BÀ HUYỆN THANH QUAN
(1805 - 1848)
Bà là một nữ sĩ.
Tên thật Nguyễn Thị Hinh.
Vợ của ông tri huyện,
Huyện Thanh Quan Thái Bình.
Bà sinh ở Hà Nội,
Cách không xa Hồ Tây.
Huyện Vĩnh Thuận, là đất
Thuộc Hà Nội ngày nay.
Vốn thông minh từ nhỏ,
Lại chăm chỉ học hành.
Học thầy Phạm Quý Thích,
Rồi thành nhân, thành danh.
Ngoài nữ công gia chánh,
Rỗi rãi, bà làm thơ.
Kiểu cho vui, ấy vậy
Mà nổi tiếng bất ngờ.
Thơ của bà tao nhã,
Chấm phá những nét buồn.
Như bức tranh thủy mạc,
Đìu hiu buổi hoàng hôn.
Dưới thời vua minh Mạng
Bà được mời vào kinh
Làm Cung Trung Giáo Tập,
Dạy con vua học hành.
Chồng của bà mất sớm.
Viện cớ để tang chồng,
Bà dắt bốn con nhỏ
Quay trở về Thăng Long.
Từ đấy lặng lẽ sống
Cho đến lúc qua đời.
Xác trở về với đất.
Thơ ở lại với người.
THƠ BÀ HUYỆN THANH QUAN, trích
1
Qua đèo Ngang
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
2
Thăng Long hoài cổ
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
3
Chiều hôm nhớ nhà
Vàng tỏa non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?
4
Buổi chiều lữ thứ
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẩn trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
5
Cảnh Hương Sơn
Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này.
Thuyền nan đón khách máy chèo lay.
Hai bên quả núi lồng hương suối.
Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây.
Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy.
Chùa tiên bát ngát khói hương bay.
"Nam vô" tiếng dậy thưa trần tục.
Non nước Bồng Lai mới thấy đây.
6
Tức cảnh chiều thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá trường giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ.
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
7
Chùa Trấn Bắc
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu.
Khách đi qua đó chạnh niềm đau.
Mấy tòa sen rót mùi hương ngự.
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn.
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
8
Đền Trấn Võ
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài.
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm song.
Một vũng tang thuơng, nước lộn trời.
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn.
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá.
Cực lạc là đây, chín rõ mười.
9
Cảnh Thu
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt tơ.
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp ruợu.
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ,
Cho hay cảnh cũng ưa nguời nhỉ?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét