BÀN VỀ TRUYỆN NGẮN THÁI BÁ TÂN
Bài viết của một dịch giả Mỹ
BÌNH LUẬN VỀ VĂN XUÔI THÁI BÁ TÂN
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus)
Tâm Sự Của Người Chuyển Ngữ
Thú thật khi có dịp đọc những truyện ngắn của Thái Bá Tân, niềm xúc động trỗi lên và tôi như bị thôi miên, lên cơn sốt, như lậm phải ngải, thế là ý định muốn được chuyển ngữ những truyện ngắn của Thái Bá Tân đã ập đến. Biết ông có những truyện ngắn được chuyển ngữ sang Tiếng Anh, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn bị cuốn vào sự thu hút khó cưỡng lại. Và tôi đã nghĩ Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học của chúng ta sẽ vinh dự biết bao về sự có mặt hiện diện của Thái Bá Tân. Và vì yêu mến những truyện ngắn của ông, tôi đã âm thầm chuyển ngữ những truyện ngắn mà tôi yêu thích.
Trên tay các bạn là tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) gồm những truyện ngắn của Thái Bá Tân. Tất nhiên ông không đặt tên cho bất cứ truyện ngắn nào của mình là Tình Khúc Hoa Sen cả. Song khi đọc những truyện ngắn của ông, chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ về loài hoa sen. Loài hoa của dân tộc Việt, loài hoa của Phật, của sự thanh cao, của: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ đó tôi đã nghĩ đến cái tên Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) và tôi quyết định chọn tên này để tôn vinh những dòng viết của Thái Bá Tân – Những dòng viết của một tâm hồn, một con người, với tôi – Ông thực sự là một nhà văn lớn, mặc dù có thể Thái Bá Tân sẽ thầm trách tôi: Cậu nói thế là có phần quá lời rồi. Thế là cậu đang hại tôi rồi, Nguyễn Thơ Sinh ơi.
Bản thân Thái Bá Tân là vậy. Văn ông là cuộc đời của ông. Chẳng hiểu sao tôi luôn nghĩ thế. Những trang viết của ông luôn hiền lành. Những câu văn mềm và hiền như cháo cảm. Những câu chuyện chan chứa ân tình. Những bài học nhân nghĩa. Những cái nhìn đầy khoan dung, độ lượng. Đọc văn ông tôi có cảm giác đi vãn cảnh chùa, được tịnh thân, được hầu truyện cùng sư cụ tại một ngôi chùa cổ giữa núi rừng hoang vu.
Rồi tôi nhớ trong Kinh Thánh Tân Ước theo Thánh Lu-ca có viết một câu: Người tốt thể hiện tánh thiện vì tánh thiện chất đầy trong lòng mình, kẻ ác để lộ điều bất nghĩa từ trái tim họ. Vì từ trái tim đã tràn đầy, những điều ác thiện sẽ được cất lên thành tiếng. (The good man brings good things out of the good stored up in his heart, and the evil man brings evil things out of the evil stored up in his heart. For out of the overflow of his heart his mouth speaks. - Luke 6:45). Vận vào trường hợp Thái Bá Tân, tôi thấy có phần thật rất đúng.
Văn học Việt Nam có nhiều cây bút để lại trong tôi nhiều ấn tượng. Dĩ nhiên mỗi cây bút có những nét riêng, những dấu ấn để đời khác nhau. Nên nếu ví mỗi cây bút như vẻ đẹp của hai cô con gái nhà họ Vương, theo lời cụ Nguyễn Du thì mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Và tôi biết rõ ấn tượng trong văn chương có thể nói rất chủ quan, rất cảm tính cá nhân. Văn của ai hay và văn của ai đó hay hơn, đó là sự đồng cảm và thẩm thấu rất riêng giữa bạn đọc và một tác giả. Có người yêu Tô Hoài. Có người nghiện Nguyễn Tuân. Có người say Khái Hưng. Có người mất ăn mất ngủ với Nguyễn Ngọc Tư. Với bản thân mình, tôi quý văn Thái Bá Tân ở chỗ ông là người duy nhất cho tôi cảm giác được đọc lại những dòng của Nam Cao thuở nào.
Tôi chưa một lần gặp Thái Bá Tân. Càng mới chỉ biết đến ông qua sự mở rộng của thời đại thông tin (internet). Và rồi khi có cơ hội được đọc những dòng ông viết, tôi sửng sốt. Sự ngưỡng mộ về những điều ông viết khiến tôi nhận ra (nơi văn chương của ông) những bóng dáng của trúc, của sen, của thông, của lúa, của sợi muống, dây cà, củ dong, khóm riềng… Gần gũi và đậm đà những nét chân phương hiền hòa dân tộc.
Và tôi đã không thể cưỡng lại mình được. Tôi nghĩ đến độc giả của Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học. Tôi nghĩ đến tình cảm của độc giả giành cho tủ sách này. Và tôi hy vọng đây sẽ là một món quà ý nghĩa. Từ suy nghĩ đó, tôi mạo muội chuyển ngữ một số truyện ngắn của ông gồm:
Món Quà Tặng Mẹ (The Gift for Mother)
Tập Xe Đạp (Learn to Ride a Bike)
Hai Chiếc Gương (The Two Mirrors)
Người Không Nhớ Tên Mình (The Woman Who Could Not Recall Her Name)
Nhân Quả (Bad Karma)
Hà Nội Những Ngày Trước Tết (Hanoi A Few Days before Tet)
Sa Pa Mây Phủ (Cloudy Sapa)
Người Rách Bóng (The Person with Torn Shadow)
Người Vợ Lý Tưởng (The Ideal Wife)
Người Khổng Lồ Mắt Xanh (The Giant with Blue Eyes)
Đổi Đời (Changing of Fate)
Thái Bá Tân là một nhà giáo. Tôi đã được đọc những dòng cảm xúc do người học trò của ông bày tỏ thái độ và lòng tri ân của họ. Tôi thật sự ngưỡng mộ ông và thầm ganh tị. Tất nhiên tôi, khi đọc những dòng Thái Bá Tân viết, càng cảm thấy mình muốn được là học trò của ông (cũng như tôi đã từng nghĩ mình là học trò của Trịnh Bích Ngân) vì tôi đã học hỏi được những thủ pháp trong sáng tác nơi hai cây bút Thái Bá Tân và Trịnh Bích Ngân. Và lần này tôi mong rằng Thày Thái Bá Tân sẽ rộng lòng cho phép Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học có được những tác phẩm độc đáo của ông.
III. Mạch Văn Của Một Nguyễn Bính
Nếu như văn Thái Bá Tân khiến tôi nghĩ đến Nam Cao (trong văn xuôi) bằng khả năng sử dụng ngòi bút diễn tả những mạch văn mềm mại và hiền hòa, rất rau luộc và cá kho, giản dị chân thành; thì trong vương quốc thi ca, văn Thái Bá Tân đã khiến tôi nghĩ đến thi sĩ Nguyễn Bính – Vua thơ lục bát – Người đã viết những vần thơ trong lành như hương thơm của khế chín, như vị ngọt của bòng đầu vụ, của mùi lạc luộc ngậy bùi, của nước mưa múc ra từ vại đất nung bằng cái gáo dừa… Hiển nhiên văn Thái Bá Tân đã khiến tôi xúc động vì tính chất trong trẻo, dân dã, hiền lành ấy.
Nếp dẻo, khoai từ bùi ngậy, sắn bở, dong ngọt… Những tố chất điềm đạm hiền lành chắt chiu của phù sa dân tộc rất đỗi quen thuộc ấy, theo mạch nhìn đời của Thái Bá Tân, ướp vào trái tim của một kẻ biết quý trọng chữ tâm hơn là mải lo đánh vật với những biển lận cong queo. Để rồi mạch văn của Thái Bá Tân trở thành trong sáng, gần gũi, thanh cao như vừng bánh đúc bên cạnh bát mắm tôm sủi bọt. Như trăng mười sáu. Như cau bánh dày. Như trà mạn. Như tâm sự của một kẻ suốt đời nặng lòng với mảnh đất chôn nhau cắt rốn.
Thái Bá Tân từng làm thơ, dịch thơ. Vậy mà văn Thái Bá Tân không sóng sánh mật thơ. Thoạt tưởng có người nghĩ vậy. Nhưng chất nhạc và thang âm bằng trắc trong văn Thái Bá Tân thực sự rất tuyệt vời. Văn ông đọc trơn tru, trong trẻo, không vỏ cua, gai tôm, càng không giương đông kích tây về mặt thủ pháp. Tuồng như trong văn Thái Bá Tân mọi cái đều rất tự nhiên. Cá tươi làm gỏi ắt sẽ ngon, lạc giồng đẫy ngày luộc lên khắc sẽ bùi, ngô non tất phải ngọt… Và như thế văn Thái Bá Tân như một món ăn không cần đến mì chính, chất phụ gia, hàn the hay đường hóa học. Văn ông mịn màng, hiền lành, điềm đạm và chân thật. Thứ văn chỉ những cây bút sau khi chồn tay (đắc đạo) mới nghĩ đến. Thứ văn chương không còn tơ màng đến cái thời khua múa, leo trèo. Cuối cùng rồi thì cái gì cũng thế. Cỏ phía bên đó non hơn ư? Núi bên kia lam hơn ư? Rồi thì con ngựa chạy mãi, cuối cùng thấy ở đâu cỏ cũng úa như nhau. Nó chán. Nó hí vang: Chân lý ư? Trò ảo cả. Phải chăng chân lý (tất cả) nều nằm ở lẽ tự nhiên. Mà đã là lẽ tự nhiên thì chẳng phải tra đường mật ong mới ngọt, hoặc chẳng cần chất rơm mồi lửa thì mặt trời mới đỏ hực mỗi ngày.
Văn Thái Bá Tân đọc sướng lắm. Cái sướng của mình được ở nhà mình. Cái sướng được ngồi gần mẹ, được ăn sắn luộc bở tơi chấm với muối vừng. Cái thời trẻ tuổi, bụng cao dạ dốc, ăn nứt rốn mới thôi. Cái sướng của điếu thuốc lào kéo một hơi dài, sòng sọc, sảng khoái. Cái sướng của tắm ao, của ngủ ngày, và cả cái sướng theo kiểu còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau. Cái sướng của lý lẽ mình chẳng phải hổ thẹn với ai. Nói chuyện với mình, với đời, oang oang như đang hét toáng vào hai đầu gối. Đó là những cái sướng độc giả chỉ tìm thấy ở nơi Thái Bá Tân rất hiếm thấy ở những cây bút cùng thời với ông.
Cứ thế, Nguyễn Bính tài hoa với những vần thơ lục bát có thể khiến hoa dong phải đỏ môi hơn, hoa bòng phải vội vã mỉm cười, để trai tài gái đẹp có thể mượn khung cửi, mượn sợi tơ, tỏ tình bằng cánh bướm, lung linh huyền ảo. Thái Bá Tân qua một ngả khác, bằng văn xuôi, đong đưa chiếc võng đay cáu mùi mồ hôi, thế mà giấc nồng ngày hè bỗng dưng trở thành huyền thoại, trở thành ký ức; lóc tủy chẻ óc tìm không thấy, mà hễ đưa tay sờ lên ngực lại thấy phình phịch đập. Kể ra viết văn mà được như thế thấy nó cũng sướng. Gì chứ, viết mà không thẹn với cây bút và trang giấy, với bàn phím và màn ảnh, âu đó cũng là một cái thú của người phu chữ xưa nay.
Thế mạnh của Thái Bá Tân là khả năng sử dụng ngôn ngữ hiền lành giản dị (vốn nhiều cây bút trẻ, kể cả những cây bút trước ông, cùng thời, và thế hệ sau này đều cảm thấy khó nuốt). Gần như người ta nghĩ: Đã viết văn thì văn phải khác đi những sự bình thường. Mà họ nghĩ thế cũng đúng. Giữa một con phố sầm uất, hàng phở, hàng cơm, hiệu cao lâu, cơm tầu, cơm tây, lủ khủ ê hề, ai lại dám bày ra mẹt bánh đúc hay gánh bún ốc. Cứ như thể người ta sợ hãi phải trở thành đơn giản, thành gần gũi. Ngại sự quê mùa. Sợ người chê bai, cho là mình hai lúa quá, chân đen mắt toét.
Còn Thái Bá Tân thì không thế. Ông là người khá lạ lẫm trong việc giữ chặt cho mình cái mai rùa quê kệch, mốc meo, rơm rạ. Ông không gia giảm chế biến kho tàng ngôn ngữ dân tộc bằng những kiểu thức lạ mắt, lạ tai. Ông chỉ biết rau muống nếu không ăn sống thì luộc. Hoặc buồn buồn nấu canh với tôm khô. Hoặc xào. Thế thôi. Ông không nghĩ đến chuyện phải có nồi lẫu rau muống mới ngon, hoặc món rau muống xào gan dê, hoặc rau muống ninh chao, bóp gỏi, trộn gừng, nướng vỉ…
Thái Bá Tân rất gần với Nguyễn Bính ở chỗ cả hai đều nặng lòng với hoa xoan, hoa chanh, với dậu mồng tơi, với khung cửi. Cả hai đều thành tài, học cao hiểu rộng, đi xa biết nhiều, vậy mà vẫn hiền hòa trong cách nhìn, cách nói. Có lẽ do học ăn, học nói, học kỹ đến cả cách học gói, học mở; đâu ra đấy, nên sự hiền lành chất phác chẳng thể nào mất đi được. Vì thế trong văn Thái Bá Tân luôn lấp lánh những nụ cười hạt huyền, những dải yếm đào, và cái váy hiền hòa của bờ ao trinh bạch.
Như Nguyễn Bính viết: Hoa chanh nở giữa vườn chanh. Có gì là xấu khi mình là hoa chanh nở trên cành chanh. Chừng nào hoa chanh nở trên cành sấu mình mới sợ. Thái Bá Tân gần như đã đạt đến một cảnh giới thần tiên của giọng văn hiền lành (đặt giả thiết nếu như ông phải vật vã đàng chân tu mới có được), còn nếu như bản chất văn của ông lúc nào cũng hiền hòa như thế; sẽ không ngoa nếu ta bảo ông có giọng văn của một vị bụt lọt lòng.
Có giai thoại kể lại Nguyên Hồng đã sửa tiểu thuyết Bỉ Vỏ của mình tám lần rồi mới đưa ra nhà in. Tất nhiên khi đọc Bỉ Vỏ, người không bận rộn chỉ làm nhoáng một buổi tối (và thức hơi khuya) là xong cả một tiểu thuyết. Bởi lẽ văn Nguyên Hồng rất hiền hòa, vắn tắt, mạch lạc. Văn Thái Bá Tân cũng thế. Cũng khúc triết, lôi cuốn, đọc không mệt óc, không mỏi trí. Văn Thái Bá Tân giống như một ca khúc hay, đệm nhạc tốt, giọng hát truyền cảm, người nghe sẽ sướng, không thấy tai mình, óc mình bị tra thúc, ấn ép. Vì thế sức mạnh của văn Thái Bá Tân đến từ sự mềm mại chân tình, không cần đến những thủ pháp màu mè, chèn độn, hoa lá cành nào cả.
IV. Tài Nghệ Hư Cấu Của Thái Bá Tân
Thái Bá Tân độc đáo không chỉ ở cách viết văn hiền hòa, một thế mạnh khác của Thái Bá Tân là khả năng hư cấu. Tất nhiên Thái Bá Tân không hư cấu giống Bác Ba Phi (một nhân vật truyền thuyết của văn chương dân dã miền Nam), nhưng đọc văn Thái Bá Tân, yếu tố hư cấu được phô bày một cách rất toạc mõm heo; mắm tôm có hương vị của mắm tôm, chẳng việc gì phải lây nhây, kèn cựa, che đậy, vá víu. Vì thế hư cấu của Thái Bá Tân chinh phục người đọc bằng một sự chấp nhận rất đỗi hữu xạ tự nhiên hương.
Thái Bá Tân có cái hay của một cây bút biết tạo cảnh, phối trí, sắp xếp các tình tiết rất lôi cuốn, ly kỳ, như có bỏ bùa, gắn bả, hoặc có mồi nhử nữa (nên dẫu biết cụ đang bốc đấy, nhưng cứ để yên, gượm cái đã, xem coi cụ bốc đến cỡ nào, có đủ phét hay không). Đấy. Cái hay của Thái Bá Tân là thế. Chết là chết ở cái chỗ ấy.
Vì lẽ đó văn Thái Bá Tân có một sự lôi cuốn rất lạ. Sự tự nhiên trong những tình tiết đã mở toang những cánh cửa bản đề khô mỡ. Ông chân thật lắm. Đời có gì xấu xa đâu mà đậy che. Mà cái đẹp của đời chắc gì đã khá hơn để mà khoe mẽ. Khát thì chum sẵn nước, cứ tự nhiên mà vục gáo. Đói. Nhà có rổ khoai luộc, rãi hiều hơn củ, xơ đấy, nhưng các bác không ngại thì xin cứ ngồi vào, đừng khách sáo. Cái hay trong hư cấu của Thái Bá Tân là cái hư cấu đầy hứng thú theo kiểu khi có bạn bạn thân trà hóa thành rượu, dong luộc hóa thành sâm
BÌNH LUẬN VỀ VĂN XUÔI THÁI BÁ TÂN
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus)
Tâm Sự Của Người Chuyển Ngữ
Thú thật khi có dịp đọc những truyện ngắn của Thái Bá Tân, niềm xúc động trỗi lên và tôi như bị thôi miên, lên cơn sốt, như lậm phải ngải, thế là ý định muốn được chuyển ngữ những truyện ngắn của Thái Bá Tân đã ập đến. Biết ông có những truyện ngắn được chuyển ngữ sang Tiếng Anh, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn bị cuốn vào sự thu hút khó cưỡng lại. Và tôi đã nghĩ Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học của chúng ta sẽ vinh dự biết bao về sự có mặt hiện diện của Thái Bá Tân. Và vì yêu mến những truyện ngắn của ông, tôi đã âm thầm chuyển ngữ những truyện ngắn mà tôi yêu thích.
Trên tay các bạn là tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) gồm những truyện ngắn của Thái Bá Tân. Tất nhiên ông không đặt tên cho bất cứ truyện ngắn nào của mình là Tình Khúc Hoa Sen cả. Song khi đọc những truyện ngắn của ông, chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ về loài hoa sen. Loài hoa của dân tộc Việt, loài hoa của Phật, của sự thanh cao, của: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ đó tôi đã nghĩ đến cái tên Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) và tôi quyết định chọn tên này để tôn vinh những dòng viết của Thái Bá Tân – Những dòng viết của một tâm hồn, một con người, với tôi – Ông thực sự là một nhà văn lớn, mặc dù có thể Thái Bá Tân sẽ thầm trách tôi: Cậu nói thế là có phần quá lời rồi. Thế là cậu đang hại tôi rồi, Nguyễn Thơ Sinh ơi.
Bản thân Thái Bá Tân là vậy. Văn ông là cuộc đời của ông. Chẳng hiểu sao tôi luôn nghĩ thế. Những trang viết của ông luôn hiền lành. Những câu văn mềm và hiền như cháo cảm. Những câu chuyện chan chứa ân tình. Những bài học nhân nghĩa. Những cái nhìn đầy khoan dung, độ lượng. Đọc văn ông tôi có cảm giác đi vãn cảnh chùa, được tịnh thân, được hầu truyện cùng sư cụ tại một ngôi chùa cổ giữa núi rừng hoang vu.
Rồi tôi nhớ trong Kinh Thánh Tân Ước theo Thánh Lu-ca có viết một câu: Người tốt thể hiện tánh thiện vì tánh thiện chất đầy trong lòng mình, kẻ ác để lộ điều bất nghĩa từ trái tim họ. Vì từ trái tim đã tràn đầy, những điều ác thiện sẽ được cất lên thành tiếng. (The good man brings good things out of the good stored up in his heart, and the evil man brings evil things out of the evil stored up in his heart. For out of the overflow of his heart his mouth speaks. - Luke 6:45). Vận vào trường hợp Thái Bá Tân, tôi thấy có phần thật rất đúng.
Văn học Việt Nam có nhiều cây bút để lại trong tôi nhiều ấn tượng. Dĩ nhiên mỗi cây bút có những nét riêng, những dấu ấn để đời khác nhau. Nên nếu ví mỗi cây bút như vẻ đẹp của hai cô con gái nhà họ Vương, theo lời cụ Nguyễn Du thì mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Và tôi biết rõ ấn tượng trong văn chương có thể nói rất chủ quan, rất cảm tính cá nhân. Văn của ai hay và văn của ai đó hay hơn, đó là sự đồng cảm và thẩm thấu rất riêng giữa bạn đọc và một tác giả. Có người yêu Tô Hoài. Có người nghiện Nguyễn Tuân. Có người say Khái Hưng. Có người mất ăn mất ngủ với Nguyễn Ngọc Tư. Với bản thân mình, tôi quý văn Thái Bá Tân ở chỗ ông là người duy nhất cho tôi cảm giác được đọc lại những dòng của Nam Cao thuở nào.
Tôi chưa một lần gặp Thái Bá Tân. Càng mới chỉ biết đến ông qua sự mở rộng của thời đại thông tin (internet). Và rồi khi có cơ hội được đọc những dòng ông viết, tôi sửng sốt. Sự ngưỡng mộ về những điều ông viết khiến tôi nhận ra (nơi văn chương của ông) những bóng dáng của trúc, của sen, của thông, của lúa, của sợi muống, dây cà, củ dong, khóm riềng… Gần gũi và đậm đà những nét chân phương hiền hòa dân tộc.
Và tôi đã không thể cưỡng lại mình được. Tôi nghĩ đến độc giả của Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học. Tôi nghĩ đến tình cảm của độc giả giành cho tủ sách này. Và tôi hy vọng đây sẽ là một món quà ý nghĩa. Từ suy nghĩ đó, tôi mạo muội chuyển ngữ một số truyện ngắn của ông gồm:
Món Quà Tặng Mẹ (The Gift for Mother)
Tập Xe Đạp (Learn to Ride a Bike)
Hai Chiếc Gương (The Two Mirrors)
Người Không Nhớ Tên Mình (The Woman Who Could Not Recall Her Name)
Nhân Quả (Bad Karma)
Hà Nội Những Ngày Trước Tết (Hanoi A Few Days before Tet)
Sa Pa Mây Phủ (Cloudy Sapa)
Người Rách Bóng (The Person with Torn Shadow)
Người Vợ Lý Tưởng (The Ideal Wife)
Người Khổng Lồ Mắt Xanh (The Giant with Blue Eyes)
Đổi Đời (Changing of Fate)
Thái Bá Tân là một nhà giáo. Tôi đã được đọc những dòng cảm xúc do người học trò của ông bày tỏ thái độ và lòng tri ân của họ. Tôi thật sự ngưỡng mộ ông và thầm ganh tị. Tất nhiên tôi, khi đọc những dòng Thái Bá Tân viết, càng cảm thấy mình muốn được là học trò của ông (cũng như tôi đã từng nghĩ mình là học trò của Trịnh Bích Ngân) vì tôi đã học hỏi được những thủ pháp trong sáng tác nơi hai cây bút Thái Bá Tân và Trịnh Bích Ngân. Và lần này tôi mong rằng Thày Thái Bá Tân sẽ rộng lòng cho phép Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học có được những tác phẩm độc đáo của ông.
III. Mạch Văn Của Một Nguyễn Bính
Nếu như văn Thái Bá Tân khiến tôi nghĩ đến Nam Cao (trong văn xuôi) bằng khả năng sử dụng ngòi bút diễn tả những mạch văn mềm mại và hiền hòa, rất rau luộc và cá kho, giản dị chân thành; thì trong vương quốc thi ca, văn Thái Bá Tân đã khiến tôi nghĩ đến thi sĩ Nguyễn Bính – Vua thơ lục bát – Người đã viết những vần thơ trong lành như hương thơm của khế chín, như vị ngọt của bòng đầu vụ, của mùi lạc luộc ngậy bùi, của nước mưa múc ra từ vại đất nung bằng cái gáo dừa… Hiển nhiên văn Thái Bá Tân đã khiến tôi xúc động vì tính chất trong trẻo, dân dã, hiền lành ấy.
Nếp dẻo, khoai từ bùi ngậy, sắn bở, dong ngọt… Những tố chất điềm đạm hiền lành chắt chiu của phù sa dân tộc rất đỗi quen thuộc ấy, theo mạch nhìn đời của Thái Bá Tân, ướp vào trái tim của một kẻ biết quý trọng chữ tâm hơn là mải lo đánh vật với những biển lận cong queo. Để rồi mạch văn của Thái Bá Tân trở thành trong sáng, gần gũi, thanh cao như vừng bánh đúc bên cạnh bát mắm tôm sủi bọt. Như trăng mười sáu. Như cau bánh dày. Như trà mạn. Như tâm sự của một kẻ suốt đời nặng lòng với mảnh đất chôn nhau cắt rốn.
Thái Bá Tân từng làm thơ, dịch thơ. Vậy mà văn Thái Bá Tân không sóng sánh mật thơ. Thoạt tưởng có người nghĩ vậy. Nhưng chất nhạc và thang âm bằng trắc trong văn Thái Bá Tân thực sự rất tuyệt vời. Văn ông đọc trơn tru, trong trẻo, không vỏ cua, gai tôm, càng không giương đông kích tây về mặt thủ pháp. Tuồng như trong văn Thái Bá Tân mọi cái đều rất tự nhiên. Cá tươi làm gỏi ắt sẽ ngon, lạc giồng đẫy ngày luộc lên khắc sẽ bùi, ngô non tất phải ngọt… Và như thế văn Thái Bá Tân như một món ăn không cần đến mì chính, chất phụ gia, hàn the hay đường hóa học. Văn ông mịn màng, hiền lành, điềm đạm và chân thật. Thứ văn chỉ những cây bút sau khi chồn tay (đắc đạo) mới nghĩ đến. Thứ văn chương không còn tơ màng đến cái thời khua múa, leo trèo. Cuối cùng rồi thì cái gì cũng thế. Cỏ phía bên đó non hơn ư? Núi bên kia lam hơn ư? Rồi thì con ngựa chạy mãi, cuối cùng thấy ở đâu cỏ cũng úa như nhau. Nó chán. Nó hí vang: Chân lý ư? Trò ảo cả. Phải chăng chân lý (tất cả) nều nằm ở lẽ tự nhiên. Mà đã là lẽ tự nhiên thì chẳng phải tra đường mật ong mới ngọt, hoặc chẳng cần chất rơm mồi lửa thì mặt trời mới đỏ hực mỗi ngày.
Văn Thái Bá Tân đọc sướng lắm. Cái sướng của mình được ở nhà mình. Cái sướng được ngồi gần mẹ, được ăn sắn luộc bở tơi chấm với muối vừng. Cái thời trẻ tuổi, bụng cao dạ dốc, ăn nứt rốn mới thôi. Cái sướng của điếu thuốc lào kéo một hơi dài, sòng sọc, sảng khoái. Cái sướng của tắm ao, của ngủ ngày, và cả cái sướng theo kiểu còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau. Cái sướng của lý lẽ mình chẳng phải hổ thẹn với ai. Nói chuyện với mình, với đời, oang oang như đang hét toáng vào hai đầu gối. Đó là những cái sướng độc giả chỉ tìm thấy ở nơi Thái Bá Tân rất hiếm thấy ở những cây bút cùng thời với ông.
Cứ thế, Nguyễn Bính tài hoa với những vần thơ lục bát có thể khiến hoa dong phải đỏ môi hơn, hoa bòng phải vội vã mỉm cười, để trai tài gái đẹp có thể mượn khung cửi, mượn sợi tơ, tỏ tình bằng cánh bướm, lung linh huyền ảo. Thái Bá Tân qua một ngả khác, bằng văn xuôi, đong đưa chiếc võng đay cáu mùi mồ hôi, thế mà giấc nồng ngày hè bỗng dưng trở thành huyền thoại, trở thành ký ức; lóc tủy chẻ óc tìm không thấy, mà hễ đưa tay sờ lên ngực lại thấy phình phịch đập. Kể ra viết văn mà được như thế thấy nó cũng sướng. Gì chứ, viết mà không thẹn với cây bút và trang giấy, với bàn phím và màn ảnh, âu đó cũng là một cái thú của người phu chữ xưa nay.
Thế mạnh của Thái Bá Tân là khả năng sử dụng ngôn ngữ hiền lành giản dị (vốn nhiều cây bút trẻ, kể cả những cây bút trước ông, cùng thời, và thế hệ sau này đều cảm thấy khó nuốt). Gần như người ta nghĩ: Đã viết văn thì văn phải khác đi những sự bình thường. Mà họ nghĩ thế cũng đúng. Giữa một con phố sầm uất, hàng phở, hàng cơm, hiệu cao lâu, cơm tầu, cơm tây, lủ khủ ê hề, ai lại dám bày ra mẹt bánh đúc hay gánh bún ốc. Cứ như thể người ta sợ hãi phải trở thành đơn giản, thành gần gũi. Ngại sự quê mùa. Sợ người chê bai, cho là mình hai lúa quá, chân đen mắt toét.
Còn Thái Bá Tân thì không thế. Ông là người khá lạ lẫm trong việc giữ chặt cho mình cái mai rùa quê kệch, mốc meo, rơm rạ. Ông không gia giảm chế biến kho tàng ngôn ngữ dân tộc bằng những kiểu thức lạ mắt, lạ tai. Ông chỉ biết rau muống nếu không ăn sống thì luộc. Hoặc buồn buồn nấu canh với tôm khô. Hoặc xào. Thế thôi. Ông không nghĩ đến chuyện phải có nồi lẫu rau muống mới ngon, hoặc món rau muống xào gan dê, hoặc rau muống ninh chao, bóp gỏi, trộn gừng, nướng vỉ…
Thái Bá Tân rất gần với Nguyễn Bính ở chỗ cả hai đều nặng lòng với hoa xoan, hoa chanh, với dậu mồng tơi, với khung cửi. Cả hai đều thành tài, học cao hiểu rộng, đi xa biết nhiều, vậy mà vẫn hiền hòa trong cách nhìn, cách nói. Có lẽ do học ăn, học nói, học kỹ đến cả cách học gói, học mở; đâu ra đấy, nên sự hiền lành chất phác chẳng thể nào mất đi được. Vì thế trong văn Thái Bá Tân luôn lấp lánh những nụ cười hạt huyền, những dải yếm đào, và cái váy hiền hòa của bờ ao trinh bạch.
Như Nguyễn Bính viết: Hoa chanh nở giữa vườn chanh. Có gì là xấu khi mình là hoa chanh nở trên cành chanh. Chừng nào hoa chanh nở trên cành sấu mình mới sợ. Thái Bá Tân gần như đã đạt đến một cảnh giới thần tiên của giọng văn hiền lành (đặt giả thiết nếu như ông phải vật vã đàng chân tu mới có được), còn nếu như bản chất văn của ông lúc nào cũng hiền hòa như thế; sẽ không ngoa nếu ta bảo ông có giọng văn của một vị bụt lọt lòng.
Có giai thoại kể lại Nguyên Hồng đã sửa tiểu thuyết Bỉ Vỏ của mình tám lần rồi mới đưa ra nhà in. Tất nhiên khi đọc Bỉ Vỏ, người không bận rộn chỉ làm nhoáng một buổi tối (và thức hơi khuya) là xong cả một tiểu thuyết. Bởi lẽ văn Nguyên Hồng rất hiền hòa, vắn tắt, mạch lạc. Văn Thái Bá Tân cũng thế. Cũng khúc triết, lôi cuốn, đọc không mệt óc, không mỏi trí. Văn Thái Bá Tân giống như một ca khúc hay, đệm nhạc tốt, giọng hát truyền cảm, người nghe sẽ sướng, không thấy tai mình, óc mình bị tra thúc, ấn ép. Vì thế sức mạnh của văn Thái Bá Tân đến từ sự mềm mại chân tình, không cần đến những thủ pháp màu mè, chèn độn, hoa lá cành nào cả.
IV. Tài Nghệ Hư Cấu Của Thái Bá Tân
Thái Bá Tân độc đáo không chỉ ở cách viết văn hiền hòa, một thế mạnh khác của Thái Bá Tân là khả năng hư cấu. Tất nhiên Thái Bá Tân không hư cấu giống Bác Ba Phi (một nhân vật truyền thuyết của văn chương dân dã miền Nam), nhưng đọc văn Thái Bá Tân, yếu tố hư cấu được phô bày một cách rất toạc mõm heo; mắm tôm có hương vị của mắm tôm, chẳng việc gì phải lây nhây, kèn cựa, che đậy, vá víu. Vì thế hư cấu của Thái Bá Tân chinh phục người đọc bằng một sự chấp nhận rất đỗi hữu xạ tự nhiên hương.
Thái Bá Tân có cái hay của một cây bút biết tạo cảnh, phối trí, sắp xếp các tình tiết rất lôi cuốn, ly kỳ, như có bỏ bùa, gắn bả, hoặc có mồi nhử nữa (nên dẫu biết cụ đang bốc đấy, nhưng cứ để yên, gượm cái đã, xem coi cụ bốc đến cỡ nào, có đủ phét hay không). Đấy. Cái hay của Thái Bá Tân là thế. Chết là chết ở cái chỗ ấy.
Vì lẽ đó văn Thái Bá Tân có một sự lôi cuốn rất lạ. Sự tự nhiên trong những tình tiết đã mở toang những cánh cửa bản đề khô mỡ. Ông chân thật lắm. Đời có gì xấu xa đâu mà đậy che. Mà cái đẹp của đời chắc gì đã khá hơn để mà khoe mẽ. Khát thì chum sẵn nước, cứ tự nhiên mà vục gáo. Đói. Nhà có rổ khoai luộc, rãi hiều hơn củ, xơ đấy, nhưng các bác không ngại thì xin cứ ngồi vào, đừng khách sáo. Cái hay trong hư cấu của Thái Bá Tân là cái hư cấu đầy hứng thú theo kiểu khi có bạn bạn thân trà hóa thành rượu, dong luộc hóa thành sâm
Vì thế trong tất cả những câu chuyện của ông, Thái Bá Tân không câu nệ cái nhẽ người ta sẽ tra hạch, vạch vọi, bới tìm. Thái Bá Tân (hơi ương gàn bướng bỉnh) ở chỗ coi văn chương chỉ là cái nồi đồng. Còn nấu nướng cái gì thì cứ hậu xét đã. Vào rừng mà không có cái nồi mới lo, chứ nào ai lo vào trong rừng có cái gì để nấu. Vì thế văn chương chỉ là phương tiện để sẻ chia, để gióng lên tiếng lòng mới là trách nhiệm. Món nấu có ngon hay không thì rau non sẽ ngọt, thịt tươi ắt sẽ ngon. Còn khi anh đói, xơi tất, cái gì cũng được, bảo thế có ngoa, có oan hay không, các vị?
Vì Thái Bá Tân nắm vững quan điểm sáng tác của mình, nên ông không còn ưu tư chuyện mình sẽ bị người ta vỗ cho: Lại bốc rồi! Song ông sử dụng hư cấu (và thủ pháp xây dựng bố cục) để chuyên chở những thông điệp rất con người. Đó là thứ can đảm cận với chân lý, rất bản chất. Ông giống như con thiêu thân, thấy lửa là lao vào, cũng may đấy chỉ là ngọn đèn điện, không bị thiêu chết, nhưng vẫn cứ khỏe lao đầu vào ánh sáng, không cưỡng lại được. Vì vậy những câu chuyện của ông đọc lên biết rõ là hư cấu đấy, nhưng lại đáng đọc, đáng tin, đáng để suy gẫm, đáng để truyền khẩu, chuyền tay.
Đọc các truyện ngắn trong tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) của Thái Bá Tân, từ chuyện ông già người Pháp trở lại Hà Nội tìm ân nhân, nhân vật đứa ở tên Tý đổi đời, chuyện người con mua quả dừa cho mẹ, chuyện người đàn ông có cái bóng bị rách, hay chuyện một nhà nghiên cứu triết học thành công trong sự nghiệp nhưng thất bại trong tình yêu, một ông cụ thợ mài dao bất hạnh, cả một đời mặc cảm tội lỗi, lo âu, chuyện một thày giáo gốc Hà Nội được điều lên Bản Vẹo (ở Sapa) khỉ ho cò gáy nảy nở một mối tình đầy bi kịch… Tất cả đều hầm hập những hình ảnh hư cấu, (có thể chí ít nó được hư cấu hóa từ thực tế kinh qua của tác giả), vậy mà độc giả yêu mến những cái mớ hư cấu ấy. Nói khác đi người ta tìm thấy sự thật trong những điều ông hư cấu. Toạc hẳn ra. Còn hơn lắm đứa, vỗ phèng, gõ mõ, um oe ầm cả lên, toàn là sự thật cả, thế mà đãi đúng ba hôm, mòn cả đũng váy, mà rồi cũng chỉ thấy rặt toàn là cuội cả!
Vì thế đọc văn Thái Bá Tân, cái sướng là sướng ở chỗ được gãi đúng chỗ.
V. Đặc Tính Nhân Văn Trong Truyện Ngắn Thái Bá Tân
Văn Thái Bá Tân là văn của tấm lòng. Vì thế những câu chuyện của Thái Bá Tân không ác độc. Lẽ ra phải nói đúng hơn là cái ác trong văn Thái Bá Tân là cái văn của đĩ thõa hoàn lương, kẻ cướp buông đao thành phật, xấu cải tà, gian qui chánh. Văn Thái Bá Tân là văn kể những câu chuyện ma xin từ bỏ áo giấy, bụt nhường áo cà sa, nẻo chánh đạo mọc mầm từ lương tri, nở những đóa mặt trời, rọi vào ngục đời để chân dung Chân Thiện Mỹ được mở rộng thênh thang cõi lòng bồ tát.
La liệt trong những trang viết của Thái Bá Tân là những câu chuyện răn đời, thế mà chẳng hề giáo điều, sáo rỗng, mỵ dân. Văn Thái Bá Tân rất con người. Ông không hề nỡ ruồng bỏ (mặc dầu đã có lúc tưởng như ông cũng sẽ suy nghĩ, kết án rất tầm thường như nếp nghĩ của cõi ta bà, thế tục) để rồi nhân vật của mình bị chết đuối. Thái Bá Tân không muốn, càng không thể nhìn thấy những nhân vị bị đục khoét, bị ăn cắp.
Vì thế ông viết để nhủ đời. Khuyên bảo hay răn dạy, ai nghĩ sao tuỳ hảo ý. Có lẽ Thái Bá Tân đọc nhiều, tiếp cận với những tư tưởng lớn, lại có cơ duyên của một người thích gieo trồng hạt thiện. Để rồi từ những dòng ông viết, ta thấy ảnh hưởng của những cây bút lớn như Azit Nexin của Thổ Nhĩ Kỳ, Oscar Wilde của Ái Nhĩ Lan, Bồ Tùng Linh và Lỗ Tấn của Trung Quốc, Nam Cao của Việt Nam… Tất cả đều giống nhau ở chỗ giá trị con người (bất luận được nhìn từ góc độ nào) vẫn giữ được nguyên vẹn hình hài khởi thủy, dẫu lõa thể hay được quấn vòng nguyệt quế, vẻ đẹp của nhân vị con người luôn luôn là hạt ngọc sáng nhất trong kho báu những hạt ngọc do bàn tay Hóa công tạo dựng.
Thái Bá Tân yêu con người. Có lẽ rõ nét nhất trong tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) của ông, Thái Bá Tân đã viết về cô gái tên Tý trong truyện ngắn Đổi Đời (Changing of Fate). Lẽ ra Thái Bá Tân có thể dừng lại (cách mà Oscar Wilde đã dừng lại với nhân vật Dorian Gray của mình trong tiểu thuyết duy nhất của ông Chân Dung Dorian Gray), lẽ ra nhân vật Tý sau khi nhờ tài buôn hương bán phấn mà trở thành bà Diễm Hạnh sẽ bị quả báo, như thế sẽ thỏa mãn được khát khao rất chung, mà cũng có vẻ rất tầm thường của cõi thị phi. Nhưng Thái Bá Tân đã vén sạch những dây nhợ rừng rú, đào bới bằng những ngón tay của chính mình, moi lên những ước mơ đã bị lãng quên từ đá cuội, để rồi mặt trời bao giờ cũng tỏa ánh hào lung linh sau mỗi lần bão tố.
Đời người qua lăng kính văn chương của Thái Bá Tân luôn giữ được những nét đẹp của ngọc thạch. Trong đó Thái Bá Tân là một người thợ ngọc tận tâm với nghề cắt gọt. Những viên đá qua tay ông bỗng có hồn, đẹp lung linh đến độ khó ngờ. Chuyện ông lão mài dao và cuộc đời ông trong quá khứ. Ông lấy cái chết của mình để gột rửa. Ta không ghét ông lão. Ta cũng không thấy ông đáng thương hại. Ta mừng. Ông đã được giải phóng bằng sự chuộc lỗi cao cả nhất. Đó là cách ông chịu trách nhiệm đón nhận bản án từ tòa án lương tâm của chính trái tim mình (trong truyện Nhân Quả - Bad Karma). Còn trong truyện ngắn Hà Nội, Những Ngày Trước Tết (Hanoi A Few Days before Tet), một người đàn ông Pháp đã trở lại Việt Nam tìm người ơn trong thời chiến. Những tuyến nhân vật và các tình tiết được xây dựng, không phải để thanh minh biện bạch cho đâu là đúng, đâu là sai; mà là sự khắc họa bổn phận lương tri, của những tâm hồn đã vượt qua cõi ý thức hệ để xích lại gần hơn với bản chất con người.
Vì vậy chất người trong văn Thái Bá Tân chính là chất sống đã cung cấp cho bản thân ông, và cho cả đời những chất xúc tác cần thiết để các phản ứng hóa học lương tri có cơ hội cất cánh.
Làm chim, bầu trời rộng và xanh đến thế mà không dám cất cánh bay bay, như thế sẽ thật uổng phí một đời làm chim. Đó là điều Thái Bá Tân muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta vậy.
VI. Cảm Ơn Một Cây Bút Có Lòng
Cảm ơn Thái Bá Tân, cảm ơn một cây bút có tấm lòng. Cảm ơn một nhà văn đã viết từ những lưu cữu trăn trở, từ những bộc bạch của quả nhà, cây vườn, mộc mạc thôi mà vẫn đủ sức mạnh để chúng ta nhận ra một chân lý: Giữa bùn vẫn có hương sen nồng đượm ngát thơm.
Thái Bá Tân viết văn bằng âm nhạc của tấm lòng. Âm nhạc có sức chuyên chở rất lớn. Và âm nhạc có thể đánh động lòng thiện. Âm nhạc có thể nuôi dưỡng lương tri. Nó là thứ lương thực để biến cuộc sống con người trở nên bớt nhàm tẻ, bớt cằn cỗi, và mỗi lúc mỗi thêm thăng hoa, nếu như người ta mở cửa để cho âm nhạc chân chính đi vào tâm hồn của họ. Quả nhiên vậy, mỗi áng văn của Thái Bá Tân là một khúc nhạc. Ông viết văn bằng nhạc lý của nhân văn, bằng sự phối âm của trách nhiệm. Và rồi những giai điệu trong văn Thái Bá Tân là giai điệu của một vở nhạc kịch đầy biến tấu, nơi đó hình hài chân dung con người bao giờ cũng bật sống dậy, vươn thành những vũ khúc có thể nối kết giữa ngàn năm đã qua và những ngày mai đây sẽ đến.
Cảm ơn Thái Bá Tân. Cảm ơn một nhà văn của tấm lòng. Một nhà văn đã góp phần để Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học của chúng ta có thêm những tác phẩm hay, những bài học không phải chỉ giúp chúng ta có cơ hội trau dồi Anh Ngữ, luyện đọc, luyện tư duy, song đó còn là những bài học để chúng ta rèn luyện bản thân, xích lại gần hơn với đời, với tha nhân.
VII. Chia Tay Thái Bá Tân
Chia tay nhà văn Thái Bá Tân, có lẽ các bạn sẽ có cùng suy nghĩ với tác giả chuyển ngữ tập truyện ngắn Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) mong rằng đây không phải là tập truyện ngắn duy nhất của ông giới thiệu trong Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học. Với những truyện ngắn đặc sắc và ấn tượng như thế, văn chương của Thái Bá Tân nhất định sẽ giúp tủ sách của chúng ta được thêm phong phú, chất lượng hơn.
Chia tay nhà văn Thái Bá Tân, tác giả chuyển ngữ tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) muốn được chia sẻ với các bạn đó là cảm giác dễ chịu khi làm việc với tập truyện ngắn này. Một phần lớn bởi lẽ lối viết của Thái Bá Tân rất dễ dịch sang Anh Ngữ. Vì vậy các bạn khi đọc phiên bản tiếng Việt của tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus), xin hãy mạnh dạn có những câu dịch của riêng mình, vì điều này không khó thực hiện, song phần thưởng nhất định sẽ đem lại những lợi ích lâu dài cho các bạn.
Một điều nữa tác giả chuyển ngữ tập Tình Khúc Hoa Sen (Love Songs of Lotus) xin nhân đây thưa cùng tác giả Thái Bá Tân; một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật chuyên về Tiếng Anh - Hãy đón nhận bản dịch này bằng một tình thương của một người thày đối với đứa học trò chưa một lần đến lớp của thày học.
Cổ nhân có câu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Một chữ cũng là thày, nửa chữ cũng là thày. Huống chi Thày Thái Bá Tân đã cho chúng ta nhiều chữ. Trong đó chữ tâm là chữ khiến tất cả chúng ta xúc động nhiều hơn cả.
Vâng. Thay mặt tất cả những ai đã yêu mến và ủng hộ Tủ Sách Học Tiếng Anh Qua Tác Phẩm Văn Học, em xin được gởi đến thày Thái Bá Tân lời chúc sức khỏe, lời cảm ơn, cùng với những tình cảm chân thành nhất đối với một người thày đã dạy nhiều thế hệ những bài học quý giá, bài học của tấm lòng, bài học của chữ nhân, chữ nghĩa, và cao đẹp hơn cả là bài học của chữ tâm.
Nguyễn Thơ Sinh
Fort Worth, Hè, 2012.
_____________
TẢN VĂN
1. CHUYỆN CÂY CHUỐI
Cả đời mình, mỗi cây chuối chỉ
cho một buồng quả, và khi buồng quả ấy bị cắt, nó sẽ chết. Đó là quy luật phát
triển tự nhiên của loại cây này.
Tôi biết thế nhưng vẫn ít nhiều
ngỡ ngàng khi nhìn những cây chuối xanh tươi đầy nhựa sống hăm hở trổ hoa,
nghĩa là hăm hở vươn tới cái chết. Hơn thế, tôi cũng buồn cả khi chúng ta, con
người, chúng ta giận dữ, khó chịu nếu có cây nào trong số những cây chuối hiền
lành mềm yếu ấy không chịu chết hoặc không muốn chết vì chúng ta.
2. DAVID
Từ một tảng đá lớn ngẫu nhiên có
ở sân nhà thờ Đômơ, thành phố Flôrenxơ, trong bốn năm Mikêlăngiơ đã làm nên bức
tượng Đavít tuyệt đẹp.
Làm thế nào? Thật đơn giản: nhà
điêu khắc thiên tài lấy chiếc đục sắt bình thường, chiếc búa cũng bình thường,
và rồi hết ngày này sang ngày khác, hết mẩu này đến mẩu khác, ông bóc đi các
chỗ thừa, để lộ dần dần, có thể lúc đầu là vầng trán, đôi mắt, đôi tay, rồi đến
thân người, đôi chân... chi đến một hôm, không còn gì nữa ngoài một chàng trai
bằng đá, cao hơn năm mét, với các đường nét hài hòa, khỏe mạnh và có ma lực hấp
dẫn đủ biến tác giả của nó, một thanh niên hai mươi tư tuổi mới vào nghề, thành
một trong ba người khổng lồ của nghệ thuật Ý thời Phục Hưng.
Thật khó tin rằng từ một tảng đá
thô và xấu xí có thể làm nên một bức tượng vĩ đại như thế. Cũng thật khó tin
một cơ thể sống, hoàn hảo, khỏe mạnh như Đavít đã bị giam trong tảng đá kia
hàng triệu hay thậm chí hàng chục triệu năm trước khi được Mikêlăngiơ đến giải
thoát đưa về với cuộc sống.
Trái đất có nhiều, rất nhiều núi
đá, nghĩa là trái đất còn nhiều, rất nhiều những Đavít bị giam cầm, ngột ngạt.
Và đang chờ người đến giải phóng.
Ai sẽ làm điều đó?
3. MONA LIZA
Về nụ cười bí hiểm của nàng Môna
Liza trong tranh Lêôna đơ Vanhxi đã có hàng đống sách được viết. Suốt bốn, năm
thế kỷ nay biết bao giấy mực, công sức và thời gian đã phí tổn vì nó.
Có người nói: Nàng đang cười
những cái yếu, cái không hoàn thiện của loài người.
Nếu quả đúng nàng đang cười chúng
ta, thì theo tôi, cái đáng cười hơn cả là giữa cuộc sống sôi động, bừa bộn
những việc lớn và cấp thiết đang chờ làm, thế mà suốt bốn, năm trăm năm nay
chúng ta đã để hao tổn chừng ấy giấy mực, chừng ấy công sức và chừng ấy thời
gian cho nụ một cười, hay chính xác hơn, nửa nụ cười. Mà lại trên tranh vẽ.
4. A PHÒNG CUNG
Suốt mấy chục năm Tần Thủy Hoàng
bắt bảy mươi vạn người Trung Hoa dựng một lâu đài bằng gỗ khổng lồ ở Hàm Dương
bên bờ sông Vị, gọi là A Phòng Cung. Một công tình kiến trúc thuộc loại có một
không hai thời cổ đại - chỉ riêng tầng trên của nó đã có thể chứa được mười vạn
người.
Thật vĩ đại! Thật nặng nề! - cái
nặng của sự sáng tạo.
Sau này, khi đánh đổ nhà Tần,
Hạng Vũ cho phóng lửa đốt cháy toàn bộ A Phòng Cung. Theo sử ký Tư Mã Thiên,
phải mất ba tháng mới cháy hết.
Thật ghê gớm! Thật nặng nề! - cái
nặng của sự hủy diệt.
Và hai cái nặng ấy treo ở hai đầu
chiếc đòn gánh đè lên vai bảy mươi vạn người đã dựng nên A Phòng Cung, những
người không được sử dụng và cũng không phóng lửa đốt nó.
5. MÓN QUÀ TẶNG MẸ
Không biết bao giờ và ở đâu,
nhưng có người đã kể tôi nghe một câu chuyện thế này:
Một thanh niên đến hỏi mua quả gì
đấy ở bà bán hàng nọ. Bà kia, khi thấy bảo mua cho mẹ, liền chọn cho anh ta một
quả to nhất, ngon nhất và nói:
- Từ sáng đến giờ biết bao người
mua hàng của tôi, nhưng anh là người đầu tiên hỏi mua cho mẹ. Vì lòng tốt của
anh và vì người mẹ đã sinh ra anh, tôi xin biếu anh quả này.
Bây giờ, bất chợt nhớ đến câu
chuyện trên, tôi đi lại một bà bán dừa, bảo bà ta chọn cho tôi một quả thật
ngon, nhắc to hai lần để mang về Diễn Châu tặng mẹ.
Bà bán dừa ngước nhìn lên, suy
nghĩ một lát rồi thản nhiên bảo tôi:
- Thế thì anh phải tự chọn lấy.
Và cũng không nên quá nhiều lời như thế về món quà anh mua tặng mẹ.
6. TẬP XE ĐẠP
Ngày còn bé tập xe đạp, hễ anh
tôi thả tay ngừng đẩy là thế nào tôi cũng ngã. Mỗi lần ngã, anh tôi lại cốc cho
một cái vào đầu. "Xem đây!" Anh tôi nói rồi dựng xe dậy, tót lên yên
phóng vù đi.
Tôi đứng nhìn theo, tấm tức. Lạ
thật, khi tôi tập có người đỡ cẩn thận, đi chậm như đứng yên một chỗ, thế mà
vẫn ngã. Còn anh tôi, trông kìa, cứ bon bon dễ như chơi mà xe đứng thẳng. Tôi
hỏi tại sao, nhưng anh tôi, có thể đang bực mình, cũng có thể vì không biết trả
lời thế nào nên chẳng nói gì.
Lớn lên tôi hiểu đấy là quy luật
thăng bằng. Còn bây giờ, khi đầu đã hai thứ tóc, tôi lại hay suy nghĩ một cách
triết lý, rằng chiếc xe đạp kia cũng như chính bản thân cuộc sống, nó chỉ tồn
tại và đứng thẳng được trong một sự chuyển động không ngừng về phía trước.
7. LẠI CHUYỆN CÂY CHUỐI
Cây chuối mọc ở bờ ao. Trên đầu
là tán lá xum xuê của cây ổi già, nơi hàng ngày chim đua nhau đến hót. Phía
dưới là mặt nước ao mát lạnh với những bông hoa bèo tây thanh nhã màu tím nhạt.
Chỗ đất nó mọc, ngẫu nhiên cũng là chỗ mầu mỡ nhất, thành ra cây chuối cứ thế
lớn lên, xanh tươi, mơn mởn. Nó thấy cuộc đời xung quanh thật đẹp. Vốn chân
thật và đầy lòng biết ơn, nó muốn làm việc gì đấy thật tốt, thật phi thường để
bù lại những gì cuộc đời đã cho nó.
Thế là, trong niềm hạnh phúc ngất
ngây của mình, cây chuối biết ơn ấy đã trổ một buồng chuối có thể nói phi
thường như nó muốn. Buồng chuối thật to, dài và ngày một lớn thêm, lớn thêm
mãi, đến mức nó kéo cây chuối lệch hẳn về phía ao. Còn cây chuối thì quá vô tư
và hạnh phúc đã không nhận ra điều ấy. Nó vẫn không ngừng vắt kiệt những chất
dinh dưỡng còn lại trong cơ thể mảnh mai, quá ư non trẻ và chưa từng trải của
mình để nuôi lớn buồng chuối.
Một sáng nọ bà chủ nhà ra ao,
thấy cây chuối ngã gãy xuống nước vì không chịu nổi sức nặng của buồng quả quá
lớn. Bà thở dài tiếc rẻ, rồi lấy dao đẵn cây chuối vào làm thức ăn cho bầy lợn
háu đói. Cả buồng quả non cũng chịu chung số phận.
8. NGƯỜI KHÔNG NHỚ TÊN MÌNH
Trong lần điều tra dân số gần
đây, người ta đến hỏi một bà cụ nghễnh ngãng gần tám mươi tuổi ở làng Vĩnh Lộc:
- Dạ thưa, tên cụ là gì ạ?
Phải hồi lâu, khi nhắc lại tới
lần thứ ba, bà cụ mới hiểu và vừa móm mém nhai trầu, vừa thong thả đáp:
- Còn gì nữa, người ta vẫn gọi
tôi là Cố Chuyên.
- Nhưng thưa cụ, đó là tên đứa bé
này, - một người trong tốp cán bộ chỉ đứa bé hai tuổi đang ngồi chơi bên cạnh.
- Trước khi có nó, tên cụ là gì?
- Là Chính, theo tên cháu nội
tôi.
- Thế trước đấy?
- Trước đấy tôi mang tên con gái
tôi.
- Trước nữa?
- Trước nữa tôi được gọi theo tên
chồng...
- Nhưng xin lỗi, cuối cùng thì
tên thật của cụ là gì ạ? - Một người khác sốt ruột hỏi .
- Tất cả những cái tên ấy đều tên
thật, - bà cụ bình thản đáp.
- Không, thưa cụ, chúng tôi muốn
biết tên cụ, tên riêng của cụ cơ. Tên thời con gái ấy.
- Để làm gì?
Người ta lại phải dài dòng giải
thích cho bà cụ hiểu thế nào là điều tra dân số, và tên của cụ đối với họ quan
trọng ra sao.
Bà cụ ngồi im hồi lâu, cố dựng
lại trong đầu óc chậm chạp, lú lẫn của mình những hình ảnh rời rạc đã bị bỏ
quên từ những năm xa xưa mờ mịt.
- Tôi không nhớ nổi, - cuối cùng
bà cụ nói, giọng buồn buồn. - Sáu mươi năm rồi còn gì, và trong suốt chừng ấy
năm, các ông các bà là người đầu tiên nhắc tới chuyện này. Vả lại, tôi còn cần
gì đến nó, cái tên riêng ấy, một khi tôi đã có tên chồng, tên con, tên cháu, và
nay là tên thằng bé này?
Rồi bà cụ quay sang chơi với
cháu. Mấy anh cán bộ điều tra dân số nhìn nhau bất lực, đành ghi vào sổ tên bà
cụ bằng tên của người chồng đã chết cách đây bốn mươi năm.
Ở quê tôi, bao đời nay bố mẹ luôn
được gọi bằng tên con cả, sau con đến cháu, sau cháu đến chút chắt. Một truyền
thống dân dã, mộc mạc và tốt đẹp? Chí ít cũng vô hại? Vâng. Bản thân tôi cũng
thích cái truyền thống ấy. Ở làng người ta luôn gọi bố mẹ tôi là ông Tân bà
Tân. Nhiều người thắc mắc sao mãi đến giờ hai cụ chưa được gọi tên mới là ông
Hiền bà Hiền, theo tên con gái tôi. Vì tôi là con cả nhưng sống ở Hà Nội và dân
làng ít biết tên con gái tôi là Bảo Hiền. Bản thân các cụ cũng lấy làm khó
chịu, thậm chí như thể bị xúc phạm.
Một phong tục đáng yêu, hẳn thế,
nhưng xét kỹ, cũng tàn nhẫn không kém, vì nó nỡ cướp đi cái quí nhất của con
người là tên của họ.
9. ĐIỆU NHẢY CHẬM
Sáng mồng bảy tháng Ba vừa rồi,
ngủ dậy, như thường lệ tôi mở email và nhận được bức thư điện tử của Rodney
Dickson, một người bạn họa sĩ ở New
York. Đây là loại chain letter, tức thư gửi chuyền
nhau qua mạng cho nhiều người khắp nơi trên thế giới, không có tính riêng tư và
thường về một vấn đề xã hội, nhân đạo nào đấy. Rodney nhận được từ ai đó rồi
đến lượt mình gửi cho tôi và một số bạn bè khác của anh. Bức thư mở đầu bằng
mấy dòng của những người tham gia chữa trị cho một bé gái ở New York:
"Các
bạn thân mến,
Xin
hãy gửi bức thư điện tử này cho tất cả những người các bạn quen biết và không
quen biết. Đây là mong muốn cuối cùng của một cô bé chỉ còn sáu tháng nữa để
sống vì căn bệnh ung thư hiểm nghèo. Đây cũng là cách duy nhất chúng ta có thể
mang lại cho em và gia đình em chút ít hy vọng, vì cứ thêm một người nhận được
thư, Hội ung thư Mỹ sẽ tài trợ thêm cho em 3 xu Mỹ để thực hiện nỗ lực cứu chữa
cuối cùng. Có người đã gửi thư này cho 500 người khác. Chúng tôi hy vọng mỗi
chúng ta ít nhất cũng gửi thêm cho 5-6 người nữa. Cô bé New York tội nghiệp đơn
giản chỉ muốn chúng ta đọc bài thơ này của em để sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn,
và quan tâm nhiều hơn đến những người xung quanh.
Bác
sĩ Yeou Cheng Ma,
Giáo sư
Dennis Shields,
Khoa sinh học phân tử và phát triển,
1300 Moris Park Avenue
Bronx, New York 10461"
Và đây là bài thơ của em (không
thấy ghi tên tuổi, sắc tộc và hoàn cảnh gia đình). Một bài thơ hay, cảm động và
đầy triết lý. ít ra, qua nguyên bản tiếng Anh tôi cảm nhận được như vậy. Bài
thơ có nhan đề “Điệu nhảy chậm”, xin tạm dịch như sau:
Cô chú
từng thấy trẻ
Nô đùa
chơi đu quay,
Hay
nghe mưa thánh thót
Rơi
trên từng lá cây?
Từng
thích thú chạy theo con bướm nhỏ
Hay
trầm tư ngắm hoàng hôn rực đỏ?
Nhảy
chậm thôi, nhảy chậm
Để lắng
nghe mọi người,
Vì thời
gian và nhạc
Không
kéo dài suốt đời.
Đã bao
giờ vì vội,
Cô chú
chào rất nhanh,
Vội đến
mức không kịp
Nghe
người khác chào mình?
Và tối
lên giường ngủ,
Vì vội,
ngủ rất mau.
Đã bao
giờ ý nghĩ
Vương
vấn mãi trong đầu?
Tốt hơn
nên nhảy chậm
Để lắng
nghe mọi người,
Vì thời
gian và nhạc
Không
kéo dài suốt đời.
Đã bao
giờ cô chú
Bảo
con: Chờ ngày mai!
Và vì
vội, không thấy
Con
buồn khóc, thở dài?
Hay đã
từng để mất
Một
tình bạn đẹp sao,
Chỉ vì
cô chú bận
Không
nói nổi tiếng "Chào!"?
Nhảy
chậm thôi, nhảy chậm
Để lắng
nghe mọi người,
Vì thời
gian và nhạc
Không
kéo dài suốt đời.
Vì việc
vội, lo kịp đi đâu đấy,
Đã là
mất nửa niềm vui việc ấy.
Và một
khi cứ lo, vội suốt ngày,
Thì
cuộc đời ta để mất không hay.
Không
phải đua tốc độ,
Đời -
bản nhạc không dài.
Hãy
lắng nghe chầm chậm,
Để
không quên, sót ai.
Bài thơ cứ làm tôi bâng khuâng
suy nghĩ mãi. Trước hết về số lượng người đã đọc nó và kèm theo đấy là số tiền
Viện ung thư Mỹ tài trợ để cứu em, nếu có thể. Nó làm tôi nhớ lại câu chuyện về
một cô bé Nhật cách đây bốn mươi năm. Cô
bị nhiễm xạ bom nguyên tử, mắc bệnh máu trắng, và cũng phải nằm nhẩm đếm những
ngày còn lại ít ỏi của đời mình. Cô bé Nhật thơ ngây ấy tin vào một truyền
thuyết cổ nói rằng nếu gấp đủ một nghìn con thiên nga bằng giấy trắng, cô sẽ
khỏi bệnh. Cô không muốn chết và đã lặng lẽ, kiên nhẫn thực hiện ý định của
mình. Biết chuyện, trẻ em của thành phố Hirôshima quê hương cô, của cả nước
Nhật và nhiều nơi khác trên thế giới tới
tấp gửi đến cho cô hàng nghìn, hàng vạn con thiên nga bằng giấy. Dẫu không cứu
được cô, việc làm này của các em đã là một cái gì đấy thật cảm động và đầy ý
nghĩa, khiến người lớn phải suy nghĩ. Nhưng em bé New York lần này không yêu cầu chúng ta cứu
em thoát chết (cái sáng kiến tài trợ của Viện ung thư Mỹ chỉ là ý định đẹp đẽ
của người lớn). Em chỉ muốn trước khi chết nhắn nhủ chúng ta một điều giản dị,
là chúng ta hãy nhảy chậm trong điệu nhảy cuộc đời, (nếu quả thật cuộc đời là
một điệu nhảy), để có thời gian chú ý và quan tâm nhiều hơn đến người khác.
Tôi đọc bài thơ mà như thấy em,
một cô bé không quen biết ở tận bên kia bờ đại dương, đang khiển trách tôi,
rằng suốt mấy chục năm qua hình như tôi đã nói quá nhiều, sống và viết quá ào
ạt, quá nhanh, và do vậy đã bỏ qua không nhìn thấy nhiều điều xung quanh, vui
cũng như buồn, rằng tôi phần nào ích kỷ chỉ biết đến mình, ít đọc để hiểu đồng
nghiệp. Có thể vì luôn vội vã, tôi đã ít chào người khác hoặc người khác chào
mình mà không biết để chào lại. Cũng vì lý do ấy, thật xấu hổ, mãi gần đây tôi mới
biết đến người đồng hương vĩ đại của tôi, nhà đạo học, nhà tư tưởng, giáo sư
Cao Xuân Huy ở cách làng tôi chỉ một cánh đồng. Con người ấy sống thật thanh
thản, thật thiền, ít nói, ít đòi hỏi, chỉ lặng lẽ đọc và suy ngẫm. Trong đời,
con người ấy đi thật chậm, thật khẽ, ấy thế mà đến đích thật vinh quang và dấu
ấn để lại cho đời thật sâu đậm.
Đây chỉ là những ý nghĩ chân
thành, có thể phần nào hơi bột phát của tôi. Tôi hy vọng bài thơ trên sẽ gợi
được ở bạn đọc một vài liên tưởng về bản thân, về bạn bè, công việc và về cuộc
sống nói chung.
Phần tôi, tôi đã nhờ Rodney
Dickson, nếu được, hãy nói với cô bé New York ấy rằng tôi đã gửi bài thơ của em
tới ít nhất 5-6 người (cũng có nghĩa là đóng góp thêm khoảng 20 xu Mỹ cho nỗ
lực cứu chữa em), và rằng tôi cảm ơn em đã nhắc tôi một điều tưởng như rất giản
dị nhưng không phải lúc nào ta cũng nhớ, rằng "cuộc đời không phải cuộc
đua tốc độ, mà chỉ là bản nhạc không dài, và do vậy, phải lắng nghe chầm chậm
để không quên ai, sót ai".
10. ĐÔI TAY ĐẸP
Không hiểu sao tôi cứ bị ám ảnh
mãi bởi một câu chuyện cổ Trung Quốc. Chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng câu
chuyện có nội dung thế này.
Kinh Kha là một thích khách nổi
tiếng của nước Ngụy. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, là tay đâm thuê chém mướn thạo
nghề và rất được tín nhiệm. Với tham vọng thống nhất sáu nước hòng bá chủ thiên
hạ, Thái tử Đan nước Yên đã thuê Kinh Kha giết vua nước Tần là Doanh Chính, tức
Tần Thủy Hoàng. Tiếc rằng lúc này Kinh Kha đang có ý giải nghệ nên không mấy
mặn mà với số tiền công lớn khách hàng đề nghị được trả. Để mua chuộc, Thái tử
Đan cho mở yến tiệc suốt ngày đêm với đủ các thức ngon vật lạ và vô số mỹ nữ
luôn mua vui bên cạnh. Một tối nọ, khi tư lự nghe một nữ công chơi đàn, Kinh
Kha vô tình thốt lên lời khen nàng có đôi tay đẹp. Sáng hôm sau Kinh Kha thấy
người của Thái tử Đan mang đến một hộp quà phủ lụa đỏ. Mở ra thì thấy bên trong
là đôi tay thon nhỏ của cô gái chơi đàn tội nghiệp. Hắn, tên đâm thuê chém mướn
không ghê tay ấy, sững sờ xúc động, cho chôn cất đôi tay cẩn thận rồi lên đường
đi tới nước Tần. Nhưng hắn cố tình không giết Doanh Chính, và đã phải đem mạng
sống của mình trả giá cho việc này.
Câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó
gây ấn tượng đủ mạnh để chúng ta thấm thía hết thân phận bèo bọt của người dân
bình thường, cũng như sự độc ác vô liêm sĩ của những kẻ cầm quyền.
Nó cũng làm tôi nhớ lại chuyện
"Cậu Trời" Đặng Mậu Tôn, em trai Đặng Thị Huệ ngày xưa. Mỗi lần ra
đường, gặp cô gái nào xinh đẹp, hắn liền sai lính chặn lại để hãm hiếp ngay tại
chỗ. Gần đây thôi, chính xác là vào nửa đầu của thế kỷ hai mươi này, ở Liên Xô
cũng có một "Cậu Trời" tương tự. Đó là Bêria, bộ trưởng bộ nội vụ nhà
nước cộng sản đầu tiên trên toàn thế giới. Nếu không bị kịp thời ngăn chặn, hắn
đã có thể leo lên chức đứng đầu đất nước rộng lớn, hùng mạnh này. Có điều, khác
Cậu Trời, hắn không công khai hiếp người trên đường phố, mà thích ai thì bắt về
nhà, và sau khi thỏa mãn thú tính, hắn cho ném những người phụ nữ xấu số ấy vào
một bồn tắm bằng đá hoa cương khổng lồ chứa a-xít để làm "bốc hơi"
xác họ. Việc này kéo dài hàng chục năm không ai biết, hay biết nhưng không ai
dám nói. Nạn nhân của hắn vượt xa con số hai trăm.
Lịch sử thế giới xưa nay không
hiếm những chuyện như thế. Cả những chuyện đã biết và những chuyện chưa biết.
Tôi là một phần rất nhỏ của số
đông những con người bình thường. Hơn thế lại là nhà văn, nghĩa là chẳng khác
mấy so với cô gái đã chơi đàn cho Kinh Kha nghe. Tất nhiên tôi không muốn làm
nạn nhân của người khác, nhưng cũng chẳng bao giờ muốn làm kẻ có quyền sinh
quyền sát. Để khỏi bị chặt tay hoặc phải chặt tay ai đó.
11. CHUYỆN NHÀ CHÙA – 1
Một nhà nghiên cứu văn hóa bất
ngờ phát hiện thấy ở một ngôi đền nọ một sự thật không mấy thú vị. Thì ra suốt
hai trăm năm qua ngôi chùa này (vì những lý do dễ hiểu tôi xin phép không nói
tên, kể cả tên những người liên quan) đã thờ một nhân vật không xứng đáng, thậm
chí còn là người xấu, kẻ đã khôn khéo leo lên bục thờ nhờ mưu mô xảo quyệt.
Ngày xưa những chuyện như thế vẫn xẩy ra, một số vua triều Nguyễn còn có luật
trị nghiêm tội này.
Vậy là bao đời nay hàng ngày
khách thập phương háo hức kéo đến dâng hương lễ, cung phụng, tôn vinh hắn và
nhờ hắn ban ơn giúp đỡ. Còn hắn thì nghiễm nhiên ngồi trên bệ thờ được sơn son
thếp vàng, tôn nghiêm, thánh thiện ngang hàng các vị anh hùng dân tộc.
- Ông không nhầm đấy chứ? - tôi
hỏi nhà nghiên cứu văn hóa kia, cũng là một người bạn của tôi.
- Không. Tôi đã bỏ ra ba tháng
tìm đọc hàng đống tài liệu mới khám phá được vụ này. Hắn là một tên quan xảo
quyệt và đầy quyền lực của triều vua Tự Đức. Quyền lực và sự xảo quyệt ấy của
hắn từng làm nhiều trung thần thiệt mạng, giúp hắn dựng nên chùa này để thờ
chính hắn và một chùa nữa thờ bố mẹ hắn. Nhưng chùa ấy đã bị phá thời cải cách
ruộng đất.
- Thì bây giờ ta phá nốt cái đền
này. - tôi hăng hái nói.
- Không được. - Bạn tôi tỏ ý thất
vọng.
- Vì sao?
- Vì cái thời phá chùa đập tượng
qua rồi. Xã hội văn minh không bao giờ làm những việc tương tự.
- Nhưng đây là đền rổm, tượng
rổm. Hắn đã và đang lừa dối biết bao người.
- Đúng thế. Thời gian đã kịp biến
cái rổm ấy thành di sản văn hóa. Mà di sản văn hóa thì không thể phá được. Hơn
thế, nó lại được xếp hạng, thuộc diện cấm xâm phạm.
- Các ông xếp hạng ấy có biết
không?
- Chắc không. Mà có biết cũng
chẳng làm gì được.
- Cả vị sư trụ trì ngôi chùa?
- Tất nhiên.
- Vậy ông bỏ công khám phá ra cái
sự thật này làm gì?
- Chẳng làm gì cả. Cùng lắm chỉ
để biết người đời dễ bị lường gạt thế nào.
Tôi im lặng, tấm tức không biết
nói gì thêm. Nhận ra điều đó, anh bạn tôi hạ giọng, với giáng vẻ một nhà hiền
triết:
- Cái gì trót đưa lên bàn thờ thì
cứ giữ nguyên ở đó. Không phải mọi cái được tôn thờ đều thiêng liêng. Vả lại
người ta đến chùa này thực chất không vì thằng kia. Thậm chí không biết và cũng
chẵng muốn biết hắn là ai.
Mấy hôm sau có việc đi ngang, hai
chúng tôi lại rẽ vào chùa. Như một người mộ đạo thực thụ, bạn tôi, nhà nghiên
cứu văn hóa có công khám phá điều giả dối ấy, đã thắp một nén hương, kính cẩn
cắm trước bức tượng gỗ tên gian thần. Còn hắn thì từ trên cao khinh khỉnh nhìn
xuống lũ chúng sinh thông minh quá mà thành ngu ngốc đang xun xoe khúm núm
trước hắn bằng cái nhìn ban ơn, với nụ cười giả dối cũng được sơn son thếp vàng
của hắn.
12. CHUYỆN NHÀ CHÙA – 2
Những tiếng cầu xin rất thành tâm,
Những cái chắp tay lễ độ...
Thế mà Phật vẫn làm ngơ -
Phật là người hay là gỗ?
Một ông lão mù lòa
Chìa tay xin những người kia
Rất thành tâm, lễ độ,
Thế mà họ vẫn làm ngơ đi qua -
Họ là người hay là gỗ?
13. CHUYỆN NHÀ CHÙA - 3
Tiếng mõ đều đều.
Tiếng tụng kinh.
Khói. Hoa.
Những ông già bằng gỗ...
Ôi,
buồn sao!
Thế mà những cô gái đáng yêu,
Hiện đại, xinh
Lại lăng xăng trước họ...
Ôi,
buồn sao!
14. VỀ NGHỆ THUẬT – 1
Mới đây có ông bác sĩ người Anh
bỏ ra 33 nghìn đô-la để mua một bức tranh sơn dầu thuộc trường phái hiện đại.
Hiện đại đến mức trên bức tranh ấy không có gì khác ngoài màu trắng của toan
vẽ! Người mua tuyên bố đây là một tác phẩm tuyệt đẹp xứng đáng với chừng ấy
tiền ông ta bỏ ra. Còn hai người bạn thân của ông thì bảo ông điên rồ, dở hơi,
vân vân. Cứ thế họ tranh cãi nhau về "giá trị nghệ thuật". Không ai
chịu ai, cuối cùng dẫn đến ẩu đả.
Chuyện tưởng như đùa nhưng có
thật. Dựa theo đó, người ta đã viết một vở kịch có tên là "Nghệ
thuật" đang được trình diễn ở sân khấu Luân Đôn và một số nơi khác. Cũng
có thật cả việc những "bức tranh" trừu tượng do voi vẽ hoặc súng phun
mực trẻ con té bẩn mà thành, có giá nhiều nghìn đô-la.
Thị hiếu mỗi người một khác, tất
nhiên, và giá trị tác phẩm nghệ thuật, cứ cho bức tranh không vẽ gì kia là một
tác phẩm nghệ thuật, phụ thuộc vào thị hiếu của từng người cụ thể. Tất nhiên
ông bác sĩ kia có quyền tiêu tiền theo cách ông ta muốn.
Tôi là người bảo thủ, không chỉ
trong hội họa mà cả văn chương, âm nhạc và kiến trúc. Có thể đó là hạn chế và
thiệt thòi vì tự tôi tước đi của mình cảm thụ cái đẹp của sự mới mẻ không khuôn
phép. Nhưng như người khác, tôi cũng có quyền giữ cho mình cách đánh giá riêng
về nghệ thuật.
Tôi có dịp đi nhiều nước, thăm
nhiều bảo tàng danh tiếng thế giới. Mỗi lần đứng trước một tác phẩm trừu tượng,
siêu hiện đại kiểu vừa nói, tôi luôn cảm thấy lúng túng không biết nên nghĩ gì.
Tôi không có lý do nào để phủ nhận chúng. Chẳng qua không thích, đơn giản thế
thôi. Và tôi bỏ đi. Tuy nhiên, lần nào trong đầu vẫn quanh quẩn mãi câu hỏi mà
đến bây giờ vẫn không trả lời nổi: Phải chăng đó là những tác phẩm nghệ thuật
đích thực, xứng đáng với lời khen và cái giá của người đời? Còn tôi do ngu dốt
nên không nhận ra giá trị của chúng? Thường những lúc ấy tôi lại nhớ đến câu
chuyện cổ tích nổi tiếng của Andersen về ông vua cởi truồng.
Xin thêm một ý nhỏ: Nếu để ý, ta
sẽ thấy hiện nay số lượng họa sĩ vẽ tranh trừu tượng rất nhiều, còn người vẽ
theo phong cách cổ điển (với nghĩa giống thật) thì ít hơn hẳn. Chắc phải có lý
do của nó. Trong số những người tôi quen biết, không ít người xưa nay vốn xa lạ
với hội họa bỗng dưng đổi nghề thành họa sĩ. Họ cũng mở triển lãm và đôi khi
bán được tranh. Có điều tôi chưa thấy người nào giữa chừng chuyển sang chơi
nhạc cổ điển. Chơi pianô như Đặng Thái Sơn chẳng hạn. Để có thể bước lên sân
khấu, Đặng Thái Sơn phải tập đàn mỗi ngày từ sáu đến mười giờ liên tục trong
hai mươi năm. Ít nhất cũng phải mười lăm năm.
Tháng trước tôi nghịch, lấy toan
vẽ của vợ tôi (cũng một dạng họa sĩ nhưng may chỉ vẽ phong cảnh), bôi nhăng
nhít các màu lên đó, đặt cho cái tên cũng nhăng nhít không kém, rồi đóng khung
đẹp treo lên tường. Mọi người xem không nói gì. Nhưng cũng có người khen đẹp.
15. VỀ NGHỆ THUẬT – 2
Yehudi Menuhin là nghệ sĩ viôlông
hàng đầu thế giới. Ông luôn cảm thấy băn khoăn khi nhiều người than phiền không
mua được vé vào các phòng hòa nhạc lớn để nghe ông biểu diễn.
Một hôm, nghe kể lại, ông cải
trang thành ông già nghèo khổ rồi mang đàn ra Times Square, quảng trường chính
và cũng đông người qua lại nhất ở thành phố New York.
Ông để chiếc mũ nhàu nát trước
mặt, bắt đầu đàn. Ông chọn những bài nổi tiếng nhất, quen thuộc nhất và đàn một
cách say sưa như những lần trình diễn trước công chúng. Có điều lần này không
có ánh sáng rực rỡ của phòng hòa nhạc thượng lưu và những lời tán dương nồng
nhiệt của người giới thiệu. Có lẽ vì thiếu những cái ấy hoặc vì những lý do
khác mà suốt ba giờ liền chẳng ai lắng nghe hoặc chú ý đến ông, trừ một số rất
ít người dừng lại mấy giây, tò mò nhìn hoặc ném cho ông vài đồng xu.
Trời đang chuyển sang đông khá
lạnh, và do yếu tim sẵn, ông đã ngất xỉu trong lúc chơi đàn. Cảnh sát đưa ông
vào bệnh viện cấp cứu, cho thông báo ai là người nhà của một ông già Yehudi
Menuhin nào đó hãy tới bệnh viện để thanh toán viện phí và đưa ông về.
Lần ấy ông ốm khá nặng. Đó là cái
giá ông phải trả cho ý định kiểm tra trình độ thưởng thức nghệ thuật của người
đời. Sau đó ông lại tiếp tục biểu diễn ở các phòng hòa nhạc danh tiếng của
chính cái thành phố New York ấy và cho chính những con người đã thờ ơ đi qua
ông trong suốt ba giờ khi ông chơi đàn ở quảng trường Times. Như trước, ông lại
tiếp tục được nghe những lời than phiền về việc khó mua vé các buổi ông biểu
diễn.
Tất nhiên có sự khác nhau giữa
ông già nghèo khổ mà ông cải trang và nghệ sĩ bậc thầy Yehudi Menuhin, một
người New York chính gốc (sinh năm 1916 và hiện còn sống) nhưng mang quốc tịch
và tuớc hiệu quí tộc Anh cùng vô số phần thưởng cao quí của nhiều nước khác.
Nhưng tiếng đàn của ông thì chỉ một.
Câu hỏi được đặt ra là: Phải
chăng đôi khi giá trị một tác phẩm nghệ thuật ở chính cái tên con người tạo ra
nó chứ không phải ở bản thân tác phẩm ấy?
16. VỀ NGHỆ THUẬT – 3
Có một chi tiết người đời ít biết
về Tần Thủy Hoàng, tên bạo chúa thời Trung Hoa cổ đại từng ra lệnh đốt sách và
chôn sống các nhà nho. Đó là việc hắn, một kẻ căm ghét văn hóa như vậy, lại
cũng rất yêu âm nhạc.
Cao Tiệm Ly thổi sáo rất hay, đến
mức mặc dù biết ông là người của nhóm định giết hắn không thành và đáng lẽ phải
bị xử trảm như nhiều người khác, Tần Thủy Hoàng vẫn cho ông sống để hàng ngày
thổi sáo hắn nghe. Có điều, đề phòng bất trắc, hắn chọc mù cả hai mắt ông. Hắn
không ngờ người nghệ sĩ mù ấy vẫn nuôi chí căm thù, và đã lén đổ chì vào ống
sáo chờ dịp đánh vào đầu hắn.
Nếu Tần Thủy Hoàng không lâm bệnh
chết đột ngột, rất có thể sứ mạng giết hắn, kẻ hủy diệt văn hóa, sẽ được trao
cho người sáng tạo văn hóa là Cao Tiệm Ly.
Ở đây có hai điều đáng suy ngẫm:
Một bạo chúa biết yêu âm nhạc, và một nghệ sĩ có ý định giết người, cho dù
người ấy đáng bị giết.
17. VỀ SỰ NỔI TIẾNG
Như tiền bạc và quyền lực, với
nhiều người, sự nổi tiếng là mục đích tối thượng, và họ sẵn sàng tìm cách đạt
được bằng mọi giá.
Thời cổ đại đó là trường hợp của
Êrôstrat, một kẻ tầm thường, một tên lái buôn ti tiện ở thành Ephes. Chỉ với ý
muốn duy nhất là được mọi người biết đến, năm 356 trước công nguyên hắn đã
không ngần ngại châm lửa đốt trụi đền thờ nữ thần Artêmis, một trong bảy kỳ
quan thế giới. Hắn đã bị các công dân lương thiện Hy Lạp trừng trị, tất nhiên.
Hơn thế, người ta còn ban lệnh cấm nhắc tên hắn ở mọi nơi, mọi lúc. Tức là ngăn
không cho hắn trở thành "nổi tiếng", là điều hắn luôn thèm muốn một
cách bệnh hoạn. Thế mà thật trớ trêu, gần 2500 năm sau ngày hắn chết, bây giờ
tôi và các bạn lại đang nhắc đến cái tên Êrôstrat đáng nguyền rủa ấy. Dù chỉ
với mục đích nhắc nhở người đời về hiểm họa tiềm ẩn trong những Êrôstrat khác đang
lởn vởn quanh ta.
Cũng nhằm mục đích nổi tiếng,
ngày nay không ít người làm đủ trò quái dị. Nhất là các "ngôi sao"
nghệ thuật lớn bé đủ cỡ, dù nhiều khi chỉ là những trò vô hại không gây tai họa
tầm cỡ Êrôstrat. Họ tự dựng nên các vụ xì-căng-đan về mình, tự nói xấu mình,
thậm chí còn tồng ngồng đi giữa phố để trở thành độc đáo, tức là thành nổi
tiếng. Và họ đã thành nổi tiếng. Họ, những người trần truồng nơi công cộng, chứ
không phải chúng ta, những người tự trọng ăn mặc bình thường.
Ở họ luôn có một điểm chung. Đó
là sự bất tài.
Trong đời sống văn học nước ta
thời gian gần đây, thật tiếc hiện tượng này vẫn tồn tại và có xu hướng gia
tăng. Một người tài năng không đến nỗi, ít ra một thời là thế, tự biến mình
thành anh hề trong làng văn chương. Hề cả ngoài đời lẫn trong câu chữ. Một nhà
thơ nữ trẻ, rất trẻ, nếu không muốn nói còn trẻ con, viết thơ tục tĩu và trơ
trẽn đến mức, theo nhận xét của nhiều người, đang "cởi truồng vênh vang
giữa phố". Ấy là nói theo nghĩa bóng với ý phê phán những vần thơ tình dục
trơ trẽn của nàng. Một vị đáng kính tự viết bài khen mình hết lời, rồi ký tên
người khác đưa lên báo. Ông ta còn khuyên bạn bè cũng nên làm thế. Một lời
khuyên chân thành với giọng cũng rất chân thành, và không chút ngượng ngập.
Như trong hội họa, khi các họa sĩ
không có khả năng vẽ giống thật thì họ nghĩ ra cách bôi bác lòe đời nhân danh
đủ loại chủ nghĩa này nọ. Trong làng văn hiện nay không hiếm người viết nhảm
nhí để tỏ ra mình khác người, khác đời rồi lớn tiếng gọi cái mớ nhảm nhí ấy là
"cách tân", "khám phá". Những chuyện như thế thật lố bịch
và đáng lạ. Nhưng còn lố bịch và đáng lạ hơn là việc những "cách tân"
và "khám phá" ấy không ít khi được tung hê, khen ngợi (chủ yếu theo
đơn đặt hàng và trên cơ sở có đi có lại). Thậm chí người ta còn trao giải hoặc
tổ chức hội thảo khoa học về các "tác giả" và "tác phẩm"
ấy. Rồi dần dần nói mãi, nghe mãi thành quen, họ cũng thành nổi tiếng và bắt
đầu nhìn người tử tế bằng con mắt khinh miệt.
Những kẻ háo danh kể trên, từ
Êrôstrat đến nữ nhà thơ trẻ con tồng ngồng giữa phố kia, còn có một điểm chung
nữa - sự vô liêm sỉ.
18. VỀ PHÁI YẾU
Từ một cô gái con nhà bình dân,
Võ Mỵ Nương (623-705) đã ngoi lên làm Võ Tắc Thiên, nữ Hoàng Đế duy nhất của
lịch sử nhiều nghìn năm Trung Hoa phong kiến. Tạm gạt sang một bên các thủ đoạn
xảo quyệt và độc ác nhằm đạt bằng được mục tiêu đã định, riêng điều này đủ thấy
quyết tâm, nghị lực của phụ nữ đáng kính phục và cũng đáng sợ nhường nào.
Suốt năm mươi năm thực quyền cai
trị, Võ Tắc Thiên tiến hành nhiều cải cách to lớn trong việc trị nước, dùng
người, biến triều đại của bà thành một trong những giai đoạn phát triển nhất
thời Thịnh Đường.
Điều này lần nữa khẳng định sức
mạnh và tài năng của phụ nữ.
Lên ngôi năm 60 tuổi, Võ Tắc
Thiên tuyên bố: "Các nam hoàng đế có bao cung tần mỹ nữ, tại sao các nữ
hoàng đế không được có nhiều phi tần dũng nam cho mình?" Với sự công phẫn
chính đáng, bà cho lập Nam
Cung Tần với hàng nghìn thanh niên mạnh khỏe đêm ngày thường trực bên cạnh.
Trong số họ không ít người thuộc giới đạo sĩ và tăng lữ. Chưa hết, các vị tân
quan cũng thường được bà cho triệu vào hậu cung, có khi hai ba ngày hoặc lâu
hơn, không phải để bàn chuyện "quốc sự", tất nhiên. Sử chép rằng, mỗi
lần có người vào đây, bà già canh cổng hậu cung lại chép miệng: "Thế là
toi thêm một mạng người nữa!" Nhiều người về nhà được ít hôm thì chết.
Cũng có người "chết ngay tại trận". Chắc không phải ai cũng chết vì
"quá sức". Có rất nhiều giai thoại về khả năng tình dục "siêu
phàm" và sự độc ác của bà.
Về mặt này, có lẽ ít ai từng đọc
tiểu sử Võ Tắc Thiên còn tiếp tục bảo thủ cho rằng phụ nữ là "phái
yếu".
19. NERO – NGHỆ SĨ BẠO CHÚA
Như Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa
thời cổ, Nero (37- 68 sau CN, vị hoàng đế thứ năm của đế chế La Mã) là tên bạo
chúa khét tiếng ở phương tây. Lên ngôi năm mười bảy tuổi, hắn cưới và sau đấy
treo cổ chị gái đồng thời là vợ mình. Sau đó hắn giết anh trai, giết mẹ về tội
dèm pha nhân tình của hắn, giết người thầy và là nhà triết học nổi tiếng
Seneca. Rồi hắn giết nhân tình, giết một nhà quí tộc để cướp vợ người ấy...
Danh sách các nạn nhân bị hắn giết có thể kéo dài vô tận.
Về thành tích chém giết, công
bằng mà nói hắn chẳng khác mấy những tên bạo chúa trước và sau hắn. Nhưng hắn
đã dám làm một việc có thể xem là độc nhất vô nhị. Tháng Bảy năm 64, chỉ với
mục đích giải trí, hắn ra lệnh đốt cháy cả thành Rôm hoa lệ. Chắc ngọn lửa vĩ
đại ấy không làm hắn vui lâu, nên một phần ba thành phố còn giữ lại được.
Sự độc ác cùng những trò chém
giết, đốt phá quái đản của hắn có thể giải thích bằng sự điên rồ. Nhưng điều
không thể giải thích nổi là tại sao thần dân đế quốc La Mã rộng lớn, lúc ấy bao
gồm hầu hết châu Âu, kéo dài tới Ai Cập, Tây Phi và Jerusalem, lại cho phép hắn
ngồi trên ngai vàng cai trị mình những mười bốn năm liên tục? Liệu có thể đặt
câu hỏi nghi ngờ về cái gọi là sức mạnh và vai trò lịch sử của nhân dân được
không?
Và phải chăng chính vì điên loạn
mà Nero bạo chúa trên thực tế lại còn là một nghệ sĩ với đúng nghĩa của từ này.
Theo sử sách, hắn đã cho dựng lại thành phố hắn vừa đốt, xây nhà tế bần cho
những người không nơi nương tựa và cấp không lương thực cho dân chúng. Đồng
thời hắn còn là nhà bảo trợ hào phóng của nghệ thuật sân khấu. Hắn tự nguyện
tham gia các vở kịch với tư cách một diễn viên bình thường. Nghe nói khả năng
diễn xuất của hắn không quá tồi.
Trước sức ép của Viện Nguyên lão,
ngày 9 tháng Sáu năm 68 hắn buộc phải tự tử. Theo Bairơn trong tiểu thuyết thơ
nổi tiếng “Đôn Juan”, đêm hôm ấy, khi cả thành Rôm reo hò vui mừng vì thoát
được tên bạo chúa đáng nguyền rủa, có ai đó đã lén lút đặt một bông hồng bên xác
hắn.
Bông hoa ấy cho ai - Nero bạo
chúa hay Nero nghệ sĩ? Đến nay điều này vẫn còn là một bí ẩn.
Hà
Nội, 1983 - 2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét