Các Đại Đệ Tử Của Đức Phật
TÔN GIẢ ĐẠI CA DIẾP
1
Tôn giả Đại Ca Diếp,
Môn đệ Phật Thích Ca,
Bà La Môn, quí tộc,
Người nước Ma Kiệt Đà.
Sau khi Phật nhập diệt
Ông được kế nhiệm Ngài,
Là một đại đệ tử,
Đức hạnh và toàn tài.
Bố mẹ ông giàu có,
Lại rất thương yêu con,
Nên khi lên tám tuổi,
Nhiều thầy Bà La Môn
Được mời đến dạy dỗ.
Toàn những bậc uyên thâm.
Vốn thông minh, chăm chỉ,
Nên trong vòng mấy năm
Ông học thông tất cả
Các môn học bấy giờ,
Nhất là môn Đạo Học,
Một kết quả không ngờ.
Khi lớn lên, bố mẹ
Muốn lấy vợ cho ông,
Nhưng ông cứ lần lữa,
Rồi cương quyết nói không.
Số là do hiểu biết,
Ông chỉ muốn xuất gia
Để đi tìm chân lý,
Như Ngài Tất Đạt Đa.
Cuối cùng, bị thúc ép,
Ông nhờ thợ kim hoàn
Đúc tượng một cô gái,
To như thật, bằng vàng.
Đó là bức tượng đẹp,
Mặc sari nhiều màu,
Đính rất nhiều trang sức,
Suốt từ chân đến đầu.
“Nếu tìm được ai đấy
Giống hệt cô gái này,
Con sẽ lấy làm vợ,
Để khỏi bị quấy rầy.”
Thế là xe chở tượng
Rong ruổi khắp xóm làng
Để tìm kiếm cô gái
Giống hệt bức tượng vàng.
Xe đi mãi, đi mãi
Hết nước Ma Kiệt Đà,
Vẫn không thấy người đẹp.
Đường thì khó và xa.
Ngày nọ, xe đi tới
Thành phố Tỳ Xá Ly,
Một thành phố đông đúc
Của nước Ly Chà Vy.
Họ tìm thấy cô gái
Có tên là Thiện Tâm,
Con một nhà quí tộc
Giàu có và tiếng tăm.
Thế là các ông mối
Gặp bố cô, cầu hôn,
Với số vàng làm lễ
Bằng trọng lượng cô con.
Đám cưới được tổ chức
Thật to, thật khác thường.
Đêm tân hôn, rất tiếc,
Họ không nằm chung giường.
Ca Diếp thấy vợ khóc,
Nói: “Tôi nguyện suốt đời
Sẽ xuất gia tìm Đạo,
Cứu mình và cứu đời.”
Thiện Tâm nghe, liền đáp:
“Thiếp không muốn lấy chồng.
Chỉ tại bố tham của,
Nên thiếp phải đèo bòng.”
Hai vợ chồng mừng rỡ,
Cùng quyết định hai người
Chỉ xem nhau như bạn,
Hai bạn tốt suốt đời.
Kể từ giây phút đó
Hai người là anh em.
Không chạm vào cơ thể,
Không chung giường ban đêm.
Bố mẹ ông hay chuyện,
Liền cất đi một giường.
Thành ra họ lần lượt
Người ngủ, người tựa tường.
Một hôm, Thiện Tâm ngủ,
Một tay chạm sàn nhà.
Bất chợt Ca Diếp thấy
Có con rắn bò qua.
Ông chạy tới, lặng lẽ
Giơ cánh tay lên cao.
Tỉnh dậy, cô bèn trách
Không giữ lời hôm nào.
Mười hai năm sau đó,
Bố mẹ ông qua đời.
Họ đảm đang mọi việc,
Tiếp xúc với nhiều người.
Dần dần họ giác ngộ
Rằng sống là khổ đau,
Và cội nguồn đau khổ
Là ky cóp làm giàu.
Nên cuối cùng quyết định
Cả hai cùng xuất gia,
Mỗi người đi một ngả,
Bỏ ruộng đất, cửa nhà.
2
Theo sách kinh kể lại,
Ngày Ca Diếp ra đi
Trùng ngày thứ bốn chín
Phật Thích Ca Mâu Ni
Đang ngồi yên thiền định
Một mình dưới gốc cây.
Ba năm trời tìm kiếm,
Ông chưa gặp được thầy.
Một hôm, Phật lặng lẽ
Rời Tịnh xá Trúc Lâm
Đến phía Bắc Vương Xá,
Ngồi dưới cây bóng râm.
Bỗng có người đi lại,
Dáng mệt mỏi, buồn rầu.
Đức Phật gọi: “Ca Diếp,
Ta chờ thầy đã lâu.
Giờ hãy ngồi cùng nghỉ
Với ta dưới bóng cây.
Thầy phải nhớ: Giáo Hội
Rất cần thầy sau này.”
Ca Diếp liền sụp xuống,
Rồi nói: “Bạch Thế Tôn,
Cúi xin Ngài chấp nhận
Là sư phụ của con.”
Hai người về Tịnh xá,
Khi đi ngang cánh đồng
Phật cởi áo đang mặc
Rồi đổi nó cho ông.
Ca Diếp nhập Giáo Hội
Vừa mới được bảy ngày,
Đắc quả A La Hán,
Thật hiếm có điều này.
3
Lại nói từ buổi ấy,
Chia tay chồng, Thiện Tâm
Đi tầm sư học đạo,
Thấm thoắt đã năm năm.
Cuối cùng bà gặp Phật,
Và cũng gặp lại chồng.
Mừng được cùng chí hướng,
Sống cùng nơi với ông.
Bà Thiện Tâm nhanh chóng
Nhập Hội rồi qui y,
Được ở nơi Tịnh xá
Dành cho tỳ kheo ni.
Không ít lời dị nghị
Về chuyện bà xuất gia,
Đến mức bà ngần ngại
Không muốn ra khỏi nhà.
Được Ca Diếp giúp đỡ,
Khích lệ, chia thức ăn,
Bà chuyên tâm tu luyện,
Tâm trí cứ ngộ dần.
Cuối cùng bà đắc quả
A La Hán như chồng,
Được Phật khen đệ nhất
Về phép Túc Mệnh Thông,
Tức là người giỏi nhất
Nhìn thấy và am tường
Chuyện của nhiều kiếp trước,
Đoán biết điều tai ương.
Ca Diếp là đệ nhất
Về tu hạnh Đầu Đà,
Tức là tu khổ hạnh,
Như xưa Tất Đạt Đa.
Đầu Đà là tiếng Phạn,
Có nghĩa xua buồn phiền
Bằng cách xa danh lợi,
Sống theo lẽ tự nhiên.
Ăn những gì xin được,
Ngày một lần, giữa trưa.
Mặc chỉ toàn giẻ rách
Hoặc loại quần áo thừa.
Sống gần nơi mồ mả,
Hoặc dưới cây bóng râm,
Ai cho gì, không lấy,
Ngủ phải ngồi, không nằm.
4
Lần nọ, Đại Ca Diếp
Sống trong hang lâu ngày,
Khi trở về Tịnh xá,
Tóc và râu mọc dày,
Quần áo lại mục rách,
Các tỳ kheo chê bai,
Nhưng Đức Phật bình thản
Mời ông ngồi
cạnh Ngài.
Đó là một đặc
cách,
Một ân lớn mà
ông
Từ chối không
dám nhận,
Nhưng cũng phải
đành lòng.
Khi hai người
an tọa,
Phật kể về đức
tài
Của tôn giả Ca
Diếp,
Trong quá khứ,
tương lai.
Mọi người nghe,
khâm phục.
Từ đó không
người nào
Cười chê ông
nhếch nhác,
Ai gặp cũng cúi
chào.
5
Sống ở thành
Vương Xá
Có một bà lão
nghèo.
Không có cả tấm
áo
Che lớp da nhăn
nheo.
Một hôm bà ốm
nặng,
Nằm giữa nắng
ban trưa.
May có cô đầy
tớ
Cho một bát cơm
thừa.
Tôn giả Đại Ca
Diếp
Vốn quen biết
bà già,
Đi ngang nhân
có việc,
Ông chìa bát
trước bà.
Đang ốm nặng,
lại đói,
Đói đến quặn trong
lòng,
Bà lão không
ngần ngại
Nhường bát cơm
cho ông.
Tôn giả cúi đầu
nhận,
Hai dòng nước
mắt rơi:
“Kiếp sau bà
sung sướng,
Thành thiên nữ
nhà trời.”
Một chốc, bà
lão chết.
Sau bà được tái
sinh
Ở Cõi Trời Đạo
Lợi
Thành thiếu nữ
rất xinh.
Một hôm, thiên
nữ ấy
Nhớ kiếp xưa
nghèo hèn,
Bay xuống, trải
hoa đẹp
Để tôn giả bước
lên.
4
Lúc Đức Phật
nhập diệt
Chỉ có A Nan Đà
Và tôn giả Ca
Diếp
Hầu bên cạnh
Thích Ca.
Trước đó, Xá
Lợi Phất,
Ma Ha Mục Kiền
Liên,
La Hầu La tôn
giả
Đã đi vào cõi
thiền.
Đại Ca Diếp đề
nghị
Triệu tập một
Hội Đồng
Để kết tập Kinh
Điển,
Rồi mọi người
bầu ông
Quản giáo Hội
thay Phật.
Trong vòng hai
mươi năm
Ông đảm đương
chức ấy,
Không một chút
sai lầm.
Một hôm Đại Ca
Diếp
Trao cho A Nan
Đà
Chiếc Bát Y của
Phật,
Rồi lặng lẽ đi
ra.
Ông lên núi tu
tiếp
Phép Đầu Đà
thần thông.
Từ đấy các phật
tử
Không ai còn thấy ông.
TÔN GIẢ A NAN ĐÀ
1
Trong mười đại đệ tử
Của Đức Phật Thích Ca,
Trung thành, tận tụy nhất -
Tôn giả A Nan Đà.
Ông xuất thân quí tộc
Con vua A Mi Đà,
Tức ông là cháu ruột
Của Đức Phật Thích Ca.
Khi Ngài về La Vệ,
Ông vừa tròn hai mươi,
Xin được thành Phật tử,
Đi theo Ngài khắp nơi.
Bốn ba năm theo Phật,
Luôn có mặt bên Ngài.
Sau đức Đại Ca Diếp,
Ông là Tổ thứ hai.
Hăm lăm năm phụ tá,
Giúp đỡ Ngài hàng ngày,
Ông là gương trung thực
Và tận tụy với Thầy.
A Nan Đà khám phá
Và ngăn chặn từ xa
Các âm mưu giết Phật
Của Đề Bà Đạt Đa.
Với trí nhớ tuyệt mỹ,
Thuộc hết lời Thầy mình,
Ông giúp đời ghi lại
Nhành nhiều bộ Phật Kinh.
Cũng nhờ ông mà có
Tịnh xá Tỳ Kheo Ni
Cho các nữ Phật tử
Muốn xuất gia quy y.
Đắc đạo A La Hán,
Ông nhẫn nhục, trung
thành,
Một trăm hai mươi tuổi,
Để tiếng tốt lưu danh.
2
Xuất thân một hoàng tử,
Ông đẹp trai khác thường,
Nên dẫu là Phật tử,
Nhiều cô bà yêu thương.
Lần nọ, đi khất thực,
Trên đường quay trở về
A Nan Đà khát nước,
Rẽ vào ngôi nhà tre.
Ông đến bên giếng nước.
Có cô Ma Đăng Già
Đang múc nước ở đấy,
Đẳng cấp Chiên Đà La,
Tức là hạng thấp nhất.
Nàng định chạy, vì nàng
Sợ mời, làm ô uế
Người của bậc cao sang.
Ông liền nói: “Tăng lữ
Không phân biệt nghèo
giàu.”
Nàng yên tâm, mời nước,
Nhìn theo ông hồi lâu.
Nàng còn trẻ, xinh đẹp.
Tự nhiên cháy lửa tình
Trước vị sư tuấn tú,
Mình không hiểu nổi mình.
Hôm sau nàng bảo mẹ
Đi mời A Nan Đà,
Mời bằng được đến dự
Lễ thọ trai tại nhà.
Ông đến mấy lần nữa,
Rồi bắt đầu sinh nghi.
Và rồi sau từ chối,
Nghi đang có chuyện gì.
Suốt một tháng cô gái
Bỏ ăn, nằm ở nhà.
Mẹ gạn hỏi, bèn đáp
Nàng yêu A Nan Đà.
Bà mẹ sợ, hoảng hốt:
“Con yêu ngài? Đừng đùa!”
Cô con dọa tử tử.
Cuối cùng bà chịu thua.
Không còn cách nào khác,
Bà phải ra đón đường
Chờ nhà sư khất thực:
“Thầy hãy rũ lòng thương,
Con gái tôi ốm nặng,
Muốn gặp A Nan Đà.”
Do không thể từ chối,
Ông lại phải vào nhà.
Bà mẹ mời ông uống
Một thứ nước đáng ngờ.
Uống xong, thấy phấn khích,
Nhưng đôi mắt lờ mờ.
Và rồi ông chợt hiểu
Người ta bỏ bùa ông.
Ông thiền định, làm phép,
Giải nó bằng khí công.
Đang có việc, Đức Phật
Cho người gọi ông về.
A Nan Đà lúc ấy
Đã tỉnh hết bùa mê.
Ông bình tĩnh khuyên giải,
Ôn tồn mời bà già
Và cô con giả ốm
Cùng đến gặp Thích Ca.
Khi nghe hết mọi chuyện,
Đức Phật liền hỏi nàng:
“Đúng con yêu ông ấy?”
Cô gái đáp: “Thưa vâng.”
“Yêu không có gì xấu,
Nhưng trong vòng một năm,
Phải xuất gia, tu luyện
Chân thành và thiện tâm.
Sau đấy nếu còn muốn
Lấy ông ấy làm chồng,
Con sẽ được toại nguyện,
Mà ta cũng hài lòng.”
Cô gái kia mừng rỡ,
Liền đồng ý nghe theo.
Ngay hôm sau tự nguyện
Thành một nữ tỳ kheo.
Nàng chăm chỉ tu luyện,
Nhưng mới được nửa năm,
Nàng đã kịp giác ngộ
Tự mình thấy lỗi lầm.
Nàng hối hận, xấu hổ,
Tìm đến Phật xin tha,
Từ đấy thành môn đệ
Của Đức Phật Thích Ca.
3
Năm tròn tám mươi tuổi
Tôn giả A Nan Đà
Thay tôn giả Ca Diếp
Làm Thiền Tổ Thích Ca.
Một trăm hai mươi tuổi,
Đến lúc nhập Niết Bàn,
Ông băn khoăn không biết
Chọn nơi nào tốt hơn.
“Hiện đang có hai nước -
Xá Lợi, Ma Kiệt Đà,
Rất yêu ta, vì thế
Mà xẩy ra bất hòa.
Nếu ta chết nước nọ,
Chắc nước kia phật lòng.”
Cuối cùng, một buổi sáng,
Ông chèo thuyền ra sông.
Dân chúng hai nước ấy
Đứng hai bờ, kêu van.
Ai cũng muốn tôn giả
Đến họ nhập Niết Bàn.
A Nan Đà bảo họ:
“Ta phải làm cách này
Để hai nước xóa bỏ
Các oán thù xưa nay.”
Vừa nói xong, tôn giả
Từ từ bay lên không,
Rồi dùng lửa tam muội
Để tự thiêu xác ông.
Sau đó nhiều xá lỵ
Trôi dạt vào hai bờ.
Vua hai nước cho nhặt
Cung
kính dựng miếu thờ.
TÔN GIẢ
KIỀU TRẦN NHƯ
1
Ngày nọ,
vua Ca Lợi
Dẫn một
đám cung nhân
Vào khu
rừng rậm rạp
Cùng vui
vẻ đi săn.
Lần đầu
các cung nữ
Được ra
ngoài dạo chơi,
Họ tự do
chạy nhảy,
Tự do
ngắm đất trời.
Và rồi
vui, mê mải,
Họ đi
chơi khá xa.
Bất chợt
trong hang đá
Họ thấy
một cụ già.
Cụ trông
thật kỳ dị,
Đất bụi
bám toàn thân,
Mái tóc
dài dính bết
Cuộn một
cục dưới chân.
Các cô
sợ, định chạy
Thì ông
cụ ôn tồn
Nói:
“Không gì phải sợ
Ta cũng
như các con.”
Thấy cụ
già thân thiện,
Còn bắt
chuyện với mình,
Các cô
xúm lại hỏi,
Những
câu hỏi thường tình.
“Ta tu
hạnh bồ tát
Nhiều
năm ở hang này,
Là Tiên
Nhân Nhẫn Nhục,
Ngồi một
mình ở đây.”
“Nhẫn
nhục? - các cô hỏi.
Dạ, nhẫn
nhục là gì?”
“Nhẫn
nhục rất đơn giản.
Tu mới
khó, là khi
Ta sẵn sàng chấp nhận
Những gì đến với ta,
Thản nhiên và nhẫn nhục,
Không phiền lòng, kêu ca;
Là khi ta bị đánh
Xúc phạm hay coi khinh,
Ta không hề oán trách
Người đã xúc phạm mình...”
Ông cụ cứ thuyết giảng,
Các nữ tỳ cứ nghe,
Không biết vua Ca Lợi
Cũng đang đứng cạnh kề.
Vua thấy lạ, liền nói:
“Ông thuyết giảng rất hay
Về sự nhẫn nhục ấy.
Ta muốn hỏi điều này.
Bây giờ ta chặt đứt
Một cánh tay của ông.
Liệu ông có nhẫn nhục
Chịu được điều đó không?”
Ông cụ đáp: “Dạ được.”
Vua rút kiếm, và rồi
Chém một nhát, tay đứt.
Cụ vẫn thản nhiên ngồi.
Vua nói: “Chắc đau lắm.”
Ông cụ đáp: “Không đau.”
“Chắc ông hận ta lắm?”
“Không tẹo nào, không đâu.”
“Còn nếu ta lần nữa
Chặt tay kia của ông,
Lần này chắc ông giận?”
Ông cụ đáp: “Thưa, không!”
Sau đó vua Ca Lợi
Chém không chỉ hai tay
Mà hai chân của cụ.
Cụ già vẫn ngồi ngây.
“Giờ ông đau và giận?”
“Không giận, cũng không đau.
Tôi là người nhẫn nhục
Như đã nói lúc đầu.”
“Vậy chắc ông nói dối.”
“Không, tôi nói thật lòng.
Mời vua nhìn, sẽ biết
Tôi nói thật hay không.”
Rồi ông cụ ngẩng mặt,
Chắp hai tay lên trời:
“Xin chư thiên chứng giám
Lời con nói vừa rồi.
Nếu con nói sự thật,
Tay chân sẽ liền ngay.
Còn nếu con nói dối,
Cứ để rời thế này!”
Lập tức tay chân cụ,
Liền trở lại như xưa.
Từ trên trời, Hộ Pháp
Và Thiên Thần, như mưa
Bay xuống, rất tức giận,
Định đánh ông vua này,
Nhưng Tiên Nhân Nhẫn Nhục
Can họ, bảo dừng tay:
“Ông ấy thử bần đạo,
Bần đạo chẳng trách ông,
Không đau, không thấy giận,
Thậm chí còn hài lòng.
Nếu kiếp sau thành Phật,
Bần đạo hứa: Tất nhiên
Người này sẽ được giúp
Để khai ngộ đầu tiên.”
2
Tiên Nhân Nhẫn Nhục ấy,
Dưới dạng một cụ già,
Vốn là một tiền kiếp
Của Đức Phật Thích Ca.
Còn ông vua Ca Lợi,
Là người không nhân từ,
Kiếp sau thành đồ đệ,
Tôn giả Kiều Trần Như.
Như Đức Phật đã hứa,
Ông là người đầu tiên
Trong năm người được Phật
Đưa lên bậc đại hiền.
TÔN GIẢ CA
CHIÊN DIÊN
1
Trong mười đại
tôn giả,
Tôn giả Ca
Chiên Diên
Là nghị luận đệ
nhất,
Đại minh và đại
hiền.
Ông là con trai
thứ
Quốc sư A Van
Ty,
Dẫu tự học là
chính,
Kiến thức khó
ai bì.
Về sau ông thọ
giáo
Đạo sĩ A Tư Đà,
Người từng đến
chúc phúc
Thái tử Tất Đạt
Đa.
Thọ giáo xong,
đạo sĩ
Dặn ông lúc qua
đời
Nhớ qui y theo
Phật,
Phụng sự Ngài
suốt đời.
Là một người
thông tuệ,
Tôn giả Ca
Chiên Diên
Nổi tiếng rất
uyên bác,
Hiểu hết sách
thánh hiền.
Thế mà một ngày
nọ
Ông được vua
cho mời
Đọc một văn bản
cổ,
Giảng giải ý và
lời,
Ông đã không
giải được,
Đành nhờ Phật
Thích Ca.
Ngài giúp ông,
từ đấy
Ông qui y, xuất
gia.
2
Lần nọ, đi
giảng đạo,
Khi ngang qua
cánh đồng,
Ông thấy một cô
gái
Đang ngồi khóc
bên sông.
Ông bèn hỏi
duyên cớ.
Cô gái nói đời
này
Cô là người
nghèo nhất,
Còn bị đánh
hàng ngày.
Cô nghèo khổ
đến mức
Muốn chết đi
cho xong.
Nói đoạn, cô
gái ấy
Toan nhảy xuống
dòng sông.
Ông kịp giữ, và
nói:
“Cô đang có cái
nghèo.
Nếu cô đem bán
nó,
Nhất định sẽ
hết nghèo!”
“Nhưng ai sẽ
mua nó,
Mua cái nghèo
của tôi?”
“Tôi sẽ mua. -
Ông nói. -
Cô nên nhớ:
Người đời
Nếu bây giờ
nghèo khổ,
Nghĩa là kiếp
trước đây
Họ không chịu
bố thí
Hoặc phản bạn,
lừa thầy.”
“Tôi không có
tiền bạc.
Cả cái bình
nước này
Cũng là của bà
chủ.
Biết bố thí gì
đây?”
“Để làm việc từ
thiện,
Không nhất
thiết cần tiền.
Hãy đem chiếc
bình ấy
Đi mà múc nước
lên...”
Giờ thì cô gái
hiểu
Sư thầy muốn
nói gì.
Cô vội vã lấy
nước
Mời các sư cùng
đi.
“Vậy là cô đang
bán
Cái nghèo khổ
của cô.
Còn chúng tôi
mua nó.
Tiền trả, hãy
cứ chờ.”
Cô gái không
còn muốn
Liều mình nhảy
xuống sông,
Tần ngần nhìn
theo mãi
Bóng sư đi giữa
đồng.
Về sau, cô gái
ấy
Quả thật không
còn nghèo.
Cuối đời, cô
qui Phật,
Trở thành một
tỳ kheo.
2
Lần khác, ông
giáo hóa
Ở một nước xa
xôi.
Hoàng hậu của
nước ấy
Không may mới
qua đời.
Vua thương bà,
đau khổ,
Bỏ bễ việc
triều đình.
Ngày đêm cứ
quanh quẩn
Khóc bên xác vợ
mình.
Hay tin có sư
giỏi
Mới đến từ
phương xa,
Vua cho mời, hy
vọng
Làm sống lại
được bà.
Sau mấy lời an
ủi,
Tôn giả ra sau
chùa
Hái vội mấy
chiếc lá
Rồi đưa chúng
cho vua:
“Hoàng hậu sẽ
sống lại
Nếu trong vòng
trăm ngày
Ngài giữ được
chiếc lá
Vẫn xanh như
hôm nay.”
Vua kêu lên:
“Không được.
Một khi đã lìa
cành,
Làm sao lá có
thể
Sau trăm ngày
vẫn xanh?”
Ông đáp: “Ngài
nói đúng.
Cũng thế ta,
con người,
Có sống là có
chết,
Sao trái được
luật trời?
Giờ thì vua đã
hiểu.
Ngài cho chôn
vợ mình,
Quay lại sống
như cũ,
Chấn chỉnh việc
triều đình.
TÔN GIẢ MỤC KIỀN LIÊN
1
Đệ Nhất Thần
Thông
Một đại đệ tử khác
Của Đức Phật Thích Ca -
Mục Kiền Liên tôn giả,
Tức Mogalana.
Quê ông, một làng nhỏ
Ở nước Ma Kiệt Đà,
Nay thuộc đất Ấn Độ,
Nằm ở bang Bihar.
Dòng dõi ông danh giá,
Tầng lớp Bà La Môn.
Bố ông rất giàu có,
Lại chuyên tâm dạy con.
Một đại đồ đệ khác
Thì sinh ở làng bên,
Là ngài Xá Lợi Phất,
Bạn của Mục Kiền Liên.
Họ chơi thân từ nhỏ,
Không một phút xa rời,
Cho đến khi viên tịch
Ở tuổi ngoài tám mươi.
Nghĩ đời là bể khổ,
Giống như Tất Đạt Đa,
Cả hai người từ bỏ
Cuộc sống cũ xa hoa.
Họ trở thành đạo sĩ
Tìm ý nghĩa cuộc đời,
Tìm con đường thoát khổ
Cho mình và cho người.
Cuối cùng họ được gặp
Phật Thích Ca Mâu Ni,
Người giác ngộ cho họ,
Chỉ lối, vạch đường đi.
Trong số đại đồ đệ,
Ông là người vô song,
Về biến hóa quảng đại,
Và đạo pháp thần thông.
Chuyện kể rằng lần nọ,
Theo Thích Ca Mâu Ni
Lên Đạo Lợi thuyết pháp,
Lúc qua núi Tu Di,
Tôn giả đã chiến đấu
Với một con rồng đen.
Nó muốn giết Đức Phật,
Vì độc ác, vì ghen.
Con rồng phun cát độc
Vào Thích Ca, nhưng ông
Đã làm phép, lập tức
Biến cát ấy thành bông.
Rồi tôn giả sau đó
Biến thành một con sâu,
Chui vào bụng nó cắn.
Nó xin hàng vì đau.
2
Sự tích lễ Vu Lan
Theo truyền thuyết nhà Phật,
Bà mẹ Mục Kiền Liên
Là người không mộ đạo,
Báng bổ cả thánh hiền.
Bà không tin Đức Phật,
Không tin cả Pháp, Tăng.
Tam Bảo và Ngũ Giới,
Bà cho là nhố nhăng.
Nên bà, sau khi chết,
Vì tội lỗi của mình,
Bị đày xuống địa ngục,
Chịu bao nỗi cực hình.
Sau thành A La Hán,
Tôn giả Mục Kiền Liên,
Đạt lục thông, ngũ nhãn,
Nhìn thấu hết mọi miền.
Ông thấy mẹ chịu khổ
Dưới địa ngục âm u,
Bát cơm ăn chẳng có,
Bị đói khát, cầm tù.
Ngay lập tức tôn giả
Liền mở phép thần thông,
Lần xuống đáy địa ngục,
Đưa cơm cho mẹ ông.
Bà này khi còn sống
Từng tranh ăn với con,
Bây giờ xuống địa ngục
Thói xấu ấy vẫn còn.
Bà vội lấy vạt áo
Che bát cơm to đầy,
Định lẻn đi ăn mảnh
Một mình sau gốc cây.
Nhưng vừa đưa lên miệng,
Cả bát cơm, than ôi
Đã biến thành cục lửa,
Cháy hết răng và môi.
Dẫu là người hiếu thảo,
Lại đệ nhất thần thông,
Tôn giả đành bất lực,
Không giúp được mẹ ông.
Ông quay về Tịnh Xá
Tìm gặp Phật Thích Ca,
Nhờ Ngài chỉ giùm cách
Cứu giúp bà mẹ già.
Đức Phật nghe rồi đáp:
“Mẹ ngươi quá lỗi lầm,
Nên ngươi không thể cứu.
Chờ tháng Bảy, ngày Rằm,
Ngày chư Phật hoan hỷ,
Hãy làm lễ Vu Lan.
Mời chư tăng đến dự,
Mâm cỗ phải đầy bàn.
Trước hết cúng Tam Bảo,
Rồi sau mời mọi người.
Họ ăn xong, hy vọng
Sẽ cứu được mẹ ngươi.”
Ngay lập tức tôn giả
Đúng theo lời Thích Ca,
Làm lễ Vu Lan lớn,
Cứu được người mẹ già.
Và mọi người từ đấy,
Vào ngày này hàng năm,
Tổ chức lễ xá tội
Cho tổ tiên lỗi lầm.
Về sau, chính tôn giả
Đã tự nguyện thành người
Trông coi chuyện âm phủ
Đầy oan trái sự đời.
Khi làm lễ xá tội
Cho tổ tiên lầm đường,
Người ta cúng tôn giả,
Bồ Tát Địa Tạng Vương.
3
Tiền kiếp của
tôn giả Mục Kiền Liên
Cũng theo truyền thuyết Phật,
Tôn giả về sau này
Chịu cảnh chết đau đơn,
Bị chặt hết chân tay.
Số là người ngoại đạo,
Do ghen ghét với ông,
Đã thuê bọn du đãng
Gây cảnh ấy đau lòng.
Ông đạo pháp bậc nhất,
Lại khôn khéo, thông minh,
Không cưỡng được số phận,
Chết vì tiền kiếp mình.
Xưa, một gia đình nọ,
Có một người con trai,
Rất chăm chỉ, tháo vát,
Thông minh và có tài.
Tự mình anh quán xuyến
Hết mọi việc trong nhà,
Không quản ngại vất vả,
Hầu bố mẹ đã già.
Do bố mẹ nài ép,
Anh lấy vợ, về sau
Cô thành người độc ác,
Gây bao nỗi buồn đau.
Cô ta chỉ hầu hạ
Bố mẹ chồng hai ngày
Rồi bắt đầu nặng mặt,
Dọa đi khỏi nhà này.
Khốn nỗi, anh yêu vợ,
Mà yêu quá thành mù.
Trước hiếu tháo là vậy,
Giờ nghe vợ thành hư.
Một hôm cô vợ ác
Vứt phân bẩn đầy nhà,
Bảo chồng đó là cứt
Của hai cụ mù lòa.
Anh chồng không chịu nổi,
Đưa hai cụ lên xe,
Bảo đi thăm họ mạc,
Nhưng đi mà không về.
Anh ta bỏ bố mẹ
Một mình giữa rừng sâu
Để thú dữ ăn thịt,
Ngay buổi sáng hôm sau.
Người con bất hiếu ấy
Là tiền kiếp trước đây
Của một đại tôn giả,
Mục Kiền Liên kiếp này.
Câu chuyện do Đức Phật
Kể các học trò nghe,
Vừa là để giải thích,
Cũng vừa để răn đe.
TÔN GIẢ TU BỒ
ĐỀ
1
Thật kỳ lạ: Vào
lúc
Tu Bồ Đề sinh
ra,
Không hiểu sao
đồ đạc
Tự nhiên bay khỏi
nhà.
Các thầy bói
quả quyết
Đây là một điềm
lành,
Rằng sau này
đứa bé
Sẽ đắc quả,
thành danh.
Chỉ vài ngày
sau đó,
Những thứ đã
bay đi
Bỗng nhiên tự
quay lại,
Bình thường như
mọi khi.
Là con nhà giàu
có,
Từ bé Tu Bồ Đề
Đã không quí
tiền bạc,
Luôn bị bạn
cười chê.
Cậu thường
xuyên bố thí
Cho người nghèo
đáng thương,
Đến mức mẹ cậu
giận,
Cấm không cho
ra đường.
Điều này hóa
lại tốt.
Vì bị nhốt suốt
ngày,
Cậu chỉ việc
đọc sách,
Biết hết mọi
điều hay.
Chưa đến hai
mươi tuổi
Cậu đã hiểu rất
sâu
Về triết học,
tôn giáo
Và cả các phép
màu.
2
Một hôm, nghe
tin Phật
Đến hoằng pháp
quê nhà,
Ông liền trốn
bố mẹ
Lén đi gặp
Thích Ca.
Hôm ấy, đêm
trăng sáng.
Phật thuyết
pháp ngoài trời.
Giọng Ngài nghe
rất rõ
Giữa đám đông
nhiều người.
Như kẻ bị mất
trí,
Ông say mê lắng
nghe,
Rồi đứng lặng,
ngơ ngác
Khi mọi người
đã về.
Thậm chí ông
không biết
Ông đến trước
nhà Ngài,
Tần ngần đứng
cạnh cửa,
Không rõ muốn
tìm ai.
Bỗng nhiên Đức
Phật gọi:
“Tu Bồ Đề, vào
đi.”
Ông bước vào,
lập tức
Xin phép Ngài
qui y.
Từ đó ông theo
Phật,
Tận tụy và
trung thành,
Đắc quả A La
Hán,
Một người rất
nổi danh.
Là Giải Không
Đệ Nhất,
Ông am hiểu mọi
điều,
Nhìn thấy trước
mọi chuyện,
Nhưng khiêm
tốn, biết điều.
Không giống tỳ
kheo khác
Khất thực hết
mọi nhà,
Những nơi nào
nghèo khổ,
Ông cố tình bỏ
qua.
Ông nói: “Người
nghèo đói
Đã không đủ cái
ăn.
Làm họ nghèo
thêm nữa
Quả là việc
không cần.”
3
Một lần nọ, Đức
Phật
Giảng cho Tu Bồ
Đề
Về Bố Thí Vô
Tướng
Ngài đã kể ông
nghe
Một câu chuyện
có thật
Từng xẩy ra với
Ngài.
Một hôm, thiền
trên núi
Chợt văng vẳng
bên tai
Tiếng của nhiều
cô gái
Hỏi Phật sao
ngồi đây.
Ngài mở mắt và
thấy
Rằng các cô gái
này
Rất trẻ và xinh
đẹp,
Như cung tần,
vương phi.
Ngài giảng giải
cho họ
Về khoái lạc,
từ bi.
Họ lắng nghe
chăm chú,
Nhưng bỗng
nhiên một người
Tay cầm gươm
chạy đến,
Xúc phạm Ngài
bằng lời.
Ông này mặt độc
ác,
Xưng là Cát Lợi
Vương,
Thái độ rất
hung hãn,
Vẻ giận dữ khác
thường.
Ông lớn tiếng
mắng Phật
Dám lả lớt cười
đùa
Với cung tần mỹ
nữ
Và hoàng hậu
của vua.
Ngài đáp:
“Người thiền định
Không tranh cãi
với ai,
Chỉ nhẫn nhục
chịu đựng.”
Nghe thế, hắn
bảo Ngài:
“Ngươi nói
ngươi nhẫn nhục.
Vậy thì hãy xem
đây!”
Hắn vung gươm
sáng loáng,
Chém Ngài đứt
một tay.
Ngài vẫn ngồi
bình thản.
Hắn chém tay
thứ hai,
Rồi chém chân,
tuy vậy,
Chẳng làm lung
lạc Ngài.
Vì Vô Sinh, Vô
Ngã,
Ngài chẳng oán
trách gì.
Tên vua kia
thấy thế
Liền hoảng sợ,
trốn đi.
Nghe xong câu
chuyện ấy,
Tôn giả chợt
giật mình,
Lĩnh hội hết
chân lý
Của Vô Ngã, Vô
Sinh.
4
Cảnh vật núi
Linh Thứu
Rất hợp với tu
hành.
Tu Bồ Đề thích
sống
Ở nơi này tươi
xanh.
Gặp khi trời
tạnh ráo,
Ông thiền dưới
gốc cây.
Đêm, trăng
thanh gió mát.
Chim thú đến
ban ngày.
Một hôm ông
thiền định
Trong hang đá
một mình.
Ánh sáng ông
chiếu dọi
Lên tới tận
Thiên Đình.
Vua trời là Đế
Thích
Cùng chư vị
thiên nhân
Mang theo nhiều
quà tặng,
Cưỡi mây bay
xuống trần.
Họ cung kính
đảnh lễ
Tôn giả Tu Bồ
Đề,
Rồi làm phép,
cho gió
Rải hoa khắp
bốn bề.
Tôn giả chắp
tay tạ
Ân đức các chư
thiên,
Rồi bình tâm,
nhắm mắt,
Lại tiếp tục
ngồi thiền.
TÔN GIẢ A NA
LUẬT
Tôn giả A Na Luật
Vốn dòng dõi vương gia,
Có tư chất thiên phú
Và tướng mạo hài hòa.
Ngài thông minh, mẫn tiệp
Từ thuở còn thiếu niên.
Lớn lên ham hiểu biết,
Thấu hiểu đạo thánh hiền.
Khi đắc đạo, Đức Phật
Trở về thành Ca Tỳ,
La Hầu La, con Phật
Đòi xuất gia, theo đi.
Vua Tịnh Phạn, bất lực
Phải cam lòng, và rồi
Lập Bạt Đề Thái tử.
Là người sẽ nối ngôi.
Nhưng rồi sau, Thái tử
Cùng sáu vị vương gia
Đều tình nguyện theo Phật,
Nên khi vua băng hà
Sức cảm hóa của Phật
Mạnh đến mức Hoàng Gia
Rất nhiều người theo Phật,
Kể cả A Nan Đà.
Và rồi A Na Luật,
Đáng lẽ thay anh trai
Lên ngôi vua, rốt cục
Ông đã đi theo Ngài.
1
Tôn giả A Na
Luật
Từ Tịnh Xá Kỳ Đà
Có công chuyện phải tới
Đất nước Kiều Tát La.
Đêm, đường xa, vắng vẻ,
Trời ẩm ướt đầy sương.
Không còn cách nào khác,
Phải ngủ lại dọc đường.
Có một làng quê nhỏ
Đèn le lói, không xa.
Ngài đến gần, do dự
Rồi bước vào một nhà.
Không may trong nhà ấy
Duy nhất chỉ một người.
Một cô gái xinh đẹp,
Tuổi mười chín, đôi mươi.
Ngài cảm thấy bất tiện,
Lưỡng lự, định không vào.
Nhưng cô gái xinh đẹp
Cứ nhất định mời chào.
Trời đang mưa nặng hạt.
Gió hun hút giữa đồng.
Cuối cùng, cực chẳng đã,
Ngài theo cô và trong.
Cô niềm nở tiếp đón,
Dọn thức ăn cho ngài.
Múc nước ngài rửa ráy,
Rồi đóng cửa trong ngoài.
Cô gái xinh đẹp ấy,
Giữa đêm khuya vắng người,
Bắt đầu có lời nói
Và việc làm lả lơi.
Tôn giả A Na Luật
Ăn xong, ngồi định thiền,
Chỉ mong trời chóng sáng.
Nhưng cô không cho yên.
Hai mắt ngài nhắm chặt,
Tư thế vững như đồng.
Nhưng đến khi cô gái
Lả lơi ngồi vào lòng,
Ngài liền đứng bật dậy,
Nghiêm mặt trách cô nàng,
Rằng làm thân con gái
Phải ý tứ, đàng hoàng.
Nhất là với những vị
Đã quy y, xuất gia.
Và rằng cư xử thế
Là phạm tội dâm tà.
Rằng tình yêu xác thịt
Xưa nay là cội nguồn
Của trầm luân bể khổ,
Ghen tuông và đau buồn.
Những lời nghiêm khắc ấy
Đã làm nguội lửa tình.
Cô hối hận, xấu hổ,
Suy ngẫm lại chính mình.
Hôm sau, cô xin phép
Ngài cho cô cùng đi
Đến diện kiến Đức Phật
Mong được thành sư ni.
Từ Tịnh Xá Kỳ Đà
Có công chuyện phải tới
Đất nước Kiều Tát La.
Đêm, đường xa, vắng vẻ,
Trời ẩm ướt đầy sương.
Không còn cách nào khác,
Phải ngủ lại dọc đường.
Có một làng quê nhỏ
Đèn le lói, không xa.
Ngài đến gần, do dự
Rồi bước vào một nhà.
Không may trong nhà ấy
Duy nhất chỉ một người.
Một cô gái xinh đẹp,
Tuổi mười chín, đôi mươi.
Ngài cảm thấy bất tiện,
Lưỡng lự, định không vào.
Nhưng cô gái xinh đẹp
Cứ nhất định mời chào.
Trời đang mưa nặng hạt.
Gió hun hút giữa đồng.
Cuối cùng, cực chẳng đã,
Ngài theo cô và trong.
Cô niềm nở tiếp đón,
Dọn thức ăn cho ngài.
Múc nước ngài rửa ráy,
Rồi đóng cửa trong ngoài.
Cô gái xinh đẹp ấy,
Giữa đêm khuya vắng người,
Bắt đầu có lời nói
Và việc làm lả lơi.
Tôn giả A Na Luật
Ăn xong, ngồi định thiền,
Chỉ mong trời chóng sáng.
Nhưng cô không cho yên.
Hai mắt ngài nhắm chặt,
Tư thế vững như đồng.
Nhưng đến khi cô gái
Lả lơi ngồi vào lòng,
Ngài liền đứng bật dậy,
Nghiêm mặt trách cô nàng,
Rằng làm thân con gái
Phải ý tứ, đàng hoàng.
Nhất là với những vị
Đã quy y, xuất gia.
Và rằng cư xử thế
Là phạm tội dâm tà.
Rằng tình yêu xác thịt
Xưa nay là cội nguồn
Của trầm luân bể khổ,
Ghen tuông và đau buồn.
Những lời nghiêm khắc ấy
Đã làm nguội lửa tình.
Cô hối hận, xấu hổ,
Suy ngẫm lại chính mình.
Hôm sau, cô xin phép
Ngài cho cô cùng đi
Đến diện kiến Đức Phật
Mong được thành sư ni.
*
Tôn giả A Na Luật
Một hôm nghe giảng Kinh,
Mệt quá, rồi ngủ thiếp.
Mọi người thấy, bất bình.
Đức Phật nhẹ nhàng nói:
“Đã một lòng theo ta,
Nghe Kinh là việc trọng.
Sao có thể lơ là?”
Xấu hổ, A Na Luật
Liền phát nguyện: “Từ nay
Sẽ không bao giờ ngủ.
Cả đêm cũng như ngày.”
Và rồi, do không ngủ,
Mắt dần dần sưng vù.
Đau đớn và khó chịu.
Cuối cùng ngài thành mù.
Tuy nhiên, nhờ tinh tấn
Và tu tập hết lòng,
Ngài chứng A La Hán,
Có phép thiên nhãn thông.
Tức dù mù không thấy,
Nhưng ngài có phép thần
Nhìn xa nghìn vạn dặm
Cả cõi trời, cõi trần.
Một hôm, có người báo
Ngài phạm tội sát sinh.
Là do khi đi dạo
Dẫm chết kiến vô tình.
Đức Phật nghe, liền đáp:
“Nếu không muốn trong lòng,
Thì không phải là tội.”
Và không quở trách ông.
Lúc nghỉ ngơi, nhân tiện
Tôn giả A Nan Đà
Hỏi sao A Na Luật
Phải chịu cảnh mù lòa.
Đức Thế Tôn đã kể
Một câu chuyện thế này,
Lại chuyện về Nhân Quả,
Hàng vạn kiếp trước đây.
*
Một người phụ nữ nọ
Mắc chứng bệnh mù lòa,
Bèn tìm đến thầy thuốc
Xin chữa bệnh cho bà.
Bà hứa, nếu chữa khỏi,
Nhìn rõ như trước đây,
Bà sẽ làm đầy tớ
Cho ông thầy thuốc này.
Sau một tháng chữa trị,
Mắt bà sáng, nhưng khi
Thầy thuốc hỏi, bà nói:
“Tôi chẳng nhìn thấy gì.”
Vì bà sợ lời hứa
Làm đầy tớ cho ông,
Làm đầy tớ cho ông,
Nên tìm cách nói dối,
Dẫu áy náy trong lòng.
Ông thầy thuốc biết thế,
Nhưng không nói một lời.
Nhỏ thêm hai giọt thuốc.
Bà bị mù suốt đời.
*
Kể xong, Đức Phật nói
Rằng ông thầy thuốc này
Là một trong nhiều kiếp
Của tôn giả trước đây.
Ác giả thì ác báo.
Đó là luật của Trời.
Không ai thoát được nó.
Cả thánh và cả người.
TÔN GIẢ U PÀ LY
1
Xưa, xã hội Ấn Độ
Được phân định rõ ràng
Thành bốn đẳng cấp chính,
Theo nghèo hèn, cao sang.
Đẳng cấp cao quí nhất
Là giới Bà La Môn,
Đa phần là giáo sĩ,
Chăm sóc việc
phần hồn.
Tiếp đến là
đẳng cấp
Có tên Sát Đế
Ly,
Chuyên làm vua,
làm tướng,
Áo mũ rất uy nghi.
Phía dưới nữa
một chút
Là đẳng cấp Phệ
Đà,
Gồm các bậc
điền chủ
Và chủ xưởng,
thương gia.
Thủ Đà La sau
rốt,
Đẳng cấp người
ít tiền
Nhưng làm lụng
vất vả,
Như nông dân,
thợ thuyền.
Cuối cùng là
đẳng cấp
Gọi là Chiên Đà
La,
Đổ phân, làm nô
lệ
Hay hầu hạ
trong nhà.
Người của đẳng
cấp dưới
Chạm vào người
cấp trên
Được xem như
tội lỗi
Bị đánh hoặc
phạt tiền.
Mà những người
“bị chạm”,
Phải vội vã về
nhà,
Sám hối cả tuần
lễ ,
Lấy nước sạch
lau da.
Thậm chí người
“hạ tiện”
Không được chạm
vào trâu
Của những người
“ưu tú”
Thuộc các đẳng
cấp giàu.
2
U Pà Ly, bố mẹ
Là người Thủ Đà
La,
Nghèo khổ và
vất vả
Nhưng hơn Chiên
Đà La.
Lớn lên, để
kiếm sống
Và giúp đỡ gia
đình,
Ông làm nghề
cắt tóc,
Đứng ngoài
đường, một mình.
Năm tròn hai
mươi tuổi,
Thông minh và
khéo tay,
Ông thành thợ
rất giỏi,
Nổi tiếng cả
vùng này.
Năm năm trăm
tám bảy,
Trước Công
Nguyên, tất nhiên,
Phật trở về La
Vệ,
Rồi sang nước
láng giếng.
Sáu nhà quí tộc
trẻ
Lần ấy muốn
xuất gia,
Gồm cả A Na
Luật
Và Đề Bà Đạt
Ba.
Họ lên đường
tìm Phật,
Mang theo một
túi tiền,
Định thấy ai
nghèo khổ
Thì cho để cầu
duyên.
Và rồi, một
ngày nọ
Họ gặp U Pà Ly,
Hỏi đường tới
biên giới.
Ông tình nguyện
đưa đi.
Thấy ông nghèo,
vất vả,
Trung thực và
chân thành,
Họ cho túi tiền
ấy,
Rồi chúc điều
tốt lành.
U Pà Ly mở túi,
Thấy có rất
nhiều tiền,
Thừa để sống no
đủ
Cả đời không lo
phiền.
Ông suy nghĩ
một chốc
Rồi treo nó lên
cây.
“Ai thấy trước
thì lấy.
Còn mình thì từ
nay
Sẽ xuất gia
theo Phật.”
Ông nghĩ thế,
và rồi
Đuổi theo mấy
người nọ,
Một chốc thì đến
nơi.
“Tôi muốn theo
các vị
Tìm Phật để qui
y.”
Mấy người kia
đồng ý
Rồi tất cả cùng
đi.
“Túi tiền ông
được tặng
Sao không thấy
mang theo?”
Một người hỏi.
Ông đáp:
“Tôi để cho
người nghèo.”
Khi đến nơi,
gặp Phật,
Kể Ngài nghe
chuyện này,
A Na Luật liền
nói:
“Chúng con cúi
xin Thầy
Cho ông xuất
gia trước
Thành huynh trưởng
chúng con.
Để mọi người
được biết
Giờ đẳng cấp
không còn.”
Dẫu xuất thân
nghèo khổ,
Chỉ một thời
gian sau
Ông tu hành,
đắc quả,
Thành tôn giả
hàng đầu.
Là Trì Luật Đệ
Nhất,
Tôn giả U Pà Ly
Được mọi người
kính trọng,
Không ai dám
khinh khi.
3
Có một cô gái
nọ
Muốn theo Phật
xuất gia,
Nhưng bố mẹ
không chịu,
Bắt lấy chồng,
ở nhà.
Cuối cùng chồng
đồng ý
Cho cô được qui
y.
Cô dọn đến Tịnh
xá
Của các tỳ kheo
ni.
Mọi việc đều
tốt đẹp.
Cô rất vui,
tiếc thay,
Cái bụng dưới
chiếc áo
Cứ lớn lên hàng
ngày.
Và rồi loan tin
dữ:
Một ni sư có
bầu.
Sư có bầu, thật
lạ.
Vì sao và ở
đâu?
Mặc cho sư giải
thích
Rằng sư đã có
chồng
Trước khi nhập
nhà Phật,
Mọi người cứ
nói: Không!
Thế là ni sư
trẻ
Suýt bị đuổi về
nhà.
May tôn giả kịp
đến,
Cho mời một sư
bà
Vào phòng kín
hỏi chuyện,
Tính kỹ tháng
và ngày
Kể từ khi cô
cưới
Và từ ngày đến
đây.
Rồi sư bà tuyên
bố
Cái thai này cô
mang
Là của anh
chồng cũ,
Chính xác và rõ
ràng.
Cô không hề
phạm giới,
Vẫn được làm tỳ
kheo.
Đứa bé sinh,
khỏe mạnh,
Được mọi người
yêu chiều.
Một hôm Ba Tư
Nặc,
Ông vua béo
thương người,
Đi ngang qua
Tịnh xá,
Bỗng nghe tiếng
trẻ cười.
Vua ngạc nhiên
cho hỏi,
Thì được kể
chuyện này.
Ngài nhận nuôi
đứa bé,
Dạy dỗ nó hàng
ngày.
Về sau đứa bé
ấy
Nổi tiếng rất
nhân từ,
Một nhà thuyết
pháp giỏi,
Dẫu có mẹ là
sư.
Còn mẹ chú sau
đó,
Nhờ có U Pà Ly,
Chứng quả A La
Hán
Trong số tỳ kheo ni.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét