Kinh Hiền Ngu
LỜI NÓI ĐẦU
A Nan Đà, ta biết,
Là một trong mười
người
Được gọi đại đệ tử
Khi Đức Phật sinh
thời.
Ông xuất thân quí tộc
Con vua A Mi Đà,
Tức ông là cháu ruột
Của Đức Phật Thích Ca.
Khi Ngài về La Vệ,
Ông vừa tròn hai mươi,
Xin được thành phật
tử,
Đi theo Ngài khắp nơi.
Bốn ba năm hầu Phật,
Luôn có mặt bên Ngài.
Sau đức Đại Ca Diếp,
Ông là Tổ thứ hai.
Hăm lăm năm phụ tá,
Giúp đỡ Ngài hàng
ngày,
Ông là gương trung
thực
Và tận tụy với Thầy.
Đắc
đạo A La Hán,
Ông
nhẫn nhục, trung thành.
Một
trăm hai mươi tuổi,
Để
tiếng tốt lưu danh.
Với trí nhớ tuyệt mỹ,
Thuộc hết lời Thầy
mình,
Ông giúp đời ghi lại
“Hiền Ngu Nhân Duyên
Kinh”.
Ông cất công tỉ mẩn
Ghi nhớ bộ Kinh này
Khi theo hầu Đức Phật
Đi giảng pháp hàng
ngày.
Bộ Kinh có chín quyển,
Mỗi quyển năm, sáu
bài,
Nói về các tiền kiếp
Của Đức Phật Như Lai.
Giờ tôi ngồi viết lại
Thành thể thơ nôm na,
Đơn giản và dễ hiểu
Giúp phật tử gần xa
Hiểu thêm về Đức Phật,
Đặng thoát cõi vô
minh,
Thanh lọc Tâm và Thức,
Chỉ làm điều tốt lành.
Tiếc bộ Kinh quá lớn,
Sức có hạn, thành ra,
Có chỗ đành lược bỏ.
Nam Mô A Di Đà!
1
PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP
Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng
kiến
Chuyện này của Thích
Ca.
Sau bao năm tu luyện,
Ngài thành Phật, nhưng
rồi,
Ngài tư lự, chợt nghĩ:
“Cuộc đời này, than
ôi,
Đầy chúng sinh mê ngủ,
Tham lam và hợm mình,
Chỉ đua theo tà đạo,
Khó thoát vòng vô
minh.
Ta ở lại vô ích.
Không giúp được thế
gian,.
Chi bằng lên ngự trị
Cõi Dư Vô Niết Bàn.”
Ý nghĩ này của Phật
Được vua trời Phạm
Thiên
Thấu hiểu, và lập tức
Từ vời vợi cõi tiên,
Vua bay xuống, quì mọp
Trước Đức Phật anh
minh,
Xin Ngài hãy ở lại
Hằng cứu độ chúng sinh.
Thấy Đức Phật do dự,
Vua đứng dậy, chắp tay
Xin phép Ngài được kể
Một câu chuyện thế
này.
*
Ngày xưa, nhiều kiếp
trước,
Có một ông vua già,
Sống ở Châu Diêm Phủ,
Tên là Tu Lâu Bà.
Ông là vua, cai trị
Hai mươi nghìn phu
nhân,
Tám tư nghìn nước nhỏ,
Mười nghìn quan đại
thần.
Một hôm, vua chợt
nghĩ,
Ta giàu, dân cũng
giàu,
Nhưng vẫn chưa có
thuốc
Chữa được bệnh buồn
đau.
Ta phải có trách nhiệm
Tìm nó để giúp người.
Vua cho ra yết thị
Rồi sai dán khắp nơi:
“Ai biết đạo giải
thoát
Của Phật cõi Dư Vô,
Hãy nói cho ta biết.
Muốn gì ta cũng cho.”
Tỳ Sa Môn, vua lớn,
Cõi trời Tứ Thiên
Vương,
Hay tin, liền xuất
hiện.
Ông, pháp thuật cao
cường,
Liền biến thành con
quỉ,
Mắt đỏ, mặt xanh lè,
Răng to như quả chuối,
Thoạt nhìn đã thấy
ghê.
Tu Lâu Bà cung kính
Mời ông ngồi lên cao.
Ông, con quỉ, muốn
biết
Vua thành tâm mức nào,
Bèn nói, muốn nghe
Pháp,
Trước hết phải cho ông
Ăn thịt con và vợ,
Dẫu việc ấy đau lòng.
Tu Lâu Bà lập tức
Cho gọi vợ con mình.
Con quỉ ăn ngấu
nghiến.
Ai nhìn cũng thất
kinh.
Khi ăn xong, con quỉ,
Tức vua Tỳ Sa Môn,
Mới đọc một bài kệ,
Chỉ bốn câu cỏn con:
“Đã sinh, tất phải
khổ.
Hết thảy đều vô
thường.
Tưởng có mà không có,
Sao cứ phải vấn
vương?”
Vua vui mừng khôn xiết
Khi ngộ ra điều này,
Bèn ra lệnh dân chúng
Phải niệm nó hàng ngày.
Bấy giờ con quỉ dữ
Mới trở lại nguyên
hình
Là đức vua thiên giới:
“Thật là điều tốt
lành.
Vua biết trọng Chính
Pháp,
Vậy thì sẽ có ngày
Vua cũng trở thành
Phật,
Cứu độ thế gian này.”
Vừa dứt lời, lập tức
Vợ con Tu Lâu Bà
Lại xuất hiện, nguyên
vẹn
Như không gì xẩy ra.
*
Vua Phạm Thiên cung
kính
Thưa với Phật Thích
Ca:
“Tiền kiếp Ngài ngày
ấy
Là vua Tu Lâu Bà.
Vì chính pháp cao cả,
Ngài chẳng ngại hy
sinh.
Giờ sao Ngài có thể
Nỡ bỏ rơi chúng sinh?”
Đức Phật nghe, suy
ngẫm.
Cuối cùng Ngài gật đầu,
Và hứa sẽ ở lại
Như Phạm Thiên thỉnh
cầu.
Nơi đầu tiên Ngài đến
Là khu vườn nhiệm màu
Ở nước Ba La Nại,
Để thuyết giảng lần
đầu.
Kiều Trần Như có mặt
Trong số năm người
nghe,
Sau thành đại đệ tử,
Tài đức thật nhiều bề.
2
THÁI TỬ MA HA TÁT ĐÓA
HIẾN THÂN CHO HỔ ĂN
THỊT
Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
Cùng Đức Phật khất
thực,
Một buổi sáng hiền
hòa.
Khi mới vào thành phố,
Chúng tôi nhìn, giật
mình,
Thấy lính vua đang
giải
Hai người đi hành
hình.
Đó là hai tên trộm,
Chuyên làm điều xấu
xa.
Mẹ chúng đi bên cạnh,
Một phụ nữ đã già.
Vừa nhìn thấy Đức
Phật,
Bà chạy đến, hồi lâu
Khóc, xin Ngài giúp đỡ
Để con khỏi mất đầu.
Ngài sai tôi theo lính
Thỉnh vua ở hoàng gia.
Vua nể tình Đức Phật,
Nên cuối cùng đã tha.
Cả ba người cúi rạp,
Cảm ơn Phật lòng lành,
Rồi xin Ngài cho phép
Được nhập đạo tu hành.
Đức Phật cười nhân
hậu,
Đáp: “Thiện Lai Tỳ
Kheo!”
Ngay lập tức, thật lạ,
Ba bộ quần áo nghèo
Thành cà-sa vàng chói.
Tóc trên đầu từ từ
Rụng cho đến khi hết.
Họ trở thành nhà sư.
Họ nghe Ngài thuyết
pháp,
Tâm, thức ngộ, sáng
dần.
Con chứng A La Hán,
Mẹ chứng A Na Hàm.
Được nhìn thấy sự lạ,
Tôi, tức A Nan Đà,
Liền quì gối cung kính
Bạch Đức Phật Thích
Ca:
“Xin Thầy cho con biết
Ba người này trước đây
Làm được gì công đức
Để đắc đạo thế này?”
Phật bảo tôi đứng dậy,
Rồi thong thả, bắt đầu
Kể một câu chuyện lạ,
Có nội dung như sau.
*
Vô lượng kiếp về
trước,
Ở một xứ rất xa,
Có ông vua vĩ đại,
Tên là La Đàn Na.
Vua có ba nghìn nước
Và ba người con trai.
Chàng Ma Ha Tát Đóa -
Con thứ ba của ngài.
Chàng là người đức
lớn,
Lòng từ bi vô biên,
Thương yêu các loài
vật,
Hiếu thảo và nhân
hiền.
Một hôm, vua, hoàng
hậu
Cùng thị nữ vào rừng,
Săn bắn và ăn uống,
Rồi múa hát tưng bừng.
Ba hoàng tử đi dạo,
Không may bị lạc
đường.
Họ gặp ba con hổ,
Ốm yếu, gầy trơ xương.
Con hổ mẹ chờ chết,
Nhìn mà thật thương
tình.
Chàng Ma Ha xúc động,
Bèn hỏi các anh mình:
“Ôi thương quá, hổ mẹ,
Bị đói, sữa không còn.
Nó thường ăn gì nhỉ,
Để có sữa nuôi con?”
Hai anh đáp: “Loài hổ
Rất thích ăn thịt
người.
Ăn cả xương lẫn thịt,
Thích uống cả máu
tươi.”
Chàng lặng im không
nói,
Đi theo anh, cúi đầu,
Rồi bảo họ về trước,
Chàng có việc, về sau.
Chàng quay lại chỗ cũ,
Nơi hổ mẹ, hổ con
Đang thoi thóp chờ
chết.
Mẹ đói, sữa không còn.
“Ta luôn sống no đủ,
Luôn nuông chiều xác
thân,
Chưa làm được gì tốt,
Cái mà chúng sinh cần.
Tại sao ta không thể
Đổi cái Tham, Sân, Si,
Để cho hổ ăn thịt,
Lấy bất diệt, từ bi?
Ta sống thừa, vô ích.
Sao không lấy mạng
mình
Cứu bầy hổ chết đói,
Cứu được ba sinh
linh?”
Nghĩ thế, chàng hăm hở
Lăn vào chỗ hổ nằm,
Nhưng con hổ yếu quá,
Không mở nổi hàm răng.
Chàng lấy dao cứa cổ,
Dòng máu nóng trào ra.
Hổ liếm máu, tỉnh lại,
Ăn thịt chàng Ma Ha.
Lại nói vua, hoàng hậu
Và hai anh, hồi lâu
Không thấy chàng quay
lại,
Liền đi vào rừng sâu.
Họ tới chỗ bầy hổ,
Nhưng chúng đã bỏ đi.
Chỉ sót ít xương vụn,
Ngoài ra không còn gì.
*
Kể vừa xong, Đức Phật
Bảo tôi, A Nan Đà:
“Chàng Ma Ha Tát Đóa
Là tiền kiếp của ta.
Sau khi cứu bầy hổ,
Chàng trở thành người
trời
Ở cõi trời Đâu Suất,
Sống vĩnh cửu, muôn
đời.
Còn con hổ mẹ đói
Là bà già hôm nay.
Hai hổ con của nó
Là hai chàng trai này.
Trước ta cứu mạng họ,
Giờ ta cứu linh hồn,
Cho họ thành đắc đạo,
Sống trong cõi càn
khôn.”
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
3
ĐI Ở LẤY TIỀN CÚNG
DÀNG
Một lần, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng
kiến
Chuyện này của Thích
Ca.
Có một ông trưởng giả
Sinh con trai, cậu này
Rất thông minh, đẹp
đẽ,
Ra đời, đã nói ngay.
Cậu bé liền hỏi mẹ:
“Có phải Phật Thích
Ca,
Tôn giả Xá Lợi Phất,
Tôn giả A Nan Đà
Vẫn đang còn tại thế,
Và đang sống ở đây?”
Mẹ cậu đáp: “Đúng
vậy”,
Thầm ngạc nhiên điều
này.
Nên bà liền vội vã
Đến gặp Phật Thích Ca,
Đem kể hết mọi chuyện.
Ngài nghe xong, bảo
bà:
“Không việc gì phải
sợ.
Đứa bé này dần dần
Sẽ trở nên vinh hiển,
Cả cõi thiên, cõi
nhân.”
Ngày hôm sau đứa bé
Bảo bố mẹ mời Ngài
Cùng chư tăng, phật tử
Đến nhà mình thọ trai.
Bố mẹ cậu mới kịp
Bày bát lên bàn ăn
Họ đã thấy trong bát
Có đủ thứ mình cần.
Hôm ấy Phật đến dự,
Ngài rất vúi, trai
xong,
Thăng tọa, ngồi yên
tĩnh,
Thiền định cùng đám
đông.
Cậu bé lớn, theo Phật,
Rất chăm chỉ tu hành,
Chứng quả A La Hán,
Có đức và có danh.
Thấy sự lạ như vậy,
Tôi, tức A Nan Đà,
Quì xuống, rất cung
kính,
Bạch Đức Phật Thích
Ca:
“Xin Thế Tôn cho biết
Vì sao cậu bé này
Sinh vào nhà giàu có,
Vừa tu đã chứng ngay?”
Phật đáp rằng cậu bé
Xưa là con một người
Ở nước Ba La Nại,
Bỗng sa cơ, lỡ thời.
Bố mẹ chết, nghèo khổ,
Để có tiến cúng dàng,
Cậu phải làm thằng ở
Một năm, lấy lạng
vàng.
Với số tiền kiếm được,
Cậu sửa soạn trai
nghi,
Mua sắm các lễ vật,
Dâng Phật và tăng ni.
Kể tới đây, Đức Phật
Nói với tôi thế này:
“Cậu bé đi ở nọ
Là cậu bé ngày nay.
Và rằng người nghèo
khổ
Làm thuê để cũng dàng
Sẽ được hưởng nhân
phúc
Và đắc đạo dễ dàng.”
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
4
THẦN BIỂN VÀ NHỮNG
NGƯỜI ĐI BUÔN
Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng
kiến
Chuyện này của Thích
Ca.
*
Một đoàn thuyền hùng
hậu
Gồm những năm trăm
người
Định đi tìm châu báu
Giữa muôn trùng biển
khơi.
Nhưng biển đầy nguy
hiểm,
Chẳng biết đâu mà
lường.
Họ cần một người giỏi
Để chỉ lối, dẫn đường.
Cuối cùng, Ưu Bà Tắc
Được chọn làm người
này.
Ông tuân thủ ngũ giới,
Có tài ăn nói hay.
Thuyền đang đi, biển
lặng,
Thần Biển bỗng ngoi
lên
Dưới dạng một con quỉ,
Xấu xí, lông màu đen.
Trông thần thật dữ
dội,
Cặp răng nanh trắng
dài,
Mắt xanh, đầu bốc lửa,
Tay khua giáo ra oai.
Thần hỏi người đi
biển:
“Ta hỏi thật, các ông
“Ta hỏi thật, các ông
Đã thấy ai hung dữ,
Đáng sợ như ta không?”
Ưu Bà Tắc liền đáp:
“Ở đời này, thưa thần,
Rất nhiều người đáng
sợ,
Đáng sợ gấp triệu
lần.”
“Không thể có chuyện
ấy.
Vậy họ là những ai?”
“Họ là người độc ác,
Ngu si và bất tài,
Nói dối và dâm dật,
Sát sinh và giết
người,
Đắm mình trong tà đạo,
Phỉ báng Phật và Trời.
Nhưng điều đáng sợ
nhất:
Tất cả những người này
Sẽ phải xuống địa
ngục,
Bị đày đọa hàng ngày.
Họ sẽ bị bỏ đói,
Bị thiêu sống, bị đâm,
Bị nghiền thành bột
nhỏ
Trong hàng nghìn triệu
năm.
Vậy thì họ chắc chắn
Đáng sợ hơn còn gì?”
Thần Biển nghe, thu
giáo.
Và đoàn thuyền lại đi.
Mấy ngày sau, lần nữa
Thần Biển lại hiện lên
Dưới dạng một phù
thủy,
Gầy, nhăn nhó, xấu,
đen.
Thần hỏi người đi
biển:
“Ta hỏi thật, các ông
“Ta hỏi thật, các ông
Đã thấy ai ghê tởm,
Xấu xí như ta không?”
Ưu Bà Tắc liền đáp:
“Ở đời này, thưa thần,
Rất nhiều người xấu
xí,
Xấu xí gấp triệu lần.”
“Không thể có chuyện
ấy.
Vậy họ là những ai?”
“Họ là người độc ác,
Ngu si và bất tài.
Họ tham của, keo kiệt,
Bỏ không nuôi mẹ cha,
Không cúng dàng, làm
phúc,
Chỉ tôn thờ ma tà.
Chết, họ thành quỉ
đói,
Người mụn nhọt đen xì.
Người như thế mới xấu,
Chứ thần đã thấm gì!”
Thần Biển nghe, lần
nữa,
Cho đoàn thuyền đi
qua.
Thần làm biển yên
tĩnh,
Gió lặng và hiền hòa.
Được ít hôm Thần Biển
Lại xuất hiện, lần này
Là một cô gái đẹp,
Đẹp tuyệt trần xưa
nay.
Thần hỏi người đi
biển:
“Ta hỏi thật, các ông
“Ta hỏi thật, các ông
Đã thấy ai, quả thật,
Xinh đẹp như ta
không?”
Ưu Bà Tắc liền đáp:
“Ở đời này, thưa thần,
Rất nhiều người xinh
đẹp,
Xinh đẹp gấp triệu
lần.”
“Không thể có chuyện
ấy.
Vậy họ là những ai?”
“Họ là người đức độ,
Thông minh và có tài.
Họ thờ ngôi Tam Bảo,
Chuyên tâm việc cúng
dàng,
Chăm làm các việc
thiện,
Tướng mạo rất đàng
hoàng.
Khi chết, những người
ấy
Được tái sinh trên
trời.
Phúc đức và viên mãn,
Khuôn mặt họ sáng
ngời.
Họ thật sự mới đẹp,
Đẹp cả ngoài lẫn
trong,
Gấp triệu lần cái đẹp
Cô gái này của ông.”
Thần nghe, thấy hợp
lẽ.
Ưu Bà Tắc giúp thần
Hiểu giáo lý của Phật
Và con đường pháp
luân.
Nên thần làm biển
lặng,
Tặng rất nhiều bạc
vàng,
Còn gửi lễ dâng Phật
Và châu báu cúng dàng.
Họ quay thuyền trở
lại.
Tất cả năm trăm người,
Bố thí hết của cải
Rồi tay không, thảnh
thơi,
Họ đến quì trước Phật,
Xin một lòng qui theo.
Đức Phật rất hoan hỉ,
Nói: “Thiện Lai Tỳ
kheo!”
Ngay lập tức, tất cả
Biến thành người trọc
đầu.
Quần áo cũ đang mặc
Thành cà-sa cùng màu.
Họ nghe Ngài giảng
pháp,
Nghe như uống từng
lời,
Chứng quả A La Hán,
Và hiển danh muôn đời.
Mọi người thấy, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
5
NGƯỜI CON CẦU TỰ
Chính tôi được chứng
kiến,
Phật Thích Ca Mâu Ni
Ở Tịnh xá Vườn Trúc,
Thuộc nước La Duyệt
Kỳ.
Có một ngôi đền nhỏ
Bên dòng sông hiền
hòa,
Thờ vị thần thiêng
lắm,
Là Ma Ni Bạt La.
Quan tể tướng nước ấy
Mãi không có con trai,
Nghe tiếng, liền tìm
đến,
Dâng lễ, nói với ngài:
“Ngài thiêng, hãy giúp
đỡ,
Cho tôi một mụn con.
Tôi lấy vàng đúc
tượng,
Chùa sẽ quét sơn son.
Nếu không, xin đừng
trách,
Tôi san phẳng chùa
này.
Mặt ngài tôi băm nhỏ,
Rồi ngài sẽ biết tay!”
Rồi tể tướng quay gót,
Không nói thêm một
lời.
Thần Bạt La sợ quá,
Lên tâu với Vua Trời.
Cũng vừa hay lúc đó,
Có người sắp chết già.
Vua Trời bảo người ấy
Hãy giúp thần Bạt La.
Tức đầu thai lần nữa,
Kiếp này làm con trai
Của một quan tể tướng,
Sẽ thành người hiền
tài.
Vợ quan tể tướng ấy
Một năm sau có con,
Đủ tất cả tướng đức,
Rồi nhanh chóng lớn
khôn.
Hai vợ chồng mừng lắm,
Mời thầy tướng đến
nhà,
Đặt tên Hằng Gia Đạt,
Khi cậu vừa lên ba.
Khi lên mười lăm tuổi,
Cậu đã hiểu rằng đời
Không có gì vững chắc,
Mọi cái chỉ nhất thời.
Và rằng người đau khổ
Chính vì Tham, Sân,
Si.
Rồi cậu xin phép bố
Cho xuất gia qui y.
Tể tướng không đồng ý,
Nói nhà mình giàu
sang,
Nên cậu phải nối
nghiệp
Để tiêu hết bạc vàng.
Thế là cậu từ đó
Trở thành người u sầu,
Sách vở không buồn
đọc,
Cũng chẳng muốn đi
đâu.
Cậu tìm cách tự tử,
Nỗi buồn nặng trong
tim.
Nhưng treo cổ, không
chết,
Nhảy xuống sông, không
chìm.
Cuối cùng cậu quyết
định
Phạm tội, cốt để mình
Bị nhà vua cho lính
Bắt, đem đi hành hình.
Một sáng nọ, hoàng hậu
Cùng cung nữ của bà
Ra vườn Thượng Uyển
tắm,
Áo vắt cành cây đa.
Cậu rón rén đi lại,
Lấy quần áo, giả đùa.
Ngay lập tức có lính,
Đến bắt cậu, trình
vua.
Vua nổi giận, ra lệnh
Đem ngay ra pháp
trường.
Lính giương cung rồi
bắn,
Nhưng trái với bình
thường,
Các mũi tên được bắn
Quay lại phía nhà vua.
Hằng Gia Đạt, tội
phạm,
Thì đứng trơ, cười
đùa.
Ba lần đều như thế.
Vua thấy lạ, tò mò,
Bèn cho gọi cậu đến,
Bắt kể hết nguyên do.
Nghe xong, vua liền
nói:
“Chỉ có thế thôi à?
Ngày mai ta dẫn cậu
Tới gặp Phật Thích
Ca!”
Đúng hẹn, vua thỉnh
Phật,
Liền cho cậu đi theo.
Biết chuyện, Phật hoan
hỉ
Nói: “Thiện Lai Tỳ
kheo!”
Lập tức Hằng Gia Đạt
Bỗng thấy mình trọc
đầu.
Chiếc áo bẩn đang mặc
Thành cà-sa sẫm màu.
Cậu nghe Phật thuyết
pháp,
Tâm ý khai ngộ dần,
Chứng quả A La Hán,
Học được sáu “pháp
thần”,
Cùng tám pháp “giải
thoát”
Còn thêm ba pháp
“minh”.
Hằng Gia Đạt từ đấy
Thành hiền tài, hiển
vinh.
Thấy vậy, A Xà Thế,
Tên ông vua nước này,
Liền quì xuống trước
Phật:
“Xin Ngài nói cho hay,
Con người này tiền
kiếp
Đã làm được điều gì
Để tự tử không chết,
Và nhanh chóng qui y?”
Phật dạy: “Xưa, lâu
lắm,
Có ông vua rất giàu,
Tên là Phạm Ma Đạt.
Một hôm cùng nàng hầu,
Vua vào rừng đi dạo,
Rồi ăn uống no say,
Cùng múa hát vui vẻ.
Thật vui chuyến đi
này.
Khi mỹ nữ đang hát
Thì bất chợt bên ngoài
Có ai đấy họa lại,
Nghe văng vẳng bên
tai.
Vua tức giận, ra lệnh
Bắt người ấy hành
hình.
May có quan tể tướng,
Đi ngang, biết sự
tình.
Quan xin vua tha tội.
Con người này về sau,
Để trả ơn tể tướng,
Tự nguyện làm người
hầu.
Trung thành và tận
tụy,
Ông hầu hạ nhiều năm,
Rồi xin được lên núi
Để tu hành, tĩnh tâm.
Ông nhanh chóng đắc
đạo,
Khai ngộ được tinh
thần,
Trở thành Bích Chi
Phật,
Hiểu thấu mọi nguồn
nhân.
Ông còn giúp tể tướng,
Vốn là ân nhân mình,
Thấu hiểu giáo lý
Phật,
Thoát khỏi vòng vô
minh.
Kể đến đây, Đức Phật
Nói với vua thế này:
“Ông quan tể tướng ấy
Là Gia Đạt ngày nay.
Bởi duyên lành kiếp
trước,
Nên được ta độ trì,
Tự tử mà không chết,
Và nhanh chóng qui y.”
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
6
THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ
Chính tôi được chứng
kiến,
Phật Thích Ca mâu Ni
Ở Tịnh xá Vườn Trúc,
Thuộc nước La Duyệt
Kỳ.
Lúc ấy, tôi và Phật
Đang khất thực trong
thành,
Thấy hai ông bà lão
Mù, trú dưới tháp
canh.
Hai ông bà chỉ có
Một thằng bé lên mười.
Nó ăn xin, có được
Cái gì ngon và tươi
Đều nhường cho bố mẹ.
Còn mình thì chỉ ăn
Những cái thiu và
thối,
Hoặc nhịn đói, nhiều
lần.
Tôi kể lại với Phật
Tấm gương hiếu thảo
này.
Phật đáp, ai có hiếu
Đều hưởng phước xưa
nay.
Rồi Ngài bắt đầu kể
Một câu chuyện về
mình.
Chuyện ngày xưa, kiếp
trước,
Cảm động và chân tình.
*
Xưa, ở Châu Diêm Phủ
Có nước rộng bao la
Là Đặc Xoa Thi Lợi,
Vua tên là Đề Bà.
Con vua, mười hoàng
tử,
Có nước riêng của
mình.
Thiện Trụ là con út,
Nước giàu và thái
bình.
Ở nước vua thời ấy,
Quan tể tướng La Hầu
Là một người độc ác,
Thích quyền lực, thích
giàu.
Hắn âm mưu làm phản,
Giết chết vua Đề Bà,
Rồi cho người mưu giết
Các hoàng tử gần xa.
Trong khi ấy, Thiện
Trụ
Vẫn không hay biết gì.
May được quỉ mật báo,
Khuyên lên đường trốn
đi.
Vì gấp gáp, Thiện Trụ
Đưa hoàng hậu và con
Cùng bảy ngày lương
thực,
Quyết vượt núi trèo
non,
Đi đến nước người bạn,
Ước tính mất bảy ngày.
Nhưng do đường giặc
chặn,
Họ đổi hướng, không
may
Cuối cùng lương thực
hết,
Ăn rễ, lá cầm hơi.
Vua Thiện Trụ thầm
nghĩ:
Buộc phải giết một
người.
Giết để lấy máu thịt,
Hai người còn lại ăn.
Nếu không, sẽ chết
hết.
Một quyết định khó
khăn.
Người vua quyết định
giết
Là hoàng hậu, vợ ông.
Khi cầm dao định chém,
Dẫu thầm khóc trong
lòng,
Thì người con, thái
tử,
Tên là Tu Xà Đề,
Lúc ấy còn ít tuổi,
Hỏi ông định làm gì.
Ông đáp, phải giết mẹ
Để lấy thịt nuôi con.
“Bố cho con được chết.
Vì khi mẹ vẫn còn,
Mẹ sẽ sinh con khác.
Vậy xin phép từ nay,
Con cắt hai miếng thịt
Nuôi bố mẹ hàng ngày.
Bố và mẹ phải sống
Để trả thù cho ông,
Để lấy lại đất nước.
Con chết cũng cam
lòng.
Không còn cách nào
khác,
Nhà vua phải nghe lời.
Hàng ngày cậu cắt
thịt,
Nuôi bố mẹ cầm hơi.
Cứ thế, họ đi tiếp,
Khi đích sắp đến gần.
Cậu không đi được nữa,
Bèn nói với hai thân:
“Hãy để con ở lại.
Bố mẹ tiếp tục đi.
Chắc nửa ngày nữa đến.
Con không ân hận gì.”
Thái tử nằm trên đất,
Một mình giữa rừng
xanh,
Rồi cất lời phát
nguyện,
Sâu sắc và chân thành:
“Con thành tâm kính
lạy
Các Đại giác Thập
phương
Cùng Hùng Sư Tam Thế,
Mấy ngày qua, đi
đường,
Con tự mình xẻo thịt
Để nuôi hai thân con,
Trước, tỏ lòng báo
hiếu,
Sau, để cứu giang sơn.
Xin chư vị cứu xét
Việc làm ấy của mình,
Đặng cho con thành
Phật
Để cứu độ chúng sinh.”
Vừa dứt lời phát
nguyện,
Liền chấn động sáu lần
Cả ba nghìn thế giới,
Trời lung lay dưới
chân.
Các cõi trời Dục Giới
Và Sắc Giới ngạc
nhiên,
Sao lại có sự lạ
Làm rung chuyển Cõi
Thiên?
Nhìn xuống thì chợt
thấy
Thái tử Tu Xà Đề
Cắt thịt nuôi bố mẹ,
Đau đớn cũng chẳng nề.
Vua Đế Thích bay
xuống,
Lạy, rồi nói thế này:
“Ngài là tấm gương
sáng
Về hiếu thảo xưa nay.
Vậy xin phép được hỏi,
Ngài làm việc phi
thường,
Hướng về ngôi Đế
Thích,
Hay Phạm Thiên, Ma
Vương?”
“Tôi chỉ muốn thành
Phật
Để cứu độ chúng sinh,
Không muốn làm ai khác,
Mong sung sướng, yên
bình.”
Rồi Đế Thích lại hỏi:
“Ngài hối hận gì
không?”
“Tuyệt không hề hối
hận,
Và rất thảnh thơi
lòng.”
Nói đoạn, cậu phát
nguyện:
“Thưa chư vị bốn
phương,
Nếu quả tôi nói thật,
Xin cho lại bình
thường!”
Lập tức, người thái tử
Liền trở lại nguyên
lành.
Vua Đế Thích sụp lạy,
Khen thái tử chí
thành.
Lại nói vua Thiện Trụ
Và hoàng hậu về sau,
Được nước bạn giúp đỡ,
Giết hết bọn La Hầu.
Đất nước lại thịnh
trị.
Thái tử Tu Xà Đề
Được mọi người kính
trọng,
Ân đức đủ mọi bề.
*
Kể đến đây, Đức Phật
Bảo tôi, A Nan Đà:
“Thiện Trụ và hoàng
hậu
Là hai thân của ta.
Tu Xà Đề ngày ấy
Chính là ta hôm nay.
Nhờ cứu sống bố mẹ,
Được thành Phật thế
này.”
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
7
CÔNG CHÚA BA XÀ LA
Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng
kiến
Chuyện này của Thích
Ca.
Đức vua Ba Tư Nặc,
Một ông vua hiền hòa,
Cưới hoàng hậu Mạt
Lợi,
Sinh nàng Ba Xà La.
Bố mẹ thì xinh đẹp,
Không hiểu sao nàng
này
Lại cực kỳ xấu xí,
Xấu xí nhất xưa nay.
Da nàng như da cóc,
Hình dáng chẳng giống
người.
Tóc cứng như lông
ngựa,
Cái miệng méo như
cười.
Cả vua và hoàng hậu
Lấy thế làm buồn rầu,
Nuôi nàng như công
chúa,
Nhưng giấu kỹ, rất
sâu.
Đến tuổi nàng khôn
lớn,
Tức là tuổi lấy chống,
Họ lại càng khó nghĩ:
Có gả chồng hay không?
Quan trong triều không
ít,
Nếu ép, họ cũng nghe,
Nhưng sau sẽ xấu hổ,
Lại phiền toái nhiều
bề.
Cuối cùng họ quyết
định
Gả cho anh dân thường,
Một chàng trai khỏe
mạnh,
Thấy đang đi giữa
đường.
Đức vua Ba Tư Nặc
Khi gặp, rất thật
lòng,
Nói con ngài xấu lắm,
Anh có chịu lấy không.
Anh kia liền đồng ý.
Đang nghèo rớt mồng
tơi,
Tự nhiên thành phò mã.
Coi như cuộc đổi đời.
Nhưng anh và công chúa
Phải sống trong hậu
cung,
Không để ai nhìn thấy,
Không bao giờ đi cùng.
Đất nước đang thịnh
trị,
Nhiều trò vui cung
đình,
Nhưng anh chàng phò mã
Cứ luôn đi một mình.
Mọi người lấy làm lạ,
Nghĩ chắc vợ anh chàng
Hoặc là người rất xấu,
Hoặc xinh như bà
hoàng.
Rồi các quan quyết
định
Tự mình tìm hiểu xem.
Nhân một hôm dạ tiệc,
Họ chuốc chàng say
mèm.
Họ lục lấy chìa khóa,
Bảy chìa khóa vào nhà,
Mở hết bảy cánh cổng
Để thấy Ba Xà La.
Lại nói công chúa xấu,
Chồng đi chơi một
mình,
Ở nhà buồn, phát khóc,
Ngẫm éo le cảnh tình.
Nàng nghĩ xưa nay Phật
Vẫn ra ân cứu đời,
Sao mình không nhờ
Phật
Cứu mình như mọi
người.
Nói đoạn, nàng sắm lễ,
Hướng về núi Linh Sơn,
Thành tâm cầu nguyện
Phật
Ban phước và ban ơn.
Lời cầu rất đau đớn,
Và thống thiết, chân
thành.
Phật đến, cho nàng
thấy
Mái tóc Ngài màu xanh.
Lập tức, nàng thấy tóc
Mềm xanh như tóc Ngài.
Ngài để lộ khuôn mặt
Khi đến lần thứ hai.
Nàng nhìn khuôn mặt
Phật,
Tự nhiên thấy mặt mình
Tươi sáng như vành
ngọc
Với những đường nét
xinh.
Lần thứ ba xuất hiện,
Ngài để lộ toàn thân.
Một cơ thể tuyệt đẹp,
Đẹp hơn cả chư thần.
Vậy là, ngay lập tức,
Các đường nét người
nàng
Bỗng trở nên tuyệt mỹ,
Thanh lịch và dịu
dàng.
Sau đó Ngài giảng
pháp.
Nàng lắng nghe từng
lời
Như uống nước cam lộ,
Như mật ngọt của đời.
Một lúc sau nàng ngộ,
Mọi nghiệp chướng tiêu
tan.
Đầu óc thấy sáng suốt,
Chứng quả Tu Đà Hoàn.
*
Lại nói mấy quan nọ,
Tìm đến được nhà nàng
Khi Phật vừa lui gót.
Họ sững sờ, bàng hoàng
Khi thấy nàng công
chúa
Đẹp nghiêng nước
nghiêng thành.
Không có gì để nói,
Họ kiếm cớ chuồn
nhanh.
Chàng phò mã say bét
Cuối cùng cũng về nhà,
Ngạc nhiên thấy người
đẹp
Thay cho Ba Xà La.
Rồi mọi việc sáng tỏ.
Sáng hôm sau hai người
Gặp vua và hoàng hậu.
Vui không nói nên lời.
Để tạ ơn Đức Phật,
Vua sắm lễ rất to,
Rồi xin Ngài giải
thích
Cặn kẽ mọi nguyên do.
*
Đức Phật rất hoan hỉ,
Kể câu chuyện như sau.
Cách đây nghìn vạn
kiếp
Có một ông nhà giàu.
Ông giàu này phát
nguyện
Sẽ suốt đời cúng dàng
Một vị Bích Chi Phật,
Rất tốt, rất đàng
hoàng.
Nhưng thân dáng ông
xấu,
Có thể nói dị hình,
Nên con gái ông chủ
Thường tỏ ý coi khinh.
Tuy nhiên, Bích Chi
Phật
Không nói lại một câu.
Sau thấy ông đắc quả,
Làm được các phép màu,
Cô này rất hối hận,
Cúi đầu xin ông tha.
Cô gái ấy, Phật nói
Chính là Ba Xà Na.
Kể đến đây, Đức Phật
Liền nhắc nhở mọi
người
Khiêm tốn trong cư xử,
Cẩn thận khi nói lời.
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
8
TỲ KHEO KIM TÀI
Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng
kiến
Chuyện này của Thích
Ca.
Ngoài tôi ra còn có
Một nghìn hai trăm
người,
Các chư tôn, đệ tử
Nguyện theo Phật suốt
đời.
Có ông đại trưởng giả
Sinh được người con
trai,
Dung mạo rất tốt đẹp,
Rất cân đối hình hài.
Tuy nhiên có sự lạ:
Hai tay cậu bé này
Mới sinh đã nắm chặt.
Khi bà mẹ gỡ tay,
Mọi người càng lạ nữa,
Vì hai đồng tiền vàng
Liền rơi ngay xuống
đất.
Ai thấy cũng ngỡ
ngàng.
Sau đó, tay lại nắm,
Được gỡ ra, và rồi
Thêm hai đồng vàng
nữa.
Cứ thế mãi không thôi.
Vậy là đại trưởng giả
Đã giàu càng thêm
giàu.
Đến mức vàng nhiều quá
Không biết để vào đâu.
Lớn lên cậu bé ấy
Xin phép mẹ và cha
Đưa cậu đến tịnh xá
Gặp Đức Phật Thích Ca.
Nhìn thấy Ngài, lập
tức
Cậu sụp lạy xin theo.
Đức Phật rất hoan hỉ,
Nhận cậu làm tỳ kheo.
Kể từ ngày hôm ấy,
Tỳ kheo mới Kim Tài
Được Đức Phật ưu ái
Cho đi theo hầu Ngài.
Khi cậu hai mươi tuổi,
Các đại đức đăng đàn
Truyền cho giới Cụ
Túc,
Rồi lại ngồi xuống
bàn.
Hôm ấy, theo nghi
thức,
Cậu đỉnh lễ từng
người.
Mỗi lần cúi xuống lễ,
Hai đồng vàng lại rơi.
Được ban giới Cụ Túc,
Kim Tài chăm tu hành,
Chứng quả A La Hán,
Thành một người hiển
danh.
Thấy sự lạ như vậy,
Nên tôi, A Nan Đà,
Muốn biết rõ duyên cớ,
Bèn hỏi Phật Thích Ca.
Ngài kể một câu
chuyện,
Cho tôi và mọi người:
“Cách đây chín mốt
kiếp
Có Đức Phật ra đời.
Đức Phật ấy thông tuệ
Hiệu là Tỳ Bà Thi.
Ngài cứu giúp dân
chúng
Thoát khỏi Tham, Sân,
Si.
Ngài và các đệ tử
Thường khất thực khắp
nơi.
Ai cũng dâng lễ vật,
Trong đó có một người,
Nghèo, vừa bán gánh
củi
Chỉ được hai đồng
tiền,
Tiền ăn cả mấy bữa,
Thấy Phật, đã cúng
liền.
Trải qua chín mốt
kiếp,
Con người ấy đầu thai
Vào những nhà giàu có,
Và nay là Kim Tài.”
Kể xong, Ngài nhắc nhở
Tất cả mọi chúng sinh
Phải lưu tâm bố thí,
Cho đời, tức cho mình.
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
9
TỲ KHEO BẢO THIÊN
Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng
kiến
Chuyện này của Thích
Ca.
Trong thành có trưởng
giả
Sinh được người con
trai,
Mặt mũi rất xinh đẹp,
Rất cân đối hình hài.
Có một điều thật lạ,
Là lúc cậu ra đời,
Nhiều vàng bạc, châu
báu
Rơi xuống từ trên
trời.
Láng giềng đến chúc
tụng,
Nhân tiện nhặt ít
vàng.
Chắc đây là phần
thưởng
Việc kiếp trước cúng
dàng.
Bố mẹ nhờ thầy tướng
Xem số và đặt tên.
Tiền rơi từ trời
xuống,
Thì cứ gọi Bảo Thiên.
Bảo Thiên rất thông
tuệ,
Lại chăm chỉ sách đèn,
Nên sớm hiểu đạo lý,
Biết cái sang, cái
hèn.
Ngẫu nhiên một lần nọ
Cậu được gặp Thích Ca,
Nghe lỏm Ngài giảng
pháp,
Tâm trí sáng dần ra.
Rồi được phép bố mẹ,
Cậu xin Phật cho theo.
Đức Phật rất hoan hỉ,
Nói: “Thiện Lai Tỳ
kheo!”
Lập tức tóc cậu rụng,
Quần áo thành cà sa.
Kể từ ngày hôm đó
Cậu theo hầu Thích Ca.
Nhờ chuyên tâm tu
luyện,
Kinh kệ học thuộc làu
Nên chứng A La Hán
Chỉ một thời gian sau.
Nhân một buổi vấn đạo,
Tôi, tức A Nan Đà,
Muốn biết rõ duyên cớ,
Đã hỏi Phật Thích Ca.
Ngài bèn kể câu chuyện
Về Bảo Thiên qui y:
Cách đây đã lâu lắm,
Thời Phật Tỳ Bà Thi.
*
Phật và các đệ tử
Khất thực ở các làng,
Được người dân yêu mến
Đem thức ăn cúng dàng.
Có một người yêu Phật,
Nhưng khốn nỗi quá
nghèo,
Không có cả hạt gạo
Để bố thí tỳ kheo.
Cuối cùng, lòng thành
kính,
Bốc nắm sỏi nhiều màu,
Anh tung lên đầu họ,
Rồi phát nguyện thỉnh
cầu.
Nhờ thế mà người ấy,
Chín mốt kiếp sau này
Đầu thai nhà giàu có
Rồi chứng quả ngày
nay.
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
11
VUA TỪ LỰC HIẾN MÁU
CHO QUỈ
Lần nọ, ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
May mắn được chứng
kiến
Chuyện này của Thích
Ca.
Hôm ấy trời rất đẹp,
Cảnh vật thật hiền
hòa.
Tôi và các đồ đệ
Vừa cùng Phật dùng
trà.
Bỗng nhiên tôi chợt
nghĩ
Tôn giả Trần Kiều Như
Và bốn đồ đệ khác
Làm được gì nhân từ
Mà được Phật lựa chọn
Là những người đầu tiên
Để giảng pháp đạo mới
Rồi sau thành người
hiền.
Tôi đem ý nghĩ ấy
Nói với Phật Thích Ca.
Ngài lắng nghe, rồi
đáp:
“Này con, A Nan Đà,
Con hãy nghe ta kể
Câu chuyện về việc
này.
Lúc ấy con sẽ hiểu
Điều con hỏi hôm nay.”
*
Xưa ở Châu Diêm Phủ
Có ông vua rất giàu,
Tên gọi là Từ Lực,
Đất rộng hàng nghìn
châu.
Ngoài ra ông cai quản
Hai vạn bà phu nhân,
Hàng trăm vạn binh
lính
Và một vạn đại thần.
Ông là vị vua tốt,
Giáo hóa dân điều
lành,
Nên muôn phương kính
nể,
Nước thịnh trị, yên
bình.
Thời ấy có Dịch Quỉ
Chuyên sống bằng máu
người,
Không chịu ăn gì khác,
Đã thế bao nhiêu đời.
Vì dân cư trong nước
Được vua bắt tu thân,
Sống thanh tịnh, liêm
khiết,
Nên quỉ chẳng dám gần.
Cho nên chúng gầy yếu,
Chỉ còn da bọc xương.
Chúng cử năm đại diện
Đến ra mắt quốc vương:
“Ngài là người nhân
đức,
Không thương chúng tôi
sao?
Bao lâu nay nhịn đói,
Không uống máu người
nào.”
Dù chúng là quỉ dữ,
Vua thương chúng, lấy
dao
Khoét người mình năm
lỗ,
Từ đó máu phun trào.
Năm con quỉ uống máu,
Cảm ơn, định ra về,
Nhưng nhà vua ngăn
lại:
“Các ngươi hãy lắng
nghe.
Ta cứu các ngươi sống,
Nhưng các ngươi từ nay
Ráng tu mười điều tốt.
Ta hứa nếu sau này
Được thành Phật, nhất
định
Sẽ cứu giúp các ngươi,
Cho đắc đạo chính quả
Và vinh hiển muôn đời.
*
Kể xong chuyện, Đức
Phật
Bảo tôi, A Nan Đà:
Vua Từ Lực ngày ấy
Là tiền kiếp của ta.
Còn năm con quỉ đói
Là đức Kiều Trần Như
Và bốn người bạn khác,
Những người đã chối từ
Các thói xấu của quỉ
Để tu mình giúp đời.
Ta hứa dạy họ trước,
Và ta đã giữ lời.
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
12
ĐỨC PHẬT VÀ LỤC SƯ
Chính tôi được chứng
kiến,
Phật Thích Ca mâu Ni
Ở Tịnh xá Vườn Trúc,
Thuộc nước La Duyệt
Kỳ.
Ngoài tôi ra còn có
Một nghìn hai trăm
người
Các chư tăng, phật tử
Nguyện theo Phật suốt
đời.
Vua Bình Sa nước ấy
Tâm niệm Phật hàng
ngày,
Bước đầu chứng sơ quả,
Và dân chúng nước này
Được khuyến khích theo
Phật.
Bản thân vua thường
xuyên
Cúng chư tăng và Phật
Thức ăn và cả tiền.
Trong nước vua, rất
tiếc,
Có người tên Lục Sư,
Đứng đầu một giáo phái
Chẳng một chút nhân
từ.
Nó có trước đạo Phật,
Chuyên trò lừa bịp
dân.
Thế mà dân ngu tối,
Theo chúng, nuôi chúng
ăn.
Trong khi đạo của Phật
Rực sáng như vầng
dương,
Giúp xua tan bóng tối,
Hiểu đạo lý luân
thường.
Vua Bình Sa nhân ái
Lại có một người em
Theo đạo này mê muội,
Như lạc vào bóng đêm.
Hai anh em tranh luận
Đạo nào hơn đạo nào.
Cuối cùng họ quyết
định
Cho thử tài xem sao.
Vậy, đúng bảy ngày
nữa,
Cả Đức Phật Thích Ca
Và Lục Sư giảng pháp
Trước đức vua Bình Sa
Và đám đông công
chúng.
Khi nghe xong, mọi
người
Kết luận ai sai đúng,
Ai thật, ai lòe đời.
Bọn Lục Sư, y hẹn,
Đến trước, ngồi chỗ
cao.
Phật đành ngồi ghế
thấp
Vì chẳng còn chỗ nào.
Nhưng ít phút sau đó,
Bỗng Lục Sư ngỡ ngàng
Thấy mình ngồi ghế
thấp,
Thấp hơn Phật hai
hàng.
Tiếp đến là mời nước,
Theo đúng lễ, tất
nhiên,
Phải từ trên xuống
dưới,
Nhưng Phật bảo không
nên,
Cứ mời Lục Sư trước.
Người hầu bê ấm trà
Rót đi rồi rót lại
Vòi vẫn tắc, không ra.
Nhưng khi rót cho
Phật,
Vòi lại chảy, lạ thay.
Bọn Lục Sư căm lắm,
Nhưng đành nén chuyện
này.
Đến lượt dâng cơm lễ.
Lần nữa Phật xin
nhường,
Cứ mời Lục Sư trước.
Thế mà thật lạ thường.
Ông này chối đây đẩy.
Không nói được một lời
Vì hàm răng dính chặt.
Mọi người ồ lên cười.
Chỉ khi Phật ăn trước,
Thong thả và ngon
lành,
Ông mới mở được miệng,
Cầm chiếc bát của
mình.
Cuối cùng đến thuyết
giảng.
Em trai vua Bình Sa
Mời Lục Sư nói trước,
Thế mà rồi ông ta
Ậm ự không nói được.
Thì ra hai hàm răng
Lần nữa lại dính chặt,
Nên chẳng nói, chẳng
rằng.
Ông ta đành ra hiệu
Mời Đức Phật đăng đàn.
Ngài vừa cất tiếng nói
Ngay lập tức thế gian
Ngập hào quang ngũ
sắc,
Trái đất rung sáu lần.
Như người cha dung dị,
Ngài xuất hiện trước
dân.
Giọng Ngài thật sâu
lắng.
Ngài thuyết về tình
thương,
Về từ bi, bác ái
Và phép tắc, kỷ cương.
Sau buổi thuyết hôm
ấy,
Người em vua Bình Sa
Chứng được Pháp Nhân
Tịnh,
Một lòng theo Thích
Ca.
Mọi người đứng bật
dậy,
Ca tụng công đức Ngài,
Phát nguyện làm đệ tử,
Đảnh lễ, rồi ra ngoài.
13
THÁI TỬ CHU NGỘT
Chính tôi được chứng
kiến,
Phật Thích Ca mâu Ni
Ở Tịnh xá Vườn Trúc,
Thuộc nước La Duyệt
Kỳ.
Ngoài tôi ra còn có
Một nghìn hai trăm
người
Các chư tăng, phật tử
Nguyện theo Phật suốt
đời.
Hôm sau, ở Tịnh xá,
Phật tiếp vua Bình Sa.
Hai người vừa đàm đạo,
Vừa nhâm nhi dùng trà.
Chợt nhà vua đứng dậy,
Lễ ba lần, chắp tay,
Năm lần sụp xuống đất,
Rồi bạch Phật thế này:
“Xưa nay ai cũng biết,
Ngài sinh ra là người
Ba mươi hai tướng tốt,
Và vẻ đẹp - tám mươi.
Nhưng chưa ai được
thấy
Vân tướng ở bàn chân.
Con và nhiều người
khác
Muốn Ngài cho thấy
vân.
Phật thong thả vén áo,
Giơ bàn chân của mình.
Các đường vân tuyệt
đẹp,
Thẳng, rành rẽ, phân
minh.
Nước da thì rất sáng,
Mịn và mỏng, mọi người
Đều sụp lạy, thán
phục.
Thật hiếm có trên đời.
“Bạch thế tôn cao quí,
Các kiếp trước chẳng
hay
Ngài làm gì để có
Tướng mạo đẹp thế
này?”
Phật đáp: “Trong nhiều
kiếp
Ta chuyên làm điều
lành,
Chăm tích góp việc
thiện
Để cứu độ chúng sinh.”
Vua Bình Sa nhân tiện
Trách Lục Sư hôm qua
Dám mê muội đọ sức
Với Đức Phật Thích Ca.
Phật nói, trong quá
khứ
Đã có lần người này
Tranh lợi danh với
Phật,
Và cuối cùng trắng
tay.
Ngài hứa kể câu chuyện
Xẩy ra từ rất lâu.
Mọi người hồi hộp đợi.
Cuối cùng Ngài bắt
đầu.
*
Hàng vạn kiếp về
trước,
Có vương quốc bao la.
Vị vua vương quốc ấy
Tên là Ma Ha Xa.
Ông là vua, cai trị
Năm trăm bà phu nhân,
Đúng năm trăm nước nhỏ
Và vô số đại thần.
Thế mà ông, thật tiếc
Chưa sinh được con
trai.
Rồi mai mốt ông chết,
Biết nhường ngôi cho
ai?
Trên thiên cung, Đế
Thích
Thấu hiểu nỗi lòng
ông,
Bèn bay xuống, dưới
dạng
Một thầy thuốc lưng
còng.
Ngài đưa một bó thuốc,
Rồi hướng dẫn cách
dùng.
Các bà phi uống nó
Sẽ công hiệu vô cùng.
Thuốc được sắc, đúng
cách,
Dâng lên Đại Phu nhân,
Nhưng bà này không
uống,
Che bẩn như nước phân.
Các thứ phi, ngược
lại,
Uống, đều sinh con
trai.
Đại Phu nhân thấy thế,
Cũng uống theo lời
ngài.
Rồi trăng tròn, nguyệt
mãn,
Bà sinh được người
con.
Có điều nó xấu xí,
Như con quỉ tí hon.
Cũng vì nó quá xấu,
Mọi người mới buồn
phiền
Đặt tên là Chu Ngột,
Hàm ý con quỉ đen.
Đức vua và hoàng hậu
Rất đau lòng chuyện
này.
Họ đem nó giấu kỹ,
Không cho mọi người
hay.
Đến khi Chu Ngột lớn,
Cũng là lúc nước nhà
Bị láng giềng xâm
lược,
Muốn giết Ma Ha Xa.
Quân nhà vua yếu thế,
Đất nước đang âm nguy.
Chu Ngột liền xung
trận,
Tay cầm cung, cầm
chùy.
Chàng tả xung hữu đột,
Bằng sức mạnh phi
phường,
Đánh tan tác quân
giặc,
Giải phóng được quê
hương.
Rồi vua và hoàng hậu
Muốn tìm vợ cho chàng.
Có một công chúa đẹp,
Con gái vua lân bang.
Vì Chu Ngột xấu xí,
Vua cử người đi thay,
Cho đóng làm chàng rể.
Rất thành công vụ này.
Ông vua bố công chúa
Là Luật Sư Bạt Ta,
Nhận vàng và lễ hậu,
Đồng ý làm thông gia.
Vì xấu, nên chàng rể
Chỉ gặp nàng ban đêm.
Nói ban ngày bận việc.
Mọi việc thế là êm.
Nhưng rồi chuyện vỡ
lở.
Công chúa về nước
mình.
Sáu vương quốc lúc ấy
Cùng đồng loạt dấy
binh.
Họ hỏi tội ông bố
Dám cả gan chối từ
Lời cầu hôn của họ,
Mà gả cho “nhân sư”.
Lần nữa chàng Chu Ngột
Lại ra tay, rất nhanh,
Quân của sáu nước ấy
Bị chàng đánh tan
tành.
Chàng đưa vợ về nước
Rồi lên ngôi vua cha.
Nhưng công chúa, như
trước,
Vẫn ngại ngùng, tránh
xa.
Được hỏi thì nàng đáp
Tại vì “dung nhan
chàng
Trông không hấp dẫn
lắm.”
Chu Ngột không trách
nàng.
Chàng soi gương, tự
thấy
Mình xấu xí nhất đời,
Rồi buồn và đau khổ,
Tự trách mình, trách
trời.
Cuối cùng chàng quyết
định
Treo cổ trên cành cây,
Để giải phóng cho vợ,
Để thoát nỗi nhục này.
Từ trên cao, Đế Thích
Bay xuống cùng người
hầu.
Ngài đưa chàng viên
ngọc,
Bảo đặt nó lên đầu.
Ngay lập tức, Chu
Ngột,
Xấu như con quỉ đen,
Biến thành một hoàng
tử,
Thanh cao, đẹp, dịu
hiền.
Từ đấy chàng và vợ
Sống hạnh phúc, yên
hòa.
Chàng đổi tên Chu Ngột
Thành La Phiến Tu Đà.
*
Kể đến đây, Đức Phật
Quay sang bảo mọi
người:
“Chàng Chu Ngột xấu xí
Là thân ta một thời.
Còn sáu vua xâm lấn
Chính là bọn Lục Sư.
Chúng vừa phải khuất
phục
Trước đạo Phật nhân
từ.”
Mọi người nghe, hoan
hỉ,
Ca ngợi thầy Thích Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
14
CON THÚ CỪ ĐÀ TỰ HIẾN
BỘ DA CỦA MÌNH
Chính tôi được chứng
kiến,
Phật Thích Ca Mâu Ni
Ở núi Kỳ Xà Quát,
Thuộc nước La Duyệt
Kỳ.
Lần ấy Ngài bị cảm,
Được Kỳ Vực Y Vương
Kê băm hai lạng thuốc,
Dặn không được rời
giường.
Cùng lúc cũng bị cảm
Có Đề Bà Đạt Ba.
Ông này vốn ghen ghét
Với Đức Phật Thích Ca.
Kỳ Vực kê bốn lạng
Để chữa bệnh ông này.
“Sao ông kê cho Phật
Băm hai lạng một
ngày?”
“Đức Phật khác, ông
khác.
Thuốc này mạnh, cho
nên
Ông uống quá bốn lạng
Chắc chắn sẽ rất
phiền.”
Vốn không chịu thua
Phật
Nên Đề Bà Đạt Ba
Uống liền băm hai
lạng,
Rồi ngất, ngã xuống
nhà.
Đức Phật biết, cảm
cảnh,
Với cánh tay tình
thương,
Từ xa dùng công lực,
Chữa ông khỏe bình
thường.
Thế mà khi tỉnh lại,
Ông Đề Bà Đạt Đa
Lại lấy làm khó chịu
Với Đức Phật Thích Ca.
“Ông này đã giỏi pháp,
Giờ lại còn giỏi y.
Tất sẽ cầu danh lợi,
Chứ chẳng phải từ bi.”
Tôi vô tình nghe thấy,
Liền bạch với Thích
Ca:
“Thật vô ơn, xấu bụng,
Ông Đề Bà Đạt Đa!”
Ngài đáp: “Con người
ấy
Ghét ta bao đời nay.
Trong quá khứ cũng
thế.”
Rồi Ngài kể chuyện
này.
*
Cách đây đã lâu lắm,
Muôn ức A Tăng Kỳ,
Có nước Ba La Nại.
Vua là người ngu si,
Lại tính tình hung dữ,
Giết người không ghê
tay,
Tên là Phạm Ma Đạt.
Ai cũng ghét vua này.
Một hôm vua nằm mộng
Thấy con thú lông
vàng,
Đầu lông phát tia
sáng,
Trông như ánh hào
quang.
Sáng dậy, vua cho
triệu
Các thợ săn vào cung,
Kể lại giấc mơ ấy,
Rồi ra lệnh hãi hùng:
“Trong vòng đúng ba
tháng
Phải bắt nó, lột da
Rồi đem bộ da ấy
Đưa vào đây cho ta.
Được thế, ta trọng
thưởng
Cho con cháu bảy đời.
Nếu không, ta sẽ giết,
Giết tất cả các
người!’
Đám thợ săn lo quá
Vì sợ bị chém đầu.
Chưa chắc đã có nó.
Nếu có, biết tìm đâu?
Nhưng rồi cực chẳng
đã,
Họ vẫn phải lên đường,
Vào rừng sâu tìm kiếm
Con thú ấy dị thường.
Họ tìm mãi chẳng thấy,
Cuối cùng thuê một
người,
Một thợ săn rất giỏi,
Lại hiểu biết lẽ đời.
Ông nhận làm việc ấy
Không phải để lấy
tiền,
Mà muốn cứu sống họ
Khỏi tay tên vua điên.
Thế là ông đơn độc,
Tìm kiếm trong rừng
sâu,
Chịu đói rồi chịu rét,
Có lúc còn ốm đau.
Cuối cùng lương thực
hết,
Ông ngã xuống, và rồi
Khẽ kêu lên yếu ớt:
“Có người nào cứu
tôi?”
Ông không ngờ con thú
Mà ông kiếm nhiều ngày
Đang ở kề bên cạnh
Và nghe tiếng kêu này.
Nó là con thú lạ,
Lông vàng và bộ da
Phát ra những tia
sáng,
Có tên là Cừ Đà.
Cừ Đà vội đi đến,
Rồi bế người thợ săn
Xuống khe sâu uống
nước,
Hái trái cây cho ăn.
Được cứu sống, tỉnh
lại,
Người thợ săn bàng
hoàng
Khi thấy ngay bên cạnh
Là con thú lông vàng.
“Mình không thể giết
nó,
Vì nó cứu sống mình.
Nhưng không giết, bọn
họ
Sẽ bị vua hành hình…”
Thấy ông buồn, nghĩ
ngợi,
Con thú cứ nài ông.
Cuối cùng, không đừng
được,
Ông nói hết nỗi lòng.
Con thú nghe, liền
đáp:
“Việc ấy chẳng khó gì.
Ông cần bộ da ấy,
Thì cứ việc lấy đi.
Tôi đã sống nghìn
kiếp,
Chết cũng đã nghìn
lần,
Chưa làm được điều
tốt,
Cái mà mọi người cần.
Nên bây giờ tôi chết
Để cứu sống nhiều
người,
Thì đó là cái chết
Vì chúng sinh, vì đời.
Còn chờ gì, anh bạn,
Nào nhanh lên, cầm
dao.
Bộ da tôi, hãy lột.
Tôi không tiếc chút
nào.”
Con thú nằn nì mãi,
Cuối cùng người thợ
săn
Dùng dao bóc da nó,
Thận trọng và dần dần.
Nó không hề dãy dụa,
Không một lời kêu rên.
Khi bộ da bóc hết,
Nó mới phát lời
nguyền:
“Tôi Cừ Đà, tình nguyện
Để người lột da mình
Chỉ với một mục đích
Là cứu rỗi chúng
sinh.”
Cả ba nghìn thế giới
Nghe xong lời nguyện
này,
Sáu lần rung chuyển
mạnh,
Nghiêng ngã các trời
mây.
Các chư thiên bay
xuống,
Tung hoa lên Cừ Đà.
Con thú nằm bất động,
Đỏ hỏn vì không da.
*
Kể tới đây, Đức Phật
Bảo tôi, A Nan Đà:
“Con thú Cừ Đà ấy
Là tiền kiếp của ta.
Còn vua Phạm Ma Đạt
Là Đạt Đa ngày nay.
Nhỏ nhen con người ấy,
Ghen ghét ta hàng
ngày.”
Mọi người nghe, tư lự,
Ngưỡng mộ thầy Thích
Ca.
Rồi tất cả lễ phép
Cúi đầu chào, lui ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét