tỵ trốn vào
núi Chu Hưng, gặp được người đồng ý giúp chàng báo thù cho cha. Theo kế, Tỵ
dùng Mạc Gia thư kiếm tự cắt đầu mình, đưa cho người ấy mang vào cung nộp vua
Sở. Vua sai ném vào vạc dầu, nhưng nấu ba ngày đêm đầu Tỵ vẫn không chìm. Thấy
lạ vua ghé lại xem, liền bị người kia dùng kiếm chém đầu rơi xuống vạc, rồi ông
ta cũng tự cắt đầu mình ném vào đó. Một lúc sau cả ba đầu đều chìm, da thịt
tróc hết, không phân biệt được của ai là cái nào. Người ta đành đem cả ba chôn
chung một mộ, gọi là mộ ba vua. Văn hào Lỗ Tấn về sau dựa trên tích này viết
truyện ngắn “Luyện kiếm” nổi tiếng của ông.
Cuốn “Sưu Thần Ký” của Can Bảo
đời Tấn, cuốn “Sở Vương Trù Kiếm Ký” của Triệu Hoa đời Hậu Hán và chắc còn
nhiều cuốn khác mà tôi không biết cũng nhắc đến hai thanh kiếm Can Tương và Mạc
Gia. Tất cả chỉ là những truyền thuyết, người ta đọc như đọc những câu chuyện
cổ tích ly kỳ. Riêng tôi chỉ thấy hay và xúc động những chi tiết liên quan đến
Mạc Gia, người đàn bà - nạn nhân muôn thuở của đàn ông và những giáo lý độc ác
họ nghĩ ra.
Còn cái ông Cao Kiêm Ngạc kỳ cục
này thì liên quan gì? Làm sao một trong hai thanh kiếm kia rơi vào tay ông ta,
nếu quả trên đời có những thanh kiếm như thế? Ông ta là kẻ điên khùng, hẳn vậy.
Nhưng sao dám hứa cho tôi xem? Hay có âm mưu mờ ám gì chăng? Tôi cứ băn khuăn
mãi điều ấy. Cuối cùng, do bị ám ảnh không sao thoát ra nổi, tính tò mò khiến
tôi quyết định đến gặp ông ta theo địa chỉ đã ghi. Tôi rủ vợ đi cùng nhưng bà
ấy không chịu.
*
Hóa ra ông Ngạc ở trong một ngôi
nhà tử tế, khu phố tử tế. Bản thân ông hình như cũng là người tử tế nốt. Chí ít
không điên hoặc dở hơi như tôi vẫn ngại. Đó là một ông già gầy gò trong bộ vét
rộng màu xám kiểu cổ, đã cũ nhưng còn tươm tất. Thoạt nhìn trông ông từa tựa
một con chim. Con cú xám. Mái tóc ông bạc gần hết, chiếc mũi nhọn, khuôn mặt
dài và quắt. Lúc tôi bước vào, ông đang ngồi trên chiếc ghế không lưng tựa cạnh
bàn và cúi xuống làm gì đó, đúng cái thế một con cú co ro trên cây, nên tôi mới
nảy ra sự so sánh ấy, chứ bản thân con người ông không toát lên sự gian trá hay
độc ác nào. Một người tử tế như đã nói.
Ông ngước đôi mắt chim nhìn tôi,
đầu hơi ngoẹo sang một bên.
“Tôi biết thế nào ông cũng đến”,
ông nói, có vẻ biết rõ tôi là ai, và không mảy may ngạc nhiên. “Mà đến là đúng.
Ông sẽ không hối tiếc đâu”.
“Vì tò mò thôi, - tôi thành thật
đáp. - Chứ chẳng vì tin những gì ông nói”.
“Không sao. Rồi ông sẽ tin”.
Nói đoạn, ông nhẹ nhàng bước vào
phòng trong. Cả cách đi của ông cũng giống loài chim. Tôi đưa mắt nhìn quanh.
Không gì đặc biệt, ngoài việc trong phòng có rất nhiều đồ cổ để rải rác trong
tủ, các góc và trên tường. Cả căn phòng cũng thuộc loại phòng xưa, sạch và ngăn
nắp theo cách riêng của mình. Điều này làm tôi đoán ông sống độc thân.
Lát sau chủ nhà quay ra với một
thanh gỗ dẹt hình chữ nhật đen xạm vì thời gian, nhìn kỹ thấy giống chiếc vỏ
kiếm.
“Nó đây, Thanh Mạc Gia thư kiếm
tôi nói đây. Đúng chiếc Can Tương đã đúc. Có phần máu thịt của vợ ông ta trong
đấy.”
Ông Ngạc lại chăm chú nhìn tôi,
đầu vẫn ngoẹo như trước.
“Tôi biết ông không tin. Nếu có
tin thì đang tự hỏi bằng cách nào nó lọt vào tay tôi. Đúng không?”
Tôi gật đầu.
“Trước hết ta thống nhất với nhau
một điều. Như tôi tin và không căn vặn gì về câu chuyện Tiểu Ái của ông, xin
ông cứ tin những gì nghe, thấy hôm nay và không hỏi những câu ngốc nghếch. Đời
có nhiều sự lạ, tiếc bây giờ người ta quá thiển cận không nhận ra. Tôi là hậu
duệ của cụ Cao Biền Trung Hoa ngày xưa. Chắc ông biết cụ. Cụ người Bột Hải, một
nhà thơ lớn đời Đường. Hình như ông có dịch một số bài tứ tuyệt của cụ? - Tôi
lại gật đầu, thầm ngạc nhiên ông già này cũng đọc tập Cổ Thi Tác Dịch tôi in
mấy năm trước. - Vậy thì như ông biết, cụ được phong Chinh Nam Tướng Quân sang
trấn trị Giao Châu từ năm 864 tới năm 875. Cụ có công khai khẩn nhiều vùng đất,
góp phần làm nên nước Việt Nam ta ngày nay. Tất cả người Việt mang họ Cao đều
con cháu cụ. Cụ giỏi phong thủy và thường cưỡi diều bay đi khắp nơi để yểm địa
mạch. Các giai thoại về cụ chắc ông còn biết nhiều hơn tôi. Tiếc rằng sau khi
được gọi về nước làm Tiết độ sứ Hồ Nam, cụ bị bọn gian thần gièm pha mà buộc
phải tự tử. Tự tử chứ không bị giết như sử sách chép. Cụ đủ khôn ngoan để biết
trước sự việc và lo kế trù liệu. Một tháng trước khi chết, cụ sai người con út
là Cao Kiệm mang báu vật duy nhất của gia tộc là thanh kiếm này sang Giao Châu
cất giấu. Rất tiếc tôi không biết cụ có nó từ bao giờ và cách nào. Chỉ biết Cao
Kiệm định cư hẳn ở Giao Châu, chính xác là ở tổng An Lão, Bắc Ninh ngày nay và
lập nên dòng họ Cao đông đúc của chúng tôi ở đó. Còn thanh bảo kiếm thì được
truyền hết đời này sang đời khác cho đến tôi”.
Ông Ngạc đứng dậy, rút thanh kiếm
khỏi vỏ. Nó mỏng và khá dài. Không phải màu xanh nhạt mà hơi trắng xỉn, đôi chỗ
đen như vết gỉ. Trông nó khá bình thường, là điều ít nhiều làm tôi thất vọng.
“Ông có thấy hai chữ Mạc Gia đây
không?”
Tôi cúi xuống nhìn nhưng chẳng
thấy gì ngoài mấy nét mờ vòng vèo chỗ sát đuôi kiếm. Tuy vậy tôi vẫn có cái cảm
giác hồi hộp thật lạ khi chạm ngón tay vào thanh kiếm mát lạnh như chạm vào quá
khứ xa xôi cùng những truyền thuyết ly kỳ về nó, dù thực ra tôi chưa tin lắm
những gì đang được chứng kiến.
“Đừng chạm vào lưỡi. Sắc lắm
đấy!”
Rồi như để chứng minh cho độ sắc
của thanh kiếm, ông vung tay chém cây nến còn mới nguyên dài bằng gang tay trên
chiếc đôn gỗ lim cạnh đấy.
“Ông xem này, - ông Ngạc nói,
chìa cây nến cho tôi. - Tôi mới chém ngang qua nó, nhưng lưỡi kiếm sắc đến mức
dẫu bị cắt làm đôi, cây nến vẫn còn nguyên, đơn giản vì không có thời gian để
đứt. Chỉ để lại một nhát cắt rất mảnh, nếu mắt kém chắc ông không thấy”.
Tôi nhìn thấy vết cắt ấy, thấy cả
lưỡi kiếm chém đúng giữa thân nến, nhưng không thể tin cách ông giải thích.
Biết tôi đang băn khuăn, ông Ngạc
đưa mắt nhìn quanh như muốn thử lần nữa. Bỗng nhiên tôi thấy sợ. Một nỗi sợ mơ
hồ như đang bị lôi vào một âm mưu mờ ám, dẫu con người đang cầm thanh kiếm sắt
ngọt trước mặt có vẻ tử tế và chắc không muốn hại tôi.
Chợt một con mèo tam thể rất to
nhưng gầy từ phòng trong đi ra. Nó nhảy lên đứng trên góc xa chiếc bàn lớn tôi
đang ngồi, rồi uể oải vươn cổ ngáp đúng lúc ông Ngạc vẩy lưỡi kiếm về phía nó.
Con mèo kêu một tiếng. Chẳng hiểu vì bị chém hay nó vẫn kêu như vậy mỗi lần
ngáp.
“Tôi mới chém đứt cổ nó xong. Đứt
mà không đứt như vừa nói. Bây giờ chắc ông đã tin?”
Tôi ngồi im, phần vì sững sờ,
phần chẳng biết nói gì.
“Vậy hóa ra chém mà không chém?”
Cuối cùng tôi lên tiếng.
“Theo cách ông nghĩ thì đúng thế.
- Ông Ngạc mãi lúc sau mới đáp. Ông cẩn thận cho kiếm vào vỏ. Tôi lén thở dài
nhẹ nhõm. May ông không có ý định thử chém người. - Tức là một thanh kiếm vô
tích sự vì không còn chức năng chém giết? Không. Đây là Mạc Gia Thư kiếm, báu
vật có một không hai trên đời. Chuyện nó hóa rồng xanh cùng nhiều chuyện khác
là do người ta phịa, nhưng quả đúng thanh kiếm có phép lạ. Muốn giết ai, chỉ
cần trỏ mũi kiếm vào người đó. Ông lại ngạc nhiên? Vì nó sắc và mạnh đến mức có
thể làm chết người qua khoảng cách, tất nhiên nếu khoảng cách ấy không quá
lớn”.
“Thế thì thật nguy hiểm, - tôi
nghĩ. - Vì vô ý hoặc do đùa, người ta có thể gây án mạng”.
“Đúng. Nhưng không phải trong bất
kỳ tay ai nó cũng có được phép lạ ấy” Ông Ngạc nói.
Tôi thầm ngạc nhiên sao ông đoán
hiểu điều tôi nghĩ. Hay tôi đã nói lên thành lời?
“Chỉ những người chủ hợp pháp của
nó mới làm được. - Ông nói tiếp. - Mà lúc chỉa mũi kiếm, phải có ý nghĩ muốn
giết người ấy. Ông có muốn tôi thử cho xem không?”
“Không, cảm ơn”, tôi vội đáp.
“Ông ta kể mình nghe, cho mình
xem tất cả những điều này để làm gì nhỉ? - Tôi lại nghĩ. - Ông ta cần gì ở
mình? Chắc mình được mời đến đây không phải vô cớ ”.
“Vâng, không vô cớ, tôi muốn
thương lượng với ông một chuyện”.
Ông Ngạc nói ngay. Lần này thì
tôi tin chắc ông có khả năng đọc được ý nghĩ người khác, và thầm nhắc mình phải
cẩn thận.
“Chuyện gì?” tôi hỏi.
“Nếu ông đồng ý, tôi xin được đổi
thanh kiếm gia bảo này lấy cánh tay nàng Tiểu Ái”.
“Nhưng đó là câu chuyện tôi phịa
hoàn toàn. - Tôi kêu lên, suýt nữa phì cười. - Tôi là nhà văn như ông biết, và
chẳng hề có cánh tay Tiểu Ái nào cả. Cái tên ấy cũng do tôi phịa ra!”
“Không quan trọng. Tiểu Ái hay
không Tiểu Ái không quan trọng. Cái quan trọng là từng có một cô gái bị chặt
tay như thế, và nhờ ông, cô gái ấy đã sống lại và được mọi người biết đến, được
cùng ai đó làm đàn bà trên giường. Có thể ông không có cánh tay Tiểu Ái thật
nhưng tôi hy vọng ông còn giữ được cái gãi lưng bằng nhựa hình bàn tay người
mua năm ngoái ở Trung Quốc. Cái mà ông viết bị con chó con gặm mất một ngón và
bà vợ ghen đem giấu đi ấy mà. Bây giờ ông vẫn có nó chứ?”
“Có. Luôn ở ngay trên bàn làm
việc của tôi. Nhưng tôi cũng phịa cả chi tiết nó bị vợ giấu...”
“Không quan trọng. Vậy ông có
đồng ý đổi nó cho tôi để lấy thanh kiếm này không? Một khi chẳng xem trọng nó
như thế thì chắc ông không tiếc. Xin ông khỏi bận tâm tôi cần nó làm gì. Tôi là
người tử tế như ông nghĩ, và tất nhiên chỉ làm những việc tử tế”.
“Nhưng đây là Mạc Gia Thư kiếm,
bảo bối vô giá của dòng họ ông?”
“Thì cánh tay Tiểu Ái, hay cái
gãi lưng nhựa rẻ tiền trên bàn như ông nói, cũng là vật quí hiếm không kém. Vả
lại tôi đã già, sống một mình và hiện không người thân thích. Lớp người trẻ chi
họ Cao Kiêm chúng tôi ngày nay chẳng đứa nào ra hồn, không đáng truyền lại một
vật quí hiếm thế này. Trong tay kẻ xấu, nó có thể gây tai họa. Thà giao cho ông
còn hơn. Lại được thêm nàng Tiểu Ái. Thế nào, ông đồng ý chứ?”
“Tôi sẽ làm gì với một thanh kiếm
quí như thế?” Tôi hỏi, thầm nghĩ ông già này có lẽ điên thật, nhưng vội đỏ mặt
khi chợt nhớ ông ta biết đọc ý nghĩ người khác. Quả có điên mới nghĩ ra được
một vụ đổi chác kỳ cục như thế. Tức là ông ta cho không tôi thanh kiếm.
“Đó là việc của ông. Cũng như
việc của tôi muốn làm gì với Tiểu Ái thì làm. Hy vọng ông sẽ không giết người
một cách vô cớ...”
“Tôi không bao giờ giết người”.
“Vậy thì hãy giữ nó như một thứ
đồ cổ. Ông chẳng thích đồ cổ lắm đó sao?”
Thấy tôi có vẻ xuôi xuôi, ông
Ngạc nói thêm:
“Xin ông đừng lo tôi thiệt. Có
thể ông chưa biết hết giá trị cái gãi lưng của ông. Tôi sẽ có cách lấy nó mà
chẳng phiền ông mang đến đây. Còn cây kiếm này thì coi như đã thuộc về ông.
Hoàn toàn hợp pháp. Thế là chúng ta thỏa thuận xong. Cảm ơn ông”.
Ông Ngạc lại nghiêng đầu nhìn tôi
bằng đôi mắt chim màu xám của mình rồi đứng dậy, ông thong thả đi vào phía
trong. Chiếc áo vét rộng màu xám xòe hai thân như hai cánh chim đang vỗ. Một
chốc sau ông biến mất (có cảm giác như ông nhẹ nhàng bay đi), để tôi một mình
ngơ ngác bên bàn với thanh kiếm Mạc Gia trên tay.
*
Về nhà, việc đầu tiên tôi làm là
chạy tới bàn xem chiếc gãi lưng có còn ở đấy không. Không! Tôi ngồi xuống
giường, thừ người một lúc. Vậy là ông Cao Kiêm Ngạc đã lấy nó đi. Bao giờ và
cách nào không biết, nhưng chắc chắn là ông. Nó vẫn luôn nằm ở chỗ cố định ấy
và chẳng ai ngoài tôi động đến nó.
Cái ông Ngạc này là ai nhỉ? Người
hay ma? Hay chim cú? Hay đơn giản tất cả chỉ là một trò đùa chẳng mấy thú vị?
Còn bàn tín bán nghi, nhưng tôi
bị kích động thực sự và rất hồi hộp. Dù trong nhà chẳng có ai trừ bà giúp việc
luôn ở trong bếp, tôi vẫn đóng chặt cửa phòng mình và quyết định thử chiếc
kiếm.
Tôi run run rút nó khỏi vỏ, để
ngửa lên mặt bàn, và cũng run run như thế, đặt lên lưỡi kiếm một tờ giấy trắng
mới cứng. Ngay lập tức tờ giấy bị cắt làm đôi. Lưng tôi ướt đẫm từ lúc nào. Sẵn
trên bàn có cây nến, không còn nguyên nhưng khá dài, tôi vội cầm kiếm cắt
ngang. Chậm thôi, có lẽ vì vậy đoạn bị cắt rơi xuống chứ không dính liền như ở
nhà ông Ngạc. Tôi thử lần nữa, nhanh hơn, mạnh hơn, rồi cầm lên xem, còn bẻ bẻ
ở chỗ mới bị chém. Quả nó không sao. Thậm chí không thấy cả vết chém. Tôi lại
ngồi thừ người nhìn thanh kiếm, không phải không thoáng lo sợ. Tuy nhiên, vẫn
còn một điều nữa phải thử. Nhà tôi không nuôi mèo nhưng có con chó con nghịch
ngợm, hay sủa vu vơ. Nó là con chó dễ thương, nó yêu tôi nhất vì không bị tôi
mắng và hay được cho ăn. Tôi không thể đem nó làm vật thí nghiệm.
Cuối cùng, ngồi trước bàn làm
việc nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ có kính che, tôi giơ thanh kiếm nheo mắt chỉ
đúng vào một quả trên cây cau trước nhà, ở khoảng cách bảy mét. Cả buồng còn
xanh non, không hiểu sao nó có màu vàng. Vừa ngắm, tôi vừa mong nó rụng. Mấy
giây sau, nó rụng thật, hình như bị bổ làm đôi. Sau đó tôi chĩa mũi kiếm vào
quả bóng nhựa màu xanh bọn trẻ đá lên mái nhà hàng xóm từ bao giờ. Lập tức nó
cũng rơi xuồng đất. Tôi còn thử một số khoảng cách khác và phát hiện thấy nó
chỉ có tác dụng trong vòng hai mươi lăm, ba mươi mét. Thế cũng xa lắm rồi.
Tôi cho kiếm vào vỏ, giấu kỹ dưới
gầm tủ rồi lên giường nằm suy nghĩ miên man.
*
Vâng, không nghi ngờ gì nữa, tôi
đang có trong tay Mạc Gia thư kiếm, thanh kiếm quí giá nhất trên đời, quí hơn
cả nàng Tiểu Ái kiều diễm, nếu quả thật nàng đang ẩn mình trong chiếc gãi lưng
rẻ tiền của tôi mà ông Cao Kiêm Ngạc đang giữ. Tôi thầm mỉm cười thương hại ông
già tội nghiệp. Mong cho ông được hạnh phúc với nàng.
Nhưng tôi sẽ làm gì với thanh
kiếm quí có phép lạ ấy? Trước hết tôi quyết định giấu kín không cho ai biết, vì
sợ vợ tôi tò mò có thể bị đứt tay hoặc thậm chí làm chết tôi hay ai đó. Tôi có
thể đơn giản giữ nó như giữ một thứ đồ cổ quí hiếm, ông Ngạc từng nói như vậy.
Tất nhiên, nhưng nó không chỉ là đồ cổ mà còn là thứ vũ khí lợi hại. Vậy là tôi
được trao phép lạ có thể hủy diệt cái gì đó, ai đó mà không ai biết. Chẳng phải
đấy không là một cám dỗ lớn? Tuy nhiên vốn hiền lành, lại đã qua từ lâu cái
thời có thể hung hăng gây gổ nên bây giờ tôi hoàn toàn không có nhu cầu giết
người. Mà cũng không có ai thù oán đến mức phải giết.
Tôi có anh hàng xóm là một chủ
doanh nghiệp tư nhân trẻ. Một tay hãnh tiến lắm tiền nhiều thế lực. Kể ra anh
ta cũng chẳng quá tồi so với người khác, có điều thích khoe giàu một cách lộ
liễu nên bị cả xóm ghét, chính xác hơn là ghen tị. Tôi thì dửng dưng, chỉ hơi
khó chịu vì chiếc Mercedes mới toanh của anh ta hay đột ngột bấm còi (để nhắc
người khác nhớ đến sự hiện diện của nó), lại thường xuyên để chềnh ềnh trước
nhà tôi làm vướng lối đi. Hôm nọ thấy tôi vội vã ra bến xe buýt, anh ta ngỏ ý
mời lên xe đi cùng vì tiện đường. Có thể chân thành chứ chẳng ý gì, nhưng tôi
vẫn thấy như bị xúc phạm. Lúc này từ
trong phòng nhìn ra, với thanh kiếm có phép lạ bên cạnh, tôi bất chợt
thấy mình có ý nghĩ muốn chĩa mũi kiếm sắc nhọn vào lốp hay lớp sơn bóng lộn
của chiếc xe, biểu tượng giàu có và địa vị xã hội, đồng thời cũng là cái làm
người sở hữu nó trở nên kệch cỡm. Chắc thấy xe xẹp lốp hoặc thân bị chọc thủng,
anh ta sẽ đau đớn lắm. Hay cứ dạy cho anh ta một bài học?
Vì không là người ác, cuối cùng
tôi đã không làm điều ấy. Nhưng ý nghĩ kỳ cục này cứ lẫn quất mãi trong đầu,
đến mức không tập trung làm việc được. Cuối cùng tôi giấu thanh kiếm vào chỗ cũ
và bỏ đi dạo.
Thường vẫn thế, khi ta cố không
nghĩ đến cái gì đó thì cái ấy càng ám ảnh ta nhiều hơn. Đúng, tôi đang bị thanh
kiếm ám ảnh, ám ảnh ghê gớm. Suốt buổi chiều hôm ấy tôi không nghĩ được gì khác
ngoài nó. Thậm chí tay như ngứa ngáy. Bước đi trên hè phố, tôi hình dung đang
cầm kiếm giết kẻ ác giúp đời. Giết cả bọn khủng bố quốc tế như Bin Laden chẳng
hạn. Ngớ ngẩn, nhưng quả thật tôi có những ý nghĩ như vậy. Hệt như một tên khát
máu giết người không ghê tay. Thấy con chó chạy ngang, tôi nghĩ kể cũng hay nếu
chém nó đứt đôi mà không đứt đôi như cây nến ở nhà ông Ngạc.
Chiều hôm ấy tôi phóng xe đến nhà
ông và không tin nổi mắt mình khi thấy ở đúng số nhà trên phố hôm trước tôi đã
đến theo đúng địa chỉ ghi trong thư, bây giờ là một ngôi nhà khác hẳn với bà
lão chủ nhà đang ngồi bán mấy thứ vặt vãnh trước cửa. Vậy là ông Ngạc này không
phải người mà ma quỉ. Tôi lo lắng nghĩ rồi bỏ đi luôn.
Buổi tối ngồi ăn cơm, tôi nhìn
chiếc cổ trắng hơi đẫy đà của vợ và lại nghĩ đến thanh kiếm. Tôi rùng mình hình
dung thấy thanh kiếm sắc ngọt chém đứt cái cổ trắng đẫy đà ấy mà đầu vẫn không
rơi. Không có máu. Không chết.
“Ông nhìn gì thế?” vợ tôi hỏi.
“Hình như dạo này bà béo ra”.
“Vớ vẩn. ăn đi. Lại phịa ra một
nàng Tiểu Ái nào nữa chắc? Đã điên còn làm người khác điên theo”.
Vợ tôi vẫn có kiểu nói như vậy
nhưng thường lại nghĩ khác nên tôi không bao giờ cãi lại. “Lần này thì là
chuyện thật đấy, không đùa chút nào đâu!” tôi nghĩ nhưng không nói ra miệng.
Tôi ngủ một đêm chập chờn với
những giấc mơ kỳ cục và kinh hãi.
*
“Ban đêm ông dậy lục tủ lạnh đấy
à?” Vợ tôi hỏi khi ngồi vào bàn ăn sáng.
“Không, - tôi đáp. - Thì sao?”
“Chẳng sao cả. Tôi nghe có tiếng
động”.
“Hình như nhà ta có ma...” bà
giúp việc rụt rè lên tiếng. “Đêm qua, lúc gần sáng cháu thấy động ở phòng
khách, sợ con mèo nhà bà Nguyệt làm đổ mấy lọ sứ nên chạy vào xem. Cháu hoảng
hồn đứng lặng người khi thấy ai đó mặc đồ xanh đang múa may quay cuồng như tấm
vải lớn lượn vòng với cái gì đó sáng loáng trong tay. Cháu sợ quá không kêu lên
nổi. Khi dụi mắt nhìn kỹ thì chẳng thấy gì nữa. Nói ông bà đừng cười, nhưng
người ấy, tấm vải ấy múa thế này này...” Bà đưa bàn tay đang cầm đũa khua một
vòng trước mặt. “Sau đó cháu chẳng dám ngủ nữa, cũng chẳng dám vào phòng khách,
nhưng chắc chắn người đó còn múa thêm một lúc mới thôi”.
“Nhảm nhí. Ma với quỉ!” tôi nói
át đi.
“Người ta bảo xóm ta trước đây là
nghĩa địa phải không ạ?”
“Cũng nhảm nhí nốt. Ao muống chứ
nghĩa địa nào?” Tôi đáp dù biết quả đúng như thế. Nghĩa địa làng Ngọc Lâm.
Nhưng chắc điều này không liên quan gì đến chuyện bà ta kể. Chúng tôi sống ở
đây gần chục năm mà chẳng có gì xẩy ra.
Cả ba ngày tiếp theo bà giúp việc
vẫn kêu nhà có ma, mặt phờ phạc hẳn do mất ngủ và lo sợ. Vợ tôi không nói gì
thêm nhưng chắc nghĩ chồng đêm đêm vẫn lục tủ lạnh.
Tôi lại lấy thanh kiếm ra xem. Nó
vẫn ở chỗ cũ, lạnh lẽo và vô hồn. Từ trong phòng, qua lớp kính cửa sổ, tôi thử
nghịch, làm đứt một cành lớn hoa giấy, cách chỗ ngồi đến mười lăm mét. Những ý
nghĩ vớ vẫn lại lởn vởn trong đầu. Hai tay như ngứa ngày muốn làm điều gì. Sự
ngứa ngáy của người có sức mạnh muốn đem ra thử. Đấy là sự lạ vì xưa nay tôi ít
khi bị phân tán tư tưởng, càng không nghĩ vẩn vơ việc chém giết. Nghĩa là đã
xuất hiện một sự thay đổi nào đó trong tôi. Thanh kiếm! Chính sức mạnh và phép
lạ của nó làm tôi thay đổi. Thay đổi theo hướng nguy hiểm. Thế thì thật đáng
sợ.
Tối ấy đang ngủ, tôi chợt mở mắt
và thấy đứng ngay đầu giường là một người phụ nữ, hay đúng hơn cái gì đó giông
giống người phụ nữ với thanh kiếm sáng loáng trong tay. Tưởng mình mơ tôi dụi
mắt, vẫn thấy người ấy đứng yên và đang chăm chú nhìn tôi. Dụi lại lần nữa thì
chẳng còn thấy đâu. Sáng hôm sau chưa kịp dậy, tôi đã nghe bên ngoài nhốn nháo
tiếng người. Thì ra có kẻ ghen tị độc ác đã dùng dao đâm thủng hai vết lớn vào
thân xe bóng lộn chiếc Mercedes của anh hàng xóm vẫn đỗ bên cổng nhà tôi như
mọi lần...
P.S.
Chuyện này xẩy ra cách đây ba
ngày. Trong khoảng thời gian ấy công an đã kịp đưa cậu Hoàng lên đồn. Cậu ta
thuộc loại “thanh niên chậm tiến”, con một gia đình trong xóm vừa có trận cãi
nhau với chủ chiếc Mercedes. Tôi kịp thuyết phục bà giúp việc đừng vì sợ ma vu
vơ mà bỏ về quê. Trong ba ngày ấy, tôi cũng kịp lén lút đem thanh Mạc Gia Thư
kiếm quí hiếm đến một lò rèn ở phố Sinh Từ nhờ rèn thành mấy chiếc liềm cắt cỏ.
Vì sao lại liềm cắt cỏ? Đơn giản lúc ấy tôi không nghĩ được gì khác ngoài
chúng. Tôi vốn từ nông thôn, ngày bé từng chăn trâu cắt cỏ. Ông chủ lò rèn có
vẻ tiếc khi phải đem thanh kiếm cổ làm thành những vật tầm thường như vậy. Ông
gạ mua, trả giá cao nhưng tôi không chịu. Cuối cùng, sau ba giờ mấy người làm
việc cật lực trước sự chứng kiến của tôi, tôi có được bốn chiếc liềm mang về
nhà. Những chiếc liềm bình thường, thậm chí hơi thô. Tôi giữ một chiếc cho mình
làm kỷ niệm, còn lại có dịp sẽ gửi về quê.
Vậy là thoát được thanh kiếm quí.
Thật lạ rằng tôi có thể giải quyết mọi việc đơn giản và nhanh chóng đến vậy, và
không mảy may luyến tiếc. Bà giúp việc
không còn thấy ma, do vậy đêm ngủ không bật đèn sáng trưng như trước. Tôi cũng
lấy lại được sự thanh thản, trong đầu không còn luẩn quẩn những ý nghĩ kỳ cục,
trừ một ý nghĩ nhỏ rằng một người bình thường có thể sống thảnh thơi, hạnh phúc
suốt đời nếu không vì bỗng nhiên có được sức mạnh hay loại vũ khí phi thường
nào đó. Lúc ấy mọi việc sẽ phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Cho mình và cho
người khác.
À, còn thêm điều này nữa. Đêm qua
tôi đã gặp Mạc Gia. Vâng, đúng thế. Số là đang ngủ, tôi có cảm giác như ai đang
chăm chú nhìn mình. Mở mắt ra thì thấy người đàn bà áo xanh hôm nọ. Bà xưng tên
và cho biết trước đây bà chỉ là cô gái nông thôn nghèo bình dị, vì có chút nhan
sắc nên bị Can Tương bắt về làm lẽ, sau cũng chính ông ta xô bà vào lò luyện
kiếm chứ chẳng phải tự bà hy sinh vì chồng như người ta nói. Từ ấy bà phải làm
cái việc chém giết mà bà luôn kinh tởm.
Nay được giải phóng về với nơi mình vốn quen thuộc là làm ruộng, bà rất mừng,
do vậy bà đến để cảm ơn tôi trước khi lên đường trở lại quê cũ.
Câu chuyện ly kỳ đến mức tôi
không dám tin là thật, và dù được tận
mắt nhìn thấy bà, nghe bà nói, tôi vẫn nghĩ có thể đấy đơn giản chỉ là một giấc
mơ. Dạo này già, thỉnh thoảng tôi vẫn có những giấc mơ như vậy.
Hà
Nội, tháng Năm, 2002
NHÀI
Lần ra Hà Nội công tác gần đây,
ông N., người bạn cũ từng cung cấp tư liệu giúp tôi viết truyện ngắn “Cái chết
của con voi chột” hai mươi năm về trước, đã kể tôi nghe một câu chuyện kỳ lạ,
cũng xẩy ra ở cái nông trường S.V ấy. Nếu có điều gì phi lý, cho rằng không thể
tin được, thì các bạn cứ trách ông chứ không phải tôi, người đơn thuần chỉ
thuật lại một cách trung thực.
*
Ở thị trấn miền núi Tương Dương,
tỉnh Nghệ An, cách đây khoảng chục năm có người họ Bùi, tên Kiên. Không ai biết
nhân thân, quê quán hắn ở đâu, chỉ thấy một hôm có mấy người lạ xuất hiện, đẵn
cây dựng ngôi nhà nhỏ bên rìa thị trấn. Rồi mấy người kia đi, để mình hắn ở
lại. Có lẽ họ là dân đào vàng thất bại không muốn trở về quê. Thị trấn phát
triển, khu hắn ở dần dần thành xóm mới và hắn nghiễm nhiên thành láng giềng của
mấy gia đình khá giả có nhà mái bằng một, hai hoặc thậm chí ba tầng, nhà nào
cũng có rào sắt bao quanh sơn màu xanh tươi, hơi chối đối với người thành thị
xịn, nhưng đó là mốt của dân ở đây.
Hắn hiền lành, chỉ tội hơi đần độn,
không biết học hành được bao nhiêu nhưng cách cư xử, ăn nói thì không đến nỗi.
Mà hắn cũng rất ít nói. Chỉ cười, thấy ai cũng cười, kiểu cười bộc lộ rõ chất
thiểu năng trí tuệ của hắn.
Sống ở thị trấn, theo nghĩa nào
đó là dân thành thị, nhưng hắn kiếm ăn hệt như người miền núi, hàng ngày vào
rừng đào măng mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo và các thứ lặt vặt khác. Vì tốt
bụng, hắn hay đem măng biếu không hàng xóm, giúp họ nhiều việc như cuốc mảnh
vườn, sơn lại bờ rào. Tất nhiên không ai trả tiền công mà có trả hắn cũng không
lấy. Thành ra mọi người thích, có thể nói thương hắn. Thương anh Kiên Hiền. Tội
nghiệp anh Kiên Khù Khờ, hơn ba mươi tuổi rồi mà chẳng cô nào chịu lấy.
Thậm chí cả mụ Xinh nhà kề bên
cũng thích hắn. Tên là Xinh nhưng mụ chẳng xinh chút nào, bốn mươi tuổi, to
béo, mặt bóng nhẫy, nhìn kỹ thấy có những nốt đậu mùa to còn sót lại. Mụ đanh
đá, độc ác, lại có tính lẳng lơ. Chồng mụ lái xe đường dài, có khi hàng tháng
chẳng về. Thấy anh hàng xóm cao to trắng trẻo, dẫu ngốc nhưng đúng là người mụ
cần, nhiều hôm mụ vờ gọi hắn sang nhờ này nọ rồi trắng trợn gợi ý. Có thể vì
không muốn, vì sợ hoặc vì ngốc không hiểu, hắn chẳng chịu làm gì, khiến mụ tức
lắm, một lần đốp luôn vào mặt: “Đàn ông mà ngu thế!” Đáp lại, hắn chỉ cười, nụ
cười ngớ ngẩn thường ngày.
Lần nọ, chẳng hiểu thế nào cái
thằng ngốc hiền lành ấy nhặt được đâu đó một cây nhài người ta vứt ngoài đường,
đem về trồng trước ngôi nhà tuềnh toàng của mình. Cây hoa còn rễ nhưng đã héo,
người khôn ngoan chắc chẳng trồng vì biết nó không sống nổi. Thế mà nó sống lại
rất nhanh và chẳng bao lâu sau đã thành một bụi nhài xanh tốt nở nhiều hoa, tỏa
hương thơm nồng, đến mức mụ Xinh chõ miệng sang, buông hai tiếng: Điếc mũi! Tuy
nhiên, hắn lại thích cái mùi găn gắt dễ chịu ấy. Đêm đêm hắn xách ghế ra ngồi
ngoài sân bên bụi nhài, thỉnh thoảng nhíu mũi hít thật sâu, có khi còn hái một
bông mân mê trên tay, mặc cho mụ hàng xóm lườm nguýt hoặc cười duyên tình tứ.
Đây là sự lạ, vì xưa nay hắn không thuộc loại người lãng mạn, lại càng xa với
những thứ vớ vẩn như hương, hoa. Chẳng hiểu trong cái đầu chậm chạp và tăm tối
ấy của hắn đã xuất hiện những ý nghĩ gì.
Một đêm, đang mơ mơ màng màng
trên giường sau khi ngồi hàng giờ liền ngửi hương hoa ngoài sân, hắn bỗng nghe
có tiếng cửa mở rồi tiếng chân ai đó đang bước vào rất khẽ. Lúc đầu tưởng ngái
ngủ nghe nhầm, nhưng sau mở mắt, hắn ngạc nhiên thấy đúng có người vào nhà hắn
thật mà lại phụ nữ. Một cô gái mặc đồ trắng dáng mảnh khảnh và hình như xinh.
Nhờ ánh trăng chiếu chếch qua vách nhà thưa, hắn thấy đúng như vậy. Rõ ràng
không phải mụ Xinh như lúc đầu thoạt tưởng. Hắn lấy làm lạ. Ai nhỉ? Sao lại vào
đây và giờ này? Đầu óc chậm chạp của hắn bắt đầu ngọ nguậy. Có thể cũng vì chậm
chạp và ngớ ngẩn nên hắn không thấy sợ như người bình thường trong những trường
hợp tương tự. Chỉ tò mò. Người kia, đúng là một cô gái và cũng xinh, bước lại
gần rồi nhẹ nhàng ngồi xuống mép chiếc giường nơi hắn, kể cũng lạ, vẫn nằm yên.
Chắc lúc ấy hắn vẫn nghĩ đây chỉ là giấc mơ, một giấc mơ đẹp và hắn không muốn
ngồi dậy để thất vọng quay lại với cảnh suốt đời một mình thui thủi.
- Cô là ai? - cuối cùng hắn lên
tiếng hỏi.
- Em là Nhài, - cô gái nhỏ nhẹ
đáp.
Hắn thích cái tên ấy, thích cả
mùi hương hoa nhài tỏa ra từ người cô, hệt như mùi bụi hoa ngoài sân.
- Anh đã cứu sống em. Bây giờ em
đến ở với anh, nếu anh không đuổi em đi. - Cô gái nói tiếp, âu yếm nhìn hắn.
Hắn không đáp vì chẳng biết nói
gì. Cái khả năng nói vốn kém cỏi bây giờ hầu như tê liệt hoàn toàn. Hắn biết cả
đời hắn chưa bao giờ cứu sống ai, nhất là cô gái xa lạ này. Nhưng hắn đã không
đuổi khi cô ngả người nằm xuống cạnh. Dẫu ngốc, hắn cũng biết phải làm gì tiếp,
ít ra đây không phải mụ Xinh xấu xí và đanh đá. Có thể cả lúc ấy hắn vẫn nghĩ
mình đang mơ, mơ được chiếm đoạt một người đàn bà đẹp, lại có đúng cái mùi hắn
thích. Người này đã tự nguyện đến với hắn.
Sáng hôm sau tỉnh dậy hắn mới
thực sự ngạc nhiên khi thấy người đàn bà trong mơ ấy đang lúi húi làm gì trong
bếp nhà hắn. Lát sau cô bê ra một đĩa sắn luộc và chiếc ấm chè xanh. Hắn ngỡ
ngàng nhìn, cô chỉ cười e lệ. Lần đầu tiên trong đời có người đàn bà lo bữa
sáng cho hắn.
- Nhài? - Cuối cùng hắn lên
tiếng.
- Vâng, em là Nhài. Vợ anh.
Hắn lại càng ngạc nhiên hơn. Hắn
đã có vợ? Cô gái xinh đẹp này là vợ hắn?
- Vợ?
- Vâng, em sẽ là vợ anh. - cô gái
đáp. - Mà em đã là vợ anh. Anh không thích sao?
- Thích. - Hắn chỉ nói được từng
tiếng một, vẫn chưa hoàn toàn tin những điều đang xẩy ra.
Hắn trố mắt nhìn cô gái tên Nhài,
“vợ” hắn. Và nhíu mũi ngửi. Có mùi hoa nhài. Như mùi đêm qua, như ở ngoài sân.
“Vợ” hắn vẫn mặc bộ đồ trắng, rất trắng và mịn. Xinh. Có điều nhợt nhạt, hình
như hơi gầy. Hắn có cảm giác nhìn xuyên qua được người cô, cứ tưởng chỉ cần một
cơn gió mạnh, thậm chí chỉ cần hắn chạm vào người hay nói to là cô có thể vụt
bay đi mất. Mà hắn thì không muốn cô bay đi nên không hỏi thêm điều gì nữa, chỉ
ngồi đực ra, vốn đã ngớ ngẩn trông lại càng ngớ ngẩn hơn.
Vậy là hắn đã có vợ. Vợ ra vợ chứ
không như mụ Xinh, hay cả cô Hường con dâu ông chủ tịch thị trấn đối diện nhà
hắn. Con trai ông cưới vợ tháng trước. To lắm, đông lắm, có cả ô tô. Còn cô dâu
thì mọi người khen rất xinh và được tặng thật nhiều quà. Thế mà cô gái xinh đẹp
đám cưới có ô tô ấy chẳng bằng Nhài. Đấy là chưa nói người cô kia không có mùi
thơm như vợ hắn. Không nước hoa mà vẫn thơm. Hắn nghĩ thế và lấy làm thích lắm.
Người ta nói đàn ông lấy vợ sẽ
khôn ra, tu chí hơn. Điều này quả đúng với trường hợp của hắn. Dẫu ngốc, hắn
vẫn biết trong việc hắn có vợ có điều gì đấy không bình thường. Lại thêm việc
không ăn hỏi, cưới xin, hình như còn chuyện giấy tờ, đăng ký gì nữa với thị
trấn nữa. Thế thì không ổn. Hắn quyết định vợ hắn sẽ không bước chân khỏi nhà,
ít ra một thời gian. Cô Nhài đồng ý ngay. Dường như cô cũng ngại bị người khác
nhìn thấy. Lần đầu tiên, hắn ý thức được trách nhiệm của người chồng và chủ gia
đình. Có cái gì đấy âm ấm xuất hiện trong lòng hắn. Đầu óc hẳn cũng sáng dần
ra. Bây giờ hắn ở trong rừng lâu hơn để kiếm thêm măng. Hắn không đem măng cho
người khác như trước. Đi đâu hắn cũng lo lỏm về sớm vì biết có người đang chờ.
Cứ thế họ sống hạnh phúc với
nhau. Rất nhanh chóng, hắn học được cách xưng hô anh em âu yếm với vợ. Ngôi nhà
được tu sửa đôi chút với mái tranh mới và các vách được trát lại, vì hắn sợ có
ai tò mò nhìn vào. Thậm chí khoảnh đất sau nhà bỏ hoang lâu nay cũng được cuốc
xới trồng lèo tèo mấy luống rau cải. Tiếc rằng hắn vụng nên chúng cứ chết lụi
dần. Tóm lại hắn, cái anh chàng Bùi Kiên đần độn ấy, đã thành người gần như
bình thường. Một điều đáng mừng cho hắn và cho mọi người...
Một buổi sáng, thấy hắn vác dao
vào rừng, mụ Xinh đứng sau hàng rào nhà mụ, nói chõ sang:
- Anh Kiên cũng ghê đấy nhỉ. Biết
đưa gái vào nhà.
Môi mụ cong cớn, hằn học. Từ lâu
mụ đã thất vọng bỏ ý định mồi chài hắn.
- Bà nói thế nghĩa là gì?
- Ngốc mà cũng khéo giả vờ. Tôi
thừa biết anh chị hú hí với nhau bao lâu nay. Tưởng không có “cái ấy”, hóa
ra...
- Vợ tôi đấy.
- Vợ? Ghê chưa! Thế cưới xin bao
giờ?
- Không phải việc của bà, - hắn
giận dữ nói rồi bỏ đi.
Mụ nói với theo:
- Tôi sẽ mách chính quyền để
người ta gô cổ nó lại đưa vào trại cải tạo gái mại dâm.
Hôm sau có người của thị trấn tìm
đến nhà hắn thật, nhưng họ chỉ hỏi qua đôi điều rồi bỏ đi, bảo nên sơm sớm tổ
chức lễ cưới cho hợp lẽ. Cũng từ hôm ấy, cô Nhài bước ra khỏi nhà, cuốc xới,
dọn dẹp, có hôm còn đi chợ. Vẻ đẹp, sự ẻo lả, nước da và bộ quần áo luôn màu
trắng khiến cô nổi bật hẳn ở nơi quê mùa heo hút này. Khối người ghen thầm, bảo
anh Kiên Hiền mèo mù vớ cá rán. Nhưng nói chung mọi người mừng cho hắn. Cái
thằng ấy hiền, trời lại bắt tội đần độn, biết đâu lấy vợ chẳng khôn ra? Mà hắn
hình như đã bắt đầu khôn ra rồi đấy. Còn con bé kia, từ chỗ lầm lỡ nay biết
hoàn lương cũng tốt chứ sao...
Chỉ tiếc mụ Xinh không có được
cách nghĩ bao dung đó. Mụ hằn học ra mặt, cứ lồng lên như con chó dại, hết kêu
chính quyền nhu nhược lại hăng hái đi khắp nơi nói xấu nhà hàng xóm. Mụ tìm
cách bắt chuyện, khiêu khích cô Nhài nhưng cô chỉ im, cười bẽn lẽn. “Làm đĩ còn
tỏ ra chính chuyên!” Một lần thấy mụ
gọi vợ là đĩ, hắn trợn mắt, chạy đến dí chiếc dao to bản vào cổ mụ, khiến từ
đấy mụ không dám gọi thế nữa. Nhưng mụ vẫn căm lắm, vẫn tức lộn ruột khi mỗi
buổi sáng thấy cô hàng xóm xinh đẹp hái một bông nhài cắm lên mái tóc. Dơ! Mụ
căm cả việc vợ chồng thằng đần kia cũng có lọ hoa để trên chiếc chõng tre như
bao nhà tử tế khác. Dơ!
Một tối nọ đang ngủ, hắn chợt thức
dậy và thấy Nhài đang quằn quại bên cạnh. Hắn vội vã bật đèn. Cô ôm bụng, co
gập người rên lên đau đớn. Hắn hoảng hốt hỏi có chuyện gì nhưng cô không nói
được, mặt trắng nhợt. Hắn bế vợ lên tay, chẳng biết phải làm gì. Người cô nhẹ
tênh, mỗi lúc một lả dần. Cuối cùng cô đem hết sức ngước lên nhìn hắn, định nói
gì nhưng không được. Chỉ đôi mắt mở to nhìn hắn, đau đớn, biết ơn, âu yếm và
luyến tiếc lẫn lộn. Cô khóc. Những giọt nước mắt to rơi lên đôi tay sần sùi của
hắn. Rồi cô ngừng co giật, teo dần, teo dần cho đến khi trong tay hắn chỉ còn
lại một bông hoa nhài lớn đã héo và mấy viên ngọc màu trắng lẫn vài viên màu
hồng.
*
“Lúc ấy trời vừa rạng sáng. Hắn
ngơ ngác cầm bông hoa héo bước ra sân và thấy cả bụi nhài đã bị chặt ngang gốc,
còn ri rỉ máu”. - Ông N. kể tiếp.
“Mụ Xinh đã làm điều đó?” tôi vội
hỏi.
“Vâng. Chính con mụ độc ác đó.
Trưa hôm ấy, khi biết chắc điều này, hắn lẳng lặng cầm dao sang nhà mụ, chẳng
nói chẳng rằng, chém một nhát đứt ngang cái cổ to bè của mụ. Chiếc đầu bị chém
bay tận góc nhà”.
Cả hai chúng tôi cùng im lặng.
Cuối cùng ông N. lên tiếng, giọng xa vời:
“Thế
là Kiên Hiền thành Kiên Điên. Bông hoa làm anh ta khôn ra, hạnh phúc hơn. Vậy
mà con người nỡ cướp đi cái hạnh phúc nhỏ bé ấy rồi đưa anh ta trở lại không
chỉ thành đần độn mà còn thành điên. Tội nghiệp. Sao người ta có thể ác với
nhau như thế được nhỉ?
Hà
Nội, 23. 9. 2002
NGƯỜI BÁN TUỔI
- Chú mày không còn gì nữa thật
à?
- Vâng. Đúng thế, - hắn đáp.
- Vậy sao còn đến hiệu cầm đồ?
Hắn lúng túng đứng im vì chẳng
biết nói gì.
Hắn còn trẻ, trẻ lắm, chính xác
là hai mươi tuổi. Mới cách đây một tuần hắn kỷ niệm cái tuổi ấy ở quán nước
cùng vài thằng bạn như hắn, bằng nước chè chén và kẹo lạc. Chỉ thế thôi vì lúc
ấy trong túi không đứa nào có tiền.
Hắn là sinh viên năm thứ ba một
trường đại học "con ông cháu cha" ở Hà Nội, mặc dù ông bà cha mẹ hắn
bao đời nay chỉ là nông dân nghèo, lại ở tỉnh xa. Hắn vào được trường này đơn
giản vì học giỏi, vào thẳng, nhờ trước đó đoạt giải cao trong một lần thi toán
quốc tế và ba lần giải nhất nhì trong nước. Hắn khá đẹp trai, lại thông minh và
có dáng rất trí thức. Cả con người hắn toát lên điều đó, ai thoạt nhìn cũng
nhận thấy ngay. Đôi mắt hắn thật sáng và luôn hấp háy sau cặp kính trắng hình
ô-van gọng mạ kền hợp mốt mà không hiểu hắn đeo vì cận thật hay chỉ để tôn thêm
cho khuôn mặt vốn đã rất ưa nhìn của mình. Hắn có thói quen chốc chốc đưa ngón
tay trỏ nâng cặp kính trên chiếc mũi thon thẳng, dù chẳng mấy khi nó tụt xuống.
Da hắn trắng và mịn. Đôi môi chúm chím, mọng và hồng hồng như môi con gái. Dáng
điệu và cách nói năng, cư xử của hắn cũng lịch sự. Tóm lại, cả phần trong lẫn
phần ngoài, hắn là một người gần như hoàn thiện. Hắn luôn ý thức điều ấy, kể cả
việc rất nhiều cô gái để ý đến hắn.
Chỉ tội mỗi cái là hắn nghèo.
Sinh viên tỉnh lẻ ai chẳng nghèo? Hẳn thế. Nhưng với người khác thì đó là
"khó khăn tài chính", còn với hắn thì vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều.
Hắn muốn có cuộc sống vật chất (tức sinh hoạt, chi tiêu và nhất là giao du với
bạn bè) tương xứng với một người thông minh, đẹp trai và lịch lãm như hắn. Hắn
tiếc chứ không oán giận bố mẹ. Hắn biết thân phận mình nên không bao giờ chủ
động viết thư xin tiền. Có thì các cụ cho, không thì tự lo lấy. Hắn nghĩ thế và
đã tìm mọi cách để có tiền. Toàn những cách lương thiện và sạch sẽ - làm gia
sư, viết hộ luận án cho người khác, học giỏi để được nhận học bổng và tham gia
các đề tài nghiên cứu, các chương trình, dự án. Nhưng để có được cách sống như
hắn mong muốn thì các khoản thu nhập ấy không đủ, dù hắn đã rất cố.
Là người tự trọng, hắn không mua
chịu cái gì và cũng không hỏi vay tiền ai, kể cả bạn bè thân thiết. Mà đã tự
trọng thì dễ thành sĩ diện. Thế là hắn tìm đến hiệu cầm đồ với cảm giác xấu hổ
và chua xót. Đầu tiên hắn cầm chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ chính hiệu được tặng lần đi
thi ở nước ngoài, để có tiền mua quà sinh nhật cho một cô bạn gái con nhà giàu
yêu hắn và cũng được hắn yêu lại. Tiếp đến là chiếc nhẫn vàng hai chỉ do một bà
cô nghèo ở Sài Gòn đã khóc vì mừng và tự hào đưa cho hắn khi được vào thẳng đại
học. Có thể dễ dàng đem bán những thứ ấy nhưng hắn không làm thế vì không muốn
chia tay với những vật kỷ niệm có ý nghĩa. Hắn từng đem cầm và chuộc lại chúng
mấy lần, cho đến khi chẳng kiếm đâu ra tiền để chuộc. Cách đây ba tháng hắn
phải đem cái duy nhất còn lại có thể mang tới hiệu cầm đồ này là chiếc xe máy
không tốt lắm nhưng cũng chẳng đến nỗi cà tàng, để có tiền hoàn thành dự án do
một công ty tư nhân thuê hắn và hai đứa bạn khác làm nhưng không được ứng trước
đồng nào. Hắn tin làm xong sẽ có tiền không chỉ đủ chuộc lại xe mà cả những thứ
khác. Nhưng cái công ty ấy vỡ nợ, do vậy đẩy hắn vào thế tuyệt vọng.
Chẳng hiểu vì sao hôm nay hắn đến
đây, một khi không có tiền để chuộc lại cái đã cầm. Hắn lờ mờ nghĩ số tiền hắn
vay chỉ già nửa giá trị chiếc xe, biết đâu lão chủ hiệu cầm đồ thương tình đưa
thêm chút ít nữa chăng. Tuy nhiên hắn không muốn hỏi xin điều ấy, vì hắn biết
rõ tính lão và mức lãi lão bắt hắn trả. Thành ra hắn cứ nấn ná nửa muốn ở lại,
nửa muốn về ngay để khỏi phải nhìn con người hắn đang căm ghét.
- Vậy là quả thật cậu không còn
gì nữa? - lão hỏi lại cái câu vừa hỏi lúc nãy.
- Thì tôi đã nói là không rồi!
Ông điếc à? - Tự nhiên hắn nổi cáu. Từ trước tới nay hắn luôn lịch sự "bác
cháu" với lão, nhưng giờ thì hắn chuyển sang "ông tôi".
Lão giả vờ không nhận thấy thái
độ ấy của hắn, vẫn nhỏ nhẹ:
- Tôi thấy hình như cậu vẫn còn
cái để cầm hoặc bán cho tôi đấy. Quý và đắt tiền nữa là khác...
- Ông ỡm ờ, lảm nhảm gì thế? -
Hắn vẫn chưa hết cáu. - Tôi mà không biết mình đang có gì sao? Hay ông biết,
ông nói thử tôi nghe. Tôi đang cần tiền.
- Rất cần?
- Vâng, rất cần.
- Cần ngay bây giờ?
- Cần ngay bây giờ.
Lão già chủ hiệu cầm đồ húng hắng
ho. Từ nãy đến giờ lão ngồi sau chiếc quầy gỗ cáu bẩn, trên chiếc ghế tròn cao
bằng sắt có thể xoay đi xoay lại như ở quầy bar, còn hắn thì đứng cạnh. Lão
thong thả bước xuống, pha ấm trà mới rồi mời hắn ngồi xuống bộ xa-lông cũng già
nua và nhăn nheo như lão.
- Mời cậu uống nước và hút thuốc,
- lão nói, tay chìa bao ba số.
Đây là lần đầu lão đối xử tử tế
với hắn. Hắn thầm ngạc nhiên nhưng chỉ lặng lẽ chờ xem lão định giở trò gì.
- Xin được nhắc lại: Cậu không
biết cậu còn một cái rất quý mà tôi đang cần. Nếu cậu muốn, ta có thể thương
lượng...
- Cái gì? - hắn tò mò hỏi.
- Thì cậu hãy uống nước, hút
thuốc đi đã. Việc này quan trọng, không vội được, - lão nói, nhìn thẳng vào mắt
hắn, một cái nhìn sắc lạnh và đáng sợ, đến mức không chịu nổi, hắn phải cúi
mặt. - Thế này nhé, - lão lên tiếng sau hồi lâu hai người im lặng, - cậu đang
có cái quý nhất của con người, đó là tuổi trẻ. Cậu có thể đem nó cầm ở cửa hàng
tôi, hay tốt nhất là bán hẳn cho tôi, được không?...
- Ông nói gì cơ? Tuổi trẻ? Bán
tuổi trẻ của tôi cho ông? - hắn thốt lên, lúc đầu ngạc nhiên, sau phì cười: -
Ông điên à?
- Chính xác năm nay cậu bao nhiêu
tuổi nhỉ? - lão hỏi như không nghe hắn vừa nói gì.
- Hai mươi.
- Cái tuổi thật đẹp mà tôi rất
muốn có, dù phải trả giá đắt. Cậu đồng ý bán nó cho tôi chứ?
"Lão già này điên thật rồi,
- hắn thầm nghĩ. - Lão nói lảm nhảm gì vậy không biết".
- Cứ cho là tôi muốn bán đi, nhưng
ông cần nó làm gì, và... việc mua bán này thực hiện như thế nào? Đây không phải
chiếc xe máy hay một đồ vật cụ thể. Ông hiểu ý tôi chứ?
- Hiểu, rất hiểu, - lão già gật
đầu. - Tôi sẽ cho anh biết sau. Biết về các điều kiện mua bán ấy mà. Bây giờ
chỉ cần anh nói anh có đồng ý không đã.
"Hay lão ta là phù
thuỷ?" hắn tự hỏi rồi mỉm cười, buột miệng thành tiếng:
- Ông nói cứ như ông là phù thủy
không bằng.
- Nếu muốn, anh có thể coi tôi là
phù thủy cũng được. Không sai nhiều lắm đâu, - lão thản nhiên đáp.
Hắn bắt đầu thấy câu chuyện trở
nên thú vị, dù chẳng tin chút nào những điều lão nói. Với hai chữ "phù
thủy" lởn vởn trong đầu, hắn đưa mắt nhìn lão một lượt từ đầu đến chân và
thấy lão cũng hơi hơi giống phù thủy thật.
Người lão bé choắt, khuôn mặt
gầy, đen xỉn lại đầy những nếp nhăn sâu, đặc biệt trên trán và hai bên khóe
mắt. Nhìn lão, cái đập vào mắt trước tiên và dễ nhận thấy nhất là một nốt ruồi
to, hồng hồng như hạt đậu đỏ với mấy sợi lông không hiểu sao lão không cắt mà
cứ để mọc dài, trông rất khó chịu. Chiếc mũi lão nhọn, kéo xuống gần miệng
nhưng không khoặm. Trên mũi là chiếc kính trắng mắt tròn và nhỏ như kính thầy
bói. Các ngón tay lão dài, chỉ còn da bọc xương nhưng khá sạch và không có móng
nhọn như phù thủy. Còn đôi môi lão thì đúng là môi phù thuỷ - mỏng, nhỏ, bên
ngoài xám ngoét nhưng càng sâu vào trong càng đỏ, đỏ như máu. Cả đôi mắt và
giọng nói cũng đúng của phù thủy. Ở chúng có cái gì đấy độc ác và đáng sợ.
Hắn thầm ngạc nhiên sao mãi bây
giờ mới nhận thấy những điều này ở lão. Cũng có thể do bị ám ảnh nên hắn mới
thấy thế chăng? Hắn đảo mắt nhìn qua căn nhà. Đúng là hang phù thủy. Nó ở trong
một con hẻm sâu hun hút. Một phần bên ngoài lão dùng làm cửa hiệu, hay đúng hơn
là nơi giao dịch của cửa hiệu; các bức tường cáu bẩn đến mức không thể nhận ra
nó từng được quét bằng loại vôi ve gì, trên đó có treo một cặp sừng nai cong
queo, một con đồi mồi, một chiếc mặt nạ màu đen bằng gỗ với đôi nanh trắng hếu,
một con chồn nhồi đang bám vào tường và... một giấy chứng nhận gia đình văn hóa
mới được lồng trong khung kính. Hắn bĩu môi khi thấy cái vật quá ư đời thường,
lạc lõng này. Tất cả đều bị phủ một lớp bụi dày đen xỉn. Hắn chưa bao giờ vào
phòng trong, nhưng đoán biết nó rất dài, không có chút ánh sáng nào lọt vào, là
nơi cất giữ những thứ người ta đem đến cầm cố, và chắc chắn phải có đủ dụng cụ
hành nghề của một lão phù thủy. Hình như lão sống một mình. Ít ra xưa nay hắn
chưa hề gặp ai khác ở đây, ngoài khách hàng của lão.
- Thời này không còn phù thủy
nữa, tất nhiên,- hắn nhận xét. - Nhưng thực tình tôi thấy ông chẳng khác phù
thủy mấy.
- Thì tôi chính là phù thủy thật
mà. Tôi biết anh không tin, nhưng quả đúng thế.
- Tôi không ngờ ông là người
thích đùa. Đã vậy, tôi cũng xin đùa theo. Tôi đồng ý bán tuổi trẻ của tôi cho
ông. Xin cho biết cách thức và giá cả cụ thể!
- Nhưng đây không phải chuyện
đùa. Chuyện nghiêm túc đấy.
- Ừ, thì nghiêm túc. Ông nói đi.
Lão già im lặng một lúc như suy
ngẫm điều gì.
- Được, vậy là anh năm nay hai
mươi tuổi. Anh có thể nhượng lại cho tôi số tuổi này dưới dạng cầm đồ... trong
trường hợp này là cầm tuổi, lúc nào có tiền anh chuộc lại. Nhưng tôi muốn và
cũng khuyên anh nên bán đứt cho tôi thì được lợi hơn nhiều, lại đỡ rắc rối sau
này...
- Tôi đồng ý theo cách thứ hai.
Rồi sao nữa?
- Tốt lắm. Bây giờ ta bàn giá cả.
Đây là mặt hàng ít mua bán nên không có giá chung. Tôi định trả cho anh mỗi năm
tuổi mười triệu đồng, anh thấy thế nào?
- Mười triệu một năm tuổi! - hắn
khẽ thốt lên, không hiểu vì nghĩ như thế là quá đắt hay quá rẻ. - Vâng, cứ cho
là tôi chấp nhận giá ấy. Tiếp theo là gì?
- Là coi như vụ mua bán này xong
xuôi. Hai người sẽ kí hợp đồng. Anh giao hàng, tôi trao tiền. Thế thôi. Như các
vụ mua bán bình thường khác ấy mà.
- Giao hàng, nhận tiền? - hắn lại
ngạc nhiên và mỉa mai hỏi tiếp: - Thế cái bản hợp đồng ấy có phải đem ra ủy ban
phường hoặc phòng công chứng xác nhận không?
- Kể làm được thế thì tốt hơn,
nhưng mà thôi, không cần. Tôi là người tử tế và hi vọng anh cũng vậy. Vả lại
phù thủy chúng tôi có luật riêng của mình, - lão nói một cách rất nghiêm túc.
Bỗng nhiên hắn ngồi thừ người, im
lặng hồi lâu. Hắn vẫn nghĩ lão già chỉ đùa, nhưng hắn không thích kiểu đùa này,
nhất là với một người như lão. Cuối cùng hắn hỏi:
- Chuyện gì sẽ xảy ra với tôi sau
khi bán tuổi cho ông?
- Sao một người thông minh như
anh còn phải hỏi tôi điều ấy? - Lão cười to thành tiếng. - Cái người ta đã bán
tất nhiên sẽ không còn thuộc về mình nữa. Anh bán hai mươi năm tuổi trẻ của anh
cho tôi thì nghĩa là anh sẽ mất đi hai mươi năm tuổi trẻ ấy. Anh vẫn chưa hiểu
à? Nôm na là ngay sau khi nhận tiền, anh trở thành người bốn mươi tuổi chứ
không phải hai mươi như bây giờ. Tuy nhiên, để tránh đột ngột và không gây bất
tiện cho anh trong cuộc sống, tôi và anh nên thỏa thuận mua bán từ từ thôi, một
tháng một tuổi chẳng hạn. Anh sẽ không bị già đi quá nhanh, lại không phải có
quá nhiều tiền một lúc, là điều mang tai họa chứ chẳng phải ích lợi.
- Được, cứ cho là thế, nhưng ông
sẽ làm gì với tuổi trẻ của tôi sau khi mua nó?
- Lại một câu hỏi ngốc nghếch
nữa. Để tôi được trẻ thêm hai mươi tuổi chứ còn gì. - Lão già lại cười, lần này
to và có vẻ thích thú.
- Tôi đoán năm nay ông khoảng sáu
mươi lăm. Vậy ông sẽ thành một người đàn ông bốn mươi lăm tuổi. Sao ông không
chọn mua tuổi của ai đấy ba mươi, bốn mươi để được trẻ hơn?
- Ồ, cái gì cũng phải có giới
hạn, anh bạn trẻ ạ. - Lão lại cười. Bây giờ hắn thấy tiếng cười của lão thật
đáng ghét. - Anh nghĩ xem, từ một ông già lọm khọm thế này, bỗng dưng tôi thành
thằng trai tơ, người ngoài trông vào khó coi lắm.
- Tôi hỏi ông câu cuối cùng: Vì
sao ông chọn mua tuổi của tôi chứ không phải của người khác?
- Đơn giản thôi. Vì anh thông
minh, khỏe mạnh và quan trọng nhất là chưa nhiễm những thói xấu không thể tha
thứ. Nói anh biết, chứ bọn nghiện ma túy và trộm cướp, có cho không tôi tuổi
trẻ của chúng tôi cũng chẳng thèm. Là người mua, tôi phải biết chọn hàng. - Lão
ngừng nói, tợp một ngụm nước rồi nhìn thẳng vào mắt hắn: - Vậy là ta nhất trí?
Thay cho lời đáp mà rõ ràng lão
chủ hiệu cầm đồ đang nóng lòng muốn nghe, hắn đứng dậy, cố tình tỏ vẻ chậm
chạp, uể oải để che giấu những ý nghĩ đang rối lên trong đầu.
- Thôi, đùa thế đủ rồi. Ông xem
tôi như con nít không bằng. Tôi về đây, - hắn nói.
- Ấy, gượm đã! - Lão vội chặn hắn
lại. - Việc mua bán chẳng ai ép ai, hẳn thế. Nhưng tôi xin nhắc lại rằng đây là
chuyện nghiêm túc. Rất nghiêm túc...
- Nghiêm túc? - hắn kéo dài giọng
một cách mỉa mai. - Ông thử giải thích tôi nghe cái nghiêm túc ấy của ông xem
nào. Làm sao trong thời đại tàu vũ trụ và Internet hiện nay bỗng chốc tôi già
đi hai mươi tuổi chỉ vì câu đùa ngu ngốc nào đó của một lão già khốn khổ như
ông?
- Thì đã nói rằng tôi là phù
thủy...
- Phù thủy với cái này treo trên
tường? - Hắn chỉ tay vào khung kính có tấm bằng gia đình văn hóa mới.
- Anh cứ chuyện nọ xọ chuyện kia,
- lão già đáp, giọng nhún nhường. Rõ ràng lão không muốn mất khách. - Cái ấy
chẳng liên quan gì đến việc chúng ta đang bàn. Còn chuyện trẻ ra hay già thêm
bằng cách nào thì anh khỏi lo. Đó là việc của tôi. Chỉ cần anh đồng ý là xong,
ta sẽ kí hợp đồng...
- Như hợp đồng giữa Faust và
Mephisto trong vở kịch thơ của ông Goethe người Đức...
- Vâng, vâng, đúng thế. Quả tôi
chọn người không nhầm. Thời buổi này mà một sinh viên trẻ tuổi như anh còn có
thì giờ tìm đến tác phẩm này thì kể cũng
hiếm. Có điều, Faust bán linh hồn cho Mephisto, còn anh chỉ bán tuổi trẻ của
anh mà thôi. Nhân tiện xin được tiết lộ điều này, một khi anh nhắc đến Mephisto. Tôi là hậu duệ của một
trong những đồ đệ của ông ta đấy...
- Nghĩa là ông sống trên đời này
đã lâu, rất lâu. - hắn ngắt lời lão. - Xin hỏi, ông đã gạ mua tuổi trẻ của bao
nhiêu người rồi?
- Anh tò mò quá đấy, anh bạn trẻ
ạ. Tất nhiên anh không phải người đầu tiên và chắc cũng chẳng là người cuối
cùng, cho đến lúc tôi phải chết vì một lý do ngớ ngẩn nào đó. Tôi biết trước số
phận của mình mà. Nhưng thôi, ta quay lại với vở kịch Faust kia của ông Goethe.
Anh có nhớ dàn đồng ca của bầy phù thủy trong cảnh Đêm hội quỷ ở miền rừng núi
giữa Siec và Elen không, với hai câu kết rất ấn tượng là Qua đá, qua ghềnh; Phù
thủy đánh rắm, dê già thối inh? Các cụ kị của tôi đấy. Công bằng mà nói, cái
ông phó giáo sư, phó tiến sĩ Đức Soạn nào đó đã dịch Faust ra tiếng Việt cũng
thối inh chẳng kém gì mùi rắm tổ tiên chúng tôi. - Nói đến đây, lão già nhăn
mũi như ngửi thấy mùi thối thật. - Mà thôi, chuyện ấy không quan trọng. Vì như
tôi đã nói, đây là việc nghiêm túc, anh có thể suy nghĩ thêm trước khi trả lời
dứt khoát. Tôi chờ anh quyết định. Anh vẫn cần tiền đấy chứ?
- Vẫn, - hắn đáp cộc lốc. - Cần
để sống cho ra sống và làm việc tốt hơn.
- Tốt. Xin nhắc lại: Tôi sẵn sàng
mua hai mươi tuổi xuân của anh, với giá mười triệu đồng một tuổi. Mỗi tháng
giao hàng, nhận tiền một lần. Lần đầu tôi có thể ứng luôn cho anh hai chục
triệu để anh vừa chuộc lại xe, vừa có tiền tiêu. Trường hợp cần tiền, nếu anh
muốn, trong một tháng tôi có thể mua cho anh hai tuổi hoặc hơn thế. Hi vọng với
số tiền lớn này anh sẽ có điều kiện sinh hoạt và làm việc tốt hơn như anh nói.
Là người thông minh và cần cù, tôi tin anh sẽ thành tài. Muốn thành tài, ai
cũng phải trả giá. Cái giá của anh kể cũng có đắt, nhưng chưa hẳn đã đắt lắm
nếu so với nhiều người khác. Vậy nhé. Tôi chờ anh...
*
Đang đói tin giật gân, báo chí Hà
Nội bỗng vớ được dịp may hiếm thấy để tăng số lượng xuất bản. Các báo tranh
nhau đưa tin về một hiện tượng "xưa nay chưa từng thấy" xảy ra ở ngay
thủ đô. Vì là tin hiếm nên người ta cố tình kéo dài, mỗi ngày chỉ hé cho bạn
đọc một số thông tin nhất định, hôm sau li kì hơn hôm trước.
Ngoài đường, trên tất cả các phố,
đội quân bán báo rong vừa đạp xe vừa vặn to hết cỡ những chiếc micro rè chạy
pin của họ, dài dòng kể chuyện ở trường nọ không hiểu sao trong vòng một năm
(có báo nói mấy tháng, có báo nói hai năm) một sinh viên năm thứ ba bỗng biến
thành một "ông già lụ khụ" sáu bảy mươi tuổi (cũng có báo nói chỉ bốn
hoặc năm mươi). Rằng chàng sinh viên-ông cụ ấy đã bị y tế nhà trường dùng vũ
lực đưa đến một loạt các bệnh viện, kể cả Viện lão khoa trung ương, nơi các
chuyên gia đầu ngành khẳng định chàng mắc chứng già trước tuổi, một căn bệnh
nan y rất hiếm nhưng không phải không có, mặc dù chàng khăng khăng tuyên bố
không hề đau ốm gì. Cái lý do "học thi nhiều nên chóng già" chàng đưa
ra để giải thích trường hợp có một không hai này đã bị cả giới khoa học lẫn bạn
bè thẳng thừng bác bỏ, cho là "không nghiêm túc và phi lý".
Tiếp đến là những bài báo dài,
nói một cách chi tiết, cặn kẽ (chắc không tránh khỏi đôi chút phóng đại) về
những nỗi khổ đau, phiền toái trong đời sống thường ngày của anh chàng hai mươi
tuổi bỗng chốc thành "ông cụ sinh viên râu ria xồm xoàm" bị người yêu
bỏ, bị bạn bè cười giễu, bị từ chối và đuổi thẳng về nước không được tham dự
một cuộc thi tin học quốc tế dành cho sinh viên, với lý do khai man tuổi. Thậm
chí chàng suýt bị khai trừ khỏi đoàn thanh niên, cũng vì tuổi tác và bộ râu rậm
đã lốm đốm nhiều sợi bạc.
Suốt mấy năm sau đó báo chí còn
đều đều đưa tin về "cụ sinh viên" này. Có tờ còn coi "cụ"
như niềm tự hào dân tộc. Có tờ nêu vấn đề mời đại diện Guiness tới Việt Nam để
tận mắt chứng kiến và đưa hiện tượng này vào sách kỷ lục thế giới.
Cũng qua báo chí, người ta biết
được rằng "cụ" đã tốt nghiệp xuất sắc trường đại học của mình, đủ
tiêu chuẩn nhận học bổng du học ở Mỹ để lấy bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, lại lần
nữa vì tuổi tác, "cụ" bị từ chối không được nhập trường, dù phía Việt
Nam đã xuất trình giấy khai sinh gốc được chính quyền địa phương xác nhận bằng
dấu tròn màu đỏ. Là nhà khoa học đầy triển vọng, "cụ" được giữ lại
trường làm cán bộ giảng dạy. Nay cụ đã là một giáo sư tiến sĩ đáng kính, niềm
tự hào của trường và của cả đất nước.
"Cụ" đã lập gia đình,
với người vợ hơn mình hai mươi tuổi. Ấy thế mà có kẻ độc mồm còn dám nói sau
lưng họ: "Trông cứ như bố con!" Sinh viên rất quý "cụ", cả
về kiến thức lẫn đạo đức. Có điều họ hơi lấy làm lạ là hầu như buổi học nào
"cụ" cũng nhắc họ một điều chẳng mấy ăn nhập chương trình giảng dạy:
"Các em phải luôn nhớ rằng trên đời này không gì quý bằng tuổi trẻ, và bất
luận trường hợp nào các em cũng không được để mất nó, cũng như không được đánh
đổi nó lấy bất kì cái gì khác!"
*
Cách đây không lâu, có tờ báo ở
Sài Gòn đưa tin một người đàn ông trạc tuổi bốn mươi hay hơn một tí, có nốt
ruồi lớn màu hồng hồng bên má trái, bị tai nạn giao thông ở Gò Vấp lúc mười giờ
đêm, may được bác xích lô tốt bụng đưa vào bệnh viện. Mặc dù được các bác sĩ
hết lòng cứu chữa, người này đã chết một giờ sau đó. Điều đáng nói là lúc ông
ta tắt thở, các bác sĩ rất ngạc nhiên khi thấy toàn thân ông ta rữa ra và bốc
hơi rất nhanh, cuối cùng chỉ còn lại ít xương mủn trên chiếc giường bệnh trải
ga trắng ông ta vừa nằm. Câu chuyện quá kì dị nên người ta không tin, và chỉ
coi đó như một trong vô số trò tung tin giật gân câu khách của tờ báo vốn bị
nhiều tai tiếng này.
Hà
Nội, 20. 2. 2001
VẼ ÁC
Chiếc hồ nhỏ nằm ngay dưới chân
núi Tam Đảo. Nước phẳng lặng, trong xanh, một thứ màu xanh lẫn lộn của nước,
bầu trời tháng Tám và rừng thông mọc gần sát nước cả bốn phía, trừ phía đông,
nơi có một chỗ thưa với con đường đất màu đỏ nhạt ngoằn ngoèo dẫn xuống hồ. Một
vẻ đẹp thanh bình và cảm động, đến mức ông đứng ngây ra nhìn hồi lâu dù ở cái
tuổi năm mươi của mình, ông đã đi nhiều và được chiêm ngưỡng nhiều cảnh sắc
thiên nhiên kỳ thú. Chốc chốc, từ sau những bụi cây rậm rạp xuất hiện vài chú
hươu ngơ ngác. Hươu nhà, tất nhiên, nhưng không vì thế mà giảm phần nguyên sơ
hoang dã. Cách đấy không xa, cũng khuất sau những tán cây rậm, ông thấy lác đác
có mấy ngôi nhà với làn khói chiều mỏng tang vấn vương trên mái. Một cảnh điền
viên hiếm thấy. Khó tin rằng chỉ mấy chục cây số đâu đó phía dưới là cảnh phố
phường chật hẹp, ngột ngạt với trăm nghìn cái bon chen, lo lắng.
Cãi nhau với vợ, chán nản với
công việc và bạn bè, ông bỏ Hà Nội lên đây tìm nơi yên tĩnh và có vẻ như cái hồ
này là chỗ lý tưởng. Ông là một họa sĩ đã đứng tuổi, có tài, học hành rất bài
bản, vẽ nhiều và vẽ giỏi, đặc biệt sở trường tả thực. Tuy nhiên, khó có thể nói
ông nổi tiếng trong giới. Người ta biết, nể phục nhưng chẳng bao giờ đề cao
ông, có lẽ một phần vì họ không làm được cái ông làm, là vẽ rất tỉ mỉ rất giống
thật. Giữa thời nhố nhăng thật giả này, ông bị coi là cổ lỗ, là “thợ nhiếp
ảnh”. Hiền lành nhưng yếu bản lĩnh, có thể nói nhu nhược, ông đâm ra hận mình,
hận đời, có khi đến mức độc ác. Ông thất vọng cả việc đến người thân duy nhất
trong nhà là bà vợ cũng không hiểu ông nốt. Chính vì cãi nhau với bà (không
phải lần đầu) mà ông lên đây.
Hôm qua vợ ông đã dùng con dao
thái thịt đâm mấy nhát vào bức sơn dầu khổ lớn ông mới vẽ xong, miêu tả vua
Agamênôn, thống lĩnh quân đội Hy Lạp đang tự tay cầm kiếm dí vào cổ con gái yêu
của mình là Iphighênia làm vật tế thần trong cuộc chiến tranh T’roa. (Ông say
mê thần thoại Hy Lạp, La Mã và vẽ nhiều tranh khai thác từ nguồn này. Đấy cũng
thêm một lý do khiến người ta không thích ông - lai Tây và xa lánh cuộc
sống).Thành ra, theo truyền thuyết thì các thần ở đỉnh Ôlimpơ thương tình cứu
sống Iphighênia, nhưng giờ đây nàng lại bị chính tay bà vợ ông đâm chết. Đâm
đúng tim. Khi đau xót nhìn kỹ, ông có cảm giác như trái tim nàng đang rỉ máu
thật.
Bị căn vặn vì sao, bà vợ ông chỉ
đáp:
“Kinh lắm! Tôi không chịu nổi.”
“Nhưng đây là nghệ thuật.”
“Nghệ thuật hay không thì cảnh chém
giết cũng đáng kinh tởm. Ông không biết vẽ gì tử tế hơn à?”
Ông không đáp, chỉ lẳng lặng xách
túi ra đi.
Quanh hồ chỉ có một xóm nhỏ độ
hơn chục nóc nhà, cũng sống yên bình, lặng lẽ như quang cảnh nơi này, bằng nghề
nông và gần đây thêm nghề nuôi hươu lấy nhung. Ông dễ dàng tìm được nơi ông
muốn. Đó là nhà một một cặp vợ chồng
già, con cái lên thành phố làm việc nên thừa một phòng trống. Họ bảo ông cứ ở
đấy, bao lâu cũng được. Nếu muốn, họ nấu riêng cho ông, còn không thì “mời bác
ăn với vợ chồng tôi, thêm bát thêm đũa cho vui. Chuyện tiền nong không quan
trọng.”
Hai ngày đầu ông dạo lang thang
quanh hồ và khu rừng lân cận. Mọi cái tuyệt vời, chẳng bị ai quấy rầy, thế mà
thật lạ, sau phút choáng ngợp ban đầu, chiếc hồ và quang cảnh nên thơ nơi này
chẳng làm ông thanh thản chút nào. Hình như ông còn thấy khó chịu, giận dữ một
cách vô cớ. Có thể vì nó quá tương phản với tâm trạng ông chăng? Nhưng trở về
Hà Nội thì ông không muốn vì ở đấy còn khó chịu hơn.
Sang ngày thứ ba ông bắt tay vào
vẽ, một cách hậm hực, cay cú và giận dữ. Lại đề tài khai thác từ thần thoại Hy
Lạp. Ông vẽ cảnh Prômêtê bị xiềng trên vách núi đá Côcadơ, và một con chim
khổng lồ màu đen đang xé ngực moi tim chàng. Tuy nhiên, đáng lẽ vách núi dựng
đứng phải ở bên bờ biển sóng vỗ dữ dội, thì không hiểu sao ông lại thay vào đó
bằng chiếc hồ con yên tĩnh, thơ mộng này. Mà lại vẽ rất giống, rất chi tiết, có
cả mấy con hươu, mấy hòn đá xếp thành hàng từ ngôi nhà ông đang trọ dẫn xuống
hồ. Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông dành hết tâm
sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xòe
hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực
khổng lồ của chàng. Ba giọt máu tươi rơi phía dưới. Màu đen lông chim và màu đỏ
của máu thật tương phản nhau. Đôi mắt con chim tròn xoe, hau háu và hung dữ.
Còn chàng Prômêtê cao thượng bị thần Dớt bắt chịu hình phạt này vì tội dám lấy
trộm lửa thần mang xuống cho loài người thì chịu đựng một cách dũng cảm. Tay
chân chàng bị xích vào vách núi bằng những sợi xích khổng lồ. Người chàng cuồn
cuộn các bắp cơ, đôi mắt mở to kiêu hãnh, nhưng trong đấy cũng bộc lộ một nỗi
đau ghê gớm. Nỗi đau của trái tim bị cái kìm nhọn mỏ chim cấu rứt từng mẩu.
Tất cả những chi tiết này được
ông vẽ sinh động như thật. Chính ông cũng tự hài lòng với nghệ thuật của mình.
Ông có cảm giác như nghe được hơi thở của Prômêtê, ngửi thấy mùi tanh của máu
và bị đôi cánh khổng lồ của con chim chạm vào tay áo. Trong khi đấy, phía dưới
lại là chiếc hồ con yên ả quen thuộc, có thật và nằm ngay dưới chân núi Tam
Đảo, nơi ông vẫn hàng ngày đi dạo. Tất nhiên ông biết sự trái khoáy của hai
cảnh đó. Trong hội họa bố cục như vậy không chấp nhận được. Ông biết, nhưng
đang bực mình, đang muốn phá phách, ông bất chấp điều ấy. Thậm chí ông còn lấy
thế làm thích. Từ trong tranh con chim đen nhìn ông tán thưởng. Còn đôi mắt
Prômêtê thì đầy vẻ đau đớn. Ông không dám nhìn lâu vào đôi mắt ấy vì hình như
chúng oán trách ông. Cả chiếc hồ con cũng oán trách ông.
- Ấy chết, sao tay bác đầy máu
thế? - Ông lão chủ nhà hỏi khi vào mời khách ăn trưa, cũng là lúc ông vừa thích
thú ngắm bức tranh lần cuối và đang định bước ra ngoài.
- Đâu có, - ông họa sĩ cười. -
Sơn vẽ đấy.
Rồi ông xòe cả hai tay cho ông
lão xem. Trên các ngón tay ông quả thật máu chứ không phải sơn. Loãng hơn, tươi
hơn. Ở đầu ngón trỏ tay phải có một giọt lớn sắp rơi xuống. Ông giật mình, vội
chùi cả hai tay vào chiếc tạp dề trước bụng.
- Bác vẽ gì trông kinh thế này? -
ông lão chủ nhà lại hỏi. - Sao để cho chim moi ruột gan người ta thế? Kinh quá!
Ông không đáp, chỉ gượng gạo cười
vì vẫn chưa hết ngỡ ngàng với bàn tay dính máu.
- Bác vẽ cả chiếc hồ của chúng
tôi nữa đấy à?
- Vâng. Cụ thấy có giống không?
- Có. Giống, nhưng... nhưng nó
thế nào ấy. Nước ở đây bao giờ cũng trong xanh chứ không đỏ. Bác để máu rơi
xuống hồ chúng tôi rồi. Tôi sợ lắm.
Ông họa sĩ lại giật mình ngạc
nhiên. Chỗ nước phía dưới Prômêtê quả có màu đỏ thật, dù ông nhớ không hề vẽ
như thế.
*
Chiều hôm đó ông dạo lâu hơn
thường lệ, và lúc trở về do mệt, ông đi ngủ sớm. Trước khi lên giường, ông nhìn
kỹ bức tranh lần nữa. Chỗ nước hồ đỏ ông vẽ lại mấy lần, cố bôi xanh thật nhiêu
nhưng không hiểu sao chỉ lát sau lại hiện lên màu cũ. Prômêtê đang oán trách
ông. Con chim đen trâng tráo nhìn ông với vẻ thích thú không che giấu. Nó là
hiện thân Cái ác do chính ông tạo ra, thế mà giờ đây ông cảm thấy sờ sợ nó. Cảm
giác sợ hãi mơ hồ ấy len cả vào giấc ngủ.
Trằn trọc mãi hồi lâu mới thiếp
đi, bỗng ông chợt tỉnh vì nghe có tiếng động lạ. Tiếng phành phạch như tiếng quạt
nan đập vào tường. Ông lấy làm lạ nhưng vẫn nằm yên. Hình như tiếng chim vỗ
cánh, loại chim lớn, mà ngay bên cạnh. Sao lại thế được nhỉ? Chim nào vào đây
và vào cách nào khi các cửa đều đóng kín? Tiếng động còn kéo dài thêm mấy giây
nữa rồi im bặt, như thể con chim, nếu quả đúng đó là chim, đã bỏ bay đi.
Ông rón rén nhỏm dậy bật đèn và
không tin vào mắt mình. Nơi trước đây là hình con chim đen bây giờ trơ toan
trắng. Ông ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, lặng người không biết phải làm gì.
Nỗi sợ âm ỉ suốt ngày lúc này làm đầu đầu óc ông tê cứng. Một chuyện phi lý
không thể tin nổi, nhưng cái chuyện phi lý ấy đang xẩy ra trước mặt và ông
không thể không tin. Ông ghé mắt nhìn lại, sờ cả tay vào lớp vải. Vâng, chỉ lớp
vải trắng thô ráp. Thân hình lực lưỡng của Prômêtê bây giờ bị rách thêm một
miếng to, trông càng dễ sợ. Cuối cùng, như chợt hiểu ra điều gì, ông vội lấy
bút, pha màu rồi cắm cúi vẽ. Bộ ngực lực lưỡng của Prômêtê được chắp vá lại dần
cho đến khi trên tranh chỉ còn lại mình chàng nguyên vẹn. Không có con chim
Thần ác, không có trái tim bị xé vụn và những dòng máu đỏ. Ông cảm thấy đỡ sợ
phần nào. Prômêtê nhìn ông với đôi mắt biết ơn.
Hôm sau, trời mới rạng, cả hai
ông bà chủ nhà đã đến đập mạnh cửa phòng ông.
- Bác họa sĩ! Dậy đi! Bác họa sĩ!
Đêm qua nhà chúng tôi mất hai con hươu.
- Việc này liên quan gì đến tôi?
- Ông khó chịu nói, khi ra mở cửa cho họ. - Hay hai cụ nghi tôi ăn trộm?
- Ăn trộm thì không, nhưng liên
quan thì có đấy.
- Tôi không hiểu...
- Tôi nghi con này! - ông lão
bước thêm mấy bước, chỉ vào bức tranh. Con chim đen xuất hiện trở lại từ bao
giờ trên chính bức tranh mới vẽ lại đêm qua.
Cố giấu ngạc nhiên, ông hoạ sĩ
hỏi:
- Vì sao?
- Vì ở đây xưa nay chưa bị mất
trộm cái gì. Vì đêm qua tôi nghe tiếng nó kêu, bay lượn quanh nhà. Bây giờ ngoài
hồ còn sót lại ít thịt nó ăn chưa hết, in rõ móng vuốt của nó. Bác theo tôi ra
xem thì biết.
Vẫn bộ quần áo ngủ nhàu nát trên
người, ông họa sĩ theo họ ra hồ. Một góc hồ nước đỏ lòm vì máu của một phần ba
con hươu chưa ăn hết nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
- Suốt đêm qua tôi không ngủ
được, - bà già luôn im lặng, bây giờ lên tiếng. - Tim tôi đau nhói, cứ như bị
ai lấy kìm rứt từng tí một...
- Cả bà cũng thế à? - ông chồng
vội quay sang phụ theo. - Tôi cũng không ngủ được. Cũng bị đau ngực. Chính là
do con chim đó! Chính nó!
*
Trưa hôm ấy, khi ăn xong trở lại
phòng, ông họa sĩ thấy bức tranh đã bị ai lấy dao cắt nát, đúng chỗ con chim
đen. Miếng vải bị cắt gấp xuống, làm thân hình nó méo mó, cổ bị chém đứt cùng
chiếc mỏ sắc nhọn và đôi mắt háu đói độc ác.
Ông họa sĩ đứng im nhìn tác phẩm
của mình, thờ ơ, không thương xót.
Một lúc sau ông già lại xuất
hiện. Ông có vẻ bình tĩnh hơn, thậm chí hơi chút ngượng nghịu. Ông lúng túng
ngồi xuống, tự tay pha ấm trà, rót vào chén đưa cho khách rồi hắng giọng hai
lần, nói:
- Dân quê chúng tôi quen nói
thẳng. Có gì không phải, bác bỏ quá cho. Số là... thực tình chúng tôi không
muốn bác ở lại đây thêm nữa. Xin bác dọn đi nơi khác thật xa và càng sớm càng
tốt. Bác biết đấy, nơi này vốn yên bình, giản dị, thế mà bác đến làm xáo trộn
hết bằng những cái khủng khiếp kia. - Ông hất đầu về phía bức tranh.
- Vâng, hai cụ đã có ý thế thì
tôi xin đi, tất nhiên. Tôi đi ngay bây giờ. Có điều, xin hai cụ hiểu cho, tôi
là người hiền lành, chưa làm ác điều gì với ai bao giờ. Tôi chỉ là anh họa sĩ
vẽ vời nhăng nhít, một việc làm thiết tưởng cũng vô hại.
Ông già trầm ngâm một chốc rồi
nói, giọng buồn buồn:
- Nhưng ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần
như làm việc ác vậy.
*
Leo ngược hết con đường quanh co
màu đỏ gạch, ông dừng lại thở, đưa mắt nhìn lần cuối chiếc hồ nhỏ xinh đẹp phía
dưới. Nó đã lấy lại được vẻ thanh bình thơ mộng vốn có. Cạnh ngôi nhà nhỏ không
xa mặt nước có hai chấm đen nhỏ. Đó là ông bà già đã cho ông ở nhờ nửa tháng
qua. Có thể họ đang vẫy tay tiễn ông. Cũng có thể họ đứng đấy canh chừng có
phải ông thực sự đi chưa. Rồi ông quay người, chậm chạp bước về phía đường
nhựa, nơi có xe về Hà Nội. Trong đầu ông chẳng có gì ngoài nỗi buồn mơ hồ và
cảm giác xấu hổ của người vừa làm điều xấu bị người khác đuổi đi. Bên tai văng vẳng
câu nói chất phác mà chua cay của ông già:
“Nhưng ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần
như làm việc ác vậy.”
Hà
Nội, 2003
EROSTRAT
Lúc ấy là giữa tháng Tám năm
1994.
Trước khi vào cảng, con tàu
"Renaissance" rú lên hồi còi dài chào thành phố Istanbul. Hành khách
kéo nhau lên boong khi nó chui qua chiếc cầu nồi liền châu Âu và châu Á. Nó là
con tàu khách sang trọng của một công ty du lịch biển Hy Lạp đang thực hiện
chuyến đi vòng quanh Địa Trung Hải, xuất phát từ Athens, ghé một số cảng ở Nga,
Bungari, Rumani, và bây giờ sắp đổ khách
lên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Nó được thuê bao toàn bộ cho cuộc hội thảo nhà văn thế giới
kéo dài hai mươi ngày và được tổ chức ngay trên tàu. Tôi cũng có mặt trong số những
người tham dự. Các hoạt động liên quan đến hội thảo thực ra rất ít, chủ yếu du
ngoạn trên biển và tham quan các cảng tàu ghé vào.
Theo lịch, tàu chỉ dừng ở
Istanbul một ngày rưỡi, sau đó sẽ quay về cảng xuất phát ở Athens, thủ đô Hy
Lạp, rồi từ đó tất cả đi xe buýt tới đền thờ Đenphi cách cả trăm cây số, là nơi
hội thảo sẽ bế mạc bằng nghi lễ tế thần Dớt vĩ đại. Tuy nhiên, thời tiết đột
ngột trở xấu và biển động mạnh. Chờ thêm mấy giờ, cuối cùng chúng tôi được
thông báo sẽ phải ở lại Thổ Nhĩ Kỳ bốn ngày. Chương trình tham quan Istanbul
chỉ một ngày là xong. Để khách khỏi buồn trong khoảng thời gian còn lại, người
ta đưa ra danh sách một loạt các điểm du lịch hấp dẫn cả trong và ngoài thành
phố. Ai không thích cứ lên tàu ăn, ngủ. Tôi chọn tour đi Ephes, cách Istanbul
không xa lắm.
- Ephes từng là một thành phố
cảng và là trung tâm buôn bán rất nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, - người hướng
dẫn, một chàng trai thông minh, nhanh nhẹn có tên là Uphus nói khi xe sắp đến
nơi. - Nó được xây dựng vào thế kỷ mười một trước công nguyên, trên cửa sông
Cayster mà bây giờ gọi là sông Menderes. Ephes từng trải qua nhiều cuộc xâm
lược của người Ba Tư, người La Mã và một số bộ tộc man rợ từ phương bắc. Sau
mỗi lần như thế, thường thành phố bị hủy diệt và xây mới hoàn toàn. Năm 614 sau
công nguyên, một trận động đất lớn đã vùi cả thành phố trong đống đổ nát. Tới
đầu thế kỷ thứ 14, do cảng bị bồi cạn và dòng sông đổi hướng, Ephes trở thành
hoang phế. Thành phố này nổi tiếng một thời nhờ các hoạt động thương mại, văn
hóa và vô số các công trình kiến trúc, điêu khắc có một không hai của nó.
Uphus hạ giọng, có vẻ luyến tiếc
cho sự huy hoàng của một thành phố đã chết. Sự luyến tiếc ấy lây sang người
nghe. Điều ấy dễ hiểu, vì trước mắt chúng tôi bây giờ không có gì ngoài một bãi
trống lổn nhổn đá trắng và những nhát cắt khảo cổ nhằm tìm kiếm dấu vết của cái
một thời được gọi là thành Ephes. Nổi bật nhất là một nhà hát kiêm đấu trường
lớn hình chảo còn khá nguyên vẹn. Nó
được xây dựng cuối thế kỷ thứ tư đầu thế kỷ thứ năm, với các dãy ghế bằng đá
bao quanh và một con đường rộng lát đá cẩm thạch trắng chạy từ nhà hát tới nơi
ngày xưa là bến cảng. Rải rác xung quanh là những hố khai quật cho thấy các cửa
hàng, nhà ở bị vùi sâu dưới đất. Các cung điện vua chúa bây giờ chỉ còn lại mấy
cột đá, một bức tường chi chít phù điêu và một chiếc cổng có vẻ như mới được
dựng lại.
- Đây là nhà vệ sinh của giới quí
tộc, - Uphus nói, chỉ tay xuống một dãy những phiến đá cẩm thạch có khoét lỗ
tròn ở giữa. Sâu phía dưới là một con suối nhỏ bây giờ khô cạn, nhưng trước đây
luôn có nước chảy để dẫn chất bẩn ra biển. - Khi từ Ai Cập sang thành La Mã,
nghỉ ở đây, nữ hoàng Clêôpát có thể đã sử dụng nhà vệ sinh này. Có điều không
biết cụ thể phiến đá nào. Có ai muốn thử ngồi xuống đây không? - anh cười hỏi.
Khách tản đi xem mỗi người một
nơi, tôi nói với Uphus:
- Anh có thể chỉ tôi xem đền thờ
nữ thần Artemis ở đâu không? Nó là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.
Ngôi đền bị Êrôstrat đốt vào năm 356 trước công nguyên ấy mà.
Uphus có vẻ hơi ngạc nhiên.
- Tôi quan tâm tới các nền văn
minh cổ đại, - tôi nói thêm, - nên có biết đôi chút về thành Ephes cùng ngôi
đền Artêmis nổi tiếng của nó. Chắc anh phải biết rất rõ...
- Tôi là sinh viên năm cuối khoa
sử trường Đại học tổng hợp Istanbul, sắp bảo vệ luận án về lịch sử thành phố cổ
đại này. Bây giờ nghỉ hè, tôi làm thêm nghề hướng dẫn du lịch để kiếm tiền. Có
lẽ tôi có thể cho ông biết tất cả những gì ông muốn biết về nó.
- Cả đền thờ Artemis và Êrôstrat ?
- Hy vọng là thế.
So với các công trình khác, những
gì sót lại từ đền thờ Artêmis còn ít hơn, mặc dù sau khi bị Êrôstrat đốt, nó
còn được xây mới và tu bổ lại nhiều lần.
- Như ông biết, - Uphus nói khi
chúng tôi đi khá xa đến một bãi trống không khác mấy những nơi khác, - ngôi đền
thờ Artêmis, nữ thần săn bắn và Mặt trăng theo huyền thoại Hy Lạp, có từ rất
lâu dưới dạng một bức tượng đơn sơ đặt trong hốc cây cổ thụ. Tới giữa thế kỷ
thứ sáu sau công nguyên người ta mới quyết định xây một ngôi đền thật lộng lẫy
và phải hơn một trăm năm sau mới xây xong. Kỳ quan thế giới toàn bằng đá hoa
cương ấy tọa lạc trên một nền đất dài 127 mét, rộng 73 mét, cao mười bậc, có
127 cột đá khổng lồ xếp thành hai hàng cao 19 mét đỡ các phiến đá rộng làm mái.
Trong đền là tượng nữ thần Artêmis tuyệt đẹp, cũng bằng đá nguyên khối...
- Nhưng nếu toàn bằng đá như anh
nói thì làm sao nó cháy được? - tôi hỏi.
- Đó cũng là câu hỏi nhiều nhà sử
học nêu ra. Khoa học đã lý giải điều này. Trong đền có nhiều thứ dễ cháy. Sức
nóng ngọn lửa làm chất axit cacbonit trong đá bốc hơi như bất kỳ loại đá vôi
nào, tạo thành một quá trình cháy âm ỉ bên trong. Kết quả là đá hoa cương cũng
bị nung chín thành vôi, sau một trận mưa
vôi biến thành bụi đất.
- Theo anh, tại sao cái thằng
Êrôtrat ấy lại quyết định đốt đền thờ Artemis?
- Để trở thành nổi tiếng, như
chắc ông đã biết.
- Vâng, tôi biết. Nhưng có thể
còn vì những nguyên nhân khác. Dẫu sao hắn cũng là một công dân tự do của thành
Ephes và phải tự hào về ngôi đền đó.
- Chẳng có lý do nào khác ngoài
việc muốn được mọi người nhắc tên, lúc ấy và mãi mãi sau này. Chẳng phải bây
giờ tôi và ông đang nhắc đến cái tên Êrôstrat đáng nguyền rủa ấy đó sao, tức là
chúng ta đã mắc mưu hắn.
- Có ông nhà văn Nga viết một vở
kịch rất hay, gọi là "Vụ án người đốt đền" về chuyện này, anh biết
không không? Nó được dựng ở Hà Nội cách đây vài chục năm và từng một thời làm
xôn xao dư luận.
- Tôi đọc tất cả những gì người
ta viết về Ephes và ngôi đền, nhưng vở kịch này thì chưa.
- Theo tác giả, có thể là hư cấu,
sau khi đốt đền và bị giam vào ngục, Erôstrat đã bán bản thảo hồi ký của hắn về
việc làm tội lỗi ấy. Thế mà có nhiều người mua nó, kể cả những người quyền quí
và không hẳn chỉ vì tò mò. Không ít người còn ngưỡng mộ hắn, thậm chí coi hắn
là con thần Dớt. Cũng vì muốn được "bất tử" như hắn, hoàng hậu
Clêmentine vào tận nhà tù trao thân cho hắn, một gã lái buôn tầm thường không
xu dính túi, một tên tội phạm đầy tham vọng bệnh hoạn, với điều kiện hắn tuyên
bố với mọi người rằng hắn đốt đền nữ thần Artêmis chỉ vì quá yêu nàng mà không
được nàng đáp lại. Còn chồng nàng, quốc vương Tisaphec, thì bị hắn thuyết phục
không giết, với ý định lợi dụng hắn vào những âm mưu chính trị của ông ta. Anh
xem, cái ác lần nữa lại thắng và sắp sửa gây những tội lỗi mới. May có quan tòa
Clêôn là người dũng cảm dám đấu tranh vì công lý. Ông bị Tisaphec cách chức bắt
làm lính cai ngục, nhưng cuối cùng Êrôstrat đã bị chính bàn tay ông giết. Nghĩa
là rốt cục cái ác vẫn bị trừng trị. Đó cũng là chủ đề của vở kịch. Tuy nhiên vở
kịch hay không vì chủ đề nhàm chán này, mà nhờ tính cách con người Êrôstrat.
Tôi muốn biết trong thực tế hắn là người thế nào và chuyện gì đã xẩy ra với hắn
sau đó.
Uphus im lặng một lúc mới đáp:
- Những gì bây giờ người ta biết
về hắn đều rất lờ mờ. Trong chừng mực nào đấy cũng là một dạng hư cấu như vở
kịch ông vừa nói. Hai nghìn năm trăm năm chứ đâu ít. Theo tài liệu đáng tin cậy
nhất, sau khi đốt đền vì động cơ quái gở trên, Erôstrat bị đám đông giận dữ
giết chết như một con chó ghẻ ở quảng trường thành phố. Rồi mọi người bị cấm
không ai được nhắc tên hắn. Theo tôi, đó là một lệnh cấm ngu ngốc, vì thói
thường càng cấm người ta càng quan tâm. Thế là trúng ý hắn. Hắn trở thành nổi
tiếng. Hắn, kẻ châm lửa đốt một kỳ quan thế giới hàng vạn người xây dựng suốt
mấy trăm năm, thế mà đang được tôi và ông bây giờ nhắc đến. Và hắn sẽ còn được
người ta nhắc đến nhiều năm nữa. Trong khi chúng ta xưa nay không ai biết gì về
những con người đã lặng lẽ làm nên kỳ quan ấy.
- Tôi và anh không ngưỡng mộ mà
đang lên án hắn.
- Hẳn thế. Nhưng hắn đã để lại
được dấu ấn trong lịch sử. Hắn là một nhân vật lịch sử, mặc dù chỉ là kẻ tầm
thường, một tên tội phạm không hơn không kém. Cái trớ trêu là ở chỗ ấy.
- Dẫu sao cũng không thể để mãi
thế được. Cần phải làm cái gì đó. Anh nghĩ phải làm gì?
- Chẳng làm gì cả. Cứ để sự thật
tồn tại như nó vốn có, không cắt bỏ hoặc thêu dệt thêm. Cũng không nhất thiết
phải khẳng định cái thiện luôn thắng cái ác, lẽ phải luôn thắng bất công. Thực
tế không phải lúc nào cũng đúng vậy. - Uphus triết lý. - Vấn đề ở chỗ mỗi chúng
ta cần có cách nhìn riêng về chuyện này, cũng như về Êrôstrat. Tôi đọc khá
nhiều truyện hư cấu đại loại như vở kịch kia của ông người Nga. Có người viết
hắn đã hối lỗi và tự sát. Cũng có người viết hắn bị chính vợ con giết chết,
hoặc bị các thần linh oai nghiêm trừng trị, hoặc bị các công dân Ephes đáng
kính không cho chết, mà bắt sống suốt đời với tấm biển "Kẻ đốt đền
Artêmis" nhục nhã trước ngực. Là nhà văn, ông cũng có thể phịa ra một đoạn
kết ông cho là thích hợp. Mà thôi, - Uphus nhìn đồng hồ. - Đã đến lúc phải quay
lại với đoàn.
- Anh đi trước đi, - tôi nói. -
Tôi muốn ở đây thêm chút nữa. Anh thực sự nghĩ chúng ta không thể làm gì khác
ngoài việc để cái tên Êrôstrat ấy tiếp tục tồn tại một cách đắc thắng như thế
sao?
- Hắn không phải là người chiến
thắng. Hắn phạm tội và đã bị trừng trị thích đáng. Còn việc ai đó nhắc tên hắn
hay thậm chí viết về hắn thì là chuyện riêng của người ấy. Còn tôi, tôi thấy
hắn chẳng đáng cho tôi quan tâm thêm nữa, - Uphus nói rồi bỏ đi.
*
Lúc ấy mới hơn mười giờ sáng
nhưng trời đã nóng gay gắt. Không một làn gió nhẹ dù biển nằm ngay bên cạnh.
Theo lịch, còn hai giờ nữa mới lên xe trở về Istanbul. Mọi người đang tỏa đi
khắp nơi xem cái mình quan tâm. Một số vào ngôi nhà một tầng duy nhất - nơi đón
tiếp khách tham quan - để giải khát hoặc nghỉ ngơi.
Tôi lửng thững dạo thêm hồi lâu
quanh nơi xưa kia là đền Artêmis, vẫn không thôi bị ám ảnh bởi cái tên Êrôstrat
kia. Tôi cố không nghĩ đến hắn nhưng vô ích, do vậy cứ vấn vương đủ chuyện
chẳng mấy vui vẻ, về sự độc ác, phù phiếm, bất lực và ngu ngốc của con người.
Tôi căm ghét hắn, cái gã lái buôn tầm thường, cái tên phá hoại văn hóa xảo
quyệt và trâng tráo ấy. Tôi cũng khó chịu với cả chính mình vì cứ luôn nghĩ về
hắn.
Cuối cùng, tôi ngồi xuống nghỉ
bên gốc cây nhỏ hiếm hoi cạnh đấy, và
thiếp đi lúc nào không biết.
Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê
ấy, cảm thấy như có ai đang trừng trừng nhìn mình. Tôi mở mắt và thấy một người
trạc bốn mươi tuổi với bộ trang phục giống người Hy Lạp cổ. Ông ta đi dép da
dê, tấm vải lớn màu đỏ vắt qua vai, bên hông đeo thanh kiếm bằng vàng, đầu đội
vòng nguyệt quế. Trông ông ta uy nghi lẫm liệt chẳng khác một vị thần, nhưng
nét mặt thì lộ vẻ ngạo mạn, xấc xược và xảo quyệt.
- Ngươi đang làm quái gì ở đây
thế này? - ông ta nghiêm mặt hỏi.
Tôi bối rối một lúc rồi rụt rè
đáp, không phải không thoáng sợ hãi.
- Chẳng làm gì cả. Tôi nghỉ. Còn
ông là ai?
- Ta là Êrôstrat, thần Êrôstrat.
Ngươi có biết ngươi đang ngồi ở đâu không? Ở chính phòng giam mà mấy tên quan
ngu ngốc của thành Ephes ngày xưa đã ném ta vào sau vụ đốt đền lịch sử. Đó cũng
chính là nấc thang đưa ta lên bậc thánh. Vì vậy ta không muốn một kẻ trần tục
như ngươi làm ô uế nó. Hãy cút đi! - ông ta quát, giọng vang như sấm, đúng
giọng một vị thần.
"Ra là hắn! Lại còn tự xưng
là thần! Thật vớ vẩn!" tôi nghĩ nhanh trong đầu. Sự phẫn nộ làm tôi trở
nên dũng cảm. Tôi vẫn ngồi yên, lưng tựa vào gốc cây như không hề nghe lời quát
đầy hăm doạ của hắn.
- Tôi không là tội phạm, do vậy
không phải đang ngồi trong nhà tù. Đây là ngôi đền thờ thiêng liêng của nữ thần
Artêmis.
- Nhảm nhí! - hắn bĩu môi khinh
bỉ. - Ngươi đang ngồi trong nhà tù mà tưởng là điện thờ. Riêng điều ấy đủ thấy
ngươi và những người đương thời như ngươi nhầm lẫn, ngu ngốc thế nào. Đền thờ
có vinh dự được ta đốt cháy ở tít đằng kia kìa! - Hắn nhấn mạnh chữ "vinh
dự" và "được", tay chỉ về phía trái.
- Có thể thời gian làm người ta
nhầm, - tôi đập lại, - nhưng một điều không thể nhầm được, rằng ông là một tên
tội phạm trâng tráo đáng kinh tởm. Và ông đã bị người ta giết chết như giết một
con chó.
- Lại càng nhầm. - Hắn phá lên
cười. - Ta phải chết để phù hợp với quan niệm trẻ con của các người, rằng kẻ ác
sẽ bị trừng trị chứ gì? Thật buồn cười. Chẳng ai giết ta cả. Quan tòa Clêôn và
đám đông phẫn nộ kia chỉ là sự tưởng tượng ngu ngốc. Đừng nói ngươi biết rõ
điều này hơn ta. Ngươi, một anh chàng vô danh tiểu tốt sinh sau những hai nghìn
năm trăm năm, lại ở cách đây cả chục nghìn cây số. Ta là Êrôstrat, người đốt
đền Artêmis, nhờ đó ta trở thành bất tử. Hơn thế, ta là một vị thần...
- Vị thần của cái ác! - tôi ngắt
lời hắn.
- Thần ác hay thần thiện thì cũng
là thần. Do vậy, ta được tôn thờ và hiện hữu khắp nơi. Đừng giả bộ thánh thiện.
Ta có mặt cả trong ngươi nữa đấy. Chính ngươi cũng biết rõ điều đó...
- Nói láo! - tôi quát vào mặt
hắn, thầm ngạc nhiên sao mình có thể dũng cảm đến thế.- Trong tôi không có chỗ
cho một người như ông.
- Nhưng rõ ràng ngươi thường nghĩ
đến ta.
- Chỉ để nguyền rủa và nhắc mình,
nhắc người khác né tránh ông. Đáng lẽ thay cho việc cấm nhắc tên ông, người ta
nên dựng tượng ông để mọi người đi qua phỉ nhổ, lấy roi quất vào mặt ông như
người Trung Hoa từng làm với một cặp vợ chồng gian thần ở nước họ.
- Ngươi thật quá thơ ngây, hoặc
giả vờ thơ ngây. - Vẫn thản nhiên, hắn đáp không mảy may tỏ ra khó chịu. - Ta
đã được dựng tượng từ lâu, không phải ngoài quảng trường mà trong lòng người.
Không phải để phỉ báng, ném đá, mà để tôn thờ. Hay ngươi định nói người ta xưa
nay không tôn thờ cái ác?
- Đúng thế. Chỉ kẻ ác mới tôn thờ
cái ác. Những người lương thiện chiếm số đông trên trái đất này luôn đấu tranh
chống lại cái ác...
- Thôi nào, người nói cứ như một
mụ già dạy con nít. Cái thiện và cái ác không phải lúc nào cũng rạch ròi và dễ
phân biệt như ngươi tưởng. - Hắn hạ giọng nói thêm: - Có phải ngươi đang giấu
trong túi một viên đá vừa lấy cắp ở đây không? Mặc dù ngươi đã thấy biển qui
định cấm du khách không được mang khỏi đây bất kỳ cái gì, kể cả đất đá. (Quả
thật tôi đang giấu một hòn đá như thế trong túi). Ta đoán nếu không vì cái tên
Êrôstrat ngươi luôn nguyền rủa ấy, ngươi đã chẳng đến đây cũng như chẳng chịu
vất vả mang viên đá vớ vẩn ấy về nhà. Chắc ngươi sẽ không vất nó đâu đó trong
xó bếp, đúng không? Chẳng phải bằng cách ấy ngươi đang vô tình tôn thờ ta đấy
ư? Và rồi, cũng vô tình như thế, dần dần ngươi sẽ tôn thờ những cái khác lớn
hơn, xấu xa hơn...
- Không, không bao giờ. Nó là vật
sót lại từ ngôi đền thiêng liêng,- tôi thét lên, cho tay vào túi, túm lấy hòn
đá rồi đem hết sức mình ném vào hắn.
Êrôstrat không né tránh. Hình như
hòn đá trúng người hắn. Hắn chỉ cười, khinh khỉnh đáp:
- Người Hy Lạp cổ có câu ngạn ngữ
thế này: "Ném đá vào người khác thì sướng tay, nhưng tay có thế đau
đấy."
Nghe thế, tôi càng tức giận hơn,
vội vùng dậy chạy bổ đến hắn, dù chưa biết định làm gì. Thật lạ lùng, hắn vẫn
đứng yên cho tôi túm áo giật mạnh, và chỉ khinh khỉnh cười như trước.
*
Uphus đang đứng trước mặt, nhẹ nhàng
gỡ tay tôi khỏi vạt áo anh.
- Mọi người đang chờ ông, - anh
nói. - Trời nóng thế mà ông ngủ được. Xem kìa, mồ hôi ra đầm đìa.
Tôi lặng lẽ theo anh đi về phía
có chiếc xe buýt lớn đang nổ máy. Mấy ngày tiếp theo cánh tay phải của tôi bỗng
nhiên đau nhức, vất vả lắm mới giơ nổi khi ăn uống. Tất nhiên điều này không
liên quan gì đến Êrôstrat. Tay tôi thỉnh thoảng vẫn đau như thế, và chắc chỉ ít
hôm sẽ khỏi.
Hy
Lạp - Thổ Nhĩ Kỳ, 1994
ÔNG TƯỢNG ĐÁ
Thơ cổ Triều Tiên có một bài thâm
thúy, khiến đọc xong ta cứ suy nghĩ lan man mãi.
Một ông
mù
Dắt một
ông mù khác qua cầu.
Cầu thì
hẹp, sông thì sâu
Nhiều
lần suýt ngã.
Thế mà
bên đường, ông tượng đá
Còn
ngửa mặt lên cười.
Tôi cũng thế. Không chỉ vì tôi là
người đọc mà còn là người dịch nó ra tiếng Việt cách đây mấy chục năm. Thỉnh
thoảng đọc lại, tôi thường nghĩ lan man đủ chuyện, tùy hoàn cảnh và tâm trạng
lúc đó. Lúc đầu tôi nghĩ về sự không hoàn thiện của cuộc đời, về sự nhạo báng
trâng tráo của con người với nỗi đau đồng loại. Rồi tôi nghĩ có thể ông tượng
đá chỉ cười trời, cười chính bản thân mình, hay đơn giản bỗng dưng thích thì
cười chứ chẳng liên quan gì đến việc hai ông già mù dắt nhau qua chiếc cầu
chênh vênh, phía dưới là dòng nước xiết. Còn hôm nay đọc lại lần nữa trước khi
đưa bài thơ yêu thích vào cuốn sách sắp in, tôi chợt thấy những kiểu suy luận
trên chỉ mang tính chủ quan áp đặt. Thay vào đó, nó bỗng gợi tôi nhớ, không
hiểu sao mãi đến giờ tôi mới nhớ, rằng ở quê tôi, ngay đầu làng cũng có một ông
tượng đá như thế. Cũng ngửa mặt lên trời và cười. Cũng bên chiếc cầu và dòng
sông.
Thực ra gọi sông thì hơi quá. Nó
chỉ là con kênh nhỏ, Kênh Nhà Lê, chạy suốt từ phía nam Thanh Hóa tới Hà Tĩnh.
Lòng kênh hẹp, lại nông nên chỉ khi nước lên thuyền mới đi lại được. Đoạn chảy
qua làng tôi có những hai chiếc cầu, cầu Thượng và cầu Hạ. Cầu Thượng được đổ
xi măng từ lâu để ô tô ngược lên các huyện phía trên. Còn cầu Hạ trước chỉ là
chiếc cầu khỉ với dăm cây phi-lao bắc ngang trên những thanh ray cắm đứng xuống
nước làm giá đỡ. Gần đây nó được xây lại, có hai trụ hẳn hoi, nhưng lòng cầu
chỉ rộng khoảng mét rưỡi.
Ông tượng đá đứng không xa cầu
Hạ, trên nền một ngôi đền cổ bị người ta phá làm trụ sở ủy ban xã cái thời rộ
lên phong trào chống mê tín dị đoan. Có lẽ trước đây ông mang một ý nghĩa thiêng
liêng nào đó, một vị thần hay phật mà bây giờ đời sống mới chẳng ai còn nhớ.
Dân làng, nhất là bọn trẻ, chỉ đơn giản gọi ông là "ông tượng đá".
Cạnh ông có một con voi, một con ngựa cũng bằng đá nguyên khối. Cả ba cùng
hướng về dòng sông và chiếc cầu. Đó là tất cả những gì sót lại từ ngôi chùa mà
người ta không thể hoặc chưa kịp đập đi lấy đá xây nhà. Sau này, khi có chủ
trương khôi phục lại chùa chiền, lễ hội, người ta định đưa ông cùng con voi,
con ngựa về đặt trên sân trụ sở ủy ban xã làm vật trang trí, nhưng thấy nặng
quá nên thôi.
Con voi và con ngựa trông thật
buồn, dường như chúng đang thiu thiu ngủ và chẳng mấy quan tâm đến thời cuộc,
cũng chẳng khó chịu khi bọn trẻ trong làng hàng ngày cưỡi, ném đất bùn hay vẽ
bậy lên người chúng. Con voi ở tư thế quì, cụt cả hai ngà, bên hông phải có vết
sứt lớn. Con ngựa thì đứng, cái đuôi cụp vào bụng do vậy còn nguyên, hai tai
vểnh lên, lại mảnh nên tất nhiên bị mất từ lâu. Ông tượng đá cũng bị bôi bẩn
đầy người. Chim còn đến ỉa cả lên đầu. May người ông cao vượt quá tầm với, đứng
khoanh tay ôm chiếc bụng phệ, mũi lại tẹt nên còn nguyên vẹn, ngoại trừ ít vết
xước nhỏ phía dưới.
Ở ông, ít ra trong tình trạng
hiện nay, chẳng toát lên điều gì linh thiêng. Mọi người chỉ coi ông là phiến đá
dựng đứng có hình người ngồ ngộ. Nếu quả linh thiêng thần thánh thì chắc ông đã
chẳng cho phá ngôi đền thờ ông, hoặc chí ít cũng cưỡi lên voi ngựa bỏ đi từ lâu
để khỏi chịu cảnh ngày đêm mưa nắng và lũ dân làng vô lễ xúc phạm. Cũng có thể
ông từ bi, thoát tục đến mức không thèm để ý những điều vụn vặt ấy, nên chỉ
ngửa mặt lên trời mà cười. Cười gì thì không ai biết, có lẽ cả người tạc ra ông
cũng vậy. Trông ông có vẻ hiền, không xỏ xiên thâm ác. Ít ra ông không cười
những người đi qua cầu Hạ chẳng may rơi xuống sông. Ngày xưa điều này thường
xảy ra, đặc biệt với lũ trẻ chúng tôi khi mỗi ngày hai lần đi học phải qua nó.
Được cái cầu không cao, nước lại nông nên chẳng đứa nào chết đuối.
Tôi chưa đến Cămpuchia để biết nụ
cười bí ẩn của tượng đá Bayon thế nào, chứ cái cách cười của ông tượng đá làng
tôi thì chẳng có gì đặc biệt. Thậm chí nhạt phèo. Có kẻ tục tĩu còn bảo cười
đểu. Ai nghĩ gì, mặc, bao năm nay ông đã và chắc sẽ còn tiếp tục nhiều năm nữa
đứng đấy, và cười. Chẳng sao. Người ta tạc ông để cười thì ông cứ việc cười.
Một nụ cười vô hại. Dần dần chẳng mấy ai quan tâm đến ông, kể cả việc vì sao
ông cứ ngửa mặt lên trời mà cười mãi.
Vậy mà ở làng tôi lại có người
luôn bị ám ảnh và khó chịu bởi nụ cười vô hại ấy.
Đó là lão Kền. Lão sống một mình
không vợ con, thân thích, không nhà cửa và ăn uống cũng không nốt. Vì lão sống
bằng rượu. Không thể để trong làng có người chết đói, người ta dựng cho lão
chiếc chòi giữa đồng để trông hoa màu và ao cá hợp tác. Hàng tháng lão đến ủy
ban xã nhận mấy cân gạo, gọi là tiền công cũng được mà trợ cấp nghèo đói cũng
được. Phần lớn số gạo ấy lão đem đổi lấy rượu ở cửa hàng mụ Tám Béo. Cần thức
ăn, lão xuống sông mò hến, bắt tôm. Không có gạo thì lão ra cánh đồng mà lão
được giao nhiệm vụ canh giữ để bẻ ngô, moi khoai về ăn. Vì vậy lão cứ sống bình
yên như mọi người lương thiện khác.
Gọi là "lão" vì vẻ
ngoài tiều tụy và lối sống bê tha chứ không hẳn vì tuổi tác. Lão chưa đến năm
lăm, tức cùng tuổi tôi và từng cùng tôi học hết cấp hai. Sau đó tôi lên tỉnh
học tiếp, còn lão thì ở nhà giúp ông bố làm ruộng. Mẹ lão chết từ lâu, để bố
lão, cũng nghiện rượu nặng, sống một mình với thằng con duy nhất. Trước lão
cũng bình thường như bao người khác, không hiểu do đâu nên cơ sự này. Có người
bảo vì lão không lấy được cô Mật làng bên mà thất tình, đâm ra rượu chè. Có
người lại nói lão bị quỷ ám, bằng chứng là không chỉ bê tha mà còn dở người,
thường nói những câu rất kì cục. Lão thích trích dẫn lời người xưa và rất mê
đọc sách, một việc lạ với những người như lão ở một vùng quê heo hút thế này.
Nhưng có một nguyên nhân hiển nhiên mà ai cũng biết, đó là cái chết của bố lão.
Mà lão thì yêu bố lắm. Sau khi bố chết, dường như lão không muốn sống nữa và
bắt đầu buông thả.
Thỉnh thoảng về quê, tôi có gặp
lão. Theo phép lịch sự, tôi thường dừng lại chuyện trò với lão một chốc. Dẫu
sao cũng là bạn học cũ với nhau. Lão còn học giỏi hơn tôi cơ đấy. Lão hay nói,
không ít câu chí lý. Thực tình tôi thấy ở lão chẳng có gì khác thường ngoài mùi
rượu, mùi mồ hôi nồng nặc và đôi mắt lúc đờ đẫn lúc chợt lóe sáng như mắt người
điên. Một lần lão mời tôi "vào nhà" uống rượu, và tôi đã ngồi với lão
trong cái chòi chơ vơ giữa đồng cả tiếng đồng hồ. Lão thắp nến, rót rượu ra hai
chiếc bát mẻ. Lúc ấy mới xế chiều và trời còn nắng. Tôi hỏi sao phải thắp nến,
lão bảo thế uống rượu ngon hơn, mới đúng kiểu người xưa. Chúng tôi chỉ nói
chuyện tào lao. Tôi né tránh đời riêng của lão, còn lão thì cố lái câu chuyện
sang văn chương. Hóa ra lão biết khá nhiều điển tích cũ, cả ta lẫn tàu, không
hiểu đọc được ở đâu. Thấy vậy, tôi tặng lão tập Thơ cổ phương Đông tôi mới in,
làm lão cuống lên vì mừng. Bài thơ cổ Triều Tiên kia lão đọc từ đấy, và cũng từ
đấy mới xảy ra những chuyện rắc rối sau này.
Chắc bài thơ phải tác động lên
lão mạnh lắm. Suốt ngày hôm ấy và liên tiếp mấy ngày sau lão chỉ đọc và suy
nghĩ về nó. Lão nghĩ tới cái đêm xa xưa nọ, khi bố lão uống rượu say đi qua cầu
Hạ ngã xuống sông chết đuối, mấy ngày sau người ta mới thấy xác nổi lên. Lão
hình dung hai ông già mù trong bài thơ Triều Tiên cũng có thể dễ dàng rơi xuống
sông và chết như bố lão. Rồi lão nghĩ tới sự đểu cáng của ông tượng đá thấy vậy
còn "ngửa mặt lên cười". "Đồ mất dạy, - lão lầm bầm. - Ông mà ở
đó thì ông đập vỡ mặt, xem còn cười nữa không". Bỗng dưng lão nghĩ tới ông
tượng đá bên cầu Hạ cách chòi của lão không xa. Cũng chiếc cầu, dòng sông. Cũng
ông tượng đá ngửa mặt cười. Chỉ khác là bố lão không mù và một mình khi qua
cầu. Nhưng bố lão lại chết. Thế mà thằng người đá này còn cười. Đến bây giờ vẫn
cười. "Đồ đểu! Đồ bất nhân! - lão chửi to thành tiếng. - Không biết từ ngày
ấy đến nay bố mày khổ chưa đủ hay sao mà mày còn cười?"
Rồi lão ngất ngưỡng ra sông, đến
đứng trước bức tượng. Để tỏ thái độ khinh bỉ, lão tụt quần tè luôn một bãi, còn
cố vẩy thật cao cho nước đái té lên. Nhưng ông tượng đá không thèm để ý, vẫn
ngửa mặt lên trời cười như bao năm nay. Điều này càng làm lão thêm tức. Trên
trời là khoảng không bao la màu xám chẳng có gì đáng cười.
- Mày cười bố mày đó hả? - lão
quát to vào cái mặt phè phè, má xệ, mũi tẹt và cái miệng cười ngoác đến mang
tai của ông tượng. Ông không thèm đáp. Lão lần nữa nhắc lại câu hỏi hỗn xược
của mình, trừng trừng nhìn lên với vẻ đầy hăm dọa. Bất chợt lão thấy bức tượng
khẽ nhíu mày gật đầu. Lão giật mình. Hay lão nhầm? - Sao, mày thật sự cười bố
mày đó hả? - lão lại hỏi, cốt để kiểm tra điều vừa phát hiện. Thật lạ lùng, lần
này lão cũng thấy bức tượng gật đầu.
Lão đứng đớ người một lúc, không
biết phải làm gì. Rồi như một thằng điên thực sự, lão vừa luôn tay ném đất đá
vào ông tượng, vừa chửi bới ầm ĩ:
- Được lắm. Thế thì cười đi, cười
nữa đi này! Chắc ngày xưa mày cũng cười đểu như thế khi bố tao rơi xuống sông!
Này, này, cười nữa đi! Không khéo chính mày làm bố tao chết. Thế mà giờ còn dám
ngửa mặt cười.
Một lúc sau, phần vì thấm mệt,
phần tỉnh rượu không còn hăng như trước, lão hổn hển bỏ về chòi, vẫn không ngớt
lảm nhảm chửi. Bây giờ thì lão tin chắc cách này hay cách nọ thằng người đá kia
có liên quan đến cái chết của bố lão.
Đêm ấy lão đem hai cân gạo cuối
cùng đến cửa hàng mụ Tám Béo đổi lấy rượu, uống say khướt rồi lại ra sông.
"Chuyến này phải cho hắn biết tay!" Lão thủ sẵn chiếc gậy tre khá
dài. Tới nơi, sau khi quát hỏi lại những câu ban chiều và tưởng (vì trời tối
lão không nhìn thấy) ông tượng đá vẫn gật đầu, lão liền lấy gậy vụt lia lịa,
chốc chốc dừng lại chửi rủa hoặc nhổ nước bọt vào ông, hệt như ngày xưa người
ta đánh và nhổ nước bọt vào tượng đồng vợ chồng Tần Cối trong tư thế quì trước
mộ Nhạc Phi cạnh chân núi Thê Hà ở Hàng Châu bên Trung Quốc. Tượng Tần Cối được
dựng lên để người đời làm nhục tên gian thần. Còn người ta tạc ông người đá này
để ông cười, thế mà lão lại đánh ông.
Suốt mấy đêm liền lão đánh ông
như thế, nhưng sáng nào ra nhìn, lão vẫn thấy ông thản nhiên cười như không có
gì xảy ra. Mặc dù tự lão cũng nhận thấy phần nào sự phi lí của việc mình làm,
nhưng lâu dần thành quen, lão cứ bị nụ cười hồn nhiên kia ám ảnh và ngày càng
tức giận một cách vô lối. Cuối cùng một tối nọ, thay cho việc mang gậy như mọi
lần, lão đem theo một chiếc búa và cứ nhè vào cái miệng đang cười của ông tượng
mà đập. "Cho mày hết cười nhé! Hết cười con nhé!"
Hôm sau lão dậy sớm ra xem thế
nào. Ông tượng đá tội nghiệp đã bị đánh một trận nên thân. Cái miệng bao năm
nay cười vô tư đến thế bây giờ bị dập nát, rách một miếng sâu nghiêng xuống bên
phải, trông như ông đang khóc. Mà quả thật ông đang khóc. Vậy là ông tượng cười
bị lão biến thành ông tượng khóc. Ngửa mặt lên trời mà khóc. Suốt đời phải
khóc.
- Cười nữa đi con! Cứ cười nữa
cho bố mày xem nào! - lão nói với vẻ thích thú cay độc.
Lão hả hê lắm. Nụ cười mà lão cho
là cười đểu nay không còn ám ảnh lão nữa. Thậm chí lão coi như trả được món thù
cho bố. Lão tụt quần, tè một bãi lên người ông rồi loạng choạng bước về chòi.
Lũ trẻ chăn trâu là những người
đầu tiên phát hiện ra ông tượng khóc. Lúc đầu chúng thấy buồn cười, sau đoán có
chuyện nghiêm trọng, bèn chạy báo với ông công an xã. Ông này nhanh chóng tìm
ra thủ phạm là lão Kền.
Một chốc sau thì gần nửa làng có
mặt, tò mò ngắm nhìn ông tượng với nụ cười quen thuộc bây giờ đang khóc. Trông
ông thật tội. Cảnh vật xung quanh ông, cả con voi và con ngựa đá vì thế mà trở
nên buồn hơn rất nhiều. Dân làng cũng vậy. Họ bắt đầu nguyền rủa lão già gàn
dở. Có người đề nghị đập nát mặt lão. Mụ Tám Béo thì tuyên bố từ nay không cho
lão uống rượu nữa. Bây giờ mọi người mới nhận thấy việc hàng chục hay thậm chí
hàng trăm năm nay có ông tượng đá đứng cười trên đất làng mình kể cũng vui, chí
ít chẳng hại gì. Nay bỗng dưng ông ấy khóc, khóc một cách thê thảm, lại không
biết bao năm nữa mới thôi, mà ở ngay trên chính mảnh đất vốn chẳng có nhiều
điều vui này. Thế thì thật không ổn. Không coi được. Đó là điềm gở. Biết đâu
tai họa sẽ chẳng thi nhau ập xuống làng?
Để trừng phạt lão Kền cái tội
"Phá hoại di tích văn hóa tín ngưỡng", người ta quyết định từ tháng
tới sẽ cắt phần gạo trợ cấp cho lão. Nhưng lão chẳng sống đến cái "tháng
tới" ấy để chịu hình phạt nghiêm khắc của làng. Chưa đầy mười ngày sau
người ta thấy lão nằm chết còng queo trên cầu Hạ (chứ không phải rơi xuống
sông, vì hai bên cầu có thanh chắn). Bà y sĩ trưởng trạm y tế xã đến khám, kết
luận lão đột tử khoảng mười hai giờ đêm tối hôm trước do uống quá nhiều rượu và
bị cảm lạnh đột ngột. Cô hộ lý đi cùng bà, về đồn khắp làng rằng lúc chết,
miệng lão méo xệch, giống hệt miệng ông
tượng đá. Có thể đúng thế thật, mà cũng có thể cô phịa ra để răn đe mọi người
đừng làm điều ác, ít ra cũng đừng bao giờ tìm cách xóa đi một nụ cười. Ấy là
người ta suy diễn thế thôi chứ cô này, với học vấn lớp bảy cộng hai, chưa chắc
có được cách tư duy triết lý kiểu ân oán như vậy.
Phần tôi, tôi cũng thấy mình ít
nhiều có lỗi trong việc này. Đáng lẽ tôi không nên tặng lão Kền tập thơ kia để
đầu óc bệnh hoạn của lão có cớ suy luận theo cách tai hại ấy. Suy cho cùng, đó
chỉ là một trong rất nhiều bài thơ khác trong tập. Nó là tác phẩm xinh xắn, đẹp
một cách cổ điển và gợi đôi chút triết lý nhẹ nhàng và chẳng đáng suy diễn
những điều đao to búa lớn, lại càng chẳng đáng vì nó mà để mất một nụ cười, dù
chỉ là nụ cười của một ông tượng đá. Các bạn thử đọc lại xem nhé:
Một ông
mù
Dắt một
ông mù khác qua cầu.
Cầu thì
hẹp, sông thì sâu,
Nhiều
lần suýt ngã.
Thế mà
bên đường, ông tượng đá
Còn
ngửa mặt lên cười.
Hà
Nội, 8. 3. 2001
SÀNH ĐIỆU
Khoảng chục năm trở lại đây,
trong xã hội dần dần xuất hiện và càng ngày càng đông thêm một lớp người có thể
nói đặc biệt và khá nổi bật. Đó là những nam thanh nữ tú làm việc cho các văn
phòng đại diện và công ty nước ngoài. Họ có trình độ, giỏi ngoại ngữ, mặc những
bộ đồng phục đẹp, suốt ngày ngồi trong phòng máy lạnh sạch sẽ với đủ các thiết
bị hiện đại. Họ ăn lương nước ngoài, cách cư xử, sinh hoạt cũng phảng phất chất
nước ngoài với nghĩa tốt của từ này. Ra đường, người ta dễ nhận ra họ qua chiếc
điện thoại di động thời thượng, chiếc cặp da, qua kiểu ăn mặc - nam com-lê,
ca-vat, đầu chải bóng, nữ bận váy bó nhã màu, son phấn vừa độ. Họ nói năng lịch
sự, có tiền mà không đua đòi mua sắm. Tóm lại, họ là dấu hiệu đáng mừng của đất
nước thời mở cửa và hội nhập, sự khởi đầu của một thế hệ công chức mới mà những
người thiện tâm thấy họ, không thể không lấy làm mừng.
Phi Hùng là một người như thế.
Anh làm việc cho đại diện một công ty luật nổi tiếng đã ba năm nay, vừa được
tăng lương thăng chức sau khóa bồi dưỡng nghiệp vụ ở Mỹ. Anh đẹp trai, da
trắng, dáng thư sinh, lại có năng lực nên nhanh chóng trở thành đối tượng mơ
ươc của nhiều cô gái. Nhưng như phần lớn những người khác cùng địa vị, anh vẫn
sống một mình trong căn hộ thuê ở một chung cư hiện đại. Thoạt nhìn ít ai ngờ
chỉ mấy năm trước anh còn là một sinh viên nông thôn nghèo. Có lẽ chút “chất
quê” còn lại trong anh là tính bẽn lẽn, thật thà một cách dễ thương và ít từng
trải. Anh là người nhạy cảm, dễ xúc động, ít giao du và ít (hay không biết) “ăn
chơi”. Một người chỉn chu, nghiêm túc, chỉ chuyên tâm vào công việc. Tóm lại,
anh không thuộc loại “sành điệu”, cái thuật ngữ dành cho những người trẻ tuổi biết
chơi và chịu chơi.
Một chiều chủ nhật nọ, đang đi
giữa đường, Phi Hùng, con người nhút nhát và rất không sành điệu ấy đã gặp một
đại diện điển hình của giới ăn chơi sành điệu Hà Thành. Đó là Long, bạn sinh
viên cùng khóa, cùng lớp và cùng chia hai ngôi nhất nhì khi tốt nghiệp trường
Đại học Tổng hợp Quốc gia. Sau đó hai người đi theo hai ngã và cùng thành đạt
theo cách riêng của mình.
Vốn thông minh và có đầu óc kinh
doanh, Long nhanh chóng từ bỏ công việc được coi là rất triển vọng ở một cơ
quan nhà nước để thành lập công ty riêng, tay trắng và không một đồng vốn. Thế
mà làm ăn phất, lúc đầu bằng môi giới, chỉ trỏ, rồi dần dần chuyển sang kinh
doanh, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Còn bây giờ thì đường đường là giám đốc
công ty Bình Long, chuyên nhập thiết bị xây dựng hạng nặng đã qua sử dụng từ
Hàn Quốc.
Như Phi Hùng, Long vẫn độc thân,
có thể vì mải làm giàu hoặc chưa tìm được ai vừa ý. Tuy nhiên ở tuổi chưa đầy
ba mươi, anh ta có vẻ quá già dặn trong đời trường và quá sành điệu trong hưởng
thụ. Bằng chứng là lớp da bì bì do thường xuyên hấp thụ quá nhiều bia rượu và
các chất béo bổ, đôi mắt lờ đờ thiếu ngủ sau những đêm nhậu nhẹt triền miên và
cả bộ ria “a la Fur” như Hitle được tỉa tót rất cẩn thận. Gần đây bạn bè đặt
thêm cho cái tên tương xứng với vẻ ngoài ấy - Long Mỡ. Long Mỡ là tip người
khác hẳn cậu thư sinh mảnh mai Phi Hùng.
- Lâu lắm mới gặp nhau, chúng
mình phải đi chơi một trận mới được. - Long Mỡ hồ hởi nói.
- Đi chơi? Chơi gì?
- Cậu rõ tẩm. Trước sinh viên khổ
mãi, bây giờ có điều kiện phải “sành điệu” một chút. Chơi gì cũng chiều. Tớ
bao!
- Vấn đề không phải tiền, - Phi
Hùng có vẻ lúng túng. - Nhưng quả thực tớ không hiểu lắm. Mà rồi cũng không có
nhu cầu...
- Cậu vẫn cù lần như ngày nào.
Thôi được, cậu không thích em út thì ta đi ăn nhậu, nhưng phải là thứ đặc biệt,
đúng cách ăn nhậu của dân sành điệu.
- Tớ chưa thật hiểu...
- Thì cứ đi, khắc hiểu. Thôi,
không dài dòng nữa. Nào đi!
Phi Hùng miễn cưỡng đi theo. Họ
từng là bạn thân với nhau, lại cùng quê. “Ừ thì đi cho biết,” anh nghĩ, mặc dù
không thích nơi đông người, bia rượu và những bữa ăn kéo dài.
Lúc ấy khoảng bảy giờ tối. Long
Mỡ đưa bạn đến một phố nhỏ ở khu trung tâm, ngoằn ngoèo mãi, cuối cùng dừng lại
trước một ngôi nhà cũ kỹ khuất trong hẻm mờ tối. Thấy bạn có ý thắc mắc, anh ta
nói ngay:
- Yên tâm. Tớ đưa cậu đến nơi cần
đến. Vào khách sạn Tây mà ăn nhậu chỉ phí tiền, dù ở đó rẻ hơn nhiều. Đây là
nơi dành cho giới chọn lọc. Chọn lọc, hiểu không ông tẩm?
Phi Hùng gật đầu dù chẳng hiểu
gì, rồi lặng lẽ bước lên một cầu thang gỗ hẹp. Anh nghe loáng thoáng có người
nói với nhau bằng tiếng Tàu. Tầng hai hóa ra rất rộng, có nhiều phòng nhỏ riêng
biệt. Một ông lùn bước ra, ngưòi béo mập, đầu hói nhẵn lấp lánh dưới ánh điện
màu hồng tù mù. Ông này chào Long Mỡ bằng tiếng Việt lơ lớ với sự niềm nở chỉ
dành cho những khách quen nhiều tiền, rồi dẫn hai người vào một phòng khá tươm
tất. Giữa phòng kê chiếc bàn phủ khăn trắng hồ cứng có để sẵn đồ uống và chiếc
lẩu bằng i-nốc sáng loáng.
- Hôm nay mình ăn gì? - Phi Hùng
tò mò hỏi.
- Chốc nữa sẽ biết. Tất nhiên
phải là món đặc biệt. Món ăn của vua chúa. Mà không phải vua chúa nào cũng được
ăn và ăn được. Ở Việt Nam chỉ hai nơi có món này, là đây và Quận Năm Sài Gòn.
Bây giờ cứ tự nhiên khai vị bằng các món phụ đã. Món độc chiêu ấy chỉ được đưa
ra vào cuối bữa tiệc. Đừng sốt ruột.
Hai người bắt đầu nhâm nhi những
thứ các cô gái Tàu, hoặc giả Tàu, mặc quần rộng áo chẽn màu đỏ, liên tục mang
lên. Họ ôn lại “một thời sinh viên gian khổ” hoặc nói chuyện làm ăn hiện nay.
Thời gian cứ thế trôi qua, có lẽ đã hơn một tiếng. Phi Hùng ăn uống rất ít. Nếu
không tò mò muốn biết cái món “độc chiêu của vua chúa” kia là gì, chắc anh đã
dục bạn về từ lâu. Chiếc lẩu i-nốc chưa được sử dụng vẫn kiên nhẫn chờ trên
bàn.
Cuối cùng thì “nó” cũng đến. Với
vẻ trịnh trọng duyên dáng, hai cô gái bê vào một chiếc cũi nhỏ, bốn xung quanh
che bằng kính trong suốt. Phi Hùng ngơ ngác không hiểu. Anh cúi xuống nhìn thì
thấy trong cũi có con khỉ lông vàng đã được tắm rửa sạch sẽ. Chiếc cũi thấp, đè
chặt nó xuống không cựa quậy nổi. Nắp cũi rất phẳng, cũng bằng i-nốc sáng
loáng, chính giữa có một lỗ hổng rộng, làm chỗ cho chỏm đầu con khỉ (đã được
cạo sạch lông) nhô lên, um um như chóp quả dừa.
- Cái gì thế này? - Phi Hùng ngạc
nhiên hỏi, lờ mờ đoán ra đôi điều. Anh lấy mu bàn tay lau mồ hôi trán. Từ trong
cũi, ở cái thế không thể cựa quậy nổi ấy, chắc con khỉ biết trước tai họa sắp
đến. Nó nhìn anh bằng đôi mắt van xin tha chết. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy
nỗi kinh hoàng và nỗi sợ không nói nên lời. Như đứa trẻ yếu đuối, nó chắp hai
bàn tay bé xíu đầy lông, liên tiếp vái lạy. Phi Hùng quay mặt, khẽ kêu lên:
- Thả nó ra. Trời ơi, thả nó ra!
Cái quái gì thế này?
- Con khỉ và chiếc cũi đựng nó,
cậu thấy rồi đấy, thưa cậu tẩm. - Long Mỡ nói, không dấu vẻ tự hào đắc thắng. -
Hôm nay chúng ta sẽ dùng món óc khỉ tươi. Đúng kiểu Từ Hy thái hậu ngày xưa
chiêu đãi các sứ thần nước ngoài. - Rồi hắn giơ chiếc dao Thái Lan to bản, mỏng
dính ngang tầm chém, nghiêng ngươi và...
Người viết câu chuyện này xin
phép không đi vào chi tiết những gì xẩy ra sau đó, vì một việc làm man rợ, một
sự suy đồi đạo đức như vậy của những kẻ tự xưng sành điệu, xưa hay nay cũng
vậy, chỉ đáng bị chúng ta phỉ nhổ. Chỉ cần nói thêm rằng với vẻ thích thú, điêu
luyện, hắn liệng một nhát dao, và chóp sọ con khỉ tội nghiệp bay ra, để lộ mớ
óc trắng bầy nhầy. Trong tiếng kêu ai oán của con vật, Long Mỡ, cũng thích thú
và điêu luyện không kém, thản nhiên múc từng thìa nhỏ óc khỉ, nhúng vào chiếc
lẩu đang sôi rồi cho vào miệng ăn ngon lành. Trong suốt thời gian ấy con khỉ vẫn
sống, vẫn không ngớt kêu khóc mỗi lần hắn chọc thìa múc óc nó. Điều này càng
làm hắn thích thú và ăn ngon miệng hơn. “Bổ! Đại bổ đấy! Nào, ăn đi cậu!” - hắn
bảo Phi Hùng khi anh vừa nôn mửa vừa chạy về phía cửa, nhưng cửa đã bị chốt từ
bên ngoài. Cả điều này cũng làm hắn thích thú. “Không sao. Rồi dần sẽ quen. Lúc
đầu tớ cũng vậy. Ăn chơi phải tàn bạo, đúng không? Nào, thử một tí. Nào...” Hắn
dí chiếc thìa với chút óc bầy nhầy vào sát miệng Phi Hùng. Anh ngả người về
phía sau, mặt tái nhợt, thở không ra hơi và đang định giang tay tát vào mặt hắn
thì ngã xuống sàn, bất tỉnh trong tiếng cười khả ố của thằng bạn.
*
Khi tỉnh dậy, Phi Hùng ngạc nhiên
thấy mình đang nằm trên chiếc đi-văng trong phòng khách căn hộ của mình, vẫn
nguyên quần áo và giày dép cùng mùi tởm lợm của thức ăn nôn ọe dính trên đó.
Anh rùng mình nhớ lại những gì vừa xẩy ra. Sự sợ hãi và kinh tởm khiến anh
không thể gượng dậy tắm rửa, thay quần áo hoặc xem đồng hồ. Anh đoán chắc đã
khuya. Xung quanh yên tĩnh khác thường. Không một tiếng động nhỏ. Không tiếng
muỗi vo ve. Không cả tiếng xe đều đều quen thuộc từ xa vọng lại như mọi ngày.
Anh nằm bất động rất lâu, miên man suy nghĩ tại sao người ta, cụ thể là thằng
bạn thân của anh, ít ra một thời từng thân, có thể “sành điệu” đến mức ăn uống
theo cách ghê tởm ấy. Hơn thế, người ta còn muốn kéo anh vào. Vì sao Long, một
thằng nhà quê chất phác như anh, một sinh viên giỏi, một trí thức, một nhà kinh
doanh thành đạt, lại trở thành người như anh thấy hôm nay? Vì sao anh ta có thể
làm nổi một việc như vậy? Đó là tội ác,
là thú tính, là phi đạo đức, là...
Bất chợt Phi Hùng nghe có tiếng
động rất khẽ. Hình như tiếng bước chân rón rén. Anh chú ý lắng nghe. Không,
không có gì thêm. Xung quanh vẫn là sự im lặng tuyệt đối. Đầu anh ong ong, đau
nhức. “Chắc mình tưởng tượng thế thôi. Cửa có chốt tự động, đóng vào là tự khóa
luôn. Không người nào, con vật nào, dù nhỏ, có thể lọt vào được.” Yên tâm phần
nào, vẫn ở tư thế nằm ngửa bất động, anh trân trân nhìn lên trần nhà tối om và
lại miên man suy nghĩ. Một chốc sau, tiếng bước chân rất nhẹ và bí ẩn kia lại
xuất hiện. Hơn thế, mỗi lúc một rõ hơn, nghe gần hơn. Hình như nó đang bước lại
chỗ anh nằm. Chắc chắn như vậy, không thể nhầm được. Tim anh đập loạn xạ, các ý
nghĩ như bị tê liệt. Lấy hết can đảm, anh ngoảnh đầu nhìn về phía cửa ra vào,
nơi có núm điện công-tắc đang đỏ hồng hồng một cách yếu ớt. Tuy nhiên, trong
căn phòng tối om nó cũng đủ sáng để anh nhìn thấy một bóng đen nhỏ, thấp tròn
đang di động chậm chạp. Gặp cái nhìn của anh, nó dừng lại và chắc cũng đang
chăm chú nhìn anh.
- Ai đấy? - anh hỏi to. Không có
tiếng đáp lại. Cái bóng đen bé nhỏ vẫn đứng im. Rồi nó bước lại gần anh, một
bên vai sệ xuống. Kiểu đi cà nhắc của người thọt hoặc đau chân. - Ai? Ai đấy?
- Anh kêu to lần nữa, rồi trong cơn
hoảng sợ tột độ, anh vùng dậy, chạy bổ về phía chiếc công-tắc đèn.
- Ôi!..
Phi Hùng ôm mặt thảng thốt khi
dưới ánh đèn sáng rực chợt nhìn thấy một con khỉ nhỏ đang đứng trước mặt mình.
Chính con khỉ ở nhà hàng người Tàu. Con khỉ bị chém mất chỏm đầu với hộp sọ bây
giờ trống rỗng, và một chân, chân phải, đã bị chặt cụt gần hết cả bàn. Nó không
hề có vẻ dữ tợn, không có ý định làm hại ai, là điều khiến anh thấy đỡ sợ. Nó
chỉ đứng yên nhìn anh, cũng cái nhìn van xin ấy như ở nhà hàng, chỉ thêm nỗi
đau, nỗi đau của con vật tội nghiệp. Chỉ van xin và nỗi đau. Không có tức giận
hoặc trả thù. Nó vái anh mấy cái rồi chìa bàn tay để ngửa trước mặt, kiên nhẫn
chờ. “Nó xin mình cái gì chăng?” anh nghĩ. Bây giờ sự sợ hãi đã biến mất, thay
vào đó là lòng thương và nỗi đau, nỗi đau của con người đang hoảng sợ và bất
lực. Đau cho con vật bé bỏng bị con người bắt làm vật hy sinh để thỏa mãn thú
chơi đê tiện của mình. “Nhưng nó xin gì? Mình có thể cho nó gì ?”
Lúng túng và một cách vô ý thức,
Phi Hùng cho hai tay vào túi áo vét. Chiếc áo mới, là phẳng phiu và chẳng bao
giờ anh để gì trong túi, thế mà lúc này chúng hơi cồm cộm. Anh ngạc nhiên lôi
cái cồm cộm ấy ra, rồi ngay lập tức vứt chúng xuống sàn nhà. Một bàn chân khỉ
còn dính máu và phần chóp hộp sọ bị dao chém sắc gọn còn nguyên vẹn. Thì ra như
thể trêu anh thế chưa đủ, thằng Long Mỡ còn lén giấu vào túi áo bạn hai thứ này
để làm anh phải khiếp sợ lần nữa.
Trong khi anh bàng hoàng đứng đờ
người thì con khỉ nhanh nhẹn nhặt chóp sọ đặt lên đầu và chắp bàn chân cụt vào
chỗ cũ. Nó nhìn anh biết ơn, lạy ba cái rồi lặng lẽ đi ra khỏi phòng, chân
không còn cà nhắc. Chỉ lúc này anh mới nhận thấy cánh cửa đã bị mở từ bao giờ.
*
Ngày hôm sau Phi Hùng được đưa
vào bệnh viện. Sau đó một tháng thì anh bị chuyển tới một nhà thương điên của
thành phố. Điên nặng, đến mức người ta phải xích hoặc có chế độ giám sát đặc
biệt. Thế mà mấy lần anh khôn khéo trốn khỏi bệnh viện.
Từ một thanh niên có học dễ
thương, một công chức đầy triển vọng được bạn bè kính nể, trước sự ngạc nhiên
của mọi người, Phi Hùng bỗng trở thành một thằng điên quần áo rách rưới bẩn
thỉu, ăn bụi nằm bờ, lang thang hết nơi này đến nơi khác, khiến ai nhìn cũng
lấy làm ái ngại, đặc biệt các đồng nghiệp và những người quen biết.
Người ta ngạc nhiên nhận thấy
thằng điên này hay la cà bãi chợ để nhặt những chiếc mỏm gáo dừa, luôn quấy rầy
các cửa hàng thịt chó, năn nỉ xin chân chó. Hai thứ này, chẳng hiểu để làm gì,
nó kiếm được khá nhiều, chất đầy chiếc bị cói luôn đeo bên hông. Ai hỏi, nó
nhất định không nói, chỉ cười, nhe hàm răng trắng hếu. Nó cười mà trông như
khóc. Tội nghiệp.
Còn Long Mỡ thì sao? Hắn có ý
thức được rằng chính hắn và cái thói sành điệu tai ác kia của hắn đã đẩy bạn
đến nước này không? Có thể có mà cũng có thể không. Tính hắn hay quên, nhất là
quên việc hắn đã làm và các hậu quả của nó. Mà rồi cũng có thể hắn lập luận sự
việc theo cách riêng của mình. Nhưng một điều có thể xác minh được. Đó là việc
hắn cũng thương thằng điên này, một thời từng là bạn thân của hắn. Cụ thể là có
lần bất chợt gặp nó, hắn đã hào phóng đãi nó một bữa cơm bụi. Muốn ăn gì thì
ăn, sướng chưa! Lúc chia tay, hắn còn dúi cho nó mấy nghìn tiền lẻ, khiến thằng
kia mừng run, vừa đi vừa cười. Một nụ cười mếu máo.
Còn Long Mỡ thì đứng nhìn theo,
buông một câu:
- Cái thằng này hóa ra thế mà độc
đáo. Sống điên. Làm thằng điên. Sành điệu ra phết!
Hắn vẫn tiếp tục làm ăn phát đạt.
Vẫn đều đặn tham dự các hội nghị tuyên dương những nhà kinh doanh trẻ. Nghe nói
hắn còn là nhà từ thiện lớn. Thỉnh thoảng hắn vẫn đến phố người Tàu kia, có lúc
dẫn thêm bạn để khai sáng cho họ đôi chút về cái thuyết ăn chơi sành điệu của
hắn. Cũng có thể hắn đã làm nhiều người khác nữa phát điên như Phi Hùng mà
chúng ta biết.
Hà
Nội, 8. 7. 2002
TRÒ ĐÙA CỦA SỰ NGẪU NHIÊN
Xét về mọi phương diện, ông Lộc
là người may mắn và thành đạt. Khi nói về ông, người ta hay bảo: Cái số lão ấy
sướng!
Ông mới bước qua tuổi năm mươi và
suốt chừng ấy năm, bất chấp chiến tranh, bất chấp khó khăn chung của đất nước
và thời cuộc, đời ông diễn ra suôn sẻ và quá ư tốt đẹp. Cứ như có thần hộ mệnh
luôn bên cạnh để che chở và lái con đường cuộc đời ông theo hướng may mắn. Nếu
có khổ thì cũng chỉ những năm còn nhỏ, ấy là cái khổ của ăn chưa no lắm, mặc
chưa đẹp lắm và một ngày hai buổi vắt vẻo trên lưng trâu hoặc chơi khăng ngoài
đồng cùng bọn trẻ, vì ông sinh ở nông thôn. Bù lại, nhà ông được xếp vào loại
nghèo nhất dù chẳng kém nhà nào trong làng, nên nghiễm nhiên ông được ưu đãi
mọi bề. Không phải thi chuyển cấp từ cấp hai lên cấp ba, sau đó đúng năm tốt
nghiệp phổ thông, năm 1967, thì có chủ trương không phải thi đại học. Nhờ
“thành phần cơ bản”, ông được chọn đi học nước ngoài, tất nhiên đi nước xịn
nhất thời bấy giờ là Liên Xô và học trường xịn nhất là Lômônôxôp ở ngay thủ đô Matxcơva.
Học cái môn ông không thật giỏi lắm là toán. Thế mà ông được học tiếp thành phó
tiến sĩ, rồi tiến sĩ, ngẫu nhiên chỉ vì lúc ấy ít sinh viên Việt Nam và bạn
muốn đào tạo “cán bộ đầu ngành” cho ta. Lúc ông về nước thì chiến tranh đã kết
thúc từ lâu. Trước đấy ông chỉ tận mắt thấy máy bay Mỹ bay qua làng vài lần,
còn bom nổ thì chưa lần nào.
Với tấm bằng tiến sĩ từ Liên Xô,
đương nhiên ông được đặt vào chức vụ xứng đáng, lúc đầu là tổ trưởng bộ môn
toán ở một trường đại học danh tiếng của thủ đô, sau cứ thế mà tiến - phó khoa,
trưởng khoa rồi giáo sư, còn bây giờ thì ông đang ngấp nghé chức phó hiệu
trưởng của chính cái trường ấy. Một ước mơ trong tầm với, và trước khi về hưu
chắc ông phải được ngồi ở ghế hiệu trưởng ít năm. Ông tin như thế, mọi người
cũng tin như thế. Biết đâu ông chẳng còn tiến xa hơn. Vậy chắc phải giỏi chuyên
môn lắm? Không hẳn. Tất nhiên ông không dốt, vì quá dốt cũng như quá giỏi, ông
đã chẳng được như ông ngày nay.
Các mặt khác, ông cũng may mắn và
thành đạt không kém. Bà vợ xinh đẹp nết na vốn là sinh viên của ông, được chồng
nâng đỡ nay đã là trưởng phòng khoa học. Hai đứa con gái đang học đâu đó bên Âu
Mỹ, tất nhiên theo diện học bổng toàn phần nhờ quan hệ riêng của vợ chồng ông
với đồng nghiệp nước ngoài. Còn kinh tế thì khỏi nói, ngay từ thời khó khăn
nhất ông đã được cấp một căn hộ kép tầng một ngay trong trường. Tiền bạc cứ rủ
nhau theo ông vào nhà, qua các chuyến công tác nước ngoài khá thường xuyên (cái
thời đi nước ngoài được coi là cách làm giàu nhanh và dễ nhất), qua vụ ông vào
Miền Nam lập chi nhánh trường ngày mới giải phóng, khi ra khuân bao nhiêu là
đồ, cộng một ngôi nhà ở quận Hai ông xin được với danh nghĩa cho trường nhưng
thực ra là của ông. Thời mở cửa thì ông mở lớp dạy thêm, rồi mở trung tâm luyện
thi đại học. Đấy là chưa nói ông trúng đậm mấy quả kinh doanh bất động sản, cả
những năm 93 - 94 và mới vừa rồi. Tóm lại, hiện giờ ông là người giàu, rất
giàu, đến mức nhiều khi chính ông cũng không tin mình có thể giàu đến mức ấy...
Vậy quả đúng ông Lộc là người may
mắn và thành đạt mọi bề. Ông hài lòng với mình, với cuộc sống đang có. Sự hài
lòng ấy thể hiện qua tạng người béo tốt, cử chỉ tự tin và qua cả nụ cười bao
dung, dễ dãi. “Cái số lão ấy sướng!” ông thường nghe người ta nói sau lưng như
vậy, không phải không chút ghen tị, nhưng ông chả giận vì đang tràn trề hạnh
phúc, do vậy đứng cao hơn sự chấp nhặt của người đời. Ông thành thật tin những
gì ông đạt được là nhờ đầu óc thông minh và lao động chân chính của mình. Nghĩ
thế cũng đúng, vì công bằng mà nói, ông thuộc loại người tử tế và chưa làm điều
gì thất đức để lương tâm phải cắn rứt.
“Chẳng có số phận nào hết. Tất cả
đều do nỗ lực bản thân,” ông hãnh diện nói với mình và với người khác, rồi tự
lúc nào không biết ông bắt đầu có cái nhìn như kiểu từ trên nhìn xuống với
những người nghèo và kém thành đạt hơn. Thậm chí ông còn động lòng thương hại
họ.
*
- Lúc nãy giáo sư nói thế chưa
hẳn đúng hoàn toàn.
Ông Lộc quay sang nhìn. Đang
thong thả bước bên ông là một ông già bé nhỏ ăn mặc lịch sự tuy hơi cổ lỗ, đặc
biệt chiếc mũ phớt nhăn nhúm trên đầu dù đang mùa hè, và chiếc khăn trắng dắt
lé một cách kiểu cách trên túi áo vét.
- Xin lỗi, nhưng tôi đã nói gì cơ
ạ?
- Về chuyện có hay không có số
phận ấy mà. Và về cả cái lập luận “nỗ lực cá nhân” của giáo sư nữa.
Ông Lộc khẽ à một tiếng. Chả là
lúc nãy, như thường lệ vào các chiều chủ nhật, ông cùng mấy người bạn ngồi uống
bia, chuyện gẫu với nhau suốt buổi ở đầu phố Tông Đảng. Ông mới tập uống bia
vài năm nay, và tự cho phép mình mỗi tuần một lần được thư giản theo cách ấy.
Nhân hôm qua truyền hình chiếu những cảnh thương tâm về các nạn nhân chất độc
màu da cam, lần này họ sôi nổi nói đề tài ấy. Là những trí thức tâm huyết với
đời, ai cũng tỏ vẻ xúc động chân thành, không tiếc lời lên án bọn Mỹ vô nhân
đạo và vô trách nhiệm. “Âu cũng là cái số mà họ phải chịu!” một người chép
miệng. Thế là đề tài câu chuyện quay sang số phận. Như thường lệ, ông Lộc hăng hái bảo vệ quan điểm “nỗ lực cá nhân”
của mình, theo kiểu anh lười, tức là không chịu lao động, học hành tử tế thì
không thể thành đạt, cũng như người không chú ý nhìn đường thì có thể dễ dàng
rơi xuống hố. Về buổi truyền hình hôm qua, theo ông, người ta có thể chủ động
tránh được phần nào những cảnh đau lòng ấy. Thí dụ, những ai sống và chiến đấu
ở vùng bị rải chất độc đáng lẽ phải đi khám bác sĩ xem có bị nhiễm không, nếu
có thì phải tìm cách giải độc. Y học hiện đại chắc làm được điều ấy. Hoặc nếu
đã trót sinh đứa con dị tật thì đừng sinh tiếp những đứa dị tật khác. Thậm chí
cả khi lâm vào cảnh ấy, “nếu cố gắng, hết sức cố gắng, người ta cũng có thể
vượt qua số phận. Khối người bệnh tật hiểm nghèo mà vẫn trở thành nổi tiếng đấy
sao?” Đại khái ông nói như vậy, và người
khác, dẫu không tán thành nhưng cũng không bác bẻ được.
Ông Lộc tò mò nhìn ông già lạ
mặt. Chắc ông ta cũng có mặt ở quán bia lúc ấy và đã nghe hết câu chuyện của
họ. Tính ông không thích bắt chuyện với người lạ, nhưng lúc này ông đang vui,
đang hưởng cái thú được đi bộ về ngôi biệt thự cổ xinh xắn của mình ở xóm Hạ
Hồi. Một quãng đường xa nhưng ông thích đi bộ hơn ô-tô (ông có ô-tô riêng, thuê
hẳn một người lái trực 24 trên 24). Đi bộ là cách thư giãn mà chỉ những người
thật giàu như ông mới kham nổi.
- Nghĩa là... - ông ngập ngừng
không biết nên xưng hô thế nào, ông hay bác . - Nghĩa là bác cũng tin vào số
phận?
- Cả có mà cũng cả không. - Ông
kia đáp. - Theo kiểu nói dân gian thì là số phận, nhưng dưới góc độ khoa học,
có thể gọi theo cách khác.
- Theo bác thì gọi là gì ? - Ông
Lộc hỏi, cảm thấy ông già kỳ quặc này có thể là người nói chuyện thú vị.
- Tôi cùng đường với giáo sư.
“Cùng đường với mình? Ông ta biết
mình đi đâu mà bảo cùng đường?” Ông Lộc thầm ngạc nhiên nhưng không nói gì.
- Tôi có việc tới ga Hàng Cỏ. -
Ông già nói tiếp. - Nếu giáo sư không phản đối, ta vừa đi vừa nói chuyện. Hôm
nay quả là một ngày đẹp trời.
Ông già nheo nheo mắt sau cặp
kính tròn bé tí treo trên đầu mũi, kiểu kính các trí thức cũ Hà Nội ưa dùng
cách đây năm, sáu chục năm.
- Cái mà chúng ta vẫn gọi là số
phận ấy mà, theo tôi đơn giản chỉ là trò đùa ngẫu nhiên. Sự ngẫu nhiên, ở các
mức độ khác nhau, chi phối mọi cái trên đời này, cả ở cấp vĩ mô là vũ trụ, lịch
sử thế giới, lẫn cấp vi mô là cuộc sống của từng con người chúng ta. Như giáo
sư biết, nếu trái đất không bị thiên thạch ngẫu nhiên va đập mạnh cách đây sáu
mươi lăm triệu năm, ắt loài khủng long đã không tuyệt chủng, mặt đất không bị
băng hà xâm chiếm, và sự phát triển của sự sống hành tinh chúng ta có thể đã đi
theo một hướng khác. Pascal từng nói một câu nổi tiếng: “Tướng Cromwell sắp tàn
phá cộng đồng Cơ Đốc giáo. Hoàng gia Anh đã sụp đổ và dòng họ Cromwell sẽ đời
đời hùng mạnh nếu không vì một hạt sạn nhỏ nằm trong đường tiết niệu của ông.
Ngay cả nhà thờ La Mã cũng khiếp sợ trước ông, nhưng chỉ vì hạt sạn bé nhỏ ấy
mà ông qua đời, dòng họ Cromwell cũng suy sụp theo. Mọi việc lại tiếp diễn theo
cách cũ của mình, và một vị vua mới lại lên ngôi.” Giáo sư thấy đấy, tất cả chỉ
vì một hạt sạn ngẫu nhiên. Lại nữa, ai biết được lịch sử châu Âu cận đại sẽ thế
nào nếu khi còn là một sĩ quan pháo binh trẻ tuổi ở đảo Corse, Napoleon không
được một người đàn bà bình thường ngẫu nhiên cứu khỏi cái chết trong gang tấc?
Điều này có nói đến trong tác phẩm của Maupassant, chắc giáo sư đã đọc?
Ông Lộc khẽ gật đầu mặc dù ông ít
đọc sách văn học, còn Maupasant thì ông đọc từ hồi sinh viên, mà cũng chỉ mấy
truyện. Cromwell ông cũng biết rất lờ mờ, mang máng nhớ hình như ông ta là vị
tướng lỗi lạc người Anh.
- Thế còn cấp vi mô? - ông Lộc
thực sự thấy câu chuyện trở nên thú vị.
- Cũng thế cả, có điều ở qui mô
nhỏ hơn, chỉ liên quan đến một người hoặc một nhóm người. Trở lại vấn đề chất
độc màu da cam. Việc Mỹ ném nó xuống Việt Nam và gây hậu quả tai hại là một tất
yếu. Chính quyền Mỹ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về điều đó. Trong chiến
tranh, bị thương, chết chóc là sự tất yếu, nhưng bị thương hoặc bị chết ở đâu,
thế nào, lại thuộc phạm trù ngẫu nhiên. Gã con trai của đô đốc Zumwalt (ông này
trực tiếp ra lệnh rải chất độc điôxin xuống đồng bằng sông Cửu Long năm 1966)
ngẫu nhiên được sung vào lực lượng tuần tiễu dọc các kênh rạch khu vực này nên
bị chết. Hàng nghìn nạn nhân Việt Nam khác như ta thấy hôm qua trên vô tuyến
cũng vậy. Ngẫu nhiên có mặt lúc ấy ở thời điểm ấy nên bị nhiễm. Ngẫu nhiên lấy
phải người bị nhiễm, ắt sẽ sinh ra những đứa trẻ dị tật tội nghiệp. Cả tôi và
giáo sư cũng không là ngoại lệ. Nếu hoàn cảnh đưa đẩy, tức là trò đùa của sự
ngẫu nhiên ấy rơi vào chúng ta, tôi và giáo sư, nhất là giáo sư, đều có thể dễ
dàng nhiễm nó. Chúng ta cùng con cái, người thân chúng ta sẽ bất hạnh như thế,
thậm chí còn hơn...
- Sao bác bảo nhất là tôi? - Ông
Lộc tò mò hỏi, thoáng chút khó chịu.
- Vì xác suất giáo sư gặp cái
ngẫu nhiên đó lớn hơn tôi. Lúc ấy giáo sư mới hai mươi tuổi, tuổi quân dịch,
còn tôi đã gần sáu mươi. Vả lại suốt thời gian chiến tranh tôi sống ở nước
ngoài...
“Năm 66 đã sáu mươi, vậy bây giờ
hơn một trăm? Lão già này hoặc mất trí, hoặc là một lão phù thủy.” Ông Lộc nhíu
mày, hỏi:
- Xin lỗi, nhưng bác là ai?
- Một đồng nghiệp của giáo sư.
Người ta cũng gọi tôi là “giáo sư” đấy, mặc dù tôi chưa bao giờ được chính thức
phong tặng danh hiệu cao quí đó. Tôi là một nhà nghiên cứu, chính xác hơn, một
nhà phát minh độc lập. Ông đừng mất công bới lục trí nhớ để biết tôi là ai. Ông
không biết đâu. Vả lại điều ấy chẳng có ý nghĩa gì. - Rồi nhìn ông Lộc bằng đôi
mắt nheo nheo tinh nghich sau cặp kính, ông già cười nói: - Giáo sư yên tâm.
Tôi là người tử tế. Chí ít không có ý định xấu xa nào. Hơn thế, bằng các phát
minh của mình, tôi có thể chứng minh được đôi điều đã nói. Cả những điều trực
tiếp liên quan đến giáo sư, tất nhiên nếu giáo sư muốn...
- Liên quan đến tôi? - Ông Lộc
buột miệng thốt lên. - Sao lại liên quan đến tôi? Liên quan cái gì?
- Cái trò đùa của sự ngẫu nhiên.
Chẳng hạn, vì một sự ngẫu nhiên nào đó, nhỏ thôi, nhỏ như hạt sạn trong đường tiết
niệu của tướng Cromwell, cuộc đời của giáo sư có thể đã thay đổi hoàn toàn.
Chính xác là giáo sư tránh được một sự ngẫu nhiên trong đời mình, nên mới là
giáo sư, một người may mắn, thành đạt như ngày nay. Nếu không thì...
- Nếu không thì sao?
- Giáo sư muốn biết à?
- Vâng. Nhưng làm sao bác chứng
minh... Làm sao bác chỉ cho tôi thấy được điều ấy?
- Đó là việc của tôi. Tôi là nhà
phát minh và có đủ các phương tiện cần thiết để làm việc ấy. Nếu giáo sư thực
tình muốn thì hãy đi theo tôi. Ngay bây giờ càng tốt vì tôi chẳng còn ở đây lâu
nữa. - Thấy ông Lộc có vẻ do dự, ông già nói thêm: - Đừng lo. Không có chuyện
gì đâu, ngoài một cú sốc nhỏ về tinh thần, là điều có thể có lợi cho giáo sư
đấy.
- Ta ngồi xuống đây nghỉ tí đã. -
Ông Lộc chỉ chiếc ghế đá ở vườn hoa nhỏ cạnh phố Tràng Thi. Ông đang bối rối
trước một sự lựa chọn tế nhị. Ông tò mò muốn biết cuộc đời suôn sẻ của ông mà
ông coi như đương nhiên phải thế có thể trở thành khác như thế nào. Tuy nhiên,
vốn thận trọng, ông không thể không tính tới những hậu quả chưa lường trước. -
Tôi chưa thật hiểu lắm. Xin bác nói lại...
*
Khoảng mười lăm phút sau, ông Lộc
theo ông già lạ mặt đi dọc phố Hàng Trống rồi đến một con hẻm nhỏ mờ tối trông
rất lạ. Hình như các đường phố lân cận cũng khang khác. Ông đưa mắt tìm biển
phố nhưng không thấy. Căn phòng họ bước vào ở ngay tầng một, nằm khuất bên
trong. Nó khá rộng, ngổn ngang các dụng cụ thí nghiệm và một đống sách báo phủ
đầy bụi.
- Tôi ít khi làm việc ở đây nên
hơi bừa bộn, giáo sư thông cảm. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Thế này nhé,
- ông già vừa nói vừa dẫn khách lại gần một chiếc tủ kim loại hình vuông trong
góc phòng. - Đây là phát minh mới nhất của tôi. Nó có nhiều chức năng, có thể
đưa ta trở lại quá khứ hoặc biết trước tương lai. Hôm nay nó sẽ giúp giáo sư
biết thêm một hướng phát triển khác của đời mình...
- Bằng cách nào?
- Rất đơn giản. Phát minh ra
chiếc máy này mới phức tạp chứ sử dụng nó thì đơn giản lắm. Giáo sư chỉ việc
ngồi lên chiếc ghế trong đó. Máy ly tâm sẽ quay với vận tốc cực lớn và đưa ông
sang một thế giới khác, trong trường hợp này là một mảng đời khác có thể xẩy ra
với ông. Giáo sư không cần ra ngoài, điều ấy có thể nguy hiểm, chỉ cần nhìn qua
tấm kính nhỏ là đủ. Đừng sợ, không ai nhìn thấy ông đâu, không đau đớn hoặc
nguy hiểm chút nào. Chiếc ghế được thiết kế đặc biệt để không bị tác động bởi
vòng quay máy ly tâm. Mười lăm phút sau hoặc lâu hơn nếu giáo sư muốn, nhưng
tôi nghĩ chừng ấy là đủ, nó sẽ đưa ông trở lại trạng thái bình thường như bây
giờ. Lúc ấy chúng ta sẽ nói chuyện tiếp, nếu cần, tôi sẽ giải thích thêm đôi
điều. Thế nào, ta thử chứ?
Ông Lộc bối rối nhìn ông già vẻ
dò xét, nhưng không thấy dấu hiệu mờ ám nào ở con người kỳ cục này. Ông khẽ gật
đầu rồi chui vào chiếc tủ sắt, ngồi xuống chiếc ghế xoay có lưng tựa và hai tay
vịn. Ông hít thở sâu và từ từ nhắm mắt...
Có tiếng gì đó bắt đầu xoay êm
êm. Ông Lộc lặng người, cảm thấy mình bị đưa đi đâu đó rất xa, chẳng hiểu xa về
thời gian hay khoảng cách. Ông không dám mở mắt, và biết có mở cũng chẳng thấy
gì ngoài một màu tối đen. Cuối cùng là im lặng. Sự im lặng tuyệt đối. Không
chuyển động. Không một âm thanh nhỏ. Mãi lúc sau ông mới mở mắt nhìn vào ô kính
trước mặt nhưng chẳng thấy gì ngoài một mảng nhờ nhờ. Tuy nhiên, nhìn kỹ, mảng
nhờ nhờ ấy bắt đầu tan dần và ông nhìn thấy cảnh một gia đình nghèo, chắc là
nông dân vì có hai chiếc hái gặt lúa treo trên tường. Tường nhà bằng phên tre
trát bùn, nhiều chỗ đã thủng. Nhà tuềnh toàng và nghèo đến mức khó tin. Mấy
chiếc xoong bẩn vứt ngổn ngang đầy ruồi bâu. Cả nhà chỉ có một chiếc giường gỗ
tạp mòn sứt, bừa bộn chăn màn, quần áo cũ. Lẫn giữa đống giẻ ấy là một đứa bé
oặt ẹo, dị dạng, vì thế ông không biết bao nhiêu tuổi, có thể mười mà cũng có
thể ba mươi. Cái đầu to quá cỡ với đôi mắt đần độn vô hồn. Đôi chân khoèo bé
tí, chắc không đi được nên phải nằm trên giường. Nó chỉ có một tay, thỉnh
thoảng lại giơ lên bắt những con ruồi bạo dạn trước mặt rồi cho vào mồm, không
bắt được cũng cho vào mồm. Rồi nhai, vẻ ngon lành. Tiếp đến, bước vào nhà là
một ông già mặc quần đùi, chân đất, da đen nhẻm, đầu tóc bù xù bạc trắng. Chắc
ông ta vừa đi làm hay đâu đó về, nét mặt quàu quạu, đau khổ và tuyệt vọng.
Ông Lộc giật thót mình khi nhận
ra con người ấy chính là ông. Ông dụi mắt không tin và nhìn kỹ lần nữa. Đúng.
Ông. Khác lắm, nhưng chính là ông. Con người ta có thể thay đổi nhiều nhưng
những nét chính vẫn nhận ra được, nhất là bản thân mình. Ông già kia kêu to cái
gì đấy nhưng ông Lộc không nghe rõ. Ngồi ở đây ông chỉ nhìn chứ không nghe
được. Liền sau đó, một ông già khác đi vào. Cũng có thể đó là một người còn
trẻ, cũng dị tật nên không thể biết tuổi. Người này cổ ngẹo một bên, miệng méo
sang bên khác, hai tay lành lặn nhưng một chân teo nên phải chống nạng. Khuôn
mặt mang đầy đủ dấu hiệu của sự chậm phát triển trí tuệ. “Con mình đấy. Cả đứa
nằm trên giường cũng con mình!” Ông Lộc ôm mặt không dám nhìn tiếp. Khi ông mở
mắt thì thấy hai phụ nữ, một trẻ một già, ăn mặc tươm tất và hoàn toàn bình
thường, đang vừa nói gì đó vừa lễ phép chìa ra một chiếc phong bì. Ông kia đỡ
lấy nó bằng cả hai tay, miệng mấp máy rối rít, vẻ cảm động lắm.
Đúng lúc ấy thì ông Lộc lại nghe
có tiếng máy ly tâm quay, rồi ông đang bay ngược trở lại. Bất giác ông thở phào
nhẹ nhỏm, muốn trở về với cuộc sống thật hiện tại của mình càng nhanh càng tốt.
Tuy nhiên, ông vẫn kịp nhìn thấy thằng bé-ông già con ông rút ra từ chiếc phong
bì một tờ giấy bạc năm mươi nghìn đồng còn mới. Mắt nó long lanh. Nó cười sung
sướng. Một nụ cười méo trên khuôn mặt đần độn. Còn ông, tức là ông già chân đất
kia thì đứng cạnh, không hiểu sao lại khóc...
*
- Thưa giáo sư, ông thấy thế nào?
Chắc ngạc nhiên lắm phải không? - Ông già bác học hỏi với giọng thông cảm,
nhưng nếu tinh, vẫn nhận thấy có chút diễu cợt trong đó.
Ông Lộc ngồi im, hai tay ôm mái
đầu đã lốm đốm bạc. Ông ngồi như thế kể từ lúc trở lại, mồ hôi vã đầy trán. Ông
vẫn chưa hết bàng hoàng trước những gì mới tận mắt chứng kiến.
- Bây giờ giáo sư đang ở đây an
toàn, chốc nữa sẽ lại có mặt trong căn biệt thự cổ ở xóm Hạ Hồi với bà vợ xinh
đẹp và những vật quen thân của mình. Thì tôi đã nói trước rằng sẽ bị sốc chút
ít. Tôi rất hiểu tình cảm giáo sư lúc này. Tôi cũng biết giáo sư đang thắc mắc
vì sao có thể như thế được. Đơn giản thôi mà. Tất cả chỉ vì một sự cố ngẫu
nhiên nhỏ, rất nhỏ. Có thể giáo sư còn nhớ, nhưng tôi cứ nhắc lại. Cuối tháng
Bảy năm 1967, chính xác là vào ngày 28, giáo sư, lúc ấy mới tốt nghiệp phổ
thông, nhận được giấy báo đi học nước ngoài. Tuy nhiên, trước đó năm ngày, điều
này chắc chắn giáo sư không biết, cậu Thịnh, nhân viên bưu điện huyện Diễn Châu
đã nhận từ Huyện Đội ba giấy gọi nhập ngũ mang về xã Diễn Lộc, trong đấy có một
giấy ghi tên giáo sư. Tiếc thay, cũng có thể gọi may thay, đến Chợ Hôm cậu ấy
bị một chiếc xe tải quệt phải, nhẹ thôi nhưng phải nằm viện một tuần, khi đưa
được giấy tới xã thì giáo sư đã ra tới Hà Nội và đang chuẩn bị lên tàu liên vận
đi Matxcơva. Cái ngã ba đường đời quan trọng của giáo sư được bắt đầu từ Chợ
Hôm, nơi cậu Thịnh ngẫu nhiên bị quẹt xe. Vậy là thay cho ra chiến trường, giáo
sư đi học nước ngoài và trở thành như ngày nay. Giáo sư không phải băn khoăn
điều ấy. Lương tâm giáo sư trong sạch. Trước đó, như mọi học sinh khác trong
lớp, giáo sư đã viết đơn tình nguyện ra chiến trường. Tất cả đều do ngẫu nhiên.
Những gì giáo sư vừa nhìn thấy là một đường rẽ khác của cuộc đời, nếu không có
cú quệt xe ngẫu nhiên kia. Bây giờ thì chắc giáo sư dễ đoán những gì xẩy ra sau
đó. Giáo sư đi bộ đội, vào Nam, bị nhiễm chất độc màu da cam đâu đó chính giáo
sư cũng không biết. Rồi hòa bình trở về nhà làm anh nông dân, lấy vợ và sinh ra
đứa con dị dạng. Hai vợ chồng giáo sư đau buồn, năm năm sau cố đẻ thêm đứa nữa
để bù đắp cho đứa kia. Không ngờ đứa này còn dị dạng hơn. Vợ giáo sư quá đau
buồn đổ bệnh rồi chết, chỉ trách trời oan nghiệt chứ bà ấy, cả giáo sư nữa, lúc
đó không có chút khái niệm nào về hậu quả của thứ chất độc kia. Thời ấy người
ta không nói đến nó nhiều như bây giờ. Thành ra giáo sư phải một mình nuôi hai
thằng con tật nguyền trong cảnh đói nghèo và tuyệt vọng cùng cực về tinh thần. Vừa
rồi giáo sư được tận mắt chứng kiến điều ấy. Hôm nay ngẫu nhiên đúng ngày
thương binh liệt sĩ nên giáo sư mới thấy hai bà cán bộ xã kia đến thăm và cho
tiền.
- Bác biết trước như thế sao còn
bắt tôi xem những cảnh đau lòng ấy? - Cuối cùng ông Lộc lên tiếng nói, giọng
yếu ớt.
- Xin lỗi nếu tôi có làm giáo sư
buồn, nhưng quả thực tôi đâu có bắt. Chính giáo sư tò mò muốn biết đấy thôi. Mà
tôi thì muốn chứng minh cho cái thuyết “ngẫu nhiên” của tôi, như giáo sư từng
nhiều lần hùng hồn chứng minh cho thuyết “nỗ lực cá nhân” của mình.
- Chắc bác muốn dạy tôi một bài
học?
- Ấy chết, đâu dám. Đúng như giáo
sư vừa nói, đó là những cảnh thật đau lòng. Biết bao con người ở đất nước này
đang phải chịu cái đau ấy, không phải một ngày, một tháng mà nhiều năm ròng,
suốt đời. Cả xã hội, trong đó có giáo sư và tôi đều thông cảm với họ, thương
họ, quyên góp tiền giúp họ. Oái oăm thay, cái đau ấy có thể rơi vào bất kỳ ai,
bất kỳ lúc nào và không một “nỗ lực cá nhân” nào có thể giúp né tránh, vì đơn
giản đó là kết quả của trò chơi ngẫu nhiên. Lâm vào hoàn cảnh ấy, tôi nghĩ,
chắc chúng ta sẽ có một cái nhìn khác, chân thành và ưu ái hơn với đồng loại.
- Bác là phù thuỷ?
Không có tiếng đáp. Khi ông Lộc
ngước lên nhìn thì không thấy ông kia đâu nữa. Không thấy cả chiếc tủ sắt đáng
sợ.
*
Nghe nói sau đó, giáo sư Lộc, con
người may mắn và thành đạt ấy, đã ốm nặng phải nằm viện một tháng mới khỏi. Ông
bỏ thói quen uống bia vào các chiều chủ nhật, bỏ cả thói quen đi bộ, và dường
như ông quan tâm tới các sách triết lý cổ nhiều hơn việc làm sao được ngồi vào
chiếc ghế hiệu trưởng suốt đời ông mong ước.
Hà
Nội, 2002
NGƯỜI LƯƠNG THIỆN
Có thể mỗi ngày một ít đi, nhưng
bây giờ vẫn còn nhiều người trung thực, tốt bụng và thật thà đến mức gần như
ngây ngô. Họ không biết làm điều ác, không biết nói dối và luôn mặc cảm với cái
bị nhiều người coi là thứ xa xỉ trong cuộc sống xô bồ thực dụng hiện nay, là
lương tâm. Cũng vì tốt và trung thực, họ dễ bị tổn thương, nhiều khi thành nạn
nhân của chính lòng tốt và sự trung thực ấy. Xét về nhiều phương diện, nhân vật
chính câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là một người như thế. Một người lương
thiện.
Nguyễn Ngọc Tú là một bác sĩ trẻ
giỏi nghề, hiền lành và bẽn lẽn như con gái, mặc dù tuần nào cũng cầm dao mổ
bụng người khác. Trong con mắt hàng xóm và đồng nghiệp, anh là người hạnh phúc
- kinh tế khá giả, cô vợ xinh đẹp, sắc sảo làm việc cho một công ty nước ngoài
và thằng con trai ba tuổi mũm mĩm như thiên thần.
Một chiều thứ bảy nọ, khi hai bố
con đang chơi trò đánh nhau trên giường thì thằng con thiên thần ấy bỗng cầm
chiếc kìm nhỏ mạ trắng đâm mạnh một cái đúng nửa sau bên trái đầu bố. Rồi cười
sằng sặc. Còn bố nó thì nằm bất tỉnh đến mười phút, vẫn bị thằng bé vừa reo hò
vừa dùng kìm đánh khắp người.
Khi Tú tỉnh lại thì chị vợ vừa đi
đâu về. Thấy mặt chồng khác lạ, chị ta hỏi có chuyện gì. Tú ngơ ngác mãi, cuối
cùng mới mang máng nhớ ra. “Hình như thằng Phúc đánh làm anh ngất”. Chị vợ chỉ
cười, đùa bảo: “Cho chết,” rồi mắng
thằng con một câu về tội nghịch ngợm.
Phần còn lại của ngày thứ bảy hôm
ấy trôi qua bình thường. Cả chủ nhật hôm sau cũng vậy. Chỉ Tú cảm thấy có cái
gì là lạ trong đầu, không đau nhưng là lạ. Một cảm giác khó tả.
Vốn cẩn thận, lại là bác sĩ, ngay
hôm sau anh đến nhờ đồng nghiệp về não khám. Không thấy gì khác thường. Cái cảm
giác là lạ trong đầu kia cũng mất dần. Anh yên tâm và thôi không nghĩ đến
chuyện này nữa.
Một tuần sau, cũng vào thứ bảy,
Tú lại ngồi chơi với con trên giường. Tất nhiên chiếc kìm đã được giấu kỹ.
Thằng bé hí húi xếp hình. Anh nhìn nó, bâng quơ nghĩ nhảy cóc hết chuyện này
đến chuyện khác. Bất chợt anh thấy người thằng con nhòe ra, và trong khi nó vẫn
ngồi đấy xếp hình thì có một hình khác của nó, mờ hơn, hơi run run, từ từ đứng
dậy, nhăn nhó kêu: “Bố ơi, con ị ra quần!”
Tú dụi mắt. “Quái, mình dạo này
thế nào ấy. Cứ nhìn gà hóa cuốc!” Anh thầm nghĩ rồi vớ tờ báo đọc. Thằng con
vẫn say mê chơi trò của nó. Một chốc sau nó đứng dậy, nhăn nhó kêu: “Bố ơi, con
ị ra quần!” Cả tiếng nói và điệu y bộ hệt như anh nhìn thấy lúc nãy!
Anh không có nhiều thời gian để
ngạc nhiên vì phải vội giải quyết hậu quả của thằng con dẫu đã lớn mà vẫn mắc
cái chứng quái ác này. Sau đó thì anh ngồi thừ hồi lâu, cố lý giải chuyện kỳ lạ
vừa xẩy ra.
“Sao đần mặt ra thế?” vợ anh hỏi.
“Không, không sao cả.”
Anh đáp và chăm chú nhìn vợ, lúc
này đang cúi xuống giúp con một hình khó xếp. Anh giật mình khi thấy vợ anh
tách làm hai, một ngồi yên trên giường, một bắt đầu đứng dậy, đi xuống bếp
chuẩn bị bữa ăn. Anh nhìn nữa thì thấy cô suýt cắt phải tay khi gọt khoai tây,
rồi xào nấu, bê thức ăn lên bàn, gọi bố con vào ăn. Anh thấy mình đang uể oải
nhai, còn thằng bé thì vẫn lấy thìa gõ coong coong vào bát như mọi ngày. Tò mò,
anh tiếp tục chăm chú nhìn tiếp thì thấy vợ rửa bát, đi vào nhà tắm, cởi quần
áo, vừa lắc đầu vừa ngắm nghía thân hình đã bắt đầu mập ra trong gương...
Anh lặng lẽ bỏ vào phòng, chốt
cửa rồi ngã vật xuống giường. “Đầu mình hình như có gì không ổn,” anh lo lắng
nghĩ và lờ mờ liên hệ nó với cú đập bằng kìm hôm nọ. Là bác sĩ, anh biết rõ hậu
quả các cú đập như thế. Sách báo vẫn hay nói về những khả năng kỳ diệu của một
số người bất ngờ bị chấn thương sọ não. Anh đã đọc cuốn “Vùng Chết” của nhà văn
Mỹ nổi tiếng Stephan King kể chuyện nhân vật chính, John, ngày nhỏ chơi khúc
côn cầu bị bạn đánh đúng đầu, sau đó bỗng có khả năng nhìn thấy cả quá khứ lẫn
tương lai. Vừa rồi anh nhìn thấy trước những gì vợ con anh sắp làm. Liệu có
biết được quá khứ như John không? Anh có thể nhìn thấy tương lai xa đến đâu và
liệu cái khả năng kỳ quặc này sẽ mang lại gì cho anh, điều dữ hay điều lành?
Phòng bên có tiếng nước chảy. Vợ
anh tắm. Anh hình dung thấy vợ đang lắc đầu nhìn cơ thể trần truồng của mình
hệt như anh đã thấy trước đó. Cả bữa cơm cũng diễn ra đúng như vậy. Anh cố đoán
chiều nay vợ anh sẽ làm gì, nhưng không thể. Anh cũng không biết tối nay thằng
con chịu ngủ yên hay quấy nghịch. Anh đến đứng trước gương, chăm chú nhìn mình
để biết ba mươi phút, một tiếng nữa chuyện gì sẽ xẩy ra với anh. Nhưng nhìn
mãi, anh vẫn không thấy gì. Phép màu mất hiệu nghiệm. Bán tín bán nghi, anh
uống một lúc hai viên thuốc ngủ rồi lên giường.
Sáng hôm sau, ngồi ăn sáng, Tú
chăm chú nhìn vợ hồi lâu, đỏ bừng mặt.
“Anh sao thế?”
“Không sao cả”, anh lúng túng nói
rồi cúi xuống đĩa thức ăn. Anh vừa thấy vợ ngày hôm ấy ngồi suốt buổi sáng ở
văn phòng với đống giấy tờ, đến giờ nghỉ trưa cô đi ra ngoài, ngồi lên chiếc xe
của một người đàn ông đang đợi (tiếc không nhìn rõ mặt), rồi hai người đèo nhau
đến một ngôi nhà như khách sạn vì có cô gái áo đỏ ngồi sau quầy lễ tân. Họ vào
phòng, bắt đầu thong thả cởi quần áo... Thong thả chứ không vội, chứng tỏ họ
quen làm điều này.
Anh đứng dậy, phóng xe đi làm,
đầu óc nóng bừng như đang lên cơn sốt. Vậy là Nhàn, người vợ anh yêu và tin
tưởng nhường ấy đã phản bội anh. Mà chắc không phải mới bắt đầu. Lấy nhau năm
năm nay, nói chung họ sống bình thường, mọi việc suôn sẻ. Anh chưa một lần chạm
tới người đàn bà nào khác ngoài vợ, cả trong ý nghĩ cũng không. Tất nhiên anh
cũng không nghĩ vợ có thể làm khác. Cô ấy là người tốt, khéo lo toan, thương
yêu chồng con, vậy mà... Là người hiền lành, anh không thể và không muốn làm ầm
ĩ. Khả năng kỳ diệu mới giúp anh phát
hiện một sự thật đau đớn, và bằng cách ấy lấy đi ở anh cái hạnh phúc thư thái
của một người chồng không biết bị vợ cắm sừng. Như thế là tốt hay xấu hơn?
Ở bệnh viện hôm ấy may anh không
có ca mổ nào. Vốn quen với cuộc sống bằng phẳng ít sự cố, lại bản tính hay rụt
rè thụ động nên anh thực sự không biết phải xử sự thế nào trong một tình huống
bất ngờ và đầy kịch tính thế này. Đến giờ nghỉ trưa, anh bấm số điện thoại di
động của vợ. Máy bị tắt. Sợ nghi oan cho người khác, anh vội đi tới cơ quan vợ.
Người ta bảo cô đi ăn trưa. Anh ngồi chờ trong quán nước ở góc phố gần đấy. Một
tiếng sau vợ anh về, đến gần cơ quan thì xuống đi bộ. Anh không nhìn thấy mặt
gã đàn ông, mà cũng chẳng muốn nhìn. Hắn mặc chiếc sơ-mi xanh da trời chứ không
sẫm màu như anh thấy buổi sáng bên bàn ăn. Chờ vợ vào hẳn trong nhà, anh mới
buồn bã quay lại bệnh viện.
“Trưa nay anh gọi điện cho em
nhưng không được”, anh nói khi họ gặp nhau vào buổi tối.
“Trưa nay à? Lúc mấy giờ?”
“Mười hai rưỡi”.
Chị vợ nhìn chồng vẻ thăm dò rồi
thản nhiên đáp:
“À, lúc ấy em ngủ trong phòng làm
việc. Tắt máy để khỏi bị quấy rầy. Có chuyện gì vậy?”
“Không,
không có gì đặc biệt. Anh chỉ muốn rủ em đi ăn đâu đó”. Anh đáp, mặt thoáng đỏ
vì không quen nói dối. Trong khi cô vợ chẳng hề bối rối chút nào. Anh thấy ghê
tởm sự dối trá thản nhiên ấy, nhưng không nói gì thêm.
Hôm sau, trước lúc đi làm, anh
bảo vợ:
“Em nên đội mũ bảo hiểm. Bây giờ
bọn thanh niên đi ẩu lắm”.
“Vì sao?”
“Vì chốc nữa em sẽ ngã xe. Ở Ngã
năm Lò Đúc. Một thằng choai choai tông vào em rồi bỏ chạy. Không nguy hiểm lắm
nhưng cứ đội mũ bảo hiểm vào, ngộ nhỡ đầu va xuống đường”.
“Sao anh biết chính xác như vậy?
“ cô vợ ngạc nhiên hỏi. “Mấy hôm nay em thấy anh khang khác thế nào. Anh nói kỳ
lắm, cứ như biết trước hết mọi chuyện”.
Anh định bảo “Vâng, đúng thế”,
nhưng lại thôi.
“Dẫu sao cũng nên cẩn thận”, anh
nói thêm khi vợ ngồi lên xe, tất nhiên không chịu đội mũ bảo hiểm.
Tối hôm ấy, cơm nước và cho con
ngủ xong, chị vợ bảo có chuyện muốn nói với anh, mặt nghiêm túc và lo lắng.
“Em quả không sao hiểu nổi! - Cô
vào đề luôn, giọng run run và to hơn bình thường. - Sáng nay đúng ở Ngã năm Lò
Đúc em ngã xe. May chỉ sây sát đôi chút. Đúng một thằng choai choai tông vào em
rồi bỏ chạy như anh nói. Thế là thế nào? Anh giải thích cho em biết đi? Anh là
ma hay sao mà biết trước những gì sẽ xẩy ra?
“Ma thì không, nhưng quả anh có
cái khả năng ấy”, Tú thành thật đáp.
“Không, như thế thì thật phi lý.
Xưa nay anh cũng chỉ bình thường như em, như tất cả mọi người. Làm sao bỗng
nhiên anh có được khả năng kỳ cục ấy?”
Tú bình tĩnh thuật lại việc anh
bị thằng con đánh kìm vào đầu và giải thích những hậu quả có thể có của nó theo
góc độ y học. Chị vợ im lặng ngồi nghe, mặt tái nhợt.
“Và hôm qua anh gọi điện cho em
cũng vì...”
“Vâng, anh đã biết hết, thấy
hết”.
“Trời ơi, thế thì kinh khủng quá,
kinh khủng quá!” Cô thốt lên, hai tay ôm mặt.
Một tuần sau hai người cùng ký
đơn li dị. Chính chị vợ chủ động yêu cầu, sau khi thú thật với chồng mối quan
hệ của mình với người đàn ông kia. “Vả lại, em không thể tiếp tục sống với một
người có cái khả năng kỳ cục và tai hại như anh. Anh là người tốt. Em có lỗi.
Nhưng sau tất cả những chuyện này chúng ta không thể sống chung với nhau được nữa.
Cả em và anh sẽ cảm thấy nặng nề”.
“Nhưng anh sẽ không nhìn em để
đoán biết những việc em làm. Nếu em còn thực sự yêu anh thì hãy cắt đứt với
người kia. Ta sẽ lại tiếp tục sống hạnh phúc như trước”, anh nhẹ nhàng nói.
“Hắn là một thằng vô lại, em biết
và sẽ không bao giờ lấy hắn. Nhưng em thích gần hắn. Ít ra hắn là thằng đàn ông
thực thụ với cá tính mạnh mẽ, quyết liệt. Còn anh thì ngược lại, anh hay mặc
cảm, rụt rè như một mụ đàn bà ngu ngốc. Cái tên của anh cũng tên đàn bà. Hơn
thế, anh quá tốt, quá trung thực, quá chỉn chu, đến mức nhiều khi em thấy nghẹt
thở. Anh có thể hạnh phúc với em, nhưng em thì không. Vậy nếu anh muốn em hạnh
phúc như vẫn nói, thì chúng ta hãy chia tay nhau. Anh đồng ý chứ?”
Tú ngồi im một lúc rồi gật đầu.
Thế là anh bắt đầu sống một mình. Chị vợ đưa con về ở với bố mẹ. Bên ấy nhà
rộng, chỉ còn hai ông bà già, trước họ cố bắt anh ở rể nhưng không được. Họ
chia tay thật nhẹ nhàng. Không một lời to tiếng, không tranh chấp của cải,
không cả suy tính thiệt hơn. Hàng xóm ai cũng trố mắt nhìn, không hiểu chuyện
gì đang xẩy ra.
Sau đó là những ngày buồn bã, gần
như tuyệt vọng đối với Tú. Chính anh cũng ngơ ngác không hiểu sao bỗng chốc mọi
việc lại thay đổi nhanh chóng như vậy. Sống độc thân, anh có nhiều thời gian
hơn để suy ngẫm và kiểm tra cái khả năng kỳ quái kia mà cho đến nay chỉ anh và
vợ anh biết. Sau nhiều lần thử, anh nhận thấy nó không có hiệu lực với anh.
Nghĩa là giả sử chỉ mươi phút nữa anh bị ô tô cán chết, thì anh cũng bất lực
không nhìn thấy trước điều đó. Anh chỉ có thể biết trước chuyện của người khác,
với điều kiện phải luôn nhìn vào người ấy. Cùng với thời gian, hình ảnh sẽ trở
nên mờ dần, muốn thấy rõ hơn, lâu hơn, phải rất cố tập trung, là điều làm anh
đau buốt trong đầu. Nhìn ai đó năm phút, anh biết chuyện gì sẽ xẩy ra với người
ấy sau nửa ngày, mười phút - sau một ngày, cứ thế nhân lên, nhưng càng về sau
hình ảnh càng mờ và anh càng mệt mỏi, đau đớn.
Thoạt đầu anh còn háo hức với các
khám phá của mình, nhưng rồi chúng nhanh chóng làm anh buồn, thậm chí hoảng sợ.
Có thể do ngẫu nhiên, không hiểu sao anh chỉ thấy toàn những điều chẳng mấy tốt
đẹp. Một cô gái rất xinh, ăn diện đúng mốt đứng cạnh Nhà Hát Lớn, chỉ mười phút
sau trở thành kẻ ăn cắp hạ tiện ở Tràng Tiền Plaza, lén lút nhét mấy thỏi son
vào chỗ kín rồi đi ra với vẻ đẹp ngây thơ trâng tráo. Một quan chức nhà nước
oai nghiêm lớn tiếng chống tham nhũng ở hội nghị, thế mà tối lại hẹn mấy bác
dân quê đến nhà riêng đưa hối lộ để hắn chạy cho con họ một suất đi lao động
nước ngoài. Những cô điếm đứng co ro bên đường giữa trời mưa gió, gần sáng trở
về không có tiền cho bọn ma cô, bị chúng đánh thâm tím mặt mày. Một đứa bé mặc
đồng phục nhà trường, cổ quàng khăn đỏ đạp xe đi giữa phố trông thật dễ thương
thế mà mấy phút sau lại chui vào nhà xí công cộng để tiêm một mũi rồi đạp xe đi
tiếp với vẻ mặt còn hồng hào, dễ thương hơn... Tất cả những điều ấy trước đây
anh không thấy vì chúng được che giấu, bởi vậy anh nhìn đời lạc quan. Bây giờ
thì khác hẳn. Bỗng nhiên anh phải đối mặt với bao điều bỉ ổi của cuộc đời. Như những
người trung thực, chất phác và hiền lành khác, anh cảm thấy thật buồn, đến mức
không dám nhìn ai lâu, nhất là bạn bè và người thân. Anh sợ có thể phải thất
vọng vì họ.
Ở bệnh viện, các phát hiện của
anh cũng kinh khủng không kém nhưng đáng buồn hơn, vì đó là cái xấu của những
người anh từng cùng làm việc và từng kính phục. Hóa ra ông trưởng khoa chỉ tốt
và đạo đức bề ngoài. Trong vòng một tuần Tú thấy ông lôi một nữ bác sĩ trẻ (nổi
tiếng đoan trang) và một nữ sinh thực tập vào phòng làm việc của ông. Cả hai
lần đều có cảnh cởi quần áo. Đến đây anh không dám nhìn tiếp để biết chuyện gì
xẩy ra sau đó. Anh ghê tởm vì có quá nhiều cảnh cởi quần áo. Anh nhìn thấy
không ít đồng nghiệp ăn tiền bệnh nhân, quát tháo, hạch sách hoặc thông đồng
với các dược sĩ để bán thuốc gấp đôi giá qui định. Có người lúc khám còn sờ cả
chỗ kín của họ.
Anh thầm ngạc nhiên sao xưa nay
không nhìn thấy, không nghĩ gì về chuyện này. Anh thực sự bị sốc, mặt ngơ ngác
như người mất hồn, khiến mọi người nghĩ anh đang ốm. Biết không thể phẫu thuật
trong trạng thái như thế, anh đã nhận lời ngay khi trưởng khoa gợi ý có muốn
nghỉ phép kéo dài một thời gian không. Trước khi rời bệnh viện, anh moi hết các
túi được hơn trăm nghìn đồng, đưa cho một bà mẹ trẻ nông thôn có thằng bé ba
tuổi chờ truyền máu nhưng hết tiền, định tối đến ra bến xe bán thân cứu con.
Tú đóng cửa nằm yên trong nhà
suốt mấy ngày, suy ngẫm về những sự thật chua xót mà cái khả năng nhìn thấy
trước của anh mang lại. Chỉ toàn tai họa. Anh từng sống hạnh phúc với vợ con,
đồng nghiệp, mọi chuyện suôn sẻ, thế mà bây giờ phải nằm đây một mình, không
việc làm, sắp tới không cả tiền để sống. Anh sực nhớ câu chuyện cổ tích ngày
nhỏ về chiếc gương thần biết tố giác những người nói dối. Nhưng rồi tất cả mọi
người, kể cả người trung thực và người phát minh ra cái gương kỳ diệu ấy, đã
nhất trí đập vỡ nó. Phải chăng trong cuộc sống, sự dối trá cũng cần như sự
thật? Liệu xã hội sẽ thế nào khi hoàn toàn không có người nói dối, không có tội
ác, đói nghèo, không có những bà vợ, ông chồng lén lút ngoại tình? Những câu
hỏi ấy quả rất khó và anh không thể tìm được câu trả lời.
Sao không thử dùng chiếc gương
thần kia, cả khả năng kỳ diệu này của anh nữa, vào những mục đích hữu ích, chỉ
hữu ích mà thôi? Anh đang cần tiền. Liệu nó có thể giúp anh kiếm tiền được
không, tất nhiên chỉ bằng cách lương thiện? Cá cược và số đề bị gạt ngay từ đầu
vì thực chất đó là trò cờ bạc. Vậy chơi xổ số chăng, xổ số hợp pháp của nhà
nước? Cũng không được. Anh nhìn thấy trước con số trúng giải đặc biệt một trăm
triệu đồng, nhưng sau đó lại thấy một ông già nghèo khổ run run bước lên nhận
tiền trong tiếng vỗ tay vang dội. Ông cụ sung sướng đến suýt ngất, đôi má nhăn
nheo ướt đẫm nước mắt. Không, anh không thể đang tâm cướp đi vận may của người
khác. Anh có thể đi lùng mua chiếc vé có con số may mắn kia và trở thành giàu,
bề ngoài có vẻ chính đáng, nhưng thực chất cũng là một trò gian lận.
Hay giúp công an phát hiện tội
phạm? Giúp các hãng hàng không biết trước tai nạn? Giúp thế giới ngăn chặn
khủng bố? Những ý tưởng thật cao đẹp, nhưng làm thế nào thực hiện được? Chắc
chắn người ta sẽ nhốt anh vào nhà thương điên nếu tự anh đến đề nghị hợp tác.
Cuối cùng anh quyết định giúp những người đang sống quanh mình. Báo trước cho
họ những tai nạn sắp xẩy ra chẳng hạn. Anh sẽ không nhìn, không biết, không báo
những việc xấu của người thân họ. Chỉ giúp những điều tốt thôi. Tạm thời trước
mắt chỉ vậy.
*
“Hôm nay bác đừng cho thằng Thắng
đi trượt pa-tanh. Nó sẽ ngã gãy chân đấy.” Anh bảo bà hàng xóm khi đang ngồi
uống nước ngoài sân. Hai nhà được ngăn bằng bờ rào khung sắt có lưới mắt cáo.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng, trước giờ đi làm họ vẫn trao đổi với nhau đôi câu
chào hỏi.
Bà kia ngạc nhiên:
“Sao anh biết ?”
“À, tôi linh cảm thấy thế. Dẫu
sao, xin bà hãy nghe và đừng cho thằng Thắng đi.”.
Tuy không tin, nhưng vốn mê tín,
bà hàng xóm vẫn lặng lẽ giấu đôi giày của con trai. Bà nghĩ bà đã có thêm một
bằng chứng khẳng định lời đồn của nhiều người, rằng “dạo này anh Tú thế nào ấy,
cứ như người mất hồn. Không khéo lại mắc bệnh tâm thần. Tội nghiệp.”
Một hàng xóm khác - ông này làm
nghề thầu xây dựng thuộc loại ít chữ nhiều tiền - thì thẳng thừng đốp luôn khi
anh bảo ông ta hôm nay cẩn thận kẻo dàn giáo đổ:
“Cậu chỉ được cái nói gở! Tôi mà
có chuyện gì, cậu phải chịu trách nhiệm đấy!” Rồi phóng xe đi.
Tối đến thấy có người đèo ông ta
về. Quả ông ta có leo lên dàn giáo, và nó đã đổ, may chỉ sái chân. “Cái thằng
bác sĩ ấy điên thật rồi, - ông ta bảo một hàng xóm khác. Chẳng trách bị vợ bỏ,
bệnh viện bắt thôi việc.” Thế là dần dần người ta tin Tú điên. Chí ít cũng tâm
thần nặng. Tuy nhiên, từ đấy không hiểu sao trong xóm ai cũng nghe theo lời dặn
của thằng điên ấy, và nhờ vậy tránh được tai họa.
Một hôm, ở quán cơm bụi, có cô
gái ngồi cạnh anh, ăn xong đang thanh toán tiền với bà chủ. Anh giật mình thấy
cô lái xe đi theo bờ đê vắng người rồi bất ngờ bị hai thanh niên đèo nhau ép
vào vệ đường. Tiếp đến là tiếng kêu cứu, tiếng quát của một trong hai thằng ấy.
Còn thằng kia thì anh thấy cố dằng chiếc túi cô ôm chặt trước ngực mãi không
được, bèn giơ con dao sắc nhọn đâm cô.
“Này cô, - anh vội nói. - Cô sắp
bị cướp đấy. Chúng còn giết cô. Cô đừng đi nữa. Xin cô hãy tin tôi!”
Cô kia nhìn anh, vẻ nghi ngờ, tư
lự một lúc rồi lên xe phóng đi.
“Đừng, tôi nói thật mà. Đừng đi!
Nguy hiểm lắm, xin cô đừng đi!”
Tú liền vội vàng đặt bát đũa
xuống, lên xe đuổi theo trước con mắt ngạc nhiên của những người xung quanh.
Đấy là phản xạ tự nhiên chứ lúc ấy anh không biết đi theo để làm gì. Anh giữ
khoảng cách khá xa, cốt không mất hút cô kia. Qua cầu Chương Dương, cô gái rẽ trái
theo đường Gia Thượng. Lúc ấy trời nhá nhem tối. Đến đoạn gần Cầu Đuống thì bắt
đầu xẩy ra cái việc anh đã nhìn thấy trước...
*
Hôm sau báo đưa tin có hai người
bị bọn cướp giết lấy tiền và xe ở địa bàn Gia Lâm. Một trong hai người ấy là
Tú. Quá lo lắng cho tính mạng người khác, con người lương thiện ấy đã không có
thời gian nhìn thêm mấy giây để thấy cảnh chính anh sẽ bị giết. Cũng có thể
nhìn thấy nhưng anh đã không coi trọng điều đó.
Hà
Nội, 15. 6. 2002
ĐỔI ĐỜI
Như ta biết, trong khoa học đôi
khi các sự việc tình cờ lại giúp con người có được những phát minh vĩ đại. Xin
hãy nhớ quả táo của Niutơn, cuộc chạy trần truồng của Acsimet từ bờ sông về nhà
và nhiều thí dụ khác. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta ai cũng từng gặp
những trường hợp tương tự, khác chăng chỉ ở qui mô và ý nghĩa. Và đây là trường
hợp của Cái Tý. Một phát hiện giúp nó đổi đời, từ con bé nhà quê chân đất thành
“bà quí phái” lọc lõi chốn đô thành, nhiều tiền, nhiều tình và do vậy nhiều cả
quyền.
Năm mười sáu tuổi, nó được đưa ra
Hà Nội làm ô-xin cho một gia đình khá giả. Chỉ mấy ngày sau, ông chủ, năm mươi
tuổi, một người có học và vẻ ngoài rất tử tế, giở trò tán tỉnh rồi cưỡng đoạt
nó. Nó sợ tất nhiên, nhưng khốn nỗi nó cũng thích. Thích nhất là sau đó được cho
những một trăm nghìn đồng, nghĩa là nửa tháng lương. Không bị quả táo ngẫu
nhiên rơi đúng đầu, có thể Niutơn đã chẳng phát minh được định luật vạn vật hấp
dẫn. Không bị ông chủ giở trò, tất nhiên nó không biết được nó đang có cái gì
và phải khai thác cái ấy như thế nào. Một phát hiện tuyệt vời, có thể nói vĩ
đại. Mà khi đã thấy đường đi, biết cách làm thì cứ thế thẳng tiến. Mỗi lần một
trăm nghìn đồng ngon ơ, lại còn được thích. Sau đó tuần nào nó cũng đều đều
nhận vài lần một trăm nghìn như thế. Số tiền này nó giấu riêng rồi đem gửi nơi
khác, chẳng mấy chốc lên tới tiền triệu, rồi nhiều triệu.
Một hôm “xong việc”, chỉ đùa thôi
chứ chẳng hề có chủ định gì, nó nói: “Cháu có thai!” Ông kia sợ tái mặt, lúc
đầu ngồi thần người rồi cuống quýt căn vặn, cuống quýt gợi ý cách “giải quyết”.
Nó bảo: “Không. Cháu muốn để nuôi!” Cũng buột miệng nói cho vui. Nhưng khi thấy
ông chủ hốt hoảng đến líu cả lưỡi thì nó bắt đầu nghĩ. Mà nó nghĩ nhanh lắm, vì
nó vốn là đứa thông minh, hay gọi là ranh ma cũng được. Nó nghĩ một khi việc ấy
đáng sợ đến thế đối với ông chủ thì tại sao không nhân dịp này kiếm một vố. Một
vố lớn chứ không kiểu cò con mỗi lần một trăm nghìn. Rồi nó giả vờ đau khổ và
khóc. Điệu bộ và tiếng khóc còn vụng, vì đây mới là bước chập chững đầu tiên
trên con đường nghệ thuật chài đàn ông moi tiền rất thành công sau này. Tuy
nhiên, sự vụng về ấy cũng đủ bắt ông kia móc túi đưa luôn năm triệu để nó chịu
“nạo thai”. Nó lấy làm tiếc không đòi luôn mười triệu. Đến bệnh viện, nó dúi
cho bà bác sĩ hai mươi nghìn rồi lại leo lên xe ông chủ về nhà. “Người Hà Nội
buồn cười thật, - nó nghĩ. - Ở quê mà thế thì được hai mét vải lụa đã mừng rơn,
không khéo còn bị đánh, bắt đi nạo”.
Nó ngồi trước gương, suy nghĩ rất
lung về việc vì sao có thể kiếm được nhiều tiền một cách dễ dàng như vậy. Bỗng
nhiên nó phát hiện thêm một điều bất ngờ nữa: Nó xinh! Trời ơi, phải nói là rất
xinh! Ông trời bắt đói ăn, làm lụng vất vả từ bé, nay bù lại, ban cho nó một
ngoại hình có thể gọi tuyệt mỹ, lại được hoàn thiện thêm nhờ một năm làm đàn bà
và ăn ngon. Mặc cũng đẹp hơn, dẫu chỉ quần áo thừa của bà chủ. Người nó cao,
tròn lẳn với những đường cong thật khêu gợi; da trắng hồng, khuôn mặt xinh đẹp
và thật dễ thương với vẻ thơ ngây hiếm có, thậm chí cả vẻ có học, gia giáo kiểu
con nhà lành. Chút việc còn lại phải làm là học cách ăn nói, đi đứng, mồi chài
và đưa con mồi vào bẫy. Một việc không khó với nó.
Nó sống thêm một thời gian nữa với ông chủ mà thực chất
bây giờ đã thành ô-xin của nó, đòi mỗi lần hai trăm chứ không phải một trăm
nghìn như trước. Mê sắc đẹp và cách chiều chuộng của nó, ông kia đành chấp
nhận. Cuối cùng, khi cảm thấy đủ lông đủ cánh và thời điểm chín muồi, nó quyết
định “ra đời làm ăn lớn”. Cái chức ô-xin và khoản thu nhập kia đã không còn làm
nó hài lòng.
Thế là một hôm nó tống tiền ông
chủ bằng cách dọa mách bà chủ rằng ông đã làm hại cả đời con gái trinh trắng
của nó. Tất nhiên nó lại thành công, cầm thêm năm triệu đồng nữa rồi thuê xe ôm
dọn đến căn hộ đầy đủ đồ đạc nó mua sẵn trước đó mấy tháng. Ông kia còn tiếp
tục đưa tiền cho nó bằng cách thỉnh thoảng đến thăm, bây giờ đã ba trăm nghìn
đồng mỗi lần nhưng nó chẳng quan tâm nhiều tới ông, vì người sẵn sàng chịu chơi
giá ấy không ít. Tự lúc nào không biết, nó đã lên hàng “thượng lưu”, thậm chí
“siêu thượng lưu”. Ý thức được giá trị bản thân, cả về nhan sắc và nghệ thuật
mồi chài, nó muốn một cái gì đấy sang hơn, cao hơn và phải nhiều tiền hơn.
Cái ấy chỉ có thể có được ở giới
giám đốc loại cỡ tiêu tiền chùa. Tiếp cận đối tượng này không khó. Nó thường
nhắm trước con mồi, tìm hiểu kỹ tính tình, khả năng tài chính rồi xin vào làm
thư ký, tất nhiên với vẻ ngây thơ, bẽn lẽn và gia giáo hết mực. Chưa hề có vị
nào từ chối. Còn sau đó rút ruột ông ta, hay đúng hơn, rút ruột nhà nước thì nó
chỉ cho là chuyện vặt. Trong năm năm kể từ ngày thôi chức ô-xin, nó kịp “làm
thư ký riêng’ cho ba vị, kiếm được ba xe máy xịn (nó có thể moi được cả ô tô
nhưng không muốn), cộng với hai căn hộ, ba chuyến du lịch nước ngoài và vô số
quà cáp cùng một tài khoản “nho nhỏ” ở ngân hàng. Một vị tỏ ý sẵn sàng bỏ vợ
cưới nó nhưng nó chẳng dại. Vốn còn nhiều, cơ hội làm ăn chưa hết, tội gì phải
trói mình với ai. Khi nào cần mới rút, mà nó biết rút đúng lúc và rất êm, nhờ
biệt tài đoán gần như chính xác trăm phần trăm lúc nào thủ trưởng sẽ sụp đổ.
*
Cái Tý bây giờ đã là Diễm Hạnh
(cái tên tự nó đặt sau khi quyết định ra đời “hành nghề” độc lập, chắc hàm ý
mình là người kiều diễm và hạnh phúc). Cô Diễm Hạnh, bà Diễm Hạnh, con Diễm
Hạnh, mụ Diễm Hạnh. Giới mày râu thường gọi là “nàng”. Ta cũng tạm gọi “nàng”
cho tiện, vì một người xinh đẹp, giàu có với vẻ ngoài quí phái như thế mà gọi
khác e bị coi là nhỏ nhen.
Mấy hôm nay nàng vừa “cắt” một
ông. Ông thứ tư. Cái ghế ông này còn lâu mới đổ nhưng nàng ghét vì mụ vợ tỏ ra
ghê gớm, còn ông thì keo kiệt đến mức vừa rồi không chịu bỏ mấy nghìn đô mua
cho nàng chiếc nhẫn kim cương. Vả lại, nàng phục vụ ông và lấy của ông chừng ấy
cũng có thể coi là đủ. Vậy giờ là lúc phải săn con mồi mới. Nhưng nàng không
vội. Nàng thừa điều kiện để tự cho phép mình nghỉ ngơi chút ít, cả thể xác lẫn
tâm hồn. Kia, nàng vừa bước ra khỏi tắc-xi (nàng ít khi đi xe máy), và đang thơ
thẩn dạo quanh Bờ Hồ. Nàng đẹp một cách sang trọng, kín đáo và rất hợp mốt. Đố
ai dám nghĩ khác rằng nàng không phải con nhà quyền quí và trong sạch đến từng
bước đi, ý nghĩ. Nàng thong thả, kiều diễm lướt qua, thích thú với cảm giác
biết bao con mắt ngưỡng mộ, thèm thuồng đang dán lên người nàng.
Nàng ghé vào Nhà Thủy Tạ, gọi một
ly kem ngoại, châm thuốc hút rồi lơ đãng nhìn ra mặt hồ buổi xế chiều thơ mộng.
Tất cả đàn ông có mặt ở cửa hàng quay sang nhìn nàng, trong đó có một người mới
vào, chỉ sau nàng khoảng dăm phút. Người này ngồi xuống chiếc bàn bên, cũng gọi
một ly kem, châm thuốc và cũng bâng quơ nhìn ra hồ. Kinh nghiệm cho biết điều này
không ngẫu nhiên, nhưng nàng không thèm nhìn sang lần nào, dù vẫn thấy hết,
nghe hết. Một biệt tài chỉ những người siêu hạng như nàng mới có.
Đó là một người đàn ông khó đoán
tuổi nhưng chắc chưa đến năm mươi, mặc toàn đồ xịn, đang cố gắng một cách vụng
về để tỏ ra vẻ thạo đời. Những dấu hiệu ban đầu tốt đẹp. Để xem trong túi có
đồng nào không đã. Khi cô nhân viên bê ly kem ra, ông ta bo một tờ mười đô còn
mới. “Khá. Chịu chơi đấy!” - Nàng nghĩ, biết chắc tờ mười đô được chi hào phóng
không vì cô kia mà vì nàng. Chỉ lúc này nàng mới ban cho ông ta một cái nhìn
vừa cao ngạo vừa e lệ.
Ông này có khuôn mặt dễ coi, nước
da tai tái nhưng may không sần sùi. Mặc dù ít quan tâm đến hình thức con mồi,
điều này cũng làm nàng dễ chịu. Đôi mắt ông thật đặc biệt, đẹp, vừa sâu, buồn,
đồng thời vừa có ánh đam mê mãnh liệt. Suốt từ nãy đến giờ đôi mắt ấy luôn nhìn
nàng, chủ yếu đoạn từ ngực đến đầu gối, nhìn chằm chằm, khiến một người như
nàng cũng thoáng chút ngượng ngùng. Bản thân cái nhìn ấy chẳng có gì đáng nói.
Xưa nay đàn ông vẫn chiêm ngưỡng nàng cách ấy. Có điều nàng thấy lạ là đôi mắt
ông giống hệt mắt một cụ già bảy, tám mươi tuổi nàng gặp hôm kia khi cùng đi
thang máy lên tầng hai Tràng Tiền Plaza. Ông cụ cũng nhìn nàng đúng như vậy -
sâu, buồn, rực lửa, và cũng chỉ từ ngực tới đầu gối. “Chết đến đít rồi mà còn
dê!” lúc ấy nàng nghĩ, mặc dù không ghét cụ chút nào. Đàn ông có “dê” thì nàng
mới sống được. Thậm chí cả khuôn mặt hai người cũng có cái gì giông giống. Buồn
cười thật, không hiểu sao nhìn ông này, nàng cứ vẩn vơ nghĩ tới cụ già lẩm cẩm
đó. Sự quan tâm của nàng tới “con mồi” gia tăng hẳn khi một thanh niên bước vào
hỏi ông kia còn phải chờ lâu nữa không để đem ô tô đến bãi gửi. Ông kia bảo còn
lâu.
Cân nhắc thêm một chốc, nàng
quyết định hành động. Nàng liếc sang bàn bên và...
Nửa giờ sau, nói cười như quen
nhau đã lâu, hai người đi bộ tới khách sạn Phú Gia ăn tối. Ăn xong, xe đưa nàng
về nhà ông. Rồi một tuần sau, khoảng thời gian cần thiết để không bị chê là quá
dễ dãi, nàng dọn đến ở hẳn với ông. Mọi cái đều tốt đẹp. Mọi cái đều đúng như
nàng mong muốn. Chỉ tiếc ngôi nhà lớn sang trọng họ đang ở không phải của ông
mà nhà thuê, vì theo lời ông, ông là giám đốc một công ty tư nhân ở miền nam có
mối làm ăn rộng nên ít khi được ở lâu một chỗ. Về nhiều phương diện, có thể nói
đây là con mồi “ngon nhất” của nàng từ trước đến nay. Li dị vợ, nhiều tiền, dễ
bảo, mỗi tuần chỉ về nhà một hoặc hai lần. Hơn thế “lão” lại rất yêu, có thể
nói si mê nàng một cách chân thành. Điều này lúc đầu có làm nàng chút ít bối
rối vì nó nằm ngoài kế hoạch, nhưng sau nghĩ kỹ thấy cũng chẳng sao. Cùng lắm
có thể dừng lại ở bến này và lấy “lão” làm chồng nếu “lão” thực sự giàu. Còn
trong khi chưa chắc điều ấy thì nàng phải tranh thủ moi càng nhiều càng tốt.
Khoản này thì nàng đã thành nghề điêu luyện.
Sống với ông chưa đầy một năm,
nàng đã kịp moi được khối thứ, khối tiền. Có lẽ ông giàu thật. Ông chi tiền
thoải mái, có khi một lần mấy chục triệu, vì ông thực sự yêu và không thể sống
thiếu nàng. Thậm chí không hỏi nàng cần tiền làm gì. Chỉ thỉnh thoáng, khi phải
cho nàng một khoản lớn, ông cười, nói: “Em tiêu tiền vậy thì anh chỉ chóng chết
mà thôi!” Nàng không hiểu và không muốn hiểu ông nói thế nghĩa là gì, thường
chỉ ngăn lại bằng một nụ hôn khêu gợi vào cái miệng đang kêu chết ấy cùng vô số
những cử chỉ âu yếm khác. Tuần trước nàng đánh “quả” lớn nhất và quyết định
nhất, là xin ông mua ngôi nhà họ đang thuê, tất nhiên đứng tên nàng. Ông chững
lại mấy giây, rồi buồn rầu đáp: “Em đang xô anh đến chỗ chết đấy!..” Nàng đã
chuẩn bị để nghe câu ấy, cũng như các ngón đòn nàng sẽ tấn công sau đó. Cuối
cùng thì nàng cũng đạt được mục đích, chỉ ông hơi buồn, thậm chí nàng thấy như
ông gầy sọp và già hẳn đi. Nàng cũng phần nào ái ngại cho ông, nhưng cuối cùng
lại nghĩ: “Cho chết. Dại gái cho chết, anh yêu ạ”.
Hôm nay, như để bù cho món quà
hậu hĩnh ấy, nàng tỏ ra yêu thương ông hơn hẳn mọi lần. Đêm khuya, bốn xung
quanh yên tĩnh. Hình như ông đã ngủ, hơi thở nhẹ đều đều, một tay để trên ngực
nàng, còn nàng thì nằm bên, mỉm cười hài lòng với số phận và cũng thiếp đi lúc
nào không biết.
Gần sáng, chợt tỉnh vì tiếng xe
máy rú ngoài đường, nàng quay người, âu yếm xoa ngực ông nhưng liền rút tay lại
như bị điện giật. Có cái gì ươn ướt, nhơm nhớp. Có cả mùi tanh lợm. Nàng hoảng
sợ nhảy ra khỏi giường, bật đèn rồi đứng đớ người, hai tay ôm miệng: người đàn
ông nàng ôm ấp suốt đêm đang nằm kia, dưới ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn chùm
hai chục bóng. Nhưng lúc này ông ta là một xác chết đang thối rữa, thối rữa rất
nhanh và ngay trước mắt nàng. Da thịt ông ngã xám, chương phình rồi từ từ rữa
ra, xẹp xuống để nhô hai gò má cao, hai hố mắt sâu dần và chừng năm phút sau
chỉ còn lại chiếc sọ dừa trắng hếu. Bộ xương ngực, các xương tứ chi dài ngoẵng
cũng trắng như thế. Không bám tí thịt nào. Dần dần mùi tanh lợm cũng biến mất.
Cảnh tượng hãi hùng và bất ngờ đến mức một người lõi đời như nàng cũng phải bỏ
chạy sang phòng bên, khóa chặt cửa ôm mặt khóc.
*
Rạng sáng hôm sau, có người đến
gõ cửa nhà nàng. Vẫn co ro ngồi trong phòng riêng, nàng cuống quýt chạy sang
phòng ngủ định lấy cái gì che bộ xương, thì ngạc nhiên sao, không thấy nó đâu
nữa. Trên giường chỉ còn tấm ga trắng nhàu nát và chiếc chăn rơi một nửa xuống
sàn. Tiếng gõ cửa nghe to và có vẻ sốt ruột.
Khách là một ông già nhỏ thó vẻ
đáng ngờ, người gầy đét, có con mắt xoi mói và gian xảo.
- Bà là Nguyễn Thị Tý?
- Bà Diễm Hạnh.
- Cũng thế cả. Xin lỗi bà, tôi
đến đây để đòi nợ...
- Đòi nợ? Ai nợ, nợ ai? - Nàng
ngạc nhiên nhưng cố tỏ ra bình tĩnh và đáo để trước con người mà nàng thấy
trước là không phải tay vừa.
- Ông Lương bạn bà có nợ tôi một
khoản tiền lớn. Chắc bà không biết, nhưng tôi sẽ chứng minh...
- Ông ấy mà thèm nợ ông? Nếu quả
có nợ, sao không tìm ông ấy mà đòi? Hiện giờ ông ấy không có đây.
- Với tôi, bà không cần giấu diếm
điều gì. Ông ấy có ở đây, chính xác là cho tới nửa đêm hôm qua. Còn bây giờ thì
ông ấy đang ở chỗ cần phải ở, tức là nghĩa trang Văn Điển. Vì ông ấy đã chết
cách đây một năm...
- Ông nói gì tôi không hiểu.
- Cũng đúng thôi. - Lão già thích
thú nhìn bộ mặt ngơ ngác, bối rối của người đứng trước lão. - Chuyện nghe hơi
kỳ, nhưng đúng là có thật. Tôi và ông Lương là chỗ bạn bè thân thiết. Năm ngoái
gặp bà ở Tràng Tiền Plaza, ông ấy bị bà hớp hồn. Ông là ngưòi tốt, chỉ tội hơi
yếu đuối trước phụ nữ, nhất là một người quyến rũ như bà. Khốn nỗi lúc ấy ông
đã trên bảy mươi, lại đang ung thư sắp chết. Ông đến gặp tôi, năn nỉ giúp đỡ -
chả là tôi có chút tài vặt mà. Ông thực sự yêu bà, ngưỡng mộ bà, vì sao thì tôi
quả không hiểu. Tôi lựa lời khuyên ngăn nhưng ông không nghe. Thôi thì đành
giúp vậy. Chẳng dám dấu bà, tôi là thầy thuốc, có loại thuốc làm cho người ta
trẻ lại. Không chữa khỏi bệnh, nhưng trẻ lại thì được. Trường hợp ông Lương hơi
khó một chút. Ông mắc bệnh ung thư sắp chết như đã nói, nhưng tôi vẫn giúp được
ông kéo dài sự sống, dù chỉ sống ảo, vì thực sự ông đã chết cách đây một năm,
chính xác là chỉ vài tuần sau khi gặp bà lần đầu. Hơn thế, tôi còn làm ông trẻ
lại những ba mươi tuổi để tận hưởng hạnh phúc với bà. Bà đang thắc mắc muốn biết
bằng cách nào? Đơn giản thôi, một tuần hai lần ông uống những viên thuốc đặc
biệt do tôi bào chế để giữ cơ thể không chỉ không phân hủy mà còn khỏe mạnh
thành người tình của bà. Làm được loại thuốc này tốn kém lắm, và dẫu bạn bè
thân thiết, ông Lương vẫn phải trả tôi rất nhiều tiền. Ông giàu, bà biết điều
ấy, nhưng thậm chí cả khi giàu như ông, đó cũng là một số tiền lớn khó có thể
kham nổi trong một thời gian dài. Hơn nữa, bà lại tham lam moi của ông ấy nhiều
quá. Ông ấy chẳng bảo bà đang đẩy nhanh ông ấy đến chỗ chết là gì. Nhất là cái
vụ bắt mua ngôi nhà này. Vì quá yêu bà, ông ấy không thể từ chối nhưng đồng
thời cũng không thể không uống thuốc của tôi, thành ra ông lâm vào cảnh nợ nần,
và khi tôi ngừng cấp thuốc thì ông chết, ngay trên giường với bà như bà đã
biết. Hôm nay tôi đến đòi lại số tiền thuốc ông ấy còn nợ. Có giấy ghi chép đầy
đủ cả đây...
- Nhưng ông ấy đã chết, và tài
sản hiện chẳng còn gì.
- Còn đấy, thưa bà, ngôi nhà này
chẳng hạn, và nhiều thứ khác.
- Ngôi nhà này đứng tên tôi và là
của tôi! - Nàng giận dữ kêu lên.
- Bà nghĩ thế à?
- Tất nhiên. Và đừng hòng ai cướp
nổi nó. Đây, ông xem đi, rồi mời ông ra khỏi đây ngay! - Nàng vội móc túi lấy
tờ giấy chứng nhận sở hữu ngôi nhà mà nàng luôn giữ chặt bên mình. - Ông đọc
đi!
Nàng dí tờ giấy tận mặt lão già.
- Thì nó ghi tên tôi đấy thôi,
xin bà hãy xem lại. - Ông kia thản nhiên đáp, rồi đến lượt mình chỉ ngón tay
vào tên người sở hữu trên tờ giấy. Nàng trố mắt ngạc nhiên khi thấy đó không
phải tên mình mà là một cái tên lạ hoắc. - Thôi, đã đến lúc tôi phải đi, - lão
già vừa nói vừa cho tờ giấy vào túi. - Tôi nghĩ ba ngày đủ để bà dọn đi nơi
khác. Trường hợp sớm hơn, xin bà báo tôi biết theo địa chỉ này... - Lão đưa cho
nàng mẩu giấy có ghi số nhà và một tên phố.
Chờ lão già ra khỏi, nàng chạy bổ
vào phòng, run rẩy móc từ chỗ cất giấu một bọc tiền lớn, giở ra chỉ thấy toàn
những tập giấy bạc âm phủ. Thử các dây chuyền và nhẫn vàng, cả chiếc có hạt kim
cương lớn, cũng thấy chỉ đồ giả. Xót của, nàng kêu to một tiếng rồi ngất xỉu...
*
Sau đấy nghe nói nàng ốm một trận
phải vào viện nằm cả năm trời chưa khỏi. Có người bảo nàng hóa điên, xé quần
áo, bôi đen mặt đi giữa phố. Cả lúc ấy, vẻ đẹp trời cho vẫn hiện ra lồ lộ, và
nàng đã mấy lần bị bọn lưu manh lôi vào bụi rậm. Có người lại bảo, điều này
nghe có lý hơn cả, rằng mấy năm sau, khi thấy mình không còn trẻ, nàng đã tìm
đến lão già kia mua thuốc, nhưng vì vô tình, cũng có thể cố ý, nàng uống quá
liều nên lại biến thành Cái Tý tuổi mười sáu đúng như ngày nó lên thành phố làm
ô-xin năm nào. Lần này không may nó phải hầu hạ một bà già góa giàu có không
con cái, do vậy nó không bị ai cưỡng hiếp nên không có điều kiện biết được cách
kiếm tiền dễ dàng. Bà này nổi tiếng nghiêm khắc và thương người. Bà dạy nó đủ
điều hay lẽ phải, lại cho tiền ăn học tử tế như con. Vậy là nó đổi đời, từ con
bé nhà quê đến ăn không đủ no thành cô tiểu thư thành phố nết na, xinh đẹp. Nó
thi đậu đại học, thành hoa khôi trường, hoa hậu thành phố rồi làm kế toán trong
một cơ quan nhà nước. Nó, tức là cô Tý, mới lấy chồng năm kia, sinh đứa con rõ
xinh và cô có vẻ hạnh phúc lắm. Cô cũng loáng thoáng nghe người ta nói về câu
chuyện ly kỳ của một mụ đàn bà xinh đẹp, hư hỏng nào đó tên là Diễm Hạnh, nhưng
vì bận việc công, việc nhà, cô chẳng hơi đâu quan tâm tới mụ.
Hà
Nội, 22. 8. 2002
NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÙM KHĂN ĐEN
Cảnh thật buồn và ảm đạm. Khu
đồng Mồ những ngày cuối năm nước cạn, không trong cũng chẳng ra đục, cứ lờ lờ
một màu vô cảm. Ruộng có nơi chưa cấy, chỏng chơ những mô đất nhỏ, có nơi mới
cấy xong lúa chưa bén rễ, vàng úa như những sợi râu ngô héo. Trên bờ đê con
mương dẫn nước từ đập Xuân Dương về chỉ lèo tèo vài con bò đang gặm cỏ, nếu còn
có cỏ để gặm. Vì cỏ ít trâu bò nhiều nên thân đê từ lâu bị bào mòn, không xanh
mà bạc thếch.
Đã bắt đầu nhá nhem. Bầu trời u
ám, không mưa nhưng ẩm lạnh và vì là nơi đồng trống nên gió khá mạnh. Làng Xuân
Tình gần nhất cách chưa đầy cây số bây giờ chỉ là một vệt mờ mờ, còn xã Diễn
Thọ phía Tây thì từ lúc nào đã chìm trong sương mù.
Ở một trong vô số vũng nước nông
dọc bờ đê, lão Mục đang hý hoáy mò tôm, những con tôm chỉ bé bằng đầu đũa. Vũng
nước được tát cạn, những gì nổi phía trên lão đã nhặt hết, bây giờ mò bắt những
con khôn ngoan lẫn dưới lớp bùn nhẽo. Chiếc giỏ rộng miệng không đeo bên hông
mà để trên bờ, thỉnh thoảng lão ném vào một con gì đấy mới mò được, có khi cả
bùn. Lão thầm ngạc nhiên ở đây còn tôm cá cho lão bắt. Lão là người đánh dậm
chuyên nghiệp, nghĩa là chỉ sống bằng cái nghề ấy. Lão sống một mình trong trạm
bơm bỏ hoang sát Kênh Nhà Lê vốn là nơi làm ăn chính của lão. Mấy hôm nay nước
lớn, lão ngược lên mạn trên rồi tình cờ phát hiện những vũng nước này. Lão
không có khái niệm về thời tiết hoặc tâm trạng vui buồn. Thời gian cũng chẳng
mấy khi được lão nghĩ đến. Chỉ cần đâu có cá là lão tới, tranh thủ bắt càng
nhiều càng tốt. Hôm qua lão được cả giỏ đầy. Hôm nay cũng khá, đáng lẽ có thể
về rồi nhưng vì tham nên lão cứ nấn ná bắt thêm. Lão không lo nhỡ chợ vì bất kỳ
lúc nào cũng có thể đem hàng bán cho mụ Thắm ở làng Song Yên bên kia đường tàu,
dù mụ này láu lỉnh thường bắt bí ép giá lão.
Cứ thế lão Mục cắm cúi bới bới
hai bàn tay già nua nhăn nheo trong lớp bùn nhẽo, không để ý trời đang tối dần
và đã bắt đầu xuất hiện những giọt mưa li ti trên mái tóc rối bạc quá nửa. Lão
đang nghĩ về việc tối nay có tiền không chỉ đủ mua xịn rượu loại ngon mà còn cả
ít dồi chó ở quán cạnh chợ Hôm. Lão hay rượu, chưa đến mức nghiện nặng nhưng
thích uống và uống luôn. Thường đi đâu lão cũng giấu một be nhỏ trong túi,
thỉnh thoảng tu một ngụm. “Đời có tí chất cay mới gọi là đời, không thì sống
làm đếch gì,” lão thường tự an ủi như vậy. Đang lúc rửa qua một tay định cho
vào túi lấy be rượu thì lão bỗng cảm thấy như có ai đứng trên đê chăm chú nhìn
mình. Không ngước lên nhưng lão biết. Ai ấy nhỉ?
Đó là một người đàn bà còn trẻ
đầu trùm chiếc khăn đen chỉ chừa lại khuôn mặt. Một khuôn mặt khá xinh nhưng
nhợt nhạt đến trắng bệch. Thực ra cô ta không nhìn lão Mục mà nhìn giỏ cá. Chỉ
lặng lẽ đứng nhìn. Lão cũng im, phần vì đớ ra chẳng biết nói gì. Về khoa nói
lão vốn rất kém và rất ít nói. Trời chưa tối hẳn nên lão nhìn thấy rõ đôi mắt
cô ta mở to, mũi nhọn, hai má hơi hóp, dấu hiệu rõ ràng của sự đói ăn lâu ngày.
Cô ta gầy, lão biết chắc như thế qua làn áo ẩm ướt cũng màu đen bám sát người.
Gầy đến mức lão có cảm giác nếu gió thổi mạnh, cô ta có thể bay lên không và
biến mất. Có phải vì gầy và nhẹ như chiếc bóng nên cô ta đến đứng cạnh từ lâu
mà lão không biết chăng?
Người đàn bà trẻ nhìn vào miệng
chiếc giỏ, nơi một vài con tôm đang ngọ nguậy, rồi quay sang phía lão Mục. Qua
vẻ cầu xin trong đôi mắt đẫn đờ ấy, lão hiểu. Cô ta muốn xin một ít. Xưa nay
chẳng bao giờ chịu cho không ai cái gì, thế mà bây giờ không hiểu sao lão suy
nghĩ một chốc rồi gật đầu. Cô kia vẫn đứng im. Lão gật đầu lần nữa, thầm ngạc
nhiên về sự hào phóng của mình. Chỉ lúc ấy cô mới cúi xuống bốc một ít cho lên
lòng tay. Chỉ một ít thôi và lão Mục lấy thế làm mừng. Cô nhìn lão với ánh mắt
biết ơn rồi lặng lẽ bước nhanh về phía làng Xuân Tình. Tiếng chân cô khẽ đến
mức lão có cảm giác như không phải bước mà đang lướt bay trên mặt đường. Lão
cũng chẳng nói gì, chỉ đứng ngây, nhếch mép cười một cách đần độn.
Khi người kia biến mất trong làn
sương mù lúc này đã dày đặc, lão rửa tay xách giỏ ra về, quên cả ngụm rượu định
uống. “Còn trẻ thế mà đi ăn xin, thật không biết xấu hổ!” lão lẩm bẩm một mình,
không hẳn vì tiếc mấy con tôm cá. Trong giỏ còn nhiều chán. Lão chỉ thấy hơi kỳ
kỳ thế nào. Đây là lần đầu có người xin lão, bình thường thì bao giờ người ta
cũng mua, mặc cả từng xu một nhưng mua chứ không xin.
Trời tối hẳn. Mưa bắt đầu nặng
hạt. Chợt thấy lạnh và đói, lão rảo bước đi nhanh về phía làng Song Yên, vẩn
vương suy nghĩ về điều vừa xẩy ra, nhưng rồi cuối cùng trong đầu chỉ còn lại mụ
Thắm và chai rượu nhờ mụ mà có.
Kênh Nhà Lê nước còn lớn, nên hôm
sau lão Mục lại đến đồng Mồ, cũng ở đoạn đê này, chỉ vũng nước khác. Lão luôn
đi làm vào buổi chiều, vì sáng dậy muộn, lại kề cà thuốc nước và kiếm cái nhét
vào bụng. Bầu trời vẫn u ám, lất phất mưa như hôm qua. Và rồi khi chạng vạng
tối, người đàn bà kia lại đến, đến lúc nào lão không hề biết. Cô ta lặng lẽ
nhìn giỏ cá rồi nhìn lão. Cũng cái nhìn van xin ấy. Đôi mắt mở to có vẻ như sâu
hơn, mặt nhợt nhạt hơn, người vốn đã gầy giờ càng gầy hơn, đến mức trông chỉ
còn như chiếc bóng. Lão Mục thoáng bối rối. Lão định quát to đuổi đi, vì suy
cho cùng lão còng lưng cả ngày thế này đâu phải để đem cho người khác. Thậm chí
lão còn định mắng nhiếc vài câu về cái thói trơ trẽn ngửa tay ăn xin. Thế mà
lão cứ nhìn trân trân như bị thôi miên. Trái tim cằn khô của lão tự nhiên mềm
ra, có cái gì đấy rân rân nơi cuống họng. Lão không biết chuyện gì đang xẩy ra
với mình, chỉ thấy buồn. Cuối cùng, như cái máy, lão khẽ gật đầu. Cô kia cúi
xuống, lấy ra ít cá, đúng bằng hôm qua, vội vã đi về phía làng Xuân Tình và
chẳng bao lâu sau thì biến mất.
Việc này còn lặp lại mấy lần nữa.
Vẫn cái giờ ấy cô ta tìm đến, dù lão Mục đã cố tình chuyển đi chỗ khác xa hơn
một chút. Cả hai vẫn chẳng ai nói với ai câu nào. Kể lão Mục cũng muốn bắt
chuyện nhưng không nói lên được. Bây giờ thì lúc nào lão cũng bị ám ảnh bởi
người đàn bà trùm khăn đen bí ẩn ấy. Lão thử hình dung đủ chuyện mà cuối cùng
vẫn chẳng đi đến đâu. Nhưng hôm nay thì lão đã có một ý định, có thể nói là kế
hoạch được trù tính kỹ từ trước. Lão sẽ lén theo về nhà cô ta xem thế nào. Chỉ
tò mò thôi chứ chẳng vì lý do nào khác. Không là người thông minh, nhưng việc
này thì chắc lão làm được, làm khéo nữa là khác.
Lão thấy lạ là dù đã đi rất
nhanh, gần như chạy mà vẫn không theo kịp người kia. May không bị mất hút vì xung
quanh chỉ toàn đồng trống. May nữa là cô ta không một lần ngoái lại nên không
biết có người đi theo. Cũng có thể biết nhưng giả vờ không.
Tới đầu làng Xuân Tình, người đàn
bà trẻ rẽ vào một ngôi nhà tranh có chuối mọc um tùm bao quanh. Làng này người
ta trồng nhiều chuối. Trước đây lão có đến mấy lần để bán cá, nhưng chẳng quen
ai. Lão chợt đứng khựng lại không biết làm gì tiếp khi cô kia vào khuất trong
nhà. Không thể cứ đường đột vào thẳng nhà người ta, lão nghĩ. Trời gần tối hẳn,
trong nhà có ánh đèn dầu tù mù, dưới bếp hình như có ai đang nấu ăn. Lão tần
ngần hồi lâu rồi ngập ngừng bước vào, dẫu xưa nay không là người nhút nhát. Thì
cứ hỏi người ta có mua cá không, việc gì phải ngại.
Thấy có người, một bà già tập
tễnh từ trong bếp đi ra, tay cầm chiếc que kều lửa. Ngôi nhà trống hoác, tuềnh
toàng không có cửa. Lão Mục ngạc nhiên không thấy cô gái kia đâu. Hay mình nhầm
nhà? Không thể được. Chính mắt lão nhìn thấy cô ta vừa rẽ vào đây mà.
- Bác hỏi ai ạ? - bà già lên
tiếng.
- Tôi bắt được ít cá, vào hỏi xem
nhà ta có mua không, - lão đáp, tự lấy làm hài lòng với sự lưu loát của mình.
- Không. Chẳng giấu gì bác, nhà
tôi nghèo không có tiền. - Bà lão thở dài. - Đến bát gạo ăn còn phải đi xin
người ta thì lấy đâu ra tiền mà mua cá.
Nói đoạn, bà lão định bỏ vào bếp
nhưng thấy khách chần chừ chưa đi, bèn nói thêm:
- Hay bác vào trong nhà uống chén
nước đã?
Trên chiếc chõng tre ọp ẹp chính
giữa nhà, lão Mục ngồi, bê bằng cả hai tay bát nước vối đầy rồi tu một hơi hết
sạch, dù không khát. Nhà đang có tang, lão thoáng nghĩ khi nhìn lên chiếc bàn
thờ cũng bằng tre có mấy nén hương đang cháy sau lớp vải màn mỏng ám khói. Trên
bát hương là bức ảnh người chết, không lớn, và mặc dù đèn tù mù, lão vẫn nhận
ra ngay đấy chính là cô gái đến xin cá mấy ngày vừa rồi. Lão ngạc nhiên đến
giật thót cả người. Nếu bát nước chưa kịp đặt xuống thì chắc đã rơi xuống đất.
Lão bỗng thấy sợ hãi, sợ đến tái mặt. May bà chủ nhà không nhìn thấy.
- Con dâu tôi đấy. - Bà già nói
khi thấy khách để ý nhìn bàn thờ. - Chưa đầy ba chục tuổi mà trời đã bắt chết.
Ngày mai là vừa tròn ba tháng. Chồng nó còn bị trời bắt chết sớm hơn, khi hai
đứa vừa lấy nhau được một năm. Chẳng hiểu sao ông trời ác độc thế. Thành ra bây
giờ tôi, một thân già què quặt nuôi mình không nổi còn nuôi thêm đứa cháu năm tuổi...
Có hôm phải nhịn vì chẳng có gì ăn, vậy
bác bảo tiền đâu mà cá với chả thịt...
Đúng lúc ấy một đứa bé gái từ
ngoài vườn đi vào, tay chân còn lấm bùn.
- Có bắt được con nào không cháu?
- bà nó hỏi.
- Dạ có, - nó đáp rồi xòe hai bàn tay.
Lão Mục nhìn xuống thì thấy chính
những con cá lão vừa cho cô gái lúc nãy.
- Thế thì để bà xuống nấu cho mà
ăn. Kho mặn, ăn với khoai luộc chắc ngon lắm. - Bà già nói rồi tập tễnh bước ra
ngoài.
Lão Mục cũng đứng dậy, chào bà
chủ ra về.
- Kể cũng lạ, - bà nói khi tiễn khách,
- vũng nước tí xíu như chỗ trâu đầm sau nhà mà cũng có cá bác ạ. Không nhiều
nhưng ngày nào cũng có. Âu cũng do trời phật muốn giúp bà cháu tôi, phải không
bác?
Lão Mục không đáp vì lúc ấy đã ra
đến cửa. Lão đi như chạy một mạch về nhà, không một lần dám ngoái đầu nhìn
lại.
Đêm ấy lão bán vội giỏ cá cho mụ
Thắm chẳng thèm cò kè một xu nào. Bao nhiêu tiền lão đem mua rượu hết, uống say
mèm rồi ngủ mê mệt đến tận quá trưa hôm sau mới dậy. Xế chiều, lão lại xách giỏ
đến đồng Mồ. Tuy thầm sợ, lão vẫn cố ý chờ nhưng mãi không thấy cô kia tới.
Liên tiếp mấy ngày sau cũng vậy. “Chắc mình làm cô ta sợ, lão nghĩ. Ma mà thấy
động sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trở lại”. Lão chẳng biết thế là tốt hay xấu,
nhưng bỗng nhiên lão lại thấy buồn. Chẳng vì sao mà vẫn buồn, cái buồn mơ hồ,
âm ỉ, day dứt và khó chịu. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong cả cuộc đời dài
chẳng lấy gì làm vui vẻ của mình, lão có cái cảm giác kỳ lạ ấy. Lão đâm ra hay
rượu hơn và cũng hay suy nghĩ vẩn vơ hơn, đủ các chuyện chẳng đâu vào đâu.
Khoảng
một tuần sau, khi phần nào bình tĩnh trở lại, chọn lúc trời tối hẳn, ngày nào
lão cũng tìm đến ngôi nhà tranh kia ở mép làng Xuân Tình, lén bỏ một ít tôm cá
lão bắt được vào “vũng trâu đầm” sau vườn, rồi lén lút bỏ đi như tên trộm thực
thụ. Cứ thế kéo dài mấy tháng cho đến khi lão chết cách đây không lâu. Nghe nói
vì uống rượu say cảm gió. Cũng có người nói lão bị ma ám, nhưng chắc không phải
thế.
Hà
Nội, 8. 8. 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét