Tho Song Ngu Anh Viet - Hai
SAI LẦM CỦA CÔ
GÀ
Phoebe Gary
Có cô Gà còn bé
con, ngày nọ
Xin phép mẹ đi
ra hồ tập bơi,
Khi cô thấy Vịt
Bầu cùng con nó
Đang tung tăng
dưới nước, miệng vui cười.
Nhưng Gà Mẹ
không cho đi, vì thế,
Cô kêu lên chiêm
chiếp, lại còn hờn:
“Vịt bơi được,
sao con không có thể?
Hay bởi vì chúng
giỏi hoặc to hơn?”
Gà Mẹ đáp: “Quên
đi mong muốn ấy.
Đừng xin ta
chuyện ngu ngốc, mà rồi,
Con hãy nhìn
xuống chân con thì thấy,
Chúng được làm
để đi bộ mà thôi.”
Nhưng cô Gà
không mảy may tin mẹ.
Mắt vẫn trông
xuống nước, vẻ rất thèm.
Cô nghĩ mẹ không
cho, nên nói thế.
“Sao mà lừa mình
được, để rồi xem!”
Và khi mẹ tìm thức ăn đâu đấy,
Cô lỉnh đi, còn lẩm bẩm thế này:
“Ta cứ bơi, sẽ không chìm, hẳn vậy,
Ta thực tình muốn mẹ thấy hôm nay!”
Không do dự, cô
nhảy ùm xuống nước,
Và
biết ngay cô đã phạm sai lầm.
Nhanh,
nhanh quá, không kịp nhìn sau trước,
Cô đã
chìm, và một lúc - mất tăm.
Giờ hy vọng rằng
các em, bạn trẻ,
Đọc thơ tôi, sẽ
hiểu được điều này:
Rằng những ai
biết nghe lời bố mẹ,
Thì mọi điều sẽ
rất tốt và hay;
Rằng tất cả sinh
linh trên thế giới
Có khả năng
riêng biệt, khác từ đầu.
Ai làm trái, thì
yên tâm cứ đợi
Sẽ có ngày hối
hận hoặc buồn đau.
THE CHICKEN'S MISTAKE
A little downy chicken one day
Asked leave
to go on the water,
Where she saw a duck with her brood at play,
Swimming and
splashing about her.
Indeed, she began to peep and cry,
When her
mother wouldn't let her:
“ If ducks can swim there, why can't I;
Are they any
bigger or better? “
Then the old hen answered, "Listen to me,
And hush your
foolish talking;
Just look at your feet and you will see
They were only
made for walking."
But chicky wistfully eyed the brook,
And didn't half
believe her,
For she seemed to say by a knowing look,
“ Such stories
couldn't deceive her.”
And as her mother was scratching the ground,
She muttered
lower and lower,
“I know I can go there and not get drowned,
And so I think I'll show her.”
Then she made a plunge where the stream was Jeep,
And saw too
late her blunder:
For she hadn't hardly time to peep
Till her
foolish head went under.
And now I hope her fate will show
The child, my
story reading,
That those who are older sometimes know
What you will
do well in heeding.
For we all have our proper sphere below,
And this is a
truth worth knowing:
You will come to grief if you try to go
Where you
never were made for going.
ĐU QUAY
Robert Stevenson
Sao cậu thích
chơi đu quay như thế,
Lên tít tận trời mây?
Vì tớ nghĩ nó
vừa vui vừa dễ,
Ai cũng yêu trò này.
Nó quay tít lên
cao rồi lại xuống,
Tớ đưa mắt nhìn quanh,
Thấy sông suối,
rồi vườn cây, đồng ruộng,
Cả làng quê yên lành.
Tớ nhìn xuống,
thấy hàng cây rợp lá,
Những mái nhà xạm đen.
Rồi lên cao, bay
như chim, thích quá -
Hết xuống rồi lại lên.
THE SWING
How do you like to go up in a swing,
Up in the air so blue?
Oh ! I do think it the pleasantest thing
Ever a child can do!
Up in the air and over the wall,
Till I can see so wide,
Rivers and trees and cattle and all
Over the countryside
Till I look down on the garden green,
Down on the roof so brown
Up in the air I go flying again,
Up in the air and down !
HAI CHÚ MÈO
Hai chú Mèo
trong một đêm giông tố
Đã đánh nhau,
sau một hồi cãi cọ,
Vì một con có
chú chuột, tiếc thay
Con thứ hai
không có, chuyện thế này:
Con lớn nói:
“Tao ăn con chuột ấy!”
“Sao, mày ư? Tao
sẽ không chịu vậy!”
“Tao sẽ ăn!” Con
Mèo lớn gầm gừ.
“Không đời nào!”
Con nhỏ đáp vô tư.
Đó là đêm bão
giông, như đã kể,
Hai chú Mèo đánh
nhau, kêu chí chóe.
Bà chủ nghe,
nghiêm khắc, một bà già,
Cẩm chiếc chổi,
quét hai chú khỏi nhà.
Im như chuột,
đứng bên ngoài, giá rét,
Chúng lạnh buốt,
khắp thân mình đầy tuyết,
Và tiếc thầm:
Nếu không trót đánh nhau,
Thì bây giờ đã
ngủ ấm từ lâu.
THE LITTLE KITTENS
Two little kittens, one stormy night,
Began to quarrel and then to fight;
One had a mouse, the other had none,
And that was the way the quarrel begun.
“I'll have that mouse,” said the bigger cat.
"You'll have that mouse? We'll see about that."
“I will have that mouse," said the elder son.
You won't have that mouse!"said the little one.
I told you before 'twas a stormy night
When these two little kittens began to fight;
The old wroman seized her sweeping broom,
And swept the two kittens right out of the room.
The ground was covered with frost and snow,
And the two little kittens had nowhere to go;
So they laid them down on the mat at the door,
While the angry old woman was sweeping the floor.
And then they crept in as quiet as mice,
All wet with snow, and as cold as ice;
For they found it was better, that stormy night,
To lie down and sleep than to quarrel and fight.
ĐỪNG ĐẦU HÀNG
Phoebe Gary
Bạn đã cố, mà
tiếc thay, thất bại?
Đừng buồn, đừng bận tâm.
Dẫu công việc
chưa thành, điều quí nhất
Là bạn đã cố làm.
Như chim non mới
tập bay, rơi ngã -
Cánh khỏe dần, không sao.
Và cứ thế, sau
nhiều lần, có thể
Bay xa hơn, và cao.
Như sừng sững
cây sồi kia to lớn,
Gió bão quật gãy cành,
Nhưng sau đó lá
sồi non lại mọc
Rườm rà và thêm xanh.
Nếu làm việc, cứ
chọn điều dễ dãi,
Ai còn quí trọng mình?
Đạt thắng lợi
sau rất nhiều thất bại
Là phép thử đời anh.
DON'T GIVE UP
If you've tried and have not won,
Never stop for crying;
All that's great and good is done
Just by patient trying.
Though young birds, in flying, fall,
Still their wings grow stronger;
And the next time they can keep
Up a little longer.
Though the sturdy oak has known
Many a blast that bowed her,
She has risen again and grown
Loftier and prouder.
If by easy work you beat,
Who the more will prize you?
Gaining victory from defeat,
That's the test that tries you!
HOA ĐỪNG - QUÊN
- EM
Khi Đức Chúa đặt
tên
Cho các loài hoa
đẹp,
Có bông hoa mắt
xanh,
Đi lại gần, khép
nép.
Đứng ngay sát
chân Ngài,
Ngắm mặt Ngài
đẹp đẽ,
Bông hoa đôi mắt
xanh
Nói dịu dàng, e
lệ:
“Tên Chúa đặt
cho con,
Con quên rồi,
xin lỗi.”
“Tên con: Đừng -
Quên - Em,”
Chúa mỉm cười,
và nói.
FORGET-ME-NOT
When to the flowers so beautiful
The Father gave
a name,
Back came a little blue-eyed one
(All timidly it
came),
And standing at its Father's feet,
And gazing in
his face
It said in low and trembling tones,
With sweet and gentle grace,
" Dear God, the name thou gavest me
Alas! I have forgot."
Then kindly looked the Father down,
And said, Forget-me-not."
TÔI
SỐNG VÌ NHỮNG NGƯỜI YÊU TÔI
Linnaeus Banks
Vì những người
luôn yêu tôi, tôi sống,
Vì những ai thân
thiết nhất đời này.
Tôi sống cả vì
bầu trời cao rộng,
Sống và làm
những việc tốt, điều hay.
Tôi
còn sống, để ai cần - giúp đỡ,
Để
cùng nhau xua cái ác hàng ngày.
Vâng,
tôi sống vì tương lai rực rỡ,
Và để
làm những việc tốt, điều hay.
I LIVE FOR THOSE WHO LOVE ME
I live for those who love me,
For those who know me true,
For the heavens that bend above me
And the good that I can do ;
For the cause that needs assistance,
For the wrongs that lack resistance,
For the future in the distance
And the good that I can do.
CON MÈO TRONG GIỎ
Eliza Follen
Giỏ của em ở đâu?
Charlie kêu, nóng nảy.
Chắc có cô cậu nào
Mang nó đi đâu đấy!
Cả con mèo Kitty
Cũng biến đi với nó,
Biết tìm đâu bây giờ
Kitty và chiếc giỏ?
Thôi,
sang phòng mẹ tìm.
Chú
mèo con rất tệ,
Cứ
thích vào phòng này
Rồi
ngủ trưa trên ghế.
Ôi, mẹ ơi, nhìn này!
Con cứ tìm đâu đó.
Hóa ra con Kitty
Cuộn tròn, nằm trong giỏ.
Rồi cậu, rất nhẹ nhàng,
Bê chiếc giỏ khoe mẹ.
Trong giỏ có con mèo
Đang ngủ yên lặng
lẽ.
KITTY IN THE BASKET
“Where is my little basket gone?”
Said Charlie boy one day.
“I guess some
little boy or girl
Has taken it
away.”
“And kitty, too, I can't find her.
Oh, dear, what shall I do?
I wish I could my basket find,
And little kitty, too.
“I'll go to mother's room and look;
Perhaps she may be there,
For kitty loves to take a nap
In mother's easy-chair.
O mother! mother! come and look!
See what a little heap !
My kitty's in the basket here,
All cuddled
down to sleep.”
He took the basket carefully,
And brought it in a minute,
And showed it to his mother dear,
With little
kitty in it.
TRĂNG NON
Eliza Follen
Này mẹ ơi,
Ra xem Trăng, đẹp quá.
Chưa bao nó đẹp giống hôm nay.
Hai chiếc sừng tí hon,
Kia, sáng lóa.
Con ước sao nó cứ mãi thế này!
Cùng với mẹ
Nếu được lên trên đó,
Con sẽ chơi như chơi trò khập khênh.
Con ngồi giữa,
Tay nắm đôi sừng nhỏ.
Trăng đung đưa như thuyền lướt bập bềnh.
Con bảo Sao:
Hãy tránh xa, các bạn,
Kẻo vô tình thuyền tớ vướng vào Sao.
Rồi con lắc,
Lắc suốt đêm không chán,
Chờ bình minh, xem Trăng lặn nơi nào.
Rồi sau đó,
Mẹ và con ở lại
Bay nhẹ nhàng giữa trời sao bao la.
Mặt Trời mọc,
Một cầu vồng êm ái
Đưa mẹ con xuống đất, trở về nhà.
THE NEW MOON
“Dear mother,
how pretty
The moon looks
to-night!
She was never
so cunning before ;
The two little
horns
Are so sharp
and so bright,
I hope she'll
not grow any more.
If I were up
there,
With you and my
friends,
I'd rock in it
nicely you'd see;
I'd sit in the
middle
And hold by
both ends;
Oh, what a
bright cradle 'twould be!
I would call to
the stars
To keep out of
the way,
Lest we should
rock over their toes;
And then I
would rock
Till the dawn
of the day,
And see where
the pretty moon goes.
And then we
would stay
In the
beautiful skies,
And through the
bright clouds we would roam;
We would see
the sun set,
And see the sun
rise,
And on the next
rainbow come home.
CỐI XAY GIÓ
Dinah Craik
Cứ quay và cứ xay,
Chiếc cối xay chạy mãi.
Cứ xay và cứ quay,
Không bao giờ đứng lại.
Cối cứ xay đều đêu,
Không hỏi nhiều hay ít.
Có mệt cũng không kêu,
Đã xay là xay hết.
Cứ quay và cứ xay, chiếc cối xay chạy mãi.
Cứ xay và cứ quay, không bao giờ đứng lại.
Cứ quay và cứ xay,
Không hề kêu vất vả.
Làm việc suốt đêm ngày,
Kiên trì, không vội vã.
Như nước mắt đang rơi,
Bột mì rơi, rơi mãi,
Làm việc, giúp con người,
Không có chốt dừng lại,
Cứ quay và cứ xay, chiếc cối xay chạy mãi.
Cứ xay và cứ quay, không bao giờ đứng lại.
THE MILL
Winding and
grinding
Round goes the
mill,
Winding and
grinding
Should never
stand still.
Ask not if your
neighbor
Grind great or
small;
Span not your
labor,
Grind your
wheat all.
Winding and
grinding round goes the mill.
Winding and
grinding should never stand still.
Winding and
grinding
Work through
the day,
Grief never
minding
Grind it away!
What though
tears dropping
Rush as they
fall ?
Have no wheel
stopping
Work comforts
all..
Winding and
grinding round goes the mill.
Winding and
grinding should never stand still.
ĐỪNG GIẾT CHIM
Daniel
Colesworthy
Đừng giết chim, những con chim tuyệt đẹp,
Đang hót cạnh
nhà mình,
Khi mùa đông đầy giá băng nhường chỗ
Cho mùa xuân
tươi xanh.
Đừng giết chim, những con chim đang hót,
Thật vui và vô
lo.
Vâng, đừng giết, đừng lấy đi mạng sống
Mà anh không
thể cho.
Đừng giết chim, những con chim tuyệt đẹp,
Đang nhảy múa
trên cành.
Vì nếu giết, khi thiếu chim, trái đất
Sẽ buồn và
vắng tanh.
Thật đáng yêu, những con chim bé nhỏ,
Đừng quấy rầy,
hãy nghe
Những bài hát mà chúng đang muốn hát
Trước khi mùa
đông về.
Hót hay sao, những con chim hạnh phúc,
Đang líu lo
trên cây.
Không nơi nào là không vui khi có
Tiếng chim hót
thế này.
DON'T KILL THE
BIRDS
Don’t kill the
birds, the pretty birds,
That sing about
your door,
Soon as the
joyous spring has come,
And chilling
storms are o'er.
The little
birds, how sweet they sing!
Oh! let them
joyous live;
And never seek
to take the life
That you can
never give.
Don't kill the
birds, the pretty birds,
That play among
the trees;
'Twould make
the earth a cheerless place,
Should we
dispense with these.
The little
birds, how fond they play!
Do not disturb
their sport;
But let them
warble forth their songs,
Till winter
cuts them short.
.
Don't kill the
birds, the happy birds,
That bless the
field and grove;
So innocent to
look upon,
They claim our
warmest love.
The happy
birds, the tuneful birds,
How pleasant
'tis to see!
No spot can be
a cheerless place
Where'er their
presence be.
BÀI HÁT RU CON NHẬT BẢN
Eugene Field
Ngủ đi con, chim bồ câu nhỏ bé,
Đôi mắt nhung, đôi cánh đẹp, khép vào,
Ngủ trong tiếng ru à ơi của mẹ,
Theo nhịp nhàng chiếc tổ ấm đang chao.
Xa ngoài biển, một ngôi sao nho nhỏ,
Ngôi sao xanh khe khẽ hát, buồn rầu.
Hát cho giọt sương xanh rơi trong gió,
Hát và rồi nhấp nháy suốt đêm thâu.
Qua cửa sổ, mặt trăng vàng đang dọi
Tia mặt trăng có đôi cánh sương mờ
Rón rén bước gần con, tia sáng hỏi:
“Bé đã vào vương quốc những giấc mơ?”
Những con sóng trên đại dương xanh thẫm
Suốt ngày đêm cứ vỗ, hát thầm thì,
Như thương tiếc những con tàu đã đắm
Không bao giờ lần nữa lại ra đi.
Ngủ đi con, chim bồ câu nhỏ bé,
Khép đi con, đôi mắt đẹp và buồn.
Mẹ đang hát, tay đung đưa nhè nhẹ
Chiếc tổ mềm và ấm, ngủ đi con.
JAPANESE
LULLABY
Sleep, little
pigeon, and fold your wings,
Little blue
pigeon with velvet eyes;
Sleep to the
singing of mother-bird swinging
Swinging the
nest where her little one lies.
Away out yonder
I see a star,
Silvery star
with a tinkling song;
To the soft dew
falling I hear it calling
Calling and
tinkling the night along.
In through the
window a moonbeam comes,
Little gold
moonbeam with misty wings;
All silently
creeping, it asks, “Is he sleeping--
Sleeping and
dreaming while mother sings?”
Up from the sea
there floats the sob
Of the waves
that are breaking upon the shore,
As though they
were groaning in anguish, and moaning-
Bemoaning the
ship that shall come no more.
But sleep,
little pigeon, and fold your wings,
Little blue
pigeon with mournful eyes;
Am I not
singing? see, I am swinging
Swinging the
nest where my darling lies.
CHUYẾN VIẾNG
THĂM CỦA ÔNG GIÀ NÔ-EN
Clemence Moore
Đó là đêm yên
tĩnh trước Nô-en,
Đến con chuột
cũng thu mình nằm yên.
Trên ống khói,
tất được treo, chờ đợi
Cùng với quà,
ông Nô-en sẽ tới.
Trẻ từ lâu đã bị
bắt lên giường,
Nơi chúng mơ
những giấc mơ lạ thường.
Mẹ của chúng
quấn khăn, tôi - đội mũ,
Để chuẩn bị cũng
lên giường, đi ngủ!
Bỗng bên ngoài,
trên bãi cỏ nhà tôi,
Hình như ai đi
xe đến, và rồi,
Tôi vùng dậy,
bước lại gần cửa sổ
Rồi mở toang,
chăm chăm nhìn hướng đó.
Tuyết vừa rơi,
một lớp mịn và dày,
Được ánh trăng
chiếu sáng tựa ban ngày.
Tôi ngạc nhiên
đến sững sờ, túm tóc,
Thấy cỗ xe với
tám con tuần lộc.
Người đánh xe,
trông nhanh nhẹn và hiền,
Mới thoạt nhìn,
tôi biết đúng Nô-en.
Cả tuần lộc, cả
ông già đều bé.
Nào, làm việc!
Làm ngay không chậm trễ!
Thế là ôi, như
cơn lốc ào ào,
Lá cây vàng mờ
mịt bốc lên cao.
Cùng
xe quà, họ leo lên ống khói,
Cả
ông già Nô-en, kia, rất vội.
Liền
sau đó tôi nghe trên mái nhà
Có tiếng đồ vứt
xuống, tiếng đập, va,
Tôi chưa kịp
ngoái lại nhìn, đã thấy
Ông Nô-en xuống
rồi, đang đứng đấy.
Suốt từ đầu đến
chân, ông Nô-en
Toàn lông thú,
nhưng bồ hóng bám đen.
Vai ông mang một
túi quà ngoại cỡ,
Trông như bác
bán hàng rong ngoài chợ.
Hiền, long lanh
- đôi mắt sáng của ông.
Hai má đỏ, đỏ
rực như hoa hồng.
Chiếc mũi lớn,
đôi môi dày thật tuyệt,
Cùng
bộ râu trắng và mềm như tuyết.
Người ông tròn,
to béo, đúng là tiên.
Tôi mỉm cười, và
ông già Nô-en
Nhay nháy mắt,
khẽ lắc đầu vô cớ,
Và tôi hiểu:
Không có gì phải sợ.
Ông không nói
một lời nào với tôi,
Nhét quà nhanh
vào tất trẻ, và rồi,
Khẽ gật đầu, vẫy
tay thay lời nói,
Và lần nữa, lại
leo lên ống khói.
Khi việc xong,
tám tuần lộc kéo xe
Chở ông đi, lòng
hạnh phúc tràn trề.
Tiếng ông vang
trong đêm khuya lặng lẽ:
Chúc một đêm
Giáng Sinh vui, vui vẻ!
A VISIT FROM ST. NICHOLAS
‘Twas the night before Christmas, when all through the
house
Not a creature was stirring, not even a mouse.
The stockings were hung by the chimney with care,
In hopes that St. Nicholas soon would be there
The children were nestled all snug in their beds,
While visions of sugar-plums danced in their heads,
And mamma in her kerchief, and I in my cap,
Had just settled our brains for a long winter's nap-
When out on the lawn there arose such a clatter,
I sprang from my bed to see what was the matter.
Away to the window I flew like a flash,
Tore open the shutters and threw up the sash ;
The moon, on the breast of the new fallen snow,
Gave a lustre of mid-day to objects below;
When, what to my wondering eyes should appear,
But a miniature sleigh and eight tiny reindeer,
With a little old driver, so lively and quick,
I knew in a moment it must be St. Nick.
More rapid than eagles his coursers they came,
And he whistled, and shouted, and called them by name.
As dry leaves before the wild hurricane fly,
When they meet with an obstacle, mount to
the sky,
So up to the housetop the coursers they flew,
With the sleigh full of toys and St. Nicholas too.
And then, in a twinkling, I heard on the roof
The prancing and pawing of each little hoof.
As I drew in my head, and was turning around,
Down the chimney St. Nicholas came with a
bound;
He was dressed all in fur from his head to his foot,
And his clothes were all tarnished with ashes and soot:
A bundle of toys he had flung on his back,
And he looked like a peddler just opening his pack.
His eyes, how they twinkle! his dimples, how merry!
His cheeks were like roses, his nose like a cherry;
His droll little mouth was drawn up like a bow,
And the beard on his chin was as white as the snow.
He was chubby and plump a right jolly old elf;
And I laughed when I saw him, in spite of myself.
A wink of his eye, and a twist of his head,
Soon gave me to know I had nothing to dread.
He spoke not a word, but went straight to his work,
And filled all the stockings: then turned with a jerk,
And laying his finger aside of his nose,
And giving a nod, up the chimney he rose.
He sprang to his sleigh, to his team gave a whistle,
And away they all flew like the down of a thistle;
But I heard him exclaim, ere he drove out of sight,
“Happy Christmas to all, and to all a good-night!”
BÀI HÁT RU CON
CỦA BÀ VÚ
Eugene Field
Đồi thì trắng mà
bầu trời thì đen,
Khi Thần Gió
phùng má thổi gió lên.
Từ phía Bắc
xuống phía Nam, ào ạt,
Dang rộng cánh
bay đi, Thần Gió hát:
Ngủ đi, nào bé, ngủ đi!
Xù đôi cánh mây
đen, Thần Gió hát:
Ngủ đi, nào bé, ngủ đi!
Trên sườn núi có
dây leo lòng vòng.
Nó bao giờ cũng
bám chặt gốc thông.
Giờ cây thông
hát một bài hát nhỏ.
Chỉ duy nhất dây
leo nghe được nó:
Ngủ đi, chú nhỏ, ngủ đi!
Khi có ta, đừng
sợ gì, chú nhỏ.
Ngủ đi, chú nhỏ ngủ đi!
Thần
Gió hát tất nhiên là rất hay.
Cây
thông hát cũng không kém ông này.
Nhưng
bông tuyết vừa bảo bà, có lẽ
Hay
hơn cả là lời bà ru bé:
Ngủ đi, bé ngoan, ngủ đi!
Ngực
bà đây, hãy áp đầu, lặng lẽ
Ngủ đi, bé ngoan, ngủ đi!
NURSE LULLABY
The sky is dark and the hills are white,
As the storm-king speeds from the north to-night ;
And this is the song the storm-king sings,
As over the world his cloak he flings:
“Sleep,
sleep, little one, sleep."
He rustles his wings, and gruffly sings:
“Sleep,
little one, sleep."
On yonder mountain-side a vine
Clings at the foot of a mother pine;
The tree bends over the trembling thing
And only the vine can hear her sing :
“Sleep,
sleep, little one, sleep
What shall you fear when I am here?
Sleep,
little one, sleep."
The king may sing in his bitter flight,
The tree may croon to the vine to-night,
But the little snowflake at my breast
Liketh the song I sing the best
“Sleep,
sleep, little one, sleep;
Weary thou art, a-next my heart;
Sleep, little one, sleep."
HÃY
NÓI LỜI NHỎ NHẸ
Hãy
nói lời nhỏ nhẹ.
Tình
yêu hơn roi đòn.
Đừng
để lời nói nặng
Làm
hỏng việc dạy con.
Hãy nhẹ nhàng
với trẻ.
Trẻ sẽ yêu ta
hơn.
Những lời nói âu
yếm
Xóa hết nỗi giận
hờn.
Với
những người có tuổi,
Hãy
nói lời nhẹ, êm.
Trái
tim họ đã nặng,
Đừng làm nó nặng
thêm.
Hãy
nói lời nhỏ nhẹ
Với
cả người lỗi lầm.
Bằng
lòng tốt của bạn,
Hãy
thu phục nhân tâm.
Những lời nói
nhỏ nhẹ,
Dịu dàng, đầy
thương yêu.
Việc
bé mà lợi lớn,
Lớn hơn ta tưởng nhiều.
SPEAK GENTLY
Speak gently; it is better far
To rule by love than fear;
Speak gently; let no harsh word mar
The good that we do here.
Speak gently to the little child;
Its love be sure to gain;
Teach it in accents soft and mild ;
It may not long remain.
Speak gently to the aged one,
Grieve not the care-worn heart,
Whose sands of life are nearly run ;
Let such in peace depart.
Speak gently to the erring; know
They must have toiled in vain ;
Perchance unkindness made them so ;
Oh, win them back again.
Speak gently; 'tis a little thing
Dropped in the heart's deep well ;
The good, the joy, that it may bring,
Eternity shall
tell.
LỜI CẦU CHÚA CỦA
ĐỨA BÉ
Betham Edwards
Con muốn làm tia
sáng
Để sáng mãi
trong đời,
Để đi đâu, ánh
sáng
Cũng theo con
khắp nơi.
Con muốn làm
bông hoa
Mang niềm vui,
no đủ.
Một bông hoa bé
thôi,
Dẫu mới còn
trong nụ.
Con muốn làm bài
hát
Để an ủi người
buồn,
Giúp người yếu
thành mạnh,
Giúp
người hát vui hơn.
A CHILD'S PRAYER
God, make my life a little light,
Within the world
to glow-
A tiny flame that burneth bright
Wherever I may
go.
God, make my life a little flower,
That bringeth
joy to all,
Content to bloom in native bower
Although its
place be small.
God, make my life a little song,
That comforteth
the sad,
That helpeth others to be strong,
And makes the
singer glad.
BÔNG HOA TÍM
Jane Taylor
Có một bông hoa
tìm
Khiêm tốn mọc
ngoài đồng,
Thân cong cong,
đầu cúi,
Như e ngại đám
đông.
Một bông hoa
thật đẹp
Tinh khiết, lại
xinh tươi,
Đẹp hơn hoa hồng
đỏ,
Thế mà né tránh
người.
Bông hoa tím
khiêm tốn
Đáng yêu và hiền
lành,
Tỏa hương thơm
dìu dịu,
Dấu mình trong
cỏ xanh
Tôi thường ra
đồng ngắm
Bông hoa thích
lánh người,
Mong học được ở
nó
Sự
khiêm tốn ở đời.
THE VIOLET
Down in a green and shady bed
A modest violet
grew;
Its stalk was bent, it hung its head,
As if to hide
from view.
And yet it was a lovely flower,
Its colors
bright and fair!
It might have graced a rosy bower,
Instead of
hiding there.
Yet there it was content to bloom,
In modest tints
arrayed ;
And there diffused its sweet perfume,
Within the
silent shade.
Then let me to the valley go,
This pretty
flower to see,
That I may also learn to grow
In sweet
humility.
BA
CHÚ BỌ HUNG
Phoebe Gary
Có ba chú bọ
hung trong chiếc rổ.
Mà rổ này chỉ đủ
lớn cho hai.
Một con đen, một
con vàng, còn lại
Con thứ ba trông
giống cậu mới tài.
Vậy là chiếc rổ
này không đủ chỗ,
Làm thế nào?
Không ai chịu nhường ai.
Thêm vào đó, thức
ăn trong rổ ít,
Hai người ăn
chưa đủ, nói gì ba.
Mà các chú lại
tham lam, ích kỷ,
Như cậu, như
mình, như chúng ta.
Hai chú bọ to
khỏe hơn liền nói:
“Mình
ta ăn, không cho con thứ ba!”
Có ba
chú bọ hung trong chiếc rổ,
Giường,
tiếc thay, chỉ vừa đủ hai người.
Vậy
là chúng xửng cồ lên, cãi cọ -
Con
vàng nhợt, con đen, con xanh tươi.
Và
cuối cùng, chỉ hai con được ngủ.
Con
thứ ba nằm dưới đất, kêu trời.
Nhưng tất nhiên
con bọ này không chịu.
Vốn
đang buồn vì chẳng được cho ăn,
Giờ
gió thổi, lạnh thấu xương, hơn thế,
Bị
bạn mình cướp giường ngủ, cướp chăn,
Nên
giận dữ, chú kéo chăn xuống đất.
Và
tiếng quát, tiếng cãi nhau lớn dần.
Vậy là có chiến
tranh trong chiếc rổ.
Chuyện không
vui, có thể nói, đau lòng.
Và kết quả con
thứ ba, đói, rét,
Vốn con này yếu
nhất, thế mà không,
Nó không chỉ kéo
chăn, mà còn giết,
Giết
và ăn hai bạn, chỉ chừa lông!
Tôi thì nghĩ,
nếu không may rổ bé,
Cho hai người
chứ không phải cho ba, -
Con xanh tươi,
con đen, con vàng nhợt, -
Thì tốt hơn, nên
giải quyết ôn hòa,
Và cả chăn, bánh
mì và chiếc rổ
Phải công bằng
đem mọi thứ chia ba.
THREE BUGS
Three little bugs in a basket,
And hardly room
for two!
And one was yellow, and one was black,
And one like me,
or you.
The space was small, no doubt, for all;
But what would three bugs do?
Three little bugs in a basket,
And hardly
crumbs for two;
And all were selfish in their hearts,
The same as I or
you ;
So the strong ones said, " We will eat the bread,
And that is what we'll do."
Three little bugs in a basket,
And the beds
that two would hold ;
So they all three fell to quarrelling
The white, and
the black, and the gold.
And two of the bugs got under the rugs,
And one was out in the cold!
So he that was left in the basket,
Without a crumb
to chew,
Or a thread to wrap himself withal,
When the wind
across him blew,
Pulled one of the rugs from one of the bugs,
And so the
quarrel grew!
And so there was war in the basket,
Ah, pity 'tis,
'tis true!
But when he that was as frozen and starved at last,
A strength from
his weakness drew,
And pulled the rugs from both of the bugs,
And killed and ate them, too!
Now when bugs live in a basket,
Though more than
it well can hold,
It seems to me they had better agree
The white, and the
black, and the gold
And share what comes of the beds and the crumbs,
And leave no
bug out in the cold !
VỀ CÁI ĐEP
Jane Taylor
Khuôn mặt đẹp
xưa nay là khuôn mặt
Luôn ẩn chứa một
tâm hồn chân thật.
Không quan trọng bề ngoài thế nào.
Đôi mắt đẹp là
đôi mắt bên trong
Ta nhìn thấy
đang le lói lửa hồng,
Và âm ỉ nhiều điều lương thiện.
Đôi môi đẹp là
đôi môi, như chim,
Hát những lời
chân thật tự con tim.
Nhưng rất biết kìm lời, thận trọng.
Đôi tay đẹp là
đôi tay lao động,
Luôn dũng cảm,
chân thành trong cuộc sống.
Vâng, đôi tay làm việc không ngừng.
Đôi chân đẹp là
đôi chân luôn chân
Lo chạy việc, lo
kiếm ăn, nếu cần,
Sẽ đến giúp những nơi nghèo đói.
Đôi vai đẹp là
đôi vai dũng cảm,
Gánh trách nhiệm
của gia đình êm ấm.
Không kêu ca, và luôn mỉm cười.
Cuộc sống đẹp là
cuộc sống của người
Biết
bản chất của hạnh phúc ở đời ,
Tức là cái ít người biết được.
BEAUTIFUL THINGS
Beautiful faces are those that wear
It matters little if dark or fair
Whole-souled honesty printed there.
Beautiful eyes are those that show,
Like crystal panes where hearth fires glow,
Beautiful thoughts that burn below.
Beautiful lips are those whose words
Leap from the heart like songs of birds,
Yet whose utterance prudence girds.
Beautiful hands are those that do
Work that is earnest, brave, and true,
Moment by moment the long day through.
Beautiful feet are those that go
On kindly errands to and fro
Down humblest ways, if God wills it so.
Beautiful shoulders are those that bear
The needful burdens of homely care
With patient grace and daily prayer.
Beautiful lives are those that bless
Silent rivers of happiness,
Whose hidden fountains but few may guess.
ĐỜI
NGẮN
Charles Kingsley
Đời ngắn, nên
tận dụng,
Đừng bỏ phí một
ngày.
Một khi thời
gian mất
Là mất hẳn, tiếc
thay.
Hãy làm, đừng mơ
mộng.
Hãy cố biến cuộc
đời
Cùng khó khăn,
cái chết
Thành
bài hát tuyệt vời.
LEARN TO MAKE THE MOST OF LIFE
Learn to make the most of life,
Lose no happy day,
For time will never bring you back
The moments thrown away.
Be good, sweet maid, and let who will be clever;
Do noble things, not dream them all day long:
And so make life, death, and the vast forever
One grand, sweet song.
LẦN NỮA, LẠI LẦN
NỮA
Lần nữa, lại lần nữa,
Trong mọi lúc,
mọi nơi
Tôi học được gì
đó
Ở cuốn sách cuộc
đời.
Giờ lên cối xay
gió,
Tôi phải xay bột
mì.
Lần nữa, lại lần
nữa,
Việc cần làm,
làm đi.
Không
ai có thể biết
Nhu
cầu của bông hoa,
Cũng
như không thể biết
Bao
nhiêu cát chảy qua.
Sáng,
mặt trời phải mọc,
Sương
phải rơi lung linh.
Lần
nữa, lại lần nữa
Làm
công việc của mình.
Lần
nữa, lại lần nữa
Suối
phải chảy suốt ngày.
Lần
nữa, lại lần nữa
Cối
xay gió phải quay.
Làm
một lần chưa đủ,
Làm
hết sức, hết lòng.
Thất
bại, làm lần nữa,
Sẽ có
lúc thành công.
Đường
đã đi, dẫu khó,
Sẽ
thành đường dễ đi.
Khó
khăn cũ từng gặp,
Gặp
lại - chẳng hề gì.
Không
sao nếu phải khóc,
Hoặc
trái tim buồn phiền.
Ta
cũng cần giông tố
Để có được bình
yên.
OVER AND OVER AGAIN
OVER and over again,
No matter which way I turn,
I always find in the book of life,
Some lesson I have to learn.
I must take my turn at the mill,
I must grind out the golden grain,
I must work out. my task with a resolute will,
Over and over again.
We cannot measure the need
Of even the tiniest flower,
Nor check the flow of the golden sands
That run through a single hour;
But the morning dews must fall,
And the sun and the summer rain
Must do their part, and perform it all
Over and over again.
Over and over again
The brook through the meadow flows,
And over and over again
The ponderous mill-wheel goes.
Once doing will not suffice,
Though doing be not in vain ;
And a blessing failing us once or twice,
May come if we try again.
The path that has once been trod,
Is never so rough to the feet ;
And the lesson we once have learned,
Is never so hard to repeat.
Though sorrowful tears must fall,
And the heart to its depths be driven
With storm and tempest, we need them all
To render us meet for Heaven.
ƯỚC MƠ
Langston Hughes
Hãy sưởi ấm ước mơ -
Hãy sưởi ấm ước mơ -
Vì khi ước mơ nguội lạnh,
Đời như con chim gãy cánh,
Sẽ không còn bay.
Hãy nâng niu ước mơ -
Vì khi ước mơ chết,
Đời như cánh đồng giá rét
Phủ đầy tuyết băng.
DREAMS
Hold fast to dreams
For if dreams die
Life is a broken-winged bird
That cannot fly.
Hold fast to dreams
For when dreams go
Life is a barren field
Frozen with snow.
GIÓ
Robert Stevenson
Em thấy gió đẩy cánh diều bay nhanh,
Em thấy gió đẩy cánh diều bay nhanh,
Nâng đàn chim chao lượn giữa trời xanh.
Đâu cũng nghe tiếng thì thầm của gió,
Như tiếng váy lướt nhanh qua bãi cỏ.
Ôi ngọn gió, ngọn gió thổi đêm ngày,
Thổi và hát, hát một mình mê say.
Em nghe gió, biết gió thổi qua đầu,
Thế mà em không thấy gió ở đâu.
Gió gây nên bao điều trên trái đất,
Bản thân gió lại luôn luôn giấu mặt.
Ôi ngọn gió, ngọn gió thổi đêm ngày,
Thổi và hát, hát một mình mê say.
Rét và lạnh, gió thổi suốt ngày đêm.
Gió đã già hay còn bé như em?
Bẻ, phá cây, gió phải chăng là quỉ,
Hay đứa trẻ, lớn hơn em một tí?
Ôi ngọn gió, ngọn gió thổi đêm ngày,
Thổi và hát, hát một mình mê say.
THE WIND
I saw you toss the kites on high,
I saw you toss the kites on high,
And blow the birds about the sky;
And all around I heard you pass
Like ladies' skirts across the grass-
O wind ablowing all day long,
O wind that sings so loud a song!
I saw the different things you did
But always you yourself you hid.
I felt you push I heard you call,
I could not see yourself at all.
O wind ablowing all day long,
O wind that sings so loud a song!
O you that are so strong and cold,
O blower are you young or old?
Are you a beast of field and tree,
Or just a stronger child than me?
O wind ablowing all day long,
O wind that sings so loud a song!
Ở ĐỜI
NÀY
Alice Williams
Ở đời này tôi
sống,
Tôi quen biết
khá nhiều.
Người thì xây
nhà cửa,
Người viết thơ
tình yêu.
Tất
cả họ thành đạt,
Đơn
giản nhờ thế này:
Để
khỏi buồn vớ vẩn,
Họ
làm việc luôn tay.
A GOOD MANY WORKERS
A good many workers
I've known in my time
Some builders of houses,
Some builders of rhyme;
And they that were prospered,
Were prospered,
I know,
By the intent and meaning of
“Hoe your own
row!”
TỪNG TÍ MỘT
“Từng tí một,
từng tí một, chậm thôi,”
Hạt sồi nói khi
rơi xuống. “Nhưng tôi
Dưới
lá mục đã thành phân, rất tốt,
Tôi
cứ ấm dần thêm từng tí một.
Từng
tí một, ngày mỗi ngày lớn thêm,
Từng
tí một, tôi uống no sương đêm,
Tôi
mọc rễ, mong manh như sợi chỉ,
Và đã
nhú một mầm xanh, bé tí.
Ngày tiếp ngày,
rồi năm lại tiếp năm,
Từng tí một, tôi
mọc lá, nhú mầm,
Từ chiếc lá
thành cành non mảnh dẻ
Và cuối cùng là
cây sồi to khỏe.”
“Từng tí một,”
có cậu bé thông minh
Nghĩ: “Tất
nhiên, mình cũng thế, và mình
Cứ
mỗi ngày sẽ học thêm một tí,
Học
và chơi, chơi ít thôi, và nghỉ.
Mình vừa học,
vừa ghi nhớ điều này:
Đã làm gì phải
làm tốt, làm ngay!
Từng
tí một, cứ học dần, học mãi
Các kiến thức
trong kho tàng nhân loại.
Và hy
vọng sẽ có ngày, gần thôi,
Thế giới này tốt
đẹp hơn với tôi.”
Anh bạn này nghĩ
rõ ràng, đơn giản,
Nhưng
rất đúng, có phải không, các bạn?
LITTLE BY LITTLE
“Little by little," an acorn said
As it slowly sank in its mossy bed.
“I am improving every day,
Hidden deep in the earth away.”
Little by little, each day it grew,
Little by little, it sipped the dew ;
Downward it sent out a thread-like root,
Up in the air sprung a tiny shoot.
Day after day, and year after year,
Little by little, the leaves appear,
And the slender branches spread far and wide,
Till the mighty oak is the forest's pride.
"Little by little," said a thoughtful boy,
“Moment by moment I'll well employ;
Learning a little every day,
And not spending all my time in play;
And still this rule in my mind shall dwell
' Whatever I do, I'll do it well.’
"Little by little, I'll learn to know
The treasured wisdom of long ago,
And one of these days perhaps we'll see
That the world will be the better for me."
And do you not think that this simple plan
Made him a wise and useful man ?
BẦY
QUẠ
Jane Euphemia Browne
Bầy quạ đen làm tổ tít trên cây
Mỗi
mùa xuân, khi tiết trời dịu mát.
Chúng
đua nhau kêu quạ quạ suốt ngày
Vì
quả thật không con nào biết hát.
Chúng
tỉnh dậy ngay từ lúc bình minh
Và
bận bịu cho đến khi trời tối.
Vì tự
chúng phải xây tổ cho mình,
Và làm việc, làm không hề mệt mỏi.
Chúng tha nhặt nhiều, rất nhiều lá khô,
Cũng không ít những cành cây bé nhỏ
Nhặt cả rêu, rác rưởi, cả phân bò
Cho đến khi dần dần thành chiếc tổ.
Quạ, quạ, quạ - chúng kêu đến nhức đầu,
Giữa một ngày mưa đang rơi lặng lẽ.
Trẻ vâng lời, khi nói chẳng tranh nhau,
Nhưng bầy quạ cứ đồng thanh kêu thế.
THE ROOKS
The rooks are building on the trees;
They build there every spring:
"Caw, caw," is all they say,
For none of them can sing.
They're up before the break of day,
And up till late at night;
For they must labour busily
As long as it
is light
And many a crooked stick they bring,
And many a slender twig,
And many a tuft of moss, until
Their nests are
round and big
"Caw, caw." Oh, what a noise
They make in rainy weather!
Good children always speak by turns,
But rooks all
talk together.
CÁI BÓNG CỦA TÔI
Robert Louis Stevenson
Cái bóng của tôi theo tôi đi khắp nơi.
Cái bóng của tôi theo tôi đi khắp nơi.
Dai dẳng bám theo, một phút cũng không rời.
Hai đứa giống nhau từ đầu cho đến gót.
Tôi nhảy lên giường, nó cũng làm theo nốt.
Thú vị nhất là, nó lớn nhanh, thật hay,
Không giống trẻ con, lớn rất chậm hàng ngày.
Quả thật đôi khi nó cao như cột gỗ,
Nhưng cũng có khi bé con như chẳng có.
Nó chẳng biết chơi các trò chơi trẻ con,
Thường hay bắt tôi cảm thấy ngượng và buồn.
Nó bám theo tôi như trẻ con bám mẹ.
Tôi nghĩ là hèn, là đáng khinh mới thế.
Và rồi, một hôm, chưa hé rạng bình minh,
Tôi dậy, ra ngoài, sương còn treo lung linh,
Tôi chạy, tôi chơi, mà bóng tôi lúc đó
Vẫn nằm trong chăn, ngủ say như khúc gỗ.
MY SHADOW
I have a little shadow that goes in and out
with me,
And what can be the use of him is more than
I can see.
He is very, very like me from the heels up
to the head;
And I see him
jump before me, when I jump into my bed.
The funniest things about him is the way he
likes to grow-
Not at all like proper children, which is
always very slow;
For he sometimes shoots up taller like an
India rubber ball,
And he
sometimes gets so little that there's none of him at all.
He hasn't got a notion of how children
ought to play,
And can only make a fool of me in every sort
of way.
He stays so close beside me, he's a coward
you can see;
I'd think shame
to stick to nursie as that shadow sticks to me!
One morning, very early, before the sun was
up,
I rose and found the shining dew on every
buttercup;
But my lazy little shadow, like an arrant
sleepy-head,
Had stayed at
home behind me and was fast asleep in bed.
THẾ
GIỚI LỘN PHÈO
William Brighty Rands
Nếu
Cú Mèo tán Nhím,
Bướm
vàng tán con Ong,
Ba
nhân một thành chín,
Nhà
thờ xây trên sông;
Nếu
Ngựa cưỡi ông chủ,
Bông
hoa ăn thịt Bò:
Nếu
con Mèo to lớn
Thấy
Chuột, sợ và lo;
Nếu vì nửa đồng bạc
Mẹ bán đứa con yêu,
Đàn ông thành phụ nữ
Thì thế giới lộn phèo
Một trong những điều ấy
Nếu có ngày xẩy ra,
Mà tôi không thấy lạ,
Thì tôi là... tôi là...
TOPSY-TURRVY WORLD
If the butterfly courted the bee,
And the owl the porcupine;
If the churches were built in the sea,
And three times one was nine;
If the pony rode his master,
If the buttercups ate the cows,
If the cat had the dire disaster
To be worried, sir, by the mouse;
If mamma, sir, sold the baby
To a gypsy for half-a-crown;
If a gentleman, sir, was a lady-
The world would
be Upside Down!
If any or all of these wonders
Should ever come about,
I should not consider them blunders,
For I should be Inside Out!
CHẠY VÀ NGÃ
Suốt ngày chạy và ngã,
Ngã và nhảy suốt ngày,
Đến khi mặt trời lặn,
Hết cái trò chơi này.
Sau đó thì sao nhỉ?
Thì là - chuyện bình thường:
Vì suốt ngày chạy, ngã
Đêm mệt, ngã xuống giường.
TUMBLING
In jumping and tumbling
We spend the whole day,
Till night by arriving
Has finished our play
What then? One and all,
There's no more to be said,
As we tumbled all day,
So we tumble to
bed.
CÁI GÌ MÀU GÌ?
Christina
Rossetti
Cái gì màu hồng? Bông hồng màu hồng.
Nó mọc bên sông.
Cái gì màu đỏ? Anh túc màu đỏ.
Ngoài đồng lộng gió.
Cái gì màu xanh? Bầu trời màu xanh.
Mây bay hiền lành.
Cái gì màu trắng? Thiên nga màu trắng,
Giữa hồ đầy nắng.
Cái gì màu vàng? Quả lê màu vàng.
Ngon và mỡ màng.
Cái gì xanh mướt? Cỏ non xanh mướt,
Điểm hoa sương ướt.
Cái gì màu tím? Đám mây màu tím
Giữa hoàng hôn tím.
Còn màu da cam? Thì là quả cam.
Tất
nhiên quả cam.
WHAT IS PINK?
What is pink? A rose is pink
By the fountain's brink.
What is red? A poppy's red
In its barley
bed.
What is blue? The sky is blue
Where the clouds float through.
What is white? A swan is white
Sailing in the light.
What is yellow? Pears are yellow,
Rich and ripe and mellow.
What is green? The grass is green,
With small
flowers between.
What is violet? Clouds are violet
In the summer twilight.
What is orange? Why, an orange,
Just an orange!
CÁI
GÌ NẶNG?
Christina Rossetti
Cái
gì nặng?
Nỗi
buồn và đất.
Cái
gì sâu?
Đại
dương và sự thật.
Cái
gì ngắn?
Hôm
nay, ngày mai và hôm qua.
Cái
gì mong manh, dễ vỡ?
Tuổi
trẻ và bông hoa.
WHAT ARE HEAVY?
What are heavy? Sea-sand and sorrow;
What are brief? Today and tomorrow;
What are frail? Spring blossoms and youth;
What are deep? The ocean and truth.
KHI LỚN LÊN
Robert
Stevenson
Khi lớn lên và trở thành người lớn,
Tớ là người rất nghiêm và dữ tợn.
Tớ sẽ bảo bọn bạn tớ thế này:
“Không được nghịch đồ chơi tớ hôm nay!”
LOOKING FORWARD
When I am grown to man's estate
I shall be very proud and great,
And tell the other girls and boy
Not to meddle
with my toys.
MẸ TÔI
Ann Taylor
Ai nuôi tôi bằng chính dòng sữa mẹ,
Ru tôi ngủ bằng lời ru khe khẽ,
Và thường xuyên hôn tôi âu yếm thế?
Mẹ tôi.
Ai hát ru những bài hát dịu dàng
Khi mắt tôi đang buồn ngủ, mơ màng
Và đưa nôi rất kiên nhẫn, nhịp nhàng?
Mẹ tôi.
Ai thay áo cho búp-bê thêm đẹp,
Dạy tôi chơi các trò chơi được phép,
Dạy tôi nói lời hay khi giao tiếp?
Mẹ tôi..
Ai âu yếm đỡ tôi dậy mỗi lần
Khi chơi đùa tôi trượt ngã ngoài sân,
Rồi kể chuyện, rồi giảng giải ân cần?
Mẹ tôi.
Với một người tốt và yêu tôi thế,
Luôn dạy tôi những điều hay, đẹp đẽ,
Làm sao tôi có ngày thôi yêu mẹ,
Mẹ tôi?
Người
mẹ ấy sẽ có lúc yếu, già,
Cánh
tay tôi khỏe mạnh sẽ nâng bà,
Làm
vợi dần những đau đớn, xót xa,
Mẹ
tôi.
Sẽ
đến lượt tay tôi ôm đầu mẹ,
Ngồi
bên giường, nói dịu dàng, khe khẽ,
Để
nước mắt tình thương rơi lặng lẽ...
Mẹ
tôi.
MY MOTHER
Who fed me from her gentle breast,
And hushed me in her arms to rest,
And on my cheek sweet kisses prest?
My Mother.
When sleep forsook my open eye,
Who was it sung sweet hushaby,
And rocked me that I should not cry?
My Mother.
Who dressed my doll in clothes so gay,
And fondly taught me how to play,
And minded all I had to say?
My Mother.
Who ran to help me when I fell,
And would some pretty story tell,
Or kiss the place to make it well?
My Mother.
And can I ever cease to be
Affectionate and kind to thee,
Who was so very kind to me,
My Mother?
When thou art feeble, old, and grey,
My healthy arm shall be thy stay,
And I will soothe thy pains away,
My Mother.
And when I see thee hang thy head,
'Twill be my turn to watch thy bed,
And tears of sweet affection shed,
My Mother.
SUỐT ĐÊM DÀI, SUỐT ĐÊM
Hãy ngủ yên, nào con yêu, hãy ngủ,
Suốt đêm dài, suốt đêm.
Các thiên thần luôn bên con chăm chú,
Suốt đêm dài, suốt đêm.
Đã đến giờ bóng đêm đè
lên mắt,
Núi và sông trong giấc
ngủ êm đềm,
Mẹ đưa con vào giấc mơ
đẹp nhất,
Suốt đêm dài, suốt đêm.
Kia, mặt trăng vẫn
không ngừng tỏa sáng
Suốt đêm dài, suốt đêm,
Để thế giới
ngủ say, không mê sảng
Suốt đêm
dài, suốt đêm.
Hãy ngủ yên, nào con yêu, hãy ngủ,
Suốt đêm dài, suốt đêm.
Các thiên thần luôn bên con chăm chú,
Suốt đêm
dài, suốt đêm.
ALL
THROUGH THE NIGHT
Sleep my
child and peace attend thee,
All through
the night.
Guardian
angels God will send thee,
All through
the night;
Soft and
drowsy hours are creeping,
Hill and vale
in slumber sleeping,
I my loved one's
watch am keeping,
All through
the night.
While the
moon, her watch is keeping,
All through
the night,
While the
weary world is sleeping,
All through
the night.
Sleep my
child and peace attend thee,
All through
the night.
Guardian
angels God will send thee,
All through the
night;
CHUYỆN
CẬU PHILIP HƯ
Heinrich
Hoffman
“Nào,
để xem Philip
Có
chịu vui lòng
Làm
người lịch sự,
Chịu ngồi yên bên bàn ăn hay không!”
Bố
nhìn cậu con, nói thế,
Cùng
cái nhìn rất nghiêm của mẹ.
Còn
Philip thì cười,
Ngoẹo
cổ, vặn người,
Không
chịu ngồi yên dù một chốc.
Và rồi chuyện thế này, thưa bạn đọc:
Chiếc
ghế cậu đang ngồi
Cậu
hết đẩy, lại lôi,
Xô
ngang, lắc ngửa,
Hệt
như đang cưỡi ngựa.
“Nào,
Philip!
Bố
không thể chịu thêm được nữa!”
Gì
buồn hơn khi con hư,
Mà
ngày càng hư mới tệ.
Cậu
Philip cứ nghịch, xoay chiếc ghế,
Cho
đến khi nó lật nào,
Còn
cậu thì to mồm kêu, gào.
Khăn
trải bàn đổ theo cùng chiếc ghế
Và
kéo rơi luôn thể,
Rơi
lên đầu cậu Philip không ngoan,
Hết mọi thứ trên bàn.
Thật khủng khiếp: Đĩa, bát,
Cốc và chén vỡ nát.
Dao văng kia, thìa nằm đây -
Vì Philip mà thế này!
Bàn trống không. Thế đấy!
Bố và mẹ chau mày
Rồi thở dài, tự hỏi:
Giờ lấy gì ăn đây?
THE STORY OF
FIDGETY PHILIP
"Let me see if Philip can
Be a little gentleman;
Let me see if he is able
To sit still for once at table:"
Thus Papa bade Phil behave;
And Mamma
looked very grave.
But fidgety Phil,
He won't sit still;
He wriggles,
And giggles,
And then, I declare,
Swings backwards and forwards,
And tilts up his chair,
Just like any rocking-horse-
"Philip! I am getting cross!
See the naughty, restless child
Growing still more rude and wild,
Till his chair falls over quite.
Philip screams with all his might,
Catches at the cloth, but then
That makes matters worse again.
Down upon the ground they fall,
Glasses, plates, knives, forks, and all.
What a terrible to-do!
Dishes, glasses, snapped in two!
Here a knife, and there a fork!
Philip, this is
cruel work.
Table all so bare, and ah!
Poor Papa, and poor Mamma
Look quire cross, and wonder how
They shall have their dinner now.
CON
CHIM HOÀNG YẾN CỦA MARY
Elizabeth
Turner
Mary có con chim yến
Lông sáng và màu vàng tươi,
Đôi chân xinh xinh, mảnh dẻ -
Quả đúng người bạn tuyệt vời.
Líu lo suốt ngày chim yến,
Mary rất thích, và thường
Ngồi bên lồng nghe chim hót
Thật hay và thật dễ thương.
Em mang hạt vừng, vụn bánh
Cho bạn mình ăn hàng ngày,
Còn trang hoàng lồng thêm đẹp
Bằng hoa và bằng lá cây.
Các
bạn của tôi, thế đấy,
Học
đây bài học làm người,
Rằng
quí nhất trong tình bạn
Là
bài hát và nụ cười.
THE CANARY
Mary had a little bird,
With feathers bright and yellow,
Slender legs-upon my word,
He was a pretty
fellow!
Sweetest notes he always sung,
Which much delighted Mary;
Often where his cage was hung,
She sat to hear Canary.
Crumbs of bread and dainty seeds
She carried to him daily,
Seeking for the early weeds,
She decked his palace gaily.
This, my little readers, learn,
And ever practice duly;
Songs and smiles of love return
To friends who love you truly.
CHUYỆN
PHIÊU LƯU BUỒN CƯỜI
CỦA
BÀ HUBBARD VÀ CON CHÓ CỦA BÀ
Sarah Catherine Marine
Một
bà tên Hubbard,
Đi
tới chạn để bát
Cho
chó khúc xương gầu,
Nhưng khi bà mở chạn
Thì
bên trong, thật chán,
Chẳng thấy con chó đâu.
Bà sang ông hàng bánh
Mua cho nó bánh bao,
Nhưng quay về đã thấy
Chó chết từ lúc nào.
Bà tìm ông thợ mộc
Mua cho nó quan tài,
Lúc trở về, bà thấy
Nó cười, vẩy hai tai.
Bà lấy chiếc đĩa sạch,
Định cho nó khúc dồi
Quay ra đã thấy nó
Ngậm chiếc tẩu trên môi.
Bà lại đi ra chợ
Mua cho nó trái cây,
Khi về thì thấy nó
Đang thổi sáo rất hay.
Bà tới hiệu quần áo
Mua cho nó tạp dề,
Lúc quay lại thì thấy
Nó đang cưỡi con dê.
Bà
tới cửa hàng mũ
Mua
cho nó chiếc khăn,
Quay
về nhà thì thấy
Nó
đang cho mèo ăn.
Bà
tới hàng giày dép
Mua
cho nó đôi giày,
Lúc
quay về, chợt thấy
Nó
đọc “Tin Hàng Ngày”.
Bà
cúi chào con chó.
Con
chó cũng nghiêng đầu.
Bào
nói: “Mày, thật láo!”
Con chó đáp: “Gâu, gâu!”
THE COMIC ADVENTURES OF
OLD MOTHER HUBBARD AND HER DOG
Old Mother Hubbard
Went to the cupboard,
To give the poor dog a bone;
When she came there
The cupboard was bare,
And so the poor dog had none.
She went to the baker's
To buy him some bread;
When she came back
The dog was dead.
She went to the undertaker's
To buy him a coffin;
When she came back
The dog was laughing
She took a clean dish
To get him some tripe;
When she came back
He was smoking
a pipe
She went to the fruiterer's
To buy him some fruit;
When she came back
He was playing the flute
She went to the tailor's
To buy him a coat;
When she came back
He was riding a goat
She went to the hatter's
To buy him a hat;
When she came back
He was feeding the cat
She went to the barber's
To buy him a wig;
When she came back
He was dancing a jig.
She went to the cobbler's
To buy him some shoes;
When she came back
He was reading the news.
The dame made a curtsy,
The dog made made a bow;
The dame said, "Your servant,"
The dog said, "Bow-wow."
THƠ
CHÂM NGÔN
1.
Ta đối xử với bạn thế nào.
Bạn đối xử với ta thế ấy.
Tốt, trung thực, hiền lành và ngoan -
Trẻ
phải luôn là người như vậy.
To do to others
as I would
That they
should do to me,
Will make me
honest, kind, and good,
As children
ought to be.
2
Trái tim tốt là vườn.
Ý nghĩ tốt - rễ, lá.
Lời nói tốt là hoa.
Việc làm tốt là quả.
Kind hearts are
gardens,
Kind thoughts
are roots,
Kind words are
blossoms,
Kind deeds are
fruits.
Cowper
3
Dù chúng ta làm gì đi nữa,
Cả ở trường hay ở nhà, làm ngay!
Mà đã làm thì phải làm hết sức -
Không cách nào tốt hơn cách này.
No matter what
you try to do
At home or at
your school,
Always do your
very best,
There is no
better rule.
Wlliam Rand
4
Nếu anh muốn thành thông minh khi nói,
Năm lời khuyên phải nhớ kỹ trong đầu:
Anh đang nói với ai, và về ai - chưa hết,
Nói thế nào, lúc nào, và ở đâu.
If wisdom's
ways you wisely seek,
Five things
observe with care :
Of whom you
speak, to whom you speak,
And how, and
when, and where.
5
Cuộc đời này cũng không tệ lắm đâu,
Như một số người kêu khổ.
Đời thực ra tốt hay xấu - điều này
Còn tùy chúng ta nhìn nó.
This world is
not so bad a world
As some would
like to make it;
Though whether
good or whether bad,
Depends on how
we take it.
Beck
6
Đời không đo bằng niềm vui, đau khổ.
Cuộc đời ý
nghĩa khi ta
Luôn hành động để ngày mai có thể
Sống tốt hơn
hôm qua.
Not enjoyment,
and not sorrow,
Is our destined
end and way ;
But to act that
each to-morrow
Find us nobler
than today.
Henry Longfellow
7
Chiến công người vĩ đại
Nhắc ta sống làm người,
Để dấu chân in lại
Trên bãi cát biển đời.
Lives of great
men all remind us
We can make our
lives sublime,
And, departing,
leave behind us
Footprints on
the sands of time.
Henry Longfellow
8
Làm việc gì thì phải làm hết sức.
Làm nửa vời - coi như thua, bất lực
WHATEVER you
do, do with your might,
Things done by
halves are never done right..
Mary Williams
9
Lời nói luôn có cánh
Bay đâu không do
ta.
Our words have wings,
Fly not where we would.
George Eliot
10
Ai nỡ hại bạn
mình,
Tức là hại chính mình.
He that wrongs his friend,
Wrongs himself more.
Robert Tennyson
11
Đời không thật
quá ngắn
Để
chúng ta vội vàng
Khi
cư xử với bạn,
Không
nói lời dịu dàng.
Life is not so short,
There is always time for courtesy.
Emerson
12
Ai là người
trung thực
Đều cao quí xưa
nay.
Tiền bạc và dòng
dõi
Không liên quan điều này
He who is honest is noble,
Whatsoever his fortunes or birth.
Alice Gary
13
Chỉ có thời tiết
tốt.
Không có thời
tiết tồi.
Chỉ tốt nhiều,
tốt ít.
Chỉ đơn giản thế
thôi.
There is no such thing as bad weather,
only different kinds of good weather.
Ruskin
14
Sự giúp đỡ khi
cần, dù bé,
Về thực chất,
lớn ngang trời bể.
A gift in need, though small indeed,
Is large as earth and rich as heaven.
Whitter
15
Xin
hãy nhớ: Lao động
Luôn
mang lại niềm vui.
Ai
biết yêu công việc,
Sẽ
hạnh phúc suốt đời.
Pleasure comes through toil ;
when one gets to love his
work, his life is a happy one.
Ruskin
16
Quan trọng không
ở chỗ
Giành được ít
hay nhiều.
Mà ở chỗ làm
việc
Hết sáng lại đến
chiều.
Good lieth not in pursuing,
Nor gaining of great, nor of small,
But just in the doing and doing
As we would be done by, is all.
Alice Gary
17
Cứ làm rồi sẽ
biết
Sai và đúng thế
nào.
Anh nhận xét
người khác,
Người khác tha
anh sao?
Do not look for wrong and evil
You will find them if you do;
As you measure for your neighbor
He will measure back to you.
Alice
Gary
18
Mỗi việc làm tốt
đẹp
Hay ý nghĩ chân
thành
Luôn để lại cái
đẹp
Trên
khuôn mặt của anh.
Every right action and true thought sets the seal of its
beauty on person and face.
Ruskin
19
Luôn có sông để vượt,
Luôn có việc để làm,
Nhưng việc ấy phải tốt
Và đáng để ta làm.
There's always
a river to cross,
Always an
effort to make,
If there's
anything good to win,
Any rich prize
to take.
Cumberland
20
Cái gì làm một khuôn mặt bình thường
Trở thành đẹp, nhân từ và cao quí?
Là cảm giác mình sống tốt trong đời,
Chứ không phải tìm niềm vui ích kỷ.
What is it that
gives to the plainest face
The charm of
the noblest beauty?
Not the thought
of the duty of happiness,
But the
happiness of duty!
Celia Thaxter
21
Từng tí một, từng tí một, chúng ta
Làm đời mình sung sướng hoặc xót xa.
Khi mỗi ngày
trôi đi
Nghĩa là ta đang đến gần hạnh phúc
Theo chiếc thang lên trên ấy, thiên đường,
Hoặc ngược lại, đang rơi vào địa ngục,
Khi mỗi ngày
trôi đi.
Little by
little, sure and slow,
We fashion our
future bliss or woe,
As the present
passes away.
Our feet are
climbing the stairway bright,
Up to the
region of endless light,
Or gliding
downward into the night;
Little by
little, and day by day.
Anonymous
22
Hãy trung thực với lương tâm, bè bạn.
Nuôi niềm tin và hy vọng trong lòng,
Anh sẽ tin vào quãng đời còn lại,
Khi việc mình, việc tốt, đã làm xong.
To conscience
be true, and to man true,
Keep faith,
hope, and love in your breast,
And when you
have done all you can do,
Why, you may
trust for the rest.
Alice Gary
23
Sẽ có ngày người gieo trồng được gặt
Những gì
mình đã gieo.
Vậy cẩn thận khi chọn cây, chọn đất,
Để không
phải khóc nhiều
Khi thu hoạch những điều oan trái nhất.
Every sower
must some day reap
Fruits from the
seed he has sown;
How carefully
then it becomes us to keep
A watchful eye
on the seed, and seek
That we may not
weep to receive our own.
THƠ
VỀ THẦY CÔ VÀ BẠN BÈ
CẢM ƠN THẦY
Niên học sắp kết thúc,
Cái khó là thế này:
Em vừa mong hè đến,
Vừa không muốn xa thầy.
Không phải vì giờ nghỉ,
Giờ chơi với bạn bè,
Vì nhớ thầy, đôi lúc
Em
không mong mùa hè.
THANK
YOU, TEACHER
It's the end of the year,
And I thought you should know
A part of me can't wait until summer
And a part doesn't want to go.
It's not recess or lunchtime
Or even time with my friends
It's because I will miss you
That I don't want the year to end.
VÌ
SAO CHÚA TẠO RA THẦY VÀ CÔ GIÁO
Kevin William Huff
Tạo
ra thầy, cô giáo,
Đức
Chúa muốn chúng ta
Có
người dạy để hiểu
Thế
giới Ngài bao la,
Để giúp ta nhìn thấy
Cái tốt đẹp, cái hay
Trở thành người hữu ích
Qua khám phá hàng ngày.
Chúa
tạo thầy, cô giáo,
Cho
ta người dẫn đường,
Giúp
ta lớn, giải quyết
Các vấn đề đời thường.
Thầy cô dạy cách sống,
Cái đúng và cái sai,
Để ta tự đứng vững
Học và làm lâu dài.
Chúa nhân từ, thông thái
Tạo ra thầy và cô
Để ta làm thế giới
Hạnh phúc và tự do.
WHY GOD MADE TEACHERS
When God created teachers,
He gave us special friends
To help us understand His world
And truly comprehend
The beauty and the wonder
Of everything we see,
And become a better person
With each
discovery.
When God created teachers,
He gave us special guides
To show us ways in which to grow
So we can all decide
How to live and how to do
What's right instead of wrong,
To lead us so that we can lead
And learn how to be strong.
Why God created teachers,
In His wisdom and His grace,
Was to help us learn to make our world
A better, wiser place.
NÓI VỚI HỌC SINH GIỜ CHIA TAY
Thầy
vui mừng được làm thầy các em,
Và
rồi quen, rồi dần dần yêu mến.
Thế
mà giờ đã đến lúc chia tay,
Thật
không dễ giờ phút này đưa tiễn.
Hãy
nhớ lại các trò vui của ta,
Những
việc làm mà chúng ta đã biết,
Nhưng
quan trọng, quan trọng nhất điều này,
Rằng
các em là những người đặc biệt.
TO
MY CLASS
I'm glad I was your teacher
I'm glad I was your teacher
I've come to love you so.
I can't believe the end is here.
I hate to see you go.
Remember all the fun we had
In all the things we did,
But, most of all remember...
You're a very
special kid!
TẶNG
BẠN LÊN ĐƯỜNG ĐI HỌC ĐẠI HỌC
Vậy là bạn đã trưởng thành, đến lúc
Bạn
ra đi, bỏ tinh nghịch nhiều trò,
Nhà, trường học và vòng tay bố mẹ.
Từ bây giờ, tự mình sống, mình lo.
Khi
đã thấy mục tiêu mình muốn đạt,
Hãy
chuyên tâm, chăm chỉ học đêm ngày.
Hãy
mở lối cho mình đi, khám phá,
Tìm
cho mình điều kỳ diệu, điều hay.
Và để
đạt ước mơ đầy cám dỗ,
Tìm
thuyền vững, vì biển đấy sóng gió.
TO MY FRIEND
In daily life as all grown up
And on your own you leave,
Home and school and parent’s arms,
Now by yourself - achieve.
And when you have your sights all set,
And when you have your sights all set,
Apply your new found mind…
Try to make your way and let,
The wonders that you find…
Keep you on an even keel,
On the ladder
you must climb.
CÔ
GIÁO EM
Cô giáo em phải làm việc luôn tay
Nào
đổ bô, nào thay tã, thay giày.
Cô âu
yếm, dịu dàng - trong nhà trẻ
Cô
thực sự là người thay thế mẹ.
Cô
hát ru cho những đứa khóc nhè.
Cô
bảo ban những đứa nghịch, vụng về.
Nghe tiếng khóc, không chau mày, bực bội;
Dỗ những đứa ngã sướt da, sầy gối.
Với
nhiều đứa, cô chơi trò ú tim,
Mà bọn lớn gọi là trò trốn tìm.
Dù rất giỏi trong mọi trò, tuy thế,
Cũng có lúc cô thua như bọn trẻ.
Cô dạy trẻ học chữ cái, đánh vần,
Thỉnh thoảng ngừng, ru dỗ chúng, vân vân.
Cô không chỉ là cô, mà là bạn,
Cùng chúng em học và chơi không chán.
Cô, nghe nói, được nhà nước trả tiền,
Nhưng quả đúng cô là người mẹ hiền.
MY TEACHER
A substitute for working moms,
She comforts, pampers, soothes and calms.
With all the love she has to share,
She's great to have when mom's not there.
She loves to rock a fussy child,
Corrects the one who gets too wild.
She hears her share of tearful pleas,
And comforts those with skinned up knees.
With little children she plays a peek,
For bigger ones it's hide-and-seek.
She is an expert at each game,
But somehow loses just the same.
She helps them learn the alphabet,
And gives them hugs when they're upset.
She is a true and trusted friend,
Who helps them learn and play pretend.
Although she's paid, it's plain to see,
She serves them
with a love that's free.
CẢM ƠN CÔ
Dạ
thưa cô, em muốn nói điều này,
Rằng
với em, cô là người đặc biệt.
Rằng
thật vui khi được học lớp cô,
Đến giờ học hết lúc nào không biết.
Cảm ơn cô vì cô đã giúp em
Học và biết điều thông minh, đẹp đẽ.
Em sẽ luôn, luôn nhớ cô sau này,
Khi em lớn, dù ở đâu cũng thế.
Em nhớ cô, vì cô đã dạy em,
Vì với em, cô là người thân thiết.
Giờ em buồn vì sắp phải chia tay
Một cô giáo, một con người đặc biệt.
THANK YOU, TEACHER
You are my special teacher
I just want you to know
I always had fun in your class
How the time
has flown!
Thank you for
helping me
To learn all that I know
I will always remember you
Even when I'm
grown!
I'll miss you being my teacher
I know the reason why
I am feeling very sad
Because it's
time to say goodbye.
CẢM
ƠN THẦY
Maryam
Mashhadi
Cảm ơn thầy, vì có thầy bên cạnh,
Khi mỗi lần em ngã, lại chìa tay.
Cảm ơn thầy vì thầy nghe chăm chú
Mỗi khi em có chuyện muốn thưa thầy.
Thầy
thực sự thương yêu em, em biết,
Khi
xung quanh không ai muốn đoái hoài.
Trái
tim em đầy niềm vui, hy vọng,
Khi được thầy dìu dắt, hướng tương lai.
Em tự
hỏi, không có thầy, không hiểu
Cuộc đời mình sẽ đơn độc ra sao.
Vâng,
quả thật không đủ lời để nói
Thầy với em quan trọng đến mức nào.
THANH
YOU, MY TEACHER
Thank you, my teacher, for being there
At times when skies were gray
Thank you, my teacher, for lending an ear
When I had things to say.
You showered love on me lavishly
When no one seemed to care
You brought me joys untold
To fill my heart with moments of gold.
I would have felt isolated and lonely
If you had not been there
I lack the words to let you know
How much you
mean to me.
HAPPY BIRTHDAY TO YOU!
Hãy cầu xin một điều nhân sinh nhật,
Hãy mơ ước những gì cao đẹp nhất.
Nào, cầm tay, hãy nhảy, hát vang nhà,
Cũng đừng quên thỉnh thoảng ngửi mùi hoa.
Hãy
chia sẻ tình yêu và chiếc bánh.
Hãy
cảm ơn ngôi sao xanh lấp lánh
Trên
đầu anh, luôn xua hết sương mù.
Birthday! Happy Birthday to You!
HAPPY BIRTHDAY TO YOU!
HAPPY BIRTHDAY TO YOU!
Make a wish and give it wings.
Dreams of bright and beautiful things.
Dance through all the fun filled hours.
Don't forget to
smell the flowers.
Share some love and birthday cake.
All life joys are yours to take.
And when evening comes to view.
Thanks your
lucky stars you're you.
Happy Birthday
to you!
CHÚC MỪNG SINH NHẬT
Bản dịch một, cho cô giáo
Kia, bình minh hé rạng,
Em muốn cô buổi sáng
Biết em, đứa học trò
Đang nghĩ gì về cô.
Hôm nay mừng sinh nhật,
Cô là người vui nhất.
Với học trò của mình,
Cô thật tốt, nhiệt tình.
Em chúc cô sáng dậy
Cùng bình minh lộng lẫy,
Vui, thật vui suốt ngày,
Mà không chỉ hôm nay.
Happy Birthday!
CHÚC MỪNG SINH NHẬT
Bản dịch hai, cho thầy giáo
Một ngày mới,
kia, bình minh hé rạng,
Ngày sinh nhật
đang chờ thầy, buổi sáng
Em rất mong nhân
đặc biệt ngày này
Thầy biết em
đang nghĩ gì về thầy.
Vâng,
đặc biệt, đó là ngày sinh nhật,
Thầy
xứng đáng, và là người vui nhất.
Với
chúng em, thầy thật tốt, nhiệt tình
Trong
mọi việc, mọi lời nói của mình.
Em
chúc thầy sáng ngày mai tỉnh đậy
Cùng
sinh nhật và bình minh lộng lẫy.
Chúc
thầy vui và ngây ngất suốt ngày,
Chúc
hạnh phúc, mà không chỉ ngày này.
Birthday! Happy Birthday!
HAPPY BIRTHDAY TO TEACHER
A brand new day is dawning
And as it gets its start,
I want you know I am thinking
Of you with warmth in my heart.
I hope your birthday is special
No one deserves it more than you!
You are such a kindhearted person,
It shows in everything that you do.
So, have a perfect morning
And an even lovelier day...
May happiness surround you
Always... not
just for today!
Happy Birthday!
THƠ
ĐỀ TRÊN QUÀ TẶNG THẦY CÔ
Cảm ơn thầy (cô) đã dạy dỗ chúng em,
Giúp chúng em thành thông minh, chân thật.
Xin hãy để món quà này nhắc thầy (cô):
Với chúng em, thầy (cô) là người tốt nhất!
GIFT FOR TEACHER
For teaching children lessons,
To help them as they grow,
Let this gift remind you,
You're the best
teacher we know!
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI THẦY
Kevin William
Huff
Thầy giúp đầu óc trẻ
Lung linh các sắc màu.
Uốn nắn từng ý nghĩ,
Chữa ngữ pháp từng câu.
Thầy khuyến khích hiểu biết,
Sự thật, tình yêu thương.
Với trẻ, thầy - ngọn đuốc
Luôn dẫn dắt, soi đường.
Qua mỗi bài thầy dạy,
Thầy mở rộng tầm nhìn.
Qua nụ cười nhân ái,
Thầy thắp sáng niềm tin.
Các
triết gia vĩ đại,
Các
thi hào xưa nay
Đều bắt đầu từ việc
Được
cắp sách học thầy.
TEACHERS
Teachers paint their minds
And Guide Their Thoughts
Share their achievements
And Advise
Their Faults.
Inspire a Love
Of Knowledge And Truth
As you light the path
Which leads our youth
For our future brightens
With Each Lesson You Teach
Each smile you lengthen
Each goal you
help reach
For the dawn of each poet
Each Philosopher And King
Begins with a Teacher
And the wisdom they bring.
CON
CỦA AI?
Khi
nhìn thấy một đứa trẻ đang chơi,
“Đây
là con của ai?” tôi hỏi.
“Con
của tôi. Thằng bé này con tôi,”
Một
bà mẹ khẽ mỉm cười, liền nói.
“Tôi
chải tóc và rửa tay cho con,
Khuyên
nó mặc cái gì thích hợp,
Để luôn luôn trông sạch sẽ, gọn gàng
Và nghiêm chỉnh học hành khi đến lớp.
Tôi lại hỏi: “Đây là con của ai?”
Khi có người đi ngang qua cánh cửa.
“Con của tôi,” một thầy giáo mỉm cười.
“Tôi giữ cháu bên mình thêm lát nữa
Để dạy cháu cách cư xử dịu dàng,
Dạy cách sống biết tuân theo kỷ luật,
Giúp cái đầu còn non nớt, thơ ngây
Biết suy nghĩ để làm điều tốt nhất.
Tôi lại hỏi: “Đây là con của ai?”
Khi cửa mở, bước vào cô bé nhỏ
Cả thầy giáo và ông bố đáp ngay:
“Đây là con của chúng tôi!” Và họ,
Cầm tay em rất âu yếm: “Chúng tôi
Cùng thương yêu, cùng chung tay dạy nó.”
WHOSE CHILD IS THIS?
"Whose child is this?" I asked one day
Seeing a little one out at play
"Mine", said the parent with a
tender smile
"Mine to keep a little while
To bathe his hands and comb his hair
To tell him what he is to wear
To prepare him that he may always be good
And each day do the things he should"
"Whose child is this?" I asked
again
As the door opened and someone came in
"Mine", said the teacher with the
same tender smile
"Mine, to keep just for a little while
To teach him how to be gentle and kind
To train and direct his dear little mind
To help him live by every rule
And get the best he can from school"
"Whose child is this?" I ask once
more
Just as the little one entered the door
"Ours" said the parent and the
teacher as they smiled
And each took the hand of the little child
"Ours to love and train together
Ours this
blessed task forever."
THƠ
VUI LIMERICK CỦA EDWARD LEAR
Kiểu một dạng như thơ đồng dao của ta, quan trọng ở sự
ngộ nghĩnh và vần điều chứ không phải ý nghĩa.
1
There was a Young Lady whose nose,
Was so long that it reached to her toes;
So she hired an Old Lady,
Whose conduct was steady,
To carry that wonderful nose.
Một cô nàng,
chuyện thật,
Có chiếc mũi rất
dài, dài chấm đất.
Cô thuê một bà
già,
Rất đoan trang,
nết na
Bê chiếc mũi của
cô dài chấm đất.
2
There was an Old Man in a boat,
Who said, 'I'm afloat! I'm afloat!'
When they said, 'No! you aint!'
He was ready to faint,
That unhappy Old Man in a boat.
Có ông già đi
đò:
“Tôi không
chìm!” Ông kêu to.
“Lát nữa ông
chìm đấy!”
Một người nói.
Nghe vậy,
Ông ngất luôn
trên đò.
4
There was an Old Man of Bohemia,
Whose daughter was christened Euphemia,
Till one day, to his grief,
She married a thief,
Which grieved that Old Man of Bohemia.
Xưa có người tận
xứ Bohemia,
Có cô con tên
Euphemia,
Thế mà con ông,
thật láo,
Dám lấy một tên
lừa đảo,
Làm đau lòng ông
già Bohemia.
5
There was an Old Man of Coblenz,
The length of whose legs was immense;
He went with one prance
From Turkey to France,
That surprising Old Man of Coblenz.
Một ông người
Coblenz,
Chân ông dài, mà
lại đen.
Ông chỉ bước một
bước nhỏ
Là từ Pháp sang
nước Thổ.
Thật kỳ diệu,
ông già người Coblenz!
6
The was a Young Lady of Bute,
Who played on a silver-gilt flute;
She played several jigs,
To her uncle's white pigs,
That amusing Young Lady of Bute.
Một cô nàng xứ
Bute,
Thổi sáo hay,
tuy hơi buồn một chút.
Mấy bài liền cô
thổi to
Cho bầy lợn của
chú cô.
Thật buồn cười,
cô nàng người xứ Bute!
7
There was a Young Lady whose chin,
Resembled the point of a pin;
So she had it made sharp,
And purchased a harp,
And played several tunes with her chin.
Một cô cằm rất
nhọn,
Nhọn như chiếc
kim khâu, và do thộn,
Còn mài thêm, và
cô này
Mua đàn Harp,
rồi suốt ngày
Chơi đàn ấy bằng
chiếc cằm rất nhọn.
8
There was a Young Lady whose bonnet,
Came untied when the birds sate upon it;
But she said: 'I don't care!
All the birds in the air
Are welcome to sit on my bonnet!'
Một nàng, người
cực xấu,
Nhưng mũ đẹp,
chim cứ bay đến đậu.
Cô nàng nói:
“Xin mời,
Hỡi tất cả chim
trời,
Cứ đến đậu,
nhưng đừng chê tôi xấu.”
9
There was a Young Lady of Poole,
Whose soup was excessively cool;
So she put it to boil
By the aid of some oil,
That ingenious Young Lady of Poole.
Một cô người xứ
Poole,
Xúp lạnh tanh,
nhưng cô không hề buồn.
Cô nhóm bếp, bếp
lạnh cóng,
Hâm lại xúp, xúp
lại nóng.
Thật thông minh,
cô nàng người xứ Poole!
10.
There was an Old Man of Corfu,
Who never knew what he should do;
So he rushed up and down,
Till the sun made him brown,
That bewildered Old Man of Corfu.
Có ông già người
Corfu, thật hay,
Vì không biết
làm gì cho hết ngày,
Nên ông cứ chạy
đi, chạy lại
Dưới trời nắng
chang chang, chạy mãi,
Cho đến khi da
đen nhẻm, thật hay!
11
There was a Young Lady of Dorking,
Who bought a large bonnet for walking;
But its colour and size,
So bedazzled her eyes,
That she very soon went back to Dorking.
Một bà người
Dorking,
Mua chiếc mũ, đi
chơi xa một mình,
Nhưng mũ rộng,
màu thì chói quá,
Mũ che mắt, mắt
nhìn lại lóa,
Nên bà này liền
quay về Dorking.
12
There was a Young Lady of Hull,
Who was chased by a virulent bull;
But she seized on a spade,
And called out, 'Who's afraid?'
Which distracted that virulent bull.
Một nàng người
xứ Hull
Bị bò đực đuổi,
chạy hết hồn.
Thế mà nàng vớ
chiếc gậy
Rồi dọa bò: “Hãy
đợi đấy!”
Làm chú bò cong
đuôi chạy hết hồn.
13
There was an Old Man of the East,
Who gave all his children a feast;
But they all ate so much
And their conduct was such
That it killed that Old Man of the East
Có ông người
phương Đông,
Bỗng một hôm làm
tiệc, thết con ông.
Nhưng chúng ăn nhiều
quá,
Còn làm điều bậy
bạ,
Nên đã chết, ông
già ấy phương Đông.
14
There was an Old Man of the North,
Who fell into a basin of broth;
But a laudable cook,
Fished him out with a hook,
Which saved that Old Man of the North.
Một ông người
phương Bắc,
Không hiểu sao
rơi vào nồi cháo đặc.
Anh đầu bếp vội
vàng
Dùng cái muôi,
nhẹ nhàng
Vớt ông lên, ông
già người phương Bắc.
15
There was an Old Man of the West,
Who wore a pale plum-coloured vest;
When they said, 'Does it fit?'
He replied, 'Not a bit!'
That uneasy Old Man of the West.
Một ông người
miền Tây,
Mặc chiếc áo màu
mận chín mới may.
“Có vừa không?”
khách hỏi.
“Không, không
vừa!” ông nói.
Thật khốn khổ,
ông già người miền Tây.
16
There was an Old Man of the South,
Who had an immoderate mouth;
But in swallowing a dish,
That was quite full of fish,
He was choked, that Old Man of the South.
Một ông người
phương Nam
Miệng cực to,
lại có thói ăn tham.
Nên sơ ý đã nuốt
luôn chiếc đĩa
Cùng với cá và
đôi dĩa -
Thế là chết, ông
già ấy phương Nam.
17
There was an Old Man of Dundee,
Who frequented the top of a tree;
When disturbed by the crows,
He abruptly arose,
And exclaimed, 'I'll return to Dundee.'
Có ông già người
Dundee, thật hay,
Thích leo trèo,
ngồi chót vót trên cây.
Một hôm, quạ
phản đối,
“Thì tớ xuống,”
ông nói:
Rồi trở về xứ
Dundee, thật hay.
18
There was an Old Man of Hong Kong,
Who never did anything wrong.
He lay on his back,
With his head in a sack,
That innocuous Old Man of Hong Kong.
Có ông già,
người Hồng Kông thì phải,
Không bao giờ
làm điều gì sai trái.
Đêm, cho đầu vào
túi đay,
Ông nằm ngửa,
ngủ rất say,
Cái ông ấy,
người Hồng Kông thì phải.
19
There was an Old Man of Leghorn,
The smallest that ever was born;
But quickly snapped up he
Was once by a puppy,
Who devoured that Old Man of Leghorn.
Có một ông,
người Leghorn,
Ông nhỏ nhất
trong những người tí hon.
Một con cún thật
láo,
Đớp ông ăn, cả
áo.
Thế là hết ông
già người Leghorn.
20
There was an Old Man of Nepaul,
From his horse had a terrible fall;
But, though split quite in two,
By some very strong glue,
They mended that Man of Nepaul.
Xưa có ông người
Nepaul, thật khổ,
Đang cưỡi ngựa
thì ngã quay, lộn cổ.
Người ông gãy
làm đôi.
May có keo, và
rồi
Gắn lại được ông
Nepaul khốn khổ.
21
There was an Old Man on some rocks,
Who shut his wife up in a box;
When she said, 'Let me out!'
He exclaimed, 'Without doubt,
You will pass all your life in that box.'
Một người nọ nhà
xây trên núi,
Ông đem nhốt vợ
mình trong chiếc cũi.
Bà vợ kêu: “Thả
ra!”
Ông kia đáp: “Ái
chà,
Cứ yên tâm sống
suốt đời trong cũi.”
22
There was an Old Man who said, 'How
Shall I flee from that horrible cow?
I will sit on this stile,
And continue to smile,
Which may soften the heart of that cow.'
Một ông già than
thở:
“Làm sao thoát
con bò kia đáng sợ?
Hay ta cứ ngồi
đây,
Nhìn nó, cười
suốt ngày,
Mong làm nó hiền
lành, không đáng sợ?”
23
There was an Old Man who said, 'Hush!
I perceive a young bird in this bush!'
When they said, 'Is it small?'
He replied, 'Not at all!
It is four times as big as the bush!'
Một ông già lẩm
bẩm:
“Tôi nhìn thấy
con chim trong bụi rậm!”
“Chắc nó bé cỏn
con?”
“Không, nó to và
tròn.
Nó lớn lắm, đúng
gấp ba bụi rậm.”
24
There was an Old Man of Peru,
Who never knew what he should do;
So he tore off his hair,
And behaved like a bear,
That intrinsic Old Man of Peru.
Có một người
Peru, thật kỳ,
Không bao giờ
biết mình nên làm gì.
Ông xù tóc, thật
xấu,
Cư xử hệt con
gấu.
Thật độc đáo,
ông Peru lạ kỳ.
25
There was an Old Man of the Dee,
Who was sadly annoyed by a flea;
When he said, 'I will scratch it,'
They gave him a hatchet,
Which grieved that Old Man of the Dee.
Có một người ở
sông Dee, tiếc thay,
Bị con ruồi cứ
bám mãi suốt ngày.
“Tao sẽ giết
chết mày!” Ai đấy
Đưa cho ông
chiếc rìu, vì vậy
Ông vung rìu cứ
chém ruồi suốt ngày.
26
There was an Old Man who supposed,
That the street door was partially closed;
But some very large rats,
Ate his coats and his hats,
While that futile old gentleman dozed.
Một ông già cứ
nghĩ
Cửa nhà ông
không đóng kỹ,
Nên bọn chuột
lẻn vào nhà
Ăn hết mũ và áo
da
Trong khi ông
ngủ quên, không để ý.
27
There was an Old Man who, when little,
Fell casually into a Kettle;
But, growing too stout,
He could never get out,
So he passed all his life in that Kettle.
Xưa có người, lạ
kỳ không tin được:
Ngày còn nhỏ,
ông rơi và ấm nước,
Rồi lớn lên, thế
là
Không thể nào
chui ra,
Nên suốt đời
phải sống trong ấm nước.
28
There was an Old Man with a beard,
Who said, 'It is just as I feared!
Two Owls and a Hen,
Four Larks and a Wren,
Have all built their nests in my beard!'
Một ông già có
bộ râu rất rậm,
Đến mức ông phải
thường xuyên ca cẩm:
“Hai con cú và
một con gà,
Bốn con én cùng
con sơn ca
Đang làm tổ
trong râu tôi rất rậm.”
29
There was an old man whose despair
Induced him to purchase a hare:
Whereon one fine day,
He rode wholly away,
Which partly assuaged his despair.
Xưa có người vì
quá buồn, quá khổ
Nên ra chợ mua
về nhà con thỏ.
Và một hôm đẹp
trời,
Ông cưỡi nó đi
chơi.
Thật kỳ lạ, ông
thấy mình bớt khổ.
30
There was an Old Man with a flute,
A serpent ran into his boot;
But he played day and night,
Till the serpent took flight,
And avoided that man with a flute.
Xưa có người
thích thổi sáo, thổi hay.
Một con rắn chui
vào trốn trong giày.
Nhưng suốt ngày
đêm ông thổi,
Con rắn nghe,
không chịu nổi,
Nên cuối cùng
lại chui ra khỏi giày.
31
There was an Old Person in Black,
A Grasshopper jumped on his back;
When it chirped in his ear,
He was smitten with fear,
That helpless Old Person in Black.
Có ông già mặc
đồ đen, ngày nọ,
Bị châu chấu bám
vào lưng, vào cổ.
Khi chúng bò lên
tai, trời ơi,
Ông sợ quá, co
rúm cả người,
Và rồi ngất,
thương thay ông già đó.
32
There was an Old Person in Gray,
Whose feelings were tinged with dismay;
She purchased two Parrots,
And fed them with Carrots,
Which pleased that Old Person in Gray.
Có một bà mặc đồ
xám, là người
Không hiểu sao
cứ luôn thấy chán đời.
Rồi bà mua hai
con vẹt nhỏ
Cho chúng ăn
toàn cà-rốt đỏ.
Thế mà bà tự
nhiên hết chán đời.
33
There was an
Old Person whose habits,
Induced him to
feed upon rabbits;
When he'd eaten
eighteen,
He turned
perfectly green,
Upon which he
relinquished those habits.
Có một người có thói quen rất ngộ,
Là thích xơi thịt thỏ.
Khi ăn hết mười tám con, ông này,
Tự nhiên người xanh như lá cây.
Từ đấy thôi, ông không ăn thịt thỏ.
34
There was a
Young Lady whose eyes,
Were unique as
to colour and size;
When she opened
them wide,
People all
turned aside,
And started
away in surprise.
Xưa, một nàng có đôi mắt dễ thương,
Nhưng màu sắc và kích thước phi thường.
Khi mắt nàng mở to hết cỡ,
Thì mọi người giật mình hoảng sợ
Và lánh xa đôi mắt ấy phi thường.
35
There was an Old Man with a gong,
Who bumped at it all day long;
But they called out, 'O law!
You're a horrid old bore!'
So they smashed that Old Man with a gong.
Một ông già
thích đánh trống, tiếc thay,
Mà ông ta lại cứ
đánh suốt ngày,
Nên hàng xóm
không sao chịu nổi.
“Ông làm phiền
chúng tôi!” họ nói.
Cái ông già
thích đánh trống, tiếc thay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét