Truyện Thơ Tám Câu
CHIẾC VÍ CÓ PHÉP LẠ
1
Ta, con người, như Bairơn đã nói,
Đúng là con rất khó hiểu - Hàng ngày
Ta cay cú luôn mong tìm thay đổi.
Để làm gì? Để rồi lại chán ngay.
Và cứ thế, ta bắt ta mệt mỏi
Chạy theo nhiều những quả bóng đang bay.
Nói tóm lại, chúng ta, thưa các bạn,
Rất chóng thích để lại rồi chóng chán.
2
Tôi cũng thế, gần ba mươi năm chẵn
Viết, dịch thơ, in mấy chục tập liền,
Rồi thấy chán, quay sang nghề truyện ngắn,
Không quá tồi, và cũng được người khen.
Thế mà bỗng không đâu tôi phát bẳn
Bỏ giữa chừng, dù tay bút đang lên.
Vậy thì tôi muốn gì? Tôi chẳng biết.
Hay gác bút mà rửa tay, ngừng viết?
3
Vâng, có lẽ. Tôi chán văn, chán dịch.
Chán làm thơ. Chán phụ nữ. Chán đời.
Được in báo, tôi không còn thấy thích.
Tôi chán mình - một ông lão dở hơi,
Tuổi mới quá năm mươi nhưng ục ịch,
Xa lánh đời, xa lánh chốn ăn chơi...
Hay tại béo mà tôi thành tắc tị?
Đã bao giờ bạn thế này chưa nhỉ?
4
Nhưng dẫu sao, do không quen nhàn nhạ,
Tôi bỗng nhiên nảy ý định: bây giờ
Vẫn cứ viết, viết dung hòa tất cả,
Thử sức mình qua truyện, ký bằng thơ.
Sao, lại thơ? Lại thơ ư? Khổ quá!
Ai lúc này còn tâm trí mộng mơ!
Không có anh, dân nước ta đã khổ.
Còn chưa nói anh từ thơ năm nọ.
5
Vâng, tôi biết, xin đừng lo vô cớ.
Tôi viết chơi, viết để đấy thôi mà.
Không gửi báo, không ai xem, đừng sợ.
Họa sau này khi tôi chết, người ta
Có đem in, thì coi như sự nhỡ,
Tôi không còn, bạn cũng thế, thành ra
Chẳng hại ai, mà chắc gì ai đọc?
Ai nỡ trách một đôi lời tán dóc?
6
Vậy là tôi lại theo đường truyện ngắn,
Truyện bằng thơ, nghe mà khiếp. Viết gì?
Đủ mọi chuyện. Nhưng một điều chắc chắn
Là hoàn toàn không có chuyện lâm ly.
Toàn chuyện vui, không cao sang, giáo huấn,
Không chuyện tình phức tạp, dẫu nhiều khi...
Nhưng mà thôi, đọc truyện này, các bạn,
Tôi cam đoan, không quá ư buồn chán.
7
Đêm tháng Bảy, gió hây hây thổi nhẹ,
Dưới ánh trăng, cây đứng ngủ la đà.
Đồng mới gặt, nghe buồn buồn tiếng dế.
Ngọn núi mờ một mảng tối xa xa...
Một cảnh đẹp và nên thơ, hẳn thế,
Nhưng anh chàng nhân vật của chúng ta
Chẳng còn chút tâm trí nào ngắm cảnh,
V ì đang bận một mối lo canh cánh.
8
Đã bao giờ bạn hết tiền chưa nhỉ?
Một mối lo dung tục, rất đời thường,
Thế mà luôn bám theo ta không nghỉ,
Khiến ta buồn, thành bất lực, đáng thương.
Đến cái mức nhiều khi ta cứ nghĩ
Bọn nhà giàu toàn một lũ bất lương
(Là cái bọn ta muốn thành, không nổi.
Nghèo rất hèn, dẫu không là tội lỗi).
9
Vâng, anh bạn của chúng ta nghĩ thế,
Tuổi ba lăm, tư cách tốt, rất hiền,
Rất yêu vợ, một cô nàng xinh trẻ,
Không ít người còn ví đẹp như tiên.
Mà đã tiên thì than ôi, không thể
Cam cảnh nghèo, cần đủ thứ, tất nhiên.
Chồng phải lo, lo đâu không cần biết.
Lo không được thì coi như chấm hết!
10
Và cứ thế, anh ta đi, lo nghĩ
Biết tìm đâu khoảng ba, bốn triệu đồng
Mua cho vợ cái mobile kiểu ý.
Cái vợ đòi, ai dám nỡ nói không?
Bỗng bất chợt thấy trên đường chiếc ví,
Mở ra nhìn, các vị đoán ra không:
Ví lép kẹp, có một tờ giấy bạc
Loại trăm nghìn, ngoài ra không gì khác.
11
Khi nhặt được của rơi, người tử tế
Sẽ nghĩ ngay tới việc nộp lên đồn
(Dù không phải không ít nhiều tiếc rẻ).
Đó là điều ta vẫn dạy cháu con.
Vâng, đúng vậy, anh chàng này có thể
Nghĩ rằng mình cũng nên trả thì hơn.
Tiếc lúc ấy đồn xa, trời lại tối.
Mai giao nộp cho công an, chưa vội.
12
Đêm, uể oải mân mê tờ giấy bạc,
Anh định cho vào ví, bỗng chau mày:
Khi mở ra, lại thấy tờ bạc khác,
Cũng trăm nghìn như tờ giữ trên tay.
Sao thế nhỉ? Anh giật mình, ngơ ngác.
Hay nhìn nhầm, hay quái quỉ gì đây?
Đúng lúc nãy chỉ một tờ tất cả.
Giờ bỗng dưng hóa thành hai, thật lạ!
13
Rồi đóng cửa, bật hết đèn, lặng lẽ
Tay run run rút tờ bạc, giật mình,
Anh lại thấy một tờ y như thế
Đang nằm chờ trong ví, nghĩ mà kinh.
Rồi rút tiếp, rút tiếp thêm, cứ thế
Vứt đầy giường những tờ bạc mới tinh.
Cho đến chẵn ba mươi tờ, dừng lại,
Anh gấp ví, tay ôm đầu sợ hãi.
14
Xin được hỏi: Bạn có tin ma quỉ,
Tức là tin vào phép lạ ấy mà?
Tôi, thú thật, cũng hơi tin một tý
(Tôi đã từng viết không ít truyện ma).
Niềm tin ấy không hại ai, thậm chí
Còn làm đời thêm phong phú. Chúng ta
Trong vô thức luôn tin vào phép lạ,
Nếu nhờ nó thành giàu thì thích quá.
15
Gì thích hơn khi suốt đời đói khổ
Ta được tiên (hay quỉ) tặng túi thần,
Mỗi lần mở lại thấy ngay trong đó
Nào bạc vàng, nào quần áo, thức ăn.
Cũng thật thích khi vợ già, cau có
Bỗng ít lời, thành xinh, trẻ... vân vân.
Nhưng rất tiếc, cuộc đời này buồn tẻ
Gặp phép lạ, gặp ma không phải dễ.
16
Thế mà tôi đã gặp ma rồi đấy
(Chắc là do tôi ăn ở hiền lành)
Cả ngày nhỏ, cả bây giờ cũng vậy.
Chuyện rất dài, có đem kể, nhiều anh
Sẽ to tiếng, bảo tôi đùa xằng bậy.
Nên phải đành im lặng, nói loanh quanh.
Tức là im, không nói gì, xin lỗi,
Do bí vần, phải ép từ, rất chối.
17
Các bạn biết, trong nghề thơ khó nhất
Là làm sao chọn đúng chữ, đúng vần.
Tôi còn nhớ một hôm, xin kể thật,
Tôi tiếc mình sao lại cứ Thái Tân.
Vì sao ư, vì ở câu thứ nhất
Là Bairơn chứ không phải Bairân.
Mà chữa lại tên người không phải dễ.
Tôi suýt đổi thành Thái Tơn vì thế.
18
Thơ bây giờ, nhất là thơ hiện đại,
Đọc mà kinh, không vần điệu, không gì,
Ngoài một mớ câu từ nghe lải nhải,
Rất rườm rà, rất rối rắm. Nhiều khi
Tôi cứ nghĩ, rằng người ta vì ngại,
Vì bất tài nên cứ viết bừa đi.
Tôi, bảo thủ, tôi xin thề, thà chết,
Chứ loại thơ không vần tôi không viết!
19
Thêm chuyện nữa là khổ thơ octave
Tức khổ thơ tôi đang viết lúc này,
Gồm tám câu, vô, vô cùng phức tạp,
Chỉ ba vần, mà phải viết cho hay.
Một khổ thơ có từ lâu, ở Pháp,
Và rất nhiều nước khác, vốn xưa nay
Được sử dụng (khá thành công) khi kể
Những câu chuyện có chất hài tinh tế.
20
Cũng bằng khổ thơ này tôi dịch hết
Mấy trăm trang một tác phẩm thiên tài
Là Don Juan của Bairơn trác tuyệt.
Dịch lâu rồi, nhưng thật tiếc, không ai,
Không ai đọc, dù liếc qua cho biết.
Thôi phải đành để đấy đợi “ngày mai”,
Nếu quả có một ngày mai như vậy
Khi ai đó đọc Don Juan, lúc ấy...
21
Vâng, lúc ấy... Nhưng mà thôi, xin lỗi,
Tôi là anh hay mắc bệnh lạc đề,
Chuyện đang hay thành lan man, rắm rối,
Xen những điều vớ vẩn, lắm người chê..
Mà câu chuyện chúng ta, xin được hỏi,
Dừng nơi nào? Ai nhớ, nói tôi nghe.
A, anh chàng rút ra từ chiếc ví
Ba mươi tờ trăm nghìn đồng, sướng nhỉ?
22
Rồi sau đó? ồ, anh ta đưa vợ
Mua mobile kiểu ý - dẫu phần nào
Cũng không phải không mơ hồ lo sợ,
Nhưng hết tiền, đang bí, chớ làm cao!
Đời là thế. Nếu là ta, ta nỡ
Đem vứt tiền cho vợ mắng hay sao?
Rồi sau nữa? Sau nữa ư? Thực tế
Tôi tiếc chẳng có gì hay để kể.
23
Cô vợ trẻ, đẹp như nàng tiên ấy
Có mobile, sung sướng, chẳng biết chồng
Một buổi sá ng đứng soi gương, chợt thấy
Hình như mình bé hẳn lại... ồ không!
Anh ta sợ, ngạc nhiên, run lẩy bẩy,
Nghĩ chắc mình vì lao lực, lao công,
Hay vì đói... Chứ hoàn toàn không nghĩ
Mọi tai họa bắt nguồn từ chiếc ví.
24
Rồi sự việc bỗng trở nên sáng tỏ
Khi một hôm, vẻ âu yếm khác thường,
Cô vợ trẻ xin khoản tiền nho nhỏ
Mua đôi vòng và chiếc nhẫn kim cương.
Như ta biết, giờ việc này không khó,
Nên anh chiều. Sau đó, nghĩ mà thương:
Người anh ta bé chỉ còn một nửa,
Và chắc chắn sẽ lại còn bé nữa.
25
Thế mà vợ của anh ta, thật lạ,
Không nhận ra thay đổi ấy. Hay là
Bé hay lớn với cô đều thế cả?
Hay thực tình không muốn thấy? Người ta
Thường vẫn thế, khi buồn hay vui quá,
Cả những điều quan trọng cũng cho qua.
Còn anh chồng thì ngắm mình, xấu hổ
Không bước ra khỏi nhà từ hôm đó.
26
Anh yêu vợ, không trách gì, không nói,
Nghĩ tình yêu luôn có giá, thực tình
Còn dằn vặt tự trách anh kém cỏi,
Đã là chồng thì chấp nhận hy sinh.
Một tấm gương cho chúng ta học hỏi!
Thế mà rồi, tấm gương ấy lung linh,
Xin nói thật, có hơi mờ một tý
Khi vợ lại xin tiền, anh mở ví...
27
Anh mở ví, định rút ra từ đấy
Đúng năm trăm triệu chẵn vợ yêu cầu
(Để mua chiếc xe Ford), nhưng lúc ấy
Bỗng giật mình và nhẩm tính rất mau,
Rằng nếu rút một khoản tiền lớn vậy
Thì người mình sẽ co lại đến đâu?
Và đúng lúc anh đang ngồi do dự
Thì cô vợ bước vào... Ôi phụ nữ!
28
Tôi còn nhớ trong Don Juan có đoạn
Nói rất hay về phụ nữ thế nào.
Ai muốn đọc, xin mời, rồi các bạn
Biết thực tình phụ nữ họ ra sao.
Nói ngắn gọn là họ gây buồn chán,
Thích đòi tiền, thích ăn diện, làm cao...
Thế mà ta vẫn chiều, cam chịu khổ,
Vì đơn giản... không thể nào thiếu họ.
29
Vâng, đúng lúc anh chồng ngồi suy nghĩ
Thì vợ anh, cô gái trẻ ham tiền,
Bỗng xuất hiện, định giành ngay chiếc ví,
Với nụ cười xinh đẹp giống như tiên.
Bạn đã gặp cái cảnh này chưa nhỉ?
Tôi, ơn trời, chưa gặp phải. Tuy nhiên,
Anh chồng kịp vứt ngay qua cửa sổ,
Vì không muốn vợ biến thành hạt đỗ.
30
Thế là hết. Chiếc ví kia biến mất.
Cũng hết luôn câu chuyện lạ kỳ này,
Một câu chuyện tôi cam đoan có thật.
Sao, hết rồi? Anh nói đến là hay.
Thế mà gọi là truyện ư? Chán ngắt.
Theo lẽ thường, người viết truyện xưa nay
Dẫu thế nào cũng đều thêm đoạn kết,
Đây là cái mà chúng tôi cần biết.
31
Cũng được thôi. Vốn viết văn có hậu,
Nên truyện tôi thường kết đẹp, thế mà
Câu chuyện kể lần này, tôi chẳng giấu,
Kết rất buồn, gây thất vọng: Anh ta
Vứt chiếc ví là vứt luôn kho báu,
Nên hết tiền, lại thấp bé, thành ra
Bị vợ bỏ, bỏ thẳng thừng, tàn nhẫn,
Mặc anh chồng ngồi tơ hơ, nuốt hận.
32
Để kiếm sống, anh xin vào rạp xiếc
Làm một chân sai vặt, một anh hề.
Vẫn yêu vợ, và những khi rỗi việc
Lại nhớ nàng với khuôn mặt ủ ê.
Trong lúc diễn, anh lùn nhìn, thật tiếc,
Chẳng lần nào nhìn thấy vợ, buồn ghê.
Thế là đã năm năm anh ở đấy,
Ai muốn gặp, cứ đến tìm, sẽ thấy.
33
Các bạn hỏi: Có hay không bài học
Từ nôm na câu chuyện khó tin này?
Hình như có. Thứ nhất là đừng ngốc
Mà buông mình theo ý vợ. Còn đây
Là bài học thứ hai: Khi bỗng chốc
Nhặt được tiền thì nên liệu trả ngay.
Chỉ thế thôi, ngoài ra, xin nói rõ,
Có đốt đuốc mà tìm thêm chẳng có!
Mồng hai Tết Giáp Thân, 23.1.2004
LẤY VỢ HẠC
1
Ông tiến sĩ ngữ văn Cao Chí Độ
Kể tôi nghe một câu chuyện thế này,
Tin hay không thì tùy, nhưng vẫn có
Trong cuộc đời ta đang sống hôm nay,
Tức thời đại của thông tin bùng nổ,
Những con tàu vũ trụ, những máy bay...
Vâng, vẫn có rất, rất nhiều chuyện lạ,
Mà thiếu chúng, đời sẽ buồn, tẻ quá.
2
Tiến sĩ Độ là bạn tôi, hơn thế,
Vốn rất nghiêm, không nói dối bao giờ,
Nên không thể không tin lời ông kể.
Chuyện kể rằng, ông biết một nhà thơ
Tuổi ba chín, hay bốn mươi có lẻ,
Sống một mình, chưa vợ, vẫn ‘bơ vơ’.
Như ta biết, nhà thơ mà có vợ
Thì chẳng còn là nhà thơ tầm cỡ.
3
Và tất nhiên, là nhà thơ cỡ ấy,
Chàng chỉ lo cắm cúi viết cho đời
Những vần thơ rất cao siêu, bóng bẩy,
Luôn khước từ mọi lạc thú, vui chơi.
Về lao động, là tấm gương hiếm thấy,
Chàng là người để thi sĩ khắp nơi
Phải noi theo, phải vò đầu xấu hổ,
Dù thơ chàng không được đăng như họ.
4
Đời vẫn thế, thường trớ trêu, bội bạc,
Hễ thấy ai có năng lực, có tài,
Là đánh luôn những cú đòn rất ác,
Đánh tơi bời cho không kịp trở tai
(ý tôi nói trở tay). Như nghề khác,
Trong cái nghề văn, thơ phú, những ai
Mà viết hay, viết nhiều thì chắc chắn
Không được in, không được ai thừa nhận.
5
Chàng thi sĩ của chúng ta cũng thế,
Bốn mươi năm bốn mươi tập rất dày,
Gồm trường ca và các bài thơ lẻ,
Toàn thiên tài, bất tử. Đúng, rất hay.
Thế mà lại không được in, thật tệ!
Hay thực tình đang có chuyện gì đây?
Không, đơn giản là do lòng đố kỵ.
Đời là thế, chàng chỉ buồn một tí.
6
Chàng lặng lẽ viết, viết thêm, rồi viết
(Trừ lúc ăn. Chàng ăn ít, vì nghèo),
Viết cho ai, để làm gì, không biết,
Nhưng con đường sự nghiệp cứ đi theo,
Với niềm tin vô, vô cùng mãnh liệt
Rằng có ngày chàng nổi tiếng bao nhiêu.
Rồi hậu thế sẽ có ngày hối hận
Đã để chàng cô đơn và túng quẫn!
7
May mà giờ, thời ai-ti* bùng nổ
Chàng viết thơ bằng vi tính (cái này
Dù có nghèo đến đâu, ai cũng có),
Đỡ cả tiền giấy mực, đỡ run tay,
Dễ tẩy xóa, viết chữ nào cũng rõ.
Lại tha hồ thêm bớt, đến là hay.
Và cũng chính nhờ ai-ti, mỗi sáng
Chàng đọc lại, rồi đưa thơ lên mạng.
8
Thật là tiện. Thế mà giờ nhiều vị
Vẫn làm thơ bằng giấy bút phiền hà,
Sợ vi tính như trẻ con sợ quỉ,
Như anh chồng sợ vợ lúc đi xa.
Tôi thì khác, rất nhiều câu, nhiều ý
Đến bất ngờ nhờ vi tính. Hôm qua
Do mất điện mà dòng thơ bị tịt,
Dù giấy mực có trên bàn không ít.
9
Internet là phát minh vĩ đại
(Sau phát minh ra ngọn lửa, thị trường).
Kỳ quan ấy của văn minh nhân loại
Bị nhiều người bỏ phí, thật đáng thương.
Chính nhờ nó mà chúng ta thoải mái
Ngồi ở nhà nghe nhạc Pop, cải lương,
Rồi mua, bán, đăng thơ, tìm vợ lẽ...
(Nhưng cẩn thận kẻo bụng to, chân bé!)
10
Vốn từ lâu rất mê internet,
Hầu như tôi ngồi trước máy suốt ngày.
Để đọc báo, đọc email, để viết,
Để mơ màng, ngủ gật, gặm móng tay...
Nhưng thú thật, nó cũng làm tôi mệt.
Trước tôi gầy, sáu chục ký, giờ đây
Ngót một tạ, lại chóng già. Vợ bảo:
Năm lăm tuổi đã trông như ông lão!
11
Nhưng bù lại, chính điều này mới lạ,
Chỉ khi tôi ngồi trước máy, bắt đầu
Vần và ý mới tuôn ra xối xả,
Chứ bình thường bằng giấy mực - còn lâu!
Chiếc vi tính, với tôi, là tất cả,
Chẳng làm gì, chẳng còn muốn đi đâu,
Trừ xuống bếp để ăn khi vợ gọi -
Thơ tôi tịt cả khi đang bụng đói.
12
Anh nhà thơ, theo lời ông Độ kể,
Phải đói ăn hai, ba bữa là thường.
Tài năng lớn mà căn phòng quá bé,
Tóc rối bù, nhếch nhác, nghĩ mà thương.
Ông tự hỏi, sao người ta có thể
Sống không tiền, không ăn uống, không lương?
Hay quả thật, như dân gian vẫn nói
Các nhà thơ chỉ sống bằng mây khói?
13
Ông không biết. Tôi cũng không. Chỉ biết
Chàng một hôm tỉnh dậy, thấy bất ngờ
Phòng được dọn, áo được là. Chưa hết,
Trên chiếc bàn có đủ bánh và bơ,
Thêm một cốc cà phê ngon đặc biệt,
Những cái chàng thường chỉ thấy trong mơ.
Chàng dụi mắt ngạc nhiên, nhưng khốn nỗi,
Không ngạc nhiên quá lâu, vì đang đói.
14
Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn: Cứ thế,
Chàng nhà thơ sáng thức dậy hàng ngày
Lại thấy đúng điều đang nghi - như thể
Có người nào khi chàng ngủ, đến đây
Làm mọi việc rất tận tâm, lặng lẽ,
Rồi bất ngờ như khi đến, đi ngay.
Và người ấy chắc phải là phụ nữ!
Chắc phải xinh! Chàng ngồi im tư lự.
15
Nhưng người ấy là ai, chàng tự hỏi,
Người hay ma, hay ai đó giở trò?
Chắc không phải ông trưởng khu xoi mói,
Hoặc bà già hàng xóm béo và to.
Chàng đoán mãi mà không sao đoán nổi
Người làm chàng vừa sung sướng vừa lo.
Và cuối cùng, để tìm ra sự thật,
Chàng quyết định đêm sẽ rình để bắt.
16
Như thám tử lành nghề, ngay tối ấy,
Chàng làm thơ năm tiếng, đã lên giường.
Chiếc vi tính trên bàn luôn nhấp nháy.
Phòng tắt đèn, chàng nằm nghĩ vấn vương.
Ngoài cửa sổ có con gì động đậy,
Đã tháng Mười, trời chớm lạnh, đầy sương.
Có tiếng ai rao bánh mì vọng lại
Trong đêm vắng nghe buồn buồn, uể oải...
17
Rồi bất chợt, tự lúc nào không rõ
Chàng thiếp đi trong giấc ngủ mơ màng,
Mơ thấy mình được đưa đi đâu đó,
Cô đơn ngồi chót vót đỉnh vinh quang,
Như thần Dớt cái thời Hy Lạp cổ,
Thế mà buồn, khi bên dưới, ngổn ngang
Trăm tập thơ rất dày, in đẹp mắt.
Thơ của chàng, chàng nhìn và ngáp vặt.
18
Vì ngáp vặt quá nhiều nên tỉnh mộng,
Chàng chợt nghe tiếng sột soạt trong phòng.
Hé mắt nhìn, thấy mờ mờ chiếc bóng,
Bóng một người phụ nữ mặc áo lông.
Đúng, phụ nữ, hình như xinh, dong dỏng,
Nàng nhẹ nhàng đi lại tựa như không,
Làm những việc như nhiều ngày trước đấy,
Mà không biết có người đang trông thấy.
19
Thế là rõ, hóa ra cô gái trẻ,
Một nàng tiên xinh đẹp, đã giúp chàng!
Nàng là ai, và vì sao làm thế?
Vì mến tài, vì biết trước vinh quang?
Sao nàng đến và ra đi lặng lẽ?
Chàng vừa mừng, vừa lo lắng, xốn xang.
Và chàng nghĩ, sẽ là điều không dở
Nếu có được người như nàng làm vợ.
20
Thế thì sao không giữ nàng lại nhỉ?
Một ý hay chợt xuất hiện trong đầu.
Nếu giả sử là nàng tiên tuyệt mỹ
Tắm bên hồ, giấu váy, trốn vào đâu!
Nhưng nàng mặc áo quần, chàng vụt nghĩ:
Phải cách này... Rồi vùng dậy, rất mau
Chàng túm chặt chân nàng khi láu lỉnh
Đang định chui vào màn hình vi tính!
21
Vào vi tính? Vâng, bất ngờ thấy vậy,
Nàng vội chui vào vi tính, (ái chà!)
Đã chui được hơn nửa người lúc ấy
Thì bị chàng đem hết sức lôi ra.
Chắc nàng đau và ít nhiều sứt sẩy,
Nhưng cuối cùng đành an phận. Chúng ta
Đã đến lúc chúc cho chàng thi sĩ
Có người vợ mà khối anh ghen tị.
22
Giờ chuyện ma là khó tin, khỏi nói.
Bản thân tôi cũng nghĩ thế, có điều
Tôi sẵn sàng tin ngay, khi đang đói
Bỗng có nàng nào đó trẻ, đáng yêu
Cho tôi ăn mà không cần đòi hỏi,
Không đòi tiền, không trách móc, mè nheo...
Thường vẫn thế, khi gặp điều có lợi,
Ta tin ngay mà không cần nghĩ ngợi.
23
Giờ khoa học làm bao điều kỳ diệu,
Nên theo tôi, ranh giới vốn rất nhòa
Giữa ma quỉ và ai-ti, dễ hiểu,
Đang mất dần, và có lẽ chúng ta
Phải công nhận, dẫu phần nào khó chịu,
Câu chuyện này là có thật. Ngoài ra,
Có tin thật cũng không sao, bởi lẽ
Nó vô hại như trên tôi đã kể.
24
Chắc các bạn đang tò mò muốn hỏi,
Rằng tại sao một cô gái thế này
Lại tìm đến chàng nhà thơ nghèo đói?
(Không phải mình, mình có đủ cái hay).
Rất đơn giản, theo như ông Độ nói,
Thì anh chàng đưa lên mạng gần đây
Một trường ca, hay hơn Kiều, xuất chúng
Về loài hạc đang có cơ tuyệt chủng.
25
Trường ca ấy nói những lời đẹp đẽ
Về giống chim ta chưa gặp bao giờ.
Chính vì vậy mà một hôm hạc mẹ
Sai con mình đến trả nghĩa nhà thơ.
Còn sau đó thì sao, tôi đã kể.
Một chuyện tình ta chỉ thấy trong mơ.
Họ hạnh phúc: Chồng làm thơ, còn vợ
Cứ chốc chốc lại mời cơm, mời phở.
26
Không hiểu bạn thế nào, tôi, thú thật,
Bản thân tôi cũng được vợ rất chiều,
Nhưng ở mức khi đói ăn mờ mắt
Mới được nàng gọi vào bếp. Tình yêu,
Dẫu ăn uống không là điều duy nhất,
Nhưng thực tình sẽ tốt, tốt bao nhiêu
Nếu mà tôi cũng có người vợ hạc,
Chắc lúc ấy thơ sẽ hay, sẽ khác!
27
Ông Độ kể: để chồng không lo nghĩ,
Nói nôm na là để kiếm thêm tiền,
Ngoài giặt dũ, nấu ăn, nàng chăm chỉ
Dệt rất nhiều tranh đẹp cảnh thần tiên,
Rồi đem tới ga-le-ry Bảo Quí
Nơi khách hàng trả giá đắt, tất nhiên.
Nhưng khi dệt, có điều này rất lạ,
Nàng đóng cửa, không cho ai xem cả.
28
Nàng dặn thế, chàng làm theo, ấy vậy
Mà một hôm, không hiểu nghĩ thế nào,
Chàng mở cửa ghé mắt nhìn, bỗng thấy...
Thấy vợ chàng, cảnh tượng hãi hùng sao,
Hóa thành hạc, đang nhổ lông, máu chảy
Dệt cho chàng bức tranh đẹp đầy sao.
Vâng, tranh đẹp, còn nàng thì thật xấu -
Như gà chọi trụi lông, toàn xương xẩu.
29
Chàng ôm mặt, kêu thét lên sợ hãi.
Còn nàng ư? Nàng rớm lệ lắc đầu:
“Thế là hết, giờ em đi, đi mãi.
Tiếc rằng mình đã đến lúc xa nhau”.
Rồi nàng bước những bước chim chậm rãi
Ra khỏi phòng, còn nấn ná hồi lâu
Mới chui nhẹ vào màn hình vi tính,
Để chàng đứng nửa như mê, như tỉnh.
30
Thế là hết, câu chuyện này kỳ dị,
Dẫu khó tin nhưng có thật. Người nào
Muốn kiểm chứng, bạn tôi, ông tiến sĩ,
Xin sẵn sàng dẫn đến phố Nam Cao,
Nơi đang sống nhà thơ kia. Lưu ý,
Có gặp chàng thì phải cố làm sao
Đừng chọc tức, đừng lại gần, bởi lẽ
Chàng đã kịp hóa điên, và rất tệ.
31
Như đã nói, tôi viết văn có hậu,
Tiếc hôm nay câu chuyện chẳng vui gì.
Tôi, bản chất vốn là người không xấu,
Chỉ mong điều tốt đẹp, dẫu nhiều khi
Kể những chuyện làm đôi anh phát cáu.
Tôi chân thành xin lỗi - cest la vie!
Đời là thế. Thêm điều này xin nhớ:
Không được phép, đừng ngó vào phòng vợ!
Hà Nội, 31.1.2004
3. LỬA, NƯỚC VÀ DANH DỰ
1
Tuổi tác đến, kéo theo thêm cái khổ,
Là hay quên, hay lú lẫn. Thế mà
Tôi chợt nhớ câu chuyện này, nhớ rõ
Không sót gì, từng chi tiết. Người ta
Kể hay đọc cho tôi nghe từ nhỏ,
Từ cái thời để chõm, học lớp ba.
Một câu chuyện vừa hay vừa triết lý.
Còn có tin hay không, tùy các vị.
2
Chuyện kể rằng, một hôm trời nắng đẹp,
Lửa đi chơi bỗng gặp Nước lần đầu.
Họ trò chuyện rất vui, rồi đi tiếp,
Như không hề xung khắc. Mãi về sau
Ta mới phịa về mối thù truyền kiếp
Giữa hai người. Toàn nhữn chuyện không đâu.
Nước và Lửa hồn nhiên như trẻ nhỏ,
Luôn hiếu động, không ngồi yên một chỗ.
3
Một chốc sau, họ gặp thêm người nữa,
Vẻ trang nghiêm, là Danh Dự. Người này
Luôn bận bịu, không nhàn như Nước, Lửa,
Không lắm lời, không giả bộ thơ ngây.
Họ không biết, một ông quan loại cỡ
Đã bị Ngài từ bỏ sáng hôm nay.
Chỉ đơn giản vì ông ta giả dối,
Dạy đạo đức mà bản thân tội lỗi.
4
Lửa lễ phép: “Nếu Ngài không bận quá,
Thì chúng tôi xin đi dạo cùng Ngài”.
Danh Dự đáp: “ồ không, không, đa tạ,
Tôi phải còn nhắc nhở để ai ai
Cũng coi trọng lương tâm, không cẩu thả
Làm những điều phải hối hận ngày mai.
Mà nếu rỗi đi chơi cùng, các bạn,
Ai dám chắc không vì tôi mà chán?”
5
Nước vội nói: “Với tôi, Ngài chẳng sợ.
Tôi xưa nay chỉ giúp ích cho đời.
Tôi tưới nước để muôn hoa đua nở,
Để cánh đồng và rừng núi xanh tươi.
Người ta nói, chắc là không vô cớ,
Tôi, cội nguồn của sự sống khắp nơi.
Tôi giải khát cho người và loài vật,
Chưa nói chuyện rửa tay hay tắm giặt”.
6
Phải công nhận những điều trên Nước nói
Quả không sai, nhưng đã giấu một điều,
Rằng chính Nước cũng gây nên lụt lội
Và nhấn chìm những mảnh đất phì nhiêu.
Nước cuốn nhà, làm đất, rừng lở xói,
Lật tàu bè, làm cây cối đổ xiêu...
(Tôi, hồi bé, trong một lần lụt lớn
Suýt chết đuối cùng mấy con gà lợn).
7
Lửa lên tiếng: “Tôi thì ai cũng biết.
Tôi luôn mang ánh sáng đến muôn nhà.
Tôi làm ấm những trái tim giá rét,
Làm cháy bùng bao hy vọng, bài ca.
Không có Lửa cũng ngang bằng cái chết,
Lửa giúp người trong đun nấu... Ngoài ra
Ai trót nghiện, muốn phì phèo thuốc lá
Mà nói không cần diêm thì thật lạ!”
8
Vâng, đúng thế, nghe hoàn toàn có lý,
Nhưng tiếc thay, như Nước, Lửa cố tình
Không nói việc nếu không may sơ ý
Lửa bén nhà thì hậu quả rất kinh.
Trong cuộc sống cả tôi và các vị
Còn lạ gì cái cảnh sắp bình minh,
Đang ngủ say bỗng nghe ai kêu ‘cháy’!
Rồi tiếng khóc, tiếng kêu la vang dậy.
9
Nước và Lửa thế là im không nói
Việc họ gây bao tai họa. Mà rồi
Họ im lặng, chứ không hề nói dối,
Vốn là điều rất dễ hiểu. Than ôi,
Trong cuộc sống ít người khoe tội lỗi,
Cũng ít người đủ dũng cảm như tôi,
Tự thú nhận rằng mình hư, dại dột,
Dù nói chung tôi khôn và rất tốt.
10
Vốn thận trọng nhưng tin người, Danh Dự
Nghe nói xong, tỏ ý thích, gật đầu:
“Vậy thì ta dạo một vòng xem thử.
Để mọi người thêm hiểu rõ về nhau”.
Nước và Lửa liền kêu lên: “Thế chứ!
Nhưng đi đường, nhỡ lạc, biết tìm đâu?”
“Theo đặc điểm của từng người rất khác
Mà tìm nhau, nếu không may bị lạc”
11
“Tôi là Lửa, cứ chỗ nào có khói
Là có tôi. Khói và lửa song hành.
Lại càng dễ nhìn tôi trong đêm tối -
Theo ánh đèn mà tìm đến...” “Các anh
Sẽ tìm Nước ở những nơi cây cối
Và ruộng đồng tươi tốt một màu xanh.
Còn tất nhiên, nơi đất cằn, khô cháy
Thì đốt đuốc tìm cả năm không thấy”.
12
Danh Dự nói: “Như nhiều người đã biết,
Tôi xưa nay không nổi bật điều gì,
Không dấu hiệu cao sang hay đặc biệt.
Nhưng coi chừng, tôi sẽ bỏ ra đi
Khi người khác không quí tôi, nhất thiết
Chẳng bao giờ tôi ở lại. Một khi
Bạn mà để mất tôi, xin nhắc lại:
Mất một lần là mất luôn mãi mãi”.
13
Vậy, Danh Dự mới là người duy nhất
Đã công khai nói hết cả về mình,
Không dấu giếm, chỉ nói toàn sự thật.
Ta, những người trọng danh dự, thông minh.
Vâng đúng thế, nhưng nhiều lần, tiếc thật,
Có những điều ta chủ ý làm thinh.
Ta không nói, chứ không hề nói dối.
Nhưng việc ấy phải chăng là tội lỗi?
14
Tôi không biết, đang muốn nhờ các bạn
Nói cho nghe các bạn nghĩ thế nào.
Theo Frớt, cuộc đời này đáng chán
Có đôi điều bí mật cũng không sao.
Như quá đà, có tình nhân chẳng hạn,
(Người ta cần lén gặp), biết làm sao?
Ta bảo vợ: “Anh đi chơi, đừng hỏi!”
Nhưng đi đâu, với ai, ta không nói.
15
Mà không nói đúng hay sai? Giả sử
Bản thân ta rơi vào cảnh thế này,
Ta chắc chắn sẽ ít nhiều do dự.
Chỉ hồ đồ mới vội trả lời ngay.
Vâng, một bên là gia đình, danh dự,
Bên kia “nàng”, biết chọn thế nào đây?
Cái câu chuyện ngụ ngôn này tôi kể
Chỉ cốt gợi câu trả lời, chỉ thế.
16
Tôi đã qua cái thời ưa triết lý,
Lại càng không lên mặt dạy người đời.
Chỉ đơn giản viết văn xuôi, chợt bí,
Viết văn vần, vừa tạm gọi nghỉ ngơi,
Vừa nhân tiện góp vui cùng các vị.
Nếu cũng buồn thì cứ thử đọc chơi,
Không thì thôi, bỏ qua, không sao hết.
Giờ là lúc ta chia tay. Tạm biệt.
Hà Nội, 28.1.2004
4. ĐÁNH THUẾ NGƯỜI SỢ VỢ
1
Người ta kể, rằng ngày xưa, nước nọ,
Có một anh làm ruộng, rất yêu đời,
(Như ta biết, thường kêu ca, nhăn nhó
Là những người nhàn rỗi, thích ăn chơi).
Anh khỏe mạnh, rất thông minh, nghèo khổ,
Làm suốt ngày, không một phút nghỉ ngơi,
Nhưng luôn miệng hát, đùa, dù đang đói
(Là cái điều tôi không sao làm nổi).
2
Theo cái luật ta thường tin - nhân quả,
Anh nông dân một sáng nọ đang cày
Thì bỗng gặp một cục vàng sáng lóa,
Cục vàng ròng, bằng ba bốn nắm tay!
Các bạn nghĩ rằng anh ta vội vã
Giấu mang về, không chịu nói ai hay?
Không, trái lại, là thần dân lý tưởng,
Anh quyết định nộp cho vua lấy thưởng.
3
Một quyết định đáng khen, tuy ai đấy
Bảo đáng chê. Sao cũng được. Thế là
Anh khăn gói lên hoàng cung. Lúc ấy
Cùng tùy tùng, ngài thủ tướng đi ra.
Ngài hỏi chuyện, anh có sao nói vậy.
Cuối cùng ngài thân mật bảo anh ta:
“Ta giúp ngươi gặp vua, nhưng phải hứa
Sau, phần thưởng, chia cho ta một nửa!”
4
Xin nói thêm, cái thời xưa man rợ,
Quan ngang nhiên ăn chặn giữa ban ngày,
Vì thời ấy quan chưa là đầy tớ,
Dân chưa thành ông chủ giống hôm nay.
Quan bây giờ đã khôn hơn, biết sợ,
Biết cách nào ăn vụng khéo chùi tay,
Nhân dự án biết xân xiu đôi tỉ
Bằng cách cho lời khuyên hay chữ ký!
5
Quan lớ n tiếng
chống quan liêu, tham nhũng,
Đề cao dân (ông chủ) tít lên trời,
Quan biết cách làm gương cho quần chúng
Bằng ngôn từ rất hoa mĩ. Khắp nơi
Là đầy tớ, quan hết lòng cung phụng,
Rất giữ mình, không lộ liễu ăn chơi.
Trừ những việc dính đến tiền - mọi nhẽ
Đều rất tốt, quan ngày nay là thế.
6
Anh làm ruộng được gặp vua, khỏi nói,
Vua rất vui, vì đang lúc thiếu tiền
Bỗng có người cho cục vàng. Vua hỏi:
“Ta bây giờ sẽ có thưởng, tất nhiên.
Ngươi muốn gì? Một ngôi nhà lợp ngói?
Một nữ tì xinh đẹp giống như tiên?...”
Anh kia đáp: “Con chỉ xin rất ít:
Xin vua ban một trăm roi vào đít!”
7
“Một trăm roi? Vào đít ngươi? Lạ đấy!
Xin đánh ư? Hãy nói rõ xem nào!”
Vua căn vặn, nên anh chàng lúc ấy
Kể chuyện mình hứa chia thưởng ra sao.
“Được, tốt lắm, một khi ngươi muốn vậy
Thì ta chiều. Phần thưởng chẳng là bao!”
Anh kia đáp: “Cảm ơn vua, nếu được,
Phần thủ tướng, xin để ngài nhận trước!”
8
Thế là muốn hay không, ông thủ tướng
Phải giơ mông lãnh đủ mấy mươi hèo.
Cũng như vua, mọi người nhìn, vui sướng.
Ông thì đành bấm bụng, chẳng dám kêu.
Đấy, bài học cho những ai tơ tưởng
ăn chặn người. Bài học quí bao nhiêu!
Nào đã hết. Anh nông dân láu lỉnh:
“Con nhường nốt phần con cho ngài lĩnh!”
9
Tôi còn nhớ thời chăn trâu bị bố
Dùng roi tre quất vào đít nhiều lần.
Nhưng bị đánh một trăm hèo, điều đó
Lại hoàn toàn khắc hẳn. Gã nông dân
Đành mất thưởng để nhường ông quan nọ
Được tự mình chuốc roi vọt vào thân.
Các bạn nghĩ anh ta về tay trắng?
Không, đức vua vốn là người sòng phẳng.
10
“Ngươi khá lắm! Ta là vua, vì thế,
Ta không quen nợ người khác điều gi.
Một trăm roi ngươi xin kia không kể.
(Vua mỉm cười, nhìn thủ tướng). Mấy khi
Ta cho phép. Bây giờ ngươi có thể
Xin cho mình một phần thưởng. Nói đi!”
Anh kia đáp: “Con, thằng dân khốn khó,
Con chỉ xin một điều thôi, bé nhỏ.
11
Nếu ngài muốn ban cho con ân huệ,
Thì xin ra chiếu chỉ để lúc này
Ai cũng biết con thành quan thu thuế
Những người nào sợ vợ. Để từ nay
Những người ấy, không một ai ngoại lệ,
Phải tự mình đến nộp, nộp liền tay.
Thuế nhẹ thôi, chỉ năm xu một quí.
Ai trái lệnh, chém đầu không suy nghĩ!”
12
Vua nghe thế, liền cười vang: “Thật tuyệt!
Cái ngươi xin quả không lớn”. Và rồi
Ngài ký lệnh mà không hề hay biết
Ở nước ngài đang cai trị, than ôi,
Người sợ vợ, nhiều, nhiều không kể xiết,
Nên anh chàng làm ruộng, hãy tin tôi,
Đã giàu to chỉ trong vòng mấy tháng -
Ai nỡ tiếc năm xu mà thiệt mạng?
13
Anh ta giàu chỉ nhờ thu thuế vợ,
Và tất nhiên không khổ nữa, lúc này
Đã có mấy lâu đài to, sặc sỡ,
Có người hầu, xe ngựa phóng như bay.
Nhưng rất tiếc, lại có thêm mấy vợ,
Việc ruộng đồng cũng bỏ bễ lâu nay.
Thế mới biết làm quan sung sướng quá,
Nhiều tiền, vợ, mà không hề vất vả!
14
Ngài thủ tướng một lần, nghe kể lại,
Thấy anh ta thu nhập khá, yêu cầu
Xin đổi chức, nhưng anh ta chẳng dại,
Lại còn đòi tiền thuế nợ từ lâu.
Một sáng nọ, khi đức vua vĩ đại
Đang trên đường đi kinh lý, gặp nhau,
Vua cười hỏi anh ta: “Sao giàu thế?
Chắc không phải nhờ năm xu tiền thuế!”
15
Anh làm ruộng - giờ là quan - lễ phép,
Ghé tai vua: “Con mới gặp, thưa ngài,
Một cô gái rất trẻ trung, xinh đẹp,
Con xin thề, xinh đẹp lắm, ngày mai,
Nếu ngài muốn, cứ bắt về làm thiếp...”
“Thật thế à? Cô gái ấy là ai?”
Vua vội hỏi - dẫu thông minh, vĩ đại,
Vua có tật thích tiền và mê gái.
16
Vua đang định tìm ngay cô gái đó,
Thì than ôi, hoàng hậu tới. Thế là
Vua hạ giọng: “Nhớ im, đừng để lộ,
Kẻo mất đầu, trách ta ác”. Thì ra
Vua sợ vợ, còn sợ hơn sợ hổ.
Anh kia cười, mở chiếc túi bằng da:
“Xin vua nộp cho năm xu tiền thuế!
Ngài đã biết, không một ai ngoại lệ”.
17
Không ngoại lệ, thế mà vua, thật dở,
Vua đã không chịu nộp, bởi vì ngài
Không muốn nhận rằng ngài đang sợ vợ,
Chứ không vì năm xu nhỏ. Như ai,
Vua cũng tỏ ra mình không hề sợ.
Sợ cái gì? Sao phải sợ? Rất oai.
Tôi thì nghĩ, sợ vợ mình cũng được.
Chỉ đừng sợ vợ người, xin dặn trước!
18
Vâng, sợ vợ không có gì xấu hổ,
Đấy là không muốn nói, lại rất cần.
Trong cuộc sống gia đình, không có nó
Thì anh chồng rất dễ có tình nhân,
Còn hàng xóm điếc tai vì cãi cọ,
Con trong nhà sẽ mất nết, hư thân...
Vontaire nói, chắc cũng không vô cớ:
“Tôi rất yêu những anh nào sợ vợ!”
19
Còn anh quan nông dân thì sao nhỉ?
ồ, không sao. Dẫu thoái hóa ít nhiều,
Nhưng cơ bản vẫn là người đáng quí,
Vẫn hàng ngày đi thu thuế tình yêu.
Anh mạnh khỏe, hơi béo lên một tí,
Đã bắt đầu có dấu hiệu kiêu kiêu.
Vốn trung thực, anh tự mình đóng thuế
Cho chính mình. Vì sao, tôi đã kể.
20
Tôi mới gặp anh ta, đừng gạn hỏi
Gặp ở đâu, trong bối cảnh thế nào.
Xin nhắc lại những gì anh ta nói -
Là bây giờ đất nước Việt dù sao
Cũng nên thêm loại thuế này. Khốn nỗi,
Ta bây giờ đã thuế nặng, sưu cao.
Thêm thuế vợ, tôi chỉ e không tưởng.
Ta cứ đợi thông tư ngài thủ tướng.
21
Còn tạm thời, tôi nhận làm đại lý
Cho anh ta, thu thuế ở nước này,
Tức là nước Việt Nam, mời các vị,
Những ông chồng vốn sợ vợ xưa nay,
Đến nộp thuế, ngày cuối cùng mỗi quí,
Chỉ mỗi người năm xu nhỏ. Và đây,
Để làm gương, tôi tự mình nộp trước.
Ai quá nghèo, nộp ba
xu cũng được
Hà Nội, 5 tháng Hai,
2004
5. MỘT TRUYỆN LIÊU TRAI CÓ THẬT
1
Loáng một cái, đã mùa đông, trời rét,
Lại thêm mưa, gió lạnh thổi suốt ngày.
Mà gặp lạnh, như chúng ta đã biết,
Thì cái gì cũng co lại, đến hay.
Ta co quắp nằm trong chăn, mỏi mệt,
Không làm gì, không động đậy chân tay,
Ta, con người, vốn tí hon, khốn khổ,
Còn bị rét làm cho thêm bé nhỏ.
2
Mà đầu óc chúng ta khi gặp lạnh
Cũng teo đi, sức sáng tạo mất dần.
Ta chẳng nghĩ được điều gì lấp lánh
Ngoài việc nằm, lười biếng ngủ, chờ ăn.
Rồi ta cáu, trách cuộc đời bất hạnh,
Trách ông trời, trách sang cả người thân...
Tôi viết thơ quả xưa nay không ít,
Nhưng thơ viết mùa đông luôn xám xịt.
3
Vâng, mưa lạnh đã mấy tuần, chắc chắn
Còn mưa thêm mấy tuần nữa. Suốt ngày
Trời thấp, ủng, âm u như cáu giận,
Gió liên hồi, xơ xác những cành cây.
Đường lép nhép, và tất nhiên rất bẩn,
Khách rụt đầu, luôn kêu rét, xoa tay.
Đấy là nói những người nào, thật tiếc,
Không thể không ra ngoài vì công việc.
4
Thế mà có một anh, trời bắt tội,
Lại dạo chơi lúc mưa gió dầm dề,
Giữa ảm đạm cảnh nhá nhem trời tối,
Ô trên đầu rách, gãy một vài que.
Đúng, đi dạo, từ lâu, chân đã mỏi,
Cứ một mình co ro bước, ủ ê...
Chắc bạn nghĩ anh ta điên? Đâu có.
Chỉ đơn giản vì đang buồn, đau khổ.
5
Đã bao giờ bạn cãi nhau với vợ?
Có, tất nhiên. Tôi cũng thế. Có điều
Đó là loại cãi cho vui, vô cớ,
Như một phần gia vị của tình yêu.
Còn trường hợp anh ta thì đáng sợ,
Vì hàng ngày bị trách móc, mè nheo,
Bị đòi tiền, bị ghen tuông... Đôi lúc
Cái tổ ấm gia đình thành địa ngục.
6
Là hàng xóm, chuyện này tôi biết rõ.
Số là tôi thích vi quí dĩ hòa,
Tức là ghét cãi nhau, nên được họ
Thường đến mời phân giải giúp. Anh ta
Là người tốt, có đủ tên, đủ họ,
Nhưng bây giờ, vì bảo mật, chúng ta
Cứ tạm gọi là N thôi cũng được.
Chuyện tế nhị, ta cứ nên phòng trước.
7
Còn cô vợ, công bằng ra mà nói,
Thì xưa nay cũng không đến nỗi nào.
Vì phụ nữ, ai mà không tội lỗi,
Không trách chồng, ghen bóng gió, làm cao?
Duy một điều làm tôi không chịu nổi,
Là cô nàng mới lắm miệng, ôi chao.
Chưa kể việc mắt xanh, môi quá đỏ,
Mông và ngực cứ phô ra lồ lộ.
8
Còn mốt tóc thì thay luôn xoành xoạch,
Thẳng rồi xoăn, rồi đủ các thứ màu
(Được ưa nhất là màu hồng, màu gạch),
Son phấn dày, gam chủ đạo màu nâu.
Còn quần áo, đương nhiên là kiểu cách,
Toàn những đồ hàng hiệu, Mỹ và Âu.
Nói tóm lại, nàng xinh và sặc sỡ
Như một con búp bê to loại cỡ!
9
Tôi tự hỏi: ừ, cho ai mà họ
(Các bà, cô) lo ăn diện, khi chồng,
Những ông chủ gia đình luôn khốn khổ
Lo kiếm tiền, lo đủ chuyện tư, công
Bị họ khinh, coi như rơm như cỏ?
Tôi điều này xin chịu. Bạn biết không?
Thêm chuyện nữa: Họ dịu dàng, lễ phép
Với tất cả, trừ chồng, ôi phái đẹp!
10
Ta quay lại chuyện anh kia “đi dạo”
Trong gió mưa trên các phố vắng người.
Như vua Lear đi trong cơn giông bão,
Như con gà ủ rũ dưới mưa rơi.
Khi đi ngang qua bến xe Hàng Cháo,
Bỗng bất ngờ anh ngửi thấy hơi hơi
Thoảng mùi gì rất thơm và đặc biệt,
Vừa cám dỗ, vừa dịu dàng, tinh khiết.
11
Vâng, đặc biệt, đến mức anh lúc ấy
Buồn và đau như ta biết, mà rồi
Cũng bất giác ngoái lại nhìn - chỉ thấy
Có một người đang đứng đợi mà thôi:
Một cô gái mặc áo lông gì đấy.
Chắc lông chồn, khuôn mặt đẹp... Và ôi,
Hình như nàng cười với anh e lệ.
Mùi thơm ấy từ nàng ư, không lẽ?
12
Cần phải nói, vốn xưa nay phụ nữ
Cười với anh không phải ít. Có điều
Giờ trời xấu, lại đang khi giận dữ,
Anh lạnh lùng, chẳng chú ý bao nhiêu.
Chỉ thấy lạ: sao mùi hương kia cứ
Phảng phất hoài, như muốn bám đi theo.
Mà có lẽ cô kia còn đưa mắt
Nhìn theo anh... Sao lại nhìn, lạ thật?
13
Đáng lạ hơn, mấy buổi chiều tiếp đó,
(Do buồn đau và giận vợ hàng ngày)
Anh đi dạo ngang bến xe hôm nọ,
Vẫn thấy người phụ nữ ấy. Giờ đây
Anh biết chắc cái mùi kia cám dỗ
Từ n gười nàng. Vẫn bẽn lẽn, thơ ngây,
Nàng nhìn anh... Và cuối cùng đã đến
Cái phải đến - anh dừng chân, bắt chuyện.
14
Đó là việc, theo tôi, không khôn lắm,
Nhất là khi ta có vợ. Cuộc đời
Vốn bình thường đã rất nhiều rối rắm.
Những cuộc tình bến xe buýt, bể bơi
Chỉ biến ta thành những anh lẩm cẩm,
Những ông già còn mang tiếng lả lơi.
Rồi sớm muộn cũng đến tai bà vợ.
Tôi trót dại một lần, giờ vẫn nhớ!
15
Nhất là tránh những cô nào còn trẻ,
(ở bến xe nay họ chiếm phần nhiều)
Luôn chứng tỏ mình đã không còn bé,
Họ tò mò, muốn thám hiểm tình yêu.
Thích thì thích, nhưng vẫn còn sợ mẹ,
Họ bắt đầu son phấn, học làm kiêu,
Học nói chuyện, học vặn người, uốn éo.
Không ít cô miệng còn thơm mùi kẹo.
16
Các cô gái trẻ con xinh đẹp ấy,
Quá trẻ con nên chưa biết trêu đùa.
Ai bảo sao cứ tin y như vậy.
Có chuyện gì là mặt đỏ như cua.
Được tán tỉnh, họ dễ yêu nồng cháy,
Dễ điên khùng... Ta nên sớm chào thua.
Ấy, xin lỗi, lại lạc đề. Các vị
Mách tôi hộ: Anh chàng kia đâu nhỉ?
17
A, bắt chuyện... Thực tình tôi chẳng biết,
Phút đầu tiên họ đã nói những gì.
Họ làm quen đúng như trong tiểu thuyết?
Chỉ biết rằng, một chốc, họ cùng đi,
Chưa đến mức tay cầm tay thân thiết,
Nhưng hai người đã kết lắm. Đôi khi
Còn dừng lại, nhìn mắt nhau âu yếm.
Đây là việc cũng ít nhiều nguy hiểm.
18
Nguy hiểm hơn, chỉ dăm ngày sau đó,
Họ đã đi đến phố Nguyễn Văn Cừ,
(Giới ăn chơi gọi là ‘Khu đèn đỏ’)
Nơi có nhiều nhà nghỉ rất ‘riêng tư’,
Để khách ‘nghỉ’ với người yêu. Về họ,
Không người nào cho như thế là hư.
Lại lịch sự, văn minh và hợp pháp,
Không như xưa, cái thời xưa phức tạp.
19
Nghĩ cũng thương cho đàn bà Hồi Giáo,
Họ mà đi nhà nghỉ kiểu thế này,
Thì chắc chắn sẽ bị đem xử giảo,
Bị mọi người ném đá. Mới gần đây
ở một nước tận châu Phi, nghe bảo,
Có một nàng bị chặt đứt hai tay.
Vâng, vì ôm đàn ông mà bị chặt.
Thế mới biết ta tự do, sướng thật.
20
Vậy là anh cùng nàng cần được nghỉ.
Cũng chẳng sao, chúc họ nghỉ yên lành.
Chỉ hơi lạ, một người luôn lý trí,
Luôn cân bằng và thận trọng như anh,
Đang đau khổ, sao bất ngờ vậy nhỉ,
Bỗng yêu nàng rất say đắm, rất nhanh?
Tôi mà thế, một vài điều nho nhỏ
Trước khi yêu tôi phải làm thật rõ.
21
Điều thứ nhất, về nhân thân cô nọ.
Nàng là ai, từ đâu đến, mà rồi
Sao nàng chọn yêu một người khốn khổ,
Không thuộc hàng đẹp trai lắm, là tôi?
Điều tiếp đến là mùi hương cám dỗ.
Thường ở người chỉ mùi khắm mồ hôi.
Sao nàng thơm? Thơm
khác thường, đặc biệt.
Thơm thế này đáng nghi, rồi sẽ biết!
22
Một điều nữa, là buổi chiều đi dạo
Giữa trời mưa, rất đáng lạ, hôm nào
Anh cũng thấy ở bến xe Hàng Cháo
Chỉ mình nàng đang đứng đợi, vì sao?
Chưa nói chuyện chiếc áo choàng lông cáo,
Ai đủ tiền mua thứ ấy? Ôi chao,
Quả có cái để anh lo, ấy vậy
Mà không lo. Thôi thì đành biết đấy.
23
Rất có thể anh bị nàng cám dỗ
Bằng mùi hương, bằng ánh mắt, tiếng cười.
Cũng có thể đang gặp buồn, đau khổ,
Anh để mình theo cảm xúc buông lơi.
Vâng, đang yêu, ít ai nhìn thấy rõ
Để đề phòng cạm bẫy của trò chơi.
Đành là thế, nhưng mà tôi cứ sợ.
Sợ cho anh, không hoàn toàn vô cớ.
24
Một sáng nọ, vâng, ban ngày ban mặt,
Lại vào hôm thứ bảy, nắng hoe vàng,
Anh và chị đèo nhau đi thân mật
Từ đầu cầu đến khu vực Đức Giang
Thì xẩy ra cái điều kinh khủng nhất -
Có một người phóng xe máy đi ngang
Rồi nhằm mặt cô nhân tình xinh đẹp
Hắt cả lọ nước gì. Ôi, thật khiếp!
25
Tạt a-xít? Vâng, than ôi, đúng vậy.
Một lọ to, đúng vào mặt. Thế là
Thật khó tin, cái trò man rợ ấy
Vẫn đang còn. Thật đáng sợ. Thì ra
Các bà vợ lên cơn ghen thế đấy.
Mong, lạy trời, không phải vợ chúng ta.
Cực chẳng đã, có chuyện gì, thiết nghĩ,
Nên đơn giản viết đơn xin ly dị.
26
Tiếc là vợ anh kia không nghĩ thế.
Mà đúng thôi, vì phụ nữ bao giờ
Cũng không chịu (dù một phần) chia sẻ
Cái gọi là ‘niềm hạnh phúc ước mơ’,
Tức là chỉ một phần chồng, bởi lẽ
Không bao giờ họ sao nhãng, thờ ơ
Quyền sở hữu phu quân theo pháp lý,
Cả khi họ ghét ông ta như quỉ.
27
Thật là thích, dùng khổ thơ octave,
Tức tám câu, tám chữ, chỉ ba vần.
Một khổ thơ không quá ư phức tạp,
Đứng thẳng đều, ngay ngắn tựa hàng quân.
Tôi đã dịch, tất nhiên không kể nháp,
(Xin cứ tìm đọc lại cuốn Don Juan)
Cũng suýt soát hai hay ba nghìn khổ -
Một công việc có thể coi đồ sộ.
28
Chắc bạn đọc sẽ nhiều người ái ngại
Thương cho tôi vất vả thế làm gì.
Giờ người ta chỉ viết thơ hiện đại,
Không bó vần, không niêm luật, trong khi
Tôi thì cứ hết ngày đêm nhẫn nại
Gò câu từ như một kẻ man di.
Tôi là thế, sống chỉ bằng định kiến,
Thích bắt chước những khuôn vàng cổ điển.
29
Kể không ít hình thức thơ mới mẻ
Được tôi đưa vào văn học nước nhà.
Tiếc ít người giờ đọc thơ, vì thế
Chúng còn nằm đâu, đâu đó rất xa,
Trong khi tôi thầm ước mong có thể
Sẽ có ngày chúng bám trụ đâm hoa.
Để vườn thơ thêm đôi loài mới lạ,
Tuy không phải tôi là người hái quả.
30
Dẫu mờ mịt, nhưng vẫn còn hy vọng
Rằng biết đâu có ai đó sau này
(Khi cả bạn và tôi không còn sống)
Bỗng bất ngờ thấy chúng cũng hay hay
Sẽ đánh giá đúng ngang tầm lao động
Những gì tôi đã viết, dịch xưa nay.
Nếu được thế, tôi lấy làm mãn nguyện,
Tự cho mình cũng có phần cống hiến.
31
Không thì thôi, cũng chẳng sao, bởi lẽ
Tôi xem thơ như cái nghiệp đời mình.
Nhưng cầm bút, đời này ai chẳng thế,
Chẳng ít nhiều mong được chút quang vinh,
Cái quang vinh biến ta thành nô lệ,
Bắt suốt đời phải nhẫn nhục hy sinh.
Danh và lợi, theo các nhà hiền triết
Chỉ đưa ta vào hư vô, hủy diệt.
32
Thế mà ta, sâu trong lòng vẫn muốn
Một ngày kia có ai đó dọn nhà
Khi bới lục một đống to giấy lộn
Bỗng vô tình ‘phát hiện’ thấy thơ ta.
Và nhờ thế, từ một anh khiêm tốn,
Ta thành người rất ‘vĩ đại’, ‘tài ba’.
Bach, Schubert cũng nhờ bà quét rác
Mà bỗng chốc thành thiên tài lỗi lạc!
33
Tôi, thú thật, hơi ít nhiều xấu hổ,
Được người ta gọi ‘thi sĩ’. Bây giờ
Thơ quá rẻ và nhà thơ quá khổ.
Thế mà nhiều, rất nhiều vị làm thơ,
Nhiều hơn cả số người ưa đọc nó.
Ôi cuộc đời quá dung tục, chai xơ,
Không còn chỗ cho thi ca, nghe nói...
Nhưng mà thôi, lại lạc đề, xin lỗi.
34
Không nổi tiếng như Bairơn, ấy vậy,
Tôi cũng hay mắc cái thói lạc đề
Và làm hỏng thơ của mình cách ấy
Với rất nhiều các đoạn tán lê thê.
Rồi các bạn khi về già sẽ thấy
Bệnh nói nhiều rất khó chữa, khó ghê.
Tôi, thời trẻ viết nhiều mà nói ít.
Giờ ngược lại, nói nhiều, thơ lại tịt.
35
Thêm việc nữa, là vừa qua chợt hứng,
Tôi viết thơ kiểu têu tếu thế này.
Chuyện thì buồn mà giọng thơ tưng tửng,
Một số người nhăn mặt nói: Không hay!
Vợ tôi bảo: Thôi, đi, đừng giở chứng,
Hãy quay về với cách viết xưa nay!
Thì tôi thôi. Tính tôi ưa hòa khí.
Tôi chẳng dám làm phiền thêm các vị.
36
Tôi xin lỗi vì dùng dằng vô cớ
Không nói ngay một chi tiết lạ kỳ,
Là anh kia cùng người yêu, bị vợ
Hắt một bình a-xit lúc đang đi.
Rồi sau đó, chiếc áo lông sặc sỡ
Trên người nàng bỗng bốc cháy. Trước khi
Anh kịp tỉnh thì than ôi đã thấy
Một con cáo bị thui đen nằm đấy!
37
Chắc các bạn ngạc đang nhiên trố mắt?
Từ người yêu thành cáo! Chuyện tầm phào!
Thế mà lại trăm phần trăm có thật,
Được nhiều người chứng kiến, lạ lùng sao.
Tôi, hôm ấy, tiếc thay, không có mặt
Nhưng sau này nghe kể lại. Dù sao
Cái chuyện ấy nghe có phần phi lí,
Nhưng tôi tin, mới kể hầu các vị.
38
Vậy, rốt cuộc, anh bạn tôi khốn khổ
Đã yêu đương, ‘đi lại’ với ma tà.
Chính xác hơn, nàng cầy hương bé nhỏ.
Và bây giờ ta đã hiểu đâu ra
Chiếc áo lông cùng mùi hương cám dỗ.
Đúng ở đời lắm chuyện lạ. Chúng ta
Đọc và tin truyện Liêu Trai ngày bé,
Sao không tin câu chuyện này tôi kể?
39
Xin được nói đôi lời thay đoạn kết.
Anh bạn tôi giờ thảm lắm, suốt ngày
Ngồi một chỗ, đôi mắt nhìn sợ sệt,
Mãi bây giờ chưa khỏi bỏng cánh tay.
Còn vợ anh, người đàn bà đáng ghét,
Thì thế nào? Ồ lạ lắm, gần đây
Bỗng lông lá mọc đầy người như cáo,
Lại còn thêm chiếc đuôi sau vạt áo!
Hà Nội, 17.2.2004
6. NÀNG CÔNG CHÚA ĐÍCH THỰC
1
Tôi ngày nhỏ rất ham mê đọc sách,
Đọc ngày đêm, đến quáng mắt, đau đầu,
Nên học dốt, luôn bị thầy cô trách,
Thích suốt ngày được vắt vẻo lưng trâu,
Đọc cuốn truyện ông nhà văn Đan Mạch,
Giá năm hào, bìa mủn, giấy màu nâu.
Sách hay lắm, đến nay tôi vẫn nhớ
Chuyện hoàng tử một nước kia tìm vợ.
2
Chàng tìm mãi hết nước này, nước nọ
Mà không đâu thấy công chúa chàng cần,
Ta cứ tưởng chỉ chúng ta mới khổ
Khi tìm người làm vợ, dẫu bình dân.
Công chúa nhiều, và nước nào cũng có,
Không ít nàng xinh đẹp, tốt, vân vân.
Nhưng chàng tìm một cô nào đích thực,
Đúng công chúa cả tâm hồn, hình thức.
3
Tức là nàng phải thanh tao, tế nhị,
Phải mảnh mai, nhạy cảm, phải là người
Chất công chúa có trong từng ý nghĩ,
Trong việc làm và ứng xử khắp nơi...
Chàng tuyệt vọng: cô gầy, cô béo ị,
Cô ăn nhiều, cô thô lỗ, lả lơi.
Cô tuyệt hảo mọi điều, nhưng thật tiếc,
Đến phút chót mới biết nàng hơi điếc.
4
Một tối nọ chàng ngồi buồn, than thở.
Mẹ ngồi bên an ủi rất ân cần.
Đúng lúc chàng định thôi không lấy vợ,
Thì có người gõ cửa, muốn dừng chân.
Đấy là hôm trời mưa to đáng sợ.
Bà mẹ chàng ra mở cửa: Ngoài sân
Một cô gái đang đứng run vì lạnh.
Chiếc áo mỏng bám vai nàng mảnh khảnh.
5
Công chúa nói là nàng người xứ nọ,
Con đức vua tên như vậy, suốt ngày,
Nàng bị lạc, giờ lại đang mưa gió,
Đến xin nhờ trú tạm hết đêm nay.
Mẹ hoàng tử mời nàng vào, sau đó
Lấy áo quần khô sạch để nàng thay,
Rồi mời ăn, rồi bà sai chuẩn bị
Một phòng riêng cho nàng công chúa nghỉ.
6
Bà lặng lẽ đặt lên giường hạt đậu,
Rồi chồng lên hai mươi tấm đệm mềm,
Cộng mười đệm rất dày nhồi lông gấu -
Đó là giường công chúa ngủ qua đêm.
Sáng nàng dậy. “Ngủ thế nào hả cháu?”
Nàng lắc đầu: “Giường cứng quá, không êm.
Trằn trọc mãi mà không sao ngủ được,
Cả người cháu bị thâm bầm, xây xước!”
7
Bà hoàng hậu gọi con trai, lập tức
Nàng được đưa yết kiến trước ngai vàng.
Vua tuyên bố nàng là người đích thực,
Tức là nàng công chúa đẹp, cao sang.
Cả kinh thành đèn đốt lên sáng rực,
Cùng tiếng kèn và tiếng pháo nổ vang.
Rồi lễ cưới, ba tháng liền, tất cả
Được mời dự, đều no say, hỉ hả.
8
Chàng hoàng tử thì rất vui, khỏi nói,
Cưới được cô công chúa mảnh mai này.
Chàng lên ngôi, trì vì không đến nỗi,
Dẫu việc triều hay bỏ bễ, tiếc thay,
Vì chàng bận, cả ban ngày, buổi tối,
Bò trên giường vợ ngủ, nhặt luôn tay
Từng hạt bụi, từng chiếc lông bé nhỏ.
Đậu bị cấm từ rất lâu trước đó.
9
Ta tìm vợ, thích những nàng tinh tế,
Gầy, mảnh mai, nhạy cảm, má luôn hồng,
Nhưng nếu gặp một nàng như đã kể,
Liệu anh nào lấy làm vợ hay không?
Câu hỏi khó, khó vô cùng, bởi lẽ
Chính cuộc đời đã cho thấy: đàn ông
Luôn thất bại và cũng luôn bị hớ
Trong cái việc ta phải làm - tìm vợ.
Hà Nội, 25 tháng Tư, 2009
7. ÔNG VUA CỞI TRUỒNG
1
Đầu tháng trước có một ông họa sĩ,
Bạn sơ sơ, rủ tôi đến Hàng Bài
Dự triển lãm tượng tranh ông người ý
Mà truyền thông và trong giới ai ai
Cũng ngợi khen như tài năng tuyệt mỹ,
Người đi đầu của trường phái vị lai.
ừ thì đến - và nhìn tranh, ngắm tượng,
Tôi cứ thấy buồn buồn, pha chút ngượng.
2
Tôi làm thơ, không am tường hội họa,
Tuy cũng không đến nỗi chẳng biết gì,
Nhưng xem tranh của rất nhiều tác giả,
Tôi, thực tình, không thích lắm. Nhiều khi
Còn tự hỏi: Hay mình ngu dốt quá
Mà mù mờ không hiểu, lại hoài nghi:
Hay không lẽ người ta đang đánh đố,
Để che giấu cái bất tài của họ?
3
Đây, trước tôi - những bức tranh đủ cỡ,
Đóng trong khung trang trọng, đủ sơn dầu
Và thuốc nước, với các tông sặc sỡ,
Vẽ đủ hình kỳ dị. Ngắm hồi lâu
Mà chẳng hiểu là hình gì, tôi sợ
Ông bạn mình cũng chẳng hiểu gì đâu.
Thế mà ông, như mọi ngưòi, khen đẹp.
Tôi cũng phải gật gù cho phải phép.
4
Đẹp thật ư, những mảng màu nham nhở?
Những hình nhân méo mó, những con bò
Mà chẳng giống loài bò, trông thật sợ
Với bốn sừng, ngậm điếu thuốc rất to?
Tên tác phẩm: “Cánh đồng quê rực rỡ”,
Nhưng cánh đồng là bãi cát màu tro.
Có thể nói là xem thường khán giả,
Thế mà khách ai cũng khen, thật lạ.
5
Khen nhiều nhất, tất nhiên, là họa sĩ.
Họ vẽ tranh na ná thế, khi bình,
Họ viện dẫn nhiều trào lưu, triết lý
Bằng những lờỉ rất tối nghĩa, thông minh.
Phần lớn khen vì đơn thuần họ nghĩ
Nếu không khen, người khác sẽ chê mình.
Tôi xin kể, nhân đây, câu chuyện nhỏ,
Để bạn biết tôi nghĩ gì lúc đó.
6
Xưa, ngày xưa, có ông vua vĩ đại,
Vua ra vua, ai trái lệnh - chém đầu.
Giỏi thu thuế, giỏi đánh nhau, trái phải
Vua bất cần, và nổi tiếng từ lâu
Là thích diện như như đàn bà, con gái,
Quên rằng mình là một đấng mày râu.
Nghe kể lại, thú vui này vô bổ
Ngốn của vua một phần ba ngân khố.
7
Rồi một hôm có hai anh chàng trẻ,
Hai đại ca lừa bịp ở nước này,
Đến gặp vua, nói rằng mình có thể
Dệt “lụa trời”, thứ đẹp nhất xưa nay -
Mỏng, rất mịn, rất dịu dàng, rất nhẹ,
Nhẹ và mềm như làn gió đang bay.
Quan trọng nhất: Nó muôn màu lộng lẫy,
Nhưng ai ngốc thì sẽ không nhìn thấy!
8
“Hay, hay lắm! - vua kêu lên . - Thật tuyệt!
Đúng khi ta cần áo mới cho mình.
Có áo ấy, bây giờ ta sẽ biết
Quan trong triều ai ngu ngốc, thông minh!”
Hai tên bợm được vua ban phẩm tiết
Cùng bạc vàng, được lưu lại trong kinh
Để làm việc ngày đêm không mệt mỏi
Dệt cho xong chiếc áo kia đã nói.
9
Thế mà chúng, trong ngôi nhà rất rộng,
Cửa đóng im, chỉ nằm ngủ suốt ngày.
Quan đến hỏi, chúng giả vờ ‘lao động’,
Vờ miệt mài kéo tơ sợi luôn tay.
Rồi hỏi quan đang nhìn khung cửi trống:
“Ngài cho rằng nó đẹp nhất xưa nay?”
Quan ngạc nhiên không thấy gì, vẫn nói:
“Vâng, đẹp lắm! Đẹp không sao tả nổi!”
10
Đúng ba tháng mười ngày sau, lễ phép,
Chúng dâng vua chiếc áo lụa diệu kỳ.
Vua lập tức thốt lên: “Chao, thật đẹp!”
Tuy nghĩ thầm:”Mình thuộc loại ngu si?”
Còn các quan thì tranh nhau, tội nghiệp,
Khen hết lời. Một tiến sĩ uy nghi
Còn viết cả một công trình đồ sộ
Về chiếc áo mà thực ra không có.
11
Hai tên bợm yêu cầu vua mặc thử -
Tội ông vua trần như nhộng. Thế là,
Vua phơi hết chiếc bụng to đại bự
Cùng nốt ruồi chi chít mọc trên da.
Quan tể tướng, không một giây lưỡng lự,
Vội dẫn đầu đoàn người lớn đi ra,
Vì ngài nghĩ: áo của vua đẹp thật,
Thì công chúng phải được xem tận mắt.
12
Thế là vua, trên người không mảnh vải
Cứ bước đi giữa các phố, tồng ngồng.
Dân ngơ ngác nhìn đức vua vĩ đại,
Vua mỉm cười, luôn ưỡn bụng. Đám đông
Được một bữa thầm cười vua thoải mái.
Không người nào dám nói thật, ồ không,
Ai cũng khen áo vua, đâu dại dột
Nói ngươc lại để bị chê ngu dốt!
13
Và rồi bỗng, giữa biển người lặng lẽ,
Do hồn nhiên, một thằng nhóc nhà nào,
Thật ngu dốt, không nghe lời bố mẹ,
“Vua ở truồng! - nó kêu lớn. - Vui sao!
Hãy nhìn kia, vua ở truồng!” Thật tệ,
Cả biển người nín lặng, khẽ xôn xao,
Rồi tất cả cùng đồng thanh: “Đúng vậy,
Vua ở truồng! Vua ở truồng! Thế đấy!”
14
Do không thể đem mọi người chém hết,
Vua bắt quan tể tướng cởi áo quần.
Các quan khác làm theo vì sợ chết.
Và rồi ngài ra lệnh bắt thần dân
Nộp thêm thuế, ai không nghe sẽ giết,
Thuế ruộng vườn, thuế củi, thuế dầu ăn...
Hai tên bợm thì phải đem treo cổ.
Nhưng chúng trốn từ rất lâu trước đó.
15
Giờ nói tiếp đề tài tranh, hoạ sĩ.
Chúng ta xem, lặng lẽ, chẳng chau mày
Trước những hình rất nhố nhăng, quái dị,
Ta âm thầm chấp nhận thế xưa nay.
Hay ta sợ nói ra không tế nhị,
Sẽ bị cười, bị chê ngốc, thơ ngây?
Hay phải chờ thằng nhóc con vô lễ
Sẽ nói to như chuyện trên tôi kể?
Hà Nội, 28 tháng Tư, 2009
8. DẠY VỢ
1
ở nước nọ, nghe người ta kể lại,
Có một ông lấy vợ chẳng ra gì.
Bà vợ ấy bất cần nghe phải trái,
Luôn cãi chồng, lười, hỗn, khiến nhiều khi
Vì đau khổ, và cũng vì sợ hãi,
Ông hận đời, những muốn bỏ nhà đi.
Thế mà ông, một con người đáng quí,
Vẫn ở lại với vợ mình, chung thủy.
2
Ông còn đáng khen hơn về cả việc
Giỏi cắn răng chịu đựng chính con mình.
Cô giống mẹ, đó là điều thật tiếc,
Dẫu ưa nhìn, có thể nói, thông minh.
Thế mà láo, không ngớt mồm mắng nhiếc
Bọn người hầu, cái miệng nhỏ xinh xinh
Làm việc nữa, là ăn không ngừng nghỉ.
Con giống mẹ cái hư, sao thế nhỉ?
3
Không khó hiểu cô nàng này bị ế,
Tuổi hăm hai vẫn chưa lấy được chồng.
Ông bố hứa các thêm nhà. Bà mẹ
Hứa cho tiền, mà không vẫn hoàn không.
Nhưng cuối cùng, một anh còn khá trẻ,
Hoặc từ xa không biết, hoặc vô công,
Đến tự nguyện cầu hôn cô nàng nọ,
Không đòi thêm dù một đồng xu
nhỏ.
4
Các bạn nghĩ thế nào tôi chẳng biết,
Nhưng theo tôi việc ấy thật điên rồ.
Lấy vợ hư là tự mình muốn chết,
Lại chối từ tiền các, khoản tiền to.
Xét mọi nhẽ, để bù phần thua thiệt,
Khoản tiền này đáng lấy, của trời cho.
Phải chịu đựng cô vợ hư, khó tính
Mà có tiền, cũng dễ hơn chút đỉnh.
5
Anh dẫn vợ về nhà, ngay tối ấy,
Khi đưa cô lên giường ngủ, thấy phòng
Cửa chưa đóng, liền chỉ tay nóng nẩy,
Quát: “Cửa phòng, mày tự đóng hay không?”
Cửa không đóng, tất nhiên. Anh đứng dậy
Đá một hồi, cánh cửa gãy. Đang đông,
Cô vợ trẻ nằm im không dám nói,
Run vì rét, vì sợ chồng quá đỗi.
6
Tối hôm sau, anh bảo cây nến nhỏ:
“Tự thắp lên, không thấy hả, tối rồi!”
Nến không thắp, anh chĩa gươm vào nó
Rồi lừ lừ, chém một nhát đứt đôi.
Anh bảo vợ: “Bướng, lười như chúng nó,
Thì rõ ràng chỉ cách ấy mà thôi”.
Cô vợ nghĩ: “Với anh chồng như thế
Thì tốt nhất nên phục tùng lặng lẽ”.
7
Theo phong tục, năm tuần sau lễ cưới,
Anh phải thăm bố mẹ vợ lần đầu.
Con la nhỏ hai vợ chồng anh cưỡi,
Một xe quà nó phải kéo đằng sau.
Đến hồ nước, nơi nhiều người chăng lưới,
Nó ngập ngừng không chịu bước hồi lâu.
Anh quát nó, nó không nghe, rút súng,
Bắn một phát, ruột phòi ra khỏi bụng.
8
Rồi thản nhiên, anh khoác lên cổ vợ
Chiếc dây đeo cỗ xe nặng đầy quà.
“Con này láo, định giở trò vô cớ.
Thật đáng đời! Giờ có lẽ thay la
Em chịu khó kéo giúp anh”. Vì sợ,
Cô nàng đành è cổ kéo. Chúng ta
Dẫu thông cảm với anh, nhưng phải nói
Bắt vợ làm thế này là có tội.
9
Thế là muốn hay không, cô vợ trẻ
Phải kéo xe, khỏi nói mệt thế nào.
Chồng đi cạnh, thêm đôi câu khích lệ,
Chỉ một lần giơ súng bắn lên cao.
Xe đến nơi, ông bố cô vui vẻ
Hỏi: “Vợ chồng hai đứa sống ra sao?”
Anh rể đáp: “Dạ, chúng con rất ổn.
Vợ con ngoan, lại ít lời, khiêm tốn”.
10
Bà mẹ hỏi: “Chồng con yêu con chứ?”
“Dạ, rất yêu, - cô con đáp thực lòng,
Rồi dừng lại cúi đầu, hơi lưỡng lự. –
Tuy có phần nóng tính, mẹ biết không...
Nhưng không sao, với con, là phụ nữ,
Con yêu người mạnh mẽ, tính đàn ông”.
Bố mẹ vợ, dẫu còn chưa tin cả,
Nhưng nghe thế cũng ít nhiều hỉ hả.
11
Họ ở lại đúng ba ngày, mọi chuyện
Đều diễn ra rất tốt đẹp, và rồi,
Ngày thứ ba, trong tình thương lưu luyến,
Cô thực lòng kể bố mẹ, than ôi,
Chuyện chồng bắn chết la và chém nến,
Chuyện đêm đầu đạp cửa vỡ làm đôi.
Thế mà cô chẳng trách chồng, ngược lại
Còn khen anh công bằng, ưa lẽ phải.
12
Tiễn con về, suốt cả ngày ông bố
Cứ thẩn thơ như suy ngẫm điều gì.
Rồi tối đến, bước vào phòng, hùng hổ,
Chỉ cây đèn: “Mày phải tự thắp đi!”
Còn vợ ông, nằm trên giường, nói nhỏ:
“Này ông già, một ông lão ngu si,
Xin hãy bỏ cái trò kia lố bịch.
Để tôi nói cho ông nghe, nếu thích.
13
Ông đã ngốc, giờ ngốc hơn, bởi lẽ,
Quên xưa nay các cụ dặn: Làm chồng,
Muốn dạy vợ, hãy dạy khi còn trẻ.
Nó đã già thì dạy chỉ mất công.
Con lừa già, có đánh đau, vẫn thế,
Vẫn bướng, lười, ông có dạy được không?”
Ông già nghe, gãi đầu, rồi sau đó
Lại như cũ, như xưa nay vốn có.
14
Chuyện chỉ thế, nhân đây tôi chợt nhớ,
Có một anh vào hiệu sách Hàng Đào,
Xin hỏi mua cuốn cẩm nang dạy vợ.
Người bán hàng ái ngại nói: “Ôi chao,
Sách viễn tưởng thuộc loại này, tôi nhớ,
Chưa bao giờ được xuất bản, buồn sao”.
Câu chuyện này coi như thay đoạn kết.
Tôi chẳng biết nói gì thêm. Tạm biệt.
Hà Nội, 24. 4. 2009.
9. CHIẾC NHẪN LẠ KỲ
1
Ở nước nọ, hình như là Tây Tạng,
Xưa có anh xuất xứ rất bình thường.
Tức nghèo đói, làm ăn không chểnh mảng,
Nhưng suốt đời vẫn lam lũ, đáng thương.
Thế mà chắc được sao nào chiếu sáng,
Đời anh chàng bỗng thay đổi - tai ương
Và bất hạnh rủ nhau đi, đi hẳn
Để nhường chỗ cho toàn điều may mắn.
2
Anh gặp may trong mọi điều, mọi nhẽ.
Từ đói ăn thành no đủ, thành giàu.
Rồi lấy vợ, lấy con nhà tử tế,
Rồi thành người nổi tiếng cũng rất mau.
Chẳng mấy chốc được đích thân hoàng đế
Mời vào cung, và chỉ mấy năm sau
Đã được bổ vào chức quan tể tưởng.
Tức tuyệt đỉnh quyền uy và sung sướng.
3
Một sáng nọ, ông quan may mắn đó
(Chỉ sau vua về quyền lực, tiền tài)
Sau bữa ăn đi vào nhà tắm Thổ
Để hưởng quyền thư giản giống như ai.
Trong nước ấm thoảng hương thơm cây cỏ
Ông ngâm mình, thiêm thiếp ngủ. Bên tai
Là tiếng hát các nàng tiên nô lệ
Và tiếng nước đài phun rơi nhè nhẹ.
4
Ông tận hưởng những phút giây êm ái,
Thầm cảm ơn số phận đã cho mình.
Ông biết ông thành giàu sang, vĩ đại
Cũng là nhờ giúp đỡ của thần linh.
Nhưng vận may có kéo dài mãi mãi?
Nếu kéo dài... không thể! Vốn thông minh,
Ông chững lại, thấy có gì bất ổn
Đúng vào lúc chiếc nhẫn to trên ngón
5
Tuột khỏi tay - chiếc nhẫn vàng khá nặng,
Ông luôn đeo như biểu tượng uy quyền,
Đính kim cương - năm viên to màu trắng.
Đang quay người, định cúi xuống nhặt lên,
Thì bất chợt, ông bàng hoàng đứng lặng:
Chiếc nhẫn to, sáng ấy ngả màu đen,
Không chịu chìm như đáng ra phải thế,
Mà cứ nổi lềnh bềnh, trông rất nhẹ.
6
Một chiếc nhẫn bằng vàng và đá quí
Sao bỗng dưng lại nổi, lạ thế này?
Thât kỳ cục! Ôm đầu, ông chợt nghĩ:
Cuộc đời mình may mắn thế, giờ đây
Đã chuyển hướng, sẽ đến thời cực bĩ,
Hãy sẵn sàng đón tai họa từ nay.
Ông vội vã về nhà, lo bí mật
Giấu của cải rồi chờ điều xấu nhất.
7
Ông không phải chờ lâu, ngay tối đó,
Theo lệnh vua có lính đến khám nhà.
Ông bị trói, bị tra gông vào cổ,
Ông, một người nổi tiếng khắp gần xa,
Thế mà giờ, nhốt trong lồng như chó,
Bị mấy thằng lính nhãi bắt, khiêng ra.
Chưa nói chuyện gia tài ông còn lại
Bị cướp hết trong tiếng kêu kinh hãi.
8
Số là tại do ông giàu nhanh quá,
Quá gặp may chuyện thăng tiến, chức quyền.
Mà trong cung khối gì anh hèn hạ,
Chúng bực mình vì thua kém, vì ghen,
Nên ton hót với đức vua, chẳng lạ,
Thế là từ vận đỏ chuyển thành đen.
Dẫu vẫn biết là đời luôn tráo trở,
Nhưng từ tướng thành tù nhân, thật sợ.
9
Bạn đã gặp cảnh này chưa, xin hỏi,
Tức là oan, bị trù dập, bị lừa?
Tôi dám chắc đã gặp rồi. Khốn nỗi,
Cuộc đời nào không có ít mây mưa?
Còn tôi ư, cứ thật ra mà nói,
Cũng đôi lần nho nhỏ, nghĩa là chưa.
Tức là tôi chưa bao giờ giàu có
Đến cái mức bị đeo gông vào cổ.
10
Chả là tôi, từ lâu tôi đã học
Trong Tinh Hoa Vốn Cổ, ý thế này:
Ai cười nhiều tất nhiên rồi phải khóc,
Ai tích nhiều sẽ có lúc trắng tay.
Và hiểu biết - vừa thôi cho đỡ nhọc.
Người biết dừng đúng lúc, ấy người ngay.
Thành ra tôi, không cái gì thái quá,
Nên cuộc sống khá trơn tru, nhàn nhạ.
11
Tôi hưu non, tuổi chưa đầy năm chục.
Do lười thôi, cả do ghét quan trường.
Được sống riêng một mình, tôi hạnh phúc,
Không bạn bè, không trai gái yêu đương.
Chỉ đọc sách, dịch thơ hay đôi lúc
Lại lấy đàn cò cử điệu du dương.
Nói tóm lại, chỉ làm ba việc đó,
Nên chẳng có lý gì tôi phải khổ.
12
Chứ như ông tể tướng kia, thật tội,
Giàu làm chi để phải khổ thế này,
Để bị giam mười năm trong ngục tối,
Để cuối cùng tay trắng lại trắng tay.
Ông bị đánh, bị nhiều lần bỏ đói,
Chịu bao điều trơ trếu lẫn chua cay.
Giờ trong ngục, nhiều thời gian, chắc chắn
Ông ngẫm nghĩ về trò chơi số phận.
13
Các cụ nói: trong cái may có họa,
Rằng không ai phải khổ mãi suốt đời.
Trời cũng chẳng cho ai vui sướng quá.
Nên cứ chờ, đừng thất vọng, buông rơi.
Dẫu không phải người Việt Nam, thật lạ,
Cái ông này người Tây Tạng xa xôi,
Đã hiểu đúng, hiểu sâu chân lý ấy,
Nên không buồn, cứ có sao chịu vậy.
14
Ông thầm nghĩ: Chính bàn tay số phận
Đưa mình lên tới tột đỉnh chức quyền.
Nay xuống đáy, vậy cứ chờ, chắc chắn
Sẽ có ngày số phận lại đưa lên.
Nhưng thật sự đến đáy chưa? Kiên nhẫn
Ông cứ chờ, không một phút kêu rên.
Ông chờ gì? Chờ một điều tồi tệ,
Không phải chết, mà cái gì hơn thế.
15
Cái điều ấy, còn khổ hơn cái chết,
Rồi một hôm nó cũng đến. Số là
Bị bỏ đói đã mấy ngày, trời rét,
Ông nằm dài, bụng sôi réo, mắt hoa.
Một gác ngục nhìn mà thương, lấm lét
Đi ra vườn hái mấy cộng rau ma
Ném xuống đất cho ông ăn đỡ đói.
Ông run rẩy cầm lên tay, khốn nỗi
16
Đang định ăn thì một tên lính khác
Đến đánh ông, vứt rau xuống, lấy giày
Dẫm nát bét - một việc làm độc ác -
Ông kia nhìn, rồi bất chợt giơ tay,
Lạy thánh thần cho qua cơn bĩ cực,
Tin cuộc đời sẽ đổi khác từ nay.
Ông vui mừng vì việc này cho thấy
Rằng cái khổ đã cuối cùng chạm đáy.
17
Mấy hôm sau, đúng như ông chờ đợi,
Ông được tha, thậm chí có xe rồng
Chở đức vua và mấy quan cùng tới
Đón ông vào cung điện. Thế là ông
Được minh oan, được giao công vụ mới,
Nhưng bất ngờ, ông nhất quyết nói không.
Ông cảm ơn, và quãng đời còn lại
Ông ở ẩn, sống vô lo, thoải mái.
18
Câu chuyện này, không nói ra cũng biết,
Tôi phịa thôi, chủ yếu để răn mình.
Ai tham tiền, tham làm quan là chết.
Sống ở đời phải tỉnh táo, thông minh.
Never pass the deadline cần thiết.
Không thì rồi hậu quả sẽ rất kinh.
Nhưng deadline lại rất mờ rất nhỏ,
Vậy làm sao để biết, nhìn thấy nó?
19
Đấy là chuyện của từng người, hẳn vậy,
Bản thân tôi, tôi học được đều này
Nhờ Khổng Tử: Đọc Trung Dung sẽ thấy
Rất nhiều điều đáng suy ngẫm, rất hay.
Nên dẫu đời lắm tai ương như vậy,
Tôi, nhờ trời, sống yên ổn xưa nay.
Trong số sách xếp hàng dài trên giá,
Cuốn Tứ Thư tôi đọc nhiều hơn cả.
20
Thế mà tôi không ít khi vô cớ
Sợ biết đâu trót sơ ý để mình
Đi xa quá deadline kia đáng sợ,
Nên mỗi lần vào bồn tắm thông minh,
Tôi cỡi nhẫn, tất nhiên là giấu vợ,
Rồi nhẹ nhàng thả xuống nước lung linh.
Ồ, may quá: chiếc nhẫn chìm, dẫu nó
Chỉ bằng nhôm, nhẹ tênh và rất nhỏ.
21
Thế là hết câu chuyện này triết lý.
Tôi muốn khuyên người đọc một ý này:
Hết mọi thứ trời từ lâu an vị,
Hãy bằng lòng cái mình có hôm nay.
Nhớ thỉnh thoáng cởi nhẫn ra, để ý,
Xem nó chìm hay nổi, họa hay may.
Nếu nó chìm, yên tâm mà sống khỏe.
Còn nếu nổi... ôi lạy trời, không lẽ?...
22
Những vị nào nghèo đến không có nhẫn
Thì tất nhiên không phải thử, e hèm,
Cứ lẳng lặng chờ vận may số phận,
Vì đã nghèo như thế, khó nghèo thêm.
Vận may đến, tôi cũng khuyên cẩn thận,
Biết kịp thời dừng lại, rút thật êm.
Kẻo lại giống ông kia mà mất sạch.
Tôi đã nhắc, sau có gì đừng trách.
Hà Nội, 17. 3. 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét