Thứ Hai, 9 tháng 3, 2020

Truyện Ngắn




MỤ ĐIÊN

 “Chết, người đàn bà ấy lại trốn viện rồi!”
Ông Nghiêm Bảo Huyền giật mình ngừng uống, cốc bia treo lơ lửng trước mặt.
Ông vốn người Bắc, cán bộ kháng chiến cũ sau giải phóng lấy vợ Nam rồi ở luôn đây, và hiện đang là chủ tịch một huyện lớn tỉnh Kiên Giang. Cùng là bạn chăn trâu hồi nhỏ, lâu không gặp nhau nên lần này tới đây công tác, tôi được ông sốt sắng giúp đỡ. Nhiễm cái thói ăn nhậu của dân Nam Bộ, ngày nào ông cũng tìm cách lôi tôi đi đâu đó, có hôm mãi khuya mới về.
“Ai vậy?” tôi hỏi.
“Một người đàn bà điên. Một mụ điên như ở đây người ta quen gọi”.
Đang giữa trưa, bên ngoài trời nắng chói. Khác mọi ngày, hôm nay gió không thổi từ phía sông nên không khí càng trở nên ngột ngạt. Trên bãi rác của khu chợ vắng khách có một người đàn bà tóc bạc trắng mặc bộ quần áo bệnh viện nhem nhuốc bây giờ không biết gọi màu gì, một bên quần rách quá gối, chiếc áo mất hẳn nửa ống bên phải. Tay ôm khư khư một khúc gỗ, bà ta vừa cúi xuống tìm nhặt cái gì đó, vừa tỉnh thoảng đứng thẳng người lắc lắc khúc gỗ như ru con, miệng lẩm nhẩm không hiểu hát hay nói. Thoạt nhìn cũng biết ngay là người điên, điên nặng chứ không phải tâm thần.
“Ru con đấy”, ông Huyền chép miệng. “Khéo lại bị tàu xe cán chết. Tội nghiệp”.
Lúc ấy người đàn bà điên nhặt được cái gì đen đen, hình như một con chuột chết, giơ lên ngắm nghía rất kỹ rồi làm động tác như định cho nó vào miệng, không hiểu sao cuối cùng lại vứt đi, hăm hở tìm cái khác thú vị hơn, tay vẫn lắc lắc “ru con”. Chiếc miệng móm cười như khóc.
“Không ít các bà mẹ vì con chết mà phát điên”, tôi nhận xét vu vơ.
“Vâng. Trường hợp này còn kinh khủng hơn. Chính bà ta tự giết con mình. Bóp mũi cho đến chết, lúc đứa bé mới tám tháng tuổi!”
Tôi trợn tròn mắt kinh ngạc. Ông Huyền không đáp ngay, lặng lẽ uống một ngụm bia rồi buồn bã nhìn về phía bãi rác ngoài chợ. Nắng vẫn chói chang nghẹt thở. Hình như ông rơm rớm nước mắt.
“Đúng thế đấy, nhưng không như ông nghĩ đâu. Số là vào cuối năm 1966 giặc càn mạnh ở vùng này. Bà ta là cơ sở cách mạng chuyên nuôi giấu cán bộ, thường là cán bộ cao cấp. Một hôm chúng bất ngờ ập đến đúng lúc bà ta bế con đưa cơm xuống hầm cho một ông rất cỡ. Được người phía trên ra hiệu, cả ba đóng nắp hầm, ngồi im không dám thở. Hầm nằm sâu dưới một bụi chuối trong góc vườn.
Tốp lính rằn ri tìm kiếm hồi lâu trong nhà không thấy gì bèn bỏ ra tìm ngoài vườn. Ngồi bên dưới, họ nghe rõ tiếng những chiếc thuốn mũi nhọn chọc sâu xuống đất. Không hiểu sao lần này chúng tìm kiếm rất kỹ, có thể được chỉ điểm từ trước. Bất ngờ đứa bé bỗng ọ ẹ khóc, chắc vì phải ở lâu trong cảnh ngột ngạt, lại đúng lúc mũi một chiếc thuốn xuất hiện trên nóc hầm bí mật. Nghĩa là chúng đang ở ngay phía trên. Như cái máy, bà ta úp tay mình lên khuôn mặt bé xíu của con. Úp chặt. Mạng sống của con hay mạng sống của đồng chí cán bộ và cả của chính mình nữa? Lợi ích riêng tư hay lợi ích cách mạng? Chắc bà mẹ trẻ tội nghiệp đã phải tự hỏi mình những câu hỏi không dễ trả lời này trong giây phút cực kỳ nguy hiểm và ngắn ngủi ấy. Ngắn ngủi nhưng cũng đủ dài để giết chết đứa bé...”
Ông Huyền lại im lặng hồi lâu. Lần này thì tôi thấy ông khóc thực sự. Trên bãi rác, người đàn bà điên, mụ điên, đang ngồi, tay ôm chặt khúc gỗ, lắc lắc người theo những lời ru vô nghĩa. Nhưng khác ông Huyền, bà ta cười.
Cuối cùng, tôi lên tiếng:
“Sau đó thì sao?”
“Lúc ấy tôi cũng là cán bộ nằm vùng ở đây, có điều cách mấy nhà và không quan trọng lắm, tức là chức vụ nhỏ. - Ông Huyền đáp. - Chẳng hiểu nếu là tôi, tôi có cam tâm nhìn cảnh ấy không hay giật lấy tay bà ta, cứ để đứa bé khóc, muốn ra sao thì ra”.
“Rồi sau đó?” tôi nhắc lại câu hỏi.
“Sau đó bọn lính bỏ đi. Ông cán bộ được cứu thoát, nhưng bà ta từ chối không giấu ông ấy trong nhà nữa. Cũng chẳng che giấu ai thêm từ đó. Rồi suốt mười năm trời bà ta câm lặng như người vô hồn, vô tri giác. Cho đến một hôm, khoảng mấy tháng sau giải phóng, ông cán bộ kia quay lại thăm hỏi ân nhân mình với rất nhiều quà cáp. Lúc này ông ta đã là một nhà lãnh đạo lớn ai cũng biết tên. Vậy mà con người câm lặng vô hồn ấy bỗng dưng nhảy xổ vào cấu xé, bóp cổ ông ta, khiến mấy người đi cùng xông vào cứu rồi đưa ra ô tô đi luôn. May chiếu cố công lao cũ mà bà không bị bắt tù mọt gông. Một thời gian sau bà lên thành phố, tìm được đến nhà ông lãnh đạo ấy và suốt ngày réo tên lên mà chửi. Bà đã bị điên, tất nhiên. Bây giờ mỗi lần trốn bệnh viện bà vẫn tìm cách lên đó với mục đích ấy, nhưng người ta luôn đề phòng, vả lại bệnh tình đã nặng, làm được điều này không dễ. Cái tên mụ điên bắt đầu từ đó. Có người đề nghị phong mụ làm Bà Mẹ Anh Hùng. Cũng có người nói phải đưa ra tòa xử tội như một tên giết người...”
“Còn chính quyền?”
“Chính quyền thì đưa mụ vào nhà thương điên như ông thấy”.
Ông Huyền thở dài nói tiếp:
“Cũng đúng thôi vì còn biết làm gì khác? Thế mà có dạo báo chí làm rùm beng về vụ này, tâng bốc lên mây như tấm gương cách mạng chói ngời. Nghĩ mà sợ. Tấm gương giết con”.
Tôi cũng thấy sợ nên vội đồng ý khi ông đề nghị về sớm dù bữa nhậu còn dang dở. Cả hai chúng tôi lặng lẽ lủi nhanh như những thằng ăn cắp sợ bị phát hiện.
Dọc đường, ông Huyền chợt hỏi tôi:
“Là nhà văn, chắc ông đã đọc Guy de Maupassant?”
“Vâng. Thì sao?”
“Thì tôi mượn đoạn kết truyện ngắn Mụ Điên của ông ta để kết thúc câu chuyện mụ điên ngày hôm nay. Nó là một phần, tiếc rằng phần khủng khiếp nhất của chiến tranh mà tôi không muốn nhớ, và “tôi mong con cháu chúng ta sau này sẽ không bao giờ biết tới chiến tranh nữa”. Vâng, ông ta nói nguyên văn thế đấy.
Nói vậy chứ ông Nghiêm Bảo Huyền bạn tôi chắc vẫn nhớ đến nó luôn. Bằng chứng là mấy hôm sau, khi chia tay tôi ra Bắc, bỗng nhiên ông hỏi:
“Không hiểu cái ông cán bộ cao cấp kia có lúc nào bị lương tâm cắn rứt không nhỉ?”
“Chắc là có, - tôi đáp. - Nhưng phải lo việc quốc gia đại sự, những người như ông ta ít thời gian lắm”.
Hà Nội, 2003


NGƯỜI VIỆT XẤU XÍ

Một hôm có ông bạn thân mang đến cuốn sách, dí tận tay tôi rồi nói như ra lệnh:
“Đọc đi! Chủ nhật ra quán bia ta nói chuyện.”
Ông này chẳng liên quan gì đến văn chương nhưng ham đọc, một đại tá về hưu tính bộc trực và có phần bỗ bã. Nhưng ông tốt bụng, lại cùng quê Nghệ An, gặp nhau quá thường xuyên ở cùng một quán bia nên chúng tôi thân nhau.
Đó là cuốn “Người Trung Quốc xấu xí” của nhà văn Đài Loan Bá Dương, một Việt Kiều Pháp dịch và xuất bản ở Pari cách đây mấy năm. Kể ra gọi “Những cái xấu của người Hoa” thì đúng hơn. Có thể lỗi ở người dịch, cũng có thể tác giả cố tình dùng từ ấy.
Cuốn sách khá độc đáo, hấp dẫn và đáng suy ngẫm. Theo Bá Dương thì Trung Quốc là một dân tộc vĩ đại, có nhiều cái hay, cái tốt được người ta nói mãi rồi nên nhắc thêm nữa là chối và vô duyên. Việc cần làm bây giờ là thử phân tích những cái xấu để rút bài học hòng tấn tới. Mà cái xấu của người Hoa thì ông ta kể ra nhiều lắm, nào nói to, ở bẩn, mất lịch sự, nào tự cao không phải lối, nhẫn nhục đến nhu nhược, mất đoàn kết, ghen tị, thù ghét lẫn nhau, vân vân và vân vân. Thậm chí tác giả còn ví cả nền văn hóa năm nghìn năm của đất nước Trung Hoa vĩ đại là cái hũ tương, nơi mọi thứ bị đè nén, tù túng và thối rữa. Tất nhiên đây là lối nói phúng dụ, những người không hiểu dễ xửng cồ thóa mạ người viết. Dẫu không là người Trung Hoa nhưng tôi đọc cũng thấy có gì không ổn. Nghe nói trước đây ở ta từng có người định viết về cái xấu dân tộc mình. Không hiểu ý định đó tiến hành đến đâu, nếu đã tiến hành, và những cái xấu của người Việt Nam được họ nêu lên là gì.  
“Ông phải viết một cuốn như thế. Cuốn “Người Việt xấu xí”. Ông bạn tôi hùng hổ nói dằn từng tiếng khi chúng tôi gặp nhau bên cốc bia. “Đã có cuốn Người Mỹ xấu xí, Người Nhật xấu xí, Người Hoa xấu xí, bây giờ đến lượt ông - Người Việt xấu xí”.
“Tôi không thấy người Việt ta xấu xí”, tôi đáp.
“Ông có thấy nhưng giả vờ không thấy, hoặc ông quá tốt không muốn thấy. Cả hai trường hợp đều xấu như nhau.”
“Ông thực sự muốn tôi viết cái gì đấy chửi lại dân tộc mình ư?”
“Không phải chửi mà như ông Bá Dương nói, để chỉ người khác thấy mình còn nhiều cái xấu. Những cái xấu ấy là gì thì ông biết rõ hơn tôi. Chứ suốt ngày nghe đài báo khoe lúc nào mình cũng anh hùng, dũng cảm, sáng tạo, cần cù, đoàn kết, thương yêu nhau thì thật tởm. Thật ngượng. Một người tốt, một dân tộc tốt và thực sự tài giỏi không bao giờ tự khoe như thế”.
“Mọi người vẫn biết rõ cái xấu của mình,” tôi đáp. “Có điều không nói ra đấy thôi. Không cần. Như tôi và ông không nhất thiết phải khoe mình bị ghẻ. Tốt hơn nên lẳng lặng bôi thuốc cho chóng khỏi, và hãy cố dấu chừng nào có thể.”
“Nói chuyện với ông chán bỏ mẹ!”
Ông đặt mạnh cốc bia xuống bàn, tranh tôi trả tiền rồi hậm hực bỏ đi.
Có nhà văn cho rằng miêu tả cái xấu cũng là cách ca ngợi cái tốt. Có thể. Nhưng tôi thì nghĩ cuộc đời vốn dĩ đã quá nhiều cái xấu, mà cái xấu thì dễ nhận thấy, dễ làm nản lòng, do vậy nhà văn phải chỉ người khác thấy những cái tốt, có thể rất nhỏ và bị che lấp bởi cuộc sống đời thường bon chen, dung tục. Cuốn “Người Trung Quốc xấu xí” quả có làm tôi suy nghĩ, nhưng tuyệt nhiên không khiến tôi có ý định bắt chước ông Bá Dương làm điều tương tự. Thậm chí tôi thấy làm thế là phạm thượng và ít nhiều vô liêm sỉ.                                                
Khoảng một tuần sau, ông người quen lại đến tìm tôi, vẻ mặt rất nghiêm túc. Ông nói trơn tru một mạch không ngừng, chắc đã chuẩn bị sẵn từ trước:
“Tôi thấy cái ông Bá Dương kia hoàn toàn đúng khi ví nền văn hóa năm nghìn năm của nước ông là cái hũ tương. Còn của ta, bốn nghìn năm, nếu quả đúng bốn nghìn năm, thì là cái hũ nhỏ hơn một chút, thối hơn một chút, chứa một chút tương Trung Quốc, một chút cái gì đó của ta, của Tây, thành thứ hổ lốn mà suốt ngày hôm nay tôi cố tìm tên gọi mãi chưa được. Ta cứ tạm gọi là hũ mắm tôm, món đặc sản dân tộc. Tất nhiên dân tộc nào cũng có cái tốt, Việt Nam lại càng nhiều, nhưng giờ không phải lúc nói chuyện ấy. Người ta nói mãi rồi. Cái cần nói bây giờ là bắt chước ông nhà văn Đài Loan kia một lần tự ngẫm lại mình xem còn điều gì chưa được. Có nói quá đi một tí cũng chẳng sao. Tự khen mình quá đáng mới nguy hiểm. Như tôi và ông luôn tự diễu dân Nghệ An “cá gỗ”, “vắt cổ chày ra nước” có sao đâu? Có vì thế mà bị trách là không yêu quê hương đâu, nếu không muốn nói ngược lại? Về đại thể, tôi thấy dân Việt ta có đủ những thói xấu ông Bá Dương đã nói về đồng bào mình. Nói gì thì trong sách đã ghi rõ. Cái xấu của ta thậm chí còn ở mức tồi tệ hơn, vì chúng ta vốn là dân nhược tiểu. Nhược tiểu mà còn muốn làm cha bố người khác! Tôi nghĩ kỹ rồi, và thấy nó thế này. Ta chỉ nói phét chứ thực sự xưa nay không làm được điều gì ra hồn. Không một nhà tư tưởng ra hồn, không một trường phái triết học ra hồn, không một công trình kiến trúc ra hồn kiểu Angco Vat, Angco Thom hay Chùa Vàng ở Miến Điện. Không một tác phẩm văn học nào ra hồn, trừ Truyện Kiều, mà suy cho cùng cũng chỉ là bản phổ thơ lục bát một tích Tàu. Hội họa cổ là con số không. Thậm chí không có cả một điệu múa nào có thể coi là đặc trưng thuần túy dân tộc. Chữ viết tự mình nghĩ ra cũng không nốt, lúc đầu phải nhờ anh Tàu, rồi sau nhờ mấy cha truyền đạo Phương Tây. Mà một khi không tự sáng tạo được gì thì ta nhập. Người Nhật nhập cái ngoại lai để biến nó thành của mình, nâng nó lên tầm cao hơn, ta thì tất cả đều biến thành cái bóng mờ mờ và nhiều khi chỉ để làm khổ mình. Ta nhập Nho Giáo để trói buộc dân ta trong một mớ rối rắm các nguyên tắc đạo lý hà khắc. Ta nhập chế độ quan trường để biến những người có học thành nô lệ của chức quan nhỏ và chút bổng lộc đi kèm. Ta nhập nguyên xi chính sách cải cách ruộng đất của anh Tàu Cộng sản để con chửi cha, anh tố em và hàng vạn người tử tế bị giết hại oan uổng. Trước đó ta nhập chủ nghĩa Cộng sản của mấy ông tây xa lơ xa lắc chẳng phù hợp tẹo nào với đất nước nông nghiệp lạc hậu của chúng ta. Giờ mấy ông tây ấy hết thời, nước các ông từ bỏ thứ chủ nghĩa kỳ cục ấy từ lâu rồi, thế mà ta, như ông biết, vẫn khư khư ôm lấy nó dù chẳng ai bắt, dù ai cũng biết làm thế là tự trói tay chân mình. Nay thì ta nhập văn hóa đại chúng của thằng Mỹ để làm hỏng trẻ con ta. Chính cái thói ưa nhập ấy đã biến dân Việt chúng ta thành những người lười suy nghĩ, không biết suy nghĩ và cũng không dám suy nghĩ, nên cứ cam chịu mãi trong cái hũ mắm của mình...”
“Ông có nói quá không đấy?” tôi ngắt lời.
“Tất nhiên có nói quá. Bất kỳ người nào nếu muốn đều có thể bác lại và qui cho tôi đủ tội tày đình. Họ cũng có lý của họ. Nhưng tôi đâu phải Việt gian, phản động? Thì đã bảo nói quá cũng chẳng sao mà. Chưa ai chết vì biết tự chê mình. Ông không thấy tôi nói có phần đúng sao?”
“Còn xem đã. Nhưng nếu đúng thì theo ông ta phải làm gì?”
“Còn làm gì nữa? Đập ngay cái hũ mắm kia để giải phóng tư tưởng khỏi những ước lệ cổ hủ, khỏi cảm giác tự ti hèn kém cố hữu. Để tự mình nghĩ ra được cái gì đấy của riêng mình, thật sự tốt đẹp và hợp với bản sắc dân tộc. Nước ta không hiếm những bộ óc sáng láng, nhất định sẽ làm được điều đó!”
“Thứ nhất, không có cái hũ mắm ấy để đập vỡ như ông nói”, tôi đáp. “Thứ hai, nếu quả là chiếc hũ như ông nói, thì ít ra nó cũng chứa đựng cả lịch sử hàng nghìn năm chống ngoại xâm oanh liệt không ai phủ nhận được”.
“Đúng, không ai phủ nhận cái lịch sử oanh liệt ấy. Nhưng cũng đừng  quá tự hào về nó. Tôi đại tá đây, suýt phong anh hùng đây, cả đống huân chương trên ngực đây mà chẳng coi mình ra cái thá gì. Bất hạnh là dân tộc nào phải đánh nhau quá nhiều và có quá nhiều anh hùng! Cứ như nước khác hàng trăm năm không ai đánh, không đánh ai là tốt nhất. Thế mới có thời gian tập trung vào những việc khác cần làm.”
Thấy sẽ bất tiện nếu cứ tiếp tục câu chuyện theo kiểu này, tôi cố lái sang đề tài khác nhưng không được. Ông còn say sưa, vâng, một sự say sưa thái quá, kể ra hàng loạt những cái xấu khác của người Việt. Tôi chỉ biết ngồi im lắng nghe, thầm ngạc nhiên sao ông có sự say sưa, hằn học thái quá ấy khi nói tới những điều ấy. Cứ như có lý do sâu xa nào đó.
“Ông chính là một người Việt xấu xí, một khi có thế thóa mạ đồng bào mình như vậy!” cuối cùng tôi lên tiếng.
“Vâng. Tôi đúng là một người như vậy. Một người Việt xấu xí. Xấu nhất trong tất cả những người Việt xấu xí! Thủ phạm và là nạn nhân của những cái xấu tôi vừa nói. Tôi là một tên khốn nạn được ca ngợi, được tâng lên thành anh hùng... Xin lỗi, suýt thành anh hùng”.
Nói đoạn ông cúi đầu. Và khóc không thành tiếng.
                                                  *
Tối hôm ấy ở nhà ông, tôi mới hiểu hết lý do thực sự mọi chuyện. Tự ông kể mà không cần căn vặn.
Những năm cải cách ruộng đất, khi còn là cậu thiếu niên hăm hở đi theo cách mạng, chính ông đã khai ra chỗ giấu lúa của ông bác, khiến ông này bị qui địa chủ và xử bắn. Ông còn mách cán bộ đội cải cách rằng bố mẹ ông bóc lột tá điền, may người ta chiếu cố ông là “cán bộ nòng cốt phong trào” nên tha chết cho ông bà. Rồi cơn sóng gió cũng qua ông bị bố đánh một trận thừa sống thiếu chết và đuổi ra khỏi nhà. Ông gia nhập thiếu sinh quân, ra bắc tham gia các trận đánh lớn ở đó, kể cả trận Điện Biên Phủ, và chẳng dám quay lại quê cũ. Cả khi nghe tin bố mẹ chết, ông cũng chờ chôn cất xong mới dám về. Về một ngày rồi vội vã ra đi như bị ma đuổi.
Hà Nội, 2003

LÀNG QUÊ YÊN Ả

Gần về đến làng thì có giông. Cơn giông bất chợt đầu hè ngắn và ấm, thoảng mùi hăng con đường đất bị hun nóng lâu ngày, mùi cỏ cháy và cả mùi gì đấy lẫn lộn, rất nông thôn và cũng rất đặc biệt.
Lác đác một vài tiếng sấm. Không thấy chớp. Có thể có chớp nhưng vì mặt trời chiếu sáng nên không thấy. Những đụn mây vần vo bay từ biển lên rồi dừng lại trên đỉnh Ba Chạc. Còn phía Tây trời vẫn quang, nắng vàng rực rỡ.
Ông Bùi vào trú trong ngôi đình bên hồ sen ngay đầu làng. Nó vốn là ngôi đình cổ nổi tiếng thiêng và đẹp nhưng bị phá gần hết cuối những năm sáu mươi, không do máy bay Mỹ mà do chính dân làng, theo lệnh của phòng văn hóa huyện khi rộ lên chủ trương “xây dựng đời sống mới”. Nghe nói đã có kế hoạch trùng tu lại toàn bộ, nhưng tạm thời nó chỉ còn lại khung nhà trống huếch, mái thủng ngói, đôi chỗ bằng chiếc mâm con. Thời đó dù đã xa làng, ông ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh phá hủy ấy. Tổ chức lễ hẳn hoi, có cờ trống và những bài phát biểu hùng hồn. Lễ phá đền chùa.
Bây giờ ông Bùi không nghĩ đến chuyện đáng buồn đó. Ông đang vui vì lâu ngày được về thăm quê. Niềm vui ấy bắt đầu từ khi bước xuống ô tô trên con đường nhựa phẳng lì cách làng không xa, khi ông vừa thong thả đi bộ vừa lâng lâng ngắm đồng lúa xanh rờn, mấy đứa trẻ chăn trâu đang chơi khăng trên Gò Chùa hệt như ông cách đây bốn, năm chục năm. Cảnh làng quê yên ả làm ông cảm động. Lũy tre bao bọc quanh làng vẫn còn, bất chấp những thay đổi to lớn của thời đại. Ông thích thú nghĩ bụng chỉ chốc nữa thôi khi vào bên trong, ông sẽ được lũy tre làng ông che chở, không chỉ khỏi những cơn gió mạnh từ biển mà cả những cơn gió độc của đời.
Cả cơn giông bất chợt này cũng làm ông vui. Thậm chí ông còn nấn ná một lúc bên ngoài cho mưa rơi lên mặt và làm ướt chút áo quần. Một niềm vui ngây thơ kiểu trẻ con, khiến ông bất giác mỉm cười.
Chợt có mấy cô gái làng không hiểu từ đâu chạy ùa vào cùng trú mưa bên ông, mang theo cả tiếng nói cười vui vẻ và dường như cả cái lạnh. Những cô gái hồn nhiên, xinh đẹp ông không biết tên nhưng chắc biết tên bố mẹ hoặc ông bà họ. Ông nhìn các cô, nhìn xuống ao sen, và nghĩ:

                              Trời mưa lên mặt hồ sen
                              Những giọt to như đồng tiền.

                              Mấy cô đầu trần ướt hết,
                              Vừa chạy vừa run vì rét.

                              Lại còn trêu nhau, còn cười,
                              Áo ướt, dính chặt vào người...

Các cô đội nón nhưng vẫn bị ướt, làm những chiếc áo mỏng dính chặt vào người. Hết mưa, ông còn hồi lâu nhìn theo những eo lưng thon thả dính áo ướt ấy. Không hiểu sao ông thở dài như nuối tiếc điều gì.
Trong làng, ông Bùi không còn ai thân thích. Ông ở nhờ nhà một người quen trước cùng học trường làng, nay làm trưởng thôn. Suốt buổi chiều hôm ấy ông khoan khoái tận hưởng sự tĩnh mịch của miền quê yên ả. Đang dịp làm cỏ đợt hai cho lúa, mọi người ra đồng hết. Trẻ con hoặc bận chăn trâu, hoặc đang ở trường, thành ra ông đi một vòng quanh làng chỉ gặp mấy người tuổi ông nhưng do cuộc sống vất vả trông già hơn nhiều. Nói chuyện với họ thực ra chẳng mấy thú vị, có người phải quát vào tai mới nghe nổi vì nghễnh ngãng, nhưng ông thích, vì nó gợi nhớ nhiều kỷ niệm, có cả kỷ niệm buồn nhưng bây giờ ông thấy bình thường. Cũng có thể do ông đang trong trạng thái lâng lâng của ngày đầu rời thành phố về làng, thấy cảnh làng vẫn điền viên, thơ mộng như xưa dù cuộc sống đã thay đổi hẳn, theo hướng tốt lên, tất nhiên.
Nhà ông trưởng thôn nhìn ra một con kênh nhỏ được đào để dẫn nước tưới cho cả huyện Xuân Phú phía trên. Chủ nhà đi họp trên xã. Chỉ cô con út ôn thi đại học ở nhà. Hiện cô đang giặt quần áo dưới kênh. Cô ăn mặc, búi tóc kiểu nhà quê, và cũng kiểu nhà quê toát lên ở cô sự khỏe mạnh, dung dị đến cảm động. Chốc chốc cô ngừng tay, đỏm dáng soi bóng mình dưới nước. Ngồi hút thuốc trong sân, ông bâng quơ nhìn cô, rồi tự lúc nào không biết mấy câu thơ vu vơ xuất hiện trong đầu. Ông là nhà thơ, còn khá nổi tiếng một thời, thường viết thơ triết lý, nhưng về quê lần này ông toàn nghĩ những chuyện đời thường dung dị.
                              Dưới ao, cô gái đang yêu
                              Giặt ít, ngắm mình thì nhiều.

                              Tôi nghịch ném hòn đá nhỏ,
                              Cô gái giật mình xấu hổ.

                              Còn tôi, đứng nấp trong nhà,
                              Nghĩ mình cũng chưa thật già.

Ông mỉm cười với chính mình. Bài thơ đến thật hồn nhiên, hợp người hợp cảnh, dù không ném đá trêu cô gái nhưng ông hình dung đã làm điều đó. Ông cũng thấy như trẻ ra hàng chục tuổi.
Cũng trong tâm trạng phấn khích như thế, buổi tối ăn cơm xong, bất chấp sự phản đối của chủ nhà, ông Bùi vác cần câu ra Đầm Vạc. Ông chỉ muốn được sống lại những ngày còn trần truồng tắm ở đó, những ngày vô tư và có lẽ hạnh phúc nhất của đời ông. Buổi chiều đi ngang, thấy mấy bụi cây rậm rạp bên đầm, ông đã nghĩ tới chuyện tối đến đi câu.
Đêm trăng sáng, ngoài đồng vắng còn sáng hơn. Cơn giông rửa sạch bầu trời, không khí ẩm ướt, ánh trăng trở nên hữu hình, sền sệt như sữa loãng. Đầm Vạc khá rộng, nước trong, bao đời nay là chỗ tắm công cộng của dân làng. Có thể vì thế mà người ta không biến nó thành hồ nuôi cá. Thanh niên làng bên nhiều khi hứng chí vượt cả hai cánh đồng rộng đến đây tắm nhờ. Mặt hồ không hiểu sao có màu đen sẫm chứ không ánh bạc như ông tưởng, và chi chít hàng nghìn, vạn ngôi sao.
Không muốn ai nhìn thấy, ông Bùi ngồi lên chạc ba thân cây nhãn mọc nghiêng trên mặt đầm, thong thả buông câu. Ông tận hưởng sự tĩnh lặng của làng quê yên ả, hơn nữa, lại làng quê của chính ông. Ông không nghĩ gì, hoặc cố không nghĩ gì. Người ông như mềm ra, có lúc thiu thiu buồn ngủ. Ông thấy mình hạnh phúc có được một làng quê như thế để về thăm, là điều thật tiếc, ông rất ít làm trong mấy chục năm qua. Biết đâu, không ra thành phố, không thành nhà thơ, mà ở lại làng làm anh nông dân bình thường, cuộc đời ông sẽ tốt hơn, thanh thản hơn?..
Cơn buồn ngủ và những ý nghĩ tản mạn bị ngắt quãng bởi tiếng líu ríu của mấy cô gái đang chạy từ làng ra. Bốn cô. Đến mấy bậc đá dẫn xuống đầm cách chỗ ông ngồi chỉ dăm mét, các cô nhất loạt cởi hết áo quần rồi nhảy ùm xuống tắm, không kịp để ông lên tiếng nhắc đang có người. Ông chỉ còn biết mỉm cười lắc đầu và ngồi im không dám động đậy. Lại một bài thơ nữa tự đến.

                              Mấy cô thôn nữ hồn nhiên
                              Đêm khuya tắm dưới ao sen,

                              Rúc rích nói cười, không thấy
                              Có tôi ngồi câu cạnh đấy,

                              Làm tôi lặng người quay đầu,
                              Cá cắn mà không giật câu...

Vậy là tình cờ, ông Bùi được chứng kiến một bầy tiên đang tắm truồng ngay trước mặt mình. Không dám nhìn nhưng ông biết các cô đẹp, với những đường nết trẻ trung, khêu gợi. Các nàng tiên tắm, cười nói, té nước trêu nhau ồn ĩ như bầy trẻ.
Bỗng một nàng tư lự nói:
“Chúng mày ạ, cái Thơm nó rủ tao lên thành phố bán trinh. Những hai triệu cơ đấy. Nó bảo tìm được mối rồi...”
“Khiếp! - một cô khác lên tiếng. - Mày nói gì sợ thế!”
“Còn hơn cứ thế này sớm muộn bọn mình cũng bị mấy thằng mất dạy trong làng cưỡng hiếp. Hai triệu chứ ít à? Đằng nào chẳng mất. Có đứa nào đi với bọn tao không?”
“Mày nói có lý. Nhưng để tao nghĩ đã”, một cô đáp.
“Đúng là trai làng mình thật láo. Thanh niên làng khác đến bị chúng rình ném đá vỡ đầu, hoặc công khai kéo nhau đến đánh. Tuần trước cái Lụa con bà Thảo bị hiếp đấy, chắc chúng mày đã biết. Đi chợ huyện về thì bị hiếp ở Đồng Chùa vì lúc ấy đã tối, lại một mình. Nó biết, tao biết, nhiều người nữa biết nhưng không ai muốn làm ầm lên. Để ế chồng à? Mà chúng thì được thể chắc sẽ còn tiếp tục làm tới. Sợ lắm. Tao chỉ mong mau mau thoát khỏi cái làng này!”
“Đúng đấy, phải lo mà chuồn nhanh thôi, chúng mày ạ”.
Rồi các nàng tiên lại quay sang đùa nghịch, cười nói vui vẻ như không hề mới bàn nhau cái chuyện bán trinh khủng khiếp kia. Có lẽ các nàng đã quá quen với những chuyện như thế.
Ông Mùi lặng người, bây giờ không chỉ vì sự hiện diện của ông trước sự lõa lồ của các cô gái. Ông thấy bàng hoàng, chua xót như có cái gì đang vỡ ra bên trong.
Sáng hôm sau ông lên đường sớm, quay lại cái thành phố ồn ào ông hăm hở muốn thoát khỏi ngày hôm trước.
Ngồi trên ô tô, ông thở dài ngoái lại nhìn lũy tre um tùm bao quanh làng ông. Lũy tre, những thửa ruộng lúa sắp lên đòng, những con trâu hiền lành gặm cỏ bên đường đã tạo cho nó cái vẻ điền viên thơ mộng. Một làng quê yên ả. Làng quê của ông...      
Hà Nội, 2003


GIAN LẬN VỚI TRỜI

Người đàn bà ôm bụng chửa, nhăn nhó.
“Gì thế?”
Chồng bà ta, một gã mặt quắt, da đen, vẻ lạnh lùng gian xảo ngồi bên, cau có hỏi.
“Nó đạp. Đau lắm”.
“Thì tôi bảo đi bệnh viện, sao còn cãi. Tại nó muốn ra đấy”.
“Không, ngược lại. Nó không muốn ra nên nhắc tôi cách ấy. Phải chín tháng mười ngày, các cụ nói. Mà nó mới tám tháng tròn. Thiếu những một tháng mười ngày nữa...”
“Chờ đến lúc ấy thì nói làm đếch gì. Tôi bảo hàng trăm lần rồi mà cô không chịu hiểu. Sáu mươi năm mới có một lần. Mà chỉ cho con trai thôi. Nếu ra đời lúc này nó sẽ thành đạt, thành quan, thành thủ tướng, thành tỉ phú. Muộn là hỏng. Hỏng hết. Thành thằng ăn mày, thằng mất dạy. Nó ở trong bụng, biết gì. Vớ vẩn. Nó không chịu ra thì mổ bụng lôi ra! Đủ rồi, không lôi thôi thêm nữa. Đi!”
Gã thô lỗ túm tay vợ kéo ra khỏi phòng. Bên ngoài một chiếc ô tô loại xịn đang chờ. Người lái xe riêng vội vàng mở cửa xe cho ông chủ, bà chủ.
“Chỉ sợ con nó chưa phát triển hết, ngộ nhỡ thiếu cái gì đó thì sao. Chưa nói đẻ non thế có sống được không...”
Người đàn bà lí nhí nói, nước mắt lưng tròng. Nhưng lúc ấy xe đã nổ máy, gã chồng không nghe, mà có nghe chắc cũng cộc lốc đáp:
“Kệ!”
Thế là hắn bắt vợ đến bệnh viện, không phải để đẻ mà “mổ bụng lôi con ra” như hắn nói.
Bà chủ là người ít nói, nhút nhát, luôn trong tâm trạng lo sợ mơ hồ, đối với chồng chỉ trên người ở và dưới người tình. Trong nhà bà chẳng có chút quyền hành nào, cả quyền giữ tiền hộ chồng. Đơn giản chỉ là cái bóng để làm vì. Một cái máy đẻ như gã chồng vẫn đùa bảo bạn bè. Bà chẳng bao giờ dám trái ý hắn trừ lần này, khi bị lôi đi mổ bụng lấy cái thai mới tám tháng.
Trong xe, gã chồng ngồi im không nói gì, nhưng đang suy nghĩ lung lắm, và không phải không thoáng chút lo sợ. Hắn có cảm giác như đang dính vào một vụ rất lớn. Một cú liều quan trọng. Đời hắn đầy những cú liều quan trọng. Chính nhờ dám liều hắn mới được như ngày nay - một người giàu, cực giàu nhờ buôn đồ cổ, nhờ gian lận và ăn cắp. Mới bốn lăm tuổi hắn đã có năm con, hai thằng con trai đều nghiện ngập chích choác, coi như bỏ đi. Ba đứa con gái bình thường, nhưng là con gái cũng coi như bỏ đi nốt. Mà hắn thì đang cần một thằng con ra con. Năm Quí Mùi này nghe nói cực tốt, hơn nửa thế kỷ mới có một lần. Thế là ngay từ đầu năm hắn bắt tay thực hiện kế hoạch năm nay có con bằng được, bỏ bồ bịch tối tối về ngủ với vợ. Một cuộc chạy đua lặng lẽ mà dữ dội. Hắn ra đường thấy toàn bà chửa mà thằng con hắn mong đợi vẫn chẳng thấy đâu. Cuối cùng thì vợ hắn cũng có bầu, siêu âm thấy con trai, nhưng bị muộn mất mấy tháng. Tính ra bình thường thì nó sẽ sinh đầu tháng Giêng năm sau, thế mới chết. Hắn quyết định chơi canh bạc này, tức là phải có con đúng lúc hắn muốn, bất chấp tự nhiên, bất chấp qui luật. Hắn phải chọn hoặc thêm một thằng nghiện nữa, hoặc sẽ có một quí tử xứng đáng thừa kế gia tài hắn. Nhưng để thành quí tử thì nó phải sinh ngay bây giờ. Chậm hơn là vứt! Vứt!
Trong đời, hắn từng nhiều lần gian lận và ăn cắp. Toàn những vố lớn. Vậy mà lần này hắn thấy lo lo, dù chỉ gian lận thời gian, bắt đứa bé ra đời sớm hơn một tháng mười ngày. Xưa nay hắn mánh khóe với đời, với người, nay với trời, với tự nhiên, liệu có đi quá xa không? Liệu con hắn có “thiếu cái gì đấy” như mụ vợ gở mồm vừa nói không? Hay chí ít cũng thành ngớ ngẩn? Không, không thể thế được. Suốt đời hắn luôn liều và luôn thắng, vậy lần này không thể thất bại. Cứ mổ bụng lôi nó ra!
Bên ngoài trời bỗng đổ mưa. Con đường đất chẳng mấy chốc trở nên nhão nhoét, té bùn bẩn lên chiếc Mercedes mầu đen bóng lộn. Qua tấm kính mờ nước, những bụi cây thấp ngả màu đen xỉn, lạnh lẽo và có hình thù quái dị. Chốc chốc chớp lóe, tiếp đến là những tiếng sấm giận dữ. Một điều hiếm vào dịp này trong năm. Nỗi sợ mơ hồ cứ ngọ ngoạy không để hắn yên, dường như mỗi lúc một lớn thêm.
Đường vắng. Người đàn bà mặt tái nhợt đầy tuyệt vọng, thỉnh thoảng lại ôm bụng nhăn nhó. Nếu can đảm, bà đã kêu cứu, nhưng vì nhu nhược, bà chỉ biết ngồi im. Mà có kêu cũng chẳng ai nghe. Tiếng đạp chân phản đối của đứa bé trong bụng lại càng khó được nghe hơn.
Chỉ còn một hy vọng là các bác sĩ sẽ từ chối không làm điều bất nhân, trái tự nhiên này, nhưng bà không biết thằng chồng đã đút tiền mua họ từ trước. Mọi âm mưu ăn cắp hoặc gian lận, cả gian lận với trời, đều luôn có kẻ tòng phạm.
Tội nghiệp đứa bé. Thằng bố ăn cắp của trời mà hóa ra lại ăn cắp của chính con hắn. Những một tháng mười ngày trong vẻn vẹn chín tháng mười ngày được yên ổn nằm trong bụng mẹ.
Trời mưa nặng hạt hơn. Người đàn bà khốn khổ đã không còn rên rỉ, nhăn nhó, hai mắt nhắm nghiền, có thể do khuất phục số phận hoặc ngất đi. Phía trước đã nhìn thấy bệnh viện, một khối đen ảm đạm đáng sợ như một lò mổ, nơi có những tên đồ tể đang đợi...

                                                  *
Hắn đã có được đứa con như mong muốn. Con trai. Để đúng năm đẹp, ngày đẹp, giờ đẹp. Không chết yểu và cũng không “thiếu cái gì” như mụ vợ ngu ngốc của hắn lo sợ. Còn thừa. Thừa một cái đuôi nhỏ và lớp lông dày màu vàng trên da con hắn.
Chín tháng mười ngày trong bào thai, con người trải qua toàn bộ lịch sử phát triển sự sống trên trái đất, từ sinh vật đơn giản nhất rồi đến loài nhuyễn thế, loài cá, loài bò sát, sau thành loài linh trưởng, nôm na là khỉ, giai đoạn cuối cùng trước khi phát triển thành người. Vì bị vạch bụng mẹ lôi ra sớm, nên con hắn chưa kịp rụng đuôi và rụng lông. Chỉ duy nhất một khiếm khuyết ấy, chứ mọi cái khác đều ổn. Thằng con khỉ của hắn mạnh khỏe, mặt hiện rõ vẻ quí tướng và rất giống hắn.
Dẫu không toại nguyện hoàn toàn nhưng hắn cũng mừng. Tháng sau đưa vào bệnh viện, cắt đuôi, cạo lông là xong. Lo gì!
Hà Nội, 2003


GIỌT NẮNG BÊN THỀM

Xe vừa vượt qua đèo thì chết máy. Cậu lái xe bước xuống, hý hoáy một lúc rồi nói:
“Có vẻ hỏng nặng, thủ trưởng ạ. Phải mất vài giờ mới chữa xong”.
“Có chắc chữa được không?”
“Chữa được. Em biết bệnh này rồi. Có điều hơi lâu. Khoảng cây số nữa là đến thị trấn Xuân Yên. Thủ trưởng chịu khó đi bộ tới đấy, nghỉ ngơi, ăn uống chờ em”.
Ông im lặng vẻ do dự.
“Thôi được. Ở lại đây cũng chẳng ích gì. Tớ tới đấy trước vậy”.
Lúc ấy đang giữa trưa nhưng may trời không nóng lắm vì hình như sắp có giông. Dịp này miền trung du hay có giông, chóng đến và cũng chóng tan. Mây đen ùn ùn xuất hiện từ phía chân trời sau ngọn đèo bây giờ đã ngả  màu xanh thẫm. Những đám mây thấp, bù xù bay nhanh theo gió. Tuy nhiên, rất cao phía trên, bầu trời vẫn sáng, và qua các khe hở nắng vẫn chiếu xuống. Nghĩa là có thể mưa mà cũng có thể không. Cậu lái xe sẽ không bị ướt. Ông  hít thật sâu làn không khí mát lạnh rồi bước tiếp theo con đường nhỏ rải nhựa nứt loang lỗ và vắng người.
Quang cảnh hai bên thật buồn. Những ngọn đồi trọc không cây xanh liên tục gối vào nhau, thưa thớt vài đám cỏ úa và chằng chịt những rãnh nước xói trơ đất đỏ. Phóng tầm mắt thật xa mới thấy lác đác vài ngôi nhà mái ngói đen xỉn. Không thấy những con bò quen thuộc cùng lũ trẻ chăn chúng. Lâu lắm ông mới có dịp thoát ra khỏi thành phố để nhởn nhơ ngắm thiên nhiên, lại không may gặp cảnh ảm đạm thế này.
Ông là nhân vật quan trọng của một bộ cũng rất quan trọng. Chiều nay có cuộc họp làm việc với lãnh đạo tỉnh sở tại, kiểu này có lẽ không kịp. Tất nhiên người ta sẽ chờ, hoặc hoãn sang hôm sau, nhưng việc giữa đường hỏng xe và ông phải cuốc bộ cả cây số thì quả làm ông khó chịu. Có thể vì thế mà ông thấy vùng này tiêu điều? Tiêu điều đến mức không gợi được chút cảm hứng nào trong tâm hồn thi sĩ bẩm sinh của ông. Vâng, ông vốn trước là nhà thơ, hội viên Hội Nhà văn Trung ương hẳn hoi, thậm chí từng nổi tiếng một thời với nhiều bài in trên báo. Rồi sau không hiểu sao ông chuyên tâm chăm lo đường quan chức. Đến nay ông được đùa gọi là người làm quan cao nhất trong giới thơ và ngược lại, nhà thơ có chức vụ cao nhất trong giới quan.
Do không quen đi bộ nên khi tới được thị trấn Xuân Yên đôi chân ông mỏi dừ, áo ướt đẫm mồ hôi. Ông bước vào cái quán đầu tiên ông cho là tử tế và thích hợp. Đó là ngôi nhà hai tầng mới xây lợp tôn xanh có bụi hoa giấy đỏ rực phía trước. Ông ngồi xuống chiếc ghế đá bên cạnh, cởi một lúc hai cúc áo sơ mi cho mát. Ông biết chỉ chốc nữa sẽ có người ra hỏi ông muốn ăn gì, uống gì. Quán nhỏ nhưng khá sạch sẽ với năm chiếc bàn lúc ấy không có ai ngồi. Trên bàn ngoài cùng thậm chí có chiếc cốc thủy tinh với mấy bông hồng còn tươi. Trước cửa có tấm bảng mi-ca khung nhôm in to hai chữ Đặc Sản. Chẳng biết ở đây bán loại đặc sản gì.
Bất chợt ông nhớ mình từng tới thị trấn Xuân Yên này. Hơn thế còn ở đây ba tháng thời sơ tán chiến tranh. Tất nhiên bây giờ nó khác nhiều, đến mức không nhận ra nổi, trừ mấy ngọn núi xa xa phía đông và chắc cả dòng suối nhỏ đâu đó sau những ngôi nhà tạo nên con phố duy nhất của thị trấn. Ngoài ra ông không nhớ gì, mà thực sự cũng chẳng có gì để nhớ.
Từ trong nhà bước ra là một phụ nữ trạc năm mươi tuổi, dáng mảnh dẻ và còn giữ được những đường nét xinh đẹp, thanh tú thời trẻ. Cách ăn mặc, điệu bộ cho thấy bà thuộc loại người có học và lịch sự. Ông theo bà vào ngồi xuống chiếc bàn có lọ hoa. Khoảng mười lăm phút sau bà bê ra chiếc mâm với những thứ ông yêu cầu, kèm theo chai rượu mơ ông yêu thích. Chắc bà là chủ quán nhưng do ít khách nên tự mình làm mọi việc.
Ông thoáng ngạc nhiên khi thấy bà ngồi xuống chiếc bàn cách đó không xa, vừa nhặt rau, vừa chốc chốc ngước nhìn về phía khách. Những cái nhìn có gì đó khác thường.
Ăn xong, và cũng uống cạn gần nửa chai rượu mơ pha đá, ông thấy người phấn chấn hẳn lên. Bên ngoài trời đã quang, nghĩa là cơn giông không đến. Bây giờ chỉ mong cậu lái xe xong việc sớm để đi tiếp, may còn kịp họp.
“Thị trấn Xuân Yên bây giờ đổi khác nhiều quá bà nhỉ?” ông lên tiếng, giọng to và vui vẻ hơn thường ngày.
“Vâng”. Bà chủ quán đáp. “Từ bấy đến nay đã ba mươi lăm năm rồi còn gì”.
“Từ bấy đến nay nghĩa là thế nào?” ông ngạc nhiên hỏi.
“Tức là từ ngày ông sơ tán về đây năm 1972 tránh máy bay Mỹ rải thảm Hà Nội. Ông quên rồi à, ông Minh?”
Lần đầu tiên họ nhìn thẳng vào nhau. Nhìn lâu.
“Bà biết tên tôi?”
“Vâng, lúc ấy tôi là giáo viên trường cấp một thị trấn. Ông và mấy người của báo ông ở nhà bên cạnh, gần đường rẽ xuống suối cách đây hai trăm mét. Bây giờ ngôi nhà ấy người ta phá đi rồi. Cả ngôi trường chúng tôi cũng không còn như trước. Mọi cái đều thay đổi. Tôi thành bà chủ cái quán này. Còn ông là người như hôm nay. Chẳng dám trách ông không nhớ vì chắc ông luôn bận nhiều việc nhà nước quan trọng. Thế mà có thời ông đã yêu tôi đấy, ông Minh ạ. Tôi và ông yêu nhau. Say đắm nữa là khác. Rồi ông bỏ rơi tôi về Hà Nội...”
Bà cúi đầu, mắt chớp chớp, tuy giọng nói vẫn nhỏ nhẹ, bình thản.
Không tự cho mình có trí nhớ tốt, ông thử nhớ mà mãi vẫn không nhớ nổi đã yêu ai đó ở cái thị trấn hẻo lánh này. Yêu say đắm lại càng không. Nên ông chỉ biết ngồi yên, bối rối nhìn bà. Nhưng đúng tên ông là Minh, đúng ông và mấy người nữa từng sơ tán về đây ba tháng cuối năm 1972, ở cạnh một trường học không rõ cấp một hay cấp hai, nơi có nhiều cô giáo trẻ mà ông và các bạn thường gặp. Lạ thật. Bà ta nhầm? Hay bịa chuyện yêu đương có mục đích gì? Tuy nhiên, ông không cảm thấy có gì giả dối, khuất tất ở người đàn bà nhỏ bé, đáng yêu này. Chắc ngày trước bà phải xinh đẹp lắm.
“Thời ấy ông thường làm thơ. Thơ ông hay lắm”. Bà khẽ nói rồi bất chợt thở dài. “Vì thế mà tôi đem lòng yêu ông ngay. Ông có nhớ bài thơ đầu tiên ông tặng tôi không? Người con gái nào chẳng xiêu lòng khi được viết tặng những bài thơ như thế. Bài thơ về hoàng hôn, về những giọt nắng bên thềm nào đó, mặc dù lúc ấy ông và tôi ngồi trong nhà vào buổi trưa sau giờ dạy như thường lệ. Cũng có thể ông viết về chiều hôm trước khi rủ tôi cùng đi dạo trên đồi. Trên đồi chứ không phải bên thềm. Nhưng thôi, điều ấy không quan trọng. Cái chính là ông yêu tôi và đã viết nó để tặng tôi. Tôi đọc lại ông nghe nhé?           
          Hoàng hôn. Giọt nắng bên thềm,
          Anh nhặt cho vào tay em.

          Giọt nắng lung linh như ngọc,
          Em định cài lên mái tóc.

          Nhưng Đêm bay đến, và Đêm
          Mang đi giọt nắng của em.

Lúc ấy trời sắp tối, sương bắt đầu rơi, tôi trùm khăn che đầu nên tất nhiên không có giọt nắng nào, mà nếu có cũng không thể cài lên tóc. Nhưng đúng là một bài thơ hay. Con gái tỉnh lẻ chúng tôi vốn dễ xúc động, dễ yêu vì được nịnh bằng thơ...”
Bất chợt bà ngừng lời, như để ông có thời gian bới tìm trong trí nhớ những kỷ niệm cũ bị lãng quên.
Đúng là thơ của ông. Thời ấy ông viết một loạt những bài thơ ngắn, chỉ sáu câu mỗi bài và không có đầu đề. Bài thơ này thì ông nhớ, nhưng ông không nhớ đã từng đi dạo hay không trên đồi với một trong những cô giáo trường bên, và từng viết nó để tặng người ấy. Những bài thơ lãng mạn, pha chút ủy mị, sáo rỗng mãi gần đây ông mới cho in thành một tuyển tập lớn năm trăm trang, với số bản rất ít như mọi tập thơ khác. Ông không nghĩ người đàn bà luống tuổi ở một vùng trung du heo hút có thể biết tới nó để mua, để đọc và thuộc một vài bài trong đó. Vậy là ông đã viết tặng bà mà không nhớ? Nhưng làm sao người ta có thể không nhớ một mối tình với những chi tiết đáng nhớ như thế? Trong đời ông, cả thời trẻ, đâu phải có quá nhiều mối tình.
“Kể cũng lạ”, cuối cùng ông lên tiếng với giọng của người có lỗi. “Đúng là thơ tôi, nhưng thực tình tôi không nhớ có lần cùng đi dạo với bà trên đồi...”
“Nhiều lần chứ không phải một”, bà xen ngang.
“Vâng, có thể. Dẫu sao tôi cũng đã có tuổi, trí nhớ không còn như xưa. Hay bà đọc nó trong tập thơ gần đây nhất của tôi?”
“Không. Rất tiếc tôi chưa có được tập thơ nào của ông, tuy thỉnh thoảng vẫn thấy ông trên ti vi. Hôm ấy ông đọc tôi nghe và tôi nhớ đến tận bây giờ. Một lần nữa, chắc ông cũng quên rồi, cùng nhau ngồi bên bờ suối cho đến lúc trên trời xuất hiện những ngôi sao đầu tiên, ông bỗng cầm tay tôi âu yếm nói:

          Ước gì xâu được sao đêm
          Thành vòng đeo lên cổ em,

          Và những giấc mơ đẹp nhất
          Anh sẽ trải hồng dưới đất

          Để em bước lên... ước gì
          Em đừng vỗ cánh bay đi...

Thật buồn cười. Có ai định bay đi đâu mà phải sợ. Tôi đang yêu và muốn ở bên ông mãi mãi. Tất nhiên đó chỉ là một bài thơ nữa ông mới nghĩ trong đầu, về tôi và dành riêng cho tôi vì lúc đó hình như ông cũng yêu tôi. Ông nhiều lần nói với tôi như thế. Yêu chân thành và bồng bột như tôi yêu ông vậy. Chắc ông chỉ nhớ thơ chứ không nhớ đã cùng tôi ngồi bên bờ suối, trên tảng đá lớn cạnh lối mòn đi xuống, nơi bọn con gái chúng tôi và các ông thường đến tắm và lấy nước. Bây giờ con suối và tảng đá ấy vẫn còn, nếu muốn ông có thể ra xem lại, nhưng phải vòng qua Bưu điện thị trấn mới tới được, vì người ta đã xây nhà, bịt mất lối đi cũ...”
“Vâng, quả thật tôi không nhớ gì cả. Bài thơ đã được in thành sách...”
“Còn tôi thì luôn giữ nó trong tim. Sống với nó và nhờ nó mà sống”, bà nhẹ nhàng cắt ngang.
“Tôi nhớ thỉnh thoảng có ra suối với các cô giáo, nhưng không nhớ có lần nào với bà không”, ông định nói, nhưng lại thôi.
Bà đứng dậy đi vào phía trong, lát sau quay ra với tờ giấy đã ố vàng.
“Đây là cái ông dúi vào tay tôi khi tôi vừa bước ra khỏi cổng trường đúng hai tuần trước khi ông về Hà Nội. Một bài thơ, và cũng là lời hẹn gặp”.
Ông đỡ lấy tờ giấy. Đúng nét chữ của ông, được viết trên loại giấy sổ tay khổ nhỏ có kẻ hàng bằng mực tím bây giờ đã ngả màu.

          Hãy đến cùng anh đêm đêm.
          Chắc không ai nhìn thấy em

          Khi em men theo lối nhỏ
          Của giấc mơ đầy hoa đỏ.

          Hãy ở với anh thật lâu.
          Anh không làm gì em đâu.

“Theo lời hẹn, tôi đã đến và ở lại với ông thật lâu. Mãi đến gần sáng mới về. Không phải trong nhà ông mà trên đồi. Nhưng ông đã không giữ lời hứa “không làm gì em đâu”. Tôi không cưỡng lại được tình cảm của mình. Tôi yêu ông, tin ông và không nghĩ chỉ mấy ngày sau ông bỏ rơi tôi. Tuy nhiên tôi chẳng oán trách ông điều ấy. Không người đàn bà nào có thể oán trách người đàn ông đã tặng mình những “giọt nắng bên thềm” và những ngôi sao đẹp đẽ được xâu thành vòng đeo lên cổ. Vì chúng, cũng không ai có thể quên người đàn ông ấy để yêu người khác...”
Ông cảm thấy nghẹt thở, cay cay ở mắt. Vậy là chính ông đã tặng bà bài thơ ấy. Tức là mọi chuyện có thật, chỉ do ông không nhớ? Và bà đã yêu, đã chờ đợi ông suốt chừng ấy năm và “không yêu người khác”? Có thể bà đã có con, con ông? Ông rất muốn hỏi để biết những điều ấy mà không dám, không nói nên lời.
Đang lúc lúng túng không biết cư xử thế nào thì bỗng có ba tiếng còi ô tô vang lên liên tục. Xe đã chữa xong và đang gọi tìm ông. Ông vội đứng dậy, móc ví lấy tờ giấy bạc một trăm nghìn để lên bàn. Nó bị chiếc quạt trần thổi bay xuống chân ghế.
Ông đi lại gần bà, húng hắng ho rồi nói:
“Người ta đang gọi tôi. Câu chuyện bà kể hôm nay nghe thật lạ. Tôi chẳng nhớ gì và cũng chẳng biết nói gì bây giờ ngoài việc nếu quả tôi đã làm điều gì không tốt với bà thì mong bà hãy tha lỗi cho tôi.”
Bà chủ quán im lặng. Ông đứng thêm chút nữa rồi quay người bước đi, gần như chạy. Khi đã ngồi trên xe, ông giục cậu kia cho xe chạy thật nhanh.
“Nhưng em còn chưa ăn trưa”.
“Chốc nữa đến nơi sẽ ăn”.
Đã hai giờ chiều. Trời không mưa nhưng u ám. Không hoàng hôn. Không giọt nắng bên thềm. Không cả những vì sao và giấc mơ hồng trải trên mặt đất. Không có gì ngoài những ngọn đồi nhấp nhô buồn tẻ và sự trống rỗng xen thoáng lo sợ mơ hồ trong lòng.
Ông lơ đãng nhìn ra ngoài, thầm điểm lại cuộc đời mình vốn được coi là thành đạt nhưng thực ra đầy bất hạnh, nhất là chuyện gia đình, con cái. Bây giờ ông gần như tin hoàn toàn vào sự có thật những điều bà nói.
Và thầm hình dung sẽ thế nào nếu ông không hèn hạ bỏ rơi bà ngày ấy. Cũng có thể là bỏ rơi cả hạnh phúc của chính ông cùng những giọt nắng và chuỗi sao đêm được ông hái xuống xâu thành vòng lấp lánh.
          Hà Nội, 2004                                                                                                           

GIÓ LỠ THÌ

Vài năm một lần ông lại “đi công tác xa”, tức là xuống vùng quê nào đó trong bán kính một trăm ki-lô-mét cách trung tâm Hà Nội để, như ghi trong giấy giới thiệu, “sưu tầm văn hóa, văn học dân gian, xin nhờ các tổ chức và cá nhân liên quan hết lòng giúp đỡ”. Với ông đó là loại công việc dễ chịu, vì tiếng là đi công tác mà ông được tự do tuyệt đối, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Tới nay ông đã sưu tầm được khối điều thú vị trong lĩnh vực này, là đồng tác giả của mấy cuốn sách nghiên cứu về tục ngữ ca dao và chuyện cổ tích, thậm chí cả dân ca quan họ, dù ông mù tịt về âm nhạc.
Nhưng lần này thì ông lên đường vì mục đích riêng tư và khác hẳn, tất nhiên khi đề nghị cơ quan cấp giấy công tác thì ông vẫn là cán bộ sưu tầm vốn cổ dân tộc, vì ông không muốn chi tiền và thời gian của riêng mình, là cái vốn chẳng bao giờ có nhiều.
Số là một hôm ngẫu nhiên ông được đồng nghiệp đọc cho nghe bốn câu thơ của một nhà thơ nào đó mà cả ông lẫn đồng nghiệp đều không biết. Bốn câu lục bát hiện đại giản dị và cô đọng, tinh tế như ca dao cứ làm ông bâng quơ suy nghĩ mấy ngày liền, và cuối cùng đưa ông đến quyết định ra đi, không phải “sưu tầm” như mọi lần mà “đi tìm hiểu thực tế”, tìm hiểu cái gì gì và cách nào thì quả lúc ấy ông chưa rõ lắm. Bốn câu thơ ấy thế này:

          Chị đi kháng chiến trở về,
    Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
          Mưa qua đi, nắng qua đi,
    Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...

Nghe xong, ông ngồi lặng người một lúc rồi lên tiếng, không hiểu sao giọng buồn hẳn đi:
“Hay! Hay tuyệt! Chỉ mấy câu mà nói hết, nói sâu sắc cái đau của một lớp người anh hùng bất hạnh. Tớ nghe mà thấy rồn rộn trong người. Không hiểu bây giờ họ thế nào nhỉ, những con người ấy, những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì ấy?”
“Ế chồng chứ còn sao nữa, - ông đồng nghiệp nói, giọng cũng xa vời. - Mà họ đâu có một vài người, một vài trăm người. Hàng vạn, hàng chục vạn cơ đấy. Cái đau không nói nên lời, “chỉ thoáng nghe trong gió” như lời một bài hát của tay Bob Dylan người Mỹ, và bây giờ là “ngọn gió quê” của anh nhà thơ này. “Gió lỡ thì”. Tự dưng chẳng lỗi của ai mà mình như có lỗi. Cậu không thấy thế à?”
“Thấy”.
“Thấy mà chẳng làm gì được. Mà họ sống ngay bên ta, những con người cụ thể bằng xương bằng thịt. Nghe nói có cả những đội sản xuất, những làng toàn phụ nữ lỡ thì, những người một thời từng xinh đẹp, trẻ trung, nhí nhảnh yêu đời. Thế mà...”
Ông đồng nghiệp nhắc tên một số nơi những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì đang sống.
“Thế à?”
Ông ngước mắt, hỏi, và chỉ ít phút sau quyết định đi đến với họ.
Ông thuộc loại người sởi lởi, chân thành và cả tin. Nếu gọi những người có gia đình ba đời sống ở Hà Nội là dân thủ đô thì ông đúng là dân thủ đô. Lịch sự và tế nhị. Nhưng có lẽ vì chính sự lịch sự và tế nhị ấy mà trong mọi chuyện ông cũng cân nhắc, tính toán ra phết. Li dị vợ đã năm năm nay và dù chưa đến năm mưoi, lại đẹp trai, hào hoa, ông vẫn ngần ngại không đi bước nữa. Bạn bè bảo thế là khôn, vừa được tự do chơi bời lại chẳng phải gắn bó với người nào. Chắc điều này cũng nằm trong tính toán của ông. Kinh nghiệm chẳng mấy vui vẻ với bà vợ trước làm ông thấy sợ. Những người phụ nữ ông quan hệ sau này chẳng tìm được cớ gì để trách ông, mặc dù ước mơ (và đôi khi cả âm mưu) được làm vợ, ở chung với ông trong ngôi nhà mặt tiền phố Hàng Mắm rút cục không thành. Cuối cùng thì họ đành chấp nhận “làm bạn” cho đến khi ông chán họ rồi sau đó, dẫu ấm ức trong lòng, vẫn tiếp tục yêu con người lẳng lơ đáng yêu ấy. Còn điều nữa là ông rất dễ xúc động. Nhiều khi xem phim một mình ở nhà, ông thút thít khóc, và vì không có ai nên ông cứ để nước mắt tự do lăn trên má. Phim “Những cô gái ngã ba Đồng Lộc” là một thí dụ. Ông khóc suốt từ đầu chí cuối mà chẳng chút xấu hổ vì sự mau nước mắt của mình. Tính ông nó vậy. Mấy câu thơ về các cô gái lỡ thì này cũng làm ông xúc động chân thành, chưa đến mức chảy nước mắt nhưng rất xúc động. Thế là với chiếc túi du lịch trên tay, ông ra đi, lòng xốn xang những ý nghĩ bâng quơ cao thượng, cứ như ông đang đến giúp họ bằng cách cưới một trong những cô gái tội nghiệp ấy.
Nơi ông đến là một xã miền núi ở tỉnh Hòa Bình. Xã mới được thành lập và toàn dân miền xuôi được bổ sung từ mấy nông trường bên cạnh đã giải thể. Nó vẻn vẹn chỉ ba làng cách nhau không xa, nằm lọt thỏm trong thung lũng giữa hai ngọn núi lớn trên đường từ quốc lộ sáu rẽ vào Kim Bôi. Không thấy bóng chiếc nhà sàn nào, đàn ông, thậm chí trẻ con cũng rất ít. Chỉ trâu bò là nhiều. Chúng nhởn nhơ gặm cỏ trên các mé đồi hoặc hai bên đường. Mặt trời ngả về tây và đang sắp khuất sau núi. Nửa quả đồi xa xa được nắng chiếu sáng có màu vàng rực như trong bức sơn mài “Chiều Tây Bắc” nổi tiếng.
Ông chút ít cụt hứng khi thấy chủ tịch xã, người bao giờ ông cũng tìm gặp đầu tiên khi tới công tác ở địa phương nào đó, là phụ nữ, hơn thế còn khá trẻ, khoảng ba mươi lăm, cùng lắm chỉ bốn mươi. Chị chủ tịch (hay cô chủ tịch? ông thầm hỏi và thấy ngồ ngộ) rót chén nước chè đắng mời ông rồi cúi xuống chăm chú đọc tờ giấy giới thiệu công tác của khách. Ông thì vừa nhấp nước vừa lén nhìn. Chị khá xinh, cái xinh khỏe mạnh, đậm đà của người phụ nữ nông thôn giản dị và sạch sẽ ở cái tuổi ấy. Tóc chị búi ngược, để lộ cái cổ tròn trĩnh với những sợi tóc mềm ươn ướt mồ hôi. Cặp môi dày mọng có vẻ đa tình, nhưng cũng vừa có vẻ cương quyết, nhất là lúc này, khi chị đang mím chặt, căng thẳng đọc tờ giấy. Giữa cánh mũi bên phải và môi trên có một nốt ruồi kích thước vừa đủ, vị trì vừa đẹp và màu sắc vừa độ để bất kỳ một ca sĩ đô thành nào cũng mong muốn có.
“Vậy cụ thể chúng tôi có thể làm gì để giúp... - chị chủ tịch nhìn khách chọn cách xưng hô - để giúp anh?”
Ông lúng túng không biết nói thế nào. Chẳng nhẽ bảo tôi lên đây tìm hiểu cuộc sống những cô gái thanh niên xung phong lỡ thì?
“Chị biết đấy, - ông ngọ ngoạy mãi trên ghế rồi đáp. - Chúng tôi là một cơ quan nghiên cứu ở Hà Nội. Chả là người ta đang có chương trình nghiên cứu hậu quả chiến tranh, ý tôi nói về mặt xã hội, con người chứ không phải kinh tế, và tôi được cử về địa phương ta đây để... - Ông lại lúng túng. - Chị biết đấy, biết bao con người ưu tú, nhất là các cô gái của chúng ta, xung phong ra chiến trường, vì độc lập, tự do của đất nước đã hy sinh tuổi trẻ của mình... Vâng, đúng thế, đó là một bi kịch, bi kịch ghê gớm của chiến tranh. Họ đã đem hạnh phúc riêng tư của mình trả giá cho sự nghiệp chung...”
Cuối cùng thì chị chủ tịch xã cũng hiểu, và ông lấy làm mừng rằng một người vừa phải đánh vần tờ giấy lúc nãy lại tinh tế như vậy.
Chị nhìn ông bằng cái nhìn buồn buồn pha chút diễu cợt:
“Vậy thì tôi nghĩ họ phải cử người khác đi thay anh mới phải”.
“Có lẽ vậy. Nhưng cơ quan tôi ít người, vả lại các bà ấy ngại đi xa”.
Cả buổi chiều hôm ấy ông được chị chủ tịch xã kể cho nghe những gì ông muốn biết. Có thể trình độ văn hóa không cao, nhưng chị diễn đạt lưu loát, không ít khi pha chút đùa hóm hỉnh khiến ông khách mỗi lúc một thấy cảm tình. Ông ghi kín đặc ba trang giấy các con số và tên người cùng những điều ông cho là đáng chú ý. Hóa ra cái xã Kim La này cũng khá đặt biệt và đúng là địa chỉ ông cần tới. Nó trước là một phần của xã Kim Anh kề bên. Cuối những năm tám mươi, cùng một lúc cả hai nông trường quốc doanh trên địa bàn giải thể, đất nông trường chia cho công nhân làm nhà và canh tác. Thế là thành xã mới. Đó cũng chuyện bình thường, điều đáng nói là công nhân hai nông trường này chủ yếu là nữ, do được bê hầu như nguyên xi mấy đơn vị nữ thanh niên xung phong từ miền Nam ra khi mới giải phóng. Cái việc ế chồng của họ một thời được báo làm ầm ĩ, thậm chí người ta còn tổ chức hội thảo bàn cách giải quyết nhưng rồi đâu lại vào đó, chẳng thêm cô nào kiếm được chồng mà nông trường thành ra tai tiếng với cái tên “ế chồng” kèm theo. Địa phương cũng bị vạ lây. Một dạo người ta khôn khéo làm lễ kết nghĩa với các đơn vị bộ đội và xí nghiệp trong vùng, nhưng kết quả chẳng hơn gì, chỉ thêm nhiều đứa con hoang ra đời.
“Sao sau chiến tranh các cô ấy không về quê?” ông hỏi.
“Nhiều người về. Nhưng cả lúc ấy họ cũng đã quá lứa. Vả lại được vào biên chế nhà nước là cám dỗ lớn”.
“Vậy là chịu, chẳng ai làm được gì giúp họ?”
“Chuyện này thì giúp sao được. Mà rồi cũng không đến nỗi như anh nghĩ đâu. Cuộc sống vẫn bình thường, năm nào xã chúng tôi cũng đạt danh hiệu xã văn hóa. Sinh đẻ kế hoạch thì còn phải nói. Một nửa chị em đã yên phận, tức là có chồng chính thức, làm lẽ, hoặc có con ngoài giá thú. Ở đây cả hai điều này không bị phê bình mà còn được khuyến khích”. 
Ông do dự một chốc rồi hỏi:
“Chị cũng từng là thanh niên xung phong?”
“Tất nhiên, 85% hộ gia đình trong xã chúng tôi là thanh niên xung phong, trong đó nữ chiếm 70%. Nhưng đừng ái ngại cho tôi. Tôi là người may mắn, tôi đã có chồng và gia đình hạnh phúc”.
Lúc ấy trời đã tối. Không còn cách nào khác, bà chủ tịch xã mời khách về nhà mình, và cũng do không biết đi đâu, khách nhận lời.
Bữa ăn tối có bốn người, tức là thêm một bà cụ chắc phải hơn tám mươi tuổi nhưng còn minh mẫn, luôn miệng ăn trầu sau khi đã nghiền kỹ trong chiếc cối nhỏ bằng đồng cầm trên tay, và một đứa bé gái khoảng mười tuổi, hai mắt cứ mở to nhìn khách đến mức quên cả ăn. Nó là cháu ở quê dưới xuôi, vất vả lắm mới được đồng ý cho đưa lên đây “ở cho vui”. Trước đó, dọc đường đi, chị chủ nhà cho biết chồng chị là bộ đội đang ở xa, và họ mới lấy nhau nên chưa có con.
Ở vùng núi đêm đến sớm, đen hơn, và khác với người ta thường nghĩ, chẳng mát hơn chút nào. Ông xách ghế ra sân ngồi, lơ đãng ngước nhìn bầu trời sao dày đặc như mạng nhện lúc ban mai của một ngày sương mù. Lòng ông lại gợn lên nỗi bâng khuâng vu vơ, sự xúc động nhẹ nhàng và cả thoáng buồn không tên như khi mới nghe bốn câu thơ kia. Chị đi kháng chiến trở về/ Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì/ Mưa ra đi, nắng ra đi/ Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Căn nhà chị chủ tịch khá kiên cố, mái bằng, tường gạch với hàng hiên một nửa nhô ra rộng, rất đặc trưng cho vùng chiêm trũng Hà Bắc. Không có ngọn gió quê, lỡ thì lại càng không vì chị đã có chồng. Cái buồn thì có, nhưng đó là cái buồn bình thường của nơi hoang vắng, của sự nghèo đói chứ không thi vị như trong thơ. Không hiểu sao bỗng dưng ông cũng thấy buồn buồn, mặc dù chuyến đi của ông thành công hơn dự định. Ông đã biết những điều ông quan tâm, đã gặp “người thật việc thật”, mai chỉ còn đi tới hai làng còn lại, vào một vài nhà, nói chuyện với dăm người nữa là coi như kết thúc. Sau thì sao? Chẳng sao cả. Cơn xúc động bột phát sẽ qua đi, những ý tưởng lãng mạn sẽ qua đi, thậm chí cả mấy câu thơ tuyệt diệu kia cũng dần dần bị lãng quên. Nghĩa là tất cả sẽ qua đi như “mưa qua đi, nắng qua đi”, và với ông, thay cho nỗi buồn là công việc và cuộc sống hàng ngày ở lại, gấp gáp mà đơn điệu, ồn ĩ mà buồn chán.
Ông ngủ trên chiếc ghế dài bằng gỗ trải đệm mút ở phòng khách, nhất định không chịu để chị chủ nhà nhường phòng mình cho ông. Bà cụ và con bé ngủ ở phòng trong, gần như ngay sau bữa ăn tối. Tưởng đi cả ngày mệt sẽ dễ ngủ, thế mà ông vẫn trằn trọc mãi. Có thể tại đêm yên tĩnh quá. Rồi ông cũng thiếp đi, láng máng nghe tiếng chị chủ nhà trở mình ở phòng bên. Ông mơ thấy cả một rừng các cô gái cởi bỏ áo lính chạy ào xuống suối tắm. Các cô tắm lặng lẽ, không té nước đùa nghịch mà ôm mặt khóc, cũng lặng lẽ. Sau đó đột nhiên cả rừng cô gái ấy tồng ngồng chạy vào rừng, vừa chạy vừa cười sằng sặc và làm những động tác kỳ quặc của người điên. Họ chạy cả vào căn nhà nhỏ của ông ở Hà Nội, túm quanh ông như van xin điều gì. Họ khóc. Ông cũng khóc.
Ba giờ chiều hôm sau, khi chia tay xong xuôi với mọi người, Ông được một cậu thành niên (do chị chủ tịch xã yêu cầu) chở lên phố huyện để bắt xe về Hà Nội. Anh này vui tính và bạo mồm bạo miệng, mặc chiếc áo thổ cẩm có khuy ngang bằng vải như của người Tày, nhưng chắc là người miền xuôi, có thể quê Sơn Tây - Ba Vì, nếu căn cứ vào giọng nói.
“Cảm ơn ông bác đã đến xã em. - Anh ta cười toe toét. - Chuyến này thì chắc xã em tăng nhân khẩu”.
“Cậu nói gì tớ không hiểu”, ông hỏi lại.
“Thì đêm qua ông bác chẳng ngủ ở nhà bà chủ tịch đấy sao?”
“Cái cậu này láo. Người ta có chồng rồi, nhảm nhí!”
“Ai bảo ông bác thế?”
“Bà ấy chứ còn ai. Chồng người ta đi bộ đội xa, thế mà cậu lại láo lếu nói bậy”.
“Thế thì thật tiếc cho ông bác. - Anh kia cười, giữa chừng đột nhiên im lặng, giọng trầm hẳn xuống. - Tiếc cho cả bà chủ tịch nữa. Bà ấy là người tuyệt vời đấy, vì tìm mãi không thấy người thích hợp nên mới ở vậy. Bà ấy kiêu lắm. Nhưng gặp ông bác thì chắc là “đổ” rồi. Chí ít cũng muốn xin đứa con Hà nội”.
Ông lại mắng anh ta, rồi từ đó cho hết quãng đường còn lại ông im lặng, nghĩ quẩn quanh về cái tin mới được nghe, trong khi anh kia vẫn không ngớt lời ca ngợi bà chủ tịch xã mình.
                                                  *
Chưa đầy một tháng sau ông lại lên Kim La, vì việc riêng chứ chẳng liên quan gì đến “công trình nghiên cứu xã hội” mới rồi, và tất nhiên ông không vào trụ sở ủy ban xã mà vào thẳng nhà chị chủ tịch, tuy không phải không chút do dự.
Suốt cả tháng trước đó ông ở trong tâm trạng kỳ cục, có thể nói lần đầu tiên trong đời ông gặp. Ông luôn nghĩ tới người đàn bà trẻ hẩm hiu, bình dị và hấp dẫn này, một sự hấp dẫn ông không lý giải nổi. Nhiều khi ông tự hỏi phải chăng mình đang yêu, ở lứa tuổi gần năm mươi? Lại ông, một người thừa từng trải và không muốn gánh thêm gánh nặng gia đình, đơn giản vì ích kỷ? Không, ông lắc đầu. Nếu vậy thì là cái gì? Ông cũng lắc đầu không trả lời nổi. Nhưng rõ ràng đang có cái gì đó mới lạ xuất hiện trong ông, và ông lấy làm sợ do không biết thế là tốt hay xấu. Sao không thể yêu và lấy cô ấy làm vợ nhỉ? - đôi lúc ông nghĩ. Cô ấy còn trẻ, dễ nhìn, thông minh và tế nhị, lại là một cựu thanh niên xung phong ai cũng ái ngại muốn giúp mà bất lực. Mình có bất lực thật không? Cô ấy thuộc loại người mới lạ, là cái chẳng phải mình luôn khao khát đó sao? Rồi ngay lúc ấy chính ông lại hoảng sợ cái mới lạ ấy khi ông hình dung cô về sống ở Hà Nội, tại nhà ông ở phố Hàng Mắm. Ông có thể giúp giảm bớt một ca bị ế vì chiến tranh, là điều đáng ca ngợi và thực sự ông muốn làm. Nhưng bạn bè ông sẽ nghĩ thế nào, cô ấy sẽ sống thế nào trong môi trường thành phố, trong giới cán bộ trí thức của ông, khi bản thân cô hình như phải đánh vần mỗi lần đọc cái gì đó? Hay đơn giản coi như  một dạng bồ bịch, nếu cô ấy chấp nhận, và nếu muốn nữa thì cho một đứa con? Không, không được. Đây là trường hợp khác hẳn, cô ấy là người khác hẳn nên không làm thế được. Vậy thì phải làm gì?
Đầu óc ông cứ quẩn quanh mãi những ý nghĩ mâu thuẫn như vậy, trong khi trái tim dường như mỗi ngày một xích lại gần hơn với chị. Cuối cùng thì ông quyết định quay lại tìm chị, dù không rõ mình thực sự muốn gì.
Không biết lần ấy họ gặp nhau như thế nào, nói với nhau những gì, chỉ biết sau đó, trong vòng nửa năm ông còn lên Kim La bốn lần nữa, và bây giờ thì chính chị chủ tịch đang chuẩn bị về Hà Nội, Để gặp ông, tất nhiên có kết hợp tí việc, nhưng chủ yếu vẫn để gặp ông, vì chị đã hứa nhiều lần.
Cả tuần nay chị chuẩn bị cho chuyến đi này. Dẫu chẳng lần đầu tới thành phố nhưng rõ ràng đây là chuyến đi đặc biệt, và chị rất lo lắng. Chị chỉ ghé thăm ông một chốc, “cho biết nhà” rồi về, thế thôi. Xưa nay chị luôn kính trọng, gần như ngưỡng mộ những người đàn ông thành phố lịch sự, có học và sang trọng. Bây giờ một người như thế đến với chị, người ấy đã li dị, sống một mình và, điều này mới quan trọng nhất, tôn trọng và theo như chị cảm nhận, cũng thương yêu chị. Không nói thành lời nhưng “anh ấy” đã tỏ ra thế, và trái tim trong trắng bốn mươi tuổi của chị nhận thấy điều đó. Nó đập rộn mỗi lần nghĩ tới “anh ấy”. Chị đang sống trong hạnh phúc pha chút lo sợ mơ hồ khi hình dung thấy mình có chồng, có con, lại được sống ở thủ đô. Đứa con của chị thật đẹp, con trai, không hiểu sao chị nghĩ nhất định sẽ là con trai. Nó giống “anh ấy” như đúc, dù chị cũng có nhiều nét đẹp nhưng chị sẵn sàng để nó giống anh. Còn chị sẽ lặng lẽ chăm sóc anh từng ly từng tí một cách trung thành mà không đòi hỏi chút gì cho mình. Có điều, nếu mỗi lần đi làm về anh hôn vào má chị như trong phim, thì chị sẽ rất xấu hổ, thích nhưng vẫn xấu hổ. Nhiều đêm chị không ngủ vì ngây ngất tình yêu, thứ tình yêu muộn mằn mà bồng bột. Chị đã khóc vì sung sướng, tay vuốt vuốt bụng như nâng niu đứa con tương lai. Vậy là chị sẽ có con như nhiều người khác, không phải “con xin”, mà con hợp pháp, con có bố làm ở Hà Nội.
Sau rất nhiều cân nhắc, chị quyết định mua tặng “anh ấy” ba mét vải thổ cẩm đặc sản của vùng chị, và sẽ tự tay khâu cho anh một chiếc bao đựng kính cũng bằng thứ vải ấy. Vải không mua ở chợ Lùng vì như thế sẽ thành thứ vải bình thường. Thay vào đó, chỉ bỏ công vào tận bản Dóc cách hơn hai mươi cấy số, lùng sục từng nhà tìm bằng được thứ chị vừa ý, lại còn bắt sửa chỗ này cắt chỗ kia, và lần đầu tiên chị mua bán mà không hề mặc cả. Cầm tấm vải mịn mát lạnh trên tay (nhưng màu khá sặc sỡ) chị sung sướng hình dung “anh ấy” sẽ cắt nó thành áo mặc diện ngoài phố mà không biết rằng đàn ông Hà Nội tuổi anh chỉ thích mặc com-lê và áo sơ mi cô-tông nhã màu. Còn chíêc bao đựng kính thì không vất vả lắm vì chị giỏi may vá thêu thùa do học được những năm ở Trường Sơn. Mỗi bên chị thêu một bông hoa, hoa cúc, với những chiếc lá bé tí màu xanh, còn hoa thì bông vàng bông trắng. Các đường thêu tỉ mẩn và rất đẹp, có thể bố cục không hợp, nhưng thế cũng khá lắm rồi nếu so với đôi chim bồ câu lồng cánh và hai chữ cái uốn éo lồng nhau của thời trước. Đêm ngủ, chị đặt tấm vải và bao kính lên ngực rồi mỉm cười một mính trong bóng tối.
                                                  *
Ông ra tận bến xe đón chị. Chị ngồi sau xe máy, chiếc nón bài thơ mới quang dầu bóng loáng có hình chìm những bông hoa to và đôi chim bồ câu đang bay quanh trái tim hình con cơ lộn ngược, làm chị và ông hơi vướng. Một bên chị xách chiếc lồng tre đựng hai con gà, bên kia, đeo kè kè sát hông là chiếc túi đầm giả da thường thấy bán ở phố huyện. Tất cả đều mới, thậm chí cả lồng gà. Cả chiếc quần bò và chiếc áo thun len cũng mới, dù thường ngày chị thích mặc những thứ giản dị bằng vải mềm. Không hiểu sao chị thấy sờ sợ, hai má đỏ ửng, nhất là khi đi qua chỗ đông người, một con gà bỗng gáy to. Là người lịch sự, ông Huấn lờ đi như không nghe. Ông cố tình đèo chị qua mấy phố có những tòa nhà cao, qua hồ Hoàn Kiếm, Nhà Hát Lớn rồi mới về nhà mình. Ông muốn mà không dám giới thiệu các điểm nổi tiếng của thủ đô vì sợ chị có cảm giác mình là dân nhà quê. Đến phố Cầu Gỗ, một vài người bạn đang uống bia nhìn thấy họ, kêu to gọi ông nhưng ông không nhìn, không đáp.
Một buổi chiều trôi qua dễ chịu. Chị xuống bếp làm gà, chuẩn bị bữa ăn, thầm sung sướng được dọn dẹp căn bếp dẫu hiện đại, sạch sẽ nhưng vẫn bừa bộn theo cách của một người đàn ông sống độc thân. Còn ông thì xăng xái bên cạnh xin được giúp đỡ. Chị chỉ cười, nói không cần, nên cuối cùng ông ra ngồi hút thuốc trên chiếc xa lông bọc da êm ái ở phòng khách, với sự hài lòng của một ông chủ gia đình đang được hưởng sự chăm sóc cảm động của người vợ, hay cũng gần như thế. Cảm giác này làm ông xúc động, và ông nghĩ sẽ không tồi nếu có được người vợ như chị. Lúc này thì tình cảm chân thành và sự hào hiệp đang lấn át những lo lắng và tính toán thực dụng của cuộc sống đời thường.
Ông mở một chai rượu ngoại màu đỏ sẫm, rót ra hai chiếc cốc pha lê  tay cầm rất dài và mảnh:
“Uống đi em. Nhẹ thôi mà. Để kỷ niệm ngày hôm nay. Nào, vì hạnh phúc của em, của anh. Của chúng ta!”
Như ông, chị uống một hơi hết cốc rượu hạnh phúc ấy. Sau đấy chị còn uống thêm mấy cốc nữa. Mặt chị, thậm chí cả chiếc cổ dài tròn trĩnh, bắt đầu đỏ ửng, vì rượu và cả vì hạnh phúc. Hơi chút ngượng ngập, họ trao đổi những lời âu yếm, những câu hỏi đáp bâng quơ không ăn nhập, chủ yếu làm phần đệm, làm nền cho những cái nhìn kéo dài cũng âu yếm không kém. Chị cảm thấy như có dòng điện nhẹ chạy khắp người khi lần đâu ông cầm tay mình. Bản năng mách chị muốn rút lại nhưng chị không làm nổi. Chị cũng bất lực khi ông khẽ chạm môi mình vào môi chị rồi kéo nhẹ về phía chiếc giường. Cơ thể khỏe mạnh, trinh trắng của chị run run khi tay ông lóng ngóng lần cởi từng chiếc cúc áo của chị...
“Cái gì thế anh?” Chị giật mình, khẽ hỏi khi ông lấy từ dưới gối chiếc bao cao su màu đỏ.
“Safe sex!”
“Tức là cái gì?”
“Là OK! Tình dục an toàn, em ạ”.
“Ồ không! Đừng anh! Em không thích cái ấy! Đừng! Đừng dùng nó!”
Chị kêu lên rồi ôm mặt khóc. Ông do dự một lúc rồi vứt chiếc bao xuống sàn nhà. Ông nằm ngửa, cũng trần truồng như chị, mắt nhìn trân trân lên trần. Vào phút chót, ông lại bị những toan tính thực tế và nỗi lo sợ mơ hồ chi phối. Chị nằm bên, quay mặt vào tường, và vẫn khóc.
“Anh yêu em... Anh xin lỗi...”, ông nói, tay âu yếm vuốt ve cơ thể bất động của chị.
Chị nằng nặc đòi ra về. Không giữ được, ông lại đèo chị ra bến xe. Chiếc nón bài thơ vẫn vương vướng vào lưng ông như trước. “Anh xin lỗi”, ông lại nói, nhưng chị không nghe thấy vì tiếng ồn đường phố, và cả vì chị đang nghĩ về đứa con trai đáng lẽ chị đã có nhưng giờ thì có lẽ sẽ không bao giờ có nữa. Một bên hông chị vẫn là chiếc túi đầm phố huyện mới mua, đựng ba mét vải thổ cẩm và chiếc vỏ kính chưa tặng.
                                                  *
Ngay sáng hôm sau, với vẻ mặt phờ phạc của người mất ngủ và lo nghĩ nhiều, ông lại lên Kim La. Chị chủ tịch không có nhà. Ông chờ suốt cả buổi chiều, mãi đến tối mịt vẫn không thấy chị về. Con bé ê a học bài trong nhà. Còn bà lão mẹ chị thì ngồi bất động nhìn không chớp cái gì đấy ngoài vườn. Mãi đến bây giờ ông mới phát hiện thấy bà bị mù.
          Chị đi kháng chiến trở về,
   Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
          Mưa qua đi, nắng qua đi,
  Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...

Bốn câu thơ kia lại lởn vởn trong đầu ông. Chúng thật buồn. Ngôi nhà ông đang ngồi đây cũng thật buồn. Không thông thốc, nhưng hiện đang có gió, ngọn gió lạnh đầu đông ở vùng núi, và nó cũng đượm buồn. Có thể chị không biết những câu thơ này, nhưng chắc không ít lần phải chịu cái buồn được nói một cách tinh tế ấy trong thơ. Không chỉ mưa nắng, mà một người đàn ông đến với chị, rồi người đó cũng ra đi, làm nỗi buồn càng buồn hơn. Ông thấy thương chị, thương cho cả chính mình. Không, ông sẽ ở lại. Ông rút thuốc hút, quyết tâm chờ tiếp, chờ hết đêm nay, chờ cả ngày mai, ngày kia, chờ cho đến lúc chị về. Ông biết chị đang ở đâu đó rất gần và đang theo dõi cái quyết tâm ấy của ông.
Hà Nội, 26. 8. 2004

                                                           
BÀN TAY HÌNH CHIẾC LÁ
                                                           
Con bé đứng giữa trời mưa. Nó bị mù. Mưa bé thôi. Cơn mưa phùn dai dẳng thường có vào dịp cuối năm. Những giọt nước li ti bám vào mặt, vào quần áo, lâu dần cũng đủ lớn chảy thành từng dòng. May không lạnh lắm, nhưng sự ẩm ướt kéo dài, đường phố bẩn thỉu và bầu trời u ám gây cảm giác nặng nề khó chịu.
Nó cũng hẵng còn bé. Nhìn bề ngoài người ta chỉ đoán khoảng bảy, tám tuổi. Nhưng có thể nó đã mười, thậm chí mười lăm. Những đứa trẻ ăn mày như nó khó đoán tuổi lắm, nhất là khi lại mù và trông khá tiều tụy. Nó đứng đầu ngõ chợ, dưới gốc cây bàng chưa kịp ra lá, nên mưa dù nhỏ, quần áo nó vẫn ướt sũng từ bao giờ. Tại sao nó không vào đứng dưới hàng hiên  hiệu thuốc bên cạnh? Có thể chủ cửa hàng không cho. Có thể vì mù nó không biết. Cũng có thể cần cây bàng để tựa, vì nó đứng chứ không ngồi, mà có lẽ đã đứng như thế từ lâu và sẽ còn lâu nữa.
Ngồi làm việc ở phòng mình trên tầng hai ngôi nhà đối diện, tôi lặng lẽ quan sát nó. Nó đứng yên hầu như bất động, người co lại để chống đỡ với mưa gió. Nếu nó đứng trên chạng ba cây bàng thì có thể nghĩ đó là một con cú đang thiu thiu ngủ. Hình như nó cũng đang thiu thiu ngủ. Nó chìa bàn tay trái trước mặt. Một bàn tay nhỏ bé, khum khum màu vàng nhợt vì bẩn và vì đau ốm, trông giống những chiếc lá bàng nửa xanh nửa vàng rụng đầy dưới chân. Nó đeo cái bị hay cái túi gì đấy sau lưng. Bên dưới là chiếc mủng tre với mấy tờ giấy bạc nhàu nát và một ít thức ăn được người ta vứt cho từ bao giờ. Cả tiền và thức ăn đều ướt, cũng bẩn và lạnh như chính nó. Tôi thấy nó luôn im lặng, khác hẳn những người ăn mày lắm lời ta thường gặp. Nó chỉ đứng thế, bất động, trừ một lần có chiếc xích lô chở hàng cồng kềnh va vào làm nó phải bám lấy thân cây mới không bị ngã. Sau đó nó trở lại tư thế cũ. Đôi mắt mù trắng đục vô cảm nhìn phía trước, cùng hướng với bàn tay hình chiếc lá bàng héo úa.
Vốn dễ xúc động và hay phân tán tư tưởng, từ khi thấy nó tôi chẳng thể tập trung làm việc được nữa. Tôi đang viết một truyện ngắn có hậu, có nắng ấm, cây xanh và nhiều khuôn mặt hạnh phúc. Tôi hơi khó chịu vì nó làm hỏng một ngày làm việc của tôi, vô tình cứ bắt tôi chú ý đến nó. Ngõ chợ luôn đông người ra vào, mà tôi chẳng thấy ai cho nó gì. Nó cũng chẳng mở mồm xin ai cái gì. Chỉ chìa tay đứng thế. Và chiếc lá bàn tay ấy chẳng nhận được gì ngoài những giọt mưa li ti nhão nhoẹt...
Bất chợt, thay cho truyện ngắn đầy nắng ấm và hạnh phúc định viết, tự lúc nào không biết, trong đầu tôi đã hình thành một bài thơ buồn. Bài thơ về nó, cái con bé ăn mày tội nghiệp ấy.
                             
                                        Trời mưa phùn lất phất,
                                        Gió lạnh thổi suốt ngày.
                                        Em bé mù hành khất
                                        Đứng bên đường, chìa tay.

                                        Bàn tay em để ngỏ,
                                        Suốt từ sáng đến trưa
                                        Chỉ xin được ít gió,
                                        Chỉ được cho ít mưa.

                                        Bàn tay như chiếc lá
                                        Bị gió ngắt lìa cành,
                                        Dù nhăn nheo, tàn tạ,
                                        Nhưng hình như còn xanh.

                                        Cuộc đời này oan trái
                                        Đã cướp hết của em,
                                        Chỉ trớ trêu chừa lại
                                        Bàn tay chiếc lá mềm.

                                        Mưa phùn, mưa buồn bã.
                                        Em trơ trọi giữa đời.
                                        Bàn tay hình chiếc lá
                                        Đầy những giọt mưa rơi...

Cảnh đã buồn. Bài thơ ngẫu hứng này càng làm tôi buồn thêm. Buồn vì sự bất lực của bản thân và sự vô bổ của cái nghề văn chương trót cả đời đeo đuổi. Bài thơ có thể chân thành và xúc động, nhưng không lẽ mang xuống đường đọc cho nó nghe để nó biết tôi thương nó thế nào? Cả bài thơ và tình thương ấy của tôi có làm nó đỡ lạnh và no hơn không? Tôi ngồi đây, trong căn phòng tiện nghi ấm áp, no đủ và hạnh phúc để viết về nó, một đứa bé ăn mày mù cả hai mắt, trạc tuổi con tôi, đứa con mà tôi đang vất vả bắt không được ăn những thứ béo bổ để khỏi phát phì. Cả tôi và vợ tôi cũng đang phát phì vì ăn quá nhiều và quá ngon.
Vậy phải chăng tôi đã viết những dòng chân thành mà giả dối? Thậm chí đạo đức giả? Không lẽ thực sự tôi không thể làm được điều gì hơn để giúp nó, chính xác hơn là giúp mình thoát khỏi những mặc cảm trên? Tất nhiên là có. Tôi có thể - và dự định chốc nữa sẽ làm ngay - cho nó ít tiền, ít thức ăn như nhà tôi từng cho nhiều người cơ nhỡ khác. Nhưng sau đấy thì sao? Những đứa khác như nó, mà chắc không ít ở cái thành phố rộng lớn này, thì sao? Phải chăng với ít tiền, ít thức ăn ấy, tôi có thể mua được sự thanh thản cho lòng mình để viết tiếp câu chuyện đầy nắng và hạnh phúc kia của tôi?
Tôi cứ quẩn quanh mãi với những ý nghĩ không mấy vui vẻ ấy. Trong khi đó con bé vẫn đứng yên bất động bên gốc bàng với bàn tay nhỏ xíu đang chìa ra phía trước. Trên lòng bàn tay khum khum như chiếc lá ấy vẫn chẳng có gì ngoài những giọt mưa nhỏ và lạnh.
Thành phố đã lên đèn. Thậm chí ngõ chợ cũng bắt đầu thưa người. Người mù không phân biệt được ánh sáng và bóng tối, nhưng nhờ một giác quan đặc biệt nào đó, họ biết rõ lúc nào là đêm và ngày. Con bé này cũng vậy. Nó đang đi về nhà. Chẳng ai biết nó từ đâu tới và bây giờ đang đi về đâu. Nhưng nó đang đi. Nghĩa là quả có một nơi nào đấy mà nó có thể đến, có thể gọi là "nhà". Như những người mù khác, nó đi chậm chạp, rờ rẫm, không có gậy, chỉ thỉnh thoảng quờ quờ tay trước mặt. Nó đã rẽ qua mấy phố nhưng vẫn tiếp tục đi. Nghĩa là "nhà" của nó xa và nó phải quen đường lắm mới không bị lạc.
Trên vỉa hè một đường phố nọ, nó bỗng vấp phải cái gì mềm mềm. Nó đứng lại suy nghĩ một chốc rồi cúi xuống đưa cả hai tay sờ sờ cái vật mềm mềm ấy. Đó là một bà già đang nằm sóng soài trên mặt hè phố bẩn thỉu và ẩm ướt. Không biết bà lão nằm đây trong tư thế ấy tự bao giờ, mái tóc bạc xõa tung, dính đầy bùn. Quần áo bà cũng ướt và dính đầy bùn. Có lẽ con bé đoán hiểu được chuyện gì xẩy ra. Nó để ngón tay trỏ sát mũi bà lão. Còn thở, nhưng rất yếu. Nó lắc lắc gọi mấy lần nhưng không thấy đáp lại. Nó cố hết sức vực bà lão dậy, kéo lê mấy bước rồi cho tựa lưng vào bức tường gần đó. Sau đó nó lấy mảnh giẻ trong bị lau mặt mũi, tay chân cho bà lão.
Chừng ấy việc đủ làm nó mệt, nên nó cũng ngồi tựa vào tường để nghỉ. Nó lấy mấy mẩu bánh mì sũng nước nhét vào miệng bà lão. Lúc đầu bà lão không ăn, nhưng nó vừa dỗ như dỗ em, vừa bón từng mẩu nhỏ. Bà lão bắt đầu ăn và dần dần tỉnh lại. Sau đó nó rờ rẫm tìm đến vòi nước công cộng để uống đỡ khát và mang về cho bà lão một cốc.
Đó là một bà lão ăn mày hơn bảy mươi tuổi, mắt sáng nhưng rất yếu, lại mắc chứng suy tim nên thỉnh thoảng bỗng ngất đi như vậy. Bà ngất, nằm đấy từ lúc mới xế chiều. Nghĩa là bà đã nằm trong tư thế ấy, ngay trên mặt hè đông người qua lại hơn năm giờ đồng hồ. Thế mà chẳng ai vấp phải bà. Vì ai cũng mắt sáng nên họ nhìn thấy và né sang bên. Nhiều người quả có dừng lại, lắc đầu ái ngại. Nhiều người cũng tỏ ý thương bà, nhưng họ nghĩ đây là việc của công an, của các tổ chức nhân đạo. Mà họ thì đang bận, thương đấy, muốn giúp đấy, nhưng... Thế là họ đi tiếp dù trong lòng không phải không gợn chút băn khoăn. Suy cho cùng cũng chẳng trách được họ. Chỉ tội con bé mù. Vì nó mù nên đã vấp phải bà lão, phải vất vả dựng bà dậy, chăm sóc và cho ăn uống.
Tối ấy con bé chẳng "về nhà" nữa, mà cùng bà lão ăn mày ôm nhau nằm co quắp dưới mái hiên có bức tường nơi hai người vừa tựa lưng nghỉ. May không bị ai đuổi.
Hôm sau và những ngày tiếp theo, từ cửa sổ phòng mình tôi lại thấy con bé mù đứng chìa tay bên gốc cây bàng đầu ngõ chợ như cũ. Vẫn bàn tay hình chiếc lá ấy. Vẫn cái dáng bất động, nhẫn nhục và chiếc mủng tre ấy. Khác chăng bây giờ mưa đã tạnh và trời bắt đầu hửng nắng. Khác nữa là bây giờ luôn ở bên em có bà lão ăn mày đã làm em vấp, được em cứu sống và từ nay, với đôi mắt sáng của mình, sẽ cùng em dựa vào nhau để tồn tại trong cuộc đời này, cuộc đời với hầu hết những con người khỏe mạnh, mắt sáng, giàu lòng nhân ái nhưng quá bận, quá vội, thành ra đôi khi quá hờ hững với người khác.
          Còn tôi, tôi vẫn không sao viết nổi truyện ngắn có hậu với nắng ấm và những khuôn mặt hạnh phúc kia. Tôi cứ vấn vương mãi với những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu về đủ mọi chuyện, về thiên chức nhà văn, về tình người, tình đời và về cả sự bất lực của mình. Và trong tâm trạng buồn buồn day dứt như thế, tôi đã viết một bài thơ như sau về bà lão ăn mày ấy.
                                                 
                                        Đêm, lất phất mưa phùn.
                                        Một bà già bé nhỏ
                                        Quần áo lấm đất bùn
                                        Nằm ngang trên hè phố.

                                        Bà ngã xuống ở đây
                                        Phải chăng vì đói, mệt?
                                        Ốm? Một giờ? Cả ngày?
                                        Hay phải chăng đã chết?

                                        Phố đông người, ồn ào
                                        Hình như ai cũng vội,
                                        Thế mà không người nào
                                        Vấp phải bà, dù tối.

                                        Người tiếp người đi qua,
                                        Bà già vẫn nằm đấy.
                                        Không ai vấp phải bà,
                                        Cả chính tôi cũng vậy.

                                        Mãi lúc sau, đang đi
                                        Nơi sáng đèn, đường vắng,
                                        Tôi bỗng vấp cái gì
                                        Rất đau và rất nặng.

                                        Thì ra, chính nỗi đau,
                                        Lương tâm và xấu hổ
                                        Làm tôi vấp... Cúi đầu,
                                        Tôi bước đi giữa phố...

Hà Nội, 15. 4. 2001


NẾU CÒN SỐNG, CHỊ Ở ĐÂU?

"Tôi là Nguyễn Văn Biên, lái xe, thuộc công ty X. Bộ Lâm nghiệp. Cách đây hai mươi ba năm, vào một đêm trời mưa to cuối tháng chín năm 1967, trên đường từ Châu Yên tới Sơn La, có một cô gái vẫy tay xin đi nhờ xe. Lúc ấy trời đã khuya, rừng núi vắng vẻ. Cô gái trạc hai mươi tuổi, đầu đội nón, tay xách chiếc túi nhỏ, quần áo ướt sũng, nói đi nhỡ đường gặp mưa bị cảm. Tôi cho cô lên xe. Trên xe chỉ có mình tôi. Đi được một quãng, tôi dừng xe định giở trò cưỡng đoạt cô gái. Cô cương quyết chống đỡ. Tôi dọa nếu không chịu, sẽ đuổi xuống. Cô gái khóc, van xin đừng làm thế vì cô đang ốm, có thể chết. Thấy tôi vẫn một mực không thay đổi ý kiến, cô vùng ra được và nhảy xuống đường. Tôi ngồi trên xe, đoán cô không dám ở lại một mình vì chỗ có người gần nhất cách đấy cũng hơn hai mươi kilômét. Nhưng cô gái vẫn ôm mặt khóc dưới trời mưa tầm tã, người run lên vì lạnh... Cuối cùng tôi cho xe chạy tiếp. Đêm ấy tới trạm, bình tĩnh trở lại, tôi rất ân hận việc làm của mình, nhất là việc vì tôi cô có thể chết. Vì vậy tôi quay xe lại tìm nhưng không thấy cô đâu. Sau này nhiều lần tôi đến các nông trường và bản lân cận tìm cô, tuy nhiên, mọi cố gắng của tôi đều vô ích
Nay cô ở đâu, nếu còn sống, xin báo cho tôi ở số nhà... phố Long Châu, Hà Nội, để tôi tìm đến cô xin tha thứ cho việc làm tội lỗi kia của tôi.
                                                               Nguyễn Văn Biên".
Bà Bảo Châu đặt tờ giấy xuống bàn, ngả lưng vào chiếc ghế da rồi không hiểu sao ngồi thờ thẫn hồi lâu. Đang giờ nghỉ trưa, mỗi người một nơi. Trong phòng chỉ còn lại Bích Phương, cô thư ký xinh đẹp vừa ăn xong đang ngồi soi gương sau chiếc máy chữ.
Bà liếc qua những tờ tiếp của tập giấy được xếp ngay ngắn trước mặt, rồi hỏi:
- Ý kiến mọi người thế nào về tin của ông lái xe này?
Bích Phương còn bậm môi, dướn mắt thêm lần nữa trước gương rồi mới ngẩng đầu đáp:
- Dạ thưa cô, anh em nói đây là trường hợp khác thường nên chờ ý kiến cô xem có nên phát không, sau mới trình lên Ban duyệt. Các tin khác không có gì đặc biệt, chú Đại đã ký thay cô.
Mấy ngày vừa rồi bà Bảo Châu đi công tác xa nên đương nhiên ông Đại phó phòng thay bà quản lý phòng này, phòng Thông tin kinh tế xã hội của Đài phát thanh. Im lặng một chốc, bỗng Bích Phương quay sang bà, nói:
- Cái ông lái xe Biên này kể cũng lạ, cô nhỉ? Giận mà cũng thương ông ta...
- Bề ngoài trông ông ta thế nào? - Bà Bảo Châu hỏi. - Khi đến đưa tin, cô có gặp ông ta không?
- Dạ không, tin này được đăng ký từ sáng hôm kia, lúc ấy cháu có việc đi vắng... Thế cô đồng ý cho phát chứ ạ?
- Để cô xem đã. - bà Bảo Châu lơ đễnh đáp.
Rồi bà đứng dậy, thong thả đi xuống căng-tin ăn trưa.
Bà Bảo Châu năm nay đã ngoài năm mươi, không thể gọi là xinh nhưng có vẻ ngoài đẫy đà, phúc hậu. Tóc bà còn đen và rất dài, những hôm nóng nực, bà buộc thành một túm to sau gáy. Bà về làm việc ở Đài ngay sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Tổng hợp. Suốt nhiều năm bà làm phóng viên, đi đây đi đó rất xông xáo. Gần đây phần vì có tuổi, phần vì không còn ai thích hợp hơn, bà được điều sang phụ trách phòng này. Tuy mới thành lập nhưng công việc ở đây khá bận rộn. Ngày nào đến cơ quan, bà cũng thấy có nhiều người đến xin đăng ký quảng cáo hàng hóa cho xí nghiệp mình, hoặc quảng cáo các lớp ngoại ngữ, khiêu vũ, âm nhạc... Một phần không nhỏ trong số họ đến nhờ bà giúp tìm trẻ lạc, tìm người tâm thần bỏ nhà lang thang, đặc biệt là tìm lại những người thân bị lưu lạc nhiều năm về trước. Chính những người này làm bà yêu thích công việc.
Hàng ngày đọc các tờ đăng ký, bà cảm thấy như được đưa trở lại quá khứ đau buồn, nhiều khi đến mức không thể tin nổi. Trước mắt bà hiện lên những đoàn người rách rưới, gầy còm, dắt díu nhau đi xin ăn rồi ngã gục chết bên vệ đường, những cảnh cho con, vứt con, những cảnh ra đi vì uất hận, vì miếng ăn và vì nhiều lý do khác. Tai họa như cơn bão khủng khiếp ập xuống đầu những số phận đáng thương, dập vùi họ, đưa họ đi xa mỗi người một nơi. Rồi hàng chục năm sau đó họ sống trong lo lắng, dằn vặt và thương nhớ... Họ vất vả tìm đến nhau, muốn biết ai còn, ai mất, muốn được bộc lộ lòng mình... nhưng không biết phải làm gì, nhờ ai. Nay bỗng xuất hiện cái phòng của bà, thế là người ta bám lấy bà như người chết đuối bám cọng rơm nhỏ, dù chẳng mấy hy vọng nhưng còn hơn không có gì để bám. Còn bà, không hiểu sao bà thấy như mình cũng phần nào có lỗi trong những bi kịch ấy của quá khứ. Bà tự cho mình có trách niệm phải giúp họ, phải góp phần hàn gắn những mảnh vỡ cuộc đời họ. Một bé gái mười tuổi cầm đồng bạc duy nhất đi chợ đong gạo cho mười miệng ăn trong gia đình, không may để mất tiền, sợ về nhà mẹ mắng, bố đánh, nên em đã bỏ đi biệt tăm. Nếu còn sống, nay em đã gần sáu mươi. Em ở đâu? Các anh chị và bà mẹ của em đang nhờ bà Bảo Châu tìm hộ.
Có hai ông già từ tỉnh xa đến gặp bà, kể rằng vào năm 1945 không nỡ nhìn con chết đói, họ phải đem cho đứa bé kháu nhất trong số bốn người con của mình. Nó là một cậu bé bốn tuổi, khôi ngô (vì khôi ngô mới đem cho, xấu sẽ chẳng ai nhận). Hôm ấy nó được tắm rửa sạch sẽ, được cả nhà nhường cho ăn một bữa thật no. Rồi ông bà đem ra chợ huyện, đặt nó ngồi ngay trước cổng chợ, bên cạnh cắm tấm biển với dòng chữ "xin các ông, các bà làm phúc nuôi hộ". Còn họ thì nấp trong bụi cây cách đó không xa, kiên nhẫn chờ cho đến lúc có người mang nó đi mới ra về. Hai ông bà đứng nhìn theo, nước mắt giàn giụa... Bây giờ họ đến Đài tìm bà Bảo Châu kể lại những điều trên và nhờ bà tìm hộ. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm. Bà cho phát qua Đài bảy lần, mỗi lần cách nhau ba ngày. Thật không ngờ, chưa đầy một tháng sau có một trung tá không quân đến gặp bà, nói rằng ông chính là đứa bé nọ. Thay mặt bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi, ông trịnh trọng tặng bà một bó hoa thật to và hai gói kẹo, hai bao thuốc lá, một lạng chè tặng anh em trong phòng. Hôm ấy là một ngày đáng ghi nhớ. Nhìn người sĩ quan cao to, đẹp đẽ và tràn đầy hạnh phúc, có lẽ trong nhiều năm, đây là lần đầu bà cảm thấy mình làm được điều gì đấy đích thực tốt đẹp và có ích cho đời.
Thỉnh thoảng bà cũng nhận được thư từ các tỉnh xa, báo tin rằng nhờ Đài, họ đã tìm lại được người thân của mình. Tuy nhiên, những trường hợp may mắn như thế không nhiều, nhưng đây là công việc đáng làm và bà làm một cách say sưa...
Còn câu chuyện ông lái xe Nguyễn Văn Biên này là thế nào?
Suốt buổi chiều hôm ấy và cả ngày hôm sau, bà Bảo Châu luôn bị ông ta ám ảnh. Đây là trường hợp đặc biệt từ trước tới nay chưa hề gặp, vì vậy bà muốn để lại suy nghĩ thêm trước khi cho phát. Trước mắt bà lúc nào cũng hiện lên hình ảnh một cô gái mảnh mai, người sốt hầm hập, đứng một mình dưới trời mưa tầm tã trong rừng giữa đêm khuya. Cô sắp ngất, cô sợ chết, sợ ma, nhưng có một điều cô sợ hơn tất cả những điều ấy, là sự nhục nhã. Cô không thể chấp nhận điều kiện của tên lái xe vô lại, nhưng chiếc ca-bin khô ráo, ấm áp kia lại thuộc về hắn. Hắn là người duy nhất có thể cứu cô nhưng hắn đòi trả công... Không! Cô thà chết không chịu làm theo lời hắn. Và cô gái tiếp tục đứng dưới trời mưa, hai tay ôm mặt khóc. Sau đó... Sau đó cô đi bộ một mình hàng chục cây số? Cô được chiếc xe khác mà người lái xe chưa mất hết tính người cho đi nhờ đến thị xã? Hay sau đó do dầm mưa, cơn sốt nặng thêm và cô chết, xác nằm còng queo bên đường?
Còn lái xe, cái gã Nguyễn Văn Biên khốn nạn ấy thì sao? Ừ, mà anh ta là người thế nào nhỉ? Một người đang tâm gây nên tội lỗi ghê gớm như thế lại biết hối hận ư? Đến mức suốt nhiều năm sau đã bỏ công tìm kiếm cô gái kia như anh ta nói? Hay anh ta phịa để tự bào chữa cho mình? Mà rồi nếu quả bị lương tâm cắn rứt, không lẽ sau ba mươi năm anh ta không nguôi ngoai chút nào, để bỗng dưng bây giờ không ai bắt, tự mình phơi bày sự đểu cáng của mình? Không phải với một, hai người mà với tất cả! Qua Đài! Một việc làm nên gọi dũng cảm hay điên rồ?...
Bỗng nhiên bà Bảo Châu rất muốn được gặp con người này. Để làm gì thì chính bà cũng không rõ.
Theo địa chỉ, bà tìm đến một ngôi nhà xinh xắn có hàng rào gạch bao quanh. Ra mở cửa là một người đàn bà gầy quắt có đôi mắt buồn và mái tóc điểm bạc.
- Thưa chị, đây có phải là nhà anh Biên, anh Nguyễn Văn Biên lái xe không ạ?
- Vâng, - người đàn bà kia đáp, ngạc nhiên nhìn khách.
Thấy thế, bà Bảo Châu vội nói luôn:
- Tôi có chút việc muốn nói chuyện với anh ấy...
Bà kia càng ngạc nhiên hơn, nhưng do dự một chốc rồi đáp:
- Mời chị vào.
Căn phòng rộng và trống trải, chắc chỉ dùng để tiếp khách vì không thấy có giường. Sát tường là chiếc bàn trà thấp và bốn ghế xa-lông gỗ dán cáu bẩn. Bà Bảo Châu ngồi xuống một trong những chiếc ghế ấy, yên lặng chờ chủ nhà sang phòng bên chuẩn bị nước mời khách. Không hiểu sao bà cứ hình dung lái xe Biên bà sắp gặp là người to béo, có ria mép, da ngăm đen và nhất thiết phải mặc áo phông sọc to. Bà định sẽ vào đề luôn, rằng bà từ Đài đến, muốn hỏi thêm đôi điều trước khi cho phát cái tin ông ta yêu cầu...
Bà chủ nhà quay ra, đặt khay nước lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện, nhìn khách chờ đợi.
- Dạ, anh Biên đâu ạ? - bà Bảo Châu ngạc nhiên hỏi vì mãi không thấy chủ nhà xuất hiện. - Tôi đến đây nhân cái tin anh ấy xin phát qua đài...
Bà kia khẽ thốt lên:
- Thế ra cô là "cô ấy"? - Bà mở to mắt chăm chăm nhìn bà Bảo Châu, nét mặt gần như hốt hoảng.
Bà Bảo Châu cũng lặng lẽ nhìn bà hồi lâu.
- Không, tôi là người làm ở Đài phát thanh. Tôi đến đây muốn biết thêm đôi điều trước khi cho phát tin ấy. Hôm nay anh ấy không có nhà ạ?
Bà kia cúi đầu không nói gì, lúc sau mới thở dài đáp:
- Nhà tôi không còn nữa. Anh ấy chết đã được năm năm...
Giờ đến lượt bà Bảo Châu ngạc nhiên:
- Còn cái tin kia? Hóa ra không phải anh ấy đem nó đến Đài?
- Vâng. - Bà chủ nhà nói. - Tôi đã đến chỗ chị... Số là trước khi chết, anh ấy nhờ tôi sau này, nếu có thể, tìm gặp cô gái kia để thay mặt anh ấy xin lỗi hộ. Tôi đã hứa với anh ấy trong giờ hấp hối, tuy không biết sẽ làm điều đó bằng cách nào. Gần đây có mục nhắn tin qua đài, tôi mới nhờ chị. Nội dung cái tin ấy do tôi viết nhưng đúng sự thật và như chồng tôi mong muốn... Không sao chứ ạ? – Chủ nhà nhìn khách lo lắng hỏi thêm: - Không lẽ vì thế mà các chị không cho phát?
- Không, không vấn đề không phải chỗ ấy, - bà Bảo Châu đáp. - Có điều từ trước tới nay quả chúng tôi chưa gặp trường hợp nào như của anh chị.
- Tôi hiểu, chắc chị thấy khác thường nên muốn xem hư thực thế nào. Chị yên tâm. Những điều tôi viết trong tin đều đúng sự thật. Chồng tôi đã nhiều lần kể tôi nghe chuyện này ngay khi mới xảy ra...
Bà khẽ thở dài, ngồi im một chốc rồi nói tiếp:
- Nhà tôi là người thật lạ lùng. Anh ấy vốn ngang tàng, sống bừa bãi và nói thật với chị, chuyện rượu chè, trai gái có cả. Thế mà thật không ngờ, sau chuyện đó, anh ấy thành người khác hẳn. Đến tôi là vợ mà cũng không hiểu nổi, nhưng quả đúng thế. Anh ấy bị một cú sốc mạnh, trở nên ngơ ngác như người vừa ốm dậy. Anh ấy ít nói hẳn, chú ý nhiều hơn tới vợ con, đặc biệt không bao giờ uống rượu nữa. Tôi biết anh ấy đang đau khổ, hối hận và luôn nghĩ tới cô gái đáng thương nọ. Anh ấy sợ cô ta đã chết, chết vì anh ấy. Tôi tìm cách an ủi, thậm chí có lần còn theo lên các nông trường vùng Mộc Châu, Yên Châu tìm cô...
Bà chủ nhà đột ngột ngừng lời, đưa chén nước mời khách. Bà cũng cầm một chén, nhấp nháp từng ngụm nhỏ.
- Chị nghĩ phát qua Đài thế này, có hy vọng cô ấy sẽ lên tiếng không, tất nhiên nếu còn sống, - bà  hỏi.
- Thỉnh thoảng chúng tôi có nhận được tin báo lại rằng nhờ Đài, họ đã tìm được người cần tìm. - Bà Bảo Châu đáp một cách chung chung.
- Tôi thì tôi không tin cô ấy sẽ lên tiếng và tự tìm đến, nhưng dù sao vẫn nhờ chị phát hộ cho. Chả là nhà tôi muốn thế, tôi đã hứa... Trước lúc chết, nhà tôi có để lại bức thư, dặn tôi nếu gặp thì đưa cho cô ấy.
Bà lại bỏ vào buồng trong, lấy ra một phong thư không dán.
- Nếu muốn, chị cứ đọc.
Rồi bà bước ra khỏi phòng để khách được tự nhiên. Bức thư không dài, được viết bằng nét chữ nắn nót kiểu học trò:
"Suốt nhiều năm nay tôi tìm chị khắp nơi nhưng không thấy. Tôi đang bệnh nặng và chắc chỉ ít ngày nữa sẽ chết. Trước khi chết tôi viết mấy dòng để nếu lúc nào đó, nhờ phép lạ, người thân của tôi gặp được, sẽ đưa cho chị. Tôi biết tôi không đáng được tha thứ, nhưng lúc này, đang hấp hối, tôi xin chị hãy tha thứ cho tôi. Nếu chị đã chết, xin linh hồn chị tha thứ cho tôi. Tôi đã chịu quá nhiều đau khổ, đã bị trừng phạt quá đủ cho hành động đểu cáng ấy của mình. Có lẽ trong đời ai cũng có những giây phút đen tối, những giây phút vô thức dẫn tới một việc làm tội lỗi để sau này phải luôn day dứt, ân hận vì nó.
Một lần nữa xin chị hãy tha thứ cho tôi!"
Ba ngày sau, bà Bảo Châu cho phát qua Đài tin lái xe Nguyễn Văn Biên, công ty X. cách đây 35 năm, vào một đêm trời mưa to...
Buổi tối, đến phần thông tin xã hội, bà lại gần chiếc đài, khoanh tay chăm chú ngồi nghe. Vô tình, bà với tay vặn to đài. Bà chợt nảy ý muốn lạ lùng là tất cả đàn ông trong nước, trên toàn thế giới, phải nghe tin này. Tất cả không trừ một ai, tất nhiên trong đó có chồng bà, một người vẻ ngoài lịch sự, nhân hậu nhưng thực chất là kẻ ích kỷ, thô lỗ mà bà phải chịu đựng bao năm nay.
Đang đọc báo ở chiếc ghế bên cạnh, ông chồng bà chỉ lặng lẽ đứng dậy vặn bé chiếc đài, nhìn bà với vẻ khó hiểu rồi lại ngồi xuống, chúi đầu vào tờ báo.
Hà Nội, 1989


FUR ELISE

Chiếc xe buýt du lịch cao ngất ngưỡng sơn màu sặc sỡ chậm chạp đi theo những con đường rải nhựa ngoằn ngoèo trong công viên - vườn thú Safari ở ngoại ô Băng Cốc.
Nếu được phóng tầm mắt chút nữa, người ta sẽ có cảm giác như đang đi trong các vườn quốc gia châu Phi hoặc trực tiếp tham gia quay phim Thế giới Động vật cho chương trình Discovery. Thỉnh thoảng chiếc xe dừng lại nhường đường cho một đàn hươu cao cổ. Một đàn chứ không phải vài con. Những con vật vụng về tuyệt đẹp với chiếc cổ cao lêu đêu ngật ngưỡng đi ngay bên cạnh. Có con còn dừng lại, chạm chiếc đầu bé một cách mất cân đối vào lớp kính thành xe như tò mò muốn biết bên trong cái hộp biết đi kỳ cục này có những gì. Xa hơn chút ít là bầy tê giác, loại một hoặc hai sừng, con nằm con đứng, con trơ trẽn hít hít mông con khác. Mấy con hổ (hoặc sư tử, gấu, tùy lúc ấy xe đi tới đâu) đang nằm phơi nắng trên ô đất cao bên khe nước. Hình như mỗi loài có một khu riêng nhưng không thấy có gì ngăn cách. Lạ một điều là các loài hiền lành như nai, dê sống cạnh những loài ăn thịt mà chẳng thấy cảnh săn đuổi chết chóc.
Trên xe có khoảng bốn chục khách du lịch người Việt, phần lớn gồm các ông, các bà đã có tuổi mới ra nước ngoài lần đầu được cơ quan bao trọn gói cả tua du lịch năm ngày sang Thái Lan. Mỗi cơ quan mấy người, gộp lại thành đoàn. Cũng có gia đình bỏ tiền túi đi riêng, nên hầu hết đến đây mới gặp nhau lần đầu. Hai xe đi trước và sau họ cũng có thành phần tương tự. Sau dịch SARS, theo số liệu của nước chủ nhà, khách du lịch từ Việt nam tới Thái Lan chiếm số đông, thậm chí hơn cả từ Trung Quốc và Hồng Công cộng lại.
Hướng dẫn cho đoàn suốt cả tua là một Việt Kiều sang đây đã hai mươi năm, bốn mươi tuổi nhưng chưa vợ, người gầy, da đen, hóm hỉnh và thích pha trò, tuy đôi khi không thật đúng chỗ. Ngoài ra còn có một cô người Thái trẻ đẹp nói tiếng Anh khá sõi, thứ tiếng ít người biết để trao đổi nên cô luôn im lặng với nụ cười thường trực trên môi.
Xe đang đi qua một khu có rất nhiều chim. Anh hướng dẫn người Việt bỗng ngừng lời quảng cáo các trò giải trí ở Băng Cốc, sôi nổi nói:
“Các vị hãy nhìn kia! Đây là loài nổi tiếng chung thủy nhất trong các loài chim. Điều ấy có đáng biểu dương hay không thì lại là chuyện khác, nhưng quả chúng bao giờ cũng sống có đôi, và khi một con chết, con kia sẽ bay tít lên cao để lao đầu xuống chết theo!”
“Tuyệt nhỉ!” một bà thốt lên. Bà mặc chiếc váy sọc to, người đẫy đà, mặt đỏ lự vì hay xúc động.
“Ngớ ngẩn. Thế là ngu!” ông ngồi bên đáp. Ông này nhỏ con, mái tóc bạc gần hết, có vẻ phong trần nhưng giọng nhỏ nhẹ chẳng tương xứng chút nào với câu thô lỗ ông vừa nói.
Bà kia cụt hứng, nhíu trán khó chịu nhưng không nói gì.
Mọi người nhìn theo hướng được chỉ. Trên một cành cây cụt có đôi chim gì đó to lớn đang đậu, màu sặc sỡ và đuôi dài như chim công.
“Tôi dám chắc chỉ con cái lao xuống chết chứ con đực thì không”, một ông khác lên tiếng.
Anh hướng dẫn do dự một chốc rồi đáp:
“Rất tiếc rằng quả đúng như thế. Chỉ con cái. Chỉ phái yếu mới biết hy sinh vì tình yêu. Do vậy, trong vấn đề này họ cao hơn hẳn đàn ông chúng ta”.
“Và cả khi con cái của mình còn sống,” ông đầu bạc nói, “con đực vẫn thường xuyên lăng nhăng với các con cái khác?”
“Tôi không chắc lắm, nhưng có lẽ điều ấy cũng có.”
“Vậy tôi nói ngu không đúng ư? Ấy là tôi nói về những con chim cái kia, tất nhiên, chứ không phải các bà. Đơn giản nhiều bà chưa được như thế.”
Bà váy sọc quay sang nhìn ông, mặt đã đỏ càng đỏ hơn:
“Ông là người thô lỗ hiếm thấy!”
Xe dừng, vì lại có con rắn lớn nằm chắn đường. Nhân dịp này anh Việt Kiều chuyển đề tài, nói rằng có loài rắn thời gian giao cấu kéo dài những ba mươi tư tiếng đồng hồ. Mọi người có vẻ ngạc nhiên nhưng không ai nói gì. Chỉ một bà khẽ thốt lên “Khiếp”, rồi không hiểu sao cười khúc khích một mình.
Buổi trưa ăn xong, khi ngồi nghỉ bên suối nước đầy những con cá to bằng bắp chân đủ màu để chờ buổi biểu diễn mô phỏng một số cảnh trong phim Điệp viên 007, ông đầu bạc quay sang nói với bà váy sọc:
“Bà đừng giận nữa. Tôi nói là nói cho vui thế thôi. Nhưng chắc bà cũng phải đồng ý với tôi rằng trong tình yêu quả có nhiều điều kỳ cục không giải thích nổi.”
Bà kia im lặng. Một người xen vào:
“Có thế mới là tình yêu, chứ không thì chán chết.”
“Năm ngoái ở phố tôi có người vợ chết, buồn quá mà tự tử đấy. Ông bảo thế cũng ngớ ngẩn sao?” một người nữa hỏi.
“Đúng. Ngớ ngẩn! Chết chưa phải là bằng chứng một tình yêu lớn.”
“Thế theo ông thì là gì?”
“Chỉ những người yếu đuối mới chết vì tình. Sống để yêu mới khó!” Ai đó bình luận.
“Tôi thì cho là ngược lại.”
Thế là do rỗi việc, cả vì do không có chuyện gì nữa để nói, người ta bắt đầu tranh luận về tình yêu, tuy không mấy hăng hái, có người ngủ gật. Cuối cùng ông đầu bạc lên tiếng:
“Để tôi kể các vị nghe chuyện này. Sau đó ai muốn kết luận thế nào thì tùy.”
                                                  *
Trong tình yêu quả có nhiều sự lạ, mà chủ yếu từ phía phụ nữ. Tôi biết một người có thể nói tuyệt vời về mọi mặt. Xinh đẹp, có học, gia đình êm ấm với một ông chồng trí thức và hai đứa con rất ngoan. Ấy là tôi nói trước đây, khi câu chuyện mới xẩy ra mấy chục năm về trước. Thế mà con người có học, thông minh và đang hạnh phúc ấy bỗng dưng bỏ chồng con chạy theo một gã trai chẳng ra gì. Lúc ấy bà ta đã hơn ba mươi, còn thằng kia mới hăm lăm, chưa vợ nhưng nổi tiếng chim gái nhất nhì thành phố. Các vị muốn biết vì sao? Đơn giản vì một hôm ngẫu nhiên gặp nhau đâu đó và bà ta được hắn (lúc ấy mới tốt nghiệp khoa pi-an-ô Nhạc Viện Hà Nội) chơi cho nghe một bản nhạc ngắn. Vậy mà trời xui đất khiến thế nào, bà ta đem lòng si mê hắn, ba hôm sau thì theo hắn đi chơi xa đúng một tuần. Lúc về cương quyết đòi li dị chồng không được, bà ta liền khăn gói sang ở hẳn với người tình mới.
Chắc có vị bảo tôi phịa vì những chuyện như thế chỉ bên Tây mới có chứ không phải ở ta, nhất là vào cái thời đói khổ ấy. Bản thân tôi cũng không hiểu nhưng sự thật nó xẩy ra đúng như thế. Thì đã bảo sự lạ mà. Tôi nghĩ trong bộ não con người, hay nói trái tim cũng được, có một chỗ nào đấy rất mềm, rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương bởi những xúc động mạnh, sau đó thì không sao lành lại được. Có thể trường hợp cái bà tôi đang kể cũng vậy. Bản nhạc kia đã làm bà ta mất trí. Nếu không chẳng sao giải thích nổi những việc bà ta làm sau này. Ở xóm tôi có một ông nhờ đọc sách Luận Ngữ của Khổng Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử mà trở thành người khác hẳn đấy. Theo hướng tốt hơn, tất nhiên. Tôi cũng đọc nhưng chẳng thay đổi gì. Nghĩa là tùy người, tùy hoàn cảnh.
Đó là bản nhạc cổ điển Fur Elise (Gửi nàng Elise), của ông nhạc sĩ người Đức Beethoven. Nó ngắn thôi, lại đơn giản, nhưng phải nói rất hay và dễ gây xúc động, nhất là khi người nghe được kể rằng ông nhạc sĩ thiên tài già điếc này gửi nó thay thư cho một nàng Elise nào đó ông lặng lẽ yêu say đắm mà không được yêu lại. Chắc thằng kia vừa đàn vừa phịa thêm cho câu chuyện tình lãng mạn đó nhiều chi tiết lâm ly để gây ảnh hưởng với người hắn định tán. Và hắn đã thành công như ta thấy.
Tôi chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra trong cái đầu thông minh mà ngu ngốc kia của bà ta. Bản nhạc làm bà mụ người, đến mức có thể yêu, yêu si mê một người như hắn - mặt lưỡi cày, mắt ti hí, gầy nhom như thằng nghiện, lại bản tính thô lỗ, lười nhác và ích kỷ nhất hạng. Sau ba tháng sống với nhau như vợ chồng, hắn chán rồi thẳng tay đuổi người tình ra khỏi nhà. Trong ba tháng ấy bà kiếm tiền nuôi hắn, cung phụng, tôn thờ hắn như một con nô lệ, tất cả chỉ để được thỉnh thoảng hắn chơi cho nghe bản nhạc Gửi nàng Elise kia! May bố mẹ giàu, mua cho ngôi nhà nhỏ trong ngõ chợ nên bà không phải quay lại với chồng cũ, dù ông này đã tha thứ và cố thuyết phục nhưng bà nhất định không nghe. Có thể vì tình yêu với hắn, cũng có thể bà xấu hổ với chồng con nên quyết định đã đâm lao thì phải theo lao.
Vài tuần sau, quen được người cung phụng, thằng kia mò đến tìm. Bà vội vã đi theo hắn như sợ bị thay đổi ý kiến, không một lời căn vặn, trách móc. Có điều lần này hắn trở nên quá quắt, thô lỗ hơn, và tất nhiên không thèm giữ ý tứ, tán tỉnh như trước. Hắn ngang nhiên dẫn gái về nhà, cả khi bà đang có mặt. Thật kỳ lạ, bà vẫn nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Vì hắn. Vì cái bài Gửi nàng Elise của hắn! Tôi không là bác sĩ, không biết gì về thuyết phân tâm của Freud, nhưng tôi cho rằng có thể đây là một dạng bệnh tâm thần, đại khái như tâm thần tình yêu chẳng hạn.
Cuối cùng bố mẹ thằng kia bắt hắn lấy vợ. Bà lại lủi thủi quay về với ngôi nhà trong ngõ chợ. Lủi thủi héo hon chờ đợi mỗi tháng đôi lần hắn đến xin tiền. Bà nhịn ăn, ki cóp từng xu, có khi phải đi vay để đưa cho hắn. Những lúc ấy mặt bà rạng rỡ hạnh phúc, nói năng ấp úng vì xúc động. Có thể từ lâu bà nghĩ mình là nàng Elise và người tình là Beethoven chăng? Thằng Beethoven này không thất tình đau khổ mà luôn khinh khỉnh nhìn bà, và hễ có được tiền là tìm cách chuồn ngay.
Cứ thế kéo dài đúng hai mươi năm. Các vị lại ngạc nhiên? Thế tôi mới nói là ngu, là ngớ ngẩn. Trong hai mươi năm ấy bà có thể quay lại với chồng con bất kỳ lúc nào nhưng bà đã không làm thế. Ông chồng đều đặn hàng tháng gửi tiền cho người vợ chưa li dị của mình - chẳng hiểu vì tình yêu hay lòng thương hại. Sau này anh con lớn đi làm thỉnh thoảng cho thêm. Tất nhiên bà đưa hết số tiền đó cho Beethoven của mình. Vì hắn, bà đã bị đuổi việc từ lâu do tự ý nghỉ quá nhiều.
Suốt thời gian ấy bà sống lặng lẽ, không có sự cố gì đặc biệt, trừ hai lần bị đẩy đến tột đỉnh của hạnh phúc và sợ hãi. Chính xác là một hôm cuối năm 1978, để bà đồng ý kiếm cho một khoản tiền không nhỏ, hắn đưa bà vào Nhà Hát Lớn nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sỹ dương cầm người Nga. Trong chương trình có bản Fur Elise. Bà dành trọn ba ngày chuẩn bị cho sự kiện trọng đại đó. Sự kiện thứ hai xẩy ra khoảng mấy năm sau. Một sự kiện buồn. Bà bị vợ hắn tạt a-xit do ghen tuông. May không trúng mặt và chỉ bị bỏng nhẹ ở bàn tay phải. Sau đấy vì lo sợ, bà ốm mất một tháng mới khỏi.
Bây giờ bà đã là một mụ già. Một mụ già khốn khổ nhưng mãn nguyện vì đã mười năm nay được sống với người mình yêu. Số là vợ thằng kia không chịu nổi chồng cuối cùng đã bỏ đi, để lại hắn một mình không việc làm, không đồng xu dính túi, hơn thế lại mắc bệnh hen xuyễn và xơ gan nặng vì rượu. Thời gian gần đây thì hắn hầu như nằm một chỗ, thậm chí có muốn cũng không chơi nổi bài Fur Elise để gọi là trả công cho mọi lo toan vất vả của mụ. Vì yếu và bất động, hắn không thể thô lỗ như trước, nhưng thỉnh thoảng vẫn quát mụ bằng giọng khò khè the thé khi cần cái gì đó. Những lúc ấy người đàn bà tội nghiệp này lại cuống lên lo chạy thỏa mãn yêu cầu của hắn, miệng xuýt xoa đến cảm động...
                                                  *
“Đúng là một mụ điên!” Ai đó lên tiếng khi người kể chuyện dừng lời.
“Dẫu sao cũng là một tình yêu lớn. Người yêu được như thế ít lắm”. Một người khác nói, không hiểu sao thở dài rõ to.
Bà váy sọc quay sang ông đầu bạc, thái độ lúc này có vẻ thân thiện hơn:
“Ông không là nhà văn đấy chứ? Ông phịa giỏi lắm. Phi lý nhưng nghe mùi mẫn. Hay ông đọc được đâu đó ?”
“Tin hay không hoặc nghĩ thế nào tùy bà. Tôi đã nói trước rồi mà. Nhưng chuyện có thật đấy. Trăm phần trăm, dù đúng là ngớ ngẩn và phi lý như bà nói. Nhưng rồi suy cho cùng, ở người đàn bà nào cũng có chút ít chất ngớ ngẩn và phi lý ấy, đặc biệt khi chuyện liên quan đến tình yêu. Vấn đề chỉ ở mức độ. Bà không tin, hôm nào về Hà Nội tôi dẫn đến gặp người đàn bà ấy. Bà ta có quán nước trà ở Ngã Năm Lò Đúc. Để có tiền, bà ta còn làm thêm bao nhiêu việc, từ giặt thuê, trông trẻ cho đến trông xe. Không ít khi còn giở trò láu lỉnh tính gian tiền của khách. Bà cứ đến rồi khắc thấy. Vất vả lắm, nhưng mãn nguyện ra mặt. Thậm chí người đã bắt đầu phát phì”.
“Thế còn ông chồng cũ?” một người hỏi.
“Chẳng sao cả. Ông ấy không li dị vợ mà cũng chẳng lấy vợ khác. Một người tốt như tôi nói và đến giờ vẫn đều đều hàng tháng gửi tiền cho bà. Nghe nói ông còn tự học pianô để chơi bài Gửi nàng Elise cho bà nghe. Nhưng tiếc tiếng đàn của ông không làm bà xúc động mà quay lại”.
“Cũng lại một thằng ngốc nốt!”
“Có thể. Tình yêu cũng biến đàn ông chúng ta thành những thằng ngốc. Ngu ngốc không phải độc quyền của riêng phái nữ. Hơn thế chúng ta dường như không chỉ đau khổ mà còn lấy làm hạnh phúc vì sự ngu ngốc ấy”.
“Tôi nghi không khéo ông chính là chồng bà ta?”
Bà mặc váy sọc cười khúc khích, nhưng ông đầu bạc không đáp, chỉ quay mặt hướng khác.
Đến giờ đi tham quan tiếp, không khí chẳng mấy hứng khởi vì bữa ăn no đang gọi cơn buồn ngủ, có lẽ còn cả vì câu chuyện vừa rồi. Không ai nhắc tới nó, nhưng chắc còn vương vấn suy nghĩ, chuyện người khác và chuyện của mình. Thậm chí những con hươu cao cổ, tê giác, hổ báo trước đó làm họ phấn khích đến thế bây giờ dường như cũng chỉ là những con vật bình thường.

                                                  *
Buổi tối ở khách sạn, trước khi đi dạo phố, ông đầu bạc ngồi xuống trước chiếc đàn pianô loại lớn bóng loáng màu đen tại phòng ăn. Những ngón tay lóng ngóng của ông rón rén dạo trên các phím đàn. Bản Fur Elise của Beethoven! Ông đàn hai lần, may đều lưu loát trừ một chỗ vấp ở đoạn giữa. Tiếng đàn còn vụng về nhưng diễn cảm và đúng nhịp.
Mọi ngưòi quay sang nhìn. Đàn xong, ông đặt tay lên đầu gối rồi nói với mấy bà đang đứng cạnh:
“Không ai si mê tôi à?”
Hà Nội, 16. 9. 2003
                   

BÔNG HỒNG CHƯA TẶNG

Tám giờ kém mười. Lần nữa chuông rung dài phía trong Nhà Hát Lớn.
Mấy người đến muộn đang vội vã leo lên các bậc đá lát để đi qua chiếc cửa sắt nhỏ có bà soát vé to béo đứng cạnh, vừa xé vé vừa giục họ nhanh lên vì buổi diễn sắp bắt đầu. Đúng tám giờ, chiếc cửa sắt bị khóa. Bà kia lui sang bên, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Cuối cùng, trước nhà hát chẳng còn ai ngoài mấy người bán hàng rong, một thanh niên mặc quần áo bộ đội vẫn ngồi trên yên xe đạp, chân chống xuống đất, một cô gái trẻ mặc áo khoác màu sáng luôn nhìn đồng hồ, đi lại vẻ sốt ruột, và tôi.
Tôi không đi lại, không sốt ruột vì chẳng chờ ai, chỉ buồn do không mua được vé vào nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sĩ pianô nổi tiếng người Nga mà tôi hâm mộ.
Đang cuối tháng Hai, mới Tết xong và trời còn khá lạnh. Lại thêm chút mưa phùn lất phất, nhỏ thôi, và chỉ nhận thấy qua ánh sáng vàng nhạt của mấy cột đèn gần đó.
Anh thanh niên đã đạp xe đi. Cô gái vẫn nấn ná chờ người nhỡ hẹn. Tôi thì đứng ngay dưới cánh cửa sắt vì còn hy vọng biết đâu ai đấy vào phút chót có thể thừa vé nhượng lại.
Cô gái không đội mũ. Mái tóc phi-dê cắt ngắn xới phồng với những giọt nước li ti bám phía trên. Tôi ngạc nhiên thấy chúng có màu khác nhau. Tế nhị không nhìn lâu, nhưng khi cô đi ngang tôi cũng kịp nhận thấy một khuôn mặt rất xinh, hơi gầy và thanh thoát, có lẽ nhờ chiếc mũi thẳng và đôi mắt sâu. Một vẻ đẹp cổ điển, sang trọng của người có văn hóa. Mấy lần tôi định nhưng không dám hỏi mua lại một trong hai chiếc vé mà tôi tin chắc nàng đang giữ trong chiếc ví đầm đeo bên hông.
Bất chợt nàng đi lại gần tôi và nói, rất thản nhiên, giản dị:
“Anh có muốn đi dạo với em một chốc không?”
Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, đã tập tãnh nghề văn và đang yêu. Tôi yêu một ca sĩ, nghiệp dư thôi nhưng đang nổi, ít ra mấy lần đoạt giải các cuộc thi văn nghệ phong trào. Nàng cũng xinh và chúng tôi yêu nhau thực sự. Có điều khác hẳn tôi, nàng không thích nhạc cổ điển nên chẳng bao giờ chúng tôi cùng vào Nhà Hát Lớn, mặc dù chiều nàng, tôi luôn có mặt ở những đêm ca nhạc tôi chẳng mấy thích thú.
Cô gái hơi lúng túng khi tôi, vì bối rối chưa biết trả lời thế nào. Tuy nhiên chi mấy phút sau chúng tôi đã sóng đôi đi dọc theo phố Tràng Tiền rồi vòng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm.
Thành phố ban đêm thật đẹp và yên tĩnh. Ánh điện hắt lên mặt hồ thành từng vùng tròn như những chiếc trứng tráng trong chảo. Phía nhà Thủy Tạ có mấy ngọn đèn xanh in ngược xuống nước thành hình những chiếc cọc, tất nhiên cũng màu xanh và run rẩy như muốn gãy khuỵu dưới sức nặng của chiếc quán hai tầng trên đó. Có tiếng kèn xắc-xô-phôn buồn buồn vọng lại, xuyên qua lớp sương mù màu trắng ẩm ướt.
Chúng tôi lặng lẽ đi một đoạn dài không ai nói gì. Cuối cùng tôi lên tiếng:
“Chị vừa chờ ai nhưng người ấy không tới?” 
“Em chờ chồng em”, nàng đáp, cũng rất tự nhiên. “Nhưng không sao,  em quen với cảnh này rồi”.
“Và để trả thù chồng, chị mời tôi, một người lạ đi dạo thế này?”
Nàng không đáp. Tôi cũng im, lấy làm tiếc đã hỏi điều đáng lẽ không nên hỏi. Tôi thấy lạ trước cách cư xử của nàng. Cứ như ở một nước phương Tây nào đó. Rõ ràng nàng không thuộc loại phụ nữ dễ dãi, chưa hẳn đã thích phiêu lưu, vì ở nàng tôi thấy có cái gì đó sạch sẽ và nghiêm túc. Thế thì sao nàng, một người có chồng như đã nói, lại chủ động mời tôi đi dạo? Có ẩn ý gì chăng? Nàng là ai và cần gì ở tôi?
Vì lúc ấy còn trẻ và đang bị trí tò mò kích thích, tôi chẳng băn khoăn nhiều với những câu hỏi như thế, chỉ thấy sung sướng được đi dạo cùng người đẹp trong một đêm Hà Nội mơ mộng.
Chúng tôi vào Thủy Tạ ăn kem, những hai suất. Nàng để tôi trả tiền không chút kiểu cách. Rồi chúng tôi thong thả đi thêm một vòng quanh hồ, sau khi quành sang phố Nhà Thờ, phố Hàng Trống và một đoạn phố Hàng Gai. Khi trở lại Nhà Hát Lớn thì vừa đúng mười giờ rưỡi, cũng là lúc buổi diễn kết thúc và lác đác đã có vài người đi ra. Tôi đề nghị được đưa nàng về nhà nhưng nàng lắc đầu.
Nàng chìa bàn tay nhỏ bé của mình cho tôi. Bàn tay mềm và ấm, lần đầu tôi được chạm vào nó.
“Anh dễ thương thật đấy. Suốt mấy tiếng đồng hồ không hỏi một câu ngốc nghếch nào. Em thích những người như vậy. Em cũng thích anh. Nếu anh hay đến nhà hát này thì chắc ta còn nhiều dịp gặp nhau. Tam biệt và cảm ơn!”
Rồi nàng bỏ đi, đến đứng chếch phía bên phải nhà hát. Lát sau có chiếc ô tô màu đen đi tới đưa nàng đi. Một cô gái kỳ lạ mà lúc ấy tôi chưa biết tên và cô cũng chưa biết tên tôi.
Không phải tôi không hỏi câu nào. Theo yêu cầu của tôi, nàng nói chồng nàng là một quan chức quan trọng, hơn nàng những hai mươi lăm tuổi. Và rằng nàng đồng ý lấy ông vì bố mẹ bắt thế chứ chẳng vì tình yêu. Tuy nhiên đó không phải lý do để nàng không quí trọng ông hoặc cảm thấy bất hạnh. Đơn giản nàng nghĩ một khi đã là vợ chồng thì phải cư xử theo đúng đạo vợ chồng. Xuất thân từ gia đình gia giáo, nàng nghĩ cần phải thế. Chỉ tiếc ông không hiểu và không coi trọng nghề nàng. Tôi hỏi nghề gì, nàng chỉ im lặng mỉm cười. Phần tôi, tôi nói đang yêu và cũng được yêu lại. Một cách xã giao và hơi kỳ cục, chúng tôi chúc nhau hạnh phúc. Ngoài ra không hỏi gì hơn về đời tư mỗi người.
Nửa tháng sau tôi lại vào Nhà Hát Lớn để xem vở ba-lê Giselle do một đạo diễn người Pháp giúp Việt Nam dàn dựng. Và lại gặp nàng. Không phải trước nhà hát mà trên sàn diễn. Hơn thế, trong vai chính, tức là nàng Giselle xinh đẹp phải chịu nhiều đau khổ trước khi tìm được hạnh phúc của mình như ở phần kết hầu hết các vở ba-lê khác.
Xem tờ rơi giới thiệu nội dung, tôi biết tên nàng là Lệ Trinh, một diễn viên trẻ đầy triển vọng của Nhà hát Nhạc, Vũ kịch Trung ương, mới tốt nghiệp trường ba-lê danh tiếng nhất Liên Xô, ở chính thành phố tôi từng học trước đó mấy năm. Với cảm giác ngạc nhiên và hơi chút ít lâng lâng, suốt buổi diễn tôi chỉ ngắm nhìn một mình nàng trong bộ đồ ba-lê trắng mỏng tinh khiết. Cả người nàng cũng trắng mỏng tinh khiết. Nàng thoăn thoắt bước đi trên hai đầu ngón chân bé nhỏ, xen những cú nhảy nhẹ tưởng như không trọng lượng. Nàng đẹp một cách lộng lẫy. Cái đẹp hoàn thiện, thoát tục, đến mức trong tôi chỉ còn lại cảm giác ngưỡng mộ như khi người ta ngưỡng mộ một nữ thần. Thật khó tin mới chỉ mấy ngày trước đó tôi được nữ thần ấy mời đi dạo, thậm chí được chạm tay nàng.
Sau buổi diễn, đứng khuất phía xa trước nhà hát, tôi nhìn thấy nàng, vẫn  chiếc áo khoác hôm nọ, đang cùng một người đàn ông cao to mặc com-lê đen âu yếm dẫn nàng đến chiếc ô tô màu đen đợi sẵn. Chiếc ô tô chở nàng lần trước. Trong vở diễn nàng được chàng hoàng tử nâng trên đôi tay khỏe mạnh của mình, còn ngoài đời, nâng đỡ nàng là chiếc ô tô của chồng, chức vụ và có lẽ cả đôi tay cũng rất khỏe của ông ta. Tôi thở dài, thầm mỉm cười với sự so sánh ngồ ngộ ấy.
Tôi thờ thẩn bước đi giữa phố, đúng lộ trình tôi và nàng đã đi lần trước. Lần này trời quang đãng và đầy sao. Những ngôi sao khá lớn chen chúc trên mặt nước hồ Hoàn Kiếm. Tôi đứng hồi lâu trên cầu Thê Húc, tay vịn vào thành cầu đẫm hơi sương nhưng không hiểu sao lám nhám những hạt cát nhỏ. Tôi lờ mờ thấy mình đang yêu. Đúng, yêu nàng, nhưng là thứ tình yêu khác hẳn với tình yêu đối với cô ca sĩ nghiệp dư đang nổi. Một tình yêu trừu tượng, vô vọng và pha chút mặc cảm tội lỗi vì nàng đã có chồng.
Xưa nay ngoài sách, nhạc cổ điển là đam mê lớn nhất của tôi, nên hầu như tôi không bỏ sót buổi hòa nhạc nào loại này ở Hà Nội. Thậm chí thời sinh viên tôi từng mơ ước trở thành nhạc sĩ hoặc chỉ huy dàn nhạc giao hưởng.
Mấy hôm sau tôi lại có mặt ở Nhà Hát Lớn để nghe một chương trình nhạc Beethoven, gồm các bản giao hưởng số Một, số Sáu và khúc dạo đầu (ouverture) Coriolant. Lần này may tôi mua được vé, tất nhiên chỉ đi một mình.
Nàng xuất hiện đúng lúc tôi sắp bước vào nhà hát, mặc quần jeans, đi giày da và khoác trên người chiếc áo len rộng màu xanh nhạt. Tôi có cảm giác mặt nàng đỏ ửng, hơi thở gấp, có lẽ do trước đó phải chạy một quãng.
“Chào Lệ Trinh,” tôi lên tiếng trước, cố giấu vẻ hồi hộp. “Hôm nay chồng chị lại nhỡ hẹn nữa à?”
Nàng không ngạc nhiên khi tôi gọi đúng tên.
“Không. Em đi một mình. Em đến đây vì anh,” nàng đáp, cũng tự nhiên và giản dị như lần trước. “Anh có sẵn sàng bỏ buổi hòa nhạc để đi dạo với em không?”
Chúng tôi lại đi theo các phố cũ, có ghé vào Thủy Tạ nhưng không ăn kem mà uống cà phê, vừa uống vừa ngắm mặt hồ ban đêm và ôn chuyện Liên Xô. Dường như đề tài này làm hai người tự nhiên, thân mật hơn. Tịnh không một lời về đời riêng của nhau. Sau đó như lần trước, tôi đưa nàng trở lại nhà hát chỉ mấy phút trước khi ông chồng đánh ô tô đến đón nàng về.
Những tháng tiếp theo tôi còn mấy lần được nàng rủ đi chơi như thế. Mấy lần thấy ông chồng cùng nàng vào nhà hát. Tuy nhiên nàng chẳng tỏ ra thân mật hơn trước, ngoài việc tôi có thể giữ tay nàng lâu hơn, thậm chí một lần còn nâng lên hôn mà không bị rút lại. Thỉnh thoảng như vô tình, nàng hỏi chuyện tình yêu của tôi với cô kia, và tôi nói mọi chuyện vẫn bình thường. 
“Phải chăng nàng cũng yêu tôi, hay chẳng qua đó chỉ là trò đùa của những người xinh đẹp, giàu có và rất hiểu rõ địa vị mình?” Câu hỏi ấy cứ làm tôi băn khoăn mãi. Vốn hay mặc cảm và không muốn rơi vào thế lố bịch, dẫu rất yêu, tôi vẫn luôn tỏ ra kiềm chế, vì dẫu sao nàng cũng đã có chồng.
Một lần tôi còn chuẩn bị sẵn một bông hồng giấu trong cặp định tặng nàng, nhưng khi gặp lại không đủ can đảm trao nàng bông hồng ấy.
Sau đó, một thời gian rất lâu tôi không thấy nàng xuất hiện, cả trên sàn diễn lẫn trước cửa Nhà Hát Lớn. Linh tính báo có chuyện khác thường. Tôi nhờ người dò hỏi và được biết chồng nàng bị bắt cách đấy không lâu (vì lý do gì không rõ), đang bị giam đâu đó tận Tây Nguyên, và nàng đã bỏ hẳn vào đấy để chăm sóc ông.
                                                           *  
   Từ đó tôi chẳng biết gì thêm về Lệ Trinh. Rồi mọi cái cũng qua đi, kể cả tình yêu của tôi với nàng, còn lại trong tôi chỉ là sự luyến tiếc mơ hồ như luyến tiếc một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy vợ, có con, không phải lấy cô ca sĩ xinh đẹp không yêu nhạc cổ điển, cũng không phải vài người nữa tôi yêu sau đó. Cuộc đời dần dần đi vào nếp ổn định. Tôi lấy thế làm hài lòng và chẳng có gì phải than phiền. Tôi vẫn đều đặn vào Nhà Hát Lớn nghe hòa nhạc hoặc xem ba-lê. Chỉ những lúc ấy tôi mới nhớ đến Lệ Trinh, đặc biệt hôm đầu tiên thấy nàng trên sàn diễn trong vai cô gái Giselle xinh đẹp, tinh khiết và dường như không trọng lượng. Tôi cũng nhớ cả những đêm được đi dạo bên nàng hoặc phải lang thang một mình giữa các phố Hà Nội cho đến tận sáng như mọi chàng trai si tình khác. Rồi tôi thương cho nàng đáng lẽ được ông chồng to khỏe, đạo mạo, đầy chức quyền kia nâng trên tay đi hết cuộc đời, thì lại phải vào tận chốn rừng núi hoang vu miền Nam để nuôi ông, nâng cái cơ thể to khỏe kia của ông bằng chính đôi tay bé nhỏ của nàng, trên đôi chân đi những bước nhỏ bằng ngón kiểu ba-lê của nàng. Bây giờ nàng thế nào và đang ở đâu?                                               
  *
Một hôm, bất ngờ tôi nhận được bức thư từ Mỹ. Thư của Lệ Trinh.
“Chắc anh không còn nhớ em và đang ngạc nhiên? Em là Lệ Trinh, người cùng anh mấy lần đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm cách đây đã nhiều năm.”
Nàng viết, vẫn bằng giọng tự nhiên, chân thành như xưa.
“Bây giờ, ở khoảng cách an toàn, rất xa cả về địa lý lẫn thời gian, em mới dám nói với anh điều này. Em yêu anh! Em đã rất yêu anh những ngày được gặp và không được gặp anh thời ấy. Anh không biết, hay đúng hơn, em không cho anh biết điều đó, vì em đã có chồng, còn anh thì đang yêu người khác. Dẫu mãnh liệt, tình cảm của em đối với anh đã không thắng được ý thức đạo nghĩa vợ chồng trong em. Vả lại em cũng không thể cho phép mình cướp đi hạnh phúc của cô gái anh yêu và yêu anh. Đối với em đó là những ngày hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Còn sau đó chỉ là một sự tồn tại, thuần túy một sự tồn tại theo các khuôn phép đạo đức do xã hội qui định.
Dù không yêu, em đã hết lòng tận tụy với chồng cho đến khi ông ấy chết bệnh trong tù. Sau đó em theo mấy người bạn vượt biên và hiện đang sống ở Mỹ. Em đã có chồng, có con, dường như có tất cả, chỉ trừ tình yêu. Anh là tình yêu duy nhất của em. Lẽ ra em đã có thể đến với anh nếu em đủ dũng cảm thoát khỏi những ràng buộc của qui ước xã hội.
Viết thư này, em không có mong muốn nào khác ngoài được bộc lộ với anh những suy nghĩ thầm kín của mình. Em những muốn, và đã cố, không bao giờ nói ra, nhưng không được.
Hãy tha thứ cho em.
Lệ Trinh.
PS. Xin anh đừng viết thư cho em. Điều ấy không cần thiết. Hơn thế, nó chỉ làm em thêm đau khổ.”
Bức thư đề ngày... tháng... năm 1989. Mười lăm năm kể từ đêm tôi nhìn thấy nàng lần cuối.
                                                         *     
Tháng Năm năm 2000, trong lần đi du lịch một tháng với vợ ở Mỹ, tôi tìm đến nhà nàng theo địa chỉ ghi trên bì thư. Tất nhiên một mình. Tôi không có ý định gặp hay trò chuyện với nàng vì nàng không muốn điều ấy. Đơn giản chỉ muốn được nhìn qua ngôi nhà nàng đang sống. Đứng từ xa mà nhìn. Đó là một ngôi nhà nhỏ, bình thường như bao ngôi nhà khác xung quanh ở ngoại ô thành phố Raleigh, tiểu bang North Carolina. Nhà đóng cửa, chỉ hai ô cửa sổ là không, nhưng được che bằng những chiếc mành trắng mỏng. Tôi thong thả đi hai lần qua ngôi nhà ấy, ngồi xuống cạnh gốc cây đối diện, hút hết một điếu thuốc rồi trở về khách sạn.
Tháng trước, tôi lại nhận được một bức thư nữa từ Mỹ. Bức thư chỉ mấy dòng, được viết bằng nét chữ đàn ông rắn rỏi, gần như tô từng nét.
“Theo yêu cầu của người đã khuất, tôi xin báo ông biết rằng vợ tôi, bà Lệ Trinh, đã từ trần ngày...vì nhồi máu cơ tim. Vợ tôi cũng nhờ nói lại rằng bà ấy đã nhìn thấy ông ngồi hút thuốc trước nhà chúng tôi cách đây hơn hai năm. John Nguyen Van Bach.”
                                                  *               
Đó là toàn bộ câu chuyện về Lệ Trinh mà chắc tôi sẽ không bao giờ viết ra nếu không nhận được bức thư ngắn này của chồng nàng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm, ngoài việc nếu có dịp tới Mỹ lần nữa, nhất định tôi sẽ tìm đến mộ nàng để đặt lên đó bông hồng năm nào tôi định tặng.
Hà Nội, 2004
                                                                     
           
LE VIEILLARD ET LE PIANO

Không khí thật điền viên, ấm áp. Như bà già trong bản sao khổ lớn bức tranh sơn dầu nổi tiếng "La jeune fille au piano" của danh họa Paul Cézanne treo trên tường, bà lặng lẽ ngồi đan trên chiếc ghế xa-lông da mềm và sâu. Con mèo mướp lười biếng nằm ngủ dưới ghế, đầu gối lên đôi chân đi tất len dày của bà. Chốc chốc nó duỗi mình, vươn thẳng tứ chi rồi lại khoanh tròn ngủ tiếp.
Đầu xuân, nhưng trời còn rét ngọt. Dù ở nhà, như thường lệ, bà vẫn mặc chiếc áo dài vải the mầu xẫm kiểu cổ thời trước cách mạng. Bà có khuôn mặt bình thản hình trái xoan, với chiếc mũi thanh tú, đôi môi nhỏ và dày. Một nốt ruồi to bên cạnh, na ná nốt ruồi nổi tiếng của ca sĩ nhạc pop Mađôna, càng tôn thêm cho bà cái duyên thầm rất ưa nhìn. Cặp kính lão mắt tròn (cũng kiểu cổ) treo sệ xuống đầu mũi, và bà thường nhìn trên kính chứ không qua mắt kính như người khác. Bất chấp những nếp nhăn sâu trên mặt và mái tóc phi-dê ngắn bạc gần hết, người ta vẫn dễ dàng đoán biết bà từng một thời là người xinh đẹp và xuất thân từ một gia đình rất nền nếp.
Nếu phải chọn ai đấy là dân Hà Nội gốc, tiêu biểu cho lớp trí thức cũ vừa lịch sự vừa bảo thủ, thì có lẽ bà là người thích hợp nhất. Có cảm giác như cuộc sống mới thực dụng và hiện đại một cách xô bồ bên ngoài không mảy may ảnh hưởng đến con người bà và căn phòng nhỏ bà đã sống suốt bảy mươi năm qua. Bản thân căn phòng cùng các đồ vật trong đó cũng cổ kính và trầm lặng như chủ nhân chúng.
Bà là một trong số rất ít các nghệ sĩ pianô ở lại với cách mạng sau ngày thủ đô giải phóng, là người thầy đầu tiên bộ môn này ở Nhạc viện Hà Nội. Bà đã dìu dắt nhiều thế hệ nghệ sĩ trưởng thành, có người dành được giải thưởng lớn trong các cuộc thi quốc tế. Bà nghỉ hưu đã mấy năm nay, với danh hiệu "nhà giáo nhân dân" và "nghệ sĩ ưu tú". Chồng bà là cán bộ cao cấp trong quân đội, một vị tướng chiến trường, hy sinh trong chiến dịch Khe Sanh. Họ không có con. Bấy lâu nay bà sống một mình với con mèo, với chiếc đàn pianô hiệu Bekker cũng già nua và quí phái như bà.
Khách đến nhà bà không nhiều. Bà thích thế. Mỗi tuần hai lần vào thứ ba và thứ bảy, bà dạy đàn cho đứa cháu gái mười tuổi của bà em. Nó có khiếu, tiếp thu nhanh. Bà muốn và có thể dạy nó thành nghệ sĩ pianô có tài. Nhưng nó lại không thích. Cái nó thích là nhai kẹo cao su - vừa tập đàn vừa nhai - và nhạc xập xình chứ không phải nhạc Mozart hay Schubert. Không nói ra nhưng bà buồn. Bà buồn cả việc nhiều học trò giỏi của bà tối tối vào các khách sạn hoặc quán bar chơi đàn cho đám thực khách thô lỗ. Khách của bà còn là những học trò cũ thỉnh thoảng đến thăm, nhất là vào ngày mồng Tám tháng Ba và ngày Hai mươi tháng Mười Một. Và cuối cùng là ông già đang ngồi chơi đàn trước mặt bà lúc này. Một vị khách không mời cũng đến, đều đặn mỗi tháng một lần đúng ngày rằm. Vì sao lại ngày rằm? Cả ông lẫn bà đều không biết. Đơn giản vì đến mấy lần vào ngày ấy rồi quen, sau cứ thế tiếp tục mãi đã hàng chục năm nay.
Ông là thợ (có người gọi nghệ sĩ) lên dây đàn pianô lâu năm nhất và cũng thuộc loại giỏi nhất ở Hà Nội. Ông đến để lên dây đàn cho bà, mặc dù gần đây bà ít chơi đàn và do vậy dây đàn ít sai để phải lên lại. Nhưng ông cứ đến và bà chẳng lấy thế làm khó chịu. Họ là bạn của nhau từ thời còn trẻ. Chiếc pianô luôn là chiếc cầu nối giữa họ. Thường sau mỗi lần chỉnh đi chỉnh lại những nốt đàn đã quá chính xác, ông thong thả cất bộ đồ nghề vào hộp, rồi cũng thong thả như thế, ông trang trọng ngồi xuống trước đàn, bắt đầu chơi bài "Fur Elise"(Gửi nàng Elise) của Beethoven, một bản nhạc đượm buồn ai oán mà tương truyền nhạc sĩ thiên tài người Đức này đã viết gửi một nàng Elise nào đó để bày tỏ mối tình vô vọng của mình. Tiếp đến là một bản etude chậm của Chopin mà theo chất nhạc, người ta đặt thêm cho cái tên là "Tristess" (nhạc buồn). Lần nào cũng chỉ hai bài ấy. Bà chẳng biết vì sao nhưng không bao giờ hỏi. Xong, ông cẩn thận đậy nắp đàn, lấy giẻ lau sạch bóng lần nữa, ngồi xuống cạnh bà, uống nước, trao đổi đôi ba câu vu vơ rồi ra về, cúi đầu chào thật thấp, thậm chí còn ngả mũ nghiêng mình nếu lúc ấy là mùa đông và ông đội chiếc mũ phớt dạ từ thời Pháp còn lại.
Tuy nhiên, hôm nay hình như ngoại lệ. Sau hai bài bất di bất dịch kia, ông chơi thêm một bản nocturne (dạ khúc) của Chopin, bản số 1, và hiện đang chơi bản sonnate "Les Adieux" (Vĩnh biệt) số 26 của Beethoven.
Bà hơi ngạc nhiên nhưng vẫn lặng lẽ ngồi nghe, không một lần ngước mắt khỏi que đan. Ông đàn không hay, không phải ở mức a-ma-tơ nhưng cũng chưa hẳn chuyên nghiệp. Xuất thân từ một gia đình tư sản sa sút, ngày xưa ông cùng học pianô một thời gian ở Paris với bà. Bà học giỏi, có tài, tiếp tục tiến lên, còn ông thì sau nhiều thăng trầm, tự biết không bao giờ có khả năng thành nghệ sĩ giỏi, cuối cùng tự chọn cho mình cái nghề lên dây đàn pianô, dẫu nó, trước kia cũng như bây giờ, hiếm ai lao vào và chưa bao giờ mang lại cho ông nhiều tiền. Đơn giản vì ông không thể sống thiếu cây đàn này. Không trực tiếp biểu diễn thì ông chăm chút, chuẩn bị nó cho người khác. Và ông lấy thế làm hài lòng. Bây giờ đến lượt ông đàn, lại một bài khó và dài như "Les Adieux", ông không khỏi lúng túng, ngượng ngập. Chiếc Bekker già nua, loại Grand piano, chiếm trọn nửa căn phòng, đang rên rỉ dưới những ngón tay cũng già nua không kém của ông. Những phím đàn màu trắng ngả vàng ngà như nhảy múa một cách miễn cưỡng. Tiếng của nó cũng không còn trong trẻo và sắc gọn như xưa.
Theo thói quen nghề nghiệp, thỉnh thoảng bà ngừng tay, gõ mạnh que đan vào thành ghế rồi nói to như trước bà là cậu học sinh chưa thuộc bài: "Forte! Forte!" (mạnh hơn, mạnh hơn nữa) hoặc "Tình cảm vào! Chậm thôi, chậm thôi!" Ông ngoan ngoãn làm theo, vấp một đôi lần rồi cuối cùng ngừng chơi, quay về phía người bạn già.
- Cây đàn của bà già lắm rồi, - ông thở dài.
Đó là một chiếc đàn tốt bố mẹ mua cho bà từ Pháp. Với tư cách là giảng viên lâu năm, sau này nhiều lần Nhạc Viện đề nghị cấp đàn mới nhưng bà không nhận mà vẫn giữ nó như kỷ niệm một thời.
- Còn ông thì không? - bà đáp, nửa châm chọc nửa trách móc như thể chiếc đàn bị chê một cách oan ức.
- Tôi cũng già rồi. Cả bà nữa. Cái gì phải đến sẽ đến thôi. - Ông lại thở dài. - Bà nghỉ dạy đã mấy năm. Bây giờ đến lượt tôi. Hôm nay là lần cuối cùng tôi lên dây đàn đấy. Tất nhiên cho chiếc đàn của bà. Bà và tôi gắn bó với nó bao nhiêu năm rồi nhỉ?
- Gần năm mươi năm. - Bà đáp, ngừng đan, ngạc nhiên hỏi: - Lần cuối cùng? Vì sao lại lần cuối cùng?
- Vì tai tôi hỏng rồi. Cũng đúng thôi. Tuổi tác mà. Hình như nó hỏng đã lâu nhưng vì người ta thương tôi, nể tôi nên không nói đấy thôi. Tháng trước Nhà Hát Lớn không nhờ tôi lên dây chiếc Steinway cho một nghệ sĩ Hà Lan biểu diễn, tôi đã lờ mờ đoán có chuyện không ổn. Chỉ hôm qua tình cờ tôi nghe có người nói bây giờ tai tôi không chính xác nữa, lên sai dây đàn mà tự mình không biết. Hóa ra mấy lần trước người ta bí mật nhờ cậu Hà chỉnh lại những chiếc đàn tôi đã lên dây ở Nhà Hát Lớn, Hội nhạc sĩ, phòng thu Đài phát thanh và phòng hòa nhạc của Nhạc Viện. (Hà là một trong những thợ học việc của ông, sau được gửi sang Tiệp luyện nghề hai năm, thời gian gần đây đang thay ông chăm sóc mấy chục chiếc đàn ở Nhạc viện. Tuy nhiên những chiếc đặc biệt dành cho các buổi biểu diễn quan trọng thì vẫn phải đích thân ông trực tiếp chuẩn bị). Bà biết đấy, nghề tôi chỉ nhờ vào đôi tai. Nay nó hỏng, coi như tôi mất nghề. Beethoven điếc vẫn viết nhạc được vì ông nghe thầm trong đầu. Còn tôi, tôi cần nghe rõ những âm thanh có thật. Không khéo lần trước tôi lên dây cho chiếc đàn này cũng sai, và như người khác, bà thương tôi nên không nói. Có đúng thế không?
Bà im lặng hồi lâu mới khẽ đáp:
- Không. Tôi thấy nó vẫn chính xác.
Bà ái ngại nhìn ông già, không đủ can đảm nói lên cái sự thật bà biết không phải tháng trước mà từ lâu trước đó, rằng đôi tai rất thính nhạy của ông đã bắt đầu không ổn. Tuy vậy bà vẫn không muốn bất kỳ ai khác chạm vào chiếc đàn yêu quí của bà. Bà hiểu ông tự hào và yêu nghề mình đến mức nào. Nó là hạnh phúc và cũng là ý nghĩa cuộc sống đối với ông. Suốt năm mươi năm qua người ta đánh nhau, cày cấy hoặc đổ mồ hôi trong nhà máy, hầm mỏ, còn ông thì luôn quanh quẩn bên những chiếc đàn pianô. Ngoài ra ông không biết một nghề nào khác. Xã hội cũng cần ông như chính ông cần những chiếc đàn pianô để sống, đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cũng suốt chừng ấy năm người ta thấy ông lọm khọm đạp chiếc xe cà tàng tới Nhạc Viện ở Ô chợ Dừa, phòng tập trường múa ở Mai Dịch và các phòng hòa nhạc, thu thanh khắp nơi trong thành phố. Nhiều lần ông còn được ô tô, máy bay đưa đón đến một thành phố xa nào đó chỉ để lên dây một chiếc đàn pianô. Thường sau khi xong việc, ông nán lại để được tận hưởng thành quả lao động của mình, tự hào và lâng lâng hạnh phúc lắng nghe các nghệ sĩ biểu diễn, hoặc ngắm nhìn những diễn viên ba-lê nhún nhẩy bước đi trên đầu ngón chân theo tiếng nhạc chiếc đàn ông đã nâng tới mức hoàn thiện. Ông thường giật mình cảm thấy như người có tội, dằn vặt mấy ngày liền nếu tình cờ phát hiện có dây đàn nào đấy lên chưa chuẩn lắm. Công bằng mà nói, người ngoài nghề it ai hiểu hết giá trị công việc ông làm. Các nghệ sĩ đích thực thì khác. Họ kính trọng ông, thân mật tôn ông thành Maestro (sư phụ). Sau buổi biểu diễn, nhiều danh cầm thế giới tự tìm đến bắt tay cảm ơn ông và tặng những món quà nho nhỏ được ông tập hợp thành bộ sưu tập bày nơi trang trọng nhất trong nhà mình.
Mươi năm gần đây đất nước mở cửa, kéo theo sự mở cửa của vô số các quán bar và khách sạn đua nhau làm sang mua pianô đắt tiền, thuê sinh viên Nhạc Viện biểu diễn để câu khách. Những chiếc đàn ấy cũng cần được định kỳ lên dây và chăm sóc, tất nhiên. Cũng theo mốt, người ta mời đích thân ông làm việc này nhưng thường ông bảo Hà và những người như anh ta làm hộ, dù ở đấy tiền công cao hơn. Âu cũng là một sự lẩm cẩm nữa của người già.
Ông cũng sống một mình. Hơn thế, suốt đời sống một mình. Vì sao - không ai rõ mà ông cũng chẳng chịu nói với ai. Nghe đồn ngày xưa ông yêu bà, yêu lắm, nhưng vì bà là người thành đạt, lại xinh đẹp, con nhà giàu, còn ông thì... nên ông biết phận mình, chưa một lần dám thổ lộ. Người ta hỏi cả hai có đúng thế không, nhưng lần nào họ cũng chỉ cười thay cho câu trả lời. Bản thân họ chưa bao giờ đả động đến chuyện đó. Bao năm nay họ quen đối xử với nhau như những người bạn và dường như cho thế là đủ.
- Bây giờ ông định thế nào? Không lên dây đàn thì ông làm gì ? - Bà hỏi.
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Có lẽ tôi không thể tiếp tục sống ở Hà Nội. Những chiếc đàn ở đây làm tôi buồn. Tôi có người bà con ở vùng trung du Phú Thọ, định về sống nốt tuổi già ở đấy, vui với mảnh vườn, bầy gà. Cũng được đấy nhỉ? Bà thấy thế nào?
- Tôi thấy ông lẩm cẩm. Không chỉ tai hỏng mà đầu óc cũng không ổn. - Bà cười đáp, không ra nghiêm túc cũng chẳng phải đùa. - Suốt đời ở thủ đô, nay ông tưởng về sống nông thôn dễ đấy à?
- Rồi bà xem.
- Tùy ông thôi. Nhưng có phải vì thế mà vừa rồi ông chơi bản "Les Adieux" không?
- Bà đoán đúng.
- Nhưng ông chơi tồi và bỏ giở giữa chừng...
- Đúng thế. - Ông buồn bã đáp. - Tại lâu ngày không đàn, tôi quên. Tại nó khó quá...
- Bao giờ ông đi?
- Tuần tới. Mọi thứ thu xếp xong rồi. Hôm nay tôi đến chia tay bà.
Hai người cùng ngồi im.
- Tôi muốn hỏi ông điều này. Tò mò thôi. Vì sao trong bao nhiêu năm ở nhà tôi ông chỉ đàn hai bài, là "Fur Elise" của Beethoven và "La Tristess" của Chopin?
- Bà chưa bao giờ thử đoán vì sao à? - ông hỏi lại, giọng nhỏ nhẹ và không ngước nhìn bà.
- Chưa, - bà đáp. - Mà sao tôi phải đoán. Ai muốn nói gì cứ nói thẳng ra chẳng hay hơn ư?
Họ lại im lặng, lần này còn lâu hơn. Cuối cùng ông rụt rè lên tiếng:
- Bà có thể đàn tôi nghe một bài được không? Bài gì cũng được. Chưa bao giờ bà đàn cho tôi, chỉ riêng một mình tôi...
Bà liếc nhìn ông với cái nhìn như muốn nói: "Ông có đòi hỏi nhiều quá không đấy?" Nhưng bà không nói gì, chỉ lặng lẽ đứng dậy, đài các bước về phía chiếc đàn, và cũng đài các như thế ngồi xuống ghế, như thể trước bà không phải ông bạn già mà cả nghìn khán giả am hiểu ở Nhà Hát Lớn. Bà đặt hai bàn tay nhăn nheo nhưng thon mảnh lên mặt phím đàn đã ngả màu vàng vì năm tháng, đầu hơi ngửa về phía sau một cách kiêu hãnh. Chiếc đàn cổ lại rung lên vì những nốt nhạc mạnh và dứt khoát. Thật khó tin một phụ nữ nhỏ bé, già nua như bà lại có thể tạo ra được những âm thanh mạnh mẽ và kỳ diệu đến thế. Bà say sưa đàn, mắt lim dim, dường như quên hết mọi thứ trên đời. Cả con người và tâm hồn bà đang hòa quyện vào tiếng nhạc lúc hùng tráng, lúc du dương quyến rũ.
"Bản Prelude và Fuge số 29 của Bach!' - ông nhận ra ngay từ những nốt nhạc đầu tiên. Đây là tác phẩm phức điệu khó biểu diễn cả về kỹ thuật lẫn thể hiện tình cảm. Chính vì nó mà ông bị đánh trượt không tốt nghiệp Nhạc Viện Paris vào một ngày đông giá lạnh ở nước Pháp năm nào. Những người sành nhạc đều yêu thích bản nhạc này. Ông thì coi nó là đỉnh cao sáng tác không chỉ của Bach mà cả nền âm nhạc pianô toàn thế giới.
Bà chơi xong phần Prelude hùng tráng, bây giờ đang chuyển sang phần Fuge trữ tình và theo ông là phần hay nhất của tác phẩm. Các bè nhạc lúc đan quyện vào nhau, lúc đối đáp như lời tâm tình không dứt. Những nốt nhạc tinh khiết, thần thánh làm ông lâng lâng. Tự lúc nào không biết, đôi mắt ông ngấn đầy lệ. Ông giật mình, thầm mừng bà bận đàn nên không thấy ông khóc.

                                                  *
Một tháng sau, đúng ngày rằm, từ Phú Thọ ông lại về Hà Nội và đến nhà bà.
- Công việc của ông trên ấy thế nào? - Bà hỏi, hình như không ngạc nhiên trước việc ông quay lại.
- Cũng bình thường. Ổn cả. Còn bà?
- Tôi thì có gì thay đổi được nữa. Ông không mang đồ nghề về à?
- Không. Tôi nhớ Hà Nội quá, nhớ đàn quá. Ghé về chơi một hôm rồi lại lên trên ấy.
- Thế thì tiếc thật.
- Sao vậy? Đàn lại sai dây à? - Ông hỏi rồi chợt thở dài. - Thật buồn rằng bây giờ tôi chẳng giúp được bà nữa. Tai tôi hỏng rồi, bà biết đấy. Để tôi bảo cậu Hà...
- Không, tai ông vẫn thính lắm, - bà ngắt lời. - Vả lại, cây đàn của tôi nó đã quen ông. Nó già yếu lắm rồi nên cần được chăm sóc thường xuyên. Thiếu ông, dường như nó chẳng còn là chiếc đàn như trước. Ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới điều ấy à?
Ông bối rối không biết đáp thế nào. Bà bước thêm một bước về phía trước, nhìn thẳng vào mắt ông và nói với giọng rất nghiêm túc:
- Tôi có một đề nghị thế này, ông thấy được thì chấp nhận, không thì thôi, tùy ông. Chiếc đàn của tôi hiện cần phải lên dây hàng ngày. Để đỡ vất vả, nếu muốn, ông có thể ở lại đây, ngay trong nhà tôi để làm việc đó. Ý ông thế nào?
Ông hiểu, nhưng vì quá bất ngờ, ông đứng lặng một lúc rồi ấp úng nói:
- Nhưng cả tôi và... chiếc đàn của bà đã già. Làm thế, e  nó thế nào ấy.
- Ông lại lẩm cẩm rồi. Tai ông còn tốt, chỉ đầu óc ông có vấn đề mà thôi.
Để ông khỏi lúng túng, bà ngồi xuống cạnh đàn, vẫn với vẻ đài các nghệ sĩ vốn có của mình.
- Bà vừa đàn bài gì lạ thế, hình như  tôi chưa nghe bao giờ, - ông hỏi khi bà đàn xong.
- Đó là bản "Le Vieillard et le Piano", khúc ngẫu hứng tôi viết riêng cho ông đấy. Lần đầu tiên tôi viết nhạc. Nghiệp dư, và vì hoàn cảnh bắt buộc. "Le Vieillard" là ông, một ông già lẩm cẩm đáng yêu. Còn "Le Piano" là ai thì tự ông đoán lấy. "Le Vieillard et le Piano", một cái tên cũng hay đấy nhỉ?
Hà Nội, 3. 1. 2001


MÙI SỮA
Tặng Nguyễn Thơm
                                                 
Người đàn ông, - một ông già sáu mươi, khô gầy với mái tóc bạc gần hết và nét mặt căng thẳng - từ từ kéo dây khóa chiếc áo len mỏng mịn của người đàn bà đang nằm trên giường, hai mắt nhắm chờ đợi, trán lấm tấm mồ hôi dù lúc ấy đã cuối thu và trời khá lạnh.
Bên trong là chiếc sơ-mi lụa sẫm màu với một dãy cúc dài bằng xà cừ lấp lánh. Tuy cố giữ bình tĩnh, những ngón tay thon dài của ông vẫn run run khi lần mở chiếc cúc thứ nhất sát cổ rồi chiếc thứ hai, thứ ba, để lộ dần làn da rất trắng và mịn. Các động tác của ông thong thả, dịu dàng như khi người ta nhâm nhi tách trà ngon, dù bản năng đàn ông đang rạo rực thôi thúc.
Bỗng một ý nghĩ ngồ ngộ xuất hiện trong đầu. Ông có cảm giác việc ông đang cởi quần áo người đàn bà này cũng giống như khi thận trọng mở hộp đàn vi-ô-lông. Đầu tiên là kéo khóa lớp vải cứng bọc ngoài, rồi mở chiếc hộp gỗ bên trong lót nỉ, cuối cùng bỏ tấm nhung mềm phủ kín chiếc đàn. Về hình dáng, không loại nhạc cụ nào đẹp bằng đàn vi-ô-lông, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ luôn được bọc dưới nhiều lớp vải.
Phải mất mấy phút ông mới đưa được chiếc đàn - người ra khỏi hộp quần áo của mình. Ông chợt sững sờ trước vẻ đẹp cơ thể trần truồng của người đàn bà, một cô gái trẻ, còn rất trẻ. Về cơ bản, nó có nhiều đường cong giống chiếc đàn, và chỉ vẻ đẹp của nó mới sánh được.
Mấy phút trước đó, cô gái trẻ ấy nói với ông:
“Sớm hoặc muộn con cũng thành đàn bà. Con muốn điều ấy xẩy ra với thầy.”
Rồi cô lặng lẽ lên giường nằm chờ, nhắm mắt để khỏi phải thấy ông  phản ứng thế nào. Có lẽ cả vì xấu hổ.
Ông đứng lặng, ngắm cô rất lâu. Cô gái vẫn nằm bất động. Hình như  đã thiếp đi. Có thể ngủ được trong những trường hợp thế này ư?
Cô đã hai mươi hai tuổi nhưng dường như cơ thể chưa phát triển hoàn toàn. Cặp vú nhỏ và nhọn, núm hồng hồng. Túm lông dưới bụng thưa, ngắn và mềm. Người cô nhỏ nhưng không gầy, có thể nói mũm mĩm, sự mũm mĩm của một đứa trẻ hơn một cô gái trưởng thành. Cả kiểu nằm ngoẹo đầu một bên, môi chúm lại phụng phịu cũng giống một đứa trẻ. Ông cúi xuống, giơ tay định chạm vào cái cơ thể trẻ con ấy nhưng bỗng bàn tay ông chững lại, treo lơ lửng trên người cô. Bàn tay xương xương, lốm đốm những nốt đồi mồi trở nên đen xạm, xấu xí trên nền trắng mịn của da thịt cô gái.
Ông là một giáo sư dạy vi-ô-lông. Cô gái là học trò yêu của ông hơn mười năm qua, từ sơ cấp cho đến hết đại học. Ngày mai cô đi Pari học cao học, có thể quay về mà cũng có thể không, cô bảo thế. Và hôm nay cô đến từ biệt ông.
Cô luôn là một học trò giỏi, thông minh, xinh đẹp và cũng rất cá tính. Con gái của người quen, một trí thức nổi tiếng. Ông đặc biệt cảm tình với cô, coi như con và đoán cô cũng nghĩ thế về ông. Khi còn nhỏ, đi đâu ông cũng đưa cô theo, có khi cả mấy ngày. Năm ngoái ông đi nghỉ Đồ Sơn một mình, cô cũng đòi theo. Ông thấy bất tiện nên từ chối, cô khóc xin, ông phải báo với bố mẹ cô và họ nhờ ông cho đi. Tất nhiên ông thuê phòng riêng và hai người đối xử với nhau như bố con.
Từ bé cô luôn gọi thầy xưng con. Ông cũng thế. Một mức thân mật hơn so với quan hệ thầy trò bình thường. Tuy nhiên khi trở thành cô gái, mối quan hệ trong sáng ấy bắt đầu có ít thay đổi, những thay đổi rất tinh tế và từ phía cô chứ không phải ông.
Cô trở nên hay rụt rè e thẹn. Đôi khi ông chợt bắt gặp cô nhìn ông với cái nhìn khác hẳn. Mãi sau này mới đoán hiểu cô yêu ông. Ông chỉ mỉm cười, tuy lúc đầu thoáng chút bối rối. Ông là người có tài, đáng kính về mọi mặt, tế nhị và hay mặc cảm. Sự tế nhị, mặc cảm ấy không cho phép ông vượt qua mức chênh lệch bốn mươi tuổi giữa hai người. Nhưng dường như cô thì không. Cô ngưỡng mộ, yêu ông một cách bồng bột, bất chấp tất cả, tất nhiên không bộc lộ ra ngoài. Chỉ do tinh tế ông mới nhận ra điều ấy. Nhận ra mà vờ như không nhận ra để khỏi làm cô bối rối và cũng để tự kiềm chế mình.
Hôm nay thì tự cô nói thẳng, lại còn nảy ra cái ý định xin được ông cho thành đàn bà. Cô đang nằm kia, hoàn toàn trần truồng, sau khi được ông cởi bỏ hết quần áo như cởi nhiều lần vải bọc chiếc đàn vi-ô-lông.
Ông bị bất ngờ trước lời đề nghị khác thường ấy. Tuy có tuổi nhưng còn là người đàn ông khỏe mạnh, sau chút ít do dự, ông đã buông mình cho tình cảm lôi cuốn. Vả lại ông nghĩ nếu làm khác, có thể cô sẽ thấy bị xúc phạm và đau khổ. Tất nhiên giữa hai người không thể có cái tình yêu theo nghĩa thông thường, nhưng lẽ nào ông không thể vượt qua mặc cảm để chiều cô và cũng là chiều mình một lần, chỉ một lần duy nhất trước khi hai người chia tay, có thể chia tay mãi mãi?
Đúng thế, trên nền da trắng của cô gái, bàn tay ông, vốn thon dài và đẹp như ở những nghệ sĩ vi-ô-lông khác, bỗng trở nên xấu xí, đen đủi. Như tay phù thủy, ông nghĩ và thầm ngạc nhiên với phát hiện mới của mình. Tuổi già. Chính tuổi già đã tạo nên sự tương phản ấy. Giá ông trẻ hơn hai, ba mươi tuổi thì chẳng sao. Lúc ấy chắc mọi việc sẽ diễn ra một cách tự nhiên, ông khỏi bị mặc cảm, bàn tay ông khỏi bị treo lơ lửng thế này. Ông có cảm giác như nếu chạm vào, nó sẽ để lại những vết đen bẩn và làm ô uế cơ thể thanh khiết của cô.
Cuối cùng, bàn tay ấy chỉ dám khẽ chạm mái tóc cô, âu yếm ve vuốt, nhất là phía sau gáy. Cô gái dường như đã thiếp đi thật. Cũng có thể còn thức nhưng cố tình nằm yên, mắt vẫn nhắm, hơi thở đều đều.
Ông cúi xuống định hôn cô, vẫn chưa quyết định sẽ hôn vào đâu - mắt, trán hay môi. Trước đây ông nhiều lần hôn lên trán và mắt cô, nhưng môi thì chưa lần nào. Cũng từng chạm vào người, cố tình chạm, vì điều đó mang cho ông một cảm giác thích thú khó tả. Thậm chí ông có thể làm hơn nếu muốn, nhưng ông đã luôn kìm mình để không bước qua cái vạch ngăn cách vô hình do ông đặt ra. Có thể lần này sẽ khác chăng?...
Khi cúi xuống sát mặt cô gái, lần nữa bất chợt ông chựng lại. Có mùi gì như mùi sữa. Mùi sữa từ miệng những đứa trẻ còn bú mẹ! Không hoi gắt, chỉ thoang thoảng dễ chịu, nhưng đúng là cái mùi ấy. Thật kỳ cục, ông thầm nghĩ. Cô gái này đã hai mươi hai tuổi và chỉ có thể uống sữa đặc, sữa tươi, sữa cốc-tây... Hay từ vú? Không, ở đấy chỉ có mùi thơm mát của da thịt và mùi tuổi trẻ.
Vẫn mặc nguyên quần áo, ông lặng lẽ nằm xuống cạnh cô gái. Sự ham muốn thôi thúc giảm nhiều từ khi không dám chạm tay vào người cô, giờ bị cái mùi kia làm tan biến. Vì sao, ông không hiểu và đang cố hiểu.
Mấy năm trước, trong một cuộc vui với bạn bè, bị hoàn cảnh đưa đẩy, ông đã bỏ tiền mua tình yêu của một cô gái. Ngậm vú cô, ông thấy trên lưỡi có cái gì ngòn ngọt. Khi được hỏi, cô kia bảo mới sinh, cần tiền nuôi con nên phải làm nghề này. Ông mất hết hứng thú, đứng dậy mặc quần áo, cho cô kia gấp đôi số tiền đã hứa rồi bỏ về nhà với cảm giác gần như tội lỗi. Sau đấy ông không bao giờ tới những chỗ tương tự.
Ông có đứa cháu ngoại còn bé và thường thích thú ẵm nó trên tay để ngửi mùi sữa mẹ thoang thoảng từ miệng nó. Sao cũng chính một mùi trong ba trường hợp lại có cái gì đấy vừa giống lại vừa khác hẳn nhau như vậy? Vô tình, ông liên tưởng cô gái đang trần truồng nằm bên với đứa cháu mà không ít khi ông cũng bế trần truồng như thế.
Mà sao cô học trò của ông lại làm thế nhỉ? Vì tình yêu? Hiến dâng vì ngưỡng mộ, biết ơn? Hay đơn giản chỉ là cơn bột phát của tuổi trẻ? Thanh niên bây giờ hiện đại thật. Nhiều người già bây giờ cũng hiện đại không kém. Họ tự cho phép mình những điều mà đáng lẽ vì tuổi tác và địa vị, họ không được phép làm. Còn ông, ông hiện đại hay cổ hủ? Ông có được phép cư xử với cô bé nằm bên như với một người đàn bà không? Có phải là sự sa đọa đạo đức không, khi một người già như ông hăm hở chiếm đoạt một cơ thể trẻ trung, trong trắng đến thế? 
Ông quay người, dịu dàng luồn tay vào mái tóc cô, đặt môi mình lên đôi mắt đang nhắm, hết mắt này đến mắt khác. Có vị mằn mặn. Vẫn phảng phất mùi sữa...
Ông nhớ đã đọc đâu đấy cuốn sách nói ở Nhật có những nhà nghỉ dành riêng cho các ông già bất lực. Ở đấy, họ vào những căn phòng có các cô gái chờ sẵn, trần truồng và đang ngủ. Họ chỉ cần được có cảm giác suốt đêm nằm cạnh một cô gái trẻ còn trinh tiết. Cô gái được cho uống thuốc ngủ đặc biệt, không thể tỉnh dậy trước giờ đã định, nên khách không bị mặc cảm về sự bất lực của mình. Các cô giúp họ sống lại những kỷ niệm thời trẻ, vui cũng như buồn, và lần nữa chiêm nghiệm cả cuộc đời dài mình đã sống. Cách giải trí này mang lại cho họ sự thư giãn lạ lùng. Nhiều người muốn được chết với một cô gái như thế bên cạnh. Trong truyện có một ông ngẫu nhiên chết thật, nhưng chủ nhà nghỉ kịp đưa ông ta đi nơi khác, còn cô gái thì, như những cô gái khác, sáng dậy không hề biết ai đã qua đêm với mình, không biết có người đã chết bên cô.
“Người Nhật lắm trò kỳ cục thật”, ông thầm nghĩ và chợt nhớ trong cuốn truyện ấy cũng có một ông già giống ông lúc này, chưa bất lực, suốt đêm nằm bên cô gái trinh tiết trần truồng mà không dám chạm tay vào người cô, sợ làm ô uế tuổi trẻ trong trắng. Ông ta cũng ngửi thấy mùi sữa từ hơi thở cô gái. Mùi hoi hoi sữa mẹ. Tiếc là đêm ấy, để được ngủ say bên cô, ông ta uống thuốc ngủ quá liều, và trong mơ đã bóp cổ cô gái. Xác chết bị đưa đi ngay, một cô khác được đem vào thế chỗ, và sáng ngủ dậy ông ta không hề biết mình đã phạm tội giết người. Thậm chí không nhận thấy có gì khác lạ.
Ông rùng mình khi nghĩ về chi tiết kinh khủng ấy. “Đáng lẽ ông nhà văn kia không nên viết nó, cả khi có thật những chuyện như thế.”
Cuối cùng ông nhỏm dậy, và lại hôn lên mắt cô gái. Vẫn có vị mằn mặn.
“Con ngủ à?” ông hỏi.
Cô gái khẽ gật đầu.
“Con chưa bao giờ hôn người đàn ông nào, và cũng chưa được hôn?”
Gật đầu.
Ông im lặng một lúc, vẻ bối rối:
“Thầy xin lỗi. Thầy mặc quần áo cho con nhé?”
Cô gái lại gật đầu, mắt vẫn nhắm.   
Ông bắt đầu mặc quần áo cho cô, từng cái một, thong thả và thận trọng như khi mỗi lần biểu diễn xong ông cho đàn vào hộp. Cô gái vẫn nằm yên, chỉ khẽ cử động những lúc cần giúp ông. Khi cơ thể tuyệt đẹp của cô lại được bọc trong chiếc hộp quần áo, ông có cảm giác như hẫng hụt điều gì.
Cô gái đứng dậy, nhìn ông với vẻ ngơ ngác rồi bất chợt bỏ chạy ra ngoài. Hình như cô khóc.
Sáng hôm sau ông ra sân bay tiễn cô. Đến lúc phải bước vào khu vực chỉ dành riêng cho hành khách, cô bỗng ôm chầm lấy ông, nước mắt dàn dụa:
“Em yêu anh!... Chính vì vậy mà em phải ra đi và sẽ không quay về nữa...”
Ông hôn nhẹ lên trán cô, định nói “Thầy cũng yêu con”. Một câu nói lấp lửng có thể hiểu theo hai cách - tình yêu giữa đàn ông đàn bà, và tình yêu giữa bậc cao tuổi với con cháu. Nhưng ông chỉ đứng im, lần nữa đặt môi lên mái tóc cô. Thật lạ, cả mái tóc cũng phảng phất mùi sữa.
Bất chợt, ông thấy mình như già hơn thêm chục tuổi.
Hà Nội, 2003

    
CÔ GÁI BÁN HOA

Thành phố đêm trăng. Đèn sáng rực khắp nơi nhưng không át được thứ ánh sáng huyền ảo có màu vừa bàng bạc vừa xanh lơ của trăng rằm tháng Sáu cao trên đầu. Trời không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ phía sông Hồng thật dễ chịu. Thậm chí phảng phất mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng hơn, có lẽ đó là mùi hạnh phúc.
Ông đang cảm thấy hạnh phúc, cái hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi nhiều ở đời. Chỉ mong muốn cho, nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành đến mức ngây thơ, do vậy nhiều khi lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt thường dễ tổn thương.
Đứng dưới vành trăng tròn vằng vặc ấy, ông thấy người lâng lâng  như bay lên được. Cảm giác này làm ông nhớ tới chuyện khoa học đã chứng minh rằng khi đứng đúng dưới trăng tròn, trọng lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ hơn bao nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún người, nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh, hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá khang trang, xe cộ bóng lộn nối đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ rằng ông và cả dân tộc đã phải chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để có được ngày hôm nay.
Khi hạnh phúc người ta dễ xúc động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn lao, phi thường, thật tốt cho người khác.
Nhân vật chính câu chuyện này của chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện gót giày đi dạo dọc theo một trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các bạn tò mò muốn biết người đó là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong truyện “Say Nắng” năm ngoái. Ông giáo sư thơ ngây, “mắc bệnh tim to” và độc thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm trời nắng đẹp quyết định dạo phố, tự cho phép mình hút thuốc ba con năm, uống rượu vang Pháp, vào hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi ông, vì “say nắng” để mình lọt vào vòng tay một cô gái trẻ rồi bị đưa lên đồn công an... Ông là bạn thân của tôi. Chuyện xẩy ra đúng như thế. Có điều ông không treo cổ tự tử khi bị báo nêu đích danh, mặc dù có ý định ấy, may tôi và mấy người bạn nữa kịp can ngăn. Thường vẫn thế, trong đời mọi việc không đơn giản và quyết liệt như trong truyện. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì cái kết phịa nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy là giáo sư N., lần này ban đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên đường phố thủ đô xinh đẹp. Có nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm. Ánh trăng làm người ông mềm ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người gầy nhom, lại giữa lúc thanh bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp ông thực hiện được ý tưởng đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến lúc bất chợt nhìn thấy một cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía trước. Người, xe đi ngang qua cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi, ban đêm ai mua hoa? Mà rồi hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu hoa gì, chỉ thấy trăng trắng một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt đẹp thế này, ở một thành phố cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này mà bất hạnh?
Giáo sư N. như khựng lại, nhăn trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô gái. Cơ hội thực hiện việc làm “vĩ đại” đã đến.
Ông móc túi lấy hết số tiền mình có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá), rồi cầm bó hoa héo lên tay. Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ duy nhất của thủ đô đêm nay, thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và hồn nhiên như đứa trẻ.
“Bác... Anh không mua hoa gì nữa à?”
Ông không hiểu, đứng đờ ra hồi lâu.
“Tôi già rồi. Cô gọi bác cho tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô rồi đấy thôi.”
“Em bán cả hoa kia nữa.” Cô kia ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa nào?”
Cô gái có vẻ lúng túng, chắc lần đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải đành nói thật:
“Em là gái bán hoa... Nếu thích, anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho em dăm chục nghìn. Ba chục cũng được.”
Giờ thì ông giáo sư già hiểu. Có cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô gái còn trẻ, chắc chưa đến hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật thà chất phác kiểu nhà quê.
“Bác từ quê lên à?” Cô gái hỏi, chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy. Quê em Thái Bình. Bác ở đâu?”
“Tôi người Hà Nội, sống ở đây sáu mươi năm rồi.” 
Ông đáp, vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao cháu không ở quê, lại lên đây làm nghề này?”
“Ôi, sao đàn ông người nào cũng hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói to, giọng khó chịu và thách thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người ta tới xó xỉnh nào đó. Tại sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người à? Hà Nội không cần những đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi, không cần dài dòng. Có muốn thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ cho cả hai loại hoa. Không phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng, sòng phẳng như ai.”
Giờ thì giáo sư N., nhà vật lý lý thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình trong căn hộ “hang chuột” ở một nhà chung cư kiểu cũ  hiểu cặn kẽ các hạt vật chất và phi vật chất vô hình, đang bối rối thực sự không hiểu cô gái trẻ con trước mặt đang nói gì, vì sao có thể nói như thế, và quan trọng hơn cả là ông phải làm gì bây giờ. Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm ngoái không giúp ông hiểu biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn thế, những người quá chân thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho mình.
Ông im lặng khá lâu, cho đến lúc suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả quyết:
“Thế thì đi.”
“Đi đâu?”
“Về nhà tôi.”
“Không sợ sư tử Hà Đông à?”
“Tôi sống một mình.”
“Được đấy. Vậy ta đi. Nhưng nhà anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời gian. Hôm nay chưa được khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi nhắc lại: Đừng xưng anh em. Bác cháu dễ nghe hơn.”
“Cũng được. Nhưng bác bác cháu cháu rồi làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa làm vừa hỏi có sướng không con. Kinh!”
“Sẽ không có chuyện ấy.”
“Không? Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác chỉ mong điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay bác định đưa cháu về đồn công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt một lần rồi...”
“Công an nào. Vớ vẩn. Thôi, không nói nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên cao trăng vẫn sáng, thơ mộng và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông không còn cái cảm giác lâng lâng lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi kết luận về sự giảm trọng lượng do sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người xe vẫn thế, nhưng bức tranh hạnh phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó ông phát hiện thấy một vết ố nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như mình có lỗi đã để nó xuất hiện. Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu một kế hoạch xóa sạch vết ố ấy. Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại” ông vẫn mong ước.
                                                  *
Bà hàng xóm to béo và tốt bụng rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm khuya - lúc ấy mười rưỡi và bà đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái được gửi từ quê ra nhờ nuôi hộ. Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không quen biết ngủ tạm, ít nhất cũng mấy tối.
“Người bà con bác à?”
“Không. Chỉ một cô gái bán hoa tôi gặp ngoài phố.”
Là người từng trải, bà hiểu đúng nghĩa của từ này.
“Trời! Lại còn dẫn về nhà? Nếu quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà hiểu sai rồi, tôi chỉ đơn giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp cách nào?”
“Tạm thời chưa rõ lắm, nhưng phải giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở đấy không tiện. Vậy mới nhờ đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai tôi nói hết mọi chuyện.”
Vậy là tối hôm ấy cô gái bán hoa ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại quí ông giáo sư nên đã nhận lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật kỹ. “Khi nào mòn hết nửa bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái thì dọc đường đi trước đó đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên tâm. Cô cũng kể nhiều về mình và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả những người tốt bụng có lòng trắc ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn không bao giờ thay đổi được sự cả tin ấy.
Sau đó ông gọi điện cho tôi, bảo phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn, tôi đồng ý mà không căn vặn điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi có lòng, ông có tiền. Vậy ta thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn tắt sự việc.
“Tôi cũng có lòng,” tôi đáp, hơi chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính bốc đồng. Không khéo lại chuốc vạ vào thân.”
“Thì đã sao? Suy cho cùng, những gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, cũng như cả trăm truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng cứu được một con người cụ thể như cô gái này...”
“Có thể như vậy, nhưng Lỗ Tấn bỏ nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một lúc giúp được nhiều người hơn.”
“Ông không ví mình với văn hào Lỗ Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi đùa thôi. Công bằng mà nói, truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta thấy yêu đời và còn muốn sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc ác, tục tĩu, toàn một màu đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông vẫn chỉ trên trang giấy, còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt và đang chờ ta kéo ra khỏi vũng bùn...”
“Nếu cô ta không muốn được kéo ra thì sao?”
“Không thể có chuyện ấy. Không ai muốn sống trong bùn nhớp nhúa” 
“Nếu cô ta lừa ông, hoặc sau bao nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì coi như tôi tính sai một con số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài mà. Vả lại, có sai mới có đúng.”
Tôi thấy đuối lý trước những lập luận giản dị ấy.
Hai ngày sau, với tiền của tôi (ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ đáng khâm phục của ông và cả sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở trong căn phòng mười lăm mét vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê ba trăm năm mươi nghìn đồng một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho cô những vật dụng cần thiết cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi cá kho lớn. Những thứ này do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống mình, ông thuê cho cô một góc cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy chục mét) thêm một triệu đồng làm vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết bán hoa chứ không cái gì khác, ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ lúc đầu. Bán hoa làm đẹp cho đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và đáng yêu.
Mọi việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn hở ra mặt. Tôi cũng vui lây với ông, một lần còn đi theo đến cửa hàng hoa và căn phòng mới thuê. Cô gái có vẻ chí thú và cũng ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng sau bỗng một thằng lẻo khẻo mặt đầy mụn và hay ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N. làm ầm lên, như thể ông “cướp vợ” hắn. Bà hàng xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn ra ngoài, nhưng cũng khối người trong chung cư nghi ông làm điều bất chính. Sau đó vài tuần thì ông chủ nhà đem tiền đến trả không cho thuê nữa, với lý do nhà ông bị biến thành nhà chứa, và rằng cô gái bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường “bán hoa” ở chỗ cũ, bắt được khách lại dắt về phòng mình.
Giáo sư N. nhất quyết không tin, đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế nào. Nể bạn, tôi phải đi theo. Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước vào thì hai anh công an khu vực đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu đó). Một anh nghiêm mặt nói: “Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng này...” May ông chủ nhà kịp đến thanh minh hộ.
Hôm sau thì cô gái bán hoa biến mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem theo được.
                                                  *
Nhiều bạn đọc cứ hỏi những gì tôi viết có đúng thật sự xẩy ra như thế không. Câu hỏi thật khó. Vừa đúng lại vừa không. “Văn nói láo, báo nói phét,” người đời hay nói thế. Viết văn là hư cấu, tất nhiên, nhưng không phải hoàn toàn. Muốn hay không, vẫn phải có một liều lượng sự thật nhất rồi từ đấy thêm thắt, khái quát thành câu chuyện còn thật hơn cả ngoài đời có thật. Không thì ai chẳng viết được văn, nếu đã học ngữ pháp và ít nhiều biết cách kể chuyện. Cứ tin tôi đi, nếu ai đó viết giả dối hoặc phịa hoàn toàn, sớm muộn người ta cũng phát hiện ra. Không một kỹ thuật nghề nghiệp nào che giấu được điều ấy. Ở những nét cơ bản, câu chuyện tôi kể trên đây là có thật, xẩy ra với ông bạn già của tôi là giáo sư N., và trong chừng mực nào đó, cả với tôi nữa. Vốn lạc quan và luôn tin vào sự tốt đẹp ở đời, tôi thích và thường viết những câu chuyện có hậu.
Thực tế cuộc sống còn có những người như cô gái bán hoa kia. Tôi nghĩ ít thôi nhưng vẫn có. Hay đúng hơn, tôi mong muốn nó ít. Vì vậy tôi đang vắt óc tìm một phần kết đẹp hơn cho truyện ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ai đó trong bạn đọc gợi ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý kiến cũng lắc đầu (Tôi có thói quen chuyện gì cũng hỏi vợ, cả chuyện viết lách). Bà ấy chỉ phán một câu, với cái giọng châm biếm không ác ý hàng ngày: “Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi không hỏi giáo sư N., thậm chí giấu không cho biết tôi viết truyện này. Ông vừa ở nhà tôi về xong. Như cú “say nắng” năm ngoái, lần “say trăng’ này cũng làm ông buồn. Vấn đề chẳng ở tiền bạc và công sức. Ông buồn vì cô kia bỏ đi không một lời nhắn lại. Ông bảo tôi chắc cô làm thế vì hoàn cảnh bắt buộc, và rằng nếu nói ra, có thể ông sẽ giúp được. Tính ông dễ buồn, nhưng buồn không lâu, và rồi cuối cùng bao giờ cái bản chất tin người, thương người cũng trội lên lấn át tất cả. Tôi dám chắc nay mai ông sẽ lại bị “say” lần nữa, và lần nữa ông lại hăm hở lao vào một việc nào đó “tốt và vĩ đại” để giúp người khác. Thì ông đã nói, nếu bị lừa, đó đơn giản cũng chỉ là phép tính ông tính sai. Sai thì tính lại. Cuộc đời là cả triệu phép tính, tính sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn tôi? Tôi cũng thừa giấy mực và nghị lực. Trót viết sai một câu thì viết lại. No problem, như người Anh thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi tính, tha hồ tẩy xóa, tha hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi. Dẫu không được như Lỗ Tấn, tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo trở nào đó mà buồn. Đời vẫn đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô ta cũng chỉ là con số sai trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề của tôi, một câu văn chưa chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là cả giáo sư N., tôi, và tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.
Hà Nội, 29. 5. 2003


NGÀY ĐẸP TRỜI

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Ông lão đã gần tám mươi. Con chó nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút. Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ  gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc. Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...
Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó, thì vẫn hơn.
Vậy là cả hai, con người và con chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.
- Cái giống chó nhà mày ấy mà, Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi còn ở chung, vợ chồng con  ông đặt cho cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì chết, chết đói thật đấy.
Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.
- Còn tao thì mày biết, tao đã kể bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung, tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê ấy mà, khối người về già bị con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?
Con chó già không đáp vì nó đang bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm  nó.
- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn đấy nhá!
Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự. Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng, nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.
Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm. Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều giống nhau.
- Mày làm sao thế, Vện? - ông lão mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy. Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng trước rét thế. May đêm ngủ  có mày, chứ không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?
Lúc này con chó già đã bị kéo ra tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá. Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.
Bình thường, dẫu già con Vện vẫn có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết nên hắn mới có thể làm mọi việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp. Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước, mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?
- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. - Vện! Vện! Mày đi đâu đấy?
- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm ngừng sửa xe, nói vọng sang.
- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là đi đâu?
- Là tới các quán thịt chó ở trên ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.
- Nhưng sao con Vện lại đến đấy và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.
- Không phải nó tự đến, mà bị bọn trộm bắt...
- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu để người khác bắt trộm?
Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng “trời” rồi ngồi im. Mãi lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;
- Sao bác biết, không ra giữ nó lại?
Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:
- Tôi bận chữa xe.
Rồi vô cớ, cho rú máy inh ỏi.
                                                    * 
Trên đời có những người làm điều ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc. Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật Tân.
Hắn có biết việc này là xấu không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết. Hắn chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục “hành nghề”, hết con này đến con khác, hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới. Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.
Câu chó và câu cá thì có khác gì nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống. Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng. Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật. Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn “đi làm”. Các chủ quán Nhật Tân thản nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do “bận chữa xe máy”. Anh con trai ông lão mù thản nhiên nói: “Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải khổ sở đến thế.” Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.                                                 
*
Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành, là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời, nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.
Cho đến tận lúc này tôi vẫn có cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và “hồn nhiên” nhất. Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...
Vậy là tôi đã làm hỏng truyện ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng “truyện ma”, tôi có thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.
PS.
Ông lão mù mới chết tuần trước. Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói, không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông hàng xóm “bận chữa xe” tiễn cụ tới tận nghĩa trang.
Chỉ tiếc không có con Vện.
Hà Nội, 8. 10. 2002
                                                 
 
ANH DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN

Ông Sêkhốp có một truyện, ngắn thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh Gầy". Câu chuyện đang viết đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được một cái tên vừa ý, vậy tôi xin bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng Cảm và anh Hèn".
Xin được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp, dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, cái bây giờ được gọi là "hiện tượng tiêu cực", và rất tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm nản mà thôi. Nhưng anh thì không, cương quyết không. Anh đã ba mươi lăm tuổi, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phép phát huy sở trường đó.
Hóa ra ở đời làm người tử tế và dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm ấy cũng không nhỏ. Từ chiến trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy khen và bằng dũng sĩ, anh được người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng chính "người ta" ấy đã khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh biết đấy mà không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ còn  là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và cũng vì quá dũng cảm.
Làm ruộng là một sở trường nữa của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không phải lúc nào chúng cũng liên quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào "đấu tranh", theo kiểu "đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ, trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết. Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Một hôm vợ anh lên cơn hen nặng, phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xẩy ra, ít thì một, nhiều có khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và biết phải làm gì.
Giống mọi lần, người ta cho vợ anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5 mg. Ba ống thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được và nếu không có gì nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là vậy.
Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ, họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang xuống giá.
Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ thục bất thành văn nào đó), vẫn thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những người ý thức rõ quyền lực và tầm quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này và luôn nhắc mình kiềm chế không "đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện cùng những "thiên thần áo trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả và từng cứu sống nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm người không cho phép lấy oán trả ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện và theo lệ chung, người ta làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác anh nhất định không bỏ qua. Tất nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh hỏi người thu tiền:
- Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh viện giá bốn mươi nghìn đồng một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn đồng một ống? Tức là một trăm nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
- Tôi không biết. - Người kia khó chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
- Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
- Tôi đã bảo không biết mà. Cứu được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo, rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình, một cách mềm mỏng và lịch sự.
- Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp, hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ. - Anh biết thế sao không ra hiệu thuốc mà mua để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Đã tiếc tiền sao còn đưa vợ đến đây cấp cứu?
Anh thấy nóng mặt tức giận vì thái độ hỗn xược của cô nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
- Nhưng chính chị chỉ cho tôi sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức qui định hay các chị tự đặt ra, thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
Thấy giọng anh có vẻ cứng rắn, lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ thoáng chút bối rối nhưng cố nói át:
- Thời buổi thị trường, mỗi nơi một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so đọ một vài chục nghìn. Tiếc đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
- Vậy là các người thông đồng với nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi là "giữa cái sống và cái chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những bệnh nhân nghèo, chủ yếu là những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt từng tiếng. Anh đã không còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn nhắc mình khi vào bệnh viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
- Anh nói sao? Anh dám bảo chúng tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
- Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng, cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại rằng cô, chính cô là một con ăn cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn cắp hết ngày này sang ngày khác, nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn công an để giải quyết như với những con ăn cắp chuyên nghiệp khác. Đi, bây giờ cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
- Ối làng nước ơi, cứu tôi với! - Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng mất dạy đang làm nhục tôi.
- Câm mồm! Nếu mày không phải đàn bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm!
Thấy động, mọi người nhanh chóng kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ điều họ đang ấm ức.
- Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng ai dám nói gì.
- Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm.
- Đồ mất dạy, phải trị cho chúng một trận.
- Trả tiền lại cho người ta, không nuốt được đâu.
- Nhưng mà cái ông kia cũng quá đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
- Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất vả thì người ta đã trả hai mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính xem, một người chúng ăn chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng cấp cứu bao nhiêu người, chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
- Đánh bỏ mẹ nó đi!
Một thanh niên mặc áo trắng hùng hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm chặt cổ tay.
- Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây rối à?
- Câm mồm. Nó thì tao không đánh, chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói, và bóp mạnh một cái vào vai hắn bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói thêm được lời nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp.
Rồi anh kéo cô bác sĩ, lúc này đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
- Chúng tôi là công an đây. Anh cần gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại gần, vừa nói.
- Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Anh vắn tắt kể lại những gì đã xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không? Cần nhiều đấy, không phải một đâu.
Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh lại nhao nhao tiếng đồng tình của nhiều người.
- Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh  kể cũng hơi quá...
- Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền của người ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực. Chưa nói đến tính cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông dân.
- Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết nói với anh thế nào được nhỉ?
- Các anh là người đại diện và bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào. - Anh Dũng Cảm hạ giọng. - Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh định giải quyết thế nào?
Một chốc sau họ, gồm anh Dũng Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
Ông giám đốc là một người nghiêm khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong ngành. Ông chăm chú nghe anh Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu, mặt ửng đỏ, một bên má dật dật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát. Cô bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất và vẫn còn khóc.
- Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, vì nói gì thì nói, đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống, hàng ngày, trắng trợn và đểu giả như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các nhân viên tôi.
Liền sau đó, ông cho người gọi trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang tiền chênh lệch trả lại cho người bị hại.
- Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
- Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
- Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui định của bộ.
- Nhưng đây là hành vi ăn cắp như chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo tôi biết, thì phải truy cứu hình sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
Đến lượt ông giáo sư lúng túng.
- Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh, thậm chí bênh vực anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người đang làm việc ở đây. Xin anh cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
Anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, sự tức giận cũng không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì hẫng hụt trong lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã lấy oán trả ân không?  Nếu con bé ăn cắp kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia đình nó? Càng nghĩ anh càng thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được tin báo của ông giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia, nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
Đấy, chuyện anh Dũng Cảm là như thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện anh Hèn thì sao?"
                                                               *
Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm dũng cảm đáng khen của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay "phịa" như người ta vẫn nói. Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
Cái sự thật đó là: Cách đây không lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá của họ là hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy ra thường xuyên, trước đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn, và có cớ xác đáng để hèn.
Chẳng ai đem cái hèn của mình ra khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người "hễ thấy bất công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất nhiên, cũng từng lãnh đủ, nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người có lúc" như các cụ nói.
Bây giờ tôi đã già, an phận với sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ như kéo tôi dính chặt vào chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là người thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không chịu đầu hàng, chừng nào còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn thế thôi.
Vì không muốn biến truyện ngắn của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các bạn thấy, tôi còn đủ dũng cảm để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.
Hà Nội, 10. 3. 2001

                                                           
ÔNG GIÁO LẬP DỊ
                                                                   
Ông Nguyễn Xuân Đoàn thuộc loại người vô tư và biết hài lòng với mình, với đời. Mà đời ông thì sống ở nước ngoài nhiều hơn trong nước. Ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, đã qua chức vụ trưởng một vụ ở bộ, hai nhiệm kỳ đại sứ ở Bắc Âu. Ông mới về hưu đầu năm nay, đúng tuổi sáu mươi, còn khỏe mạnh và tràn trề hạnh phúc. Sáng chơi ten-nít, chiều uống bia, tối đọc sách hoặc thậm chí làm thơ. Chắc chắn ông cũng hài lòng với những bài thơ ông viết.
Một hôm có ông bạn già ở trường ngoại ngữ đến nhờ ông Đoàn dạy hộ một lớp tiếng Anh nâng cao mà ông mở riêng đã mấy năm nay, giờ vợ chồng ra nước ngoài sống với con cháu.
“Bỏ thì tiếc, - ông nhà giáo nói. - Mà tôi thì chỉ có thể tin bác được thôi. Chẳng vất vả gì đâu. Mỗi ngày hai tiếng từ sáu đến tám giờ tối. Mọi việc cô Mai sẽ lo. Cô ấy tốt và tháo vát lắm. Bác chỉ dạy”.
Thấy bạn có ý lưỡng lự, ông nói thêm:
“Tôi biết với bác tiền không quan trọng, mặc dù phải nói rằng thu nhập lớp này cũng khá. Cái chính là bác sẽ được thay đổi không khí, sẽ cảm thấy hài lòng vì mình còn giúp được ít nhiều cho lớp trẻ”.
Một tuần sau ông Đoàn lên lớp, chủ yếu vì cái “thay đổi không khí” và “giúp thế hệ trẻ” ấy.
Lớp là một giảng đường đại học thuê bao cả năm. Khi đến, ông ngạc nhiên thấy học viên ngồi kín gần hết, dễ đến cả trăm người. Điều này chứng tỏ bạn ông phải là người rất giỏi và uy tín. Bản thân ông cũng giỏi, nói và viết tiếng Anh thuộc loại nhất nhì bộ. Cách thức tiến hành buổi học thì đã được bạn hướng dẫn kỹ. Cả con số một trăm người học kia cũng chẳng thành vấn đề, vì là lớp dịch không phải giao tiếp với từng người, không cần nói to vì cô Mai đã bố trí sẵn chiếc máy phóng thanh nhỏ trên bàn. Ông có thể đi lại thoải mái mà giọng vẫn vang to khắp phòng.
Buổi dạy đầu tiên diễn ra suôn sẻ. Các buổi sau cũng thế. Dường như người học cũng thích ông. Họ chủ yếu là sinh viên các năm cuối và cán bộ cơ quan có nhu cầu nâng cao ngoại ngữ. Bằng chứng là sĩ số không giảm mà còn tăng thêm. Không chú ý mấy đến việc cô Mai chăm chỉ thu học phí, kiểm tra thẻ, lo chuyện phấn bảng, ông đến lớp đúng giờ rồi hết giờ ra về, trang nghiêm và đạo mạo đúng kiểu một ông giáo có tuổi và giỏi nghề như ông cần có. Công việc mới mẻ này làm ông thích, có thể nói còn cuốn hút.
Cuối tháng cô Mai tìm đến nhà ông. Cô trạc ba lăm, hai con, nhân viên phòng quản trị của trường nơi ông đang dạy. Người cô đẫy đà, phúc hậu, tính cẩn thận, tháo vát và có vẻ đáng tin cậy như ông bạn giới thiệu. Cô rút ra tờ giấy chi chít tên người và các con số.
“Dạ, đây là tiền học phí của lớp tháng vừa rồi, sau khi trừ các khoản”. Cô lễ phép nói. “Mười ba triệu năm trăm mười nghìn đồng”.
“Nhiều thế cơ à?” Ông Đoàn ngạc nhiên hỏi.
“Cũng bình thường thôi ạ. Vào các tháng sau Tết và đầu năm học thường nhiều hơn”.
“Xưa nay vẫn thế?”
“Vâng ạ”.
“Lớp nào, thầy nào cũng thế?”
“Không. Trường này còn ba lớp tiếng Anh nữa, dạy thực hành, giáo viên trẻ, ít người học nên ít hơn nhiều. Còn các lớp luyện thi toán lý hóa thì có thể  nhiều hơn”.
Ông Đoàn ngồi im không nói gì.
“Thế cô được bao nhiêu?” Lúc sau ông hỏi.
“Dạ, sáu trăm nghìn như mọi khi. Trong giấy này em có ghi”. Cô Mai đáp rồi lễ phép chào ông ra về.
“Mười mấy triệu đồng một tháng. Mỗi ngày hai giờ dạy. Nhiều quá”.  Ông Đoàn nghĩ. “Hóa ra bao năm nay cái ông Năm nhà giáo này kiếm cũng khá.”
Đúng là ông không quan tâm đến khía cạnh kinh tế của việc dạy học. Dạy cho vui như ông vẫn nghĩ. Nhà ông khá giả, có thể nói giàu. Chỉ còn hai ông bà già sống với nhau, lương hưu cao. Hai đứa con đã trưởng thành, cũng giàu. Anh con cả hiện đang làm cho một liên doanh ở Sài Gòn, mấy năm trước còn biết đem tiền tiết kiệm của ông mua mảnh đất, vừa rồi sốt đất, đem bán lãi hơn một tỉ. Số tiền này ông bà đang gửi tiết kiệm, riêng lãi cũng thừa sống, nên khoản tiền mười mấy triệu một tháng kia càng trở nên nhiều, thậm chí quá nhiều. Ông là người như vậy, luôn suy nghĩ như vậy, chân thành và trong sáng.
Hôm sau học xong, ông bảo cô Mai ở lại, đề nghị cho ông biết rõ tình hình học sinh, học phí. Nghe xong, ông nói: 
“Cô xem có thể giảm học phí cho mọi người được không?”
Cô Mai ngơ ngác, đờ mặt nhìn ông hồi lâu:
“Dạ, em không thật hiểu...”
“Tôi nói giảm học phí. Tức là có thể hạ học phí từ mức mỗi người một tháng một trăm nghìn đồng xuống năm mươi hay bảy mươi nghìn chẳng hạn. Cô biết rõ nên giảm bao nhiêu. Thực sự tôi không cần nhiều như vậy. Tôi chắc trong số người học ở đây nhiều người cũng khó khăn, đặc biệt các em từ nông thôn. Cô hiểu rồi chứ?”
“Dạ hiểu”, cô Mai ấp úng. “Nhưng em thấy không thể làm thế được ạ”.
“Vì sao?”
“Vì... không thể được. Xưa nay người ta chỉ tăng chứ không giảm học phí...”
“Nhưng đây là lớp tư. Của tôi. Và tôi muốn giảm!” Ông Đoàn hơi cao giọng. Là nhà ngoại giao, ít khi ông cao giọng.
“Nhưng làm thế sẽ ảnh hưởng đến các lớp tiếng Anh khác. Có thể cả những lớp không phải tiếng Anh. Mọi người sẽ không hiểu, sẽ bàn tán, dị nghị, sẽ cho rằng thầy...”
“Tôi không cần biết người ta nghĩ gì về tôi. Đây là việc riêng, và tôi quyết định từ nay cô chỉ thu năm mươi nghìn đồng một tháng! Không bàn nữa. Cứ thế mà làm!”
Ông Đoàn thậm chí giật mạnh chiếc cặp trên bàn rồi bước ra khỏi phòng.
Tội nghiệp cô Mai. Cô bị sốc thật sự. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đã mười năm nay cô làm thêm nghệ quản lý các lớp dạy thêm, học thêm này, cho nhiều thầy, nhiều cô, nhưng chưa bao giờ cô gặp trường hợp nào tương tự. Ngoài đức tính quí báu là mẫn cán và trung thực, cô còn là người dễ xúc động và hay lo. Cô hình dung chuyện gì sẽ xẩy ra khi cô thông báo cái quyết định kỳ cục ấy. Người ta sẽ bảo lớp cô “phá giá” để chơi xỏ nhau, bảo ông thầy này điên, định tỏ ra này nọ. Người học chắc chắn sẽ lấy làm ngạc nhiên, đoán non đoán già không biết vì sao lớp bỗng dưng giảm học phí. Mà nào có ai kêu đâu. Lớp dạy chất lượng, so với nhiều nơi khác là còn rẻ, lại được bảo lưu, học bù thoải mái. Rồi họ sẽ quay sang nghi ngờ cả những chuyện kỳ cục nhất, như phải chăng ở đây đang có điều gì khuất tất? Hay thầy trót phạm tội lỗi nào đó nay lương tâm cắn dứt? Được giảm tiền cũng thích, tất nhiên, nhưng ý nghĩ học với một người tội lỗi thì chẳng thích thú gì. Rất có thể vì thế mà nhiều người sẽ bỏ học. Nhất định phải có chuyện gì đó. Nếu không ai bỗng dưng từ chối tiền, nhất là những đồng tiền chính đáng? Ừ, mà sao ông ấy làm thế nhỉ? Không thể nói vì giàu. Xưa nay càng giàu người ta càng muốn có thêm tiền để giàu hơn. Vậy thì vì cái gì? Cô Mai chịu không sao hiểu nổi. Hay thật sự có điều gì khuất tất? Hay biết đâu ông ta nói thế là nhắc khéo mình tăng chứ không phải giảm học phí?
Với những băn khoăn như thế, cô quyết định tạm thời cứ chờ một thời gian xem sao. Biết đâu đây chỉ là ý nghĩ bốc đồng thoáng qua và chẳng bao lâu nữa ông ấy sẽ thay đổi.
Những ngày tiếp theo ông Đoàn không đả động gì đến chuyện này, vẫn đều đều lên lớp, trang nghiêm và đạo mạo như trước, không mảy may chú ý tới cô Mai và những việc cô làm trong lớp.
Cuối tháng, cô lại đến gặp ông.
“Hóa ra cô không làm như tôi yêu cầu?” ông Đoàn hỏi khi cô đưa cho ông gói tiền với tờ giấy đủ các khoản diễn giải và con số gần mười lăm triệu đồng.
“Dạ vâng. Em xin lỗi”, cô ấp úng. “Em nghĩ có thể vì mới đến thầy chưa biết. Việc này không đơn giản như thầy nghĩ. Vả lại...”
“Thôi được rồi’, ông Đoàn ngắt lời không chút ngoại giao. “Nếu thế thì cứ mặc tôi.”
Đêm hôm ấy cô Mai lại mất ngủ. Cô thấy tiếc những năm làm việc đều đều không sự cố với thầy Năm, và cô lo lắng nghĩ tới việc ngày mai ông Đoàn sẽ nói “điều ấy” với cả lớp, một việc đáng lẽ cô làm nhưng ông không để cô làm. Tức là mọi người sẽ nghĩ có sự không ổn giữa ông và cô.
Nhưng cô ngạc nhiên khi hôm sau và mấy ngày tiếp điều cô lo vẫn không xẩy ra. Cô không biết rằng ông Đoàn đã đích thân ra phòng thuế quận xin nộp thuế thu nhập cá nhân. Ý tưởng mới mẻ và độc đáo này đến với ông khá bất ngờ, khi buổi sáng đi chơi ten-nít về, ông ngẫu nhiên nhìn thấy câu khẩu hiệu viết bằng sơn đỏ đã phai màu trên một bức tường vôi tróc loang lỗ: “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của công dân” Đúng! Mình là công dân, công dân gương mẫu, có thu nhập cao, tại sao không tự nguyện khai báo nộp thuế?
Ở phòng thuế, anh nhân viên trẻ sau khi nghe khách trình bày ý định của mình, thấy có sự lạ, bèn lễ phép mời ông sang phòng bên “gặp lãnh đạo”. “Lãnh đạo” là một ông già gầy đét đã ngồi ghế trưởng phòng hơn hai mươi năm nay, có tên là Chẩm, vừa nghe vừa chăm chú nhìn ông bằng đôi mắt nhà nghề đầy cảnh giác của một cán bộ ngành thuế dày dạn kính nghiệm.
Ông Chẩm hoan nghênh ý thức công dân cao của ông, mời ông uống nước, rồi thong thả nói:
“Vậy là bác đã về hưu, và chỉ dạy thêm tiếng Anh ‘cho vui’ như bác nói?”
“Vâng, đúng thế”.
“Và đây là lớp dạy tư chứ không phải trung tâm ngoại ngữ hành nghề có giấy phép và đăng ký với nhà chức trách?”
“Vâng”.
Ông Chẩm trầm ngâm suy nghĩ một chốc rồi thở dài:
“Rất tiếc tạm thời chưa có luật nào qui định những người như bác phải nộp thuế thu nhập từ các nguồn tương tự”.
“Nghĩa là cả khi muốn, tôi cũng không được nộp?”
“Cái này để tôi hỏi ý kiến lãnh đạo. Xin bác cho địa chỉ, sẽ có người đến báo bác sau”.
Khi khách ra khỏi phòng, ông Chẩm thấy như hẫng hụt điều gì, thậm chí có cảm giác bị xúc phạm. Xưa nay người ta chỉ đến gặp ông để kỳ kèo xin miễn giảm, hoặc tìm cách gian lận, thế mà bây giờ bỗng xuất hiện cái ông kỳ cục này.
“Theo tớ đây là trường hợp đáng ngờ,” ông quay sang bảo anh nhân viên nọ. “Nhất định phải có cái gì đấy mờ ám. Cậu nghĩ thế nào?”
“Em cũng nghĩ đúng như thủ trưởng ạ.” Anh kia hồ hởi đáp. “Có thể ông ta muốn tỏ ra mình lương thiện ở một việc nhỏ để che dấu một hành vi bất chính khác lớn hơn, như kiểu bọn tội phạm tự nguyện đầu thú tội ăn cắp vặt để trốn tội giết người ấy mà”.
“Vậy thì giao cho cậu điều tra vụ này. Phải làm thật khéo và thật kỹ. Đừng quên tìm hiểu cả bệnh án của ông ta. Biết đâu lại chẳng một lão già tâm thần làm mất thời gian cơ quan nhà nước.”
Một tuần sau ông Đoàn gọi điện thoại đến phòng thuế. Đích thân ông Chẩm trưởng phòng nhấc máy.
“Thú thật với bác là chúng tôi vẫn chưa tìm được mục nào trong các luật thuế hiện hành để có thể áp dụng cho bác nộp thuế”, ông nói, thân mật hơn một chút so với giọng điệu vẫn dùng hàng ngày. “Cái khó của trường hợp bác là ở chỗ bác đã nghỉ hưu, chỉ dạy tư tiếng Anh, thứ ngôn ngữ đang được khuyến khích, lại chỉ một lớp và chẳng thuê mướn ai. Nếu bác là một trung tâm đăng ký hẳn hoi thì lại là chuyện khác. Ừ mà sao bác không thành lập một trung tâm như thế để hợp pháp hóa việc nộp thuế nhỉ?.. Vâng... vâng... Bác nói đúng. Tôi biết bác chỉ dạy cho vui chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Thế mới khó cho chúng tôi. Dẫu sao thì người tự giác như bác hiện giờ có thể nói không nhiều. Vâng... Nhất định thế nào chúng tôi cũng tìm được cách giúp bác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình. Xin bác yên tâm chờ thêm một thời gian nữa. Không lâu đâu. Chào bác”.
“Không lâu đâu” là ý ông Chẩm muốn nói tới kết quả điều tra của anh nhân viên trẻ. Suốt cả tuần vừa rồi ông chẳng hề “báo cáo lãnh đạo”, cũng chẳng xem lại luật thuế như ông nói. Cú điện thoại vừa rồi càng khẳng định thêm ý kiến của ông, rằng người này nhất định phải có vấn đề. Nếu không đã chẳng hăng hái xin đóng thuế như vậy. Gần trọn đời trong nghề, ông tin chắc điều ấy. Nhưng vấn đề gì? Cậu nhân viên vẫn chưa tìm ra. Có lẽ phải nhờ đến công an. Ừ, phải báo công an biết và yêu cầu họ điều tra giúp. Ông Chẩm nghĩ, thầm hài lòng với chính mình.
Trong khi đó, ông Đoàn, với bản tính hồn nhiên trong sáng và lạc quan vốn có, vẫn tiếp tục cách sống ông yêu thích - sáng ten-nit, chiều uống bia, tối đi dạy rồi về đọc sách báo, thỉnh thoảng làm thơ. Thực ra ông chẳng cay cú lắm với cái việc tự nguyện làm giảm tiền của mình mà không thành. Đơn giản ông thấy “dạy chơi” mà được chừng ấy là quá nhiều, nên đề nghị hạ học phí hoặc xin đóng thuế. Dẫu vậy ông cũng chút ít ngạc nhiên khi người ta không cho ông làm cái việc tốt đẹp đó.
Tháng sau, vẫn không thấy động tĩnh gì, một hôm sau buổi học, ông tuyên bố trước cả lớp từ nay sẽ giảm một nửa học phí. Cho tất cả mọi người. Rồi ông thong thả xách cặp bước ra khỏi phòng, để cô Mai ở lại một mình giải thích thêm với đám học viên đang ngạc nhiên bàn tán.
Mấy ngày tiếp theo mọi người nhìn ông với con mắt tò mò, nghi kỵ, nhưng biết tính thầy nghiêm, không thích nói chuyện lạc đề nên không ai dám hỏi. Còn cô Mai thì vốn rụt rè ít nói, bây giờ hầu như chẳng bao giờ mở miệng. Không chủ ý, ông Đoàn vẫn nghe lõm bõm nhiều câu bình luận sau lưng. Rồi ông nhận được mấy lá thư nặc danh với những lời lẽ khiếm nhã đầy bóng gió. Kệ. Ông không quan tâm. Ông vẫn sống theo cách xưa nay từng sống. Ông hài lòng với ý nghĩ đã phần nào giúp được ai đó vấn đề tài chính mà ông chắc họ đang gặp khó khăn. Thậm chí ông ăn thấy ngon miệng hơn.

                                                                   *
Mấy lời nói thêm.
Tháng tiếp theo số người học không tăng như ông Đoàn tưởng mà còn giảm. Giảm rõ rệt. Cô Mai khốn khổ thực sự vì bị mấy ông phòng thuế và công an căn vặn về ông thầy “lập dị”. Người học cũng chất vấn cô không ít, đến mức cuối cùng cô xin thôi lớp ông, sang làm giáo vụ cho một trung tâm ngoại ngữ ở trường bên, dù lương ít hơn.
Thất vọng vì không phát hiện thấy điều gì mờ ám liên quan đến nhân thân ông Đoàn, cuối cùng nhà chức trách đi đến kết luận rằng việc mở lớp dạy tư thuê phòng của trường là vi phạm qui định quản lý giáo dục và đào tạo, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của khu vực. Vậy là lớp dịch tiếng Anh của thầy Đoàn bị đóng cửa. Cùng vạ lây theo nó là ba lớp tiếng Anh thực hành và mười lớp luyện thi đại học. Tất nhiên không ai trong số các nạn nhân cảm ơn ông điều này.
Còn ông thì sao? Ông vẫn thế, như xưa. Vẫn hàng ngày làm những việc ông ưa thích - thể thao, bia, sách báo và làm thơ. Bây giờ ông có thời gian nên làm nhiều hơn. Tuy nhiên, công bằng mà nói, sự trong sáng của ông dường như cũng bị gợn đục chút ít. Bằng chứng là một lần uống bia với nhau, giữa chừng ông trầm ngâm bảo tôi, cũng một người về hưu kiếm thêm bằng nghề dạy học, rằng nếu không có lý do thúc bách thì dẫu sao cũng không nên giảm tiền học phí hoặc tự nguyện xin nộp thuế. Tiếc là tâm lý xã hội tạm thời chưa chấp nhận một điều xa xỉ như vậy.
Hà Nội, 7. 2. 2003
                                                 

CHỈ LÀ MỤ ĐÀN BÀ
                                                 
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là hoàn toàn có thật. Nó xẩy ra đã lâu, từ cái thời còn đánh nhau với Mỹ cách đây những mấy chục năm. Một câu chuyện buồn và chứa đựng nhiều bí ẩn. Cả thời ấy lẫn bây giờ không ai, trừ những người trực tiếp liên quan, biết được sự thật về nó. Còn việc vì sao tôi biết thì lại là chuyện khác, thiết tưởng chẳng cần nói ra.
                                                 
*
Không ai biết chính xác lão từ đâu tới và tên là gì, chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật cũng chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị lão, Mù hay Chột thì cũng vậy, không quan trọng.
Khác những người hát xẩm xưa nay ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước da lão đen trũi, có thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ “lão” ở đây rõ ràng không vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.
Công bằng mà nói, từ ngày đến đây lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này, tức là việc lão không chịu “lạy ông lạy bà cho con xin...” cũng làm không ít người ghét lão.
Lão Xẩm sống trong chiếc miếu hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó, một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là “nhà Lão Xẩm”.
Tối nay, như những buổi tối mùa hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì không cần, vì biết chẳng có ai nhìn. “Càng mát!” lão nghĩ,  nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.
Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính  nhờ những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.
Việc này xẩy ra hầu như vào tất cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm. “Bọn này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng!” Khi nghe các cô cười bảo nhau “Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ”, lão giận dữ cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm: “Đây không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác. Đứa nào giỏi, muốn thử cứ lên đây". Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Để mặc chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống, dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh ách dưới bụng.
Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai  nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình như tiếng bước chân đang tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.
Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu lên nhưng cũng liền lúc ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một rồi sau hai, tự do mân mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn nữa.
Như trong cơn mơ, lão ngây ngất mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này và đã làm điều ấy không gặp chút chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng nói gì vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.
Xong, người kia vội vùng dậy bỏ đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không mặc quần và còn ươn ướt...
Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp. Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng cho lão.
Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại vác nhị xuống chợ như mọi ngày.
Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của lão ve vuốt khắp người và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi sau đó người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.
Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ, nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi  biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.
Việc này lặp đi lặp lại trong bốn tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi, vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.
Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí còn hơn. Điều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy. Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa, nhưng lão hy vọng và vẫn chờ. Đêm nào lão cũng chờ...
Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Đoạn sông ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy “cái ấy” của mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác với mọi lần, lần này lão phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút bỏ. Đang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng kêu thất thanh:
- Đừng! Chị Tâm! Đừng, đừng nhảy xuống sông!
Đó là tiếng một cô gái, giọng còn trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.
- Sao chị làm thế? Em van chị. Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...
Có tiếng người khóc tấm tức. 
- Em nói em biết, biết hết mọi chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.
- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.
- Vì lão mù, không biết chị là ai.
- Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại có tiếng khóc. Lần này to và lâu hơn.
- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại chửa hoang? Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao? Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ, chẳng điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng lại được...
- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà. Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng xấu...
- Đúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con quỉ tội lỗi trong người chị...
- Không. Không bao giờ! Chị phải về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà với em. Không lôi thôi gì nữa!
Im lặng một chốc, rồi có tiếng dằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi. Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai ngày sau, khi đang hát ngoài chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên, cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa. 

Lời nói thêm của người viết:
Anh Thoan, chồng chị Tâm  hy sinh trong đợt tổng tiến công Tết Mậu Thân 68 (một năm trước khi chị Tâm chết), nhưng mãi đến cuối năm 70 gia đình mới nhận được giấy báo tử. Bà cụ mẹ anh chết hai năm sau đó. Còn cô Vinh, em gái anh Thoan, hiện là một chuyên viên kinh tế giỏi làm việc tại một bộ quan trọng ở Hà Nội. Vì là người cùng làng, chúng tôi thường gặp nhau. Tuy không ngăn được chị dâu tự tử, nhưng cô đã giữ đúng lời hứa năm nào. Cô vẫn khăng khăng bảo tôi chị Tâm chết đuối, đúng như trong truyện tôi viết. Tôi cũng vờ tin như thế. Lần nào có dịp cùng về quê, tôi và Vinh cũng ra viếng mộ anh Thoa, chị Tâm. Có lần chúng tôi còn vào phòng truyền thống xã, nơi vẫn treo tấm bằng khen trung hậu đảm đang Hội phụ nữ huyện Diễn Châu tặng chị, đề ngày 30 tháng Năm năm 1967. Dù biết hết sự thật, tôi vẫn luôn nghĩ chị xứng đáng với danh hiệu cao quí đó. Còn về lão Xẩm thì tôi không biết thêm một tí gì. Vả lại, cũng chẳng quan tâm mấy đến lão. Không phải vì ghét, đơn giản vì tôi còn nhiều việc quan trọng hơn cần làm.        
Hà Nội, 2000       
                                                 

QUÀ TÌNH NGHĨA

Không đau gì cụ thể mà bà cụ Thu cảm thấy mình đang ốm. Ốm thực sự. Toàn thân rời ra từng mảnh. Chân tay nặng như chì, cứ như có ai cố tình kéo bà quị xuống đất. Hay mình bị cảm? - bà tự hỏi rồi đưa tay sờ trán. Không nóng lắm. Chỉ thấy khó thở hơn ngày thường chút ít. Vốn xưa nay khỏe mạnh, bà lấy làm lạ rồi lên giường nằm, hy vọng sáng mai ngủ dậy sẽ khỏi. Bữa cơm tối vất vả lắm mới chuẩn bị xong vẫn để nguyên trên bàn.
Nhưng bà nằm mãi không sao ngủ được, đến quá nửa đêm thì thôi không cố ngủ nữa. Bà cảm thấy yếu và mệt mỏi hơn, sức lực mất dần một cách nhanh chóng. "Thế là đến lượt mình, bà thầm nghĩ, bình thản và không chút lo sợ. Gần tám mươi rồi, còn gì... Ai chả đến lúc phải nhắm mắt xuôi tay?" Sau đó, như làm theo cái ý vừa nghĩ, bà duỗi thẳng hai tay dọc theo người và từ từ nhắm mắt, đợi cái chết mà bà tin chắc đang rình rập đâu đó rất gần...
Như từ đám sương mù dày đặc, những mảnh vỡ cuộc đời dài đầy đau buồn của bà hiện dần lên một cách chậm chạp. Toàn những mảng nhòe màu xám lộn xộn, cái nọ dính cái kia. Xung quanh yên tĩnh lạ lùng. Bà nghe rõ tiếng đập yếu ớt của trái tim và hơi thở khó khăn của mình, nhưng tiếng chân thần chết thì cố nghe mà mãi vẫn không thấy.
Bà cụ Thu là người nổi tiếng ở huyện trung du rộng lớn này, có thể  toàn tỉnh. Đơn giản vì bà là Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng có năm người thân là liệt sĩ: Ông Thu, chồng bà, cộng với bốn con trai. Xưa nay bà luôn sống một mình, không con cháu, cũng chẳng còn ai thân thích, trừ một người bà con xa đằng chồng gọi bà là cô, hiện làm chủ tịch xã nơi bà đang sống. Có thể một phần vì thế mà bà được chính quyền địa phương chăm sóc chu đáo. Thậm chí chu đáo hơn mức cần thiết. Tiền trợ cấp chế độ hàng tháng quá thừa cho nhu cầu sinh hoạt giản dị của bà. Đều đặn mỗi tuần một lần có người của xã ghé qua thăm hỏi đôi ba câu, đôi khi mang theo chút quà. Đó là chỉ thị của đích thân ông chủ tịch huyện. Dẫu sao toàn tỉnh chỉ mình bà là Mẹ anh hùng của năm liệt sĩ.
Huyện ông hàng chục năm nay luôn dẫn đầu phong trào "đền ơn đáp nghĩa", và ông nhất quyết không chịu để danh hiệu cao quí này rơi vào tay  huyện khác. Cũng theo chỉ thị của huyện, ngôi nhà xưa đằng chồng để lại, còn tốt, gỗ lim, mái ngói cong hẳn hoi, đã bị dỡ bỏ để xây thành mái bằng, y hệt các nhà tình nghĩa khác trong huyện. Bà Thu nài nỉ xin đừng nhưng người ta nhất định không chịu. Để một người như bà không có nhà tình nghĩa thì chẳng khác gì làm nhục cả huyện! Lễ gắn biển cho ngôi nhà bất đắc dĩ ấy được tổ chức to lắm, đủ mặt quan khách, có cả mấy phóng viên truyền hình tỉnh về quay phim, viết bài. Tất nhiên nổi bật nhất là cảnh bà Thu tay cầm chìa khóa nói lời cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương. Họ bày cho bà cách tra khóa vào ổ, nói gì, đi đứng thế nào và nếu được thì cố khóc một tí.
Là đơn vị điển hình, hàng năm, ít ra đã mười năm nay, cứ đúng ngày thương binh liệt sĩ, huyện lại cho ô tô về tận làng đón bà ra thị trấn tham dự buổi lễ long trọng và nhận quà.
Cùng một Mẹ anh hùng khác, bà luôn được mời ngồi ở hàng ghế đầu, bên cạnh ông chủ tịch huyện, cao hơn và đối diện với cả hội trường. Bà nghe mà chẳng chú ý hoặc chẳng hiểu gì mấy những gì người ta đang nói. Chỉ thấy chốc chốc mọi con mắt lại hướng về bà, làm bà vừa ngượng vừa chẳng biết nên xử sự thế nào. Rồi nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy, bà cũng quen, cuối cùng thì chẳng có cảm giác gì khác ngoài việc coi đó là một nghi lễ bắt buộc.
Bà chỉ thực sự lúng túng khi đến phần tặng quà. Nhiều người được nhận quà - chiếc phong bì đựng ít tiền mặt, bộ quần áo hay một vật dụng nào đó, tùy ngân sách huyện năm ấy. Bao giờ cũng đích thân ông chủ tịch huyện trao quà cho bà và bà Mẹ anh hùng kia. Phần quà của họ cũng đặc biệt, luôn được đựng trong những chiếc hộp bìa cứng bọc giấy đỏ, buộc dây vàng. Bà được năm hộp, bà kia ba, tương ứng với số người thân đã chết. Tất nhiên người ta có thể cho vào một túi chứ không tách riêng cầu kỳ như vậy, nhưng ban tổ chức nghĩ ra cách này để nhấn mạnh sự hy sinh, tức là sự đóng góp của từng người cho cách mạng.
Bà còn nhớ hôm lần đầu nhận quà kiểu này. Bà được mời lên trước, hẳn vậy. Khi ông chủ tịch trịnh trọng lần lượt đặt từng chiếc hộp màu đỏ lên đôi tay đang chìa sẵn của bà, mọi con mắt đều hướng nhìn lên chăm chú. Có người còn lộ vẻ ghen tị. Ông chủ tịch huyện nói câu gì đó khá hùng hồn, rồi cả hội trường vang dậy tiếng vỗ tay hồi lâu. Bà chẳng hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Bà lúng túng đứng yên. Bỗng một ý nghĩ sắc nhói như mũi dao chạy xuyên qua tim: Bà đang nâng trên tay không phải năm hộp quà mà là năm chiếc quan tài màu đỏ đựng xác chồng và bốn người con thân yêu của mình. Ý nghĩ ấy làm bà suýt ngã khuỵu. Mắt bà rưng rưng. Bà những muốn khóc, thậm chí khóc thật to. Đôi tay trở nên thật nặng, phải cố lắm bà mới không để rơi những hộp quà. Không đợi mời, bà vội vã quay lại chỗ ngồi, nóng lòng chờ buổi lễ kết thúc.  
Ngay chiều hôm ấy bà cho gọi anh cháu chủ tịch xã tới.
- Anh có thể bảo họ thôi cái trò ấy được không?
- Trò gì cơ ạ, cháu không hiểu, - anh kia ngơ ngác hỏi lại. - Và họ là ai ạ?
- Họ là mấy ông dưới huyện ấy. Còn cái trò là kiểu tặng tôi năm hộp quà như...như...- bà cụ chần chừ một chốc: - như năm chiếc quan tài! Giờ thì anh hiểu rồi chứ?
Anh chủ tịch hiểu. Anh đưa tay gãi gãi đầu, cố lựa lời:
- Cháu thấy chuyện ấy chẳng có gì không ổn. Chỉ tại cô nghĩ này nọ thêm rắc rối. Họ không gói thành một mà chia làm năm hộp như vậy là có ý đề cao thành tích... tức là gương hy sinh của cô. Để làm nổi bật cô với người khác...
- Tôi không thích kiểu đề cao như thế. - Bà cô khó chịu ngắt lời. - Tôi hỏi anh lần nữa: Anh có thể bảo họ thôi được không?
- Cháu sợ không. Cháu chỉ là cán bộ cấp xã. Vả lại, đó là nghi lễ, là chủ trương của trên. Đâu người ta cũng làm vậy.
 - Thôi được. Tôi nhờ anh việc khác vậy. Anh nói hộ với họ khi cho tôi quà, bảo người ta đừng vỗ tay hoan hô ầm lên thế. Hoan hô cái nhẽ gì cơ chứ? Vì tôi có chồng và bốn con trai đã chết? Cứ như tôi vinh dự lắm không bằng. Thế nào, anh giúp tôi điều này, hay cũng không nốt ?
Anh cháu bối rối, gãi tai còn lâu hơn.
- Cháu nghĩ không thể được, cô ạ. Người ta vỗ tay là để ca ngợi cô, một bà mẹ anh hùng, để... - anh bỗng ngừng lời vì thấy bà cô đang rưng rưng nước mắt.
- Anh thừa biết tôi anh hùng nỗi nào, - bà hạ giọng nói. - Anh có thấy xưa nay ai khổ như tôi chưa? Thời gian tôi được ở cạnh ông Thu nhà anh tổng cộng có lẽ chưa đầy vài tháng. Từ ngày lấy nhau năm 46 đến lúc mất năm 54, ông ấy chỉ về thăm tôi bốn lần, để lại bốn người con trai một mình tôi nuôi. Rồi cả bốn đứa con ấy cũng lần lượt bỏ tôi mà đi. Tôi khổ thế sao người ta còn vỗ tay? Anh nói tôi nghe xem nào. Mà thôi, anh không giúp được thì tôi chẳng nhờ nữa. Anh về đi.
Buổi tối, bà dọn lại bàn thờ, đặt lên đó năm hộp quà thành một hàng thẳng. Chiếc ở giữa bà thắp ba nén hương, còn lại mỗi chiếc một nén. Các năm tiếp theo, cứ vào ngày 27 tháng Bảy, bàn thờ nhà bà lại có thêm năm hộp quà mới. Kích thước và trọng lượng có thể khác nhau, nhưng luôn được gói bằng giấy đỏ buộc dây vàng y như lần đầu. Và lần nào cũng vậy, đêm ấy bà không sao ngủ được, vì hễ nhắm mắt là hình ảnh năm hộp quà tình nghĩa như năm chiếc quan tài màu đỏ ấy lại hiện lên, đè nặng lên đôi tay và bộ ngực lép kẹp của bà, đến mức bà thấy nghẹt không thở được.
Bà lặng lẽ khóc cho cuộc đời đau khổ và trớ trêu của mình. Bà khóc cho chồng và bốn người con trai, cho cả ngôi nhà tổ tiên bị thẳng tay đạp phá. Bà oán giận các ông dưới huyện vì cái thói khoa trương thành tích của họ. Bà chẳng cần quà và sự chăm sóc của họ. Chẳng cần gì ngoài được sống cuộc đời một mụ đàn bà nông thôn bình thường, nghèo khổ và chẳng được ai chú ý, chẳng cần ai phong làm anh hùng. Một mụ đàn bà có chồng ở nhà cùng mụ cày cấy ngoài đồng, có uống rượu, có đánh đập mình cũng được, miễn đừng đi biền biệt như thế rồi chết, rồi để lại chừng ấy thằng con trai mà chẳng có đứa cháu nào. Thà như mụ Hựu hàng xóm còn sướng hơn - một đống con cháu, đứa nào cũng nheo nhóc, không nuôi nổi mụ lại thỉnh thoảng còn mò đến ăn bám. Nào mụ có gì đâu mà bám với víu. Tám mươi tuổi vẫn phải hàng ngày ra đồng Chùa mò cua bắt ốc lấy tiền đong gạo. Nghe nói nhiều khi quẫn quá, bà lão tội nghiệp ấy còn bắt trộm gà người ta làm thịt, hoặc làm những việc xấu xa tương tự. Mụ cứ than vãn mãi với mọi ngưòi rằng có độc đứa con trai đi bộ đội thì lại chết bệnh nên không được hưởng chế độ liệt sĩ.
- Bà sướng thật đấy, những năm liệt sĩ! – Có lần mụ bảo bà cụ Thu, vẻ thèm thuồng không dấu diếm.
Thực ra, lúc đầu bà cụ Thu chỉ được công nhận có bốn thân nhân liệt sĩ. Số là thằng út nhà bà, vốn không thuộc diện nhập ngũ, lại chưa đủ tuổi, vẫn cứ theo bạn nằng nặc đòi đi bộ đội, bà cố giữ không được. Thế mà chưa đầy ba tháng sau đang đêm nó lén lút trốn về nhà. Nó bảo trận địa pháo của nó bị máy bay ném bom chết nhiều quá, nó sợ nên bỏ trốn. Lúc ấy nó còn kém một tháng mới đầy mười bảy tuổi, vẫn là đứa con nít, tối hôm ấy vẫn chui vào nách mẹ ngủ như trước ngày lên đường. Nó xin bà đừng báo công an, để chờ ít hôm đỡ sợ, tự nó sẽ quay lại đơn vị. Bà ôm nó khóc, chẳng trách mắng, cũng chẳng báo ai đến bắt. Được hai hôm, đang đêm có người từ  huyện về giải nó đi, lần này thì nó bị đưa tít vào tận Tây Nguyên và từ đó mất tăm luôn. Một năm sau bà nhận được giấy báo tử của nó. Giấy báo tử thứ ba, không kể của ông Thu từ thời chống Pháp. Còn giấy thứ tư, của người con cả, thì mãi sau hòa bình mới nhận được. Có người nói với bà chính mụ Hựu báo công an bắt thằng út. Bà chẳng giận mụ chuyện ấy, chỉ buồn vì sau đó người ta đã làm khổ bà khá lâu vì tội dung túng người con đào ngũ. 
Thời đó hai tiếng này đáng sợ lắm. Thường thì sau chuyện ấy chẳng ai dám vác mặt đi đâu, nhưng bà cứ thản nhiên như không, càng khiến người ta nghĩ bà cố ý thách thức chính quyền. Thực ra bà không có ý ấy. Bà nghĩ suy cho cùng, con bà chẳng làm gì nên tội. Nó còn con nít, sợ quá thì bỏ trốn về nhà với mẹ ít ngày rồi quay lại. Nó chẳng nói thế đó sao? Cùng lắm mắng một trận chứ đừng qui cho nó, và cả cho bà nữa, những tội tầy đình như vậy. Tuy nhiên, bà chẳng nói gì. Chẳng thanh minh, cũng chẳng oán trách. Sau những mất mát phải chịu, với bà dường như không còn gì quan trọng. Sau này, lúc đầu bà còn không được đề nghị phong tặng danh hiệu Bà mẹ anh hùng. Người ta lập luận rằng với bốn người thân liệt sĩ và một kẻ đào ngũ, bà chỉ đáng gọi là mẹ liệt sĩ. Thậm chí người ta còn định không cho bà hưởng bất kỳ một chế độ nào.
Bà vẫn thản nhiên im lặng. Nhưng anh cháu thì không. Anh ta lẳng lặng kêu kiện khắp nơi. Rồi một hôm người ta mời bà xuống huyện dự lễ phong tặng anh hùng, với tờ giấy ghi rõ có chồng và ba con trai liệt sĩ. Một thời gian sau, đích thân ông chủ tịch huyện đem đến tận nhà một tờ giấy khác, bổ sung thêm một liệt sĩ nữa.
Lần này thì chính Huyện đứng ra lo liệu để thằng út con bà thành liệt sĩ. Trong hồ sơ quân nhân của nó, chữ đào ngũ được chữa thành “tự ý bỏ về thăm nhà không xin phép”. Bản thân cán bộ huyện rất cần con số năm hiếm hoi kia, và họ đã toại nguyện.
Cái nghi lễ tặng quà bất di bất dịch kia cũng được bắt đầu từ đó. Mỗi năm một lần lên huyện, người ta tặng, bà nhận. Năm hộp quà bọc giấy đỏ buộc dây vàng. Năm chiếc quan tài xinh xắn. Bà lặng lẽ ôm trên tay. Lặng lẽ chất cao lên bàn thờ. Rồi đêm đến lặng lẽ khóc. Phải mất mấy ngày sau bà mới bình thường trở lại, thấp thỏm lo sợ ngày tặng quà năm tới. Vâng, năm nào cũng vậy, trừ một lần.
Chuyện đó xẩy ra cách đây ba năm. Lúc bà vừa ngồi vào ghế danh dự, anh chủ tịch xã cháu bà (người luôn đi theo trong những dịp long trọng) ghé tai cho bà biết buổi lễ năm nay rất đặc biệt vì có khách nước ngoài, và bà nhất thiết phải phát biểu, phải cảm ơn...
- Cảm ơn vì chồng con tôi chết ?
- Ấy, cô lại thế rồi. Cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và xã hội, tất nhiên. - Anh cháu chán nản đáp.
- Anh vừa nói khách nước ngoài là khách nào vậy?
- Mấy ông Mỹ cựu chiến binh. Trước đây họ đánh nhau với ta, bây giờ họ hối hận, sang giúp huyện ta xây lại cái công viên văn hóa. Cô hiểu chứ? - Thấy bà cô không nói gì, anh cháu yên tâm xuống chỗ ngồi của mình.
Đúng lúc long trọng nhất, khi ông chủ tịch huyện vừa nói xong một thôi về hòa hợp, hữu nghị gì đó và cả hội trường cùng mấy ông tây đang vỗ tay hoan hô thì bà cụ Thu nhỏm dậy. Ông phó chủ tịch ngồi cạnh hỏi:
- Dạ, cụ định đi đâu ạ?
- Tôi ra ngoài một tý.
- Nhưng bây giờ thì không được, thưa cụ. Cụ thấy đấy, đang có khách...      
Bà vẫn một mực đứng dậy. Ông phó chủ tịch cố giữ. Bà phát cáu, nói to:
- Ô hay cái anh này. Tôi đi ỉa cũng không được sao? Hay anh muốn tôi tương ra ngay chỗ này ?
Duy nhất lần ấy bà ra về tay không, không bằng ô tô của huyện, mà bằng xe ngựa của thằng Nhơn xóm trên. Thằng này ngày nào cũng đánh xe chở rau quả ra thị trấn, buổi chiều đánh xe không về.
Tối đến, anh cháu mang năm hộp quà đến cho bà, nét mặt có vẻ khó chịu nhưng biết tính cô nên đành im. Bà cũng lờ như không có gì xẩy ra. Khi anh cháu về, bà vứt cả năm chiếc hộp ra vườn. Mụ Hựu nhanh tay nhặt chúng đưa vào nhà mình. Nghe đồn lần ấy quà giá trị lắm, nhờ tiền huyện bớt từ dự án xây công viên của cựu chiến binh Mỹ. Có thể thế thật, vì mụ Hựu tỏ ra rất hỉ hả, còn mua được cả áo mới. Mấy ngày liền mụ cố tình tránh gặp bà.

                                                  *
Đêm yên tĩnh. Hình như trời sắp sáng, cũng có thể còn lâu. Chưa thấy con gà trống nhà bên gáy như thường lệ. Cũng có thể nó đã gáy mà bà không nghe. Bà không còn cảm biết điều gì, trừ một điều duy nhất là bà sắp chết, sắp được gặp chồng và bốn người con trai thân yêu của mình. Bà vẫn nằm yên bất động như khi mới lên giường để "nhắm mắt xuôi tay" như bà nghĩ. Đôi tay khẳng khiu vẫn xuôi theo người, nhưng mắt bà luôn mở, trân trân nhìn lên trần nhà tối om.
Lúc này, hình như chút sức lực cuối cùng giúp bà không nhắm mắt cũng đang chầm chậm rời bỏ bà. Cuối cùng, đôi mi từ từ khép lại. Thay cho màu đen bóng tối, bà thấy khắp nơi đều một màu đỏ rực. Màu đỏ của những hộp quà, những chiếc quan tài giấy đỏ buộc dây vàng...

                                                  *                                                         
Mãi chập tối hôm sau người ta mới biết bà chết. Chính mụ Hựu thấy có điều khác thường, đến báo với anh chủ tịch xã cháu bà.
Khi thắp hương tiễn bà cô về thế giới bên kia, anh này ngạc nhiên thấy trên bàn thờ có rất nhiều những chiếc hộp màu đỏ bằng giấy hình chữ nhật. Những hộp quà tình nghĩa, anh biết. Anh chỉ ngón tay vào từng chiếc và nhẩm đếm. Tổng cộng 54 hộp. Tất cả đều còn nguyên dây cột và hồ dán. Do dự một lát, anh thận trọng mở chúng ra xem.
Phần lớn đó là những hộp bánh kẹo bây giờ đã hỏng. Không ít những tấm vải, có tấm còn mới nguyên, cũng có tấm đã phai màu hoặc bị mối xông. Một it hộp có cả tiền. Những tờ giấy bạc mới, phẳng phiu mà một thời rất có giá trị nhưng bây giờ chỉ đủ mua chưa đầy cân gạo, hay thậm chí chén nước trà... "Từ lúc được phong anh hùng và nhận quà của huyện đến nay đã mười hai năm", anh chủ tịch xã thầm nghĩ. "Vậy tổng cộng phải có 60 hộp, sao chỉ 54?" Rồi anh chợt nhớ chuyện xẩy ra với năm hộp quà lần có đoàn Mỹ đến thăm. "Vậy còn một hộp nữa đâu?" Anh cúi nhìn xuống chân bàn thờ nhưng không thấy. "Có thể bà cụ lẩn thẩn để rơi đâu đó. Cũng có thể chuột đánh mùi thấy thức ăn tha đi mất".
Những chiếc hộp giấy được dọn khỏi bàn thờ. Trên đó, như trên những bàn thờ bình thường khác, hương đang thong thả cháy, tỏa khói xanh và mùi thơm dìu dịu. Bà cụ Thu nằm bên cạnh, khuôn mặt bất động như được làm bằng sáp.
Hà Nội, 10. 2. 2000

         
CÁI GIÁ CỦA TÌNH YÊU

Biết đêm nay khó lòng ngủ được, ông nhẹ nhàng bước xuống khỏi giường, cố không làm vợ thức giấc. Có thể vợ ông đã ngủ, cũng có thể còn thức nhưng giả vờ ngủ như mọi lần. "Kệ", ông thầm chậc lưỡi rồi lặng lẽ ra đứng ngoài ban-công.
Chắc đã khuya. Ông cố tình không xem đồng hồ để đỡ sốt ruột. Cả thành phố đang phập phồng trong giấc ngủ chập chờn. Từ trên cao nhìn xuống, thành phố như con quái vật khổng lồ sau một ngày săn đuổi và vật lộn với con mồi, bây giờ nó kiệt sức nằm bẹp xuống đất, duỗi trăm nghìn chiếc chân kỳ dị, phì phò thở một cách nặng nhọc. Thỉnh thoảng nó lại kêu lên thảm thiết bằng tiếng còi tàu rền rĩ kéo dài từ phía ga Hàng Cỏ.
Trời hơi lạnh. Ông tiếc đã không khoác thêm chiếc áo ngoài, bây giờ quay vào lấy thì lại ngại. Ông đang buồn, cái buồn nhàm chán vì nó xẩy ra quá thường xuyên. Thường xuyên đến mức gần như trở thành tâm trạng bình thường, khiến ông đôi khi cũng chẳng biết có thật ông buồn hay không.
Ông bật lửa hút thuốc, lơ đãng nhìn con quái vật nằm bất động phía dưới, và nghĩ:
                              Một chàng trai đem lòng yêu cô gái,
                              Nhưng cô kia yêu người khác, và rồi
                              Người khác ấy lại yêu cô gái khác,
                              Để nàng buồn và thất vọng khôn nguôi.

                              Còn sau đó, vì thất tình, cô gái
                              Không mảy may kén chọn, đã lấy chồng
                              Thành bất hạnh. Cả chàng trai cũng vậy,
                              Phải suốt đời đau khổ, phải chờ mong...

                              Câu chuyện trên không có gì mới lạ.
                              Bao đời nay thường vẫn thế... Có điều
                              Nếu xẩy ra với chính ta, ta sẽ
                              Hiểu thế nào là cái giá tình yêu.

Đúng, với người ngoài cuộc thì mọi việc có vẻ đơn giản, thậm chí nghe nhàm chán. Nhưng nếu cái điều ấy "xẩy ra với chính ta", như ông đây chẳng hạn, thì... Chà, cái ông nhà thơ Hainơ (1) người Đức ấy chỉ bằng mấy dòng đơn giản mà nói hết, nói đúng toàn bộ câu chuyện và nỗi buồn của ông. Mà ông ta sống cách đây những hai trăm năm, lại ở tít châu Âu. Hóa ra câu "trong tình yêu không ai đau khổ giống ai" người ta vẫn nói không hẳn hoàn toàn đúng. Ông nghĩ trường hợp của ông xưa nay chắc không hiếm, ta hay tây cũng vậy. Nó xẩy ra đúng như Hainơ đã viết.
Ông từng yêu một cô gái và lúc đầu cũng được cô yêu lại. Sau vì một chuyện hiểu nhầm vớ vẩn, rất vớ vẩn, cô tự ái và tuyên bố cắt đứt ông để yêu một người khác "cho ông biết tay". Nhưng cái anh "người khác" ấy lại không yêu cô, hay chính xác hơn, yêu với những suy tính nhỏ nhen. Thế là thất vọng, và cũng vì tự ái, loại tự ái kiểu trẻ con, đáng lẽ quay lại với ông, người vẫn yêu cô tha thiết và chắc còn được cô yêu, cô "không mảy may kén chọn, đã lấy chồng". Lấy chồng chỉ để lấy chồng. Thế thôi. Không tình yêu, không đắn đo để ông và anh chàng nhỏ nhen kia biết cô không sợ ế. Lại suy nghĩ kiểu trẻ con, và cô đã phải trả giá đắt cho hành động trẻ con ấy của mình.
Còn ông, ông không đến nỗi bồng bột, thiếu suy nghĩ như cô vì nhiều tuổi hơn và nói chung chín chắn hơn. Ông tìm mọi cách cứu vãn tình yêu nhưng vô ích. Cô gái ông yêu và yêu ông ấy đã không đủ sự tỉnh táo và dũng cảm cần thiết để vượt qua lòng tự ái bị phóng đại thái quá. Cuối cùng ông lấy vợ, một người tế nhị, có trình độ, lại xinh đẹp, xinh hơn cả cô người yêu cũ. Một người tốt mọi phương diện. Thế mà không có hạnh phúc. Không phải ông không yêu vợ. Ông có yêu, nhưng đó không còn là cái tình yêu ông từng trải qua với "người kia". Vì sao thì chính ông cũng không lý giải nổi. Tình yêu là thế, và có thế nó mới bí ẩn, kỳ diệu và làm người ta mê say. Ông buồn, một cách lặng lẽ và mơ hồ. Là người đứng đắn lại hay mặc cảm, ông thấy như thể mình phản bội vợ, vì dù không muốn, ông vẫn thường nghĩ tới "người kia", đặc biệt ngày lần đầu họ gặp nhau và yêu nhau "ngay từ cái nhìn đầu tiên". Vì sao? Cả hai đều không biết. Có lẽ đó cũng là một bí ẩn nữa của tình yêu.
Cái ngày ấy, thực ra nói đêm thì đúng hơn vì lúc đó là ban đêm, hai người ngẫu nhiên ngồi cùng ghế, cùng xe từ Sầm Sơn về Hà Nội sau đợt nghỉ mát một tuần. Trong một tuần ấy họ gặp nhau hàng ngày, ăn cùng nhà, tắm cùng bãi nhưng chưa nói chuyện lần nào. Cả hai để ý đến nhau, muốn làm quen nhưng lúng túng không biết cách nào. Thế mà giờ họ được ngồi cạnh nhau suốt cả chặng đường hàng trăm kilômét, lại vào một đêm đẹp trời, chẳng bị ai chú ý. Họ nói chuyện thú vị lắm, hợp nhau lắm, và khi gần đến Hà Nội, họ đã bắt đầu cầm tay nhau. Thế là yêu, hay ít ra cảm giác yêu yêu. Thật nhanh và cũng thật tự nhiên, cứ như họ được sinh ra để yêu nhau vậy.
Mười một giờ đêm hôm ấy, sau khi chia tay cô gái, ông thong thả đi bộ về nhà để tận hưởng những giây phút kỳ diệu vừa qua. Ông sung sướng đọc thành lời một bài thơ khác của nhà thơ Hainơ mà ông yêu thích:

                                        Anh và em không hẹn
                                        Cùng đi chuyến xe đêm.
                                        Hai đứa cùng vui vẻ -
                                        Chỉ mình anh với em.

                                        Sáng ra, ta kinh ngạc
                                        Thấy người khách thứ ba
                                        Là Tình Yêu lậu vé
                                        Lén vào ngồi bên ta.

          Lúc ấy, tức là cách đây hai mươi lăm năm, ông là một cán bộ trẻ của Viện nghiên cứu hạt nhân, còn cô đang học năm cuối khoa văn đại học tổng hợp, chênh nhau năm tuổi, độ chênh lý tưởng cho một tình yêu nghiêm túc. Chiều chiều ông đạp xe đến trường đón cô. Hai người hai xe. Những ngày thật đẹp và hạnh phúc. Dẫu làm khoa học, tâm hồn ông rất lãng mạn. Thậm chí ông còn làm thơ tặng cô. Tiếc rằng trong lĩnh vực này ông không thật giỏi nên cuối cùng, thay cho những bài thơ hì hục viết nhiều đêm liền, ông chép tặng cô một bài ông tưởng của Hainơ, nhưng mãi sau mới biết là của Vichto Huygô (2):

                                        Thơ anh rời trang giấy
                                        Bay đến đậu vườn em
                                        Nếu thơ anh có cánh,
                                        Đôi cánh của con chim.

                                        Thơ anh sẽ che chở
                                        Ngôi nhà em bình yên
                                        Nếu thơ anh có cánh,
                                        Đôi cánh của nàng tiên.

                                        Thơ anh sẽ chung thủy
                                        Bay theo em sớm chiều
                                        Nếu thơ anh có cánh,
                                        Đôi cánh của tình yêu.

Thời ấy ông nghèo nên chẳng có gì hơn để tặng ngoài thơ, mà lại thơ người khác. Cô cũng không mong đợi gì hơn ở ông. Một lần, khi đón cô ở cổng trường, ông tặng cô một bài thơ khác. Lần này thì đúng là thơ Hainơ, với hai khổ đầu và cuối như sau:

                                        Nhờ nàng thơ cất cánh,
                                        Em hãy đến cùng anh,
                                        Đến sông Hằng lấp lánh,
                                        Trời miền nam trong xanh.

                                        Ở đấy, nằm trên cỏ,
                                        Trong giấc mơ ban ngày
                                        Ta thả lòng theo gió
                                        Cùng tình yêu ngất ngây...

- Anh định đưa em đến sông Hằng Ấn Độ thật à? - cô cười hỏi khi ông đọc xong.
- Không, anh chỉ muốn mời em đi ăn kem ở nhà hàng Thủy Tạ. Và nếu em đồng ý, ngày mai ta đạp xe sang Cổ Loa chơi.
Họ ăn kem ở nhà hàng Thủy Tạ rồi hôm sau cùng đi Cổ Loa. Lần này hai người một xe. Chính trong cuộc dã ngoại đáng lẽ phải rất vui ấy, cái chuyện "vớ vẩn" kia đã xẩy ra. Hình như ông nói một câu ngu ngốc nào đó khiến cô tự ái. Chưa hết, nghĩ cô hiểu sai, ông cố cãi lại bằng những câu thậm chí còn ngu ngốc hơn, làm chuyện thêm nghiêm trọng. Thế là cái sự cố vớ vẫn ấy làm tình yêu của họ tan vỡ. Đơn giản thế thôi. Âu đó cũng là một điều ngớ ngẩn nữa của tình yêu.
Biết mình sai, ông tìm cách giảng hòa và xin lỗi, hy vọng mấy hôm sau đâu lại vào đấy. Nhưng ông nhầm. Cô gái vẫn cương quyết không chịu, là điều đến tận bây giờ ông không hiểu nổi. Hay ông đã vô tình chạm phải nỗi đau thầm kín nào của cô? Ông đã xúc phạm cô sâu sắc điều gì chăng? Cô không cho phép ông đưa đón hàng ngày như trước. Không gặp gỡ, không nói chuyện. Chấm hết. Cũng không một lời giải thích vì sao. Nhưng ông yêu cô và biết cô vẫn yêu ông. Thế thì tại sao lại như vậy?  "Chịu. Tình yêu là thế. Phụ nữ là thế!" ông buồn bã lắc đầu.
Suốt mấy tháng liền sau đó, thẫn thờ như người mất hồn, đêm nào ông cũng lang thang quanh nhà cô. Không dám vào mà cũng chẳng muốn vào. Có ngẫu nhiên thấy cô, ông cũng không tìm cách gặp. Ông đã bị từ chối, và ông là người tự trọng. Cái tự trọng cũng thuộc loại ngớ ngẩn mà ông không vượt qua được. Những hôm nhà cô có khách, từ dưới nhìn lên, ông lại nhớ đến Hainơ, và buồn rầu nghĩ:
                                        Nhà em có vũ hội,
                                        Thắp đèn xanh, đèn vàng.
                                        Anh nhìn lên cửa sổ
                                        Thấy bóng em đi ngang.

                                        Em không nhìn, không biết
                                        Anh đang đứng trong đêm,
                                        Và càng không thể biết
                                        Anh đang buồn vì em.

                                        Vì tình yêu, lần nữa
                                        Anh lại buồn đêm nay.
                                        Tim xốn xang... chỉ tiếc
                                        Em không biết điều này.

Tiếp đến, mọi chuyện diễn ra đúng như Hainơ nói. Cô yêu người khác. Một nhà thơ có tài xưa nay cô hâm mộ. Nhưng nhà thơ này yêu cô cũng như yêu bao cô sinh viên trẻ khoa văn lãng mạn giống cô. Khác chăng có yêu hơn một tí vì nhà cô giàu và có ông bố là cán bộ cao cấp. Cuối cùng, qua mai mối của bà mẹ, cô đồng ý làm vợ một phó tiến sĩ vừa ở nước ngoài về, một người tử tế, cũng con nhà cán bộ cao cấp như nhà cô. Từ buổi đầu gặp nhau cho đến ngày cưới chưa đầy hai tháng. Lúc này cô đã là một phóng viên, thỉnh thoảng có bài in ở các báo. Ông cũng được mời dự cưới. Ông đi, mang sẵn trong người một bài thơ khác của Hainơ để tặng cô, nhưng vào phút cuối nghĩ thế nào lại thôi. Bài thơ ấy ông còn giữ tới nay:

                              Em hãy nói cho anh nghe: vì sao
                              Giữa mùa xuân mà hoa hồng đã héo;
                              Và trước anh, do nguyên cớ thế nào
                              Bông hoa tím cúi đầu buồn lạnh lẽo?

Em hãy nói: vì sao chim họa mi
                              Hót buồn bã làm tim anh nhức nhối;
                              Sao anh nghe như mục nát cái gì
                              Trong hơi thở của rừng xanh, đồng nội?

                              Em hãy nói: sao suốt ngày mặt trời
                              Luôn giận dữ nhìn cánh đồng nhăn nhó?
                              Sao bóng đen luôn bao trùm khắp nơi,
                              Cả trái đất âm u như nấm mộ?
                             
                              Anh đau buồn, anh thất vọng, ủ ê -
                              Hãy giải thích cho anh nghe điều ấy.
                              Và em yêu, em hãy nói anh nghe:
                              Sao em nỡ bỏ anh đi như vậy?

Sau đó, với ông hầu như chẳng còn gì nữa. Rồi ông cũng lấy vợ, có con, việc công, việc nhà không có gì đáng phàn nàn. Gia đình ông sống bình thường như các gia đình công chức bình thường khác. Có phần còn khá hơn. Có thể nói hạnh phúc và bề ngoài nhìn vào, chắc không ít người ghen tị. Bản thân ông cũng tự thấy hài lòng. Vậy ông còn đòi gì hơn nữa? Bà vợ dịu dàng, yêu, hiểu chồng. Đứa con trai ngoan, học giỏi.
Vâng, tất cả đúng như vậy. Ấy thế mà sao ông vẫn thấy có cái gì thiếu vắng, một sự luyến tiếc mơ hồ, một nỗi đau âm ỉ không nói nên lời. Ông biết tất cả có thể chỉ do ông đa cảm hay nghĩ về mối tình đầu bất thành. Nhưng có phải lỗi ông đâu? Ai dám chắc nếu họ lấy nhau, cái cô gái hay tự ái ngày xưa ấy sẽ làm ông hạnh phúc hơn người vợ hiện nay của ông? Suy cho cùng đó chỉ là mối tình bồng bột với những kết luận cũng vội vàng và bồng bột không kém. Ông biết thế và đã cố nhiều lần xua đuổi những ý nghĩ vẩn vơ ấy trong đầu. Tuy nhiên lý trí là lý trí, tình yêu vẫn là tình yêu. Và sống bên bà vợ lý tưởng của mình, nhiều khi ông vẫn không thể không nghĩ tới người đàn bà kia. Người đàn bà nhẫn tâm, đồng bóng đã làm ông đau khổ. Vì người ấy mà ông nhiều đêm phải mát ngủ như đêm nay. Tình yêu là thế, biết làm thế nào được.
Còn "người ấy" thì sao? Bề ngoài có vẻ cũng bình thường. Từ ngày chia tay, họ chưa một lần gặp nhau. Cách đây đã lâu, khi cùng đưa con đến trường Lê Ngọc Hân, thỉnh thoảng họ nhìn thấy nhau nhưng chỉ gật đầu chào từ xa, họa hoằn lắm mới trao đổi đôi câu thông thường. Duy nhất một lần, khi cả hai người cùng đến quá sớm và biết còn phải chờ lâu, ông gợi ý cô vào quán cà phê đối diện ngồi tạm. Cô chỉ im lặng nhìn ông. Vẫn đôi mắt đẹp ngày xưa ấy nhưng bây giờ đượm buồn, rất buồn. Cuối cùng cô cúi đầu khẽ nói: "Em có lỗi với anh. Anh tha thứ cho em nhé". Rồi như sợ không dám đứng thêm với ông, cô vội vã phóng xe bỏ đi. Từ đó họ chẳng bao giờ gặp nhau nữa. Vậy là cô cũng chẳng hạnh phúc gì. Có thể như ông, cô cũng bị cái tình yêu kỳ diệu, lạ lùng, đam mê và bí ẩn ấy làm nhiều đêm mất ngủ. Biết đâu lúc này cô cũng đang đứng trên ban công nhà mình, bâng khuâng nghĩ về nó như ông...
          Con quái vật thành phố vẫn nằm xoãi dưới chân ông. Nhiều con mắt khác màu đã nhắm. Hơi thở và tiếng rên rĩ của nó hình như cũng lắng xuống. Ông khẽ rùng mình vì luồng khí lạnh bất chợt thổi từ phía sông Hồng. Ông lặng lẽ đi vào, nằm xuống cạnh vợ. Bây giờ thì vợ ông chắc chắn đã ngủ, tiếng thở nhẹ và đều. Nhờ ánh trăng chiếu qua cửa sổ, ông thấy khuôn mặt bà vừa thanh thản vừa như lo lắng điều gì.  Ông khẽ cầm tay bà đặt lên ngực mình. Tự nhiên ông thấy thương bà. Thương cho cả chính mình. Một lúc sau ông thiếp đi, bên tai vẫn văng vẳng bài thơ của Hainơ nhưng nghe như đâu đó từ xa, rất xa, và mỗi lúc một nhỏ dần...

                              Một chàng trai đem lòng yêu cô gái
                              Nhưng cô kia yêu người khác; và rồi
                              Người khác ấy lại yêu cô gái khác,
                              Để nàng buồn và thất vọng khôn nguôi.

                              Còn sau đó, vì thất tình, cô gái
                              Không mảy may kén chọn, đã lấy chồng
                              Thành bất hạnh; và chàng trai cũng vậy,
                              Phải suốt đời đau khổ, phải chờ mong...

                              Câu chuyện trên không có gì mới lạ.
                              Bao đời nay thường vẫn thế - Có điều
                              Nếu xẩy ra với chính ta, ta sẽ
                              Biết thế nào là cái giá tình yêu.                                                            

(1). Thơ Henric Hainơ (Henric Heine, Đức,  1797 - 1856).
(2). Thơ Vichto Huygô (Victor Hugo, Pháp, 1802 - 1885). Tất cả các bài thơ trong truyện này cũng như cả tập sách đều do tác giả dịch. Xem "Thái Bá Tân. Thơ dịch", NXB Lao Động, 2001.
Hà Nội, 9. 4. 2002


SA PA MÂY PHỦ

Họ đến Sa Pa lúc trời gần tối. Mặt trời tháng Ba khuất sau núi, ánh lên một vầng sáng màu da cam lạnh và buồn. Cả không khí cũng đượm buồn, cái buồn vắng người và vùng núi quá ư yên tĩnh. Từ ô tô nhìn xuống, một vài ngôi nhà mới xây mái đỏ tường trắng trông lạc lõng giữa một màu xanh thẫm sũng hơi sương.
Ngồi sau tay lái là một người đàn ông đứng tuổi đeo kính trắng mắt dày chứng tỏ ông cận nặng, nét mặt hiền hậu tuy khắc khổ. Vợ ông, một phụ nữ bé nhỏ còn giữ được vẻ đẹp thanh thoát thời trẻ, ngồi phía sau, lơ đãng nhìn ra ngoài. Cả hai có vẻ giàu có, đáng kính, thể hiện qua cách ăn mặc, điệu bộ, và cả chiếc Ford Mondeo màu đen bóng, loại ô tô Mỹ nổi tiếng mới thấy xuất hiện ở Hà Nội.
“Tôi không hiểu ông lên đây làm gì. Trời lạnh thế này.”
Bà nói khi hôm sau hai người ngồi ăn sáng ở khách sạn sang nhất của thị trấn trên một ngọn đồi. Mà quả rét thật. Bà ngồi co ro, quàng lên người chiếc khăn len to màu xanh nhạt. Như thường lệ khi ngủ dậy, bà trang điểm chút ít, đúng kiểu người già quen ăn diện nhưng ý tứ.
Ông lặng yên cầm chai rượu vang rót vào hai chiếc li chân cao, một lúc sau mới đáp:
“Có lẽ bà nói đúng, nhưng tôi không muốn đi nơi khác. Vả lại ở đây tôi có chút kỷ niệm...”
“Kỷ niệm? Sao ông không bao giờ kể tôi nghe?”
“Tại tôi nghĩ bà không cần biết, không muốn biết. Chuyện xưa ấy mà.”
“Hôm nay tôi thấy ông như buồn buồn điều gì. Chắc vì cái kỷ niệm ấy?”
Ông không đáp, lại rót rượu cho mình.
“Một thiên tình sử lãng mạn? Một thôn nữ xinh đẹp và hoang dã?” Bà khẽ cười, pha chút châm biếm.
“Ừ, không hoàn toàn nhưng cũng gần như thế. Một cô gái người Thái, xinh đẹp, nồng cháy và pha chút ít hoang dã như bà nói.”
“Sao ông không lấy cô ta làm vợ?”
“Vì tôi biết sẽ gặp bà, lấy bà”.
“Cảm ơn. Ông kể nghiêm túc cho tôi nghe với nào”. Khi thấy chồng cứ mân mê mãi ly rượu, bà nói thêm: “Hay đấy, tự mình khơi chuyện rồi lại im lặng không chịu nói gì nữa.”
“Thực ra chẳng có nhiều để nói. Vì chúng tôi quen nhau được ba tháng thì cô ấy chết. Thời gian yêu nhau còn ít hơn”.
“Chết?” Bà định hỏi vì sao nhưng lại thôi.
Ông cũng chẳng nói gì thêm.
Mặt trời đã nhô lên quá hàng cây trước khách sạn, vất vả lắm mới chui ra khỏi đám mây dày đặc. Gió se se thổi. Xa xa phía dưới, những mảng sương mù mỏng màu trắng đục như đứng yên một chỗ nhưng ông biết chúng đang trôi chầm chầm vì có gió. Còn ở đây thì không có sương mù, chỉ ẩm ướt, trên lá cây lấm tấm những giọt nước nhỏ. Không khí trong lành, thoang thoảng mùi gì đó ông không tìm được tên gọi.
“Tôi định tới đó.” Ông lại lên tiếng khi cô hầu bàn mặc áo dài màu hồng vừa bê bát đĩa đi, chỉ chừa lại chai rượu và hai chiếc cốc. “Bà có đi với tôi không?”
“Tới đó là tới đâu?”
“Bản Vẹo. Ngày xưa tôi được phân về dạy học ở đó, nơi tôi đã gặp và yêu cô ấy... Cách đây chỉ mươi cây số, nhưng đường xấu”.
“Không. Ông đi đi. Hôm nay tôi mệt”, bà nói rồi đứng dậy bỏ lên phòng.
Đã qua cái thời có thể ghen tuông, vả lại thực ra chẳng có gì để ghen, nhưng bà vẫn thấy ấm ức vô cớ. Bà sống với ông ba mươi năm nay, có thể nói yên ấm, hạnh phúc. Ông là người chồng tốt, chu đáo với vợ con, nhưng với nhạy cảm của người đàn bà tinh tế, bà biết hình như suốt chừng ấy năm vẫn có cái gì đấy, ai đấy đứng xen giữa vợ chồng họ. Bà nhiều lần cố đoán mà không đoán ra. Bây giờ bà biết người ấy là ai. Dẫu không nhỏ nhen cố chấp, bà vẫn không kìm được thái độ hờn dỗi của mình. Ông biết. Bản thân ông cũng không thực sự muốn vợ đi cùng, chỉ lờ mờ thấy như mình có lỗi.
Quả đường xấu thật, gồ ghề và nhão nhoét. Có lẽ hôm trước vừa có mưa. Chiếc ô tô lấm đầy bùn, và phải sau hơn một giờ mới tới được nơi cần tới.
Ông bước ra khỏi xe, ngồi phệt xuống phiến đá giữa đám cỏ ướt bên chiếc hồ nhỏ nước nông và trong, để lộ lớp đáy bùn màu gạch.

                                                  * 
Đó là một ngày mưa tầm tã vào đầu tháng Chín năm 1967, khi tốt nghiệp xong Đại học Sư phạm anh được phân về vùng này. Vì lý do sức khỏe, cụ thể mắt cận ba đi-ôp, người ta không gọi anh nhập ngũ như nhiều bạn cùng lớp.
Ra đi từ sáng sớm với chiếc ba lô con cóc toòng teng trên lưng, mãi gần tối mới đến được nơi cần đến, trường cấp ba Cẩm Yên, nhưng anh chẳng thấy ai trong mấy ngôi nhà nứa tuềnh toàng ở đấy, đành hỏi thăm nhà ông chủ tịch xã định xin ngủ qua đêm rồi sau hẵng hay. Lại phải đội mưa dẫm bùn thêm ba cây số nữa để đến nhà ông chủ tịch.
Hóa ra ông này đã biết anh sẽ đến và được giao nhiệm vụ tìm cho anh một nhà dân để ở trọ vì trường không có nhà riêng cho giáo viên. “Tìm nơi nào kha khá một chút. Tay này dân Hà Nội gốc, có thể khó tính đấy!”
Bản Vẹo của ông sống qui tụ, người Kinh nhiều hơn người Thượng do trước đây có nông trường chè gần đấy, nay đã giải thể. Ông người Thái, vợ ông vốn là một trong những cô gái từ dưới xuôi lên, làm việc ở nông trường ấy. Cả buổi chiều trước đó ông đau đầu không biết phải bố trí “anh chàng Hà Nội khó tính” này ở đâu. Trong bản nhà nào cũng nghèo. Thêm chiếc giường không khó, chỉ ăn uống, sinh hoạt, vệ sinh mới phiền. Lại thêm cái chuyện năm ngoái có anh giáo viên miền xuôi, cũng của trường Cẩm Yên, léng phéng với một cô gái trong bản, có chửa, bị đuổi việc rồi lặn đi đâu mất. Không khéo rồi anh chàng này cũng gây tai họa. Tuy nhiên, là người đứng đầu địa phương, lại vốn sĩ không muốn “người ta” khinh thường xã mình, cuối cùng ông quyết định cho anh ta sống ngay trong nhà ông, một gia đình tự ông đánh giá có văn hóa nhất và khá nhất trong cả xã. Tạm thời thế đã rồi sau ông sẽ dựng cho trường mấy gian nhà tranh làm chỗ ở của giáo viên.
Ngôi nhà “nhất xã” ấy có tường xây, trát vữa một mặt phía trong, mái ngói hẳn hoi dù đôi chỗ dột, đuồn đuỗn bốn gian nhỏ như nhà tập thể. Anh được ở gian trống cuối, nơi có chiếc cửa sổ không cánh che bằng vải nhựa nhìn ra một bãi sắn. Xa hơn tí nữa là chiếc hồ nhỏ bình thường nhưng với anh lại rất thơ mộng. Nhà ít người so với dân trong vùng, ngoài ông chủ tịch xã còn có vợ ông, một người đàn bà quê Hưng Yên, hơn bốn mươi tuổi, ít nói, có vẻ một thời xinh đẹp nhưng bây giờ gầy đét, da xám như người bị sốt rét lâu ngày. Anh thấy hai đứa trẻ, một cậu bé khoảng mười ba và đứa con gái thò lò mũi xanh. Nghe nói còn đứa nữa, đã lớn nhưng lúc anh đến không có nhà.
Anh tắm giặt, thay quần áo xong và đang ngồi uống nước, nói chuyện với ông bà chủ tịch thì có người bước vào nhà. Bên ngoài trời vẫn mưa nặng hạt. Lúc ấy đã tối hẳn và căn nhà được chiếu sáng bằng chiếc đèn bão to như quả dưa bở, bóng ám muội do lâu ngày không lau. Trong góc phòng thấy treo chiếc đèn măng-xông chắc chỉ dành cho những dịp long trọng phục vụ nhiều người.
“Cái Bình, con gái tôi đấy,” ông chủ nhà nói. Có vợ người Kinh, mấy năm đi bộ đội, lại làm chủ tịch xã xuống huyện hội họp thường xuyên nên ông đã bị “xuôi hóa” từ lâu, dễ nhận thấy qua cách cư xử, nói năng và cách đặt tên cho con. “Năm nay xong lớp mười, tốt nghiệp phổ thông còn chưa biết làm gì, đi đâu đây.” Rồi ông quay sang con gái: “Đây là thầy Thọ mới từ Hà Nội lên. Sẽ dạy trường con đấy.”
Cô gái lúng búng “chào thầy’’, quay sang nhìn anh, rùng mình hất mái tóc dài về phía sau rồi đi xuống bếp.
Dưới ánh đèn dầu tù mù anh kịp nhận thấy một khuôn mặt tuyệt đẹp, đẹp đến mức khiến anh sững sờ chốc lát. Nó khác hẳn vẻ đẹp thường thấy ở các cô gái đẹp thủ đô. Có cái gì đó mới mẻ, tinh khiết, bí ẩn, thậm chí hoang dã. Khuôn mặt xinh đẹp ấy đang ướt sũng nước mưa (không hiểu sao cô đi đâu về không mũ nón gì cả), bộ quần áo mỏng dính chặt cơ thể con gái mới lớn với những đường nết thật mềm mại và gợi cảm. Anh có cảm giác như nhìn thấy da thịt cô qua lớp vải ướt. Có thể cái nhìn ấy làm cô xấu hổ cúi mặt. Cũng có thể chỉ do anh tưởng tượng vì lúc đó đang ở trong một cơn sốc thực sự, sốc trước vẻ đẹp ngỡ ngàng, bất ngờ. Đôi chân cô để trần, cũng rất trắng và đẹp, theo đó, nước từ người chảy xuống thành vết loang lấp lánh dưới ánh đèn.
Đêm ấy và nhiều hôm sau anh còn bị ám ảnh mãi bởi cuộc gặp lần đầu này. Anh giật mình lo lắng khi phải tự thú rằng hình như anh yêu cô, yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên như người ta vẫn nói. Xưa nay anh không tin vào kiểu tình yêu sét đánh như thế. Anh nghĩ có lẽ do tính anh dễ xúc động, do bị choáng chút ít vì đi đường mệt và thời tiết, rồi mọi việc đâu sẽ vào đấy. Nhưng anh nhầm...
Trường cấp ba Cẩm Yên chỉ vẻn vẹn một lớp mười, hai lớp chín và ba lớp tám. Anh được phân dạy sử, kiêm luôn cả môn địa lớp tám và chín. Thời ấy không chỉ học sinh ít mà thầy cũng thiếu. Việc giảng dạy chẳng mấy vất vả. Chỉ buồn, cái buồn miền núi suốt ngày chẳng có gì làm, chẳng đi đâu, chẳng biết nói chuyện với ai. Thêm vào đó, trời hay mưa, không mưa thì sương mù dày đặc, da thịt luôn ẩm ướt như đổ mồ hôi mùa hè. Không khí có mùi gì như mùi mốc, lắm lúc thấy buồn nôn. May anh mang theo mấy cuốn tiểu thuyết, chủ yếu tiểu thuyết cổ điển Nga, trong đó có cuốn Tội ác và Trừng phạt của Đôtxtôiepxki, anh đọc nhiều lần đến mức bị ám ảnh muốn tự mình phạm một tội ác nào đó. Có cả cuốn Axia của Tuốcghênhép mà anh thấy Bình, cô con gái ông chủ tịch xã, na ná giống một nữ nhân vật trong đó.
Anh và Bình ít gặp nhau, ngoài một ngày hai bữa ăn trưa và tối, ít khi có ăn sáng. Buổi sáng đi học, buổi chiều hôm nào cô cũng theo mẹ lên đồi trồng gì ngoài ấy đến tối mới về. Trong bữa ăn, từ khi có anh, cô thường cúi mặt hoặc nhìn đi nơi khác. Nói chuyện thì hầu như không, ngoài những câu chào hỏi bắt buộc. Chính điều này khiến anh, có thể cả bố mẹ cô nữa, đoán hiểu cô không thờ ơ với anh. Đôi khi anh thấy Bình nhìn trộm mình, và lần nào ngẫu nhiên gặp nhau má cô cũng đỏ bừng. Còn anh thì bây giờ, được quan sát kỹ hơn, bình tĩnh hơn, anh càng thấy cô xinh đẹp và đặc biệt hấp dẫn, như con thú nhỏ vừa nhút nhát, vừa có cái gì đấy mãnh liệt vụng về che giấu bên trong.
Tất nhiên anh phải cố giữ kín tình cảm thật của mình, làm như không để ý tới cô, chỉ thỉnh thoảng giúp cậu em làm bài khi cần. Cậu này học dốt nhưng thích đọc sách, có thể do vậy nên rất quí anh, vì với cậu, anh là nguồn sách vô tận. Thỉnh thoảng, theo yêu cầu của bà mẹ, anh nói nếu Bình có gì không hiểu, anh làm giúp, nhưng lần nào cô cũng lặng lẽ lắc đầu. Anh chẳng hiểu ý bà thế nào. Có thể vô tình, cũng có thể lo xa, bà nghĩ tới cuộc hôn nhân tương lai giữa con gái bà và anh chàng thư sinh Hà Nội đẹp trai, lại là ông giáo, cái nghề rất được coi trọng ở vùng này. Suy cho cùng, điểm mặt tất cả, bà thấy ở đây chẳng ai xứng đáng hơn. Chắc bà cũng nhận thấy tình cảm của anh đối với Bình. Còn ông bố thì không quan tâm, hay ít ra tỏ vẻ không quan tâm. Có lẽ ông cũng không phản đối. Con ông đã mười tám, cái tuổi nên lo chuyện chồng con. Anh cũng mới hăm hai. Ông chỉ sợ như anh chàng năm ngoái, làm con người ta ễnh bụng rồi lặn mất tăm. Vậy là có vẻ như mọi chuyện thuận lợi, nhưng anh vẫn chưa dám. 
Một hôm đi đâu về, anh chợt thấy Bình chạy bổ từ trong nhà ra, bối rối và xấu hổ. Hình như từ phòng anh. Anh vội bước vào và thấy một mẩu giấy nhỏ trên bàn xé từ cuốn vở học trò. “Tối nay em chờ anh bên hồ”.
Anh ngồi thừ trên ghế, ngạc nhiên và mừng lo lẫn lộn.
Bữa ăn tối diễn ra như thường lệ. Bình không một lần nhìn anh. Ăn xong, cô bảo mẹ sang nhà bạn học bài rồi đi luôn. Vì thỉnh thoảng vẫn đi dạo vào buổi tối nên anh có thể ra đi mà không bị ai nghi ngờ. Khốn nỗi hôm ấy cậu em cứ nằng nặc nhờ giải giúp bài toán khó, nên khi anh rời khỏi nhà đã gần chín giờ.
Đầu tháng, trăng bàng bạc, mỏng và ẩm ướt. Bốn bề yên ắng, chỉ buồn buồn tiếng côn trùng đâu đó vọng lại. Anh bước nhanh qua bãi sắn về phía hồ, tim đập mạnh vì hồi hộp, thậm chí không nghĩ tới hậu quả, không nghĩ gì ngoài việc có người đang chờ anh bên hồ.
Bình ngồi trên tảng đá lớn trên bờ. Bên cạnh có tảng khác nhỏ hơn. Cả hai đều trơn nhẵn do mưa gió và cả do người ngồi. Anh từng nhiều lần ngồi lên đó, vào buổi chiều chứ không phải ban đêm thế này, và tất nhiên chỉ một mình. Cô ôm gối, đầu cúi gục, im lặng cả khi anh lên tiếng gọi. Anh lại gần, khẽ đặt tay lên vai cô và biết cô đang khóc. Anh ngồi xuống cạnh, hồi lâu không biết nói gì, cuối cùng nhẹ nhàng nâng đầu cô lên và hôn vào đôi mắt  ướt.
“Người ta nói con gái dân tộc mãnh liệt lắm”, anh nghĩ. “Nhưng để chủ động hẹn thế này thì chắc Bình phải yêu anh ghê gớm, đấu tranh ghê gớm và cũng bất chấp ghê gớm”.
“Anh yêu em! Yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên như trong tiểu thuyết.” Anh nói một cách giản dị rồi cười thành tiếng, cố lấy vẻ thật tự nhiên. Hình như tiếng cười này giúp cả hai vượt qua sự lúng túng ban đầu.  
Anh vòng tay ôm cô, xoay về phía mình. Người cô run lên như bị sốt.
“Em có yêu anh không?”
Cô khẽ gật đầu, áp mặt vào ngực anh. Hai người im lặng hồi lâu.
“Cũng từ cái nhìn đầu tiên?”
“Không. Phải mấy ngày sau. Rồi em trở thành như đứa mất hồn”, cô nói, cũng thật giản dị. “Anh không nhận thấy à?”
“Có”, anh đáp. Thực ra anh không nhận thấy gì, lại càng không biết cô “mất hồn” vì anh.
“Còn em, em có biết anh rất yêu em không, yêu ngay từ đầu?”
“Có. Và em chờ. Sao anh không nói gì với em? Sao anh bắt em chờ lâu thế, cho đến lúc không chờ được nữa...”
“Tại anh sợ. Dẫu sao cũng mới ba tháng. Anh sợ mọi người nghĩ anh như anh chàng năm ngoái. Nhưng ngay ngày mai anh sẽ nói chuyện với bố mẹ em...”
“Đừng. Khoan đã.” Cô ngước nhìn lên, nghiêm túc hỏi: “Anh sẽ cưới em chứ?”
“Tất nhiên.”
“Anh thề đi.”
“Không cần thề”, anh cười. “Anh cũng mất hồn vì em. Không phải mấy ngày sau mà ngay từ hôm đầu mới gặp. Tất nhiên anh sẽ lấy em. Còn em?”
“Em là con gái. Không cần hỏi”.
Hai người lại im lặng, rồi anh nói, thật thà đến mức ngây ngô nhưng không ai để ý đến sự ngây ngô ấy:
“Vậy là chúng ta yêu nhau và sẽ lấy nhau.”
“Vâng. Rồi anh sẽ đưa em về Hà Nội? Em thích được sống ở Hà Nội. Ở đây buồn lắm”.
“Anh sẽ đưa em về Hà Nội. Mà thôi, ta phải về kẻo mọi người nghi”.
Hai người đứng dậy. Chỉ lúc này họ mới hôn nhau. Một cái hôn vụng về. Anh thấy người cô nóng rực và run run.
“Mai ta lại ra đây nhé?”
“Ừ, mai.” Anh đáp, và hai người lại hôn nhau.
Trăng có vẻ mờ hơn, sương cũng nhiều hơn như muốn che họ khỏi những con mắt tò mò.
Những ngày tiếp theo đêm nào họ cũng hẹn gặp nhau bên hồ mà không ai biết, hoặc có thể biết nhưng giả vờ không. Tuy nhiên, bây giờ, khi nhà vắng người, họ có thể vui vẻ nói chuyện với nhau, hôn nhau trong niềm hạnh phúc ngây ngất.
Một tối nọ, khi hai người vừa ra tới hồ, cô bảo anh:
“Ta xuống tắm đi!”
Anh chưa kịp trả lời thì cô đã nhanh nhẹn cởi hết quần áo, ngay trước mặt anh mà không chút e thẹn, rồi một mình lội xuống nước.
“Con gái miền núi hồn nhiên thật.”
Anh thầm nghĩ và mỉm cười một mình, nhưng không xuống tắm, lại càng không muốn tắm truồng. Không hiểu sao anh thấy ngượng, dù ý nghĩ được tắm truồng với người yêu dưới đêm trăng thật hấp dẫn. Thích nhưng vẫn ngượng, vì tính anh vốn nhút nhát và hay cả thẹn.
Mười lăm phút sau, cô lên.
“Anh lau người cho em đi!” Cô nói rồi ôm ghì lấy anh để nước thấm hết cả quần áo.
Phải nói anh hơi thoáng chút bối rối. Tất nhiên anh hiểu cô muốn gì và anh có thể làm gì. Anh ôm chặt cô. Người anh cũng run lên, hừng hực. Nhưng một lúc sau anh từ từ buông cô ra:
“Em mặc quần áo vào kẻo lạnh”.
Cô ngoan ngoãn nghe theo, rồi họ ra về trong im lặng.
Ba hôm sau anh được biết cô đã viết đơn xung phong ra mặt trận và sắp lên đường.
“Trời! Sao em làm thế?” Anh kêu lên, gần như hoảng hốt.
“Cả lớp viết. Người ta chỉ chọn ba đứa. Em là lớp trưởng nên được chọn”.
“Em muốn bỏ anh mà đi thật à?”
“Không. Em không muốn đi. Nhưng em là lớp trưởng... Em muốn ở lại với anh.”
“Vậy sao xung phong?”
“Cả lớp xung phong...”
Cô thút thít khóc. Không biết nói gì hơn, anh ôm cô vào lòng như sợ buông ra, cô sẽ biến đi mất.
“Hay anh và em cùng bỏ trốn? Vào rừng chẳng hạn. Em biết một chỗ rừng rậm lắm, không ai tìm thấy đâu.” Cuối cùng cô ngước nhìn anh, giọng nghiêm túc.
Anh thấy buồn cười với ý nghĩ trẻ con ấy.
“Không được. Phải tìm cách khác. Không có em, anh chết mất. Mà em cũng có thể chết. Chiến tranh không đùa với ai đâu...”
“Em không sợ chết. Chỉ sợ xa anh”, cô trầm ngâm một lúc rồi nói: “Mà có chết cũng chẳng sao. Em sẽ chờ anh dưới ấy!”
“Em chỉ nói vớ vẩn. Chết thế nào được.”
“Em nói thật mà. Nếu ra đi và không may phải chết, em sẽ chờ anh dưới ấy. Chờ suốt đời. Em sẽ không yêu ai, không lấy ai cả. Anh không thích em làm thế sao?”
Anh không đáp, chỉ ôm chặt cô hơn và hôn tới tấp khắp mặt cô.
Hôm ấy là đêm cuối cùng trăng còn sáng. Trăng đang bị mây che khuất phía đằng tây. Không hiểu sao đám mây có màu vàng bệch và ung ủng.
Một tuần sau cô lên đường. Được nửa tháng thì có tin cô chết khi đoàn xe chở cô và những cô gái như cô bị trúng bom lúc đang vượt cầu Hàm Rồng.

                                                  *
“Ông nghĩ ngợi gì thế? Ăn đi kẻo nguội”. Bà nói bên bàn ăn sáng ngày hôm sau.
“Chẳng nghĩ gì cả”, ông thờ ơ đáp. “Hôm nay Sa Pa nhiều mây quá.”
“Sa Pa thì lúc nào chẳng vậy.”
“Ừ, nhưng hôm nay nhiều hơn. Bà không thấy thế sao?”
“Tôi thấy bình thường. Chỉ có ông không bình thường. Lại chuyện nàng kia, cái nàng người Thượng xinh đẹp và hoang dã ấy chứ gì?”
Ông lặng thinh rót đầy cốc rượu cho mình. Không hiểu đã là cốc thứ mấy. Đúng, ông đang nghĩ về Bình, mối tình đầu ngắn ngủi, đẹp đẽ và đau đớn. Thực ra suốt mấy mươi năm qua lúc nào ông cũng nghĩ đến nó. Chuyện chỉ có thế. Đơn giản mà thật chua xót. Đúng như ông nói với bà: quen nhau ba tháng, yêu nhau còn ít hơn. Thậm chí chưa có cả “chuyện ấy”. Thế mà với ông, nó là mối tình đẹp nhất, quan trọng nhất, có lẽ còn duy nhất. Ông cảm thấy sau khi người yêu chết, mọi chuyện trở nên vô nghĩa, cả chuyện sau này ông lấy vợ và sống “hạnh phúc” với bà trong con mắt của nhiều người. Đúng, có thể ông quá đa cảm, có thể quá nâng niu, thi vị hóa những kỷ niệm cũ, nhưng quả thực ông không thể nào quên dù nhiều lần đã cố.
Hôm qua ông ngồi gần như suốt ngày trên tảng đá nơi cô chủ động hẹn ông đến. Ông ngồi, nhớ lại lần đầu nhìn thấy cô trong cái đêm mưa gió ấy. Khuôn mặt xinh đẹp hớp hồn của cô. Đôi mắt to tròn. Bộ quần áo ướt mỏng dính bám sát cơ thể mảnh mai với những đường cong tuyệt mỹ dẫu chưa phát triển hoàn toàn. Ông nhớ những cái hôn, những trò đùa nghịch trẻ con. Nhớ lần cả hai đứa hốt hoảng giật bắn người khi đang hôn nhau thì bất chợt ông bố về, may chưa kịp nhìn thấy. Tất nhiên nhớ cả đêm trăng cuối cùng bên hồ, khi cô trần truồng trong vòng tay ông, sẵn sàng hiến dâng mà ông đã ngu ngốc chối từ. Điều này đặc biệt làm ông day dứt. Chắc lúc ấy cô xấu hổ và giận ông lắm. Ông thấy thương cho cô và cả cho mình rằng chuyện ấy đã không xẩy ra. Mà cô thì chỉ mấy ngày sau đã chết.
“Chắc hôm qua ông vào thăm gia đình cô ấy?” bà hỏi.
“Chẳng còn ai nữa. Hai năm sau cái chết của con gái, ông bố người Thái chết vì ung thư. Bà vợ người Kinh đưa hai con về quê cũ Hưng Yên. Thỉnh thoảng tôi có tới thăm, nhưng điều ấy chẳng liên quan gì đến chuyện này”.
“Ông chưa kể tôi nghe vì sao cô ấy chết?”
“Chưa à? Đơn giản thôi. Xung phong ra trận. Chưa đánh đấm gì thì cả xe chở mấy chục cô gái học sinh bị trúng bom ở Hàm Rồng. Chết hết. Đó là điều khủng khiếp nhất của chiến tranh. Bà hài lòng chưa?”
“Ông thô lỗ quá đấy!”
“Ừ, tôi xin lỗi”.
“Mà sao ông uống nhiều vậy? Từ nãy đến giờ tôi đếm được năm cốc rồi đấy.”
“Xin lỗi. Đây là cốc cuối cùng”.
“Không lẽ suốt mấy chục năm qua ông không thể nào quên được cô ấy?”
“Không.”
“Và vẫn yêu cô ấy?”
“Vẫn.”
“Tức là suốt chừng ấy năm ông sống với tôi mà luôn nghĩ đến người đàn bà khác?”
Không chờ câu trả lời, bà đột ngột đứng dậy bỏ lên phòng.
“Tôi xin lỗi bà. Không hẳn như vậy. Tôi cũng yêu bà. Nhưng đó là chuyện khác. Xin lỗi!” Ông nói khi chỉ còn lại một mình, với tay lấy chai rượu.
Buổi chiều hôm ấy họ trở về Hà Nội. Bà ngồi sau tay lái với lý do ông chưa tỉnh hẳn rượu. Ông ngồi phía sau, lờ đờ nhìn ra ngoài. Vẫn cảnh cũ Sa Pa mây phủ trắng. Bất chợt ông có cảm giác như đâu đó dưới những đám mây ẩm ướt kia có ai đang đứng chờ ông. Chờ đã lâu. Chờ một cách mòn mỏi và đau đớn.
“Em sẽ chờ anh dưới ấy”.
Cô Bình ngày xưa của ông đã nói như thế. Con gái miền núi kỳ lắm. Đã nói nhất định thế nào cũng làm.
Hà Nội, 21. 5. 2003

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét