Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2020

Tho Song Ngu Anh Viet




Tho Song Ngu Anh Viet - Hai

SAI LẦM CỦA CÔ GÀ
      Phoebe Gary

Có cô Gà còn bé con, ngày nọ
Xin phép mẹ đi ra hồ tập bơi,
Khi cô thấy Vịt Bầu cùng con nó
Đang tung tăng dưới nước, miệng vui cười. 

Nhưng Gà Mẹ không cho đi, vì thế,
Cô kêu lên chiêm chiếp, lại còn hờn:
“Vịt bơi được, sao con không có thể?
Hay bởi vì chúng giỏi hoặc to hơn?”

Gà Mẹ đáp: “Quên đi mong muốn ấy.
Đừng xin ta chuyện ngu ngốc, mà rồi,
Con hãy nhìn xuống chân con thì thấy,
Chúng được làm để đi bộ mà thôi.”

Nhưng cô Gà không mảy may tin mẹ.
Mắt vẫn trông xuống nước, vẻ rất thèm.      
Cô nghĩ mẹ không cho, nên nói thế.
“Sao mà lừa mình được, để rồi xem!”        

Và khi mẹ tìm thức ăn đâu đấy,
Cô lỉnh đi, còn lẩm bẩm thế này:
“Ta cứ bơi, sẽ không chìm, hẳn vậy,
Ta thực tình muốn mẹ thấy hôm nay!”

Không do dự, cô nhảy ùm xuống nước,
Và biết ngay cô đã phạm sai lầm.      
Nhanh, nhanh quá, không kịp nhìn sau trước,
Cô đã chìm, và một lúc - mất tăm.     

Giờ hy vọng rằng các em, bạn trẻ,
Đọc thơ tôi, sẽ hiểu được điều này:
Rằng những ai biết nghe lời bố mẹ,
Thì mọi điều sẽ rất tốt và hay;

Rằng tất cả sinh linh trên thế giới
Có khả năng riêng biệt, khác từ đầu.
Ai làm trái, thì yên tâm cứ đợi    
Sẽ có ngày hối hận hoặc buồn đau.         


THE CHICKEN'S MISTAKE

A little downy chicken one day
      Asked leave to go on the water,
Where she saw a duck with her brood at play,
      Swimming and splashing about her.

Indeed, she began to peep and cry,
     When her mother wouldn't let her:
“ If ducks can swim there, why can't I;
     Are they any bigger or better? “

Then the old hen answered, "Listen to me,
     And hush your foolish talking;
Just look at your feet and you will see
     They were only made for walking."

But chicky wistfully eyed the brook,
    And didn't half believe her,
For she seemed to say by a knowing look,
   “ Such stories couldn't deceive her.”      

And as her mother was scratching the ground,
    She muttered lower and lower,
“I know I can go there and not get drowned,
    And so I think I'll show her.”       

Then she made a plunge where the stream was Jeep,
     And saw too late her blunder:
For she hadn't hardly time to peep
     Till her foolish head went under.

And now I hope her fate will show
      The child, my story reading,
That those who are older sometimes know
      What you will do well in heeding.         

For we all have our proper sphere below,
     And this is a truth worth knowing:
You will come to grief if you try to go
     Where you never were made for going.


ĐU QUAY
      Robert Stevenson

Sao cậu thích chơi đu quay như thế,
     Lên tít tận trời mây?
Vì tớ nghĩ nó vừa vui vừa dễ,
     Ai cũng yêu trò này.

Nó quay tít lên cao rồi lại xuống,
     Tớ đưa mắt nhìn quanh,
Thấy sông suối, rồi vườn cây, đồng ruộng,
     Cả làng quê yên lành.

Tớ nhìn xuống, thấy hàng cây rợp lá,
     Những mái nhà xạm đen.
Rồi lên cao, bay như chim, thích quá -
     Hết xuống rồi lại lên.

THE SWING

How do you like to go up in a swing,
Up in the air so blue?
Oh ! I do think it the pleasantest thing
Ever a child can do!

Up in the air and over the wall,
Till I can see so wide,
Rivers and trees and cattle and all
Over the countryside

Till I look down on the garden green,
Down on the roof so brown
Up in the air I go flying again,
Up in the air and down !


HAI CHÚ MÈO

Hai chú Mèo trong một đêm giông tố
Đã đánh nhau, sau một hồi cãi cọ,
Vì một con có chú chuột, tiếc thay
Con thứ hai không có, chuyện thế này:

Con lớn nói: “Tao ăn con chuột ấy!”
“Sao, mày ư? Tao sẽ không chịu vậy!”
“Tao sẽ ăn!” Con Mèo lớn gầm gừ.
“Không đời nào!” Con nhỏ đáp vô tư.

Đó là đêm bão giông, như đã kể,
Hai chú Mèo đánh nhau, kêu chí chóe.
Bà chủ nghe, nghiêm khắc, một bà già,
Cẩm chiếc chổi, quét hai chú khỏi nhà.

Im như chuột, đứng bên ngoài, giá rét,
Chúng lạnh buốt, khắp thân mình đầy tuyết,
Và tiếc thầm: Nếu không trót đánh nhau,
Thì bây giờ đã ngủ ấm từ lâu.

THE LITTLE KITTENS

Two little kittens, one stormy night,
Began to quarrel and then to fight;
One had a mouse, the other had none,
And that was the way the quarrel begun.

“I'll have that mouse,” said the bigger cat.
"You'll have that mouse? We'll see about that."
“I will have that mouse," said the elder son.
You won't have that mouse!"said the little one.

I told you before 'twas a stormy night
When these two little kittens began to fight;
The old wroman seized her sweeping broom,
And swept the two kittens right out of the room.

The ground was covered with frost and snow,
And the two little kittens had nowhere to go;
So they laid them down on the mat at the door,
While the angry old woman was sweeping the floor.

And then they crept in as quiet as mice,
All wet with snow, and as cold as ice;
For they found it was better, that stormy night,
To lie down and sleep than to quarrel and fight.


ĐỪNG ĐẦU HÀNG
      Phoebe Gary

Bạn đã cố, mà tiếc thay, thất bại?
     Đừng buồn, đừng bận tâm.
Dẫu công việc chưa thành, điều quí nhất
     Là bạn đã cố làm.

Như chim non mới tập bay, rơi ngã -
     Cánh khỏe dần, không sao.
Và cứ thế, sau nhiều lần, có thể
     Bay xa hơn, và cao.

Như sừng sững cây sồi kia to lớn,
     Gió bão quật gãy cành,
Nhưng sau đó lá sồi non lại mọc
     Rườm rà và thêm xanh.

Nếu làm việc, cứ chọn điều dễ dãi,
    Ai còn quí trọng mình?
Đạt thắng lợi sau rất nhiều thất bại
     Là phép thử đời anh.

DON'T GIVE UP

If you've tried and have not won,
Never stop for crying;
All that's great and good is done
Just by patient trying.

Though young birds, in flying, fall,
Still their wings grow stronger;
And the next time they can keep
Up a little longer.

Though the sturdy oak has known
Many a blast that bowed her,
She has risen again and grown
Loftier and prouder.      

If by easy work you beat,
Who the more will prize you?
Gaining victory from defeat,
That's the test that tries you!


HOA ĐỪNG - QUÊN - EM

Khi Đức Chúa đặt tên
Cho các loài hoa đẹp,
Có bông hoa mắt xanh,
Đi lại gần, khép nép.      

Đứng ngay sát chân Ngài,
Ngắm mặt Ngài đẹp đẽ,
Bông hoa đôi mắt xanh
Nói dịu dàng, e lệ:

“Tên Chúa đặt cho con,
Con quên rồi, xin lỗi.”
“Tên con: Đừng - Quên - Em,”
Chúa mỉm cười, và nói.

FORGET-ME-NOT

When to the flowers so beautiful
   The Father gave a name,
Back came a little blue-eyed one
   (All timidly it came),   

And standing at its Father's feet,
    And gazing in his face
It said in low and trembling tones,
With sweet and gentle grace,

" Dear God, the name thou gavest me
Alas! I have forgot."
Then kindly looked the Father down,
And said, Forget-me-not."     
         

TÔI SỐNG VÌ NHỮNG NGƯỜI YÊU TÔI
      Linnaeus Banks

Vì những người luôn yêu tôi, tôi sống,
Vì những ai thân thiết nhất đời này.
Tôi sống cả vì bầu trời cao rộng,       
Sống và làm những việc tốt, điều hay.

Tôi còn sống, để ai cần - giúp đỡ,      
Để cùng nhau xua cái ác hàng ngày.
Vâng, tôi sống vì tương lai rực rỡ,
Và để làm những việc tốt, điều hay.   

I LIVE FOR THOSE WHO LOVE ME

I live for those who love me,
For those who know me true,
For the heavens that bend above me
And the good that I can do ;  

For the cause that needs assistance,
For the wrongs that lack resistance,
For the future in the distance
And the good that I can do.   


CON MÈO TRONG GIỎ
      Eliza Follen

Giỏ của em ở đâu?
Charlie kêu, nóng nảy.
Chắc có cô cậu nào
Mang nó đi đâu đấy!

Cả con mèo Kitty
Cũng biến đi với nó,
Biết tìm đâu bây giờ
Kitty và chiếc giỏ?

Thôi, sang phòng mẹ tìm.
Chú mèo con rất tệ,
Cứ thích vào phòng này
Rồi ngủ trưa trên ghế.

Ôi, mẹ ơi, nhìn này!
Con cứ tìm đâu đó.
Hóa ra con Kitty
Cuộn tròn, nằm trong giỏ.

Rồi cậu, rất nhẹ nhàng,
Bê chiếc giỏ khoe mẹ.
Trong giỏ có con mèo
Đang ngủ yên  lặng lẽ.

KITTY IN THE BASKET

“Where is my little basket gone?”
Said Charlie boy one day.
“I guess some little boy or girl
Has taken it away.”      

“And kitty, too, I can't find her.
Oh, dear, what shall I do?
I wish I could my basket find,
And little kitty, too.

“I'll go to mother's room and look;
Perhaps she may be there,
For kitty loves to take a nap
In mother's easy-chair.

O mother! mother! come and look!
See what a little heap !
My kitty's in the basket here,
All cuddled down to sleep.”    

He took the basket carefully,
And brought it in a minute,
And showed it to his mother dear,
With little kitty in it.


TRĂNG NON
      Eliza Follen

Này mẹ ơi,
Ra xem Trăng, đẹp quá.
Chưa bao nó đẹp giống hôm nay.
Hai chiếc sừng tí hon,
Kia, sáng lóa.
Con ước sao nó cứ mãi thế này!        

Cùng với mẹ
Nếu được lên trên đó,
Con sẽ chơi như chơi trò khập khênh.
Con ngồi giữa,
Tay nắm đôi sừng nhỏ.
Trăng đung đưa như thuyền lướt bập bềnh.

Con bảo Sao:
Hãy tránh xa, các bạn,
Kẻo vô tình thuyền tớ vướng vào Sao.
Rồi con lắc,
Lắc suốt đêm không chán,
Chờ bình minh, xem Trăng lặn nơi nào.      

Rồi sau đó,
Mẹ và con ở lại
Bay nhẹ nhàng giữa trời sao bao la.
Mặt Trời mọc,
Một cầu vồng êm ái
Đưa mẹ con xuống đất, trở về nhà.

THE NEW MOON

“Dear mother, how pretty
The moon looks to-night!
She was never so cunning before ;
The two little horns
Are so sharp and so bright,
I hope she'll not grow any more.

If I were up there,
With you and my friends,
I'd rock in it nicely you'd see;
I'd sit in the middle
And hold by both ends;
Oh, what a bright cradle 'twould be!        

I would call to the stars
To keep out of the way,
Lest we should rock over their toes;
And then I would rock
Till the dawn of the day,
And see where the pretty moon goes.

And then we would stay
In the beautiful skies,
And through the bright clouds we would roam;
We would see the sun set,
And see the sun rise,
And on the next rainbow come home.       


CỐI XAY GIÓ
     Dinah Craik

Cứ quay và cứ xay,
Chiếc cối xay chạy mãi.
Cứ xay và cứ quay,
Không bao giờ đứng lại.

Cối cứ xay đều đêu,
Không hỏi nhiều hay ít.
Có mệt cũng không kêu,
Đã xay là xay hết.

Cứ quay và cứ xay, chiếc cối xay chạy mãi.
Cứ xay và cứ quay, không bao giờ đứng lại.

Cứ quay và cứ xay,
Không hề kêu vất vả.
Làm việc suốt đêm ngày,
Kiên trì, không vội vã.

Như nước mắt đang rơi,
Bột mì rơi, rơi mãi,
Làm việc, giúp con người,
Không có chốt dừng lại,

Cứ quay và cứ xay, chiếc cối xay chạy mãi.
Cứ xay và cứ quay, không bao giờ đứng lại.

THE MILL

Winding and grinding
Round goes the mill,
Winding and grinding
Should never stand still.

Ask not if your neighbor
Grind great or small;
Span not your labor,
Grind your wheat all.

Winding and grinding round goes the mill.
Winding and grinding should never stand still.

Winding and grinding
Work through the day,
Grief never minding
Grind it away!     

What though tears dropping
Rush as they fall ?
Have no wheel stopping
Work comforts all..

Winding and grinding round goes the mill.
Winding and grinding should never stand still.


ĐỪNG GIẾT CHIM
      Daniel Colesworthy

Đừng giết chim, những con chim tuyệt đẹp,
    Đang hót cạnh nhà mình,
Khi mùa đông đầy giá băng nhường chỗ
    Cho mùa xuân tươi xanh.    

Đừng giết chim, những con chim đang hót,
     Thật vui và vô lo.
Vâng, đừng giết, đừng lấy đi mạng sống
     Mà anh không thể cho.       

Đừng giết chim, những con chim tuyệt đẹp,
     Đang nhảy múa trên cành.
Vì nếu giết, khi thiếu chim, trái đất
     Sẽ buồn và vắng tanh.

Thật đáng yêu, những con chim bé nhỏ,
     Đừng quấy rầy, hãy nghe
Những bài hát mà chúng đang muốn hát
     Trước khi mùa đông về.

Hót hay sao, những con chim hạnh phúc,
     Đang líu lo trên cây.
Không nơi nào là không vui khi có
     Tiếng chim hót thế này.       

DON'T KILL THE BIRDS    

Don’t kill the birds, the pretty birds,
That sing about your door,
Soon as the joyous spring has come,
And chilling storms are o'er.            

The little birds, how sweet they sing!
Oh! let them joyous live;
And never seek to take the life
That you can never give.

Don't kill the birds, the pretty birds,
That play among the trees;
'Twould make the earth a cheerless place,
Should we dispense with these.

The little birds, how fond they play!
Do not disturb their sport;
But let them warble forth their songs,
Till winter cuts them short.
        .
Don't kill the birds, the happy birds,
That bless the field and grove;
So innocent to look upon,
They claim our warmest love.

The happy birds, the tuneful birds,
How pleasant 'tis to see!
No spot can be a cheerless place
Where'er their presence be.


BÀI HÁT RU CON NHẬT BẢN
      Eugene Field

Ngủ đi con, chim bồ câu nhỏ bé,       
Đôi mắt nhung, đôi cánh đẹp, khép vào,
Ngủ trong tiếng ru à ơi của mẹ,
Theo nhịp nhàng chiếc tổ ấm đang chao.

Xa ngoài biển, một ngôi sao nho nhỏ,
Ngôi sao xanh khe khẽ hát, buồn rầu.
Hát cho giọt sương xanh rơi trong gió,
Hát và rồi nhấp nháy suốt đêm thâu.

Qua cửa sổ, mặt trăng vàng đang dọi
Tia mặt trăng có đôi cánh sương mờ
Rón rén bước gần con, tia sáng hỏi:
“Bé đã vào vương quốc những giấc mơ?”   

Những con sóng trên đại dương xanh thẫm
Suốt ngày đêm cứ vỗ, hát thầm thì,
Như thương tiếc những con tàu đã đắm
Không bao giờ lần nữa lại ra đi.

Ngủ đi con, chim bồ câu nhỏ bé,
Khép đi con, đôi mắt đẹp và buồn.
Mẹ đang hát, tay đung đưa nhè nhẹ
Chiếc tổ mềm và ấm, ngủ đi con.       

JAPANESE LULLABY
     
Sleep, little pigeon, and fold your wings,
Little blue pigeon with velvet eyes;
Sleep to the singing of mother-bird swinging
Swinging the nest where her little one lies.

Away out yonder I see a star,
Silvery star with a tinkling song;
To the soft dew falling I hear it calling
Calling and tinkling the night along.

In through the window a moonbeam comes,
Little gold moonbeam with misty wings;
All silently creeping, it asks, “Is he sleeping--
Sleeping and dreaming while mother sings?”

Up from the sea there floats the sob
Of the waves that are breaking upon the shore,
As though they were groaning in anguish, and moaning-
Bemoaning the ship that shall come no more.

But sleep, little pigeon, and fold your wings,
Little blue pigeon with mournful eyes;
Am I not singing? see, I am swinging
Swinging the nest where my darling lies.   


CHUYẾN VIẾNG THĂM CỦA ÔNG GIÀ NÔ-EN
      Clemence Moore

Đó là đêm yên tĩnh trước Nô-en,
Đến con chuột cũng thu mình nằm yên.
Trên ống khói, tất được treo, chờ đợi
Cùng với quà, ông Nô-en sẽ tới.

Trẻ từ lâu đã bị bắt lên giường,
Nơi chúng mơ những giấc mơ lạ thường.
Mẹ của chúng quấn khăn, tôi - đội mũ,
Để chuẩn bị cũng lên giường, đi ngủ!

Bỗng bên ngoài, trên bãi cỏ nhà tôi,
Hình như ai đi xe đến, và rồi,
Tôi vùng dậy, bước lại gần cửa sổ
Rồi mở toang, chăm chăm nhìn hướng đó.  

Tuyết vừa rơi, một lớp mịn và dày,
Được ánh trăng chiếu sáng tựa ban ngày.
Tôi ngạc nhiên đến sững sờ, túm tóc,
Thấy cỗ xe với tám con tuần lộc.

Người đánh xe, trông nhanh nhẹn và hiền,
Mới thoạt nhìn, tôi biết đúng Nô-en.
Cả tuần lộc, cả ông già đều bé.
Nào, làm việc! Làm ngay không chậm trễ!

Thế là ôi, như cơn lốc ào ào,
Lá cây vàng mờ mịt bốc lên cao.
Cùng xe quà, họ leo lên ống khói,      
Cả ông già Nô-en, kia, rất vội.

Liền sau đó tôi nghe trên mái nhà
Có tiếng đồ vứt xuống, tiếng đập, va, 
Tôi chưa kịp ngoái lại nhìn, đã thấy
Ông Nô-en xuống rồi, đang đứng đấy.    

Suốt từ đầu đến chân, ông Nô-en
Toàn lông thú, nhưng bồ hóng bám đen.
Vai ông mang một túi quà ngoại cỡ,
Trông như bác bán hàng rong ngoài chợ.

Hiền, long lanh - đôi mắt sáng của ông.
Hai má đỏ, đỏ rực như hoa hồng.
Chiếc mũi lớn, đôi môi dày thật tuyệt,
Cùng bộ râu trắng và mềm như tuyết.     

Người ông tròn, to béo, đúng là tiên.
Tôi mỉm cười, và ông già Nô-en
Nhay nháy mắt, khẽ lắc đầu vô cớ,
Và tôi hiểu: Không có gì phải sợ.

Ông không nói một lời nào với tôi,     
Nhét quà nhanh vào tất trẻ, và rồi,
Khẽ gật đầu, vẫy tay thay lời nói,
Và lần nữa, lại leo lên ống khói.

Khi việc xong, tám tuần lộc kéo xe
Chở ông đi, lòng hạnh phúc tràn trề.
Tiếng ông vang trong đêm khuya lặng lẽ:
Chúc một đêm Giáng Sinh vui, vui vẻ!

A VISIT FROM ST. NICHOLAS

‘Twas the night before Christmas, when all through the house
Not a creature was stirring, not even a mouse.
The stockings were hung by the chimney with care,
In hopes that St. Nicholas soon would be there

The children were nestled all snug in their beds,
While visions of sugar-plums danced in their heads,
And mamma in her kerchief, and I in my cap,
Had just settled our brains for a long winter's nap-

When out on the lawn there arose such a clatter,
I sprang from my bed to see what was the matter.
Away to the window I flew like a flash,
Tore open the shutters and threw up the sash ; 

The moon, on the breast of the new fallen snow,
Gave a lustre of mid-day to objects below;
When, what to my wondering eyes should appear,
But a miniature sleigh and eight tiny reindeer,

With a little old driver, so lively and quick,
I knew in a moment it must be St. Nick.
More rapid than eagles his coursers they came,
And he whistled, and shouted, and called them by name.

As dry leaves before the wild hurricane fly,
When they meet with an obstacle, mount to the sky,
So up to the housetop the coursers they flew,
With the sleigh full of toys and St. Nicholas too.

And then, in a twinkling, I heard on the roof
The prancing and pawing of each little hoof.
As I drew in my head, and was turning around,
Down the chimney St. Nicholas came with a bound;             

He was dressed all in fur from his head to his foot,
And his clothes were all tarnished with ashes and soot:
A bundle of toys he had flung on his back,
And he looked like a peddler just opening his pack.
           
His eyes, how they twinkle! his dimples, how merry!
His cheeks were like roses, his nose like a cherry;
His droll little mouth was drawn up like a bow,
And the beard on his chin was as white as the snow.   

He was chubby and plump a right jolly old elf;
And I laughed when I saw him, in spite of myself.
A wink of his eye, and a twist of his head,
Soon gave me to know I had nothing to dread.

He spoke not a word, but went straight to his work,
And filled all the stockings: then turned with a jerk,
And laying his finger aside of his nose,
And giving a nod, up the chimney he rose.      

He sprang to his sleigh, to his team gave a whistle,
And away they all flew like the down of a thistle;
But I heard him exclaim, ere he drove out of sight,
“Happy Christmas to all, and to all a good-night!”


BÀI HÁT RU CON CỦA BÀ VÚ
      Eugene Field

Đồi thì trắng mà bầu trời thì đen,
Khi Thần Gió phùng má thổi gió lên.
Từ phía Bắc xuống phía Nam, ào ạt,
Dang rộng cánh bay đi, Thần Gió hát:

       Ngủ đi, nào bé, ngủ đi!
Xù đôi cánh mây đen, Thần Gió hát:
       Ngủ đi, nào bé, ngủ đi!     

Trên sườn núi có dây leo lòng vòng.
Nó bao giờ cũng bám chặt gốc thông.
Giờ cây thông hát một bài hát nhỏ.
Chỉ duy nhất dây leo nghe được nó:

       Ngủ đi, chú nhỏ, ngủ đi!
Khi có ta, đừng sợ gì, chú nhỏ.
       Ngủ đi, chú nhỏ ngủ đi!    

Thần Gió hát tất nhiên là rất hay.
Cây thông hát cũng không kém ông này.
Nhưng bông tuyết vừa bảo bà, có lẽ
Hay hơn cả là lời bà ru bé:

        Ngủ đi, bé ngoan, ngủ đi!
Ngực bà đây, hãy áp đầu, lặng lẽ
        Ngủ đi, bé ngoan, ngủ đi!

NURSE LULLABY

The sky is dark and the hills are white,
As the storm-king speeds from the north to-night ;
And this is the song the storm-king sings,
As over the world his cloak he flings:

       “Sleep, sleep, little one, sleep."
He rustles his wings, and gruffly sings:
       “Sleep, little one, sleep."

On yonder mountain-side a vine
Clings at the foot of a mother pine;
The tree bends over the trembling thing
And only the vine can hear her sing :

       “Sleep, sleep, little one, sleep
What shall you fear when I am here?
        Sleep, little one, sleep."

The king may sing in his bitter flight,
The tree may croon to the vine to-night,
But the little snowflake at my breast
Liketh the song I sing the best         

      “Sleep, sleep, little one, sleep;
Weary thou art, a-next my heart;
       Sleep, little one, sleep."    


HÃY NÓI LỜI NHỎ NHẸ

Hãy nói lời nhỏ nhẹ.
Tình yêu hơn roi đòn.
Đừng để lời nói nặng
Làm hỏng việc dạy con.

Hãy nhẹ nhàng với trẻ.   
Trẻ sẽ yêu ta hơn.
Những lời nói âu yếm
Xóa hết nỗi giận hờn.

Với những người có tuổi,
Hãy nói lời nhẹ, êm.
Trái tim họ đã nặng,
Đừng làm nó nặng thêm.

Hãy nói lời nhỏ nhẹ
Với cả người lỗi lầm.
Bằng lòng tốt của bạn,
Hãy thu phục nhân tâm.

Những lời nói nhỏ nhẹ,
Dịu dàng, đầy thương yêu.
Việc bé mà lợi lớn,
Lớn hơn ta tưởng nhiều. 

SPEAK GENTLY

Speak gently; it is better far
To rule by love than fear;
Speak gently; let no harsh word mar
The good that we do here.
                                     
Speak gently to the little child;
Its love be sure to gain;
Teach it in accents soft and mild ;
It may not long remain.
                                
Speak gently to the aged one,
Grieve not the care-worn heart,
Whose sands of life are nearly run ;
Let such in peace depart.

Speak gently to the erring; know
They must have toiled in vain ;
Perchance unkindness made them so ;
Oh, win them back again. 

Speak gently; 'tis a little thing
Dropped in the heart's deep well ;
The good, the joy, that it may bring,
Eternity shall tell.                              


LỜI CẦU CHÚA CỦA ĐỨA BÉ
      Betham Edwards
         
Con muốn làm tia sáng
Để sáng mãi trong đời,
Để đi đâu, ánh sáng
Cũng theo con khắp nơi.
     
Con muốn làm bông hoa
Mang niềm vui, no đủ.
Một bông hoa bé thôi,
Dẫu mới còn trong nụ.

Con muốn làm bài hát   
Để an ủi người buồn,
Giúp người yếu thành mạnh,
Giúp người hát vui hơn.           

A CHILD'S PRAYER        

God, make my life a little light,
   Within the world to glow-
A tiny flame that burneth bright
    Wherever I may go.

God, make my life a little flower,
   That bringeth joy to all,
Content to bloom in native bower
   Although its place be small.

God, make my life a little song,
   That comforteth the sad,
That helpeth others to be strong,
    And makes the singer glad.
                                     

BÔNG HOA TÍM
       Jane Taylor

Có một bông hoa tìm
Khiêm tốn mọc ngoài đồng,
Thân cong cong, đầu cúi,
Như e ngại đám đông.

Một bông hoa thật đẹp   
Tinh khiết, lại xinh tươi,
Đẹp hơn hoa hồng đỏ,
Thế mà né tránh người.

Bông hoa tím khiêm tốn
Đáng yêu và hiền lành,
Tỏa hương thơm dìu dịu,
Dấu mình trong cỏ xanh

Tôi thường ra đồng ngắm
Bông hoa thích lánh người,
Mong học được ở nó
Sự khiêm tốn ở đời.        

THE VIOLET

Down in a green and shady bed
    A modest violet grew;
Its stalk was bent, it hung its head,
    As if to hide from view.

And yet it was a lovely flower,
   Its colors bright and fair!
It might have graced a rosy bower,
   Instead of hiding there.       

Yet there it was content to bloom,
   In modest tints arrayed ;
And there diffused its sweet perfume,
   Within the silent shade.

Then let me to the valley go,
   This pretty flower to see,
That I may also learn to grow
   In sweet humility.       


BA CHÚ BỌ HUNG
      Phoebe Gary

Có ba chú bọ hung trong chiếc rổ.
Mà rổ này chỉ đủ lớn cho hai.
Một con đen, một con vàng, còn lại
Con thứ ba trông giống cậu mới tài.
Vậy là chiếc rổ này không đủ chỗ,
Làm thế nào? Không ai chịu nhường ai.

Thêm vào đó, thức ăn trong rổ ít,
Hai người ăn chưa đủ, nói gì ba.
Mà các chú lại tham lam, ích kỷ,
Như cậu, như mình, như chúng ta.
Hai chú bọ to khỏe hơn liền nói:
“Mình ta ăn, không cho con thứ ba!”          

Có ba chú bọ hung trong chiếc rổ,
Giường, tiếc thay, chỉ vừa đủ hai người.
Vậy là chúng xửng cồ lên, cãi cọ -
Con vàng nhợt, con đen, con xanh tươi.
Và cuối cùng, chỉ hai con được ngủ.
Con thứ ba nằm dưới đất, kêu trời.

Nhưng tất nhiên con bọ này không chịu.
Vốn đang buồn vì chẳng được cho ăn,         
Giờ gió thổi, lạnh thấu xương, hơn thế,
Bị bạn mình cướp giường ngủ, cướp chăn,
Nên giận dữ, chú kéo chăn xuống đất.
Và tiếng quát, tiếng cãi nhau lớn dần.

Vậy là có chiến tranh trong chiếc rổ.
Chuyện không vui, có thể nói, đau lòng.      
Và kết quả con thứ ba, đói, rét,
Vốn con này yếu nhất, thế mà không,
Nó không chỉ kéo chăn, mà còn giết,
Giết và ăn hai bạn, chỉ chừa lông!     

Tôi thì nghĩ, nếu không may rổ bé,
Cho hai người chứ không phải cho ba,         -
Con xanh tươi, con đen, con vàng nhợt, -
Thì tốt hơn, nên giải quyết ôn hòa,
Và cả chăn, bánh mì và chiếc rổ
Phải công bằng đem mọi thứ chia ba.

THREE BUGS  
     
Three little bugs in a basket,
   And hardly room for two!
And one was yellow, and one was black,
   And one like me, or you.
The space was small, no doubt, for all;
   But what would three bugs do?    

Three little bugs in a basket,
   And hardly crumbs for two;
And all were selfish in their hearts,
   The same as I or you ;
So the strong ones said, " We will eat the bread,
And that is what we'll do."

Three little bugs in a basket,
    And the beds that two would hold ;
So they all three fell to quarrelling
    The white, and the black, and the gold.
And two of the bugs got under the rugs,
    And one was out in the cold!        

So he that was left in the basket,
    Without a crumb to chew,
Or a thread to wrap himself withal,
   When the wind across him blew,
Pulled one of the rugs from one of the bugs,
   And so the quarrel grew!    

And so there was war in the basket,
   Ah, pity 'tis, 'tis true!
But when he that was as frozen and starved at last,
   A strength from his weakness drew,
And pulled the rugs from both of the bugs,
   And killed and ate them, too!

Now when bugs live in a basket,
   Though more than it well can hold,
It seems to me they had better agree
   The white, and the black, and the gold
And share what comes of the beds and the crumbs,
    And leave no bug out in the cold !         


VỀ CÁI ĐEP
      Jane Taylor

Khuôn mặt đẹp xưa nay là khuôn mặt
Luôn ẩn chứa một tâm hồn chân thật.
      Không quan trọng bề ngoài thế nào.

Đôi mắt đẹp là đôi mắt bên trong
Ta nhìn thấy đang le lói lửa hồng,
      Và âm ỉ nhiều điều lương thiện.

Đôi môi đẹp là đôi môi, như chim,
Hát những lời chân thật tự con tim.
      Nhưng rất biết kìm lời, thận trọng.

Đôi tay đẹp là đôi tay lao động,
Luôn dũng cảm, chân thành trong cuộc sống.
      Vâng, đôi tay làm việc không ngừng.

Đôi chân đẹp là đôi chân luôn chân
Lo chạy việc, lo kiếm ăn, nếu cần,
      Sẽ đến giúp những nơi nghèo đói.

Đôi vai đẹp là đôi vai dũng cảm,
Gánh trách nhiệm của gia đình êm ấm.
      Không kêu ca, và luôn mỉm cười.

Cuộc sống đẹp là cuộc sống của người
Biết bản chất của hạnh phúc ở đời     ,
      Tức là cái ít người biết được.

BEAUTIFUL THINGS

Beautiful faces are those that wear
It matters little if dark or fair
Whole-souled honesty printed there.         

Beautiful eyes are those that show,
Like crystal panes where hearth fires glow,        
Beautiful thoughts that burn below.

Beautiful lips are those whose words
Leap from the heart like songs of birds,
Yet whose utterance prudence girds.

Beautiful hands are those that do
Work that is earnest, brave, and true,
Moment by moment the long day through.        

Beautiful feet are those that go
On kindly errands to and fro
Down humblest ways, if God wills it so.     

Beautiful shoulders are those that bear
The needful burdens of homely care
With patient grace and daily prayer.

Beautiful lives are those that bless
Silent rivers of happiness,
Whose hidden fountains but few may guess.      


ĐỜI NGẮN
      Charles Kingsley
         
Đời ngắn, nên tận dụng,
Đừng bỏ phí một ngày.
Một khi thời gian mất
Là mất hẳn, tiếc thay.

Hãy làm, đừng mơ mộng.
Hãy cố biến cuộc đời
Cùng khó khăn, cái chết
Thành bài hát tuyệt vời.

LEARN TO MAKE THE MOST OF LIFE

Learn to make the most of life,
Lose no happy day,
For time will never bring you back
The moments thrown away.  

Be good, sweet maid, and let who will be clever;
Do noble things, not dream them all day long:
And so make life, death, and the vast forever
One grand, sweet song.                    


LẦN NỮA, LẠI LẦN NỮA

Lần nữa, lại lần nữa,
Trong mọi lúc, mọi nơi
Tôi học được gì đó
Ở cuốn sách cuộc đời.

Giờ lên cối xay gió,
Tôi phải xay bột mì.
Lần nữa, lại lần nữa,
Việc cần làm, làm đi.      

Không ai có thể biết
Nhu cầu của bông hoa,
Cũng như không thể biết
Bao nhiêu cát chảy qua.

Sáng, mặt trời phải mọc,
Sương phải rơi lung linh.
Lần nữa, lại lần nữa
Làm công việc của mình.

Lần nữa, lại lần nữa
Suối phải chảy suốt ngày.
Lần nữa, lại lần nữa
Cối xay gió phải quay.

Làm một lần chưa đủ,
Làm hết sức, hết lòng.
Thất bại, làm lần nữa,
Sẽ có lúc thành công.

Đường đã đi, dẫu khó,
Sẽ thành đường dễ đi.
Khó khăn cũ từng gặp,
Gặp lại - chẳng hề gì.       

Không sao nếu phải khóc,
Hoặc trái tim buồn phiền.
Ta cũng cần giông tố
Để có được bình yên.     

OVER AND OVER AGAIN

OVER and over again,
No matter which way I turn,
I always find in the book of life,
Some lesson I have to learn.

I must take my turn at the mill,
I must grind out the golden grain,
I must work out. my task with a resolute will,
Over and over again.

We cannot measure the need
Of even the tiniest flower,
Nor check the flow of the golden sands
That run through a single hour; 

But the morning dews must fall,
And the sun and the summer rain
Must do their part, and perform it all
Over and over again.

Over and over again
The brook through the meadow flows,
And over and over again
The ponderous mill-wheel goes.       

Once doing will not suffice,
Though doing be not in vain ;
And a blessing failing us once or twice,
May come if we try again.

The path that has once been trod,
Is never so rough to the feet ;
And the lesson we once have learned,
Is never so hard to repeat.

Though sorrowful tears must fall,
And the heart to its depths be driven
With storm and tempest, we need them all
To render us meet for Heaven.


ƯỚC MƠ
      Langston Hughes

Hãy sưởi ấm ước mơ -
Vì khi ước mơ nguội lạnh,
Đời như con chim gãy cánh,
Sẽ không còn bay.

Hãy nâng niu ước mơ -
Vì khi ước mơ chết,
Đời như cánh đồng giá rét
Phủ đầy tuyết băng.

                                       
DREAMS

Hold fast to dreams
For if dreams die
Life is a broken-winged bird
That cannot fly.

Hold fast to dreams
For when dreams go
Life is a barren field
Frozen with snow.


GIÓ
      Robert Stevenson

Em thấy gió đẩy cánh diều bay nhanh,
Nâng đàn chim chao lượn giữa trời xanh.
Đâu cũng nghe tiếng thì thầm của gió,
Như tiếng váy lướt nhanh qua bãi cỏ.

Ôi ngọn gió, ngọn gió thổi đêm ngày,
Thổi và hát, hát một mình mê say.

Em nghe gió, biết gió thổi qua đầu,
Thế mà em không thấy gió ở đâu.
Gió gây nên bao điều trên trái đất,
Bản thân gió lại luôn luôn giấu mặt.

Ôi ngọn gió, ngọn gió thổi đêm ngày,
Thổi và hát, hát một mình mê say.

Rét và lạnh, gió thổi suốt ngày đêm.
Gió đã già hay còn bé như em?
Bẻ, phá cây, gió phải chăng là quỉ,
Hay đứa trẻ, lớn hơn em một tí?

Ôi ngọn gió, ngọn gió thổi đêm ngày,
Thổi và hát, hát một mình mê say.


THE WIND

I saw you toss the kites on high,
And blow the birds about the sky;
And all around I heard you pass
Like ladies' skirts across the grass-

O wind ablowing all day long,
O wind that sings so loud a song!

I saw the different things you did
But always you yourself you hid.
I felt you push I heard you call,
I could not see yourself at all.

O wind ablowing all day long,
O wind that sings so loud a song!

O you that are so strong and cold,
O blower are you young or old?
Are you a beast of field and tree,
Or just a stronger child than me?

O wind ablowing all day long,
O wind that sings so loud a song!


Ở ĐỜI NÀY
      Alice Williams

Ở đời này tôi sống,
Tôi quen biết khá nhiều.
Người thì xây nhà cửa,
Người viết thơ tình yêu.

Tất cả họ thành đạt,
Đơn giản nhờ thế này:
Để khỏi buồn vớ vẩn,
Họ làm việc luôn tay.     

A GOOD MANY WORKERS

A good many workers
   I've known in my time
Some builders of houses,
   Some builders of rhyme;         

And they that were prospered,
   Were prospered, I know,
By the intent and meaning of
   “Hoe your own row!”


TỪNG TÍ MỘT

“Từng tí một, từng tí một, chậm thôi,”
Hạt sồi nói khi rơi xuống. “Nhưng tôi         
Dưới lá mục đã thành phân, rất tốt,
Tôi cứ ấm dần thêm từng tí một.        

Từng tí một, ngày mỗi ngày lớn thêm,
Từng tí một, tôi uống no sương đêm,
Tôi mọc rễ, mong manh như sợi chỉ,
Và đã nhú một mầm xanh, bé tí.

Ngày tiếp ngày, rồi năm lại tiếp năm,
Từng tí một, tôi mọc lá, nhú mầm,
Từ chiếc lá thành cành non mảnh dẻ
Và cuối cùng là cây sồi to khỏe.”

“Từng tí một,” có cậu bé thông minh
Nghĩ: “Tất nhiên, mình cũng thế, và mình
Cứ mỗi ngày sẽ học thêm một tí,        
Học và chơi, chơi ít thôi, và nghỉ.       

Mình vừa học, vừa ghi nhớ điều này:
Đã làm gì phải làm tốt, làm ngay!
Từng tí một, cứ học dần, học mãi      
Các kiến thức trong kho tàng nhân loại.

Và hy vọng sẽ có ngày, gần thôi,
Thế giới này tốt đẹp hơn với tôi.”
Anh bạn này nghĩ rõ ràng, đơn giản,
Nhưng rất đúng, có phải không, các bạn?             


LITTLE BY LITTLE    

“Little by little," an acorn said
As it slowly sank in its mossy bed.
“I am improving every day,
Hidden deep in the earth away.”

Little by little, each day it grew,
Little by little, it sipped the dew ;
Downward it sent out a thread-like root,
Up in the air sprung a tiny shoot.

Day after day, and year after year,
Little by little, the leaves appear,
And the slender branches spread far and wide,
Till the mighty oak is the forest's pride.

"Little by little," said a thoughtful boy,
“Moment by moment I'll well employ;
Learning a little every day,
And not spending all my time in play;

And still this rule in my mind shall dwell
' Whatever I do, I'll do it well.’
"Little by little, I'll learn to know
The treasured wisdom of long ago,

And one of these days perhaps we'll see
That the world will be the better for me."
And do you not think that this simple plan
Made him a wise and useful man ?                    


BẦY QUẠ
      Jane Euphemia Browne

Bầy quạ đen làm tổ tít trên cây
Mỗi mùa xuân, khi tiết trời dịu mát.
Chúng đua nhau kêu quạ quạ suốt ngày
Vì quả thật không con nào biết hát.

Chúng tỉnh dậy ngay từ lúc bình minh
Và bận bịu cho đến khi trời tối.
Vì tự chúng phải xây tổ cho mình,
Và làm việc, làm không hề mệt mỏi.  

Chúng tha nhặt nhiều, rất nhiều lá khô,
Cũng không ít những cành cây bé nhỏ
Nhặt cả rêu, rác rưởi, cả phân bò
Cho đến khi dần dần thành chiếc tổ.

Quạ, quạ, quạ - chúng kêu đến nhức đầu,
Giữa một ngày mưa đang rơi lặng lẽ.
Trẻ vâng lời, khi nói chẳng tranh nhau,
Nhưng bầy quạ cứ đồng thanh kêu thế.

THE ROOKS
 
The rooks are building on the trees;
They build there every spring:
"Caw, caw," is all they say,
For none of them can sing.

They're up before the break of day,
And up till late at night;
For they must labour busily
As long as it is light

And many a crooked stick they bring,
And many a slender twig,
And many a tuft of moss, until
Their nests are round and big  

"Caw, caw." Oh, what a noise
They make in rainy weather!
Good children always speak by turns,
But rooks all talk together.       


CÁI BÓNG CỦA TÔI
    Robert Louis Stevenson

Cái bóng của tôi theo tôi đi khắp nơi.
Dai dẳng bám theo, một phút cũng không rời.                 
Hai đứa giống nhau từ đầu cho đến gót.
Tôi nhảy lên giường, nó cũng làm theo nốt.

Thú vị nhất là, nó lớn nhanh, thật hay,
Không giống trẻ con, lớn rất chậm hàng ngày.
Quả thật đôi khi nó cao như cột gỗ,
Nhưng cũng có khi bé con như chẳng có.

Nó chẳng biết chơi các trò chơi trẻ con,
Thường hay bắt tôi cảm thấy ngượng và buồn.
Nó bám theo tôi như trẻ con bám mẹ.
Tôi nghĩ là hèn, là đáng khinh mới thế.

Và rồi, một hôm, chưa hé rạng bình minh,
Tôi dậy, ra ngoài, sương còn treo lung linh,
Tôi chạy, tôi chơi, mà bóng tôi lúc đó
Vẫn nằm trong chăn, ngủ say như khúc gỗ.

MY SHADOW
 
I have a little shadow that goes in and out with me,
And what can be the use of him is more than I can see.
He is very, very like me from the heels up to the head;
And I see him jump before me, when I jump into my bed.    

The funniest things about him is the way he likes to grow-
Not at all like proper children, which is always very slow;
For he sometimes shoots up taller like an India rubber ball,
And he sometimes gets so little that there's none of him at all.                                                                                       

He hasn't got a notion of how children ought to play,
And can only make a fool of me in every sort of way.
He stays so close beside me, he's a coward you can see;
I'd think shame to stick to nursie as that shadow sticks to me!                                                                                        

One morning, very early, before the sun was up,
I rose and found the shining dew on every buttercup;
But my lazy little shadow, like an arrant sleepy-head,
Had stayed at home behind me and was fast asleep in bed.  


THẾ GIỚI LỘN PHÈO
      William Brighty Rands

Nếu Cú Mèo tán Nhím,
Bướm vàng tán con Ong,
Ba nhân một thành chín,
Nhà thờ xây trên sông;

Nếu Ngựa cưỡi ông chủ,
Bông hoa ăn thịt Bò:
Nếu con Mèo to lớn
Thấy Chuột, sợ và lo;

Nếu vì nửa đồng bạc
Mẹ bán đứa con yêu,
Đàn ông thành phụ nữ
Thì thế giới lộn phèo

Một trong những điều ấy
Nếu có ngày xẩy ra,
Mà tôi không thấy lạ,
Thì tôi là... tôi là...                             

TOPSY-TURRVY WORLD
 
If the butterfly courted the bee,
And the owl the porcupine;
If the churches were built in the sea,
And three times one was nine;

If the pony rode his master,
If the buttercups ate the cows,
If the cat had the dire disaster
To be worried, sir, by the mouse;

If mamma, sir, sold the baby
To a gypsy for half-a-crown;
If a gentleman, sir, was a lady-
The world would be Upside Down! 

If any or all of these wonders
Should ever come about,
I should not consider them blunders,
For I should be Inside Out!


CHẠY VÀ NGÃ

Suốt ngày chạy và ngã,
Ngã và nhảy suốt ngày,
Đến khi mặt trời lặn,
Hết cái trò chơi này.

Sau đó thì sao nhỉ?
Thì là - chuyện bình thường:
Vì suốt ngày chạy, ngã               
Đêm mệt, ngã xuống giường.

TUMBLING
 
In jumping and tumbling
We spend the whole day,
Till night by arriving
Has finished our play

What then? One and all,
There's no more to be said,
As we tumbled all day,
So we tumble to bed.    
                                                                               

CÁI GÌ MÀU GÌ?
      Christina Rossetti

Cái gì màu hồng? Bông hồng màu hồng.
Nó mọc bên sông.
Cái gì màu đỏ? Anh túc màu đỏ.
Ngoài đồng lộng gió.

Cái gì màu xanh? Bầu trời màu xanh.
Mây bay hiền lành.
Cái gì màu trắng? Thiên nga màu trắng,
Giữa hồ đầy nắng.

Cái gì màu vàng? Quả lê màu vàng.
Ngon và mỡ màng.
Cái gì xanh mướt? Cỏ non xanh mướt,
Điểm hoa sương ướt.

Cái gì màu tím? Đám mây màu tím
Giữa hoàng hôn tím.
Còn màu da cam? Thì là quả cam.
Tất nhiên quả cam.        

WHAT IS PINK?
 
What is pink? A rose is pink
By the fountain's brink.
What is red? A poppy's red
In its barley bed. 

What is blue? The sky is blue
Where the clouds float through.
What is white? A swan is white
Sailing in the light.

What is yellow? Pears are yellow,
Rich and ripe and mellow.
What is green? The grass is green,
With small flowers between.   

What is violet? Clouds are violet
In the summer twilight.
What is orange? Why, an orange,
Just an orange!


CÁI GÌ NẶNG?
      Christina Rossetti

Cái gì nặng?
Nỗi buồn và đất.
Cái gì sâu?
Đại dương và sự thật.
Cái gì ngắn?
Hôm nay, ngày mai và hôm qua.
Cái gì mong manh, dễ vỡ?
Tuổi trẻ và bông hoa.
                                                                              
WHAT ARE HEAVY?
    
What are heavy? Sea-sand and sorrow;
What are brief? Today and tomorrow;
What are frail? Spring blossoms and youth;
What are deep? The ocean and truth.


KHI LỚN LÊN
      Robert Stevenson      

Khi lớn lên và trở thành người lớn,
Tớ là người rất nghiêm và dữ tợn.
Tớ sẽ bảo bọn bạn tớ thế này:
“Không được nghịch đồ chơi tớ hôm nay!”

LOOKING FORWARD
    
When I am grown to man's estate
I shall be very proud and great,
And tell the other girls and boy
Not to meddle with my toys.   


MẸ TÔI
      Ann Taylor               

Ai nuôi tôi bằng chính dòng sữa mẹ,
Ru tôi ngủ bằng lời ru khe khẽ,
Và thường xuyên hôn tôi âu yếm thế?
Mẹ tôi.

Ai hát ru những bài hát dịu dàng
Khi mắt tôi đang buồn ngủ, mơ màng
Và đưa nôi rất kiên nhẫn, nhịp nhàng?
Mẹ tôi.        

Ai thay áo cho búp-bê thêm đẹp,
Dạy tôi chơi các trò chơi được phép,
Dạy tôi nói lời hay khi giao tiếp?
Mẹ tôi..

Ai âu yếm đỡ tôi dậy mỗi lần
Khi chơi đùa tôi trượt ngã ngoài sân,
Rồi kể chuyện, rồi giảng giải ân cần?
Mẹ tôi.        

Với một người tốt và yêu tôi thế,
Luôn dạy tôi những điều hay, đẹp đẽ,
Làm sao tôi có ngày thôi yêu mẹ,
Mẹ tôi?       

Người mẹ ấy sẽ có lúc yếu, già,
Cánh tay tôi khỏe mạnh sẽ nâng bà,
Làm vợi dần những đau đớn, xót xa,
Mẹ tôi.

Sẽ đến lượt tay tôi ôm đầu mẹ,
Ngồi bên giường, nói dịu dàng, khe khẽ,
Để nước mắt tình thương rơi lặng lẽ...
Mẹ tôi.


MY MOTHER
     
Who fed me from her gentle breast,
And hushed me in her arms to rest,
And on my cheek sweet kisses prest?
My Mother.
 
When sleep forsook my open eye,
Who was it sung sweet hushaby,
And rocked me that I should not cry?
My Mother.                  

Who dressed my doll in clothes so gay,
And fondly taught me how to play,
And minded all I had to say?
My Mother.
 
Who ran to help me when I fell,
And would some pretty story tell,
Or kiss the place to make it well?
My Mother.        

And can I ever cease to be
Affectionate and kind to thee,
Who was so very kind to me,
My Mother?
 
When thou art feeble, old, and grey,
My healthy arm shall be thy stay,
And I will soothe thy pains away,
My Mother.
                                                             
And when I see thee hang thy head,
'Twill be my turn to watch thy bed,
And tears of sweet affection shed,
My Mother.                                                                  
                                  

SUỐT ĐÊM DÀI, SUỐT ĐÊM

Hãy ngủ yên, nào con yêu, hãy ngủ,
Suốt đêm dài, suốt đêm.
Các thiên thần luôn bên con chăm chú,
Suốt đêm dài, suốt đêm. 

Đã đến giờ bóng đêm đè lên mắt,
Núi và sông trong giấc ngủ êm đềm,
Mẹ đưa con vào giấc mơ đẹp nhất,
Suốt đêm dài, suốt đêm.

Kia, mặt trăng vẫn không ngừng tỏa sáng
Suốt đêm dài, suốt đêm,
Để thế giới ngủ say, không mê sảng
Suốt đêm dài, suốt đêm. 

Hãy ngủ yên, nào con yêu, hãy ngủ,
Suốt đêm dài, suốt đêm.
Các thiên thần luôn bên con chăm chú,
Suốt đêm dài, suốt đêm.


ALL THROUGH THE NIGHT       

Sleep my child and peace attend thee,
All through the night.
Guardian angels God will send thee,
All through the night;   

Soft and drowsy hours are creeping,
Hill and vale in slumber sleeping,
I my loved one's watch am keeping,
All through the night.

While the moon, her watch is keeping,
All through the night,
While the weary world is sleeping,
All through the night.

Sleep my child and peace attend thee,
All through the night.
Guardian angels God will send thee,
All through the night;


CHUYỆN CẬU PHILIP HƯ
        Heinrich Hoffman

“Nào, để xem Philip
Có chịu vui lòng
Làm người lịch sự,
Chịu ngồi yên bên bàn ăn hay không!”

Bố nhìn cậu con, nói thế,
Cùng cái nhìn rất nghiêm của mẹ.

Còn Philip thì cười,
Ngoẹo cổ, vặn người,
Không chịu ngồi yên dù một chốc.
Và rồi chuyện thế này, thưa bạn đọc:

Chiếc ghế cậu đang ngồi
Cậu hết đẩy, lại lôi,
Xô ngang, lắc ngửa,
Hệt như đang cưỡi ngựa.
“Nào, Philip!
Bố không thể chịu thêm được nữa!”

Gì buồn hơn khi con hư,
Mà ngày càng hư mới tệ.
Cậu Philip cứ nghịch, xoay chiếc ghế,
Cho đến khi nó lật nào,
Còn cậu thì to mồm kêu, gào.

Khăn trải bàn đổ theo cùng chiếc ghế
Và kéo rơi luôn thể,
Rơi lên đầu cậu Philip không ngoan,
Hết mọi thứ trên bàn.     

Thật khủng khiếp: Đĩa, bát,
Cốc và chén vỡ nát.
Dao văng kia, thìa nằm đây -
Vì Philip mà thế này!

Bàn trống không. Thế đấy!
Bố và mẹ chau mày
Rồi thở dài, tự hỏi:
Giờ lấy gì ăn đây?          

THE STORY OF FIDGETY PHILIP

"Let me see if Philip can
Be a little gentleman;
Let me see if he is able
To sit still for once at table:"

Thus Papa bade Phil behave;
And Mamma looked very grave.     

But fidgety Phil,
He won't sit still;
He wriggles,
And giggles,
And then, I declare,
Swings backwards and forwards,
And tilts up his chair,
Just like any rocking-horse-
"Philip! I am getting cross!

See the naughty, restless child
Growing still more rude and wild,
Till his chair falls over quite.
Philip screams with all his might,

Catches at the cloth, but then
That makes matters worse again.
Down upon the ground they fall,
Glasses, plates, knives, forks, and all.
                                                            
What a terrible to-do!
Dishes, glasses, snapped in two!
Here a knife, and there a fork!
Philip, this is cruel work.         

Table all so bare, and ah!
Poor Papa, and poor Mamma
Look quire cross, and wonder how
They shall have their dinner now.


CON CHIM HOÀNG YẾN CỦA MARY
       Elizabeth Turner

Mary có con chim yến
Lông sáng và màu vàng tươi,
Đôi chân xinh xinh, mảnh dẻ -
Quả đúng người bạn tuyệt vời.

Líu lo suốt ngày chim yến,
Mary rất thích, và thường
Ngồi bên lồng nghe chim hót
Thật hay và thật dễ thương.

Em mang hạt vừng, vụn bánh
Cho bạn mình ăn hàng ngày,
Còn trang hoàng lồng thêm đẹp
Bằng hoa và bằng lá cây.         

Các bạn của tôi, thế đấy,
Học đây bài học làm người,
Rằng quí nhất trong tình bạn
Là bài hát và nụ cười.

THE CANARY

Mary had a little bird,
With feathers bright and yellow,
Slender legs-upon my word,
He was a pretty fellow! 

Sweetest notes he always sung,
Which much delighted Mary;
Often where his cage was hung,
She sat to hear Canary.

Crumbs of bread and dainty seeds
She carried to him daily,
Seeking for the early weeds,
She decked his palace gaily.

This, my little readers, learn,
And ever practice duly;
Songs and smiles of love return
To friends who love you truly.


CHUYỆN PHIÊU LƯU BUỒN CƯỜI
CỦA BÀ HUBBARD VÀ CON CHÓ CỦA BÀ
      Sarah Catherine Marine

Một bà tên Hubbard,
Đi tới chạn để bát
Cho chó khúc xương gầu,
Nhưng khi bà mở chạn                                         
Thì bên trong, thật chán,
Chẳng thấy con chó đâu.

Bà sang ông hàng bánh
Mua cho nó bánh bao,
Nhưng quay về đã thấy
Chó chết từ lúc nào.

Bà tìm ông thợ mộc
Mua cho nó quan tài,
Lúc trở về, bà thấy
Nó cười, vẩy hai tai.

Bà lấy chiếc đĩa sạch,
Định cho nó khúc dồi
Quay ra đã thấy nó
Ngậm chiếc tẩu trên môi.

Bà lại đi ra chợ
Mua cho nó trái cây,
Khi về thì thấy nó
Đang thổi sáo rất hay.

Bà tới hiệu quần áo
Mua cho nó tạp dề,
Lúc quay lại thì thấy
Nó đang cưỡi con dê.     

Bà tới cửa hàng mũ
Mua cho nó chiếc khăn,
Quay về nhà thì thấy
Nó đang cho mèo ăn.

Bà tới hàng giày dép
Mua cho nó đôi giày,
Lúc quay về, chợt thấy
Nó đọc “Tin Hàng Ngày”.

Bà cúi chào con chó.
Con chó cũng nghiêng đầu.
Bào nói: “Mày, thật láo!”
Con chó đáp: “Gâu, gâu!”      


THE COMIC ADVENTURES OF
OLD MOTHER HUBBARD AND HER DOG      
 
Old Mother Hubbard
Went to the cupboard,
To give the poor dog a bone;
When she came there
The cupboard was bare,
And so the poor dog had none.

She went to the baker's
To buy him some bread;
When she came back
The dog was dead.

She went to the undertaker's
To buy him a coffin;
When she came back
The dog was laughing

She took a clean dish
To get him some tripe;
When she came back
He was smoking a pipe 

She went to the fruiterer's
To buy him some fruit;
When she came back
He was playing the flute

She went to the tailor's
To buy him a coat;
When she came back
He was riding a goat

She went to the hatter's
To buy him a hat;
When she came back
He was feeding the cat

She went to the barber's
To buy him a wig;
When she came back
He was dancing a jig.

She went to the cobbler's
To buy him some shoes;
When she came back
He was reading the news.

The dame made a curtsy,
The dog made made a bow;
The dame said, "Your servant,"
The dog said, "Bow-wow."    

         
                             
THƠ CHÂM NGÔN

1.
Ta đối xử với bạn thế nào.
Bạn đối xử với ta thế ấy.
Tốt, trung thực, hiền lành và ngoan -
Trẻ phải luôn là người như vậy.        
                     
To do to others as I would
That they should do to me,
Will make me honest, kind, and good,
As children ought to be.
           
2
Trái tim tốt là vườn.
Ý nghĩ tốt - rễ, lá.
Lời nói tốt là hoa.
Việc làm tốt là quả.

Kind hearts are gardens,
Kind thoughts are roots,
Kind words are blossoms,
Kind deeds are fruits.
Cowper

3
Dù chúng ta làm gì đi nữa,
Cả ở trường hay ở nhà, làm ngay!
Mà đã làm thì phải làm hết sức -
Không cách nào tốt hơn cách này.

No matter what you try to do
At home or at your school,
Always do your very best,
There is no better rule. 
Wlliam Rand

4
Nếu anh muốn thành thông minh khi nói,
Năm lời khuyên phải nhớ kỹ trong đầu:
Anh đang nói với ai, và về ai - chưa hết,
Nói thế nào, lúc nào, và ở đâu.

If wisdom's ways you wisely seek,
Five things observe with care :
Of whom you speak, to whom you speak,
And how, and when, and where.

5
Cuộc đời này cũng không tệ lắm đâu,
Như một số người kêu khổ.
Đời thực ra tốt hay xấu - điều này
Còn tùy chúng ta nhìn nó.

This world is not so bad a world
As some would like to make it;
Though whether good or whether bad,
Depends on how we take it.
Beck
       
6
Đời không đo bằng niềm vui, đau khổ.
       Cuộc đời ý nghĩa khi ta
Luôn hành động để ngày mai có thể
       Sống tốt hơn hôm qua.          
                   
Not enjoyment, and not sorrow,
Is our destined end and way ;
But to act that each to-morrow
Find us nobler than today.
Henry Longfellow
       
7
Chiến công người vĩ đại
Nhắc ta sống làm người,
Để dấu chân in lại
Trên bãi cát biển đời.     

Lives of great men all remind us
We can make our lives sublime,
And, departing, leave behind us
Footprints on the sands of time.      
Henry Longfellow                     

8
Làm việc gì thì phải làm hết sức.
Làm nửa vời - coi như thua, bất lực

WHATEVER you do, do with your might,
Things done by halves are never done right..
Mary Williams

9
Lời nói luôn có cánh
Bay đâu không do ta.

Our words have wings,
Fly not where we would.
George Eliot

10
Ai nỡ hại bạn mình,
Tức là hại chính mình.
               
He that wrongs his friend,
Wrongs himself more.
Robert Tennyson            

11
Đời không thật quá ngắn
Để chúng ta vội vàng
Khi cư xử với bạn,
Không nói lời dịu dàng.

Life is not so short,
There is always time for courtesy.   
Emerson

12
Ai là người trung thực
Đều cao quí xưa nay.
Tiền bạc và dòng dõi
Không liên quan điều này

He who is honest is noble,
Whatsoever his fortunes or birth.
Alice Gary

13
Chỉ có thời tiết tốt.
Không có thời tiết tồi.
Chỉ tốt nhiều, tốt ít.
Chỉ đơn giản thế thôi.     

There is no such thing as bad weather,
only different kinds of good weather.        
Ruskin

14
Sự giúp đỡ khi cần, dù bé,
Về thực chất, lớn ngang trời bể.

A gift in need, though small indeed,
Is large as earth and rich as heaven.
Whitter                           

15
Xin hãy nhớ: Lao động
Luôn mang lại niềm vui.
Ai biết yêu công việc,
Sẽ hạnh phúc suốt đời.

Pleasure comes through toil ;
when one gets to love his
work, his life is a happy one.  
Ruskin         

16
Quan trọng không ở chỗ
Giành được ít hay nhiều.
Mà ở chỗ làm việc
Hết sáng lại đến chiều.   

Good lieth not in pursuing,
Nor gaining of great, nor of small,
But just in the doing and doing
As we would be done by, is all.
Alice Gary  

17
Cứ làm rồi sẽ biết
Sai và đúng thế nào.
Anh nhận xét người khác,
Người khác tha anh sao?

Do not look for wrong and evil
You will find them if you do;
As you measure for your neighbor
He will measure back to you.
Alice Gary

18
Mỗi việc làm tốt đẹp
Hay ý nghĩ chân thành
Luôn để lại cái đẹp
Trên khuôn mặt của anh.                                        

Every right action and true thought sets the seal of its
beauty on person and face.
Ruskin

19
Luôn có sông để vượt,
Luôn có việc để làm,
Nhưng việc ấy phải tốt
Và đáng để ta làm.         

There's always a river to cross,
Always an effort to make,
If there's anything good to win,
Any rich prize to take.  
Cumberland

20
Cái gì làm một khuôn mặt bình thường
Trở thành đẹp, nhân từ và cao quí?
Là cảm giác mình sống tốt trong đời,
Chứ không phải tìm niềm vui ích kỷ.
                                    
What is it that gives to the plainest face
The charm of the noblest beauty?
Not the thought of the duty of happiness,
But the happiness of duty!
Celia Thaxter

21
Từng tí một, từng tí một, chúng ta
Làm đời mình sung sướng hoặc xót xa.
       Khi mỗi ngày trôi đi
Nghĩa là ta đang đến gần hạnh phúc
Theo chiếc thang lên trên ấy, thiên đường,
Hoặc ngược lại, đang rơi vào địa ngục,
       Khi mỗi ngày trôi đi.

Little by little, sure and slow,
We fashion our future bliss or woe,
As the present passes away.
Our feet are climbing the stairway bright,
Up to the region of endless light,
Or gliding downward into the night;
Little by little, and day by day.
Anonymous            

22
Hãy trung thực với lương tâm, bè bạn.
Nuôi niềm tin và hy vọng trong lòng,
Anh sẽ tin vào quãng đời còn lại,
Khi việc mình, việc tốt, đã làm xong.
       
To conscience be true, and to man true,
Keep faith, hope, and love in your breast,
And when you have done all you can do,
Why, you may trust for the rest.
Alice Gary

23
Sẽ có ngày người gieo trồng được gặt
       Những gì mình đã gieo.
Vậy cẩn thận khi chọn cây, chọn đất,
       Để không phải khóc nhiều
Khi thu hoạch những điều oan trái nhất.     

Every sower must some day reap
Fruits from the seed he has sown;
How carefully then it becomes us to keep
A watchful eye on the seed, and seek
That we may not weep to receive our own.        
       


THƠ VỀ THẦY CÔ VÀ BẠN BÈ

CẢM ƠN THẦY                                                

Niên học sắp kết thúc,
Cái khó là thế này:
Em vừa mong hè đến,
Vừa không muốn xa thầy.        

Không phải vì giờ nghỉ,
Giờ chơi với bạn bè,
Vì nhớ thầy, đôi lúc
Em không mong mùa hè.                   

THANK YOU, TEACHER

It's the end of the year,
And I thought you should know
A part of me can't wait until summer
And a part doesn't want to go.

It's not recess or lunchtime
Or even time with my friends
It's because I will miss you
That I don't want the year to end.


VÌ SAO CHÚA TẠO RA THẦY VÀ CÔ GIÁO
      Kevin William Huff

Tạo ra thầy, cô giáo,
Đức Chúa muốn chúng ta
Có người dạy để hiểu
Thế giới Ngài bao la,

Để giúp ta nhìn thấy
Cái tốt đẹp, cái hay
Trở thành người hữu ích
Qua khám phá hàng ngày.

Chúa tạo thầy, cô giáo,
Cho ta người dẫn đường,
Giúp ta lớn, giải quyết
Các vấn đề đời thường.  

Thầy cô dạy cách sống,
Cái đúng và cái sai,
Để ta tự đứng vững
Học và làm lâu dài.

Chúa nhân từ, thông thái
Tạo ra thầy và cô
Để ta làm thế giới
Hạnh phúc và tự do.

WHY GOD MADE TEACHERS

When God created teachers,
He gave us special friends
To help us understand His world
And truly comprehend

The beauty and the wonder
Of everything we see,
And become a better person
With each discovery.     

When God created teachers,
He gave us special guides
To show us ways in which to grow
So we can all decide

How to live and how to do
What's right instead of wrong,
To lead us so that we can lead
And learn how to be strong.

Why God created teachers,
In His wisdom and His grace,
Was to help us learn to make our world
A better, wiser place.


NÓI VỚI HỌC SINH GIỜ CHIA TAY       

Thầy vui mừng được làm thầy các em,
Và rồi quen, rồi dần dần yêu mến.
Thế mà giờ đã đến lúc chia tay,
Thật không dễ giờ phút này đưa tiễn.

Hãy nhớ lại các trò vui của ta,
Những việc làm mà chúng ta đã biết,
Nhưng quan trọng, quan trọng nhất điều này,
Rằng các em là những người đặc biệt.

TO MY CLASS

I'm glad I was your teacher
I've come to love you so.
I can't believe the end is here.
I hate to see you go.

Remember all the fun we had
In all the things we did,
But, most of all remember...
You're a very special kid!       


TẶNG BẠN LÊN ĐƯỜNG ĐI HỌC ĐẠI HỌC

Vậy là bạn đã trưởng thành, đến lúc
Bạn ra đi, bỏ tinh nghịch nhiều trò,
Nhà, trường học và vòng tay bố mẹ.  
Từ bây giờ, tự mình sống, mình lo.

Khi đã thấy mục tiêu mình muốn đạt,
Hãy chuyên tâm, chăm chỉ học đêm ngày.
Hãy mở lối cho mình đi, khám phá,
Tìm cho mình điều kỳ diệu, điều hay.

Và để đạt ước mơ đầy cám dỗ,
Tìm thuyền vững, vì biển đấy sóng gió.

TO MY FRIEND

In daily life as all grown up
And on your own you leave,
Home and school and parent’s arms,
Now by yourself - achieve.

And when you have your sights all set,
Apply your new found mind…
Try to make your way and let,
The wonders that you find…

Keep you on an even keel,
On the ladder you must climb.         


CÔ GIÁO EM

Cô giáo em phải làm việc luôn tay
Nào đổ bô, nào thay tã, thay giày.
Cô âu yếm, dịu dàng - trong nhà trẻ
Cô thực sự là người thay thế mẹ.
              
Cô hát ru cho những đứa khóc nhè.
Cô bảo ban những đứa nghịch, vụng về.
Nghe tiếng khóc, không chau mày, bực bội;
Dỗ những đứa ngã sướt da, sầy gối.  

Với nhiều đứa, cô chơi trò ú tim,
Mà bọn lớn gọi là trò trốn tìm.
Dù rất giỏi trong mọi trò, tuy thế,
Cũng có lúc cô thua như bọn trẻ.
                                                     
Cô dạy trẻ học chữ cái, đánh vần,
Thỉnh thoảng ngừng, ru dỗ chúng, vân vân.
Cô không chỉ là cô, mà là bạn,
Cùng chúng em học và chơi không chán.

Cô, nghe nói, được nhà nước trả tiền,
Nhưng quả đúng cô là người mẹ hiền.                   


MY TEACHER

A substitute for working moms,
She comforts, pampers, soothes and calms.
With all the love she has to share,
She's great to have when mom's not there.

She loves to rock a fussy child,
Corrects the one who gets too wild.
She hears her share of tearful pleas,
And comforts those with skinned up knees.

With little children she plays a peek,
For bigger ones it's hide-and-seek.
She is an expert at each game,
But somehow loses just the same.

She helps them learn the alphabet,
And gives them hugs when they're upset.
She is a true and trusted friend,
Who helps them learn and play pretend.

Although she's paid, it's plain to see,
She serves them with a love that's free.


CẢM ƠN CÔ

Dạ thưa cô, em muốn nói điều này,
Rằng với em, cô là người đặc biệt.
Rằng thật vui khi được học lớp cô,
Đến giờ học hết lúc nào không biết.   

Cảm ơn cô vì cô đã giúp em
Học và biết điều thông minh, đẹp đẽ.
Em sẽ luôn, luôn nhớ cô sau này,
Khi em lớn, dù ở đâu cũng thế.

Em nhớ cô, vì cô đã dạy em,
Vì với em, cô là người thân thiết.
Giờ em buồn vì sắp phải chia tay
Một cô giáo, một con người đặc biệt.

THANK YOU, TEACHER

You are my special teacher
I just want you to know
I always had fun in your class
How the time has flown!         

Thank you for helping me
To learn all that I know
I will always remember you
Even when I'm grown! 

I'll miss you being my teacher
I know the reason why
I am feeling very sad
Because it's time to say goodbye.


CẢM ƠN THẦY
      Maryam Mashhadi   

Cảm ơn thầy, vì có thầy bên cạnh,
Khi mỗi lần em ngã, lại chìa tay.
Cảm ơn thầy vì thầy nghe chăm chú
Mỗi khi em có chuyện muốn thưa thầy.

Thầy thực sự thương yêu em, em biết,
Khi xung quanh không ai muốn đoái hoài.
Trái tim em đầy niềm vui, hy vọng,
Khi được thầy dìu dắt, hướng tương lai.      

Em tự hỏi, không có thầy, không hiểu
Cuộc đời mình sẽ đơn độc ra sao.      
Vâng, quả thật không đủ lời để nói
Thầy với em quan trọng đến mức nào.

THANH YOU, MY TEACHER

Thank you, my teacher, for being there
At times when skies were gray
Thank you, my teacher, for lending an ear
When I had things to say.

You showered love on me lavishly
When no one seemed to care
You brought me joys untold
To fill my heart with moments of gold.

I would have felt isolated and lonely
If you had not been there
I lack the words to let you know
How much you mean to me.  


HAPPY BIRTHDAY TO YOU!

Hãy cầu xin một điều nhân sinh nhật,
Hãy mơ ước những gì cao đẹp nhất.  
Nào, cầm tay, hãy nhảy, hát vang nhà,
Cũng đừng quên thỉnh thoảng ngửi mùi hoa.

Hãy chia sẻ tình yêu và chiếc bánh.
Hãy cảm ơn ngôi sao xanh lấp lánh
Trên đầu anh, luôn xua hết sương mù.
Birthday! Happy Birthday to You!     

HAPPY BIRTHDAY TO YOU!

Make a wish and give it wings.
Dreams of bright and beautiful things.
Dance through all the fun filled hours.
Don't forget to smell the flowers.     

Share some love and birthday cake.
All life joys are yours to take.
And when evening comes to view.
Thanks your lucky stars you're you.
Happy Birthday to you!


CHÚC MỪNG SINH NHẬT
Bản dịch một, cho cô giáo        

Kia, bình minh hé rạng,
Em muốn cô buổi sáng
Biết em, đứa học trò
Đang nghĩ gì về cô.

Hôm nay mừng sinh nhật,
Cô là người vui nhất.
Với học trò của mình,
Cô thật tốt, nhiệt tình.

Em chúc cô sáng dậy
Cùng bình minh lộng lẫy,
Vui, thật vui suốt ngày,
Mà không chỉ hôm nay.
Happy Birthday!

CHÚC MỪNG SINH NHẬT
Bản dịch hai, cho thầy giáo

Một ngày mới, kia, bình minh hé rạng,        
Ngày sinh nhật đang chờ thầy, buổi sáng    
Em rất mong nhân đặc biệt ngày này
Thầy biết em đang nghĩ gì về thầy.

Vâng, đặc biệt, đó là ngày sinh nhật,
Thầy xứng đáng, và là người vui nhất.
Với chúng em, thầy thật tốt, nhiệt tình
Trong mọi việc, mọi lời nói của mình.

Em chúc thầy sáng ngày mai tỉnh đậy
Cùng sinh nhật và bình minh lộng lẫy.
Chúc thầy vui và ngây ngất suốt ngày,
Chúc hạnh phúc, mà không chỉ ngày này.
Birthday! Happy Birthday!      


HAPPY BIRTHDAY TO TEACHER

A brand new day is dawning
And as it gets its start,
I want you know I am thinking
Of you with warmth in my heart.

I hope your birthday is special
No one deserves it more than you!
You are such a kindhearted person,
It shows in everything that you do.

So, have a perfect morning
And an even lovelier day...
May happiness surround you
Always... not just for today!   
Happy Birthday!           


THƠ ĐỀ TRÊN QUÀ TẶNG THẦY CÔ

Cảm ơn thầy (cô) đã dạy dỗ chúng em,
Giúp chúng em thành thông minh, chân thật.
Xin hãy để món quà này nhắc thầy (cô):
Với chúng em, thầy (cô) là người tốt nhất!


GIFT FOR TEACHER

For teaching children lessons,
To help them as they grow,
Let this gift remind you,
You're the best teacher we know!   


VAI TRÒ CỦA NGƯỜI THẦY
      Kevin William Huff

Thầy giúp đầu óc trẻ      
Lung linh các sắc màu.
Uốn nắn từng ý nghĩ,
Chữa ngữ pháp từng câu.

Thầy khuyến khích hiểu biết,
Sự thật, tình yêu thương.
Với trẻ, thầy - ngọn đuốc
Luôn dẫn dắt, soi đường.

Qua mỗi bài thầy dạy,
Thầy mở rộng tầm nhìn.
Qua nụ cười nhân ái,
Thầy thắp sáng niềm tin.

Các triết gia vĩ đại,
Các thi hào xưa nay
Đều bắt đầu từ việc        
Được cắp sách học thầy.

TEACHERS

Teachers paint their minds
And Guide Their Thoughts
Share their achievements
And Advise Their Faults.        

Inspire a Love
Of Knowledge And Truth
As you light the path
Which leads our youth

For our future brightens
With Each Lesson You Teach
Each smile you lengthen
Each goal you help reach       

For the dawn of each poet
Each Philosopher And King
Begins with a Teacher
And the wisdom they bring.


CON CỦA AI?

Khi nhìn thấy một đứa trẻ đang chơi,
“Đây là con của ai?” tôi hỏi.
“Con của tôi. Thằng bé này con tôi,”
Một bà mẹ khẽ mỉm cười, liền nói.
“Tôi chải tóc và rửa tay cho con,
Khuyên nó mặc cái gì thích hợp,
Để luôn luôn trông sạch sẽ, gọn gàng
Và nghiêm chỉnh học hành khi đến lớp.

Tôi lại hỏi: “Đây là con của ai?”
Khi có người đi ngang qua cánh cửa.
“Con của tôi,” một thầy giáo mỉm cười.
“Tôi giữ cháu bên mình thêm lát nữa
Để dạy cháu cách cư xử dịu dàng,
Dạy cách sống biết tuân theo kỷ luật,
Giúp cái đầu còn non nớt, thơ ngây
Biết suy nghĩ để làm điều tốt nhất.     

Tôi lại hỏi: “Đây là con của ai?”
Khi cửa mở, bước vào cô bé nhỏ
Cả thầy giáo và ông bố đáp ngay:
“Đây là con của chúng tôi!” Và họ,
Cầm tay em rất âu yếm: “Chúng tôi
Cùng thương yêu, cùng chung tay dạy nó.”

WHOSE CHILD IS THIS?

"Whose child is this?" I asked one day
Seeing a little one out at play
"Mine", said the parent with a tender smile
"Mine to keep a little while
To bathe his hands and comb his hair
To tell him what he is to wear
To prepare him that he may always be good
And each day do the things he should"

"Whose child is this?" I asked again
As the door opened and someone came in
"Mine", said the teacher with the same tender smile
"Mine, to keep just for a little while
To teach him how to be gentle and kind
To train and direct his dear little mind
To help him live by every rule
And get the best he can from school"

"Whose child is this?" I ask once more
Just as the little one entered the door
"Ours" said the parent and the teacher as they smiled
And each took the hand of the little child
"Ours to love and train together
Ours this blessed task forever."       
                                               

THƠ VUI LIMERICK CỦA EDWARD LEAR
Kiểu một dạng như thơ đồng dao của ta, quan trọng ở sự ngộ nghĩnh và vần điều chứ không phải ý nghĩa.          

1
There was a Young Lady whose nose,
Was so long that it reached to her toes;
So she hired an Old Lady,
Whose conduct was steady,
To carry that wonderful nose.

Một cô nàng, chuyện thật,
Có chiếc mũi rất dài, dài chấm đất.
Cô thuê một bà già,
Rất đoan trang, nết na
Bê chiếc mũi của cô dài chấm đất.

2
There was an Old Man in a boat,
Who said, 'I'm afloat! I'm afloat!'
When they said, 'No! you aint!'
He was ready to faint,
That unhappy Old Man in a boat.

Có ông già đi đò:
“Tôi không chìm!” Ông kêu to.
“Lát nữa ông chìm đấy!”
Một người nói. Nghe vậy,
Ông ngất luôn trên đò.   

4
There was an Old Man of Bohemia,
Whose daughter was christened Euphemia,
Till one day, to his grief,
She married a thief,
Which grieved that Old Man of Bohemia.

Xưa có người tận xứ Bohemia,
Có cô con tên Euphemia,
Thế mà con ông, thật láo,
Dám lấy một tên lừa đảo,
Làm đau lòng ông già Bohemia.

5
There was an Old Man of Coblenz,
The length of whose legs was immense;
He went with one prance
From Turkey to France,
That surprising Old Man of Coblenz.        

Một ông người Coblenz,
Chân ông dài, mà lại đen.
Ông chỉ bước một bước nhỏ
Là từ Pháp sang nước Thổ.
Thật kỳ diệu, ông già người Coblenz!

6
The was a Young Lady of Bute,
Who played on a silver-gilt flute;
She played several jigs,
To her uncle's white pigs,
That amusing Young Lady of Bute.

Một cô nàng xứ Bute,
Thổi sáo hay, tuy hơi buồn một chút.
Mấy bài liền cô thổi to
Cho bầy lợn của chú cô.
Thật buồn cười, cô nàng người xứ Bute!

7
There was a Young Lady whose chin,
Resembled the point of a pin;
So she had it made sharp,
And purchased a harp,
And played several tunes with her chin.

Một cô cằm rất nhọn,
Nhọn như chiếc kim khâu, và do thộn,
Còn mài thêm, và cô này
Mua đàn Harp, rồi suốt ngày
Chơi đàn ấy bằng chiếc cằm rất nhọn.

8
There was a Young Lady whose bonnet,
Came untied when the birds sate upon it;
But she said: 'I don't care!
All the birds in the air
Are welcome to sit on my bonnet!'  

Một nàng, người cực xấu,
Nhưng mũ đẹp, chim cứ bay đến đậu.
Cô nàng nói: “Xin mời,
Hỡi tất cả chim trời,
Cứ đến đậu, nhưng đừng chê tôi xấu.”

9
There was a Young Lady of Poole,
Whose soup was excessively cool;
So she put it to boil
By the aid of some oil,
That ingenious Young Lady of Poole.

Một cô người xứ Poole,
Xúp lạnh tanh, nhưng cô không hề buồn.
Cô nhóm bếp, bếp lạnh cóng,
Hâm lại xúp, xúp lại nóng.
Thật thông minh, cô nàng người xứ Poole!

10.
There was an Old Man of Corfu,
Who never knew what he should do;
So he rushed up and down,
Till the sun made him brown,
That bewildered Old Man of Corfu.

Có ông già người Corfu, thật hay,
Vì không biết làm gì cho hết ngày,
Nên ông cứ chạy đi, chạy lại
Dưới trời nắng chang chang, chạy mãi,
Cho đến khi da đen nhẻm, thật hay!

11
There was a Young Lady of Dorking,
Who bought a large bonnet for walking;
But its colour and size,
So bedazzled her eyes,
That she very soon went back to Dorking.

Một bà người Dorking,
Mua chiếc mũ, đi chơi xa một mình,
Nhưng mũ rộng, màu thì chói quá,    
Mũ che mắt, mắt nhìn lại lóa,
Nên bà này liền quay về Dorking.

12
There was a Young Lady of Hull,
Who was chased by a virulent bull;
But she seized on a spade,
And called out, 'Who's afraid?'
Which distracted that virulent bull.

Một nàng người xứ Hull
Bị bò đực đuổi, chạy hết hồn.  
Thế mà nàng vớ chiếc gậy
Rồi dọa bò: “Hãy đợi đấy!”
Làm chú bò cong đuôi chạy hết hồn.

13
There was an Old Man of the East,
Who gave all his children a feast;
But they all ate so much
And their conduct was such
That it killed that Old Man of the East

Có ông người phương Đông,
Bỗng một hôm làm tiệc, thết con ông.
Nhưng chúng ăn nhiều quá,
Còn làm điều bậy bạ,
Nên đã chết, ông già ấy phương Đông.

14
There was an Old Man of the North,
Who fell into a basin of broth;
But a laudable cook,
Fished him out with a hook,
Which saved that Old Man of the North.

Một ông người phương Bắc,
Không hiểu sao rơi vào nồi cháo đặc.
Anh đầu bếp vội vàng
Dùng cái muôi, nhẹ nhàng
Vớt ông lên, ông già người phương Bắc.
            
15
There was an Old Man of the West,
Who wore a pale plum-coloured vest;
When they said, 'Does it fit?'
He replied, 'Not a bit!'
That uneasy Old Man of the West.

Một ông người miền Tây,
Mặc chiếc áo màu mận chín mới may.
“Có vừa không?” khách hỏi.   
“Không, không vừa!” ông nói.
Thật khốn khổ, ông già người miền Tây.

16
There was an Old Man of the South,
Who had an immoderate mouth;
But in swallowing a dish,
That was quite full of fish,
He was choked, that Old Man of the South.

Một ông người phương Nam
Miệng cực to, lại có thói ăn tham.
Nên sơ ý đã nuốt luôn chiếc đĩa
Cùng với cá và đôi dĩa -
Thế là chết, ông già ấy phương Nam.       
            
17
There was an Old Man of Dundee,
Who frequented the top of a tree;
When disturbed by the crows,
He abruptly arose,
And exclaimed, 'I'll return to Dundee.'

Có ông già người Dundee, thật hay,
Thích leo trèo, ngồi chót vót trên cây.
Một hôm, quạ phản đối,
“Thì tớ xuống,” ông nói:
Rồi trở về xứ Dundee, thật hay.

18
There was an Old Man of Hong Kong,
Who never did anything wrong.
He lay on his back,
With his head in a sack,
That innocuous Old Man of Hong Kong.

Có ông già, người Hồng Kông thì phải,
Không bao giờ làm điều gì sai trái.
Đêm, cho đầu vào túi đay,
Ông nằm ngửa, ngủ rất say,
Cái ông ấy, người Hồng Kông thì phải.

19
There was an Old Man of Leghorn,
The smallest that ever was born;
But quickly snapped up he
Was once by a puppy,
Who devoured that Old Man of Leghorn.

Có một ông, người Leghorn,
Ông nhỏ nhất trong những người tí hon.
Một con cún thật láo,
Đớp ông ăn, cả áo.
Thế là hết ông già người Leghorn.

20
There was an Old Man of Nepaul,
From his horse had a terrible fall;
But, though split quite in two,
By some very strong glue,
They mended that Man of Nepaul.

Xưa có ông người Nepaul, thật khổ,
Đang cưỡi ngựa thì ngã quay, lộn cổ.
Người ông gãy làm đôi.
May có keo, và rồi
Gắn lại được ông Nepaul khốn khổ.

21
There was an Old Man on some rocks,
Who shut his wife up in a box;
When she said, 'Let me out!'
He exclaimed, 'Without doubt,
You will pass all your life in that box.'

Một người nọ nhà xây trên núi,
Ông đem nhốt vợ mình trong chiếc cũi.
Bà vợ kêu: “Thả ra!”
Ông kia đáp: “Ái chà,
Cứ yên tâm sống suốt đời trong cũi.”

22
There was an Old Man who said, 'How
Shall I flee from that horrible cow?
I will sit on this stile,
And continue to smile,
Which may soften the heart of that cow.' 

Một ông già than thở:
“Làm sao thoát con bò kia đáng sợ?
Hay ta cứ ngồi đây,
Nhìn nó, cười suốt ngày,
Mong làm nó hiền lành, không đáng sợ?”

23
There was an Old Man who said, 'Hush!
I perceive a young bird in this bush!'
When they said, 'Is it small?'
He replied, 'Not at all!
It is four times as big as the bush!'  

Một ông già lẩm bẩm:
“Tôi nhìn thấy con chim trong bụi rậm!”
“Chắc nó bé cỏn con?”
“Không, nó to và tròn.
Nó lớn lắm, đúng gấp ba bụi rậm.”

24
There was an Old Man of Peru,
Who never knew what he should do;
So he tore off his hair,
And behaved like a bear,
That intrinsic Old Man of Peru.

Có một người Peru, thật kỳ,
Không bao giờ biết mình nên làm gì.
Ông xù tóc, thật xấu,
Cư xử hệt con gấu.
Thật độc đáo, ông Peru lạ kỳ.

25
There was an Old Man of the Dee,
Who was sadly annoyed by a flea;
When he said, 'I will scratch it,'
They gave him a hatchet,
Which grieved that Old Man of the Dee.

Có một người ở sông Dee, tiếc thay,
Bị con ruồi cứ bám mãi suốt ngày.    
“Tao sẽ giết chết mày!” Ai đấy
Đưa cho ông chiếc rìu, vì vậy
Ông vung rìu cứ chém ruồi suốt ngày.

26
There was an Old Man who supposed,
That the street door was partially closed;
But some very large rats,
Ate his coats and his hats,
While that futile old gentleman dozed.      

Một ông già cứ nghĩ
Cửa nhà ông không đóng kỹ,
Nên bọn chuột lẻn vào nhà
Ăn hết mũ và áo da
Trong khi ông ngủ quên, không để ý.

27
There was an Old Man who, when little,
Fell casually into a Kettle;
But, growing too stout,
He could never get out,
So he passed all his life in that Kettle.

Xưa có người, lạ kỳ không tin được:
Ngày còn nhỏ, ông rơi và ấm nước,
Rồi lớn lên, thế là
Không thể nào chui ra,
Nên suốt đời phải sống trong ấm nước.

28
There was an Old Man with a beard,
Who said, 'It is just as I feared!
Two Owls and a Hen,
Four Larks and a Wren,
Have all built their nests in my beard!'

Một ông già có bộ râu rất rậm,
Đến mức ông phải thường xuyên ca cẩm:
“Hai con cú và một con gà,
Bốn con én cùng con sơn ca
Đang làm tổ trong râu tôi rất rậm.”

29
There was an old man whose despair
Induced him to purchase a hare:
Whereon one fine day,
He rode wholly away,
Which partly assuaged his despair.

Xưa có người vì quá buồn, quá khổ
Nên ra chợ mua về nhà con thỏ.
Và một hôm đẹp trời,
Ông cưỡi nó đi chơi.
Thật kỳ lạ, ông thấy mình bớt khổ.

30
There was an Old Man with a flute,
A serpent ran into his boot;
But he played day and night,
Till the serpent took flight,
And avoided that man with a flute.

Xưa có người thích thổi sáo, thổi hay.
Một con rắn chui vào trốn trong giày.
Nhưng suốt ngày đêm ông thổi,
Con rắn nghe, không chịu nổi,
Nên cuối cùng lại chui ra khỏi giày.

31
There was an Old Person in Black,
A Grasshopper jumped on his back;
When it chirped in his ear,
He was smitten with fear,
That helpless Old Person in Black.  

Có ông già mặc đồ đen, ngày nọ,
Bị châu chấu bám vào lưng, vào cổ.  
Khi chúng bò lên tai, trời ơi,
Ông sợ quá, co rúm cả người,
Và rồi ngất, thương thay ông già đó.

32
There was an Old Person in Gray,
Whose feelings were tinged with dismay;
She purchased two Parrots,
And fed them with Carrots,
Which pleased that Old Person in Gray.

Có một bà mặc đồ xám, là người
Không hiểu sao cứ luôn thấy chán đời.
Rồi bà mua hai con vẹt nhỏ
Cho chúng ăn toàn cà-rốt đỏ.
Thế mà bà tự nhiên hết chán đời.

33
There was an Old Person whose habits,
Induced him to feed upon rabbits;
When he'd eaten eighteen,
He turned perfectly green,
Upon which he relinquished those habits. 

Có một người có thói quen rất ngộ,
Là thích xơi thịt thỏ.       
Khi ăn hết mười tám con, ông này,
Tự nhiên người xanh như lá cây.
Từ đấy thôi, ông không ăn thịt thỏ.    

34
There was a Young Lady whose eyes,
Were unique as to colour and size;
When she opened them wide,
People all turned aside,
And started away in surprise.

Xưa, một nàng có đôi mắt dễ thương,
Nhưng màu sắc và kích thước phi thường.
Khi mắt nàng mở to hết cỡ,
Thì mọi người giật mình hoảng sợ
Và lánh xa đôi mắt ấy phi thường.

35
There was an Old Man with a gong,
Who bumped at it all day long;
But they called out, 'O law!
You're a horrid old bore!'
So they smashed that Old Man with a gong.

Một ông già thích đánh trống, tiếc thay,
Mà ông ta lại cứ đánh suốt ngày,
Nên hàng xóm không sao chịu nổi.
“Ông làm phiền chúng tôi!” họ nói.
Cái ông già thích đánh trống, tiếc thay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét