Thơ Phật
SỰ TÍCH TRÂU VÀNG HỒ TÂY
Ngày xưa, thời nhà Lý
Khoảng thế kỷ mười ba,
Có pháp sư tài giỏi
Sống ở thành Đại La.
Tên ông là Không Lộ,
Tương truyền người nhà trời,
Giáng trần xuống Đại Việt,
Giúp đời và giúp người.
Ngày ấy nước Đại Việt
Rất thiếu sắt và đồng
Đúc chuông, làm vũ khí
Và dụng cụ nhà nông.
Có bao nhiêu vàng bạc,
Đá quí và ngọc châu,
Người phương Bắc vơ vét
Đem hết về nước Tầu.
Nên một hôm, Không Lộ
Lên đường sang Yên Kinh,
Định dùng các phép thuật
Mang đồng về nước mình.
Ông đến gặp vua Tống,
Hỏi xin một ít đồng
Để đem về Đại Việt
Đúc tượng Phật Bắc Tông.
“Tôi chỉ dám xin ít,
Đựng vừa đủ túi này.”
Vua Tống thấy túi bé
Liền đồng ý cho ngay.
Vua sai quan thái giám
Dẫn pháp sư vào kho,
Cho lấy gì cũng được -
Vàng, đồng hay sắt thô.
Miễn là chỉ được lấy
Đầy một túi, không hơn.
Pháp sư nước Đại Việt
Cúi thấp đầu cảm ơn.
Bước vào kho, Ngài thấy
Một con trâu bằng vàng,
To hơn cả trâu thật,
Nghếch mõm, đứng chặn ngang.
Vào sâu hơn một tí
Là một núi đồng đen
Còn quí hơn vàng bạc,
Thứ kim loại nhà thiền.
Sau đó sư Không Lộ
Giở phép thuật thần thông,
Mở chiếc túi nhỏ bé
Lấy hết nửa kho đồng.
Viên thái giám hoảng sợ,
Liền chạy báo nhà vua.
Vua Tống ra lệnh chém
Vì tội dám trêu đùa.
Vị pháp sư Đại Việt
Có tài nghe tiếng người
Cách xa cả mấy dặm,
Dưới đất và trên trời.
Nên ông vội vàng rút,
Chân bước qua tường thành.
Vì đồng nhiều, nặng quá,
Nên không thể đi nhanh.
Rồi một đoàn người ngựa
Gấp rút đuổi theo ông.
Pháp sư cắm cổ chạy,
Bỗng gặp một dòng sông.
Ông lấy chiếc nón lá
Vứt xuống nước, và kìa,
Nó biến thành chiếc mảng
Đưa ông sang bên kia.
Quân nhà Tống bất lực
Đứng nhìn ông qua sông.
Còn pháp sư Không Lộ
Trở về thành Thăng Long.
Ông lấy đồng cướp được
Đúc chiếc đại hồng chung
Theo khuôn bằng đất sét,
To và đẹp vô cùng.
Và rồi chuông được dóng.
Thật to và ngân vang.
Bay sang tận phương Bắc.
Vì đồng là mẹ vàng,
Nên trâu vàng nước Tống
Liền chạy về Thăng Long
Thấy thế, sư Không Lộ
Bảo ngừng đánh chuông đồng.
Ông nói nếu đánh tiếp,
Tất cả vàng nước Tàu
Sẽ chạy sang Đại Việt,
Và lại sẽ đánh nhau.
Chiếc chuông lớn lập tức
Được lăn xuống sông Hồng,
Con trâu vàng nhìn thấy,
Cũng lao theo mẹ đồng.
Nó vùng vẫy, quằn quại
Liên tục đúng ba ngày,
Thành một vùng sâu hoắm
Bây giờ là Hồ Tây.
Sau đó sư Không Lộ
Lặng lẽ bay về trời.
Ngài trở thành ông tổ
Nghề đúc đồng nhiều nơi.
Sau, người dân sở tại
Xây một ngôi đền thờ
Để nhớ ơn Không Lộ -
Đền Quan Thánh bây giờ.
MAN NƯƠNG PHẬT MẪU
1
Một pháp sư Ấn Độ
Đến truyền đạo nước ta
Vào thế kỷ mười một,
Tên là Khâu Đà La.
Ngài thường ở hang đá,
Đọc sách hoặc ngồi
thiền,
Giảng giải về đạo
Phật,
Khuyến khích xây chùa chiền.
Năm một một sáu chín,
Ngài đến chùa Cổ Châu
Truyền đạo và hoằng pháp,
Nay gọi là Chùa Dâu.
Trong chùa có cô gái,
Xinh đẹp, tên Man Nương,
Người làng Mèn gần đó,
Lo nấu nướng, dọn giường.
Môt hôm cô nấu cháo
Cho các sư ăn đêm.
Nấu xong, do mệt quá,
Cô ngủ thiếp ngoài thềm.
Một chốc sau, trời tối,
Khâu Đà La ra ngoài,
Bước qua người cô gái.
Và rồi cô có thai.
Khi thai được bốn tháng,
Ông Tu Đĩnh, cha cô,
Báo cho thiền sư biết.
Ngài bảo ông đừng lo.
Đó là con của Phật.
Tức là con của đời.
Sau này sẽ có ích
Cho tất cả mọi người.
Sau đúng mười bốn tháng,
Cô gái ấy, Man Nương,
Sinh được đứa con gái,
Khắp nhà đầy mùi hương.
Bảy ngày sau, vào núi,
Cô trả con cho sư.
Khâu Đà La nhận nó
Không một chút chần chừ.
Thiền sư bế đứa bé
Đi ngược theo sông Dâu,
Về phía chùa Phật Tích,
Nắng chang chang trên đầu.
Gặp cây phù dung cổ,
Cành và lá xùm xòa,
Ngài nói: “Đây, con Phật,
Ngươi giữ dùm cho ta.”
Thân cây phù dung ấy
Lập tức nứt làm đôi.
Ngài vuốt tóc đứa bé,
Đặt vào đó, và rồi
Từ từ, cây khép lại.
Thiền sư và Man Nương
Quay trở về làng cũ.
Sau, dừng lại dọc đường,
Ngài đưa chiếc xích trượng
Cho Man Nương, bảo cô
Mỗi khi có hạn lớn
Và ruộng đồng nứt khô,
Hãy cắm nó xuống đất,
Sẽ có nước chảy ra.
Man Nương nghe, kính cẩn
Mang xích trượng về nhà.
Về sau quả đúng thế.
Những năm hạn lâu ngày
Cô cắm nó xuống đất,
Nước chảy ào ra ngay.
Quan Thái thú Sĩ Nhiếp
Thấy lạ, hỏi sự tình.
Cô kể hết mọi chuyện,
Cả chuyện đứa con mình.
Sĩ Nhiếp không tin lắm,
Hỏi Đà La xem sao.
Sư làm lễ cầu vũ,
Trời đổ mưa ào ào.
2
Một hôm, người ta thấy
Có thân cây phù dung
Trôi dưới sông, to lắm.
Đến cửa chùa thì dừng.
Cây phát ra tiếng nhạc,
Lại nhấp nháy ánh đèn.
Quan Sĩ Nhiếp kinh ngạc,
Bèn cho người vớt lên.
Thế mà bao binh lính
Không vớt nổi thân cây.
Bà Man Nương biết chuyện,
Đến bảo nó thế này:
“Nếu con là con mẹ,
Thì hãy lên với ta.”
Bà ném chiếc dải yếm,
Nó trườn ngay lên bờ.
Thần báo mộng Sĩ Nhiếp
Phải cho người làm ngay
Bốn pho tượng Phật đẹp
Từ gỗ thân cây này.
Cả bốn bức tượng ấy
Bốn chùa đem về thờ,
Sau thành thiêng, nổi tiếng,
Còn giữ đến bây giờ.
Bà Man Nương sống thọ,
Chết năm tròn chín mươi.
Vị thiền sư người Ấn
Nghe nói bay lên trời.
Nơi ngài truyền đạo Phật,
Gần chùa Dâu hiện nay,
Còn có chiếc giường đá
Ngài vẫn nằm hàng ngày.
Giường đá linh thiêng ấy
Có tên là Thạch Sàng.
Được người dân thờ cúng,
Gìn giữ quí hơn vàng.
Về sau, dân sở tại
Dựng đền và miếu thờ
Thờ Man Nương Phật Mẫu,
Thờ cả đến bây giờ.
TIỀN KIẾP CỦA VUA MINH THẦN TÔNG
Một tiến sĩ Đại Việt
Tên là Nguyễn Tự Cường,
Đầu thế kỷ mười bảy,
Làm Chánh sứ Bắc Phương.
Vua nhà Minh lúc ấy,
Hoàng đế Minh Thần Tông,
Khi xong phần nghi lễ
Hỏi sứ có biết không
Rằng ở nước Đại Việt
Có ngôi chùa Quang Minh.
Nó ở đâu? Lớn nhỏ?
Sứ bèn hỏi sự tình
Thì vua Minh liền đáp
Rằng ông là kiếp sau
Sư trụ trì chùa ấy.
Giờ muốn biết ở đâu.
“Số là ta, vua nói,
Khi mới sinh, trên vai
Đã có dòng chữ, viết
Ta là hậu kiếp ngài.
Ta là một hoàng đế,
Rất muốn biết vì sao,
Bây giờ muốn xóa nó,
Nhưng chưa biết cách nào”.
Sứ Việt đáp: “Nghe nói
Nhà Phật có nước thần,
Một loại nước công đức,
Có thể tẩy vết trần.
Vậy theo thần trộm nghĩ,
Muốn xóa dòng chữ này,
Phải lấy nước chùa ấy,
Cho người mang về đây.”
Về nước, sứ bẩm lại
Chuyện lạ với triều đình.
Triều đình ngay lập tức
Cho tìm chùa Quang Minh.
Thì ra là chùa Bóng,
Ngôi chùa cổ bên đường,
Tên chữ “Quang Minh Tự”,
Nay thuộc tỉnh Hải Dương.
Theo các thư tịch cổ,
Chùa xây vào đời Trần.
Ban đầu qui mô nhỏ,
Nhưng sau mở rộng dần.
Chùa có quang cảnh đẹp,
Có nhiều cây xùm xòa,
Có non bộ, hồ nước,
Thu hút khách gần xa.
Trụ trì ngôi chùa ấy
Là Thiền sư Huyền Chân,
Thế danh gọi là Đức,
Một người có đức, ân.
Tương truyền khi sắp tịch,
Phật báo mộng rằng ngài
Sẽ làm vua phương Bắc,
Nhờ đức độ, hiền tài.
Tỉnh dậy, gọi đệ tử,
Kể giấc mơ của ngài,
Dặn sau khi viên tịch
Hãy nhớ viết lên vai
Mấy chữ: “An Nam quốc,
Quang Minh Tự tỳ kheo”.
Các đệ tử ghi nhớ
Và chính xác làm theo.
Vậy là nhà Đại Việt
Không chỉ biết ngôi chùa,
Còn lấy nước của nó
Sang Bắc Triều dâng vua.
Minh Thần Tông hoàng đế
Thưởng ba trăm lạng vàng
Cho sứ thần Đại Việt,
Tiến sĩ Nguyễn Tự Cường.
Ông đem số vàng ấy
Cúng vào chùa Quang Minh
Để lo việc tu bổ,
Bố thí cho dân tình.
Rồi ông được cất nhắc,
Nhờ tài đức, nhân từ,
Hữu Thị lang bộ Lễ,
Cuối cùng là Thượng thư.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét