Thứ Ba, 3 tháng 3, 2020

Lịch sử




VIỆT NAM LƯỢC SỬ DIỄN CA


Ngày xưa vua Tự Đức
Cấp tiền và cấp nhà
Để ông Lê Ngô Cát
Viết Quốc Sử Diễn Ca.

Đó là bộ sách lớn
Gần bốn nghìn câu thơ
Viết theo thể lục bát,
Nhiều người thuộc đến giờ.

Đã là con dân Việt
Thì phải biết sử mình.
Vua Tự Đức làm thế
Là ông vua thông minh.

Nay ông cũng bắt chước,
Viết Quốc Sử Diễn Ca
Bằng kiểu thơ năm chữ,
Dễ hiểu và nôm na.

Nó như sách tham khảo,
Sách sử, lại bằng thơ,
Viết về thời dựng nước
Cho đến tận bây giờ.

Nhớ nhé, sách tham khảo,
Chứ không phải giáo khoa.
Giúp bổ sung kiến thức
Về lịch sử nước nhà.

Các cháu nhớ thỉnh thoảng
Đọc lại tập thơ này.
Đọc để nhớ lịch sử
Và cả cổ tích hay.


THÁI BÁ TÂN, sinh năm 1948, Diễn Châu, Nghệ An. Tốt nghiệp khoa phiên dịch (tiếng Anh và Nga), trường Đại học Ngoại ngữ Matscơva, Liên Xô (1967 - 1974). Từng làm phiên dịch, giảng viên đại học, cán bộ biên tập nhà xuất bản. Nghỉ hưu năm 2011, là ủy viên Ban đối ngoại, phó chủ tịch Hội đồng Văn học Nước ngoài, Hội nhà văn Việt Nam.
Ông làm việc nhiều và có hiệu quả, tác giả nhiều tập thơ dịch lớn trên dưới nghìn trang như “Thơ Nga chọn lọc” trong đó có tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêgin của Puskin. “Thơ Anh chọn lọc” bao gồm tiểu thuyêt thơ Đôn Juan của thi hào Anh Byron, “Cổ thi tác dịch” gồm gần 3000 bài thơ chữ Hán các tác giả Việt Nam và Trung Quốc”, “3500 bài thơ haiku Nhật Bản”, “Thơ thiếu nhi thế giới”, “Thơ cổ Ba Tư” vân vân, cùng hàng chục cuốn tiểu thuyết văn xuôi khác.
Ngoài ra Thái Bá Tân cũng sáng tác nhiều, gồm gần một nghìn trang thơ đã xuất bản, mới đây nhất còn có các tập viết bằng thể thơ năm chữ, như “Truyện thơ Thích Ca Mâu Ni Phật” 360 trang, “Thơ châm ngôn” 420 trang, “Truyện thơ cổ tích Việt Nam”, 450, cùng các tập sắp xuất bản khác như “Truyện thơ cổ tích nước ngoài”, “Thơ thiếu nhi song ngữ Anh - Việt”, “Kinh hiền ngu”, “Truyện thơ cây thuốc Việt Nam”, “Thơ châm ngôn” tập 2,  vân vân.
Ông cũng là tác giả của khoảng 150 truyện ngắn in rải rác trên báo và các tập riêng, như “Ông già và chiếc đàn dương cầm”, “Truyện kỳ ảo”, “Phận đàn bà”, “Thái Bá Tân - 90 truyện ngắn”, “Thái Bát Tân - Truyện ngắn và thơ” (sách Nhà nước đặt hàng).
Thái Bá Tân nổi tiếng dịch thơ có vần điệu, trong sáng và dễ hiểu. Viết văn có tứ, nhẹ nhàng và hướng thiện, thời gian gần đây hay viết về tuổi già, tôn giáo và triết lý. Ông sống khép kín, xa lánh chỗ đông người và hầu như không giao tiếp với ai, kể cả bạn bè, cũng không thích được giới truyền thông nhắc đến. Tất cả chỉ để có thời gian tập trung làm việc. Ngoài ra ông còn mở lớp dạy tiếng Anh (chủ yếu nhằm mục đích từ thiện) liên tục hơn 20 năm nay, ngày nào cũng đi dạy, lớp học đông, thường hai, ba trăm người mỗi buổi.
Ông đam mê âm nhạc cổ điển và du lịch. Bản thân ông biết chơi khá thành thạo một số nhạc cụ như viôlông, viôlôngxen, pianô, và đã từng đi 40 nước trên thế giới, chủ yếu bằng tiền riêng của mình.
Tôi nghĩ tôi là người hạnh phúc vì được sống thảnh thơi và làm theo ý mình. Mà trong đời, chung quy tôi chỉ làm ba việc chính, là Đọc sách, Suy nghĩ và Viêt” (Thái Bá Tân).

___________________________


Phần Một:
LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐẾN THẾ KỶ THỨ 10


LỜI MÀO ĐẦU

Chào các cháu thân mến.
Ông là Thái Bá Tân,
Còn gọi Ông Tân Béo,
Nghề - làm thơ, viết văn.

Trước ông cũng dạy học,
Nhưng lâu rồi, hôm nay
Ông có chuyện muốn nói
Với các cháu thế này.

Người ta bảo các cháu
Ngại môn Sử, đúng không?
Thế thì thật đáng tiếc,
Vì môn ấy, theo ông

Là môn rất bổ ích,
Dễ học và cực hay.
Ông ngày bé, thú thật,
Chỉ mê học môn này.

Vì sao? Vì học nó
Như một chuyến đi xa,
Ngược thời gian, tìm hiểu
Lịch sử của nước nhà.

Mà chuyến đi vui lắm,
Chẳng tốn kém một đồng.
Ông sẽ dẫn các cháu,
Ta cùng đi, thích không?

Vừa đi ông vừa kể,
Bảo đảm không ai buồn.
Kể bằng thơ dễ hiểu.
Nếu cần, ông thề luôn.

Sẽ lâu và xa đấy.
Bốn nghìn năm cơ mà.
Bốn nghìn năm lịch sử
Đất nước Việt Nam ta.

Ông sẽ theo trình tự
Kể từ những ngày đầu
Nhân dân ta dựng nước
Rồi kể tiếp về sau.

Suốt bốn nghìn năm ấy
Tổ Quốc ta thân yêu
Trải qua bao biến cố.
Nhiều lắm, nhiều, rất nhiều.

Nhiều triều đại tiếp nối.
Nhiều chiến thắng vẻ vang.
Nhiều anh hùng, hào kiệt.
Nhiều trang sử huy hoàng.

Tất cả những cái ấy
Ta phải biết, đúng không?
Biết để hiểu đất nước,
Tự hào về cha ông.

Lần lượt ông kể hết.
Hơn thế, dọc đường đi
Ông kể xen cổ tích,
Toàn truyện hay, li kỳ.

Hoặc có thể là truyện
Các danh nhân, anh hùng.
Nước ta, người như thế
Thì ôi, nhiều vô cùng.

Các cháu đồng ý chứ,
Sao cứ phải chờ lâu?
Làm gì là làm tới.
Nào, chúng ta bắt đầu.

Trước khi kê chuyện sử,
Ông nói qua đôi lời
Về vũ trụ, sự sống
Và nguồn gốc con người.


1
VŨ TRỤ VÀ TRÁI ĐẤT

Đã bao giờ các cháu
Tự hỏi mình câu này:
“Từ đâu ta có được
Thế giới như hôm nay?”

Một câu hỏi thú vị,
Được đặt ra từ lâu.
Bây giờ ông sẽ nói,
Từ sơ khai, ban đầu.

Mười bốn tỉ năm trước,
Có một cái Big Bang,
Tức là Vụ Nổ Lớn,
To lắm, to kinh hoàng.

Cái Big Bang to ấy
Làm vũ trụ nở ra,
Tạo nên các thiên thể,
Như Trăng, Sao, Thiên Hà…

Mười tỉ năm sau đó
Trái Đất mới ra đời,
Như một hành tinh nhỏ
Bay xung quanh Mặt Trời.

Mặt Trời về thực chất
Chính là một Ngôi Sao,
Vì nó tự phát sáng,
Lơ lửng trên trời cao.

Thiên thể bay quanh nó
Được gọi là Hành Tinh,
Tự chúng không phát sáng,
Cả Trái Đất chúng mình.

Mặt Trời có tất cả
Tám Hành Tinh khác nhau.
Rất khác về kích thước,
Tính chất và sắc màu.

Đó chính là Sao Hỏa,
Sao Mộc, Hải, Thiên Vương,
Các sao Thổ, Kim, Thủy
Và Trái Đất thân thương.

Trong số tám “Sao” ấy,
- Chính xác là Hành Tinh,
Vì do ta gọi chệch -
Có Vệ Tinh của mình.

Vệ Tinh là gì nhỉ?
Là thiên thể bay quanh
Một Hành Tinh nào đó.
Tất nhiên bay rất nhanh.

Ngoài Vệ Tinh nhân tạo,
Trái Đất có Mặt Trăng,
Một Vệ Tinh tuyệt đẹp,
Ta quen gọi Chị Hằng.

Chị Hằng không tỏa sáng.
Hấp thụ ánh Mặt Trời,
Đêm, Chị phản chiếu lại,
Làm say lòng loài người.

*
Theo các nhà khoa học,
Trái Đất của chúng ta
Hình thành từ mảnh vỡ
Của Mặt Trời văng ra.

Đến lượt mình, Trái Đất
Cũng có một miếng văng,
Cùng thời gian, cô lại
Và rồi thành Mặt Trăng.

Vậy, như ông đã nói,
Sau cú nổ kinh hoàng,
Ta gọi Vụ Nổ Lớn,
Tây thì gọi Big Bang,

Tỉ tỉ Sao xuất hiện,
Phân bố ở khắp nơi.
Mỗi Sao là một Hệ.
Ta thuộc Hệ Mặt Trời.

Nhiều Hệ gộp nhau lại
Thành một chùm Thiên Hà.
Ngân Hà là tên gọi
Thiên Hà của chúng ta.

Vũ Trụ nó lớn lắm.
Lớn vô tận, vô cùng,
Đến mức ông cũng chịu,
Không thể nào hình dung.

Cùng với sự lớn ấy
Là khối lượng khổng lồ
Các Thiên Hà, các Hệ,
Đủ kích thước nhỏ to.

Có chuyện này thật lạ,
Thoạt nghe tưởng chuyện cười,
Rằng Sao trong Vũ Trụ
Cũng sinh, chết, như người.

Các nhà khoa học nói,
Năm tỉ năm nữa thôi
Mặt Trời ngừng phát sáng
Và sẽ chết, than ôi,

Trái Đất ta, thật tiếc,
Cũng chết theo, tuy nhiên,
Từ giờ đến lúc ấy
Còn lâu, đừng buồn phiền.

Cũng có thể khoa học
Giúp chúng ta “dọn nhà”
Sang sống ở nơi khác
Trong Vũ Trụ bao la.

Vậy là hết lo nhé,
Ngoài lo học thành người.
Nhất là học môn Sử.
Tuyệt đối không được lười.

Tiếp đến ông sẽ nói
Một đề tài rất hay,
Là do đâu xuất hiện
Sự sống như ngày nay.

*
Giờ thì như đã hứa,
Để các cháu nghỉ ngơi,
Ông kể một câu chuyện,
Một bài học ở đời.

Chuyện về một cậu bé
Lười đọc sách, tiếc sao.
Rồi các cháu sẽ hiểu
Chuyện kết thúc thế nào.

Đúng, đọc sách cần lắm.
Mà phải đọc hàng ngày.
Nào, lắng nghe ông kể.
Câu chuyện ấy thế này.


CUỐN SÁCH VÀ CHIẾC GIỎ ĐỰNG THAN   

Theo người ta kể lại,
Xưa có người đàn ông
Sống với một cậu bé
Trong ngôi nhà ven sông.

Đó là hai ông cháu.
Người ông tóc bạc phơ.
Cậu bé mới mười tuổi.
Quang cảnh đẹp, nên thơ.

Hàng ngày ông đọc sách.
Vâng, đọc sách hàng ngày.
Có nhiều cuốn sách cổ
Gáy bọc da, rất dày.

Còn cậu bé đi học,
Cũng hàng ngày, buổi chiều,
Khi làm xong bài tập,
Cậu chơi bóng, thả diều.

Cũng có hôm chơi chán,
Cậu đọc sách cùng ông,
Nhưng đọc không hứng lắm,
Và lúc hiểu, lúc không.

“Ông ơi, sao thế nhỉ, -
Cháu đọc thấy không hay,
Lại buồn ngủ, không hiểu.
Mà ông đọc suốt ngày.”

Ông mỉm cười bảo cậu
Lấy chiếc giỏ than đen
Vừa đổ than vào bếp,
Xuống sông xách nước lên.

Cậu vâng lời, rất cố,
Nhưng khi lên đến nơi,
Nước đã chảy ra hết.
Ông cậu lại mỉm cười:

“Thì cháu hãy thử lại.
Lần này đi nhanh hơn.”
Cậu đi gần như chạy,
Mà nước vẫn không còn.

Cậu xách thêm lần nữa,
Mồ hôi chảy thành dòng:
“Không thể dùng chiếc giỏ
Để lấy nước, thưa ông.”

Ông cậu đáp: “Đúng vậy.
Thực ra ông hôm nay
Không muốn cháu lấy nước,
Mà muốn nói điều này:   

Giỏ không đựng được nước.
Nhưng giỏ bám than đen,
Sau mấy lần “lấy nước”
Sẽ sạch, trắng dần lên.

Cũng vậy, cháu đọc sách,
Khó hiểu, thấy không cần.
Nhưng cháu kiên trì đọc,
Đầu óc sẽ sáng dần.”

Cậu bé nhìn chiếc giỏ,
Hình như lần đầu tiên,
Thấy nó được nước rửa
Không còn bám bụi đen.

Vâng, ông già nói thế,
Rằng đọc sách rất cần
Tâm hồn và ý nghĩ
Sẽ thanh lọc dần dần.

Từ đó, cậu bé ấy
Chăm đọc sách hàng ngày.
Rồi trở nên thông thái
Tự lúc nào không hay.


2
SỰ SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT

Người ta đã ước tính
Có hàng tỉ Thiên Hà,
Tỉ tỉ ngôi sao sáng
Trong Vũ Trụ bao la.

Tỉ tỉ sao sáng ấy
Có thể có hành tinh,
Tức là có sự sống
Như Trái Đất chúng mình.

Tiếc, đến nay, sự sống
Chưa tìm thấy nơi nào.
Có thể ta đơn độc
Giữa nghìn nghịt trời sao.

Có thể là như vậy.
Có thể không, hãy chờ.
Ông thì nghĩ là có.
Để rồi xem, bây giờ

Ngắn gọn và dễ hiểu,
Lần lượt ông điểm qua
Việc hình thành sự sống
Trên Trái Đất chúng ta.

*
Hơn bốn tỉ năm trước,
Ông nói rồi, nhớ không,
Đã hình thành Trái Đất,
Một khối lửa rực hồng.

Khối lửa ấy lắng xuống.
Các chất nhẹ nổi lên,
Thành quả cầu rất nóng,
Có bề mặt màu đen.

Rồi quả cầu ấy nguội,
Thành đất, đá nhấp nhô.
Các núi lửa hoạt động,
Liên tục phun bụi tro.

Chính trong bụi tro ấy
Có nhiều khí, về sau
Hình thành nên khí quyển
Bao quanh quả địa cầu.

Rồi đại dương xuất hiện,
Bốn tỉ năm trước đây
Nhờ xuất hiện hơi nước
Và mưa lớn nhiều ngày.

Từ trên cao xuống thấp,
Nước chảy mạnh từng dòng,
Dần dần ăn lõm đất
Và cuối cùng thành sông.

Nửa tỉ năm sau đó
Có sinh vật đơn bào.
Thêm hai tỉ năm nữa
Phát triển thành đa bào.

Rồi xuất hiện động vật,
Gồm các loài giản đơn,
Lúc đầu sống dưới nước,
Rồi thành phức tạp hơn.

Năm trăm triệu năm trước   
Có loài cá đầu tiên.
Một thời gian sau đó
Có cỏ trên đất liền.

Các cháu chú ý nhé:
Cá xuất hiện trước cây.
Cá bò lên đất cạn,
Thành động vật sau này.

Trước hết thành bò sát,
Lúc đầu sống lưỡng cư,
Cả dưới nước, trên cạn,
Cứ tiến hóa từ từ.

Trong các loài bò sát,
Có một loài rất to,
Là khủng long tiền sử,
Bằng mấy chục con bò.

Hai trăm triệu năm trước,
Tổ tiên của loài người
Là động vật có vú
Mới có mặt trên đời.

Chim thì mãi sau đó,
Khoảng năm mươi triệu năm.
Hoa thì còn sau nữa,
Nếu ông nhớ không nhầm.

Loài khủng long, ta biết,
Tuyệt chủng đã từ lâu,
Sáu lăm triệu năm trước,
Còn chưa rõ do đâu.

*
Bây giờ ông sẽ kể
Một truyện cổ tích hay.
Chuyện Cô Tấm, Cô Cám.
Nghe nhé, truyện thế này…


TRUYỆN TẤM CÁM

Xưa có một cô bé,
Đẹp và rất có duyên.
Tên của cô là Tấm,
Một cái tên thật hiền.

Không may mẹ chết sớm,
Bố cô, lại không may,
Lấy thêm bà vợ nữa.
Đời cô khổ từ đây.

Rồi bố cô cũng chết,
Để lại cô trên đời
Với một bà mẹ ghẻ
Độc ác và khác người.

Bà này có cô Cám,
Là con riêng của bà.
Cũng trạc tuổi như Tấm,
Nhưng lười và chua ngoa.

Cảnh con chồng dì ghẻ
Đời nào cũng giống nhau.
Tấm thì luôn vất vả,
Làm việc nhà, chăn trâu.

Cám thì được chiều chuộng,
Chẳng động tay việc gì.
Chỉ biết ăn rồi uống,
Đi chơi rồi ngủ khì.

Một hôm, dì ghẻ bảo:
Cả hai đứa ra ao,
Cố bắt thật nhiều cá
Đem về đây cho tao.

Vốn chăm chỉ, cô Tấm,
Cứ mò bắt luôn tay.
Cuối buổi nhìn, cô thấy
Giỏ cá đã sắp đầy.

Trong khi đó cô Cám,
Vì lười, vì vụng về,
Nên chiếc giỏ rống rỗng,
Lại sắp đến lúc về,

Nên nhân lúc cô Tấm
Rửa tay bên ao đình,
Cô Cám lấy hết cá
Đổ sang giỏ của mình.

Quay lại, thấy mất cá
Cô Tấm không dám về
Vì sợ mẹ kế đánh,
Khóc, nước mắt dầm dề.

Bỗng có một ông Bụt   
Râu trắng, mặt đỏ hồng:
“Cháu nhìn xem trong giỏ
Còn con cá nào không?”

Cô đáp: “Còn con bống.”
Ông Bụt cười, ân cần:
“Cháu thả nó xuống giếng,
Nhớ hàng ngày cho ăn.”   

Nghe lời Bụt, từ đấy
Đứng bên giếng hàng ngày,
Cho cá ăn, cô Tấm
Gọi cá lên thế này:

“Bống bống bang bang, bống,
Lên mà ăn cơm vàng.
Đừng ăn cơm người khác,
Bang bang, bống bống, bang!”

Hai mẹ con cô Cám
Nhìn thấy thế sinh nghi,
Nên rình xem cô Tấm
Đang nói gì, làm gì.

Một hôm bà mẹ kế
Sai cô Tấm đi xa.
Rồi mụ bắt con bống,
Ăn, quẳng xương cho gà.   

Về, gọi bống không thấy,
Tấm lại khóc, tức thì
Ông Bụt kia tốt bụng
Hiện lên, hỏi chuyện gì.

Nghe Tấm nói, ông Bụt
Bảo: “Cháu lấy ít xương
Còn sót lại của bống,
Đem chôn ở chân giường”.

*
Năm ấy vua mở hội,
Loan báo khắp đông tây.
Hai mẹ con nhà Cám
Chuẩn bị suốt mấy ngày.

Như các cô gái khác,
Cô Tấm cũng muốn đi.
Tiếc là cô nghèo đói,
Quần áo chẳng có gì.

Hơn thế, bà mẹ kế
Trộn đầy cả một nong
Thóc và gạo lẫn lộn,
Bảo cô phải nhặt xong.

Cô Tấm ôm mặt khóc.
Ông Bụt hiện ra ngay.
Ông gọi bầy chim sẻ
Đến giúp cô việc này.

Chỉ một loáng, thóc, gạo
Được tách thành hai bên.
“Giờ thì lọ xương cá,
Cháu hãy vào lấy lên.”

Cô làm theo lời Bụt.
Trong chiếc lọ - lạ thay,
Có đủ quần áo đẹp,
Còn thêm một đôi giày.

Lại có cả con ngựa,
Bé xíu, thật dễ thương.
Lập tức nó to lớn,
Đủ hàm thiếc, yên cương.

Cô Tấm liền tắm rửa,
Thay quần áo, đi giày.
Tất cả đều vừa khít,
Lên ngựa, phóng như bay.

Khi đi ngang vũng nước,
Một chiếc giày của cô
Bị rơi, không kịp nhặt.
Rồi cô tới kinh đô.   

Xe của vua lúc ấy
Đi qua vũng nước này.
Con voi không chịu bước
Thúc mấy cũng đứng ngây.

Vua thấy lạ, sai lính
Xuống tìm hiểu sự tình.
Cuối cùng chúng tìm thấy
Một chiếc giày thật xinh.

Thật xinh và thật bé.
Vua nhìn nó, băn khoăn:
“Ai nhỉ? Ai đi nó
Chắc phải đẹp tuyệt trần.”

Rồi vua cho thông báo:
“Ai đi vừa giày này
Sẽ trở thành hoàng hậu.
Mời mọi người thử ngay!”

Vậy là chen nhau thử.
Ôi, các bà, các cô.
Ai cũng háo hức thử,
Nhưng chân họ quá to.

Cả mẹ con cô Cám
Cũng nhất quyết không thua.
Tiếc là họ thử mãi
Mà không thành vợ vua.

Đến lượt cô Tấm thử,
Thật nhẹ nhàng, lạ chưa -
Cả vua quan trố mắt -
Chân cô đi rất vừa!

Vua sai đoàn thị nữ
Rước cô Tấm vào cung,
Tấn phong làm hoàng hậu,
Hạnh phúc đến tột cùng.

*
Sống trong cung sung sướng,
Nhưng đến ngày giỗ cha,
Là người con có hiếu,
Cô xin về thăm nhà.

Mẹ ghẻ và cô Cám
Thấy Tấm giờ cao sang,
Thì vô cùng khó chịu,
Nên ghen ghét với nàng.

Mụ mẹ bảo con gái:
“Đừng lo, từ hôm nay
Con sẽ là hoàng hậu,   
Thay cho con ranh này.”

Rồi mụ vợ ngon ngọt,
Bảo cô Tấm: “Bố con
Xưa thích ăn trầu lắm,
Nay nhà cau không còn,

Vậy giờ con chịu khó
Leo lên cây cau cong,
Hái một buồng cúng bố
Cho bố con vui lòng.

Vì thương cha, cô Tấm
Vội leo lên hái cau.
Mụ dì ghẻ chặt gốc,
Cô ngã, chết, dập đầu.   

Mụ thay áo cho Cám
Rồi đưa lên kinh thành,
Nói cô chị chết đuối,
Giờ em thay chị mình.

Vua nghe, không vui lắm,
Cũng thấy hơi lạ lùng,
Nhưng vốn yêu thương Tấm,
Nên cho Cám vào cung.

Lại nói cô Tấm chết,
Hóa thành chim vàng anh.
Vua đâu, nó bay đấy,
Líu ríu khắp cung thành.

Một hôm, thấy cô Cám
Phơi áo vua bên ao,
Nó nói: “Phơi cẩn thận,
Kẻo rách áo chồng tao!”

Vua nghe, liền bảo nó:
“Này, vàng anh, vàng anh,
Hãy chui vào ống áo,
Nếu em là vợ anh.”

Con chim chui vào áo.
Từ đó vua ngày đêm
Chỉ vui chơi với nó,
Không đoái hoài cô em.

Cô em, tức cô Cám,
Rất tức giận, thế là
Bắt vàng anh làm thịt,
Lông thì vứt sau nhà.

Chỗ lông chim bị vứt,
Liền mọc một cây xoan,
Che cho vua nghỉ mát,
Đọc sách lúc thư nhàn.   

Cô Cám liền cho chặt,
Đốt cả cây lẫn cành
Rồi đem tro của nó
Ra đổ ngoài cổng thành.   

Chỗ ấy mọc cây thị,
Lớn rất nhanh hàng ngày,
Đến mùa đậu một quả,
Chỉ một quả trên cây.

Có một bà bán nước,
Nhân có việc đi ngang,
Liền giơ bị và nói
Với quả thị chín vàng:

“Thị ơi, hãy rụng xuống,
Rụng xuống bị của bà.
Bà không ăn, chỉ ngửi,
Rồi bà đem về nhà.”

Quả nhiên thị rụng xuống.
Bà đem cất, hàng ngày
Lấy ra ngửi và ngắm,
Rồi mân mê trên tay.

Một hôm bà đi vắng
Lúc quay về, bất ngờ
Thấy nhà cửa sạch sẽ,
Cơm nấu sẵn đang chờ.

Ai thế nhỉ, thật lạ?
Bà tự thầm hỏi mình.
Những ngày tiếp cũng thế.
Rồi bà quyết định rình.

Thì ra một cô gái
Từ quả thị chui ra.
Cô đảm đang lo liệu
Hết mọi việc trong nhà.

Đó chính là cô Tấm.
Bà ôm chặt, không buông.
Từ đây hai bà cháu
Sống chung nhà, chung buồng.

Bà ngồi quán bán nước,
Cô Tấm lo têm trầu.
Trầu cô têm thật đẹp,
Miếng nào cũng đều nhau.

Một hôm, vua đi dạo,
Mà lòng buồn, buồn sao.
Khi đi ngang quán nước,
Vua khát, liền ghé vào.

Khi ăn trầu, uống nước,
Vua ngạc nhiên hỏi bà:
“Ai têm trầu đẹp thế?”
Bà dẫn Tấm đi ra.

Thế là vua gặp lại
Người vợ cũ của mình.
Ngài rơm rớm nước mắt
Nghe vợ kể sự tình.

Vua nghe xong, tức giận
Truyền quân lính ra đi
Bắt mẹ con cô Cám
Để trị tội tức thì.

Vốn là người nhân hậu,
Lại xét tình người nhà,
Cô Tấm xin nương nhẹ,
Nên cuối cùng vua tha.

Thế là chúng thoát chết,
Bị đuổi đi, dọc đường
Chúng bị hổ ăn thịt,
Mà không ai xót thương.


3
LOÀI VƯỢN CỔ

Hàng chục triệu năm trước,
Trên trái đất chúng ta
Có một loài vượn cổ,
Thường sống trong rừng già.

Hàng ngày đi bắt thú
Hoặc tìm kiếm thức ăn,
Loài vượn này thích ứng
Với việc đi bằng chân.

Hai chi trước giải phóng
Để cầm nắm, bẻ cây,
Hàng triệu năm phát triển,
Rồi dần dần thành tay.

Thế là Người tối cổ
Cuối cùng đã hình thành.
Đứng thẳng lưng, tay ngắn,
Chân to chắc, bước nhanh.

Họ sống thành từng tốp,
Trên dưới vài chục người.
Ban ngày đi bắt thú
Hay hái hoa quả tươi.

Còn ban đêm họ ngủ
Trong hang, trong lều thô
Dựng bằng cành cây lớn,
Phủ cỏ hoặc lá khô.

Họ đã biết dùng lửa
Để nướng chín thức ăn;
Làm công cụ bằng đá
Giúp cho việc đi săn.

Bốn mươi nghìn năm trước,
Loài Người tối cổ này
Cuối cùng có hình dáng
Giống con người hiện nay.

Họ sinh hoạt theo nhóm,
Khoảng vài chục gia đình,
Có họ hàng gần gũi,
Gọi là Người Thông Minh.

Đó là các thị tộc,
Làm, ăn chung với nhau
Trong chế độ nguyên thủy,
Cái buổi ấy ban đầu.

Thế là ông kể hết
Sơ lược về quá trình
Phát triển của Trái Đất
Đến con người thông minh.

Hiện các nhà khoa học
Chưa nhất trí với nhau.
Nhiều điều còn tranh cãi,
Mà chắc còn cãi lâu.

Tiếp đến ông sẽ nói
Về xã hội loài người
Thời xã hội nguyên thủy
Vốn tồn tại một thời.

*
Bây giờ ông sẽ kể
Một câu chuyện rất hay
Về anh chàng chăn lợn
Thông minh và khéo tay.

Ông nhà văn Đan Mạch
Viết nó từ rất lâu.
Ông đọc nó ngày bé,
Giờ vẫn còn thuộc làu.

Có điều ông ấy viết
Không bằng thơ, mà văn.
Để các cháu dễ nhớ,
Ông chuyển nó thành vần.


ANH CHÀNG CHĂN LỢN

Xưa có chàng hoàng tử,
Nước nhỏ, dân không nhiều,
Nhưng đủ giàu và rộng
Để kiếm một người yêu.

Vì chàng là hoàng tử,
Từ chân đến đỉnh đầu,
Chắc chỉ hô một cái
Là có ối nàng dâu.

Nhưng hoàng tử chỉ muốn
Và thầm yêu một người,
Là con gái hoàng đế,
Vừa giàu, vừa xinh tươi.

Gia tài chàng chỉ có
Một cây hồng rất già.
Năm năm nó mới nở
Duy nhất một bông hoa.

Nhưng là bông hồng đẹp,
Có thể gọi hồng tiên.
Ai ngửi hương của nó
Sẽ quên hết ưu phiền.

Ngoài ra chàng còn có
Một con chim họa mi.
Đương nhiên nó biết hót,
Và hót hay cực kỳ.

Chàng gửi hai cái ấy,
Cộng trái tim, tâm hồn,
Tới con gái hoàng đế,
Gọi là để cầu hôn.

Tiếc là nàng công chúa,
Đẹp thì đẹp, có điều
Hời hợt và hơi ngốc,
Sự ngốc nghếch đáng yêu.

“Hoa thật à? Chán thế!”
Nàng kêu lên, và rồi
Các nịnh thần nhất loạt:
“Ôi hoa thật, eo ôi!”

Khi chim họa mi hót,
“Charmant! Merveilleux!”
Tức là hay, hay quá! -
Các cung nữ kêu to.

Thế mà công chúa nói:
“Lại chim thật! Tiếc thay!
Giá nó là chim máy!”
Rồi nàng thả nó bay.

Nghĩa là nàng từ chối
Không cho chàng vào cung.
Nhưng hoàng tử bướng bỉnh,
Quyết đeo đuổi đến cùng.

Chàng giả vờ cà nhắc,
Mặt lấy tro bôi đen,
Gặp hoàng đế, tự nguyện
Làm anh chăn lợn quèn.

Phòng chàng gần chuồng lợn.
Thức suốt đêm, chàng ngồi,
Hý hoáy đục rồi cắt
Chàng làm được chiếc nồi.

Một chiếc nồi kỳ diệu,
Lại phát nhạc rất hay.
Nó hát: “Yêu em lắm...”
Thật thích chiếc nồi này.

Ngoài ra, ai ngửi nó
Sẽ biết được trong thành
Ai ăn gì lúc ấy:
Cá, thịt, đậu hay canh...

Buổi sáng, như thường lệ,
Công chúa dạo ngoài đồng,
Chợt nghe “Yêu em lắm...”
Bài hát nàng thuộc lòng.

Bản nhạc hay đến nỗi
Nàng công chúa đáng yêu
Sai thị tỳ đến hỏi
Chàng bán không, bao nhiêu?

“Có bán, - anh chàng đáp. -
Giá là mười cái hôn
Của chính nàng công chúa.
Không kém, cũng không hơn!”

“Thằng này thật là láo!”
Rồi nàng bảo nữ tỳ:
“Mười cái hôn, đồng ý,
Chúng mày hôn. Đi đi!”

Các nàng kia dãy nãy:
“Bẩn lắm, không hôn đâu!”
Nhưng không dám trái lệnh
Vì không muốn mất đầu.

Như người có hàng tốt,
Anh chăn lợn làm cao:
“Không mặc cả, - anh đáp.-
Không thì thôi, xin chào!”

Công chúa phụng phịu mặt.
Nàng bỏ đi, chiếc nồi
Vẫn hát “Yêu em lắm...”
Hát rất hay, và rồi

Không nhịn được, công chúa
Bảo thị tỳ đứng quanh,
Kéo váy, che thật kín
Để nàng cúi hôn anh.

Vậy là ai cũng thích:
Công chúa được chiếc nồi.
Còn anh chàng chăn lợn -
Mười cái hôn lên môi.

Ôi, thật hay, thật tuyệt,
Công chúa nghe cả ngày,
Hơn thế, trong thành phố
Ai ăn gì, biết ngay.

Anh chăn lợn - hoàng tử,
Tháo vát và thông minh,
Mấy hôm sau làm được
Chiếc máy nhạc tài tình.

Chỉ cần quay một cái
Là nó hát đủ bài:
Valse, ponka, sonnate...
Thật hay và vui tai.

Công chúa nghe, chết lịm.
“Nhưng lần này thì không,
Quyết không hôn hắn nữa.
Hay mấy cũng đừng hòng!”

Thế mà rồi, tội nghiệp,
Không đừng được, và nàng
Gấp mười lần lần trước,
Đã phải cúi hôn chàng.

Từ ban công, hoàng đế
Thấy đám đông nữ tỳ
Tụm quanh trên bãi cỏ,
Không biết đang làm gì.

Ngài rón rén đi tới,
Và ôi, thấy con mình
Đang hôn thằng chăn lợn,
Hôn nhiều lần, thật kinh!

Tức giận, ngài cầm giép
Đánh vào đít các nàng
Mỗi người đúng một cái,
Thật đau, thật phũ phàng.

Còn anh chàng chăn lợn
Thì Ngài cáu vô cùng.
Cáu cả nàng công chúa.
Cáu, đuổi khỏi hoàng cung.

Nghĩ mà thương, thật tội,
Như Adam, Eva
Bị đuổi khỏi thượng giới,
Họ bị đuổi khỏi nhà.

Lại đúng hôm mưa gió,
Quần áo dính vào người.
Nàng nói: “Ta lạnh lắm!”
Chàng không ôm, còn cười.

Chưa hết - mưa rửa sạch
Vết nhọ trên mặt chàng.
Chàng lại thành hoàng tử,
Tuấn tú và cao sang.

Công chúa giờ mới tiếc,
Tiếc hùi hụi, vì mình
Đã ngu dốt từ chối
Con người này thông minh.

Rồi dẫu con hoàng đế,
Rất kiêu, đẹp, lại giàu,
Nàng chủ động đề nghị,
Nhưng hoàng tử lắc đầu.

Chàng cương quyết từ chối,
Còn nỡ oán trách nàng,
Rồi đi, để công chúa
Giữa mưa gió phủ phàng.

Cũng đáng, nhưng tội nghiệp,
Tội nghiệp công chúa này,
Vì nói gì thì nói -
Chàng cư xử không hay.

Thứ nhất, xinh thường ngốc,
Còn hơn xấu thông minh.
Thứ hai, ta, nam giới,
Phải biết chết vì tình.

Chí ít, chàng có thể
Mời công chúa vào nhà,
Cho ăn uống, cho ngủ,
Sáng đuổi cũng kịp mà.

Tôi mong cho công chúa
Kén chọn được người tài.
Hoàng tử tìm được vợ.
Còn giờ thì bye-bye!


4
XÃ HỘI NGUYÊN THỦY

Trong xã hội nguyên thủy,
Mọi người sống với nhau,
Không khái niệm đẳng cấp,
Sang hèn hay nghèo giàu.

Cùng chung sức làm việc,
Không tranh giành miếng ăn.
Không khái niệm bóc lột.
Không ghen ghét, thù hằn.

Vào thời tối cổ ấy
Thức ăn còn chưa nhiều,
Lại sống cùng thú dữ,
Quả khốn khó nhiều điều.

Cùng với sự tiến hóa,
Con người đã khôn dần,
Biết chế tạo công cụ,
Kiếm được nhiều thức ăn.

Họ biết nuôi gia súc,
Trồng ngũ cốc, rau xanh,
Lấy vỏ cây dệt vải,
Làm đồ gốm, đồ sành.

Tuy nhiên, công cụ đá
Dẫu tiến bộ rất nhiều,
Nhưng năng suất lao động
Không tăng được bao nhiêu.

Sáu nghìn năm về trước,
Con người tìm thấy đồng,
Cùng các kim loại khác
Rồi học cách gia công.

Họ chế tao nông cụ,
Các vật dụng trong nhà,
Mài dũa đồ trang sức,
Xẻ gỗ để dựng nhà.

Nhờ có công cụ mới,
Họ khai phá đất hoang,
Săn bắt nhiều dã thú,
Sản xuất, trao đổi hàng.

Rồi hàng hóa, lương thực
Được làm ra cuối cùng
Vừa nhiều vừa đa dạng,
Vượt quá mức tiêu dùng.

Số lượng dư thừa ấy
Được những người thông minh
Hay khỏe mạnh chiếm giữ
Làm của riêng cho mình.

Họ ngày càng giàu có,
Không cùng làm, cùng ăn,
Mà trở thành bóc lột,
Và thế là dần dần

Một giai cấp xuất hiện,
Sống bằng bóc lột người.
Xã hội cũ tan rã,
Xã hội mới ra đời.

*
Xã hội ấy nguyên thủy,
Dạng xã hội đầu tiên,
Đại khái là thế đấy,
Như ông vừa kể trên.

Mai, trước khi kể tiếp,
Về lịch sử nước nhà,
Ông sẽ điểm ngắn gọn,
Kiểu cưỡi ngựa xem hoa,

Một số quốc gia cổ,
Cả Đông và cả Tây.
Các cháu đồng ý chứ?
Thôi, tạm dừng hôm nay.

À mà khoan, gượm đã,
Có chuyện ngụ ngôn này,
Ông kể cho các cháu,
Bảo đảm là rất hay.

Ông Esop viết nó
Cách đây ba nghìn năm,
Một nô lệ Hy Lạp,
Nếu ông nhớ không nhầm.

Các cháu lắng nghe nhé,
Vừa hay vừa thông minh.
Nghe xong, phải cố gắng
Rút bài học cho mình.


HAI CON DÊ QUA CẦU

Có một con Dê Trắng
Và một con Dê Đen
Đi qua chiếc cầu nhỏ,
Hai con từ hai bên.

Chẳng may, cầu thì hẹp,
Sông phía dưới lại sâu.
Ai cũng tranh đi trước,
Quyết không chịu nhường nhau.

Dê Trắng nói: “Anh bạn,
Anh phải nhường tôi đi.”
Dê Đen đáp: “Ngược lại.
Nhường ư? Anh nói gì?”

Cả hai con cứ bước,
Không ai chịu nhường ai,
Rồi húc nhau ghê gớm,
Rồi rơi xuống cả hai.

Từng có chú Dê Trắng
Và Dê Đen, buồn sao,
Nay ở khúc sông ấy
Không có chú Dê nào.

*
Dê hay Người cũng vậy,
Đi đường phải nhường nhau.
Nếu có chậm một chút,
Cũng chẳng chết ai đâu.   


5
CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI

Vào cuối thời nguyên thủy,
Cư dân sống rất đông
Ở những vùng đất lớn
Dọc theo các dòng sông,

Như sông Nin Ai Cập,
Sông Dương Tử, Trường Giang,
Trung Hoa thời cổ đại.
Ở Ấn Độ - sông Hằng.

Ti-grơ, Ơ-phơ-rat,
Hai sông nặng phù sa,
Ở khu vực Tây Á,
Còn gọi là Lưỡng Hà.

Nhờ nông cụ cải tiến,
Đất rộng và phì nhiêu,
Nông nghiệp phát triển mạnh,
Năng suất cao hơn nhiều.

Đặc biệt là lúa gạo,
Cả khoai sắn, rau, dưa.
Chăn nuôi cũng phát triển,
Đã có phần dư thừa.

Vậy là có chiếm hữu -
Có người không đủ ăn,
Có người thành giàu có,
Giai cấp hình thành dần.

Năm nghìn năm về trước,
Lần đầu tiên, quốc gia
Hình thành ở Ai Cập,
Trung Quốc và Lưỡng Hà.

Ở các quốc gia ấy
Dân sống bằng nghề nông,
Nhưng họ không có ruộng,
Chỉ là người làm công.

Sau mỗi mùa thu hoạch
Họ phải nộp, trung bình,
Một phần ba sản phẩm
Cho chúa đất của mình.

Ngoài ra phải lao dịch,
Tức là làm không công
Cho nhà giàu, quí tộc,
Và cho cả cộng đồng.

Bọn nhà giàu, quí tộc
Không làm việc chân tay,
Vì có người hầu hạ
Suốt cả đêm lẫn ngày.

Đó là các nô lệ,
Vốn là những tù binh,
Những người nghèo bị ép
Bán sức để nuôi mình.

Đứng đầu lớp quí tộc
Có ông vua, ông này
Nắm hết mọi quyền lực
Trong mọi việc hàng ngày.

Hơn thế, vua tự nhận
Là thánh thần, hơn người.
Trung Quốc là Thiên Tử,
Nôm na là con trời.

Còn ở nước Ai Cập
Vua là Pha-ra-ông,
Tức là “ngôi nhà lớn”.
Các cháu thấy kỳ không?

Để giúp việc vua ấy,
Một bộ máy chính quyền
Do quí tộc nắm giữ,
Suốt từ dưới lên trên.

Chúng bắt dân đóng thuế,
Bắt đi lính, bắt phu,
Xây cung điện, ai chống
Sẽ bị giết, bỏ tù…

*
Vậy là ông đã nói
Ngắn gọn trong mấy dòng
Về ba quốc gia cổ,
Tất cả đều Phương Đông.

Giờ các cháu nghe tiếp
Về hai nước Phương Tây,
Rô-ma và Hy Lạp,
Được hình thành thế này.

Có hai bán đảo nhỏ
Ở miền Nam châu Âu,
Nhô ra Địa Trung Hải.
Ở nơi ấy, từ lâu,

Hơn ba nghìn năm trước
Hình thành hai quốc gia,
Là Hy Lạp cổ đại
Và nhà nước Rô-ma.

Đất ở đây không tốt
Như các nước Phương Đông,
Nên người dân buộc phải
Tìm giống và chọn trồng

Nhiều cây lưu niên phụ,
Như ô-liu và nho.
Chúng không cần nhiều nước,
Nhưng quả mọng và to.

Đặc biệt hai nước ấy
Không chỉ giỏi nghề nông,
Còn giỏi nghề làm rượu
Và nhiều nghề thủ công,

Như nghề luyện kim loại
Làm công cụ, nữ trang,
Nghề thủy tinh, gốm sứ,
Cả nghề tìm, đãi vàng.

Rô-ma và Hy Lạp
Có nhiều cảng nước sâu,
Nên buôn bán phát triển,
Tấp nập thuyền và tàu.

Xã hội hai nước ấy
Gồm có hai loại người -
Chủ nô và nô lệ.
Tỉ lệ một trên mười.

Nô lệ phải làm việc
“Như nô lệ”, tất nhiên.
Bị coi như súc vật,
Không cơm áo, gạo tiền.

Chủ nô, tức quí tộc,
Lại sung sướng cực kỳ.
Chỉ ăn chơi, nhảy múa,
Không động tay làm gì.

Nô lệ đã khởi nghĩa
Rất nhiều lần ở đây,
Vì họ không cam chịu
Cuộc sống bất công này.

*
Vào buổi bình minh ấy,
Các quốc gia cổ xưa
Đạt được những thành tựu,
Cũng không phải loại vừa.

Trung Quốc có âm lịch,
Mười hai tháng một năm.
Ba mươi ngày một tháng,
Tính toán cả ngày rằm.

Họ có đồng hồ nước,
Đồng hồ cát để bàn
Để đo và tính toán
Giờ giấc và thời gian.

Người Phương Đông thời cổ
Nghĩ ra chữ tượng hình
Để ghi lại cảm nghĩ
Và văn hóa của mình.

Trong lĩnh vực toán học,
Người Lưỡng Hà là người
Nghĩ ra các con số
Từ một cho đến mười.

Những con số đơn giản
Các cháu dùng ngày nay.
Đơn giản như khi đếm
Mười ngón trên hai tay.

Trong khi người Ai Cập
Lại tìm ra số Pi,
Vì họ giỏi Hình Học,
Chính xác đến lạ kỳ.

Trong lĩnh vực xây dựng,
Họ để lại cho ta
Rất nhiều Kim Tự Tháp,
Thành quách ở Lưỡng Hà.

Người Rô-ma, Hy Lạp
Vào thời ấy mịt mùng
Đã có bảng chữ cái
Nay nhiều nước vẫn dùng.

Trong các lĩnh vực khác,
Như Toán, Sử, thơ văn,
Vật Lý, Triết, Hình Học,
Điêu Khắc, Địa, vân vân,

Xuất hiện nhiều tên tuổi
Có thể gọi khổng lồ -
Pla-tông, A-si-met,
Ta-let, Pi-ta-go…

Trong lĩnh vực xây dựng
Và kiến trúc ở đây,
Nhiều công trình đồ sộ
Tồn tại đến ngày nay.

Ông đã chiêm ngưỡng chúng -
Đấu trường Cô-li-dê
Ở Rô-ma cổ kính.
Không tin à? Ông thề.

Ông còn đến Hy Lạp,
Thăm đền Pac-tê-nông.
To, đẹp, hoành tráng lắm.
Sao, lại không tin ông?

Mai sau các cháu lớn,
Cứ đến những nơi này,
Ngắm chúng và hãy nhớ
Lời ông nói hôm nay.

Các cháu mệt chưa nhỉ?
Chưa à? Có gì đâu.
Học lịch sử thích lắm,
Như ông nói từ đầu.

Ngày mai ông sẽ nói
Về lịch sử nước nhà.
Giờ ngồi im, ông kể
Chuyện một cậu lớp Ba.

Câu chuyện này có thật,
Đúng mắt thấy, tai nghe,
Khi thăm nhà người bạn,
Mới đây thôi, xin thề.


CHUYỆN CẬU BÉ VÀ BA ĐIỂM MỘT

Cậu nọ đi học về
Liền giấu ngay sổ điểm,
Nhưng bà mẹ đòi xem -
Cậu hết đường giấu diếm.

Mẹ chau mày thở dài,
Chỉ thấy toàn điểm một.
Bố giận dữ hồi lâu
Nhìn cậu con học dốt.

- Vì sao cô cho con
Con một này?- Bố quát.
-Vì con yếu môn sinh,
Gọi chim là bò sát.

-Thế điểm một thứ hai?
Cậu kia liền nhăn nhó:
-Con tưởng Kenguru
Mọc ngoài đồng như cỏ.

-Điểm một là còn cao!
Bà mẹ rơi nước mắt.
-Nhưng trường con xưa nay
Điểm một là thấp nhất.

Còn điểm một thứ ba
Là do con dốt toán.
Đề bài hỏi: Vậy là
Lớp B bao nhiêu bạn?

Con giải suốt một giờ,
Tính trên rồi tính dưới,
Cuối cùng thành: Lớp B
Có hai mươi bạn rưỡi.


6
NƯỚC VĂN LANG

Vào thời xa xưa ấy
Đất nước của chúng ta
Là một vùng rậm rạp
Núi và đồi bao la.

Có rất nhiều hang động
Và cây cối tốt tươi
Cùng nhiều loài động vật,
Tất nhiên, có cả người.

Các nhà khảo cổ học,
Năm sáu mươi, sáu lăm,
Tìm thấy dấu tích họ,
Ba, bốn trăm triệu năm.

Họ sinh sống rải rác
Ở Hòa Bình, Hạ Long,
Nghệ An và Phú Thọ…
Chủ yếu dọc các sông.

Ngoài săn bắn, hái lượm,
Để có thêm thức ăn,
Họ chăn nuôi, trồng trọt,
Cuộc sống khá hơn dần.

Gần ba nghìn năm trước,
Dọc theo các triền sông
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
Như sông Mã, sông Hồng,

Có nhiều bộ lạc lớn,
Đã hình thành khắp nơi,
Chung phong tục, ngôn ngữ,
Hùng mạnh và đông người.

Trong đó, hùng mạnh nhất
Là bộ lạc Văn Lang
Ở Việt Trì, Phú Thọ,
Sống theo các bản làng.

Khoảng thế kỷ thứ Bảy
Trước Công Nguyên, một người,
Một thủ lĩnh tài giỏi
Của Văn Lang ra đời.

Ông nhanh chóng khuất phục
Các bộ lạc bốn phương,
Thanh thế rất mạnh mẽ,
Rồi tự xưng Hùng Vương.

Ông lập một nước mới,
Đặt tên là Văn Lang,
Đóng đô ở Phú Thọ,
Thuộc thời đại Hồng Bàng.

Đất nước ấy rộng lớn,
Gồm Bắc Bộ bây giờ
Và vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên thơ.

Nước có mười lăm bộ,
Giống huyện quận ngày nay,
Đứng đầu là Lạc Tướng.
Bên dưới các bộ này

Có rất nhiều chiềng, chạ,
Tương đương như xã, làng,
Đứng đầu là Bồ Chính,
Chức quan thời Văn Lang.

Nhà nước chưa có luật,
Cả quân đội cũng không.
Mỗi khi có chiến sự,
Các trai tráng một lòng

Theo lệnh vua chiến đấu.
Lạc Tướng luôn dẫn đầu.
Lo các việc chính sự
Có các quan Lạc Hầu.

Kiểu cha truyền con nối,
Các vua lên ngai vàng.
Mị Nương là công chúa.
Hoàng tử là Quan Lang.

*
Là một nước nông nghiệp,
Dân nước ta bấy giờ
Giỏi về canh tác lúa,
Biết dệt vải, thêu thùa.

Chiếc trống đồng Ngọc Lũ,
Phát hiện ở Hà Nam
Và một số trống khác
Cũng người thời ấy làm.

Họ còn biết dùng sắt
Đúc vũ khí, lưỡi cày.
Đánh cá, nuôi gia súc,
Đóng thuyền và trồng cây.

Vì còn nhiều thú dữ
Nên dân ở nhà sàn.
Nhà làm bằng tre nứa,
Tường là các tấm đan.

Nam giới chỉ đóng khố.
Nữ mặc váy, yếm che.
Chân trần, đầu thường đội
Một vòng lông chim xòe.

Dân Văn Lang thời ấy
Xăm mình, nhuộm răng đen.
Theo chế độ mẫu hệ
Và thờ cúng tổ tiên.

Vào những ngày lễ hội
Họ tổ chức đua thuyền,
Thi giã gạo, làm bánh,
Trong tiếng trống, tiếng kèn.

Nước Văn Lang thế đấy,
Có từ thời xa xưa.
Một đất nước rộng lớn.
Các cháu nghe, nhớ chưa?

Bây giờ ông sẽ kể
Câu chuyện cổ tích này,
Xẩy ra vào thời ấy.
Về bánh chưng, bánh dày.


SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG, BÁNH DÀY

Đời Hùng Vương thứ sáu,
Khi giặc Ân không còn,
Vua có ý thoái vị,
Muốn nhường ngôi cho con.

Vua gọi các hoàng tử,
Nhân năm mới, đầu xuân:
“Các con tìm lễ vật
Cùng nước uống, thức ăn

Làm sao thật ý nghĩa
Để thờ cúng đất trời,
Cúng thần linh, tiên tổ,
Đẹp dáng, đẹp lòng người.

Cuộc thi này đặc biệt,
Phần thắng thuộc về ai
Ta sẽ cho người ấy
Được thừa kế vương ngai.”

Các hoàng tử háo hức
Lên đường đi gần xa,
Tìm của ngon vật lạ,
Mong nối ngôi vua cha.

Con trai thứ mười tám,
Có tên là Lang Liêu,   
Vốn hiền hậu, hiếu thảo,
Đáng khen đủ mọi điều.

Mẹ không may chết sớm,
Việc thờ cúng tổ tiên
Chàng còn chưa được dạy,
Nên lo lắng, buồn phiên.

Một đêm, thần báo mộng:
“Suy cho cùng, ở đời
Không gì quý bằng gạo.
Gạo nuôi sống con người.

Vậy con lấy gạo nếp
Làm bánh vuông, bánh tròn.
Vuông tượng trưng cho đất.
Tròn là bầu trời con.

Trong bánh có nhân thịt,
Ngoài gói bằng lá xanh,
Để ghi sâu ơn nặng
Công cha mẹ sinh thành.”

Chàng Lang Liêu tỉnh dậy
Nhớ lời thần, rất mừng,
Làm bánh vuông, luộc chín,
Đặt tên là bánh chưng.

Chàng đồ xôi, giã mịn,
Rồi ngồi vắt bằng tay
Những bánh tròn bọc lá,
Gọi đó là bánh dầy.

Đúng hẹn, các hoàng tử
Mang đến trình vua cha
Nhiều món ăn ngon lạ
Của các miền gần xa.

Còn Lang Liêu, khiêm tốn,
Dâng bánh chưng, bánh dày.
Chàng nói rõ ý nghĩa
Của các loại bánh này.

Vua đích thân nếm thử
Thấy rất ngon, và rồi
Chàng là người được chọn
Để vua cha truyền ngôi.

Từ đó, Tết Nguyên Đán
Người dân khắp mọi miền
Làm hai loại bánh ấy
Cúng đất trời, tổ tiên.

*
Trong dân gian còn có
Một truyền thuyết rất hay
Về Vua Hùng ngày trước.
Câu truyện ấy thế này.

Hơn bốn nghìn năm trước
Đế Minh, cháu Thần Nông,   
Đi chơi vùng Ngũ Lĩnh,
Gặp nàng Vũ tiên rồng.

Kết quả mối tình ấy
Là một người con trai,
Đặt tên là Lộc Tục,
Quả một đấng anh tài.

Lộc Tục là con thứ,
Đế Minh cho làm vương
Của nước Nam, Xích Quỉ,
Được ví như thiên đường.

Đế Nghi, anh Lộc Tục,
Con trưởng của Đế Minh
Được làm vua phương Bắc,
Thuận lý và thuận tình.   

Khi lên ngôi, Lộc Tục
Trở thành Kinh Dương Vương,
Vị Vua Hùng thứ nhất
Của một nước hùng cường.

Một lần, Ngài thăm thú
Sông nước hồ Động Đình,
Gặp và lấy Long Nữ,
Con gái vua Thủy Tinh.

Lạc Long Quân, con họ,
Thông minh và có tài,
Về sau nối ngôi bố
Thành Vua Hùng thứ hai.

Tiếp đến là câu chuyện
Lạc Long Quân, Âu Cơ,
Chuyện cái bọc trăm trứng
Truyền tụng đến bây giờ.   

Gần hai thiên niên kỷ
Có mười tám Vua Hùng
Kế tiếp nhau trị nước,
Tước hiệu và tên chung.

Để nhớ ơn tiên tổ,
Ngày mồng Mười tháng Ba
Nhân dân làm lễ cúng,
Gọi là Ngày Giỗ Cha.

Các Vua Hùng dựng nước,
Vậy thì ta, cháu con,
Phải lo mà giữ nước
Để nước mãi trường tồn.


7
NƯỚC ÂU LẠC

Đời Hùng Vương Mười Tám,
Tức thế kỷ thứ Ba,
Trước Công Nguyên, hẳn thế,
Nước Văn Lang chúng ta

Không yên bình như trước.
Vua quan lo ăn chơi,
Không lo chuyện phòng vệ.
Dân đói ăn nhiều nơi.

Trong khi đó, Phương Bắc,
Vua Tần, Tần Thủy Hoàng,
Vào năm Hai Một Tám,
Cho đánh chiếm Văn Lang.

Người Lạc Việt thời ấy
Sống cùng người Tây Âu,
Còn gọi là Âu Việt,
Có quan hệ từ lâu.

Họ hợp sức chiến đấu.
Quân giặc mạnh và đông,
Giết thủ lĩnh Âu Việt,
Nhưng họ không nản lòng.

Sử cũ Trung Quốc chép
Về quân dân Văn Lang:
“Người Việt bỏ lên núi,
Nhất quyết không đầu hàng.

Ngày án binh bất động,
Đêm quấy nhiễu quân Tần.
Họ tôn một hào kiệt
Để lãnh đạo toàn dân.”

Hào kiệt ấy, Thục Phán,
Vừa có đức, có tài,
Ngăn được bọn xâm lược,
Làm chiến tranh kéo dài.

Sáu năm trời ròng rã
Quân giặc bị giam chân.
Trong một trận quyết chiến,
Quân Việt thắng quân Tần.

Tướng giặc bị giết chết
Là Hiệu Úy Đồ Thư.
Nhà Tần phải ra lệnh
Cho rút quân từ từ.

Vào năm Hai Không Bảy,
Sau chiến thắng không lâu,
Thục Phán lên ngôi báu.
Lạc Việt và Tây Âu

Được sáp nhập làm một,
Một nước mới ra đời,
Có tên là Âu Lạc,
Đất rộng và đông người.

Kinh đô của Âu Lạc
Đóng ở vùng Cổ Loa,
Một vùng đất bằng phẳng,
Cách Bờ Hồ không xa.

An Dương Vương Thục Phán
Sau khi lên ngai vàng,
Giữ nguyên bộ máy cũ
Của vua Hùng Văn Lang.

Nước vẫn chia thành bộ,
Có Lạc Tướng, Lạc Hầu,
Bồ Chính và chiềng chạ…
Vốn tồn tại từ lâu.

Đất nước đã phát triển,
Trước hết là nghề nông,
Nghề chăn nuôi, dệt vải,
Rồi các nghề thủ công.

Dân số gia tăng mạnh,
Nhưng khoảng cách giàu nghèo
Cũng gia tăng tương ứng,
Làm mâu thuẫn tăng theo.

*
Các cháu nghe, hiểu chứ?
Giờ ông kể vì sao
Âu Lạc đã sụp đổ,
Và trong hoàn cảnh nào.

Thục Phán cho xây dựng
Ở kinh đô của mình
Một khu thành bằng đất,
Sau gọi là Loa Thành.

Sử cũ chép: “Thành ấy
Rộng nghìn trượng, hình tròn,
Như chiếc loa vỏ ốc…”
Nay di tích vẫn còn.

Với ba vòng khép kín,
Tường thành này rất dài,
Những mười sáu nghìn mét,
Nếu ông nhớ không sai.

Mặt thành khoảng mười mét.
Chiều cao - năm đến mười.
Chân thành, để đứng vững,
Có chỗ rộng hai mươi.

Có hào sâu đầy nước
Bao bọc xung quanh thành,
Thông với một đầm lớn,
Dành cho các thủy binh.

Giữa là khu Thành Nội,
Nơi ở của Hoàng Gia,
Cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng
Đầy tớ và người nhà.

Cổ Loa, thành xưa ấy,
Không chỉ là kinh đô,
Mà còn một chiến lũy,
Cùng quân đội, lương kho.

*
Đất nước mới thành lập,
Được ít năm yên hòa
Thì có họa xâm lược
Từ phía quân Triệu Đà.

Triệu Đà là viên tướng
Được vua Tần ủy quyền
Cai quản xứ Lưỡng Quảng
Và những vùng kề bên.

Vào năm Hai Không Bảy,
Nhà Tần yếu, Triệu Đà
Lập nên nước Nam Việt
Ở vùng đất giáp ta.

Chẳng bao lâu sau đó
Triệu Đà đã dấy binh,
Rắp tâm đánh Âu Lạc,
Những tưởng sẽ thắng nhanh.

Tuy nhiên, quân Âu Lạc,
Có lợi thế đất nhà,
Tướng giỏi, vũ khí tốt,
Nên hắn thua, xin hòa.

Vào năm Một Bảy Chín,
Hắn lần nữa xuất quân
Sau khi đã ly gián
Thục Phán và triều thần.

Do không còn tướng giỏi,
Không chủ động phòng xa,
Đất nước ta, Âu Lạc,
Lọt vào tay Triệu Đà.

Vậy là các cháu thấy,
Thục Phán An Dương Vương,
Chỉ vì do khinh xuất,
Mà phải chết thảm thương.

Cũng bắt đầu từ đó,
Suốt một nghìn năm dài,
Dân ta là nô lệ
Của phong kiến nước ngoài.

Trong suốt nghìn năm ấy
Không khuất phục, đầu hàng,
Nhân dân ta nổi dậy,
Lập nhiều trang sử vàng.

Giờ thì ông sẽ kể
Một truyền thuyết đau lòng
Liên quan đến Thục Phán
Và con gái của ông.


MỴ CHÂU, TRỌNG THỦY

Xưa, ở nước Âu Lạc,
Vua là An Dương Vương
Muốn xây thành giữ nước.
Một việc rất bình thường.

Thành ấy hình xoắn ốc
Ở kinh đô Cổ Loa,
Phải cao và phải rộng,
Cấu trúc phải hài hòa.

Vua và dân xây mãi,
Thế mà không hiểu sao
Cứ ngày xây, đêm đổ,
Chẳng ai hiểu thế nào.

Vua lập đàn cầu tế,
Thần Kim Qui giúp ngài
Xây xong thành lũy ấy,
Vững chắc cả trong ngoài.

Xong, Kim Qui còn lấy
Một chiếc móng của mình
Đưa cho vua và nói
Nó sẽ giúp giữ thành.   

“Dùng nó làm lẫy nỏ,
Sẽ là chiếc nỏ thần,
Bắn trăm phát trăm trúng,
Một lúc giết nghìn quân.”

Vua liền sai Cao Lỗ,
Một người thợ thông minh,
Làm cho vua nỏ ấy,
Rồi luôn giữ bên mình.

Đó là chiếc nỏ đẹp
Và rất cứng, muốn dương,
Phải là tay lực sĩ
Có sức mạnh phi thường.       

Nước Nam Việt phía Bắc,
Đánh Âu Lạc nhiều lần
Nhưng luôn chịu thất bại
Vì gặp phải nỏ thần.

Nên ông vua nước ấy,
Có tên là Triệu Đà,
Bèn toan tính kế khác -
Cho con sang giảng hòa.   

Đó là chàng Trọng Thủy,
Đúng một đấng mày râu,
Cha bắt sang Âu Lạc
Để cầu hôn Mỵ Châu.

Mỵ Châu là con gái
Của vua An Dương Vương,
Một công chúa trong trắng,
Lại xinh đẹp khác thường.

Vì thơ ngây, trong trắng,
Và cả tin, nên nàng
Đem lòng yêu Trọng Thủy,
Không biết mưu cha chàng.

Về phần mình, Trọng Thủy
Cũng yêu nàng thiết tha,
Tình yêu cũng trong trắng,
Bất chấp ý đồ cha.

Thấy Mỵ Châu, Trọng Thủy
Yêu thương nhau thực lòng,
An Dương Vương đồng ý
Cho họ thành vợ chồng.

Một đêm trăng tuyệt đẹp,
Hai người ngồi trước thềm.
Nước dưới hồ lấp lánh
Nghìn vạn ánh sao đêm.   

Rồi như thể nhân tiện,
Trọng Thủy hỏi vợ mình
Bí quyết nước Âu Lạc
Giữ vững được Loa Thành.

Nghĩ đã là chồng vợ,
Không giấu diếm điều gì,
Mỵ Châu liền kể chuyện
Chiếc nỏ thần Kim Qui.

Hơn thế, nàng lấy trộm
Chiếc nỏ từ phòng cha,
Hướng dẫn cách sử dụng,
Tỉ mỉ và thật thà.

Ngày hôm sau Trọng Thủy
Xin phép được lên đường
Quay trở về Nam Việt
Để dự lễ Trùng Dương.

Trước khi đi, lưu luyến,
Chàng nói với Mỵ Châu:
“Sự đời khó biết trước,
Lần này ta xa nhau,   

Nhỡ can qua, ly biệt,
Khó biết đâu mà tìm.”
Mỵ Châu nói: “Nhà thiếp
Có chiếc áo lông chim.

Nếu không may loạn lạc,
Phải chịu cảnh tha hương,
Thiếp nhổ lông chiếc áo
Rồi bỏ lại dọc đường.

Theo đó mà tìm thiếp
Một khi chàng quay về.
Nói đoạn, nàng liền khóc,
Nước mắt chảy dầm dề.

Lại nói chàng Trọng Thủy
Về nước gặp Triệu Đà,
Kể hết về chiếc nỏ
Rồi đưa cho vua cha

Chiếc lẫy thần, chiếc móng
Của thần Rùa Kim Qui.
Chàng đã lấy trộm được
Mà không ai biết gì.

Mấy tháng sau, Nam Việt,
Với chiếc lẫy trong tay,
Cho quân đánh Âu Lạc,
Chắc thắng lợi lần này.       

Được tin giặc lại đến
Vua Việt, An Dương Vương,
Cậy nỏ thần vô địch,
Vẫn bình tâm như thường.

Nhưng khi đem nỏ bắn
Thì thấy mất lẫy thần,
Thành Cổ Loa thất thủ,
Vua phải trốn, thoát thân.

Chỉ một mình một ngựa,
Người ngựa phóng như bay,
Sau lưng là con gái,
Liên tục suốt mấy ngày.       

Nàng Mỵ Châu lấy áo,
Nhổ lông rắc dọc đường.
Cuối cùng đến dãy núi,
Đêm vừa buông, mù sương.

Ngọn núi ấy gần biển,
Phía trước không đường đi.
Sau lưng giặc đang đuổi.
Vua không biết làm gì.

Ngài xuống ngựa, cầu khấn
Thần Kim Qui giúp mình.
Khấn xong, trời nổi gió
Và mặt biển rùng mình.

Thần Kim Qui xuất hiện:
“Giặc đang ngồi phía sau!”
Vua Âu Lạc chợt hiểu,
Liền chém con đứt đầu.

Rồi ngài ôm con khóc,
Leo lên tảng đá cao,
Nhảy xuống biển tự tử.
Biển nổi sóng dâng trào.

Nhớ lời vợ, Trọng Thủy
Liền lên đường đi tìm.
Chàng cứ đi, đi mãi,
Lần theo vết lông chim.

Khi đến núi Mộ Dạ,
Chàng tìm thấy Mỵ Châu,
Người vợ chàng yêu quí,
Chết, mà không có đầu.

Chàng ôm vợ than khóc,
Day dứt và chân thành.
Rồi vội vàng lên ngựa
Đem vợ về kinh thành.

Chàng làm lễ mai táng
Theo nghi thức vương gia,
Rồi gieo đầu xuống giếng
Chết trong thành Cổ Loa.

Chiếc giếng ấy, được biết,
Đã trải qua nhiều đời.
Nghe nói lấy nước giếng
Rửa ngọc, ngọc sáng ngời.

8
HAI BÀ TRƯNG (mất năm 43)

Bắt đầu giai đoạn mới
Trong lịch sử nước nhà -
Một nghìn năm lệ thuộc
Vào phong kiến Trung Hoa.

Vào năm Một Bảy Chín
Trước Công Nguyên, Triệu Đà
Sáp nhập vào Nam Việt
Nước Âu Lạc của ta.

Nam Việt, như ta biết
Là Lưỡng Quảng ngày nay,
Vùng đất thuộc Trung Quốc,
Tức Quảng Đông, Quảng Tây.

Triệu Đà chia Âu Lạc
Thành hai quận, đông dân
Và rộng lớn lúc ấy,
Là Giao Chỉ, Cửu Chân.

Giao Chỉ ở Miền Bắc,
Còn Cửu Chân bây giờ
Thuộc vùng Thanh Nghệ Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên thơ.

Vào năm Một Một Một,
Nhà Hán chiếm nước ta.
Lập thêm một quận nữa,
Nhật Nam, quận thứ ba.

Quận này đất cũng rộng,
Nhưng người thưa, hanh khô,
Từ Quảng Bình cát trắng
Đến Quảng Nam bây giờ.

Nhà Hán nhập ba quận
Với vùng đất người Tàu,
Thành một Châu rộng lớn,
Đặt tên là Giao Châu.

Thủ phủ của Châu ấy
Đóng ở huyện Thuận Thành.
Luy Lâu là tên cũ,
Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Thái Thú đứng đầu quận.
Thứ Sử đứng đầu Châu.
Tất cả đều người Hán.
Còn Lạc Tướng, Lạc Hầu

Vẫn giữ nguyên người Việt.
Cai trị vẫn như xưa.
Dân chịu nhiều sưu thuế,
Thân phận như trâu, lừa.

Năm Ba Tư, Tô Định
Được nhà Hán cử sang
Làm Thái Thú Giao Chỉ.
Tên này loại làng nhàng,

Nhưng nham hiểm, độc ác,
Chuyên vơ vét cho mình,
Làm nhiều điều ngang ngược,
Gây khổ cho dân tình.

*
Bấy giờ ở vùng đất
Nay thuộc huyện Mê Linh,
Có hai chị em gái
Vừa đẹp vừa thông minh.

Con một vị Lạc Tướng.
Trưng Trắc là cô đầu.
Cô em là Trưng Nhị,
Ghét Tô Định từ lâu.

Quan Thái Thú Tô Định,
Gian xảo và đê hèn
Lập mưu giết Thi Sách,
Con quan huyện Châu Diên.

Ông là chồng Trưng Trắc,
Trước đó từng bất bình
Với cách quan nhà Hán
Cai trị dân nước mình.

Vào đầu năm Canh Tý,
Tức là năm bốn mươi,
Hai Bà Trưng khởi nghĩa   
Thu hút rất nhiều người.

Trước hết đền nợ nước,
Sau để trả thù nhà.
Nghĩa quân thắng dòn dã,
Nức lòng dân gần xa.

Theo truyền thuyết kể lại,
Hay tin, Nguyễn Tam Trinh
Từ Mai Động kéo đến
Cùng hai nghìn tráng binh.

Hơn ba nghìn lính nữ
Theo chủ tướng, Ông Cai,
Gia nhập quân khởi nghĩa,
Từ vùng đất Thanh Oai.

Quân Hai Bà rất mạnh.
Sáu lăm thành đầu hàng.
Tô Định trốn về nước,
Nhục nhã và vội vàng.

Hai Bà lập nước mới,
Kinh đô ở Mê Linh,
Đuổi Thái Thú phương Bắc,
Cai trị theo cách mình.

Đứng đầu đất nước ấy
Là hai vị nữ vương.
Xưa nay trong lịch sử,
Một sự kiện phi thường.

Năm Bốn Hai, nhà Hán
Sai Mã Viện Phục Ba,
Lưu Long làm phó tướng,
Sang chiếm lại nước ta.

Cùng rất nhiều xe ngựa
Và hai vạn tinh binh
Chúng tấn công Hợp Phố,
Và cướp bóc dân tình.

Mã Viện đi đường thủy,
Lưu Long đi đường rừng,
Gặp phải sự chống cự
Của quân Hai Bà Trưng.

Quân Mã Viện thế mạnh,
Áp tới tận La Thành.
Nghĩa quân không chống nổi,
Rút lui bảo vệ mình.

Sau một năm cầm cự,
Dũng cảm và kiên cường,
Quân Hai Bà đành rút,
Binh sĩ chết đầy đường.

Cuối cùng đến Phúc Thọ,
Giặc dụ dỗ ra hàng,
Nhưng Hai Bà tuẫn tiết,
Nhảy xuống dòng Hát Giang.   

Ở đấy giờ đang có
Ngôi đền thờ Hai Bà,
Một tấm gương trung liệt,
Trả nợ nước, thù nhà.

Quân Mã Viện tuy thắng,
Nhưng thiệt hại nặng nề.
Mười phần chết sáu, bảy
Ở vùng đất Cấm Khê.

*
Lại nói tướng Mã Viện,
Khi việc bình định xong,
Hắn ngạo nghễ cho đúc
Chiếc cột lớn bằng đồng.

Trên cột đồng hắn khắc
Hai dòng chữ sơn son:
“Khi cột đồng này gãy,
Đất Giao Chỉ không còn.”

Thật láo và hợm hĩnh
Viên tướng người Tàu này.
Cột đồng giờ chẳng thấy,
Nước Việt vẫn còn đây.

Hơn thế, còn hùng mạnh,
Đã đánh đuổi nhiều lần
Khiến quân giặc phương Bắc.
Hoảng sợ, chẳng dám gần.

*
Chuyện Trưng Trắc, Trưng Nhị,
Thế là ông kể xong.
Một trang sử chói lọi
Sống mãi cùng non sông.

Ngày mai ông kể tiếp
Chuyện bà Triệu Thị Trinh,
Hay còn gọi Bà Triệu,
Một anh hùng xứ Thanh.

Bây giờ, để giải trí,
Các cháu nghe chuyện này.
Chuyện ngụ ngôn Esôp,
Ý nghĩa và rất hay.


ÔNG GIÀ VÀ THẦN CHẾT

Xưa có ông già nọ,
Rất già yếu, thế mà
Phải hàng ngày hái củi
Ở tít trong rừng xa.
   
Một hôm, hái xong củi,
Đang định cõng mang về,
Nhưng bó củi quá nặng,
Lưng thì đau và tê,

Ông lão kêu tuyệt vọng:
“Thật khốn khổ thân tôi!
Chỉ mong sao Thần Chết
Đến bắt đi cho rồi!”

Lập tức, Thần Chết đến.
Đó là một bộ xương,
Một tay cầm lưỡi hái,
Đáng sợ và dị thường.

Ông lão run lập cập.
“Ngươi vừa mới gọi ta?”
“Vâng, ta muốn Thần Chết
Mang bó củi về nhà!”

Bây giờ các cháu biết,
Không phải mong ước nào
Cũng muốn thành hiện thực.
Cuộc sống lạ kỳ sao.   


9
BÀ TRIỆU (225 -248)

Hôm qua ông đã nói,
Vì sưu thuế nặng nề,
Dân Giao Châu cơ cực
Và khốn khổ đủ bề.

Nhiều nơi dân khởi nghĩa
Chống lại ách ngoại bang,
Khiến vua quan Trung Quốc
Phải hoảng sợ, kinh hoàng.

Thái Thú quận Giao Chỉ
Là Tiết Tống tâu vua:
“Dân Giao Chỉ khó trị,
Đất lam chướng bốn mùa…”

Năm Hai Trăm Bốn Tám,
Giữa thế kỷ thứ Ba,
Một cuộc khởi nghĩa lớn
Có nhiều người tham gia.

*
Một truyền thuyết kể lại,
Xưa ở quận Cửu Chân
Có một con voi trắng
To đẹp như voi thần.

Nó xuống núi phá phách,
Dẫm đạp hết mùa màng.
Nhiều khi còn táo tợn
Xông cả vào xóm làng.

Con voi thật to lớn,
Duy nhất chỉ một ngà.
Ai nhìn thấy cũng sợ,
Phải né tránh từ xa.

Thế mà một cô gái,
Xinh đẹp, để vai trần,
Quyết tay không bắt nó   
Để trừ hại cho dân.

Cô đi trước, khiêu khích,
Nhử nó ra đầm sình,
Rồi nhảy lên đầu nó
Đưa về nuôi nhà mình.   

Về sau, cô gái ấy
Chiêu quân chống giặc Ngô,
Luôn cưỡi nó ra trận,
Voi một ngà, khổng lồ.

Truyền thuyết còn kể lại
Rằng ngực cô rất dài,
“Dài tới hơn ba thước”,
Thường phải vắt lên vai.

Quân giặc nhìn, cả sợ,
Liền bỏ chạy thoát thân.
Cô gái ấy xinh đẹp,
Oai nghiêm như vị thần.

*
Cô gái trong huyền thoại,
Tên là Triệu Thị Trinh,
Một anh hùng dân tộc,
Dám vì dân quên mình.

Bà người huyện Yên Định,
Tỉnh Thanh Hóa bây giờ,
Không may bố mẹ chết
Khi đang còn trẻ thơ.

Anh bà, Triệu Quốc Đạt,
Nuôi em như mẹ hiền.
Ông là một hào trưởng,
Làm huyện lệnh Quan Yên.

Lớn lên, bà giỏi võ,
Có sức khỏe hơn người,
Lại nung nấu chí lớn
Muốn ra tay giúp đời.

Gặp người chị dâu ác,
Bà trốn nhà đi xa,
Lên rừng chiêu binh mã,
Hơn nghìn người theo bà.

Thấy giặc Ngô tàn ác,
Bà về bàn với anh
Cùng khởi binh chống lại,
Và được anh đồng tình.

Từ căn cứ Yên Định,
Nghĩa quân lấn đánh dần,
Chiếm quận lỵ Tư Phố,
Rồi cả vùng Cửu Chân.

Quốc Đạt lâm bệnh chết,
Bà cầm quân thay anh.
Ra trận mặc giáp bạc,
Cưỡi voi, cài trâm anh.

Trông bà thật lẫm liệt,
Xinh đẹp như nữ thần,
Nên người ta thường gọi
Là “Nhụy Kiều Tướng quân.”

*
Nghe tin có bạo loạn,
Vua Ngô rất lo âu,
Liền cử tướng Lục Dận
Làm thứ sử Giao Châu.

Cùng sáu nghìn binh mã,
Theo đường bộ tới đây,
Hắn quyết tâm đàn áp
Cuộc khởi nghĩa lần này.

Hắn dùng tiền mua chuộc
Nhiều hào trưởng địa phương,
Hứa phong cho Bà Triệu
Chức Lệ Hải Bà Vương.

Tất nhiên Bà từ chối,
Nhất quyết không đầu hàng.
Nghĩa binh được khích lệ,
Tinh thần càng vững vàng.

Nhiều trận đánh ác liệt
Ở căn cứ Bồ Điền.
Nhưng do lực quá yếu,
Thiếu lương thực và tiền,

Nên chỉ sau hai tháng
Cầm cự rất kiên cường,
Thành Bồ Điền thất thủ,
Rơi vào tay đối phương.

Bà Triệu đã tuẫn tiết
Trên núi Tùng đầy mây.
Nó ở xã Triệu Lộc,
Huyện Hậu Lộc ngày nay.

Bà mới hăm ba tuổi,
Chết, để lại tấm lòng
Và chiến công hiển hách,
Sống mãi với non sông.

*
Giờ thì các cháu thấy
Rằng phụ nữ nước ta
Đúng là thật oanh liệt.
Thật oanh liệt các Bà.

Bà Trưng rồi Bà Triệu.
Rồi sau nữa con nhiều.
Tổ tiên chúng ta đấy.
Ngoan cường và đáng yêu.

Bây giờ, như thường lệ,
Nào, ngồi xích lại đây.
Lại kể chuyện cố tích,
Cực nhộn và cực hay.


VUA LỢN   

Xưa, có anh chàng nọ,
Nhà nghèo, không mẹ cha,
Phải đi ở từ bé
Cho ông quan huyện già.   

Vì làm lụng vất vả,
Vì ở bẩn thành quen,
Anh chàng bẩn như lợn.
Và Lợn cũng là tên.   

Một hôm, đang kỳ cọ
Chân quan huyện bên bồn,
Hắn thấy mu chân chủ
Có ba nốt ruồi son.

Buột miệng thôi, Lợn nói
Hắn cũng có sau lưng
Chín nốt ruồi như thế.
Quan nghe, bảo hắn dừng,   

Cởi áo, quan xem kỹ.
Quả có chín nốt ruồi.
Xếp thành hàng thật đẹp,
Nốt nào cũng hồng tươi.

Không nghi ngờ gì nữa.
Đây là tướng làm vua.
Thằng Lợn thành vua Lợn?
Đây không phải chuyện đùa.

Quan quyết định giết hắn,
Bèn lệnh cho nô tỳ,
Bảo như thế, như thế,
Như thế cứ làm đi.   

Nô tỳ tên là Gái,
Thầm yêu Lợn lâu nay,
Bèn báo cho Lợn biết,
Bảo phải trốn đi ngay.

Lợn sợ, đi xa lắm,
Theo dòng sông ngược lên,
Cuối cùng hắn được nhận
Giúp việc trong ngôi đền.

Đền có tượng hộ pháp
To lớn và phương phi.
Lợn lau, với không tới,
Bèn nói: “Ngồi xuống đi.”

Thật lạ, ông hộ pháp
Nghe nói thế liền ngồi.
Lau xong, lại đứng dậy,
Còn mỉm cười, nhếch môi.

Ban đêm Lợn bảo tượng
Ra tập võ cho mình.
Có hôm tập hăng quá
Đến tận rạng bình minh.

Ông chủ đền thấy lạ,
Bèn hỏi rõ đầu đuôi.
Lợn thật thà kể hết,
Kể cả chuyện nốt ruồi.

Ông già báo quan huyện.
Quan đến bắt Lợn đi
Vì ngài vẫn muốn giết
Cái thằng này lạ kỳ.

Bất chợt một toán cướp
Từ trong rừng nhảy ra,
Đánh quân lính tan tác
Rồi khênh Lợn về nhà.

Ở đấy, chúng sụp lạy
Trước Lợn rồi kính thưa:
Đêm qua thần báo mộng
Hôm nay sẽ gặp vua.

Lợn vui vẻ đồng ý
Làm thủ lĩnh nghĩa quân,
Được tắm rửa sạch sẽ
Và thay mới áo quần.

Nhưng tên Lợn vẫn giữ.
Thủ lĩnh Lợn oai phong.
Các anh hùng hào kiệt
Đến tụ nghĩa rất đông.       

Rồi khởi nghĩa thắng lợi,
Lợn được tôn làm vua.
Một vị vua rất oách,
Vua thật chứ chẳng đùa.

Một lần ngài kinh lý,
Thấy cô Gái năm nào.
Gái nói: “Vua oai nhỉ?”
Ngài đáp: “Ừ, thì sao?

Có muốn làm hoàng hậu
Thì lên xe đi cùng.”
Gái gật đầu: “Cũng được.”
Rồi hai người về cung.


10
NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

Nhà Đông Hán suy yếu,
Đầu thế kỷ thứ ba.
Ba nước Ngô, Thục Ngụy
Ra đời ở Trung Hoa.

Đó là thời Tam Quốc,
Khi ba nước tranh tài.
Nhà Ngô đã tự tiện
Chia Giao Châu thành hai.

Phần đất ở Trung Quốc
Được gọi là Quảng Châu.
Phần của Âu Lạc cũ
Thì gọi là Giao Châu.

Khi dẹp xong khởi nghĩa,
Các triều vua Trung Hoa
Cử người sang cai trị
Các huyện ở nước ta.

Cùng thời gian, đất nước
Phát triển hơn xưa nhiều.
Nhưng người dân vẫn khổ
Và cơ cực đủ điều.

Nhân tiện, ông muốn nói,
Rằng vào thời gian này,
Thế kỷ Một đến Sáu,
Đã có nhiều đổi thay

Trong đời sống văn hóa
Và tinh thần nước ta.
Nho Giáo rồi Đạo Giáo,
Rồi Đạo Phật Thích Ca

Được người Hán du nhập
Vào đời sống hàng ngày.
Sơ bộ, ông giải thích
Về từng đạo thế này.

*
Nho Giáo, hay Khổng Giáo,
Do Khổng Tử lập ra.
Là bộ luật ứng xử
Và lễ nghĩa người Hoa.

Khổng Tử người nước Lỗ,
Thông minh và thâm trầm,
Một triết gia cổ đại,
Hai nghìn năm trăm năm.

Cơ sở của Nho Giáo
Là Tứ Thư, Ngũ Kinh.
Nó dạy người nhỏ tuổi
Phải chăm lo học hành.

Luôn kính yêu cha mẹ,
Lớn, xây dựng nước nhà.
Như các cụ vẫn nói:
“Tu thân rồi tề gia…”

Sống, có trên có dưới,
Đúng đạo lý làm người.
Vua được gọi “Thiên Tử”,
Nôm na là “Con Trời’.

Nó dạy nhiều điều khác,
Nói chung, toàn điều hay.
Ảnh hưởng của Nho Giáo
Còn đến tận ngày nay.

*
Cùng thời với Khổng Tử,
Có Lão Tử, là người
Đã lập nên Đạo Giáo,
Chủ trương sống ở đời

Phải tuân theo số phận
Và qui luật tự nhiên.
Sống giản đơn, thanh bạch,
Không lo lắng, buồn phiền.

Ông cũng là tác giả
Bộ sách Đạo Đức Kinh.
Dựa vào nó, Lão Tử
Xây dựng thuyết của mình.

Đạo Giáo bao quát rộng,
Ngoài nghi lễ tinh thần,
Còn có cả tướng số,
Thuốc chữa bệnh, thiên văn.

Cả phép trừ ma thuật,
Cả phong thủy, pháp thiền,
Dưỡng sinh và diệt độc,
Cả phép luyện thuốc tiên…

Một người khác, Trang Tử,
Cũng đóng góp phần mình
Vào tư tưởng Đạo Giáo
Bằng cuốn Nam Hoa Kinh.

Ông này, theo truyền thuyết,
Có giấc mơ lạ thường.
Ông mơ mình hóa bướm,
Bay lượn mãi bên đường.

Tỉnh dậy, ông rất tiếc,
Thấy mình vẫn là người,
Không biết mơ hay tỉnh,
Đành thở dài, mỉm cười.

*
Quê hương của Phật Giáo
Không phải nước Trung Hoa,
Mà là nước Ấn Độ.
Đức Phật là Thích Ca.

Ngài là người có thật,
Sinh tháng Tư, ngày Rằm,
Cách đây đã lâu lắm -
Hai nghìn năm trăm năm.

Giáo lý của Đạo Phật
Chủ yếu ba điều này:
Không được làm việc ác,
Làm việc thiện hàng ngày.

Điều thứ ba, luôn nhớ
Làm sạch ý nghĩ mình
Bằng cách ngồi thiền định
Hoặc niệm Phật, cầu kinh.

Thế giới, ba Đạo lớn,
Là Đạo Phật lâu đời,
Rồi đến Đạo Thiên Chúa,
Cuối cùng là Đạo Hồi.

Đạo Phật giúp hướng thiện,
Xua đuổi cái ác tà,
Làm lòng người nhân ái,
Xã hội đẹp, hài hòa.

Vậy là ông nói hết
Tam Giáo của người Tàu,
Nhập vào đời sống Việt,
Cái thuở ấy ban đầu.

*
Các cháu mệt chưa nhỉ?
Không sao, ông có đây
Thêm một truyện cổ tích.
Truyện rất nhộn, thế này.


MƯỜI VOI KHÔNG ĐƯỢC BÁT NƯỚC XÁO

Xưa, có ba cô gái,
Đến tuổi, đi lấy chồng.
Thành ra nhà ba rể.
Ba ắt tốt hơn không.

Hai anh đầu giàu có,   
Nghiêm chỉnh và đàng hoàng.
Anh thứ ba nghèo khổ,
Lại còn thói huênh hoang.

Một hôm, bố vợ chết,
Hai anh mang lợn, xôi.
Anh thứ ba tay trắng,
Còn khinh khỉnh bĩu môi:

“Lợn hai bác bé quá.
Để bây giờ em đi
Mua mười voi làm cỗ
Chừng ấy thấm tháp gì.”

Rồi anh ta đi thật.
Đi đâu không ai hay,
Bắt người ta chờ mãi,
Cho đến khi tối ngày

Anh ta mới quay lại,
Tay không vẫn tay không,
Rồi làm bộ giận dữ:
“Thật đúng là mất công.

Cái nhà kia thật láo,
Tôi định mua mười voi,
Mà hắn chỉ có tám,
Thế là chờ công toi.”

Rồi anh ta ngồi xuống,
Thản nhiên chén ngon lành,   
Lại chê con lợn bé,
Không có mỡ trong canh.

Từ đấy mới có chuyện
Nói khoác những mười voi,
Không được bát nước xáo.   
Một anh rể không tồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét