Tóm Lược Lịch Sử Việt Nam
THỜI TIỀN SỬ
Từ xưa, thời tối cổ,
Trên lãnh thổ nước ta
Đã có cư dân sống,
Qua các thời, đó là
Thời đại đồ đá cũ
Có văn hóa Sơn Vi.
Ba mươi nghìn năm trước,
Ở Phú Thọ, Ba Vì.
Thời đại đồ đá mới
Có văn hóa Hòa Bình,
Với nghề trồng lúa nước
Thành một nền văn minh.
Khoảng bốn nghìn năm trước
Là thời đồ đồng đen
Với văn hóa Đồng Dậu,
Gò Mun và Phùng Nguyên.
Thời đồ sắt sau đó,
Ba nghìn năm hoặc hơn,
Có các nền văn hóa
Sa Huỳnh và Đông Sơn.
THỜI HỒNG BÀNG (2879 - 208 TCN)
1. XÍCH QUỶ
Có thể gọi Xích Quỷ
Là “nhà nước liên bang”
Của nhiều bộ tộc Việt
Trong giai đoạn Hồng Bàng.
Cuốn Đại Việt Sử Ký
Có chép lại như sau:
Trời chia làm hai nửa,
Bắc và Nam đều nhau.
Nửa Bắc của Trung Quốc.
Nửa Nam của chúng ta.
Hai bên núi Ngũ Lĩnh
Quanh năm mây sáng lòa.
Chúng ta thuộc dòng dõi
Của thủy tổ Thần Nông,
Còn gọi là Viêm Đế,
Cao quý bậc tiên rồng.
Cháu của vua Viêm Đế,
Cháu ba đời, Đế Minh,
Khi đi qua Ngũ Lĩnh,
Gặp một nàng rất xinh.
Họ lấy nhau, sinh hạ
Được hai người con trai.
Đế Nghi là con trưởng.
Lộc Tục, con thứ hai.
Khi ngài chết, con trưởng
Được truyền ngôi Trung Hoa.
Lộc Tục được di chúc
Làm vua phía nước ta.
Ngài bước lên ngôi báu,
Xưng là Kinh Dương Vương.
Đặt tên nước Xích Quỷ,
Theo luân lý, đạo thường.
Rồi ngài lấy con gái
Của Động Đình Hồ Quân,
Sinh con trai, Hồ Lãm,
Sau là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân, ta biết
Đã lấy nàng Âu Cơ.
Sinh ra dân tộc Việt
Tồn tại đến bây giờ.
2. VĂN LANG (Thế kỷ thứ 7 TCN)
Khi Xích Quỷ tan rã
Cùng chế độ “liên bang”,
Hình thành nhà nước mới
Có tên là Văn Lang.
Kinh đô nhà nước mới
Ở Phú Thọ, Phong Châu.
Vua Hùng, mười tám vị,
Cai trị luân phiên nhau.
Đất nước ấy rộng lớn,
Gồm Bắc Bộ bây giờ
Và vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên thơ.
Nước có mười lăm bộ,
Giống huyện quận ngày nay,
Đứng đầu là Lạc Tướng.
Bên dưới các bộ này
Có rất nhiều chiềng, chạ,
Tương đương như xã, làng,
Đứng đầu là Bồ Chính,
Chức quan thời Văn Lang.
Nhà nước chưa có luật,
Cả quân đội cũng không.
Mỗi khi có chiến sự,
Các trai tráng một lòng
Theo lệnh vua chiến đấu.
Lạc Tướng luôn dẫn đầu.
Lo các việc chính sự
Có các quan Lạc Hầu.
Kiểu cha truyền con nối,
Các vua lên ngai vàng.
Mị Nương là công chúa.
Hoàng tử là Quan Lang.
*
Là một nước nông nghiệp,
Người Văn Lang bấy giờ
Giỏi về canh tác lúa,
Biết dệt vải, thêu thùa.
Chiếc trống đồng Ngọc Lũ,
Phát hiện ở Hà Nam
Và một số trống khác
Cũng người thời ấy làm.
Họ còn biết dùng sắt
Đúc vũ khí, lưỡi cày.
Đánh cá, nuôi gia súc,
Đóng thuyền và trồng cây.
Vì còn nhiều thú dữ
Nên dân ở nhà sàn.
Nhà làm bằng tre nứa,
Tường là các tấm đan.
Nam giới chỉ đóng khố.
Nữ mặc váy, yếm che.
Chân trần, đầu thường đội
Một vòng lông chim xòe.
Dân Văn Lang thời ấy
Xăm mình, nhuộm răng đen.
Theo chế độ mẫu hệ
Và thờ cúng tổ tiên.
Vào những ngày lễ hội
Họ tổ chức đua thuyền,
Thi giã gạo, làm bánh,
Rộn tiếng trống, tiếng kèn.
3. ÂU LẠC (257 - 208 TCN)
Nhờ Thục Phán, tướng giỏi,
Cũng là một trung thần,
Vua Hùng thứ Mười Tám,
Đánh bại quân nhà Tần.
Sau vua nhường ngôi báu
Cho Thục Phán, và rồi
Ngài lui về ở ẩn.
Còn Thục Phán lên ngôi.
Ông nhập hai nước Việt
Đang tồn tại song song,
Là Âu Việt, Lạc Việt
Thành Âu Lạc, và ông
Cho lấy niên hiệu mới
Là Thục An Dương Vương,
Nửa thế kỷ Nhà Thục
Đã phát triển hùng cường.
Kinh đô nước Âu Lạc
Được dời về Cổ Loa.
Đánh dấu một trang mới
Trong lịch sử nước nhà.
4. NAM VIỆT (208 - 111 TCN)
Triệu Đà là quan úy
Quận Nam Hải, Quảng Đông.
Nhân nhà Tần suy yếu,
Đã nổi loạn, và ông
Đem quân đi thôn tính
Mân Việt và Quế Lâm
Rồi lãnh thổ Âu Lạc...
Suốt gần một trăm năm.
Ông lập một nước mới
Là Nam Việt, không ngừng
Lo mở mang bờ cõi,
Kinh đô là Phiên Ngưng.
Kinh đô ấy rất lớn,
Đất Quảng Châu ngày nay.
Nước Nam Việt thời đó
Gồm Quảng Đông, Quang Tây,
Đảo Hải Nam... phía dưới
Là Giao Chỉ nước mình,
Rồi Cửu Chân, Thanh Nghệ,
Và Nhật Nam, Quảng Bình...
Từ ông vua ngoại tộc,
Thành vua Nam, Triệu Đà
Cùng nhân dân Đại Việt
Chống Nhà Hán Trung Hoa.
*
Vào năm Một-Một-Một (TCN)
Hán Vũ Đế thừa cơ
Đem mười vạn quân Hán
Đánh Nam Việt bất ngờ.
Quân Triệu Đà yếu thế,
Phải thua chạy, thế là
Nam Việt bị sáp nhập
Vào nhà Hán Trung Hoa.
Sự kiện này đánh dấu
Gần bảy mươi năm sau
Nước ta mất độc lập,
Bị Bắc Thuộc lần đầu.
5. HAI BÀ TRƯNG (40 - 43)
Trưng Trắc và Trưng Nhị,
Vì nợ nước thù nhà,
Đã dấy binh khởi nghĩa
Chống nhà Hán Trung Hoa.
Trong ba năm kháng chiến,
Chiếm được sáu lăm thành
Ở Hợp Phố, Giao Chỉ
Và Xứ Nghệ, Xứ Thanh...
Hai Bà lập nước mới,
Đóng đô ở Mê Linh.
Đuổi thái thú phương Bắc,
Tự phong vương cho mình.
Năm sau, nhà Đông Hán
Sai Mã Viện Phục Ba
Đem đại binh sang đánh
Và hỏi tội Hai Bà.
Do ở thế cô lập,
Nhà nước chưa vững vàng,
Ta thua, hai nữ tướng
Tuẫn tuẫn tiết ở Hát Giang.
Vậy là ta phải chịu
Bắc Thuộc lần thứ hai.
(Còn nữa, đang viết).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét