KINH THÁNH, Đầy đủ - 2
10
GIÔ-SÉP
Gia-cốp yêu Giô-sép,
Còn gọi là Giu-sê,
Một người rất mộ đạo
Và ngoan ngoãn mọi bề.
Ông tặng riêng Giô-sép
Chiếc áo thêu chỉ vàng.
Vì thế, các anh chị
Đem lòng ghen ghét chàng.
Còn một lý do nữa -
Thơ ngây, không cố tình,
Chàng kể cho anh chị
Về giấc mơ của mình.
Rằng trong mơ chàng thấy
Các anh chị xếp hàng,
Đang van xin gì đấy,
Kiên nhẫn quỳ trước chàng.
Một ngày nọ Gia-cốp
Sai Giô-sép ra đồng
Xem các anh làm việc,
Có gì không ổn không.
Thấy Giô-sép xuất hiện,
Các anh kia bàn nhau
Giết chàng, nhưng anh cả
Là Ru-bên lắc đầu.
Vừa hay, đúng lúc ấy
Có đoàn người đi ngang.
Người It-ma-ên, Ai Cập,
Thế là họ bán chàng
Lấy hai mươi nén bạc.
Một việc làm đáng chê.
Họ cởi áo chàng mặc
Rồi nhúng vào máu dê.
Nhìn chiếc áo, Gia-cốp
Khóc, vì nghĩ con ông
Bị thú dữ ăn thịt,
Nước mắt chảy ròng ròng.
Lại nói về Giô-sép.
Chàng bị đưa đi xa.
San tận xứ Ai Cập,
Bán cho Phô-ti-pha.
Ông này rất giàu có,
Luôn bên Pha-ra-ông.
Ông giao cho Giô-sép
Quản lý ngôi nhà ông.
Đẹp trai, mười bảy tuổi,
Một hôm chồng vắng nhà,
Giô-sép bị bà chủ
Bắt ăn nằm với bà.
Vì là người mộ đạo,
Chàng không chịu, bà này
Bèn tố chàng ngược lại.
Và rồi, oái oăm thay,
Chàng bị tống vào ngục.
Là người tốt, chuyên cần,
Chàng được quan cai ngục
Cho cai quản tù nhân.
Có hai tù nhân mới,
Người của Pha-ra-ông.
Đó là quan đầu bếp,
Quan hầu rượu cho ông.
Họ nói họ vừa có
Hai giấc mơ lạ kỳ.
Vốn có tài giải mộng,
Giô-sép nói: “Kể đi”.
Sau khi nghe, chàng nói,
Ba ngày nữa, một ông,
Tức là quan hầu rượu
Cho vua Pha-ra-ông
Sẽ được tha, quay lại
Với công việc trước đây.
Khi được tha, nhân tiện,
Chàng muốn được người này
Xin vua xem xét lại
Chuyện oan trái của mình.
Còn người kia, chàng báo
Ba hôm nữa tử hình.
Quả thật đúng như vậy
Quan hầu rượu được tha.
Lại hầu rượu như cũ.
Ấy vậy mà ông ta
Quên chuyện của Giô-sép.
Chẳng ai hiểu thế nào.
Thêm hai năm Giô-sép
Phải ở trong nhà lao.
Pha-ra-ông đêm nọ
Mơ giấc mơ thế này:
Có bảy con bò béo
Và bảy con bò gầy.
Vậy mà bảy con béo
Bị bảy con gầy ăn.
Đáng lẽ phải ngược lại.
Vua rất đỗi phân vân.
Hôm sau, vua mơ tiếp,
Thấy bảy bông lúa gầy
Ăn bảy bông lúa béo.
Cũng kỳ lạ điều này.
Các đại thần, thầy bói
Liền được Pha-ra-ông
Cho triệu đến giải mộng
Giấc mơ này của ông.
Không ai giải được nó.
Ai cũng phải lắc đầu.
Cuối cùng quan hầu rượu
Sực nhớ, liền cúi tâu:
“Lúc thần bị tù tội,
Trong tù có một người
Rất giỏi môn giải mộng,
Mọi giấc mộng trên đời”.
Giô-sép được đưa đến.
Chàng liền tâu với vua:
“Bẩm, bò béo, lúa béo
Là dấu hiệu được mùa.
Còn dấu hiệu thất bát
Là bò gầy, lúa gầy.
Giấc mơ của bệ hạ
Báo trước điềm thế này:
Trong bảy năm sắp tới
Sẽ liên tục được mùa.
Còn bảy năm sau đó
Sẽ liên tục mất mùa.
Vậy phải tích lương thực,
Một lúc hoặc dần dần.
Đề phòng những năm đói
Còn có cái mà ăn”.
Pha-ra-ông sung sướng,
Giao chàng lo việc này.
Còn phong làm tể tướng.
Và Giô-sép từ nay
Trở thành người thân cận,
Được tin yêu hết lòng,
Với quyền hành lớn nhất,
Chỉ sau Pha-ra-ông.
Rồi nạn đói ập xuống
Như vua mơ năm nào.
Nhờ tích trước lương thực,
Dân Ai Cập không sao.
Nhưng người từ tứ xứ
Lũ lượt kéo về đây
Mua lúa mì, mua bánh
Trong số những người này
Có các anh Giô-sép.
Họ không nhận ra chàng.
Nhưng chàng nhận ra họ.
Từng người một, rõ ràng.
Chàng còn nhớ đã kể
Cho họ về giấc mơ
Về việc họ quỳ lạy
Như họ làm bây giờ.
Gặp các anh, Giô-sép
Nước mắt suýt tuôn trào.
Nhưng chàng vẫn muốn biết
Lòng dạ họ thế nào.
Giô-sép nói: “Các vị
Chắc được phái đến đây
Để dò la tin tức
Và bí mật xứ này.
Vậy thì phải bị bắt”.
Họ liền kêu: “Không, không.
Chúng tôi dân lương thiện,
Chăn thú, làm nghề nông.
Nhà chúng tôi tất cả
Có mười hai người con.
Người em út không đến.
Một người nữa không còn”.
Giô-sép vò tức giận,
Bắt người anh đưa đi.
Tha những người còn lại,
Còn cho ít lúa mì.
“Lần sau, khi quay lại,
Đưa người em đến đây.
Ta sẽ cho thêm lúa.
Gấp đôi số lúa này”.
Về nhà, nghe kể lại.
Ông Gia-côp rất buồn.
Người con ông yêu quý,
Giô-sép đã không còn.
Nên giờ ông không muốn
Mất thêm Ben-gia-min.
Nó là đứa con út,
Ông rất yêu, rất tin.
Nhưng rồi thức ăn hết.
Nhà lại cần lúa mì.
Ông đành gạt nước mắt
Cho Ben-gia-min đi.
Gặp lại em, vui sướng,
Sau bao nhiêu năm trời.
Giô-sép sai đổ lúa
Đầy bao cho từng người.
Nhưng còn một thử thách
Chàng muốn họ vượt qua.
Trong bao của em út,
Chàng lén sai người nhà
Giấu một chiếc cốc bạc.
Rồi vu Ben-gia-min
Đã trộm chiếc cốc ấy.
Mặc dù vẫn không tin,
Mười anh trai tuyệt vọng,
Nói rằng họ sẵn sàng
Ở lại đất Ai Cập
Làm nô lệ cho chàng
Miễn là em của họ
Được phép rời khỏi đây.
Vì bố họ không thể
Sống thiếu người con này.
Giờ thì Giô-sép biết
Rằng các anh của mình
Không còn là người xấu,
Sống có nghĩa, có tình.
Không kìm thêm được nữa,
Giô-sép ôm các anh,
Khóc, kể hết sự thật,
Cả điều dữ, điều lành.
Chàng bảo họ quay lại
Đưa bố cùng họ hàng
Sang Ai Cập sinh sống,
Sống mãi mãi với chàng.
Pha-ra-ông hay chuyện,
Cũng tỏ ý vui mừng,
Cho nhiều xe ngựa đón
Và mở tiệc tưng bừng.
Cả họ tộc Gia-cốp,
Tổng cộng bảy mươi người,
Định cư ở Ai Cập
Cho đến tận cuối đời.
Chúa đổi tên Gia-cốp
Thành Y-sơ-ra-ên.
Họ, những người Do Thái
Duy nhất và đầu tiên
Lập nghiệp ở Ai Cập,
Chịu nhiều nỗi đắng cay,
Nhưng được Chúa cứu giúp.
Như ta biết sau này.
11
GIÓP
Sau khi ông Gia-cốp
Và Giô-sép, con ông
Chết ở xứ Ai Cập,
Người Do Thái còn đông.
Quỷ Sa-tăng nham hiểm
Quyến rũ được nhiều người.
Nhưng một người, tên Gióp,
Vẫn luôn tin Chúa Trời.
Một ngày nọ, Đức Chúa
Nói với quỷ Sa-tăng:
“Hãy nhìn con người ấy,
Chính trực và công bằng.
Giữa những người độc ác
Chuyên làm chuyện xấu xa,
Mà ông ấy, ông Gióp,
Vẫn hết lòng tin ta”.
Con quỷ đáp: “Vì hắn
Được hưởng lợi từ ông.
Giờ ông thử lấy hết,
Xem còn tin hay không”.
Chúa đáp: “Ngươi cứ thử.
Cứ lấy hết xem sao.
Rồi sau ta sẽ biết
Con người ấy thế nào.
Vâng, cứ thử, tuy vậy,
Không được giết ông ta”.
Quỷ Sa-tăng đồng ý.
Và hắn thử - thế là
Đàn gia súc của Gióp
Bỗng nhiên chạy đi đâu,
Tìm mãi mà không thấy.
Rồi một lúc cùng nhau,
Những người khác thì sống,
Mà mười đứa con ông
Đã phải chết thê thảm
Trong một trận cuồng phong.
Hơn thế, đang khỏe mạnh,
Mà ông Gióp bỗng nhiên
Mắc thứ bệnh quái ác,
Phải đau đớn kêu rên.
Nhà đói khổ đến mức
Bà vợ đay nghiến chồng:
“Trời ơi, sao lại thế?
Hãy nguyền rủa Chúa ông!”
Sau đó thì đến lượt
Cả mấy người bạn già
Cũng khuyên Gióp bỏ Chúa.
“Thôi, đừng tin ông ta!”
Nhung Gióp vẫn một mực
Tin vào Đức Chúa Trời,
Bất chấp mọi bất hạnh
Và trớ trêu cuộc đời.
Vậy là quỷ thua cuộc.
Đức Chúa rất hài lòng.
Ban lại đàn gia sức,
Chữa lành bệnh cho ông.
Hơn thế, Ngài cho Gióp
Thêm mười người con trai.
Gia đình hết đói khổ.
Của cải tăng gấp hai.
12
MÔ-SÊ
Nhiều năm liền Gia-cốp
Và gia đình của mình
Sống ở đất Ai Cập
Sung sướng và yên bình.
Vì yêu quý Giô-sép
Nên vua Pha-ra-ông
Luôn ưu ái, chăm sóc
Người Do Thái của ông.
Khi Pha-ra-ông mới
Lên cầm quyền, tiếc thay,
Thì mọi chuyện khác hẳn.
Không còn như trước đây.
Hắn sợ dân Do Thái,
Khôn ngoan và nhiều tiền,
Đông đúc và hùng mạnh,
Sẽ có lúc tiếm quyền.
Vì vậy, dân Do Thái,
Cả trẻ và cả già,
Bị bắt làm nô lệ,
Cướp đoạt hết tiền, nhà.
Hắn lệnh các bà mụ,
Hễ dân Do Thái nào
Đẻ con trai là giết.
Không cần biết vì sao.
Nhiều bà mụ tuy vậy,
Dẫu sợ Pha-ra-ông,
Nhưng giết trẻ vô tội
Thì quả không đành lòng.
Nên có nhiều đứa bé
Người Do Thái, con trai,
Vẫn may mắn sống sót,
Sau khôn lớn thành tài.
Một trong những bé ấy
Là Mô-sê, bé này
Mẹ nuôi được ba tháng
Thì buộc lòng chia tay.
Vì sợ con bị giết,
Bà lấy chiếc giỏ nan
Trét nhựa kín bốn phía
Để nước không thấm tràn.
Bà đạt con vào giỏ
Cho trôi theo sông Nin.
Mi-ri-am, cô chị,
Được mẹ sai đứng nhìn.
Vừa may đúng lúc ấy
Con gái Pha-ra-ông
Cùng nữ tỳ xuống tắm,
Giữa làn nước xanh trong.
Bất chợt nàng nhìn thấy
Chiếc giỏ nan của bà.
Bèn sai người đến vớt.
Tò mò, nàng mở ra
Thì thấy một cậu bé
Xinh đẹp, mắt long lanh.
Nàng biết dân Do Thái,
Nhưng giết thì không đành.
Trong khi đang do dự,
Bối rối và ngỡ ngàng,
Mi-ri-am nhanh nhẹn
Chạy đến nói với nàng:
“Cháu có thể tìm hộ
Cho công chúa một người
Để chăm sóc đứa bé
Đến khôn lớn thành người”.
Công chúa liền đồng ý.
Mi-ri-am về nhà
Gọi mẹ, và công chúa
Trao Mô-sê cho bà.
“Bà chăm sóc cẩn thận.
Ta sẽ trả tiền công.
Ai hỏi thì cứ nói
Con gái Pha-ra-ông
Nhờ bà nuôi đứa bé.
Không ai dám phiền hà”.
Kể từ đấy bà mẹ
Được nuôi chính con bà.
Khi Mô-sê đã lớn,
Bà đưa cậu vào cung
Để ra mắt công chúa
Con gái Pha-ra-ông.
Công chúa rất yêu cậu,
Nhận làm con nuôi nàng.
Từ đấy cậu được sống
Trong cung điện dát vàng.
Mô-sê càng khôn lớn
Càng nổi tiếng thông minh.
Thấu hiểu rất nhiều chuyện,
Nhất là biết rằng mình
Không phải người Ai Cập,
Mà người It- sra-ên,
Là dân từ xa tới,
Có Đức Chúa, tổ tiên.
*
Khi đã bốn mươi tuổi,
Ông quyết định ra ngoài
Để xem dân ông sống
Thế nào và do ai.
Hóa ra họ, nô lệ,
Chứ không phải là người.
Bị ngược đãi, đánh đập,
Làm quần quật ngoài trời.
Khi bất chợt ông thấy
Một người It-sra-ên
Bị một người Ai Cập
Đánh dã man, đê hèn,
Không kìm nổi tức giận,
Ông đánh chết tên này.
Vùi xác hắn xuống cát
Rồi vội bỏ đi ngay.
Hôm sau ông lại đến.
Hai người It-sra-ên
Đang đánh nhau, thấy vậy,
Ông gạt ra hai bên.
“Sao người cùng chủng tộc
Mà các ông đánh nhau?”
Một người đáp: “Xin hỏi,
Ông là ai, từ đâu
Mà có quyền phán xét,
Thậm chí giết người ta
Như một người Ai Cập
Ông đã giết hôm qua?”
Ông biết mình bị lộ.
Và chính Pha-ra-ông
Nay mai sẽ phát lệnh
Cho bắt và giết ông.
Ông quyết định bỏ trốn,
Đến một nơi an toàn.
Xa, rất xa Ai Cập,
Là xứ Ma-đi-an.
Ở đấy ông đã gặp
Gia đình Giê-tờ rô.
Một ông già tốt bụng,
Nuôi nhiều dê, nhiều bò.
Rồi ông cưới làm vợ
Cô con, Sê-phô-ra.
Trở thành người chăn thú
Trong gia đình ông già.
*
Thời gian trôi, thấm thoát
Đã bốn mươi năm trời.
Ông Mô-sê lúc ấy
Bước qua tuổi tám mươi.
Một hôm, như thường lệ,
Ông lùa thú ra đồng.
Chợt thấy điều kỳ lạ
Xẩy ra trước mắt ông.
Một bụi gai đang cháy.
Nhưng cháy mãi không tàn.
Ông lấy làm khó hiểu,
Cẩn thận bước lại gần.
Từ bụi gai bất chợt
Bỗng phát ra tiếng người:
“Ngươi đang trong đất thánh.
Hãy cởi dép của ngươi”.
Ông sợ hãi, đứng lại,
Rồi quỳ xuống lắng nghe.
Đó chính là Thiên Chúa.
Ngài nói với Mô-sê:
“Ta thấy con dân Chúa
Ở Ai Cập lâu nay
Phải sống kiếp nô lệ,
Nhục nhã và đắng cay.
Nay ta muốn đưa chúng
Tới một nơi an toàn,
Tới miền đất ta hứa
Là xứ Ca-na-an.
Con sẽ làm điều ấy.
Con đưa con dân ta
Ra khỏi đất Ai Cập,
Cả người trẻ, người già”.
“Nhưng việc này khó lắm.
Con biết làm thế nào?
Nếu có người hỏi vặn
Ông ai, thì sao?”
“Thì con nói với họ,
Rằng ta, Giê-hô-va,
Giao cho con điều ấy
Để cứu dân của ta”.
“Nhưng nếu họ một mực
Vẫn không tin điều này?”
Đức Chúa bất chợt hỏi:
“Con cầm gì trên tay?”
“Dạ, đó là chiếc gậy
Con chăn chiên hàng ngày”.
“Hãy ném nó xuống đất”.
Lập tức chiếc gậy này
Biến thành một con rắn.
Rồi Đức Chúa bảo ông
Hãy cho tay vào túi.
Khi rút ra, lạ không,
Bàn tay ông trắng xóa,
Trắng như lông thiên nga.
Chúa còn cho ông thấy
Thêm phép lạ thứ ba.
“Thấy những phép lạ ấy,
Họ sẽ tin con ngay,
Rắng chính ta, Đức Chúa
Giao con làm việc này”.
Mô-sê vâng ý Chúa,
Liền khăn gói lên đường
Quay trở lại Ai Cập
Giữa sáng sớm tinh sương.
*
Khi về đến Ai Cập,
Ông khoe với mọi người
Các phép lạ, và họ
Tin ông, tin Chúa Trời.
Ông và người anh cả,
Có tên là A-rông,
Cuối cùng đã quyết định
Đến gặp Pha-ra-ông.
“Xin vua hãy cho phép
Người dân It-sra-ên
Nghỉ ba ngày để họ
Ra đồng cúng tổ tiên
Và cũng để thờ phụng
Thiên Chúa Giê-hô-va”.
Pha-ra-ông liền đáp:
“Ta không biết ông ta”.
Hơn thế, vua còn bắt
Nô lệ It-sra-ên
Làm việc nhiều hơn trước,
Khiến họ phải than phiền
Rằng vì ông mà họ
Vốn cơ cực đã lâu,
Nay càng thêm cơ cực.
Mô-sê rất buồn rầu.
Được Đức Chúa khích lệ
Mô-sê và A-rông
Lại thêm một lần nữa
Đến gặp Pha-ra-ông.
A-rông ném chiếc gậy.
Chiếc gậy ngay tức thì
Biến thành một con rắn,
To, hung tợn cực kỳ.
Các pháp sư Ai Cập
Liền ném gậy của mình.
Chúng cũng biến thành rắn,
Bé nhỏ và hôi rình.
Ngay lập tức con rắn
Của Mô-sê, A-rông
Đã ngấu nghiến ăn hết
Rắn của Pha-ra-ông.
Tuy rất đỗi kinh sợ
Sự kiện này lạ kỳ,
Ông ta vẫn không chịu
Cho dân It-ra-ên đi.
Cuối cùng Chúa phải giáng
Mười tai họa kinh hoàng,
Ông vua này bướng bỉnh
Mới phải chịu đầu hàng.
Một, A-rông giơ gậy,
Đập xuống nước sông Nin.
Nước sông biến thành máu,
Khiến không ai dám nhìn.
Cá chết, mùi hôi thối
Bay lên khắp mặt sông.
Xông vào mọi ngõ ngách,
Cả nhà Pha-ra-ông.
Hai, Đức Chúa làm phép
Khiến ếch nhái nhảy ra.
Đâu đâu cũng thấy chúng,
Cả ngoài sân, trong nhà.
Rồi khi ếch nhái chết,
Cung điện Pha-ra-ông
Và toàn xứ Ai Cập
Sặc sụa mùi hôi nồng.
Ba, A-rông vung gậy.
Bụi mù tung khắp nơi.
Bụi mù biến thành muỗi,
Muỗi thi nhau cắn người.
Bốn, là nạn ruồi nhặng.
Đầy phố và đầy đồng.
Năm, giết chết gia sức
Của dân Pha-ra-ông.
Sáu, A-rông vung mạnh
Một nắm tro lên trời.
Tro sinh ra ghẻ lở
Cho vật và cho người.
Bảy, Chúa làm sấm sét.
Rồi mưa đá bắt đầu
Từ trên cao rơi xuống,
Phá hoại hết hoa màu.
Tám là họa châu chấu.
Châu chấu bay kín trời.
Ăn hết cỏ và lúa
Của vật và của người.
Chin, là họa bóng tối.
Ba ngày trời tối đen.
Nhưng ánh sáng vẫn đến
Với người It-sra-en.
Và mười, kinh khủng nhất.
Chúa bảo con dân Ngài
Bôi máu dê lên cửa,
Ngay bậc thềm, bên ngoài.
Đêm đến, các thiên sứ
Tìm dân Pha-ra-ông,
Không thấy máu trên cửa
Là giết con đầu lòng.
Sau mười tai họa ấy,
Tàn nhẫn và lạ kỳ,
Vua Ai Cập mới chịu
Cho dân It-sra-ên đi.
Ngay trong đêm hôm ấy,
Nhờ được Chúa yêu thương,
Toàn bộ dân Do Thái
Liền lập tức lên đường.
13
RỜI AI-CẬP
Vậy là nhà Gia-cốp
Lúc đến bảy mươi người.
Nay đi khỏi Ai Cập
Là sáu mươi nghìn người.
Đủ thành phần, lứa tuổi,
Cả đàn ông, đàn bà,
Cả người khỏe, người yếu
Đều ra đi, ngoài ra,
Nhiều người dân tộc khác
Cũng xin được đi theo.
Và cùng đi với họ
Là gia súc, chó mèo.
*
Đoàn người đông đúc ấy
Đi liên tục mấy ngày,
Đến được bờ Biển Đỏ
Và dừng nghỉ ở đây.
Họ ngoái nhìn, bất chợt
Thấy bụi bay ngút đồng.
Sáu trăm chiến xa lớn
Cùng lính Pha-ra-ông
Đang đuổi theo rất gấp.
Không hiểu lý do gì,
Vua đổi ý, không muốn
Cho dân Do Thái đi.
Đức Chúa liền làm phép,
Dựng một tấm mây đen
Giữa quân lính Ai Cập
Và dân It-sra-ên.
Ngài thổi một luồng khí.
Biển Đỏ tách làm hai,
Thành một lối đi lớn
Khô ráo và kéo dài.
Ông Mô-sê đi trước
Dẫn người It-sra-ên
Đi theo lối đi ấy.
Hai tường nước hai bên.
Thấy thế, quân Ai Cập
Liền ào xuống, bấy giờ
Mô-sê theo ý Chúa,
Giơ chiếc gậy, bất ngờ
Tường nước ở chỗ chúng
Liền ập xuống ào ào.
Chúng bị chết chìm hết.
Không sót một đứa nào.
Khi vượt qua Biển Đỏ,
Dân It-sra-ên ai ai
Cũng vui sướng, họ múa
Và hát tạ ơn Ngài.
*
Đi chừng được một tháng
Đoàn người It-sra-ên
Đừng lại giữa sa mạc.
Chỉ gió cát bốn bên.
Lương thực bắt đầu cạn.
Người và vật đói ăn.
Không ít người khó tính
Đã kêu ca, cằn nhằn.
Nghe hết và biết hết,
Thương dân, Đức Chúa Trời
Phán: “Ngày mai có bánh,
Đủ ăn cho mọi người”.
Sáng hôm sau, quả vậy
Con dân It-sra-ên
Thấy có rất nhiều bánh,
Còn thơm phức mùi men.
Họ nhìn nhau kinh ngạc,
Ôi, ma-na, ma-na?
Nghĩa là cái gì vậy.
Sau thành bánh ma-na.
Bánh này có vị ngọt,
Hương mật ong, hình tròn,
Dẹt và không lớn lắm.
Ăn lúc nào cũng ngon.
Bánh rơi lúc sáng sớm.
Khi mặt trời lên cao
Thì tự tan chảy hết,
Chẳng còn lại bánh nào.
Ông Mô-sê bảo họ
Chỉ cần lấy đủ ăn.
Hôm sau lại lấy tiếp.
Lấy thừa là không cần.
Tuy nhiên, ngày thứ Sáu
Thì phải lấy gấp hai.
Vì sang ngày thứ bảy
Là Chúa Nhật, và Ngài
Sẽ không làm phép lạ.
Không có bánh tự nhiên
Từ trên trời rơi xuống
Cho dân It-sra-ên.
Tất cả con dân Chúa,
Suốt thời gian đi xa
Để đến miền Đất Hứa,
Sống bằng bánh ma-na.
*
Đi được chừng hai tháng,
Họ đến núi Si-nai,
Còn gọi là Hô-rếp,
Cũng là nơi mà Ngài
Làm phép bụi gai cháy,
Giao cho ông Mô-sê
Đưa dân rời Ai Cập.
Một công việc nặng nề.
Khi mọi người chờ đợi
Dưới chân núi Si-nai,
Mô-sê leo lên đỉnh
Để được lắng nghe Ngài.
Ngài nhờ ông nhắc lại
Với dân It-sra-ên
Rằng Ngài yêu mến họ,
Ngay từ thời tổ tiên,
Và rằng Ngài đang giúp,
Thận trọng và an toàn,
Đưa họ tới Đất Hứa
Là xứ Ca-na-an.
Đồng thời Ngài nhắc nhở
Với tất cả mọi người,
Không được thờ ai khác,
Ngoài thờ Đức Chúa Trời.
Ông Mô-sê xuống núi,
Truyền đạt những điều này.
Rồi lần nữa lên núi,
Ở đấy bốn mươi ngày.
Đức Chúa Trời ban tặng
Cho dân It-sra-ên
Hai bảng đá có khắc
Mười Lời Răn, lời khuyên.
Ngoài ra, Ngài còn tặng
Chín Điều Luật, hôm nay
Mô-sê sẽ viết chúng
Lên hai bảng đá này.
Một trong những điều ấy
Là phải yêu Chúa Trời.
Yêu hết lòng, hết ý,
Đến hết sức con người.
Điều thứ hai, phải sống
Có nghĩa và có tình.
Phải luôn yêu người khác
Như chính bản thân mình.
*
Thấy Mô-sê ở lại
Trên núi quá nhiều ngày.
Mọi người lo, tự hỏi:
“Có chuyện gì nữa đây?
Ai dẫn ta đi tiếp?
Hay là ta chung nhau
Đúc một vị thần mới
Để làm người dẫn đầu?”
Họ góp khuyên, góp nhẫn,
Theo lời của A-rôn,
Vừa đủ vàng để đúc
Tượng một con bê con.
Xong, họ mở tiệc lớn,
Thờ con bê bằng vàng.
Rồi nhảy múa, ca hát.
Sống sượng và bẽ bàng.
Đức Chúa Trời rất giận,
Bèn bảo ông Mô-sê:
“Dân ta đang lạc lối,
Quỳ lạy một con bê”.
Mô-sê liền xuống núi,
Giận tím mặt, và rồi
Ném mạnh hai bảng đá,
Khiến chúng vỡ làm đôi.
Còn bức tượng đáng ghét
Liền bị ông đem nung,
Đập thành nhiều mảnh vụn,
Vung tay vứt tứ tung.
Sau đó ông rút kiếm:
“Tội phản lại Chúa Trời
Sẽ phải chết, ông giết
Một lúc ba nghìn người.
*
Kể từ ngày xuất phát,
Một năm đã trôi qua.
Một cái nhà, đền tạm
Cuối cùng được người ta
Dựng làm nơi thờ cúng.
Tạm vì chiếc nhà này
Rất dễ lắp và tháo.
Dễ di chuyển đó đây.
Ý tưởng làm ra nó
Là của Chúa, lúc Ngài
Gặp Mô-sê trên núi
Khi dừng ở Si-nai.
Ngài dạy cách làm nó,
Cách lắp ráp, tháo rời,
Để con dân của Chúa
Có chỗ thờ Chúa Trời.
Khi đến một nơi mới,
Người ta dựng nó lên
Chính giữa trại, bốn phía
Là lều dân Ít-sra-ên.
Có một căn phòng nhỏ
Bên trong đền, phía sau,
Nơi chứa Hòm Giao Ước,
Hai thiên sứ hai đầu.
Hòm chứa hai bảng đá
Cùng với Mười Điều Răn
Đã được Chúa viết lại
Để nhắc nhở con dân.
Trong chiếc Hòm còn có
Một bình bánh ma-na.
Thứ bánh đã nuôi sống
Con dân Ngài vừa qua.
Ở phòng ngoài, phòng lớn,
Có một chiếc bàn thờ
Với mười hai ổ bánh
Và lư hương khói mờ.
Ngoài sân có bồn nước
Để thầy tế rửa tay
Và một chiếc bàn đá
To rộng, chiếc bàn này
Dùng để đặt đồ tế
Dâng lên Đức Chúa Trời.
A-rôn được Chúa chọn
Để nhắc nhở mọi người
Chăm lo việc thờ phụng,
Không rời bỏ đức tin.
Ông cũng là thầy tế
Của dân It-sra-ên.
*
Ca-na-an là xứ
Ngày xưa A-bra-ham,
I-sac và Gia-cốp
Đã sinh sống nhiều năm.
Sau vì nạn đói kém,
Gia-cốp và gia đình
Đã dọn đến Ai Cập,
Sống dư giả, an bình.
Giờ cháu con của họ,
Hơn hai trăm năm sau,
Quay trở lại Đất Hứa.
Ông Mô-sê dẫn đầu.
Hiện tại họ đã đến
Vùng đất hoang Ca-đê.
Trước mặt là Đất Hứa.
Vốn cẩn thận, Mô-sê
Cử một nhóm do thám,
Tổng cộng mười hai người,
Đi trước để tìm hiểu
Vùng đất của Chúa Trời.
Lúc quay về, họ nói
Đất Hứa Ca-na-an
Bằng phẳng và mầu mỡ,
Chỉ tiếc không an toàn.
Dân ở đấy hùng mạnh,
Độc ác và xấu xa.
Nếu dám liều xâm chiếm,
Họ sẽ giết chúng ta.
Mọi người nghe, hoảng sợ
Rồi than trách nặng nề.
Thậm chí muốn ai đó
Thay thế ông Mô-sê
Đưa họ về Ai Cập.
Thà khổ như trước đây.
Còn hơn phải bỏ mạng
Vô ích ở xứ này.
Trong đội do thám ấy,
Tuy nhiên, có hai người
Không đồng ý như vậy,
Vì họ tin Chúa Trời.
Tên của hai người ấy
Là Ca-lép, Giô-suê.
Những người luôn tích cực
Giúp đỡ ông Mô-sê.
Họ nói: “Không, đừng sợ.
Đức Chúa Giê-hô-va
Đã cho Đất Hứa ấy,
Nên sẽ giúp chúng ta”.
Nhưng mọi người, thật tiêc,
Cứ một mực nói không.
Thậm chí còn nhất định
Đòi phải giết hai ông.
Điều ấy làm Chúa giận.
Ngài phán với Mô-sê:
“Bọn người này vô đạo.
Răn dạy mãi không nghe.
Ta sẽ trừng phạt chúng:
Nay chỉ cho những người
Được vào đất ta hứa,
Tuổi phải dưới hai mươi.
Tất cả người còn lại
Phải bốn mươi năm trời
Vật vờ trên sa mạc
Cho đến khi lìa đời”.
*
Vậy là dân Do Thái,
Tức người Ít-sra-ên,
Phải vật vờ đói khát
Trên sa mạc, thảo nguyên.
Không bao lâu sau đó,
Hai trăm năm mươi người,
Trưởng các nhóm dân sự,
Lại coi thường Chúa Trời.
Họ muốn chọn người khác
Thay Mô-sê, A-rông,
Những người được Chúa chọn
Để dẫn dắt cộng đồng.
Ông Mô-sê bảo họ
Vậy thì mời sáng mai
Đến bàn thờ thờ Chúa
Để xem Ngài chọn ai.
Hôm sau chúng có mặt
Mô-sê bảo mọi người
Tránh xa chỗ chúng đứng.
Và rồi Đức Chúa Trời
Làm phép - đất nứt sụp
Dưới chân bọn người này.
Chúng rơi xuống vực thẳm.
Chết, không tìm thấy thây.
Sau đó Đức Chúa phán,
Mỗi chi chọn một người,
Đặt chiếc gậy của họ
Trước bàn tế Chúa Trời.
“Mọi người sẽ được biết.
Gậy của ai nở hoa
Thì người ấy được chọn
Làm thầy tế cho ta!”
Tất nhiên, người được chọn
Vẫn là ông A-rông,
Một thầy tế mẫu mực,
Hết lòng vì cộng đồng.
*
Năm này qua năm khác.
Mười, rồi hai mươi năm,
Ba mươi năm, rốt cục
Vừa hết ba chín năm,
Lang thang trong sa mạc,
Dẫn đầu là Mô-sê.
Giờ họ đang cắm trại
Ở vùng đất Ca-dê.
Bốn mươi năm về trước
Cũng chính ở đất này
Đã xẩy ra rắc rối
Phải chịu tội lưu đày.
Trong bốn mươi năm ấy,
Dẫu phạm tội xấu xa,
Họ vẫn được Chúa giúp
Và cho bánh ma-na.
Nhờ Chúa, họ có nước,
Có lửa sưởi đêm đông.
Quần áo mặc không rách,
Chân không bị sưng phồng.
Lần này, như đã nói,
Họ đang ở Ca-dê.
Một số người tức giận,
Nói vớ ông Mô-sê:
“Ai bắt ông vô cớ
Đưa chúng tôi đến đây.
Để giờ không nước uống
Và khổ sở thế này?”
Mô-sê, theo ý Chúa,
Đưa họ đến Bàn Thờ,
Chọc gậy vào tảng đá.
Từ tảng đá bất ngờ
Nước chảy ra như suối.
Đủ cho thú và người
Tha hồ uống thỏa thích.
Nước của Đức Chúa Trời.
Nhưng Mô-sê lại nói
Rằng nhờ gậy của ông
Hòn đá mới phun nước.
Chúa rất không hài lòng.
Mô-sê bị Chúa phạt,
Cùng A-rông, người anh,
Không được đến Đất Hứa
Ca-na-an tốt lành.
Một thời gian sau đó,
Khi đến núi Hô-rơ,
A-rông ốm rồi chết.
Lúc ấy ông đã già.
Một trăm hai ba tuổi.
Được quý trọng xưa nay,
Dân It-sra-ên thương tiếc,
Khóc ông ba mươi ngày.
Con trai ông, con cả,
Là Ê-lê-a-sa
Được Đức Chúa lựa chọn
Làm thầy tế thay cha.
*
Dẫu hàng ngày Đức Chúa
Cho dân It-sra-ên
Đủ bánh và đủ nước,
Nhưng họ vẫn than phiền.
Rằng ma-na ăn mãi,
Cũng khó mà nuối trôi;
Rằng thà ở Ai Cập
Làm nô lệ cho rồi...
Họ hết trách Đức Chúa,
Lại trách ông Mô-sê.
Đức Chúa lại trừng phạt,
Một hình phạt nặng nề.
Chúa làm phép, rắn rết
Bỗng từ đất chui lên,
Cắn, gây chết, bệnh tật
Cho người It-sra-ên
Đến mức không chịu nổi.
Đức Chúa thấy, động lòng.
Bèn sai Mô-sê đúc
Một con rắn bằng đồng
Rồi treo lên cây cột.
Rắn rết cắn người nào,
Chỉ nhìn nó là khỏi.
Không ai hiểu vì sao.
*
Hay tin con dân Chúa
Sắp vào Ca-na-an,
Vua nước này, Ba-lác,
Bèn sai Ba-la-an
Nhanh chóng đi khắp xứ,
Nguyền rủa dân It-sra-ên.
Hứa nếu hắn làm tốt,
Sẽ được thưởng nhiều tiền.
Hắn là tên gian xảo
Với giọng lưỡi chua cay,
Nghĩ ngăn được dân Chúa
Bằng cách nguyền rủa này.
Vậy là hắn hăng hái
Nhảy lên lưng con la,
Tay cầm chiếc loa nhỏ.
Nhưng vừa ra khỏi nhà,
Con la bỗng khựng lại,
Nhất định không chịu đi.
Lại còn nằm bẹp xuống.
Hắn không hiểu chuyện gì.
Đó là do Thiên Chúa
Không muốn Ba-la-an
Ngăn con của Đức Chúa
Vào đất Ca-la-an.
Ngài đã sai thiên sứ
Cầm gươm chờ ngoài đồng.
Con la hắn nhìn thấy.
Còn hắn thì lại không.
Thương con vật tội nghiệp
Bị hắn đánh rất đau.
Chúa cho hắn nhìn thấy.
Hắn sợ hãi cúi đầu.
Sợ bị thiên sứ giết,
Hắn lủi thủi quay về,
Gặp vua hắn, Ba-lác,
Nét mặt buồn ủ ê.
Hắn định kể mọi chuyện,
Định chửi dân It-sra-ên,
Thế mà Chúa làm phép,
Làm miệng hắn bỗng nhiên
Ba lần, to, liên tục,
Phát ra một câu dài
“Hoan nghênh, xin chúc phước
Cho con dân của Ngài”.