LÀNG QUÊ YÊN Ả
Gần về đến làng thì có giông. Cơn
giông bất chợt đầu hè ngắn và ấm, thoảng mùi hăng con đường đất bị hun nóng lâu
ngày, mùi cỏ cháy và cả mùi gì đấy lẫn lộn, rất nông thôn và cũng rất đặc biệt.
Lác đác một vài tiếng sấm. Không
thấy chớp. Có thể có chớp nhưng vì mặt trời chiếu sáng nên không thấy. Những
đụn mây vần vo bay từ biển lên rồi dừng lại trên đỉnh Ba Chạc. Còn phía Tây
trời vẫn quang, nắng vàng rực rỡ.
Ông Bùi vào trú trong ngôi đình
bên hồ sen ngay đầu làng. Nó vốn là ngôi đình cổ nổi tiếng thiêng và đẹp nhưng
bị phá gần hết cuối những năm sáu mươi, không do máy bay Mỹ mà do chính dân
làng, theo lệnh của phòng văn hóa huyện khi rộ lên chủ trương “xây dựng đời
sống mới”. Nghe nói đã có kế hoạch trùng tu lại toàn bộ, nhưng tạm thời nó chỉ
còn lại khung nhà trống huếch, mái thủng ngói, đôi chỗ bằng chiếc mâm con. Thời
đó dù đã xa làng, ông ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh phá hủy ấy. Tổ chức lễ
hẳn hoi, có cờ trống và những bài phát biểu hùng hồn. Lễ phá đền chùa.
Bây giờ ông Bùi không nghĩ đến
chuyện đáng buồn đó. Ông đang vui vì lâu ngày được về thăm quê. Niềm vui ấy bắt
đầu từ khi bước xuống ô tô trên con đường nhựa phẳng lì cách làng không xa, khi
ông vừa thong thả đi bộ vừa lâng lâng ngắm đồng lúa xanh rờn, mấy đứa trẻ chăn
trâu đang chơi khăng trên Gò Chùa hệt như ông cách đây bốn, năm chục năm. Cảnh
làng quê yên ả làm ông cảm động. Lũy tre bao bọc quanh làng vẫn còn, bất chấp
những thay đổi to lớn của thời đại. Ông thích thú nghĩ bụng chỉ chốc nữa thôi
khi vào bên trong, ông sẽ được lũy tre làng ông che chở, không chỉ khỏi những
cơn gió mạnh từ biển mà cả những cơn gió độc của đời.
Cả cơn giông bất chợt này cũng
làm ông vui. Thậm chí ông còn nấn ná một lúc bên ngoài cho mưa rơi lên mặt và
làm ướt chút áo quần. Một niềm vui ngây thơ kiểu trẻ con, khiến ông bất giác
mỉm cười.
Chợt có mấy cô gái làng không
hiểu từ đâu chạy ùa vào cùng trú mưa bên ông, mang theo cả tiếng nói cười vui
vẻ và dường như cả cái lạnh. Những cô gái hồn nhiên, xinh đẹp ông không biết
tên nhưng chắc biết tên bố mẹ hoặc ông bà họ. Ông nhìn các cô, nhìn xuống ao
sen, và nghĩ:
Trời mưa lên mặt hồ sen
Những giọt to như
đồng tiền.
Mấy cô đầu trần
ướt hết,
Vừa chạy vừa run
vì rét.
Lại còn trêu nhau,
còn cười,
Áo ướt, dính chặt
vào người...
Các cô đội nón nhưng vẫn bị ướt,
làm những chiếc áo mỏng dính chặt vào người. Hết mưa, ông còn hồi lâu nhìn theo
những eo lưng thon thả dính áo ướt ấy. Không hiểu sao ông thở dài như nuối tiếc
điều gì.
Trong làng, ông Bùi không còn ai
thân thích. Ông ở nhờ nhà một người quen trước cùng học trường làng, nay làm
trưởng thôn. Suốt buổi chiều hôm ấy ông khoan khoái tận hưởng sự tĩnh mịch của
miền quê yên ả. Đang dịp làm cỏ đợt hai cho lúa, mọi người ra đồng hết. Trẻ con
hoặc bận chăn trâu, hoặc đang ở trường, thành ra ông đi một vòng quanh làng chỉ
gặp mấy người tuổi ông nhưng do cuộc sống vất vả trông già hơn nhiều. Nói
chuyện với họ thực ra chẳng mấy thú vị, có người phải quát vào tai mới nghe nổi
vì nghễnh ngãng, nhưng ông thích, vì nó gợi nhớ nhiều kỷ niệm, có cả kỷ niệm
buồn nhưng bây giờ ông thấy bình thường. Cũng có thể do ông đang trong trạng
thái lâng lâng của ngày đầu rời thành phố về làng, thấy cảnh làng vẫn điền
viên, thơ mộng như xưa dù cuộc sống đã thay đổi hẳn, theo hướng tốt lên, tất
nhiên.
Nhà ông trưởng thôn nhìn ra một
con kênh nhỏ được đào để dẫn nước tưới cho cả huyện Xuân Phú phía trên. Chủ nhà
đi họp trên xã. Chỉ cô con út ôn thi đại học ở nhà. Hiện cô đang giặt quần áo
dưới kênh. Cô ăn mặc, búi tóc kiểu nhà quê, và cũng kiểu nhà quê toát lên ở cô
sự khỏe mạnh, dung dị đến cảm động. Chốc chốc cô ngừng tay, đỏm dáng soi bóng
mình dưới nước. Ngồi hút thuốc trong sân, ông bâng quơ nhìn cô, rồi tự lúc nào
không biết mấy câu thơ vu vơ xuất hiện trong đầu. Ông là nhà thơ, còn khá nổi
tiếng một thời, thường viết thơ triết lý, nhưng về quê lần này ông toàn nghĩ
những chuyện đời thường dung dị.
Dưới ao, cô gái đang yêu
Giặt ít, ngắm mình
thì nhiều.
Tôi nghịch ném hòn
đá nhỏ,
Cô gái giật mình
xấu hổ.
Còn tôi, đứng nấp
trong nhà,
Nghĩ mình cũng
chưa thật già.
Ông mỉm cười với chính mình. Bài
thơ đến thật hồn nhiên, hợp người hợp cảnh, dù không ném đá trêu cô gái nhưng
ông hình dung đã làm điều đó. Ông cũng thấy như trẻ ra hàng chục tuổi.
Cũng trong tâm trạng phấn khích
như thế, buổi tối ăn cơm xong, bất chấp sự phản đối của chủ nhà, ông Bùi vác
cần câu ra Đầm Vạc. Ông chỉ muốn được sống lại những ngày còn trần truồng tắm ở
đó, những ngày vô tư và có lẽ hạnh phúc nhất của đời ông. Buổi chiều đi ngang,
thấy mấy bụi cây rậm rạp bên đầm, ông đã nghĩ tới chuyện tối đến đi câu.
Đêm trăng sáng, ngoài đồng vắng
còn sáng hơn. Cơn giông rửa sạch bầu trời, không khí ẩm ướt, ánh trăng trở nên
hữu hình, sền sệt như sữa loãng. Đầm Vạc khá rộng, nước trong, bao đời nay là
chỗ tắm công cộng của dân làng. Có thể vì thế mà người ta không biến nó thành
hồ nuôi cá. Thanh niên làng bên nhiều khi hứng chí vượt cả hai cánh đồng rộng
đến đây tắm nhờ. Mặt hồ không hiểu sao có màu đen sẫm chứ không ánh bạc như ông
tưởng, và chi chít hàng nghìn, vạn ngôi sao.
Không muốn ai nhìn thấy, ông Bùi
ngồi lên chạc ba thân cây nhãn mọc nghiêng trên mặt đầm, thong thả buông câu.
Ông tận hưởng sự tĩnh lặng của làng quê yên ả, hơn nữa, lại làng quê của chính
ông. Ông không nghĩ gì, hoặc cố không nghĩ gì. Người ông như mềm ra, có lúc
thiu thiu buồn ngủ. Ông thấy mình hạnh phúc có được một làng quê như thế để về
thăm, là điều thật tiếc, ông rất ít làm trong mấy chục năm qua. Biết đâu, không
ra thành phố, không thành nhà thơ, mà ở lại làng làm anh nông dân bình thường,
cuộc đời ông sẽ tốt hơn, thanh thản hơn?..
Cơn buồn ngủ và những ý nghĩ tản
mạn bị ngắt quãng bởi tiếng líu ríu của mấy cô gái đang chạy từ làng ra. Bốn
cô. Đến mấy bậc đá dẫn xuống đầm cách chỗ ông ngồi chỉ dăm mét, các cô nhất
loạt cởi hết áo quần rồi nhảy ùm xuống tắm, không kịp để ông lên tiếng nhắc
đang có người. Ông chỉ còn biết mỉm cười lắc đầu và ngồi im không dám động đậy.
Lại một bài thơ nữa tự đến.
Mấy cô thôn nữ hồn nhiên
Đêm khuya tắm dưới
ao sen,
Rúc rích nói cười,
không thấy
Có tôi ngồi câu
cạnh đấy,
Làm tôi lặng người
quay đầu,
Cá cắn mà không
giật câu...
Vậy là tình cờ, ông Bùi được
chứng kiến một bầy tiên đang tắm truồng ngay trước mặt mình. Không dám nhìn
nhưng ông biết các cô đẹp, với những đường nết trẻ trung, khêu gợi. Các nàng
tiên tắm, cười nói, té nước trêu nhau ồn ĩ như bầy trẻ.
Bỗng một nàng tư lự nói:
“Chúng mày ạ, cái Thơm nó rủ tao
lên thành phố bán trinh. Những hai triệu cơ đấy. Nó bảo tìm được mối rồi...”
“Khiếp! - một cô khác lên tiếng.
- Mày nói gì sợ thế!”
“Còn hơn cứ thế này sớm muộn bọn
mình cũng bị mấy thằng mất dạy trong làng cưỡng hiếp. Hai triệu chứ ít à? Đằng
nào chẳng mất. Có đứa nào đi với bọn tao không?”
“Mày nói có lý. Nhưng để tao nghĩ
đã”, một cô đáp.
“Đúng là trai làng mình thật láo.
Thanh niên làng khác đến bị chúng rình ném đá vỡ đầu, hoặc công khai kéo nhau
đến đánh. Tuần trước cái Lụa con bà Thảo bị hiếp đấy, chắc chúng mày đã biết.
Đi chợ huyện về thì bị hiếp ở Đồng Chùa vì lúc ấy đã tối, lại một mình. Nó
biết, tao biết, nhiều người nữa biết nhưng không ai muốn làm ầm lên. Để ế chồng
à? Mà chúng thì được thể chắc sẽ còn tiếp tục làm tới. Sợ lắm. Tao chỉ mong mau
mau thoát khỏi cái làng này!”
“Đúng đấy, phải lo mà chuồn nhanh
thôi, chúng mày ạ”.
Rồi các nàng tiên lại quay sang
đùa nghịch, cười nói vui vẻ như không hề mới bàn nhau cái chuyện bán trinh
khủng khiếp kia. Có lẽ các nàng đã quá quen với những chuyện như thế.
Ông Mùi lặng người, bây giờ không
chỉ vì sự hiện diện của ông trước sự lõa lồ của các cô gái. Ông thấy bàng
hoàng, chua xót như có cái gì đang vỡ ra bên trong.
Sáng hôm sau ông lên đường sớm,
quay lại cái thành phố ồn ào ông hăm hở muốn thoát khỏi ngày hôm trước.
Ngồi trên ô tô, ông thở dài ngoái
lại nhìn lũy tre um tùm bao quanh làng ông. Lũy tre, những thửa ruộng lúa sắp
lên đòng, những con trâu hiền lành gặm cỏ bên đường đã tạo cho nó cái vẻ điền
viên thơ mộng. Một làng quê yên ả. Làng quê của ông...
Hà Nội, 2003
GIAN LẬN VỚI TRỜI
Người đàn bà ôm bụng chửa, nhăn
nhó.
“Gì thế?”
Chồng bà ta, một gã mặt quắt, da
đen, vẻ lạnh lùng gian xảo ngồi bên, cau có hỏi.
“Nó đạp. Đau lắm”.
“Thì tôi bảo đi bệnh viện, sao
còn cãi. Tại nó muốn ra đấy”.
“Không, ngược lại. Nó không muốn
ra nên nhắc tôi cách ấy. Phải chín tháng mười ngày, các cụ nói. Mà nó mới tám
tháng tròn. Thiếu những một tháng mười ngày nữa...”
“Chờ đến lúc ấy thì nói làm đếch
gì. Tôi bảo hàng trăm lần rồi mà cô không chịu hiểu. Sáu mươi năm mới có một
lần. Mà chỉ cho con trai thôi. Nếu ra đời lúc này nó sẽ thành đạt, thành quan,
thành thủ tướng, thành tỉ phú. Muộn là hỏng. Hỏng hết. Thành thằng ăn mày,
thằng mất dạy. Nó ở trong bụng, biết gì. Vớ vẩn. Nó không chịu ra thì mổ bụng
lôi ra! Đủ rồi, không lôi thôi thêm nữa. Đi!”
Gã thô lỗ túm tay vợ kéo ra khỏi
phòng. Bên ngoài một chiếc ô tô loại xịn đang chờ. Người lái xe riêng vội vàng
mở cửa xe cho ông chủ, bà chủ.
“Chỉ sợ con nó chưa phát triển
hết, ngộ nhỡ thiếu cái gì đó thì sao. Chưa nói đẻ non thế có sống được
không...”
Người đàn bà lí nhí nói, nước mắt
lưng tròng. Nhưng lúc ấy xe đã nổ máy, gã chồng không nghe, mà có nghe chắc
cũng cộc lốc đáp:
“Kệ!”
Thế là hắn bắt vợ đến bệnh viện,
không phải để đẻ mà “mổ bụng lôi con ra” như hắn nói.
Bà chủ là người ít nói, nhút
nhát, luôn trong tâm trạng lo sợ mơ hồ, đối với chồng chỉ trên người ở và dưới
người tình. Trong nhà bà chẳng có chút quyền hành nào, cả quyền giữ tiền hộ
chồng. Đơn giản chỉ là cái bóng để làm vì. Một cái máy đẻ như gã chồng vẫn đùa
bảo bạn bè. Bà chẳng bao giờ dám trái ý hắn trừ lần này, khi bị lôi đi mổ bụng
lấy cái thai mới tám tháng.
Trong xe, gã chồng ngồi im không
nói gì, nhưng đang suy nghĩ lung lắm, và không phải không thoáng chút lo sợ.
Hắn có cảm giác như đang dính vào một vụ rất lớn. Một cú liều quan trọng. Đời
hắn đầy những cú liều quan trọng. Chính nhờ dám liều hắn mới được như ngày nay
- một người giàu, cực giàu nhờ buôn đồ cổ, nhờ gian lận và ăn cắp. Mới bốn lăm
tuổi hắn đã có năm con, hai thằng con trai đều nghiện ngập chích choác, coi như
bỏ đi. Ba đứa con gái bình thường, nhưng là con gái cũng coi như bỏ đi nốt. Mà
hắn thì đang cần một thằng con ra con. Năm Quí Mùi này nghe nói cực tốt, hơn
nửa thế kỷ mới có một lần. Thế là ngay từ đầu năm hắn bắt tay thực hiện kế
hoạch năm nay có con bằng được, bỏ bồ bịch tối tối về ngủ với vợ. Một cuộc chạy
đua lặng lẽ mà dữ dội. Hắn ra đường thấy toàn bà chửa mà thằng con hắn mong đợi
vẫn chẳng thấy đâu. Cuối cùng thì vợ hắn cũng có bầu, siêu âm thấy con trai,
nhưng bị muộn mất mấy tháng. Tính ra bình thường thì nó sẽ sinh đầu tháng Giêng
năm sau, thế mới chết. Hắn quyết định chơi canh bạc này, tức là phải có con
đúng lúc hắn muốn, bất chấp tự nhiên, bất chấp qui luật. Hắn phải chọn hoặc
thêm một thằng nghiện nữa, hoặc sẽ có một quí tử xứng đáng thừa kế gia tài hắn.
Nhưng để thành quí tử thì nó phải sinh ngay bây giờ. Chậm hơn là vứt! Vứt!
Trong đời, hắn từng nhiều lần
gian lận và ăn cắp. Toàn những vố lớn. Vậy mà lần này hắn thấy lo lo, dù chỉ
gian lận thời gian, bắt đứa bé ra đời sớm hơn một tháng mười ngày. Xưa nay hắn
mánh khóe với đời, với người, nay với trời, với tự nhiên, liệu có đi quá xa
không? Liệu con hắn có “thiếu cái gì đấy” như mụ vợ gở mồm vừa nói không? Hay
chí ít cũng thành ngớ ngẩn? Không, không thể thế được. Suốt đời hắn luôn liều và
luôn thắng, vậy lần này không thể thất bại. Cứ mổ bụng lôi nó ra!
Bên ngoài trời bỗng đổ mưa. Con
đường đất chẳng mấy chốc trở nên nhão nhoét, té bùn bẩn lên chiếc Mercedes mầu
đen bóng lộn. Qua tấm kính mờ nước, những bụi cây thấp ngả màu đen xỉn, lạnh
lẽo và có hình thù quái dị. Chốc chốc chớp lóe, tiếp đến là những tiếng sấm
giận dữ. Một điều hiếm vào dịp này trong năm. Nỗi sợ mơ hồ cứ ngọ ngoạy không
để hắn yên, dường như mỗi lúc một lớn thêm.
Đường vắng. Người đàn bà mặt tái
nhợt đầy tuyệt vọng, thỉnh thoảng lại ôm bụng nhăn nhó. Nếu can đảm, bà đã kêu
cứu, nhưng vì nhu nhược, bà chỉ biết ngồi im. Mà có kêu cũng chẳng ai nghe.
Tiếng đạp chân phản đối của đứa bé trong bụng lại càng khó được nghe hơn.
Chỉ còn một hy vọng là các bác sĩ
sẽ từ chối không làm điều bất nhân, trái tự nhiên này, nhưng bà không biết
thằng chồng đã đút tiền mua họ từ trước. Mọi âm mưu ăn cắp hoặc gian lận, cả
gian lận với trời, đều luôn có kẻ tòng phạm.
Tội nghiệp đứa bé. Thằng bố ăn
cắp của trời mà hóa ra lại ăn cắp của chính con hắn. Những một tháng mười ngày
trong vẻn vẹn chín tháng mười ngày được yên ổn nằm trong bụng mẹ.
Trời mưa nặng hạt hơn. Người đàn
bà khốn khổ đã không còn rên rỉ, nhăn nhó, hai mắt nhắm nghiền, có thể do khuất
phục số phận hoặc ngất đi. Phía trước đã nhìn thấy bệnh viện, một khối đen ảm
đạm đáng sợ như một lò mổ, nơi có những tên đồ tể đang đợi...
*
Hắn đã có được đứa con như mong
muốn. Con trai. Để đúng năm đẹp, ngày đẹp, giờ đẹp. Không chết yểu và cũng
không “thiếu cái gì” như mụ vợ ngu ngốc của hắn lo sợ. Còn thừa. Thừa một cái
đuôi nhỏ và lớp lông dày màu vàng trên da con hắn.
Chín tháng mười ngày trong bào
thai, con người trải qua toàn bộ lịch sử phát triển sự sống trên trái đất, từ
sinh vật đơn giản nhất rồi đến loài nhuyễn thế, loài cá, loài bò sát, sau thành
loài linh trưởng, nôm na là khỉ, giai đoạn cuối cùng trước khi phát triển thành
người. Vì bị vạch bụng mẹ lôi ra sớm, nên con hắn chưa kịp rụng đuôi và rụng
lông. Chỉ duy nhất một khiếm khuyết ấy, chứ mọi cái khác đều ổn. Thằng con khỉ
của hắn mạnh khỏe, mặt hiện rõ vẻ quí tướng và rất giống hắn.
Dẫu không toại nguyện hoàn toàn
nhưng hắn cũng mừng. Tháng sau đưa vào bệnh viện, cắt đuôi, cạo lông là xong.
Lo gì!
Hà
Nội, 2003
GIỌT NẮNG BÊN THỀM
Xe vừa vượt qua đèo thì chết máy.
Cậu lái xe bước xuống, hý hoáy một lúc rồi nói:
“Có vẻ hỏng nặng, thủ trưởng ạ.
Phải mất vài giờ mới chữa xong”.
“Có chắc chữa được không?”
“Chữa được. Em biết bệnh này rồi.
Có điều hơi lâu. Khoảng cây số nữa là đến thị trấn Xuân Yên. Thủ trưởng chịu
khó đi bộ tới đấy, nghỉ ngơi, ăn uống chờ em”.
Ông im lặng vẻ do dự.
“Thôi được. Ở lại đây cũng chẳng
ích gì. Tớ tới đấy trước vậy”.
Lúc ấy đang giữa trưa nhưng may
trời không nóng lắm vì hình như sắp có giông. Dịp này miền trung du hay có
giông, chóng đến và cũng chóng tan. Mây đen ùn ùn xuất hiện từ phía chân trời
sau ngọn đèo bây giờ đã ngả màu xanh
thẫm. Những đám mây thấp, bù xù bay nhanh theo gió. Tuy nhiên, rất cao phía
trên, bầu trời vẫn sáng, và qua các khe hở nắng vẫn chiếu xuống. Nghĩa là có
thể mưa mà cũng có thể không. Cậu lái xe sẽ không bị ướt. Ông hít thật sâu làn không khí mát lạnh rồi bước
tiếp theo con đường nhỏ rải nhựa nứt loang lỗ và vắng người.
Quang cảnh hai bên thật buồn.
Những ngọn đồi trọc không cây xanh liên tục gối vào nhau, thưa thớt vài đám cỏ
úa và chằng chịt những rãnh nước xói trơ đất đỏ. Phóng tầm mắt thật xa mới thấy
lác đác vài ngôi nhà mái ngói đen xỉn. Không thấy những con bò quen thuộc cùng
lũ trẻ chăn chúng. Lâu lắm ông mới có dịp thoát ra khỏi thành phố để nhởn nhơ
ngắm thiên nhiên, lại không may gặp cảnh ảm đạm thế này.
Ông là nhân vật quan trọng của
một bộ cũng rất quan trọng. Chiều nay có cuộc họp làm việc với lãnh đạo tỉnh sở
tại, kiểu này có lẽ không kịp. Tất nhiên người ta sẽ chờ, hoặc hoãn sang hôm
sau, nhưng việc giữa đường hỏng xe và ông phải cuốc bộ cả cây số thì quả làm
ông khó chịu. Có thể vì thế mà ông thấy vùng này tiêu điều? Tiêu điều đến mức
không gợi được chút cảm hứng nào trong tâm hồn thi sĩ bẩm sinh của ông. Vâng,
ông vốn trước là nhà thơ, hội viên Hội Nhà văn Trung ương hẳn hoi, thậm chí
từng nổi tiếng một thời với nhiều bài in trên báo. Rồi sau không hiểu sao ông
chuyên tâm chăm lo đường quan chức. Đến nay ông được đùa gọi là người làm quan
cao nhất trong giới thơ và ngược lại, nhà thơ có chức vụ cao nhất trong giới
quan.
Do không quen đi bộ nên khi tới
được thị trấn Xuân Yên đôi chân ông mỏi dừ, áo ướt đẫm mồ hôi. Ông bước vào cái
quán đầu tiên ông cho là tử tế và thích hợp. Đó là ngôi nhà hai tầng mới xây
lợp tôn xanh có bụi hoa giấy đỏ rực phía trước. Ông ngồi xuống chiếc ghế đá bên
cạnh, cởi một lúc hai cúc áo sơ mi cho mát. Ông biết chỉ chốc nữa sẽ có người
ra hỏi ông muốn ăn gì, uống gì. Quán nhỏ nhưng khá sạch sẽ với năm chiếc bàn
lúc ấy không có ai ngồi. Trên bàn ngoài cùng thậm chí có chiếc cốc thủy tinh
với mấy bông hồng còn tươi. Trước cửa có tấm bảng mi-ca khung nhôm in to hai
chữ Đặc Sản. Chẳng biết ở đây bán loại đặc sản gì.
Bất chợt ông nhớ mình từng tới
thị trấn Xuân Yên này. Hơn thế còn ở đây ba tháng thời sơ tán chiến tranh. Tất
nhiên bây giờ nó khác nhiều, đến mức không nhận ra nổi, trừ mấy ngọn núi xa xa
phía đông và chắc cả dòng suối nhỏ đâu đó sau những ngôi nhà tạo nên con phố
duy nhất của thị trấn. Ngoài ra ông không nhớ gì, mà thực sự cũng chẳng có gì
để nhớ.
Từ trong nhà bước ra là một phụ
nữ trạc năm mươi tuổi, dáng mảnh dẻ và còn giữ được những đường nét xinh đẹp,
thanh tú thời trẻ. Cách ăn mặc, điệu bộ cho thấy bà thuộc loại người có học và
lịch sự. Ông theo bà vào ngồi xuống chiếc bàn có lọ hoa. Khoảng mười lăm phút
sau bà bê ra chiếc mâm với những thứ ông yêu cầu, kèm theo chai rượu mơ ông yêu
thích. Chắc bà là chủ quán nhưng do ít khách nên tự mình làm mọi việc.
Ông thoáng ngạc nhiên khi thấy bà
ngồi xuống chiếc bàn cách đó không xa, vừa nhặt rau, vừa chốc chốc ngước nhìn
về phía khách. Những cái nhìn có gì đó khác thường.
Ăn xong, và cũng uống cạn gần nửa
chai rượu mơ pha đá, ông thấy người phấn chấn hẳn lên. Bên ngoài trời đã quang,
nghĩa là cơn giông không đến. Bây giờ chỉ mong cậu lái xe xong việc sớm để đi
tiếp, may còn kịp họp.
“Thị trấn Xuân Yên bây giờ đổi
khác nhiều quá bà nhỉ?” ông lên tiếng, giọng to và vui vẻ hơn thường ngày.
“Vâng”. Bà chủ quán đáp. “Từ bấy
đến nay đã ba mươi lăm năm rồi còn gì”.
“Từ bấy đến nay nghĩa là thế
nào?” ông ngạc nhiên hỏi.
“Tức là từ ngày ông sơ tán về đây
năm 1972 tránh máy bay Mỹ rải thảm Hà Nội. Ông quên rồi à, ông Minh?”
Lần đầu tiên họ nhìn thẳng vào
nhau. Nhìn lâu.
“Bà biết tên tôi?”
“Vâng, lúc ấy tôi là giáo viên
trường cấp một thị trấn. Ông và mấy người của báo ông ở nhà bên cạnh, gần đường
rẽ xuống suối cách đây hai trăm mét. Bây giờ ngôi nhà ấy người ta phá đi rồi.
Cả ngôi trường chúng tôi cũng không còn như trước. Mọi cái đều thay đổi. Tôi
thành bà chủ cái quán này. Còn ông là người như hôm nay. Chẳng dám trách ông
không nhớ vì chắc ông luôn bận nhiều việc nhà nước quan trọng. Thế mà có thời
ông đã yêu tôi đấy, ông Minh ạ. Tôi và ông yêu nhau. Say đắm nữa là khác. Rồi
ông bỏ rơi tôi về Hà Nội...”
Bà cúi đầu, mắt chớp chớp, tuy
giọng nói vẫn nhỏ nhẹ, bình thản.
Không tự cho mình có trí nhớ tốt,
ông thử nhớ mà mãi vẫn không nhớ nổi đã yêu ai đó ở cái thị trấn hẻo lánh này.
Yêu say đắm lại càng không. Nên ông chỉ biết ngồi yên, bối rối nhìn bà. Nhưng
đúng tên ông là Minh, đúng ông và mấy người nữa từng sơ tán về đây ba tháng
cuối năm 1972, ở cạnh một trường học không rõ cấp một hay cấp hai, nơi có nhiều
cô giáo trẻ mà ông và các bạn thường gặp. Lạ thật. Bà ta nhầm? Hay bịa chuyện
yêu đương có mục đích gì? Tuy nhiên, ông không cảm thấy có gì giả dối, khuất
tất ở người đàn bà nhỏ bé, đáng yêu này. Chắc ngày trước bà phải xinh đẹp lắm.
“Thời ấy ông thường làm thơ. Thơ
ông hay lắm”. Bà khẽ nói rồi bất chợt thở dài. “Vì thế mà tôi đem lòng yêu ông
ngay. Ông có nhớ bài thơ đầu tiên ông tặng tôi không? Người con gái nào chẳng
xiêu lòng khi được viết tặng những bài thơ như thế. Bài thơ về hoàng hôn, về
những giọt nắng bên thềm nào đó, mặc dù lúc ấy ông và tôi ngồi trong nhà vào
buổi trưa sau giờ dạy như thường lệ. Cũng có thể ông viết về chiều hôm trước
khi rủ tôi cùng đi dạo trên đồi. Trên đồi chứ không phải bên thềm. Nhưng thôi,
điều ấy không quan trọng. Cái chính là ông yêu tôi và đã viết nó để tặng tôi.
Tôi đọc lại ông nghe nhé?
Hoàng hôn. Giọt nắng bên thềm,
Anh nhặt cho vào tay em.
Giọt nắng lung linh như ngọc,
Em định cài lên mái tóc.
Nhưng Đêm bay đến, và Đêm
Mang đi giọt nắng của em.
Lúc ấy trời sắp tối, sương bắt
đầu rơi, tôi trùm khăn che đầu nên tất nhiên không có giọt nắng nào, mà nếu có
cũng không thể cài lên tóc. Nhưng đúng là một bài thơ hay. Con gái tỉnh lẻ
chúng tôi vốn dễ xúc động, dễ yêu vì được nịnh bằng thơ...”
Bất chợt bà ngừng lời, như để ông
có thời gian bới tìm trong trí nhớ những kỷ niệm cũ bị lãng quên.
Đúng là thơ của ông. Thời ấy ông
viết một loạt những bài thơ ngắn, chỉ sáu câu mỗi bài và không có đầu đề. Bài
thơ này thì ông nhớ, nhưng ông không nhớ đã từng đi dạo hay không trên đồi với
một trong những cô giáo trường bên, và từng viết nó để tặng người ấy. Những bài
thơ lãng mạn, pha chút ủy mị, sáo rỗng mãi gần đây ông mới cho in thành một
tuyển tập lớn năm trăm trang, với số bản rất ít như mọi tập thơ khác. Ông không
nghĩ người đàn bà luống tuổi ở một vùng trung du heo hút có thể biết tới nó để
mua, để đọc và thuộc một vài bài trong đó. Vậy là ông đã viết tặng bà mà không
nhớ? Nhưng làm sao người ta có thể không nhớ một mối tình với những chi tiết
đáng nhớ như thế? Trong đời ông, cả thời trẻ, đâu phải có quá nhiều mối tình.
“Kể cũng lạ”, cuối cùng ông lên
tiếng với giọng của người có lỗi. “Đúng là thơ tôi, nhưng thực tình tôi không
nhớ có lần cùng đi dạo với bà trên đồi...”
“Nhiều lần chứ không phải một”,
bà xen ngang.
“Vâng, có thể. Dẫu sao tôi cũng
đã có tuổi, trí nhớ không còn như xưa. Hay bà đọc nó trong tập thơ gần đây nhất
của tôi?”
“Không. Rất tiếc tôi chưa có được
tập thơ nào của ông, tuy thỉnh thoảng vẫn thấy ông trên ti vi. Hôm ấy ông đọc
tôi nghe và tôi nhớ đến tận bây giờ. Một lần nữa, chắc ông cũng quên rồi, cùng
nhau ngồi bên bờ suối cho đến lúc trên trời xuất hiện những ngôi sao đầu tiên,
ông bỗng cầm tay tôi âu yếm nói:
Ước gì xâu được sao đêm
Thành vòng đeo lên cổ em,
Và những giấc mơ đẹp nhất
Anh sẽ trải hồng dưới đất
Để em bước lên... ước gì
Em đừng vỗ cánh bay đi...
Thật buồn cười. Có ai định bay đi
đâu mà phải sợ. Tôi đang yêu và muốn ở bên ông mãi mãi. Tất nhiên đó chỉ là một
bài thơ nữa ông mới nghĩ trong đầu, về tôi và dành riêng cho tôi vì lúc đó hình
như ông cũng yêu tôi. Ông nhiều lần nói với tôi như thế. Yêu chân thành và bồng
bột như tôi yêu ông vậy. Chắc ông chỉ nhớ thơ chứ không nhớ đã cùng tôi ngồi
bên bờ suối, trên tảng đá lớn cạnh lối mòn đi xuống, nơi bọn con gái chúng tôi
và các ông thường đến tắm và lấy nước. Bây giờ con suối và tảng đá ấy vẫn còn,
nếu muốn ông có thể ra xem lại, nhưng phải vòng qua Bưu điện thị trấn mới tới
được, vì người ta đã xây nhà, bịt mất lối đi cũ...”
“Vâng, quả thật tôi không nhớ gì
cả. Bài thơ đã được in thành sách...”
“Còn tôi thì luôn giữ nó trong
tim. Sống với nó và nhờ nó mà sống”, bà nhẹ nhàng cắt ngang.
“Tôi nhớ thỉnh thoảng có ra suối
với các cô giáo, nhưng không nhớ có lần nào với bà không”, ông định nói, nhưng
lại thôi.
Bà đứng dậy đi vào phía trong,
lát sau quay ra với tờ giấy đã ố vàng.
“Đây là cái ông dúi vào tay tôi
khi tôi vừa bước ra khỏi cổng trường đúng hai tuần trước khi ông về Hà Nội. Một
bài thơ, và cũng là lời hẹn gặp”.
Ông đỡ lấy tờ giấy. Đúng nét chữ
của ông, được viết trên loại giấy sổ tay khổ nhỏ có kẻ hàng bằng mực tím bây
giờ đã ngả màu.
Hãy đến cùng anh đêm đêm.
Chắc không ai nhìn thấy em
Khi em men theo lối nhỏ
Của giấc mơ đầy hoa đỏ.
Hãy ở với anh thật lâu.
Anh không làm gì em đâu.
“Theo lời hẹn, tôi đã đến và ở
lại với ông thật lâu. Mãi đến gần sáng mới về. Không phải trong nhà ông mà trên
đồi. Nhưng ông đã không giữ lời hứa “không làm gì em đâu”. Tôi không cưỡng lại
được tình cảm của mình. Tôi yêu ông, tin ông và không nghĩ chỉ mấy ngày sau ông
bỏ rơi tôi. Tuy nhiên tôi chẳng oán trách ông điều ấy. Không người đàn bà nào
có thể oán trách người đàn ông đã tặng mình những “giọt nắng bên thềm” và những
ngôi sao đẹp đẽ được xâu thành vòng đeo lên cổ. Vì chúng, cũng không ai có thể
quên người đàn ông ấy để yêu người khác...”
Ông cảm thấy nghẹt thở, cay cay ở
mắt. Vậy là chính ông đã tặng bà bài thơ ấy. Tức là mọi chuyện có thật, chỉ do
ông không nhớ? Và bà đã yêu, đã chờ đợi ông suốt chừng ấy năm và “không yêu
người khác”? Có thể bà đã có con, con ông? Ông rất muốn hỏi để biết những điều
ấy mà không dám, không nói nên lời.
Đang lúc lúng túng không biết cư
xử thế nào thì bỗng có ba tiếng còi ô tô vang lên liên tục. Xe đã chữa xong và
đang gọi tìm ông. Ông vội đứng dậy, móc ví lấy tờ giấy bạc một trăm nghìn để
lên bàn. Nó bị chiếc quạt trần thổi bay xuống chân ghế.
Ông đi lại gần bà, húng hắng ho
rồi nói:
“Người ta đang gọi tôi. Câu
chuyện bà kể hôm nay nghe thật lạ. Tôi chẳng nhớ gì và cũng chẳng biết nói gì
bây giờ ngoài việc nếu quả tôi đã làm điều gì không tốt với bà thì mong bà hãy
tha lỗi cho tôi.”
Bà chủ quán im lặng. Ông đứng
thêm chút nữa rồi quay người bước đi, gần như chạy. Khi đã ngồi trên xe, ông
giục cậu kia cho xe chạy thật nhanh.
“Nhưng em còn chưa ăn trưa”.
“Chốc nữa đến nơi sẽ ăn”.
Đã hai giờ chiều. Trời không mưa
nhưng u ám. Không hoàng hôn. Không giọt nắng bên thềm. Không cả những vì sao và
giấc mơ hồng trải trên mặt đất. Không có gì ngoài những ngọn đồi nhấp nhô buồn
tẻ và sự trống rỗng xen thoáng lo sợ mơ hồ trong lòng.
Ông lơ đãng nhìn ra ngoài, thầm
điểm lại cuộc đời mình vốn được coi là thành đạt nhưng thực ra đầy bất hạnh,
nhất là chuyện gia đình, con cái. Bây giờ ông gần như tin hoàn toàn vào sự có
thật những điều bà nói.
Và thầm hình dung sẽ thế nào nếu
ông không hèn hạ bỏ rơi bà ngày ấy. Cũng có thể là bỏ rơi cả hạnh phúc của
chính ông cùng những giọt nắng và chuỗi sao đêm được ông hái xuống xâu thành
vòng lấp lánh.
Hà Nội, 2004
GIÓ LỠ THÌ
Vài năm một lần ông lại “đi công
tác xa”, tức là xuống vùng quê nào đó trong bán kính một trăm ki-lô-mét cách
trung tâm Hà Nội để, như ghi trong giấy giới thiệu, “sưu tầm văn hóa, văn học
dân gian, xin nhờ các tổ chức và cá nhân liên quan hết lòng giúp đỡ”. Với ông
đó là loại công việc dễ chịu, vì tiếng là đi công tác mà ông được tự do tuyệt
đối, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Tới nay ông đã sưu tầm được khối điều
thú vị trong lĩnh vực này, là đồng tác giả của mấy cuốn sách nghiên cứu về tục
ngữ ca dao và chuyện cổ tích, thậm chí cả dân ca quan họ, dù ông mù tịt về âm
nhạc.
Nhưng lần này thì ông lên đường
vì mục đích riêng tư và khác hẳn, tất nhiên khi đề nghị cơ quan cấp giấy công
tác thì ông vẫn là cán bộ sưu tầm vốn cổ dân tộc, vì ông không muốn chi tiền và
thời gian của riêng mình, là cái vốn chẳng bao giờ có nhiều.
Số là một hôm ngẫu nhiên ông được
đồng nghiệp đọc cho nghe bốn câu thơ của một nhà thơ nào đó mà cả ông lẫn đồng
nghiệp đều không biết. Bốn câu lục bát hiện đại giản dị và cô đọng, tinh tế như
ca dao cứ làm ông bâng quơ suy nghĩ mấy ngày liền, và cuối cùng đưa ông đến
quyết định ra đi, không phải “sưu tầm” như mọi lần mà “đi tìm hiểu thực tế”,
tìm hiểu cái gì gì và cách nào thì quả lúc ấy ông chưa rõ lắm. Bốn câu thơ ấy
thế này:
Chị đi kháng chiến trở về,
Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
Mưa qua đi, nắng qua đi,
Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Nghe xong, ông ngồi lặng người
một lúc rồi lên tiếng, không hiểu sao giọng buồn hẳn đi:
“Hay! Hay tuyệt! Chỉ mấy câu mà
nói hết, nói sâu sắc cái đau của một lớp người anh hùng bất hạnh. Tớ nghe mà
thấy rồn rộn trong người. Không hiểu bây giờ họ thế nào nhỉ, những con người
ấy, những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì ấy?”
“Ế chồng chứ còn sao nữa, - ông
đồng nghiệp nói, giọng cũng xa vời. - Mà họ đâu có một vài người, một vài trăm
người. Hàng vạn, hàng chục vạn cơ đấy. Cái đau không nói nên lời, “chỉ thoáng
nghe trong gió” như lời một bài hát của tay Bob Dylan người Mỹ, và bây giờ là
“ngọn gió quê” của anh nhà thơ này. “Gió lỡ thì”. Tự dưng chẳng lỗi của ai mà
mình như có lỗi. Cậu không thấy thế à?”
“Thấy”.
“Thấy mà chẳng làm gì được. Mà họ
sống ngay bên ta, những con người cụ thể bằng xương bằng thịt. Nghe nói có cả
những đội sản xuất, những làng toàn phụ nữ lỡ thì, những người một thời từng
xinh đẹp, trẻ trung, nhí nhảnh yêu đời. Thế mà...”
Ông đồng nghiệp nhắc tên một số
nơi những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì đang sống.
“Thế à?”
Ông ngước mắt, hỏi, và chỉ ít
phút sau quyết định đi đến với họ.
Ông thuộc loại người sởi lởi,
chân thành và cả tin. Nếu gọi những người có gia đình ba đời sống ở Hà Nội là
dân thủ đô thì ông đúng là dân thủ đô. Lịch sự và tế nhị. Nhưng có lẽ vì chính
sự lịch sự và tế nhị ấy mà trong mọi chuyện ông cũng cân nhắc, tính toán ra
phết. Li dị vợ đã năm năm nay và dù chưa đến năm mưoi, lại đẹp trai, hào hoa,
ông vẫn ngần ngại không đi bước nữa. Bạn bè bảo thế là khôn, vừa được tự do
chơi bời lại chẳng phải gắn bó với người nào. Chắc điều này cũng nằm trong tính
toán của ông. Kinh nghiệm chẳng mấy vui vẻ với bà vợ trước làm ông thấy sợ.
Những người phụ nữ ông quan hệ sau này chẳng tìm được cớ gì để trách ông, mặc
dù ước mơ (và đôi khi cả âm mưu) được làm vợ, ở chung với ông trong ngôi nhà
mặt tiền phố Hàng Mắm rút cục không thành. Cuối cùng thì họ đành chấp nhận “làm
bạn” cho đến khi ông chán họ rồi sau đó, dẫu ấm ức trong lòng, vẫn tiếp tục yêu
con người lẳng lơ đáng yêu ấy. Còn điều nữa là ông rất dễ xúc động. Nhiều khi
xem phim một mình ở nhà, ông thút thít khóc, và vì không có ai nên ông cứ để
nước mắt tự do lăn trên má. Phim “Những cô gái ngã ba Đồng Lộc” là một thí dụ.
Ông khóc suốt từ đầu chí cuối mà chẳng chút xấu hổ vì sự mau nước mắt của mình.
Tính ông nó vậy. Mấy câu thơ về các cô gái lỡ thì này cũng làm ông xúc động
chân thành, chưa đến mức chảy nước mắt nhưng rất xúc động. Thế là với chiếc túi
du lịch trên tay, ông ra đi, lòng xốn xang những ý nghĩ bâng quơ cao thượng, cứ
như ông đang đến giúp họ bằng cách cưới một trong những cô gái tội nghiệp ấy.
Nơi ông đến là một xã miền núi ở
tỉnh Hòa Bình. Xã mới được thành lập và toàn dân miền xuôi được bổ sung từ mấy
nông trường bên cạnh đã giải thể. Nó vẻn vẹn chỉ ba làng cách nhau không xa,
nằm lọt thỏm trong thung lũng giữa hai ngọn núi lớn trên đường từ quốc lộ sáu
rẽ vào Kim Bôi. Không thấy bóng chiếc nhà sàn nào, đàn ông, thậm chí trẻ con
cũng rất ít. Chỉ trâu bò là nhiều. Chúng nhởn nhơ gặm cỏ trên các mé đồi hoặc
hai bên đường. Mặt trời ngả về tây và đang sắp khuất sau núi. Nửa quả đồi xa xa
được nắng chiếu sáng có màu vàng rực như trong bức sơn mài “Chiều Tây Bắc” nổi
tiếng.
Ông chút ít cụt hứng khi thấy chủ
tịch xã, người bao giờ ông cũng tìm gặp đầu tiên khi tới công tác ở địa phương
nào đó, là phụ nữ, hơn thế còn khá trẻ, khoảng ba mươi lăm, cùng lắm chỉ bốn
mươi. Chị chủ tịch (hay cô chủ tịch? ông thầm hỏi và thấy ngồ ngộ) rót chén
nước chè đắng mời ông rồi cúi xuống chăm chú đọc tờ giấy giới thiệu công tác
của khách. Ông thì vừa nhấp nước vừa lén nhìn. Chị khá xinh, cái xinh khỏe
mạnh, đậm đà của người phụ nữ nông thôn giản dị và sạch sẽ ở cái tuổi ấy. Tóc
chị búi ngược, để lộ cái cổ tròn trĩnh với những sợi tóc mềm ươn ướt mồ hôi.
Cặp môi dày mọng có vẻ đa tình, nhưng cũng vừa có vẻ cương quyết, nhất là lúc
này, khi chị đang mím chặt, căng thẳng đọc tờ giấy. Giữa cánh mũi bên phải và
môi trên có một nốt ruồi kích thước vừa đủ, vị trì vừa đẹp và màu sắc vừa độ để
bất kỳ một ca sĩ đô thành nào cũng mong muốn có.
“Vậy cụ thể chúng tôi có thể làm
gì để giúp... - chị chủ tịch nhìn khách chọn cách xưng hô - để giúp anh?”
Ông lúng túng không biết nói thế
nào. Chẳng nhẽ bảo tôi lên đây tìm hiểu cuộc sống những cô gái thanh niên xung
phong lỡ thì?
“Chị biết đấy, - ông ngọ ngoạy
mãi trên ghế rồi đáp. - Chúng tôi là một cơ quan nghiên cứu ở Hà Nội. Chả là
người ta đang có chương trình nghiên cứu hậu quả chiến tranh, ý tôi nói về mặt
xã hội, con người chứ không phải kinh tế, và tôi được cử về địa phương ta đây
để... - Ông lại lúng túng. - Chị biết đấy, biết bao con người ưu tú, nhất là
các cô gái của chúng ta, xung phong ra chiến trường, vì độc lập, tự do của đất nước
đã hy sinh tuổi trẻ của mình... Vâng, đúng thế, đó là một bi kịch, bi kịch ghê
gớm của chiến tranh. Họ đã đem hạnh phúc riêng tư của mình trả giá cho sự
nghiệp chung...”
Cuối cùng thì chị chủ tịch xã
cũng hiểu, và ông lấy làm mừng rằng một người vừa phải đánh vần tờ giấy lúc nãy
lại tinh tế như vậy.
Chị nhìn ông bằng cái nhìn buồn
buồn pha chút diễu cợt:
“Vậy thì tôi nghĩ họ phải cử
người khác đi thay anh mới phải”.
“Có lẽ vậy. Nhưng cơ quan tôi ít
người, vả lại các bà ấy ngại đi xa”.
Cả buổi chiều hôm ấy ông được chị
chủ tịch xã kể cho nghe những gì ông muốn biết. Có thể trình độ văn hóa không
cao, nhưng chị diễn đạt lưu loát, không ít khi pha chút đùa hóm hỉnh khiến ông
khách mỗi lúc một thấy cảm tình. Ông ghi kín đặc ba trang giấy các con số và
tên người cùng những điều ông cho là đáng chú ý. Hóa ra cái xã Kim La này cũng
khá đặt biệt và đúng là địa chỉ ông cần tới. Nó trước là một phần của xã Kim
Anh kề bên. Cuối những năm tám mươi, cùng một lúc cả hai nông trường quốc doanh
trên địa bàn giải thể, đất nông trường chia cho công nhân làm nhà và canh tác.
Thế là thành xã mới. Đó cũng chuyện bình thường, điều đáng nói là công nhân hai
nông trường này chủ yếu là nữ, do được bê hầu như nguyên xi mấy đơn vị nữ thanh
niên xung phong từ miền Nam ra khi mới giải phóng. Cái việc ế chồng của họ một
thời được báo làm ầm ĩ, thậm chí người ta còn tổ chức hội thảo bàn cách giải
quyết nhưng rồi đâu lại vào đó, chẳng thêm cô nào kiếm được chồng mà nông
trường thành ra tai tiếng với cái tên “ế chồng” kèm theo. Địa phương cũng bị vạ
lây. Một dạo người ta khôn khéo làm lễ kết nghĩa với các đơn vị bộ đội và xí
nghiệp trong vùng, nhưng kết quả chẳng hơn gì, chỉ thêm nhiều đứa con hoang ra
đời.
“Sao sau chiến tranh các cô ấy
không về quê?” ông hỏi.
“Nhiều người về. Nhưng cả lúc ấy
họ cũng đã quá lứa. Vả lại được vào biên chế nhà nước là cám dỗ lớn”.
“Vậy là chịu, chẳng ai làm được
gì giúp họ?”
“Chuyện này thì giúp sao được. Mà
rồi cũng không đến nỗi như anh nghĩ đâu. Cuộc sống vẫn bình thường, năm nào xã
chúng tôi cũng đạt danh hiệu xã văn hóa. Sinh đẻ kế hoạch thì còn phải nói. Một
nửa chị em đã yên phận, tức là có chồng chính thức, làm lẽ, hoặc có con ngoài
giá thú. Ở đây cả hai điều này không bị phê bình mà còn được khuyến
khích”.
Ông do dự một chốc rồi hỏi:
“Chị cũng từng là thanh niên xung
phong?”
“Tất nhiên, 85% hộ gia đình trong
xã chúng tôi là thanh niên xung phong, trong đó nữ chiếm 70%. Nhưng đừng ái
ngại cho tôi. Tôi là người may mắn, tôi đã có chồng và gia đình hạnh phúc”.
Lúc ấy trời đã tối. Không còn
cách nào khác, bà chủ tịch xã mời khách về nhà mình, và cũng do không biết đi
đâu, khách nhận lời.
Bữa ăn tối có bốn người, tức là
thêm một bà cụ chắc phải hơn tám mươi tuổi nhưng còn minh mẫn, luôn miệng ăn
trầu sau khi đã nghiền kỹ trong chiếc cối nhỏ bằng đồng cầm trên tay, và một
đứa bé gái khoảng mười tuổi, hai mắt cứ mở to nhìn khách đến mức quên cả ăn. Nó
là cháu ở quê dưới xuôi, vất vả lắm mới được đồng ý cho đưa lên đây “ở cho
vui”. Trước đó, dọc đường đi, chị chủ nhà cho biết chồng chị là bộ đội đang ở
xa, và họ mới lấy nhau nên chưa có con.
Ở vùng núi đêm đến sớm, đen hơn,
và khác với người ta thường nghĩ, chẳng mát hơn chút nào. Ông xách ghế ra sân
ngồi, lơ đãng ngước nhìn bầu trời sao dày đặc như mạng nhện lúc ban mai của một
ngày sương mù. Lòng ông lại gợn lên nỗi bâng khuâng vu vơ, sự xúc động nhẹ
nhàng và cả thoáng buồn không tên như khi mới nghe bốn câu thơ kia. Chị đi
kháng chiến trở về/ Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì/ Mưa ra đi, nắng ra đi/
Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Căn nhà chị chủ tịch khá kiên cố,
mái bằng, tường gạch với hàng hiên một nửa nhô ra rộng, rất đặc trưng cho vùng
chiêm trũng Hà Bắc. Không có ngọn gió quê, lỡ thì lại càng không vì chị đã có
chồng. Cái buồn thì có, nhưng đó là cái buồn bình thường của nơi hoang vắng,
của sự nghèo đói chứ không thi vị như trong thơ. Không hiểu sao bỗng dưng ông
cũng thấy buồn buồn, mặc dù chuyến đi của ông thành công hơn dự định. Ông đã
biết những điều ông quan tâm, đã gặp “người thật việc thật”, mai chỉ còn đi tới
hai làng còn lại, vào một vài nhà, nói chuyện với dăm người nữa là coi như kết
thúc. Sau thì sao? Chẳng sao cả. Cơn xúc động bột phát sẽ qua đi, những ý tưởng
lãng mạn sẽ qua đi, thậm chí cả mấy câu thơ tuyệt diệu kia cũng dần dần bị lãng
quên. Nghĩa là tất cả sẽ qua đi như “mưa qua đi, nắng qua đi”, và với ông, thay
cho nỗi buồn là công việc và cuộc sống hàng ngày ở lại, gấp gáp mà đơn điệu, ồn
ĩ mà buồn chán.
Ông ngủ trên chiếc ghế dài bằng
gỗ trải đệm mút ở phòng khách, nhất định không chịu để chị chủ nhà nhường phòng
mình cho ông. Bà cụ và con bé ngủ ở phòng trong, gần như ngay sau bữa ăn tối.
Tưởng đi cả ngày mệt sẽ dễ ngủ, thế mà ông vẫn trằn trọc mãi. Có thể tại đêm
yên tĩnh quá. Rồi ông cũng thiếp đi, láng máng nghe tiếng chị chủ nhà trở mình
ở phòng bên. Ông mơ thấy cả một rừng các cô gái cởi bỏ áo lính chạy ào xuống
suối tắm. Các cô tắm lặng lẽ, không té nước đùa nghịch mà ôm mặt khóc, cũng
lặng lẽ. Sau đó đột nhiên cả rừng cô gái ấy tồng ngồng chạy vào rừng, vừa chạy
vừa cười sằng sặc và làm những động tác kỳ quặc của người điên. Họ chạy cả vào
căn nhà nhỏ của ông ở Hà Nội, túm quanh ông như van xin điều gì. Họ khóc. Ông
cũng khóc.
Ba giờ chiều hôm sau, khi chia
tay xong xuôi với mọi người, Ông được một cậu thành niên (do chị chủ tịch xã
yêu cầu) chở lên phố huyện để bắt xe về Hà Nội. Anh này vui tính và bạo mồm bạo
miệng, mặc chiếc áo thổ cẩm có khuy ngang bằng vải như của người Tày, nhưng
chắc là người miền xuôi, có thể quê Sơn Tây - Ba Vì, nếu căn cứ vào giọng nói.
“Cảm ơn ông bác đã đến xã em. -
Anh ta cười toe toét. - Chuyến này thì chắc xã em tăng nhân khẩu”.
“Cậu nói gì tớ không hiểu”, ông
hỏi lại.
“Thì đêm qua ông bác chẳng ngủ ở
nhà bà chủ tịch đấy sao?”
“Cái cậu này láo. Người ta có
chồng rồi, nhảm nhí!”
“Ai bảo ông bác thế?”
“Bà ấy chứ còn ai. Chồng người ta
đi bộ đội xa, thế mà cậu lại láo lếu nói bậy”.
“Thế thì thật tiếc cho ông bác. -
Anh kia cười, giữa chừng đột nhiên im lặng, giọng trầm hẳn xuống. - Tiếc cho cả
bà chủ tịch nữa. Bà ấy là người tuyệt vời đấy, vì tìm mãi không thấy người
thích hợp nên mới ở vậy. Bà ấy kiêu lắm. Nhưng gặp ông bác thì chắc là “đổ”
rồi. Chí ít cũng muốn xin đứa con Hà nội”.
Ông lại mắng anh ta, rồi từ đó
cho hết quãng đường còn lại ông im lặng, nghĩ quẩn quanh về cái tin mới được
nghe, trong khi anh kia vẫn không ngớt lời ca ngợi bà chủ tịch xã mình.
*
Chưa đầy một tháng sau ông lại
lên Kim La, vì việc riêng chứ chẳng liên quan gì đến “công trình nghiên cứu xã
hội” mới rồi, và tất nhiên ông không vào trụ sở ủy ban xã mà vào thẳng nhà chị
chủ tịch, tuy không phải không chút do dự.
Suốt cả tháng trước đó ông ở
trong tâm trạng kỳ cục, có thể nói lần đầu tiên trong đời ông gặp. Ông luôn
nghĩ tới người đàn bà trẻ hẩm hiu, bình dị và hấp dẫn này, một sự hấp dẫn ông
không lý giải nổi. Nhiều khi ông tự hỏi phải chăng mình đang yêu, ở lứa tuổi
gần năm mươi? Lại ông, một người thừa từng trải và không muốn gánh thêm gánh
nặng gia đình, đơn giản vì ích kỷ? Không, ông lắc đầu. Nếu vậy thì là cái gì?
Ông cũng lắc đầu không trả lời nổi. Nhưng rõ ràng đang có cái gì đó mới lạ xuất
hiện trong ông, và ông lấy làm sợ do không biết thế là tốt hay xấu. Sao không
thể yêu và lấy cô ấy làm vợ nhỉ? - đôi lúc ông nghĩ. Cô ấy còn trẻ, dễ nhìn,
thông minh và tế nhị, lại là một cựu thanh niên xung phong ai cũng ái ngại muốn
giúp mà bất lực. Mình có bất lực thật không? Cô ấy thuộc loại người mới lạ, là
cái chẳng phải mình luôn khao khát đó sao? Rồi ngay lúc ấy chính ông lại hoảng
sợ cái mới lạ ấy khi ông hình dung cô về sống ở Hà Nội, tại nhà ông ở phố Hàng
Mắm. Ông có thể giúp giảm bớt một ca bị ế vì chiến tranh, là điều đáng ca ngợi
và thực sự ông muốn làm. Nhưng bạn bè ông sẽ nghĩ thế nào, cô ấy sẽ sống thế
nào trong môi trường thành phố, trong giới cán bộ trí thức của ông, khi bản
thân cô hình như phải đánh vần mỗi lần đọc cái gì đó? Hay đơn giản coi như một dạng bồ bịch, nếu cô ấy chấp nhận, và nếu
muốn nữa thì cho một đứa con? Không, không được. Đây là trường hợp khác hẳn, cô
ấy là người khác hẳn nên không làm thế được. Vậy thì phải làm gì?
Đầu óc ông cứ quẩn quanh mãi
những ý nghĩ mâu thuẫn như vậy, trong khi trái tim dường như mỗi ngày một xích
lại gần hơn với chị. Cuối cùng thì ông quyết định quay lại tìm chị, dù không rõ
mình thực sự muốn gì.
Không biết lần ấy họ gặp nhau như
thế nào, nói với nhau những gì, chỉ biết sau đó, trong vòng nửa năm ông còn lên
Kim La bốn lần nữa, và bây giờ thì chính chị chủ tịch đang chuẩn bị về Hà Nội,
Để gặp ông, tất nhiên có kết hợp tí việc, nhưng chủ yếu vẫn để gặp ông, vì chị
đã hứa nhiều lần.
Cả tuần nay chị chuẩn bị cho
chuyến đi này. Dẫu chẳng lần đầu tới thành phố nhưng rõ ràng đây là chuyến đi
đặc biệt, và chị rất lo lắng. Chị chỉ ghé thăm ông một chốc, “cho biết nhà” rồi
về, thế thôi. Xưa nay chị luôn kính trọng, gần như ngưỡng mộ những người đàn
ông thành phố lịch sự, có học và sang trọng. Bây giờ một người như thế đến với
chị, người ấy đã li dị, sống một mình và, điều này mới quan trọng nhất, tôn
trọng và theo như chị cảm nhận, cũng thương yêu chị. Không nói thành lời nhưng
“anh ấy” đã tỏ ra thế, và trái tim trong trắng bốn mươi tuổi của chị nhận thấy
điều đó. Nó đập rộn mỗi lần nghĩ tới “anh ấy”. Chị đang sống trong hạnh phúc
pha chút lo sợ mơ hồ khi hình dung thấy mình có chồng, có con, lại được sống ở
thủ đô. Đứa con của chị thật đẹp, con trai, không hiểu sao chị nghĩ nhất định
sẽ là con trai. Nó giống “anh ấy” như đúc, dù chị cũng có nhiều nét đẹp nhưng
chị sẵn sàng để nó giống anh. Còn chị sẽ lặng lẽ chăm sóc anh từng ly từng tí
một cách trung thành mà không đòi hỏi chút gì cho mình. Có điều, nếu mỗi lần đi
làm về anh hôn vào má chị như trong phim, thì chị sẽ rất xấu hổ, thích nhưng
vẫn xấu hổ. Nhiều đêm chị không ngủ vì ngây ngất tình yêu, thứ tình yêu muộn
mằn mà bồng bột. Chị đã khóc vì sung sướng, tay vuốt vuốt bụng như nâng niu đứa
con tương lai. Vậy là chị sẽ có con như nhiều người khác, không phải “con xin”,
mà con hợp pháp, con có bố làm ở Hà Nội.
Sau rất nhiều cân nhắc, chị quyết
định mua tặng “anh ấy” ba mét vải thổ cẩm đặc sản của vùng chị, và sẽ tự tay
khâu cho anh một chiếc bao đựng kính cũng bằng thứ vải ấy. Vải không mua ở chợ
Lùng vì như thế sẽ thành thứ vải bình thường. Thay vào đó, chỉ bỏ công vào tận
bản Dóc cách hơn hai mươi cấy số, lùng sục từng nhà tìm bằng được thứ chị vừa
ý, lại còn bắt sửa chỗ này cắt chỗ kia, và lần đầu tiên chị mua bán mà không hề
mặc cả. Cầm tấm vải mịn mát lạnh trên tay (nhưng màu khá sặc sỡ) chị sung sướng
hình dung “anh ấy” sẽ cắt nó thành áo mặc diện ngoài phố mà không biết rằng đàn
ông Hà Nội tuổi anh chỉ thích mặc com-lê và áo sơ mi cô-tông nhã màu. Còn chíêc
bao đựng kính thì không vất vả lắm vì chị giỏi may vá thêu thùa do học được
những năm ở Trường Sơn. Mỗi bên chị thêu một bông hoa, hoa cúc, với những chiếc
lá bé tí màu xanh, còn hoa thì bông vàng bông trắng. Các đường thêu tỉ mẩn và
rất đẹp, có thể bố cục không hợp, nhưng thế cũng khá lắm rồi nếu so với đôi
chim bồ câu lồng cánh và hai chữ cái uốn éo lồng nhau của thời trước. Đêm ngủ,
chị đặt tấm vải và bao kính lên ngực rồi mỉm cười một mính trong bóng tối.
*
Ông ra tận bến xe đón chị. Chị
ngồi sau xe máy, chiếc nón bài thơ mới quang dầu bóng loáng có hình chìm những bông
hoa to và đôi chim bồ câu đang bay quanh trái tim hình con cơ lộn ngược, làm
chị và ông hơi vướng. Một bên chị xách chiếc lồng tre đựng hai con gà, bên kia,
đeo kè kè sát hông là chiếc túi đầm giả da thường thấy bán ở phố huyện. Tất cả
đều mới, thậm chí cả lồng gà. Cả chiếc quần bò và chiếc áo thun len cũng mới,
dù thường ngày chị thích mặc những thứ giản dị bằng vải mềm. Không hiểu sao chị
thấy sờ sợ, hai má đỏ ửng, nhất là khi đi qua chỗ đông người, một con gà bỗng
gáy to. Là người lịch sự, ông Huấn lờ đi như không nghe. Ông cố tình đèo chị
qua mấy phố có những tòa nhà cao, qua hồ Hoàn Kiếm, Nhà Hát Lớn rồi mới về nhà
mình. Ông muốn mà không dám giới thiệu các điểm nổi tiếng của thủ đô vì sợ chị
có cảm giác mình là dân nhà quê. Đến phố Cầu Gỗ, một vài người bạn đang uống
bia nhìn thấy họ, kêu to gọi ông nhưng ông không nhìn, không đáp.
Một buổi chiều trôi qua dễ chịu.
Chị xuống bếp làm gà, chuẩn bị bữa ăn, thầm sung sướng được dọn dẹp căn bếp dẫu
hiện đại, sạch sẽ nhưng vẫn bừa bộn theo cách của một người đàn ông sống độc
thân. Còn ông thì xăng xái bên cạnh xin được giúp đỡ. Chị chỉ cười, nói không
cần, nên cuối cùng ông ra ngồi hút thuốc trên chiếc xa lông bọc da êm ái ở
phòng khách, với sự hài lòng của một ông chủ gia đình đang được hưởng sự chăm
sóc cảm động của người vợ, hay cũng gần như thế. Cảm giác này làm ông xúc động,
và ông nghĩ sẽ không tồi nếu có được người vợ như chị. Lúc này thì tình cảm
chân thành và sự hào hiệp đang lấn át những lo lắng và tính toán thực dụng của
cuộc sống đời thường.
Ông mở một chai rượu ngoại màu đỏ
sẫm, rót ra hai chiếc cốc pha lê tay cầm
rất dài và mảnh:
“Uống đi em. Nhẹ thôi mà. Để kỷ
niệm ngày hôm nay. Nào, vì hạnh phúc của em, của anh. Của chúng ta!”
Như ông, chị uống một hơi hết cốc
rượu hạnh phúc ấy. Sau đấy chị còn uống thêm mấy cốc nữa. Mặt chị, thậm chí cả
chiếc cổ dài tròn trĩnh, bắt đầu đỏ ửng, vì rượu và cả vì hạnh phúc. Hơi chút
ngượng ngập, họ trao đổi những lời âu yếm, những câu hỏi đáp bâng quơ không ăn
nhập, chủ yếu làm phần đệm, làm nền cho những cái nhìn kéo dài cũng âu yếm
không kém. Chị cảm thấy như có dòng điện nhẹ chạy khắp người khi lần đâu ông
cầm tay mình. Bản năng mách chị muốn rút lại nhưng chị không làm nổi. Chị cũng
bất lực khi ông khẽ chạm môi mình vào môi chị rồi kéo nhẹ về phía chiếc giường.
Cơ thể khỏe mạnh, trinh trắng của chị run run khi tay ông lóng ngóng lần cởi
từng chiếc cúc áo của chị...
“Cái gì thế anh?” Chị giật mình,
khẽ hỏi khi ông lấy từ dưới gối chiếc bao cao su màu đỏ.
“Safe sex!”
“Tức là cái gì?”
“Là OK! Tình dục an toàn, em ạ”.
“Ồ không! Đừng anh! Em không
thích cái ấy! Đừng! Đừng dùng nó!”
Chị kêu lên rồi ôm mặt khóc. Ông
do dự một lúc rồi vứt chiếc bao xuống sàn nhà. Ông nằm ngửa, cũng trần truồng
như chị, mắt nhìn trân trân lên trần. Vào phút chót, ông lại bị những toan tính
thực tế và nỗi lo sợ mơ hồ chi phối. Chị nằm bên, quay mặt vào tường, và vẫn
khóc.
“Anh yêu em... Anh xin lỗi...”,
ông nói, tay âu yếm vuốt ve cơ thể bất động của chị.
Chị nằng nặc đòi ra về. Không giữ
được, ông lại đèo chị ra bến xe. Chiếc nón bài thơ vẫn vương vướng vào lưng ông
như trước. “Anh xin lỗi”, ông lại nói, nhưng chị không nghe thấy vì tiếng ồn
đường phố, và cả vì chị đang nghĩ về đứa con trai đáng lẽ chị đã có nhưng giờ
thì có lẽ sẽ không bao giờ có nữa. Một bên hông chị vẫn là chiếc túi đầm phố
huyện mới mua, đựng ba mét vải thổ cẩm và chiếc vỏ kính chưa tặng.
*
Ngay sáng hôm sau, với vẻ mặt phờ
phạc của người mất ngủ và lo nghĩ nhiều, ông lại lên Kim La. Chị chủ tịch không có nhà. Ông
chờ suốt cả buổi chiều, mãi đến tối mịt vẫn không thấy chị về. Con bé ê a học
bài trong nhà. Còn bà lão mẹ chị thì ngồi bất động nhìn không chớp cái gì đấy
ngoài vườn. Mãi đến bây giờ ông mới phát hiện thấy bà bị mù.
Chị đi kháng chiến trở về,
Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
Mưa qua đi, nắng qua đi,
Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Bốn câu thơ kia lại lởn vởn trong
đầu ông. Chúng thật buồn. Ngôi nhà ông đang ngồi đây cũng thật buồn. Không
thông thốc, nhưng hiện đang có gió, ngọn gió lạnh đầu đông ở vùng núi, và nó
cũng đượm buồn. Có thể chị không biết những câu thơ này, nhưng chắc không ít
lần phải chịu cái buồn được nói một cách tinh tế ấy trong thơ. Không chỉ mưa
nắng, mà một người đàn ông đến với chị, rồi người đó cũng ra đi, làm nỗi buồn
càng buồn hơn. Ông thấy thương chị, thương cho cả chính mình. Không, ông sẽ ở
lại. Ông rút thuốc hút, quyết tâm chờ tiếp, chờ hết đêm nay, chờ cả ngày mai,
ngày kia, chờ cho đến lúc chị về. Ông biết chị đang ở đâu đó rất gần và đang
theo dõi cái quyết tâm ấy của ông.
Hà
Nội, 26. 8. 2004
BÀN TAY
HÌNH CHIẾC LÁ
Con bé đứng giữa trời mưa. Nó bị
mù. Mưa bé thôi. Cơn mưa phùn dai dẳng thường có vào dịp cuối năm. Những giọt
nước li ti bám vào mặt, vào quần áo, lâu dần cũng đủ lớn chảy thành từng dòng.
May không lạnh lắm, nhưng sự ẩm ướt kéo dài, đường phố bẩn thỉu và bầu trời u
ám gây cảm giác nặng nề khó chịu.
Nó cũng hẵng còn bé. Nhìn bề
ngoài người ta chỉ đoán khoảng bảy, tám tuổi. Nhưng có thể nó đã mười, thậm chí
mười lăm. Những đứa trẻ ăn mày như nó khó đoán tuổi lắm, nhất là khi lại mù và
trông khá tiều tụy. Nó đứng đầu ngõ chợ, dưới gốc cây bàng chưa kịp ra lá, nên
mưa dù nhỏ, quần áo nó vẫn ướt sũng từ bao giờ. Tại sao nó không vào đứng dưới
hàng hiên hiệu thuốc bên cạnh? Có thể
chủ cửa hàng không cho. Có thể vì mù nó không biết. Cũng có thể cần cây bàng để
tựa, vì nó đứng chứ không ngồi, mà có lẽ đã đứng như thế từ lâu và sẽ còn lâu
nữa.
Ngồi làm việc ở phòng mình trên
tầng hai ngôi nhà đối diện, tôi lặng lẽ quan sát nó. Nó đứng yên hầu như bất
động, người co lại để chống đỡ với mưa gió. Nếu nó đứng trên chạng ba cây bàng
thì có thể nghĩ đó là một con cú đang thiu thiu ngủ. Hình như nó cũng đang thiu
thiu ngủ. Nó chìa bàn tay trái trước mặt. Một bàn tay nhỏ bé, khum khum màu
vàng nhợt vì bẩn và vì đau ốm, trông giống những chiếc lá bàng nửa xanh nửa
vàng rụng đầy dưới chân. Nó đeo cái bị hay cái túi gì đấy sau lưng. Bên dưới là
chiếc mủng tre với mấy tờ giấy bạc nhàu nát và một ít thức ăn được người ta vứt
cho từ bao giờ. Cả tiền và thức ăn đều ướt, cũng bẩn và lạnh như chính nó. Tôi
thấy nó luôn im lặng, khác hẳn những người ăn mày lắm lời ta thường gặp. Nó chỉ
đứng thế, bất động, trừ một lần có chiếc xích lô chở hàng cồng kềnh va vào làm
nó phải bám lấy thân cây mới không bị ngã. Sau đó nó trở lại tư thế cũ. Đôi mắt
mù trắng đục vô cảm nhìn phía trước, cùng hướng với bàn tay hình chiếc lá bàng
héo úa.
Vốn dễ xúc động và hay phân tán
tư tưởng, từ khi thấy nó tôi chẳng thể tập trung làm việc được nữa. Tôi đang
viết một truyện ngắn có hậu, có nắng ấm, cây xanh và nhiều khuôn mặt hạnh phúc.
Tôi hơi khó chịu vì nó làm hỏng một ngày làm việc của tôi, vô tình cứ bắt tôi
chú ý đến nó. Ngõ chợ luôn đông người ra vào, mà tôi chẳng thấy ai cho nó gì.
Nó cũng chẳng mở mồm xin ai cái gì. Chỉ chìa tay đứng thế. Và chiếc lá bàn tay
ấy chẳng nhận được gì ngoài những giọt mưa li ti nhão nhoẹt...
Bất chợt, thay cho truyện ngắn
đầy nắng ấm và hạnh phúc định viết, tự lúc nào không biết, trong đầu tôi đã
hình thành một bài thơ buồn. Bài thơ về nó, cái con bé ăn mày tội nghiệp ấy.
Trời mưa
phùn lất phất,
Gió lạnh
thổi suốt ngày.
Em bé mù
hành khất
Đứng bên
đường, chìa tay.
Bàn tay
em để ngỏ,
Suốt từ
sáng đến trưa
Chỉ xin
được ít gió,
Chỉ được
cho ít mưa.
Bàn tay
như chiếc lá
Bị gió
ngắt lìa cành,
Dù nhăn
nheo, tàn tạ,
Nhưng
hình như còn xanh.
Cuộc đời
này oan trái
Đã cướp
hết của em,
Chỉ trớ
trêu chừa lại
Bàn tay
chiếc lá mềm.
Mưa
phùn, mưa buồn bã.
Em trơ
trọi giữa đời.
Bàn tay
hình chiếc lá
Đầy
những giọt mưa rơi...
Cảnh đã buồn. Bài thơ ngẫu hứng
này càng làm tôi buồn thêm. Buồn vì sự bất lực của bản thân và sự vô bổ của cái
nghề văn chương trót cả đời đeo đuổi. Bài thơ có thể chân thành và xúc động,
nhưng không lẽ mang xuống đường đọc cho nó nghe để nó biết tôi thương nó thế nào?
Cả bài thơ và tình thương ấy của tôi có làm nó đỡ lạnh và no hơn không? Tôi
ngồi đây, trong căn phòng tiện nghi ấm áp, no đủ và hạnh phúc để viết về nó,
một đứa bé ăn mày mù cả hai mắt, trạc tuổi con tôi, đứa con mà tôi đang vất vả
bắt không được ăn những thứ béo bổ để khỏi phát phì. Cả tôi và vợ tôi cũng đang
phát phì vì ăn quá nhiều và quá ngon.
Vậy phải chăng tôi đã viết những
dòng chân thành mà giả dối? Thậm chí đạo đức giả? Không lẽ thực sự tôi không
thể làm được điều gì hơn để giúp nó, chính xác hơn là giúp mình thoát khỏi
những mặc cảm trên? Tất nhiên là có. Tôi có thể - và dự định chốc nữa sẽ làm
ngay - cho nó ít tiền, ít thức ăn như nhà tôi từng cho nhiều người cơ nhỡ khác.
Nhưng sau đấy thì sao? Những đứa khác như nó, mà chắc không ít ở cái thành phố
rộng lớn này, thì sao? Phải chăng với ít tiền, ít thức ăn ấy, tôi có thể mua
được sự thanh thản cho lòng mình để viết tiếp câu chuyện đầy nắng và hạnh phúc
kia của tôi?
Tôi cứ quẩn quanh mãi với những ý
nghĩ không mấy vui vẻ ấy. Trong khi đó con bé vẫn đứng yên bất động bên gốc
bàng với bàn tay nhỏ xíu đang chìa ra phía trước. Trên lòng bàn tay khum khum
như chiếc lá ấy vẫn chẳng có gì ngoài những giọt mưa nhỏ và lạnh.
Thành phố đã lên đèn. Thậm chí
ngõ chợ cũng bắt đầu thưa người. Người mù không phân biệt được ánh sáng và bóng
tối, nhưng nhờ một giác quan đặc biệt nào đó, họ biết rõ lúc nào là đêm và
ngày. Con bé này cũng vậy. Nó đang đi về nhà. Chẳng ai biết nó từ đâu tới và
bây giờ đang đi về đâu. Nhưng nó đang đi. Nghĩa là quả có một nơi nào đấy mà nó
có thể đến, có thể gọi là "nhà". Như những người mù khác, nó đi chậm
chạp, rờ rẫm, không có gậy, chỉ thỉnh thoảng quờ quờ tay trước mặt. Nó đã rẽ
qua mấy phố nhưng vẫn tiếp tục đi. Nghĩa là "nhà" của nó xa và nó
phải quen đường lắm mới không bị lạc.
Trên vỉa hè một đường phố nọ, nó
bỗng vấp phải cái gì mềm mềm. Nó đứng lại suy nghĩ một chốc rồi cúi xuống đưa
cả hai tay sờ sờ cái vật mềm mềm ấy. Đó là một bà già đang nằm sóng soài trên
mặt hè phố bẩn thỉu và ẩm ướt. Không biết bà lão nằm đây trong tư thế ấy tự bao
giờ, mái tóc bạc xõa tung, dính đầy bùn. Quần áo bà cũng ướt và dính đầy bùn.
Có lẽ con bé đoán hiểu được chuyện gì xẩy ra. Nó để ngón tay trỏ sát mũi bà
lão. Còn thở, nhưng rất yếu. Nó lắc lắc gọi mấy lần nhưng không thấy đáp lại.
Nó cố hết sức vực bà lão dậy, kéo lê mấy bước rồi cho tựa lưng vào bức tường
gần đó. Sau đó nó lấy mảnh giẻ trong bị lau mặt mũi, tay chân cho bà lão.
Chừng ấy việc đủ làm nó mệt, nên
nó cũng ngồi tựa vào tường để nghỉ. Nó lấy mấy mẩu bánh mì sũng nước nhét vào
miệng bà lão. Lúc đầu bà lão không ăn, nhưng nó vừa dỗ như dỗ em, vừa bón từng
mẩu nhỏ. Bà lão bắt đầu ăn và dần dần tỉnh lại. Sau đó nó rờ rẫm tìm đến vòi
nước công cộng để uống đỡ khát và mang về cho bà lão một cốc.
Đó là một bà lão ăn mày hơn bảy
mươi tuổi, mắt sáng nhưng rất yếu, lại mắc chứng suy tim nên thỉnh thoảng bỗng
ngất đi như vậy. Bà ngất, nằm đấy từ lúc mới xế chiều. Nghĩa là bà đã nằm trong
tư thế ấy, ngay trên mặt hè đông người qua lại hơn năm giờ đồng hồ. Thế mà
chẳng ai vấp phải bà. Vì ai cũng mắt sáng nên họ nhìn thấy và né sang bên.
Nhiều người quả có dừng lại, lắc đầu ái ngại. Nhiều người cũng tỏ ý thương bà,
nhưng họ nghĩ đây là việc của công an, của các tổ chức nhân đạo. Mà họ thì đang
bận, thương đấy, muốn giúp đấy, nhưng... Thế là họ đi tiếp dù trong lòng không
phải không gợn chút băn khoăn. Suy cho cùng cũng chẳng trách được họ. Chỉ tội
con bé mù. Vì nó mù nên đã vấp phải bà lão, phải vất vả dựng bà dậy, chăm sóc
và cho ăn uống.
Tối ấy con bé chẳng "về
nhà" nữa, mà cùng bà lão ăn mày ôm nhau nằm co quắp dưới mái hiên có bức
tường nơi hai người vừa tựa lưng nghỉ. May không bị ai đuổi.
Hôm sau và những ngày tiếp theo,
từ cửa sổ phòng mình tôi lại thấy con bé mù đứng chìa tay bên gốc cây bàng đầu
ngõ chợ như cũ. Vẫn bàn tay hình chiếc lá ấy. Vẫn cái dáng bất động, nhẫn nhục
và chiếc mủng tre ấy. Khác chăng bây giờ mưa đã tạnh và trời bắt đầu hửng nắng.
Khác nữa là bây giờ luôn ở bên em có bà lão ăn mày đã làm em vấp, được em cứu
sống và từ nay, với đôi mắt sáng của mình, sẽ cùng em dựa vào nhau để tồn tại
trong cuộc đời này, cuộc đời với hầu hết những con người khỏe mạnh, mắt sáng,
giàu lòng nhân ái nhưng quá bận, quá vội, thành ra đôi khi quá hờ hững với
người khác.
Còn
tôi, tôi vẫn không sao viết nổi truyện ngắn có hậu với nắng ấm và những khuôn
mặt hạnh phúc kia. Tôi cứ vấn vương mãi với những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu về
đủ mọi chuyện, về thiên chức nhà văn, về tình người, tình đời và về cả sự bất
lực của mình. Và trong tâm trạng buồn buồn day dứt như thế, tôi đã viết một bài
thơ như sau về bà lão ăn mày ấy.
Đêm, lất phất mưa phùn.
Một bà
già bé nhỏ
Quần áo
lấm đất bùn
Nằm
ngang trên hè phố.
Bà ngã
xuống ở đây
Phải
chăng vì đói, mệt?
Ốm? Một
giờ? Cả ngày?
Hay phải
chăng đã chết?
Phố đông
người, ồn ào
Hình như
ai cũng vội,
Thế mà
không người nào
Vấp phải
bà, dù tối.
Người
tiếp người đi qua,
Bà già
vẫn nằm đấy.
Không ai
vấp phải bà,
Cả chính
tôi cũng vậy.
Mãi lúc
sau, đang đi
Nơi sáng
đèn, đường vắng,
Tôi bỗng
vấp cái gì
Rất đau
và rất nặng.
Thì ra,
chính nỗi đau,
Lương
tâm và xấu hổ
Làm tôi
vấp... Cúi đầu,
Tôi bước
đi giữa phố...
Hà Nội, 15. 4. 2001
NẾU CÒN SỐNG, CHỊ Ở ĐÂU?
"Tôi
là Nguyễn Văn Biên, lái xe, thuộc công ty X. Bộ Lâm nghiệp. Cách đây hai mươi
ba năm, vào một đêm trời mưa to cuối tháng chín năm 1967, trên đường từ Châu
Yên tới Sơn La, có một cô gái vẫy tay xin đi nhờ xe. Lúc ấy trời đã khuya, rừng
núi vắng vẻ. Cô gái trạc hai mươi tuổi, đầu đội nón, tay xách chiếc túi nhỏ, quần
áo ướt sũng, nói đi nhỡ đường gặp mưa bị cảm. Tôi cho cô lên xe. Trên xe chỉ có
mình tôi. Đi được một quãng, tôi dừng xe định giở trò cưỡng đoạt cô gái. Cô
cương quyết chống đỡ. Tôi dọa nếu không chịu, sẽ đuổi xuống. Cô gái khóc, van
xin đừng làm thế vì cô đang ốm, có thể chết. Thấy tôi vẫn một mực không thay
đổi ý kiến, cô vùng ra được và nhảy xuống đường. Tôi ngồi trên xe, đoán cô
không dám ở lại một mình vì chỗ có người gần nhất cách đấy cũng hơn hai mươi
kilômét. Nhưng cô gái vẫn ôm mặt khóc dưới trời mưa tầm tã, người run lên vì
lạnh... Cuối cùng tôi cho xe chạy tiếp. Đêm ấy tới trạm, bình tĩnh trở lại, tôi
rất ân hận việc làm của mình, nhất là việc vì tôi cô có thể chết. Vì vậy tôi
quay xe lại tìm nhưng không thấy cô đâu. Sau này nhiều lần tôi đến các nông
trường và bản lân cận tìm cô, tuy nhiên, mọi cố gắng của tôi đều vô ích
Nay
cô ở đâu, nếu còn sống, xin báo cho tôi ở số nhà... phố Long Châu, Hà Nội, để
tôi tìm đến cô xin tha thứ cho việc làm tội lỗi kia của tôi.
Nguyễn Văn
Biên".
Bà Bảo Châu đặt tờ giấy xuống
bàn, ngả lưng vào chiếc ghế da rồi không hiểu sao ngồi thờ thẫn hồi lâu. Đang
giờ nghỉ trưa, mỗi người một nơi. Trong phòng chỉ còn lại Bích Phương, cô thư
ký xinh đẹp vừa ăn xong đang ngồi soi gương sau chiếc máy chữ.
Bà liếc qua những tờ tiếp của tập
giấy được xếp ngay ngắn trước mặt, rồi hỏi:
- Ý kiến mọi người thế nào về tin
của ông lái xe này?
Bích Phương còn bậm môi, dướn mắt
thêm lần nữa trước gương rồi mới ngẩng đầu đáp:
- Dạ thưa cô, anh em nói đây là
trường hợp khác thường nên chờ ý kiến cô xem có nên phát không, sau mới trình
lên Ban duyệt. Các tin khác không có gì đặc biệt, chú Đại đã ký thay cô.
Mấy ngày vừa rồi bà Bảo Châu đi
công tác xa nên đương nhiên ông Đại phó phòng thay bà quản lý phòng này, phòng
Thông tin kinh tế xã hội của Đài phát thanh. Im lặng một chốc, bỗng Bích Phương
quay sang bà, nói:
- Cái ông lái xe Biên này kể cũng
lạ, cô nhỉ? Giận mà cũng thương ông ta...
- Bề ngoài trông ông ta thế nào?
- Bà Bảo Châu hỏi. - Khi đến đưa tin, cô có gặp ông ta không?
- Dạ không, tin này được đăng ký
từ sáng hôm kia, lúc ấy cháu có việc đi vắng... Thế cô đồng ý cho phát chứ ạ?
- Để cô xem đã. - bà Bảo Châu lơ
đễnh đáp.
Rồi bà đứng dậy, thong thả đi
xuống căng-tin ăn trưa.
Bà Bảo Châu năm nay đã ngoài năm
mươi, không thể gọi là xinh nhưng có vẻ ngoài đẫy đà, phúc hậu. Tóc bà còn đen
và rất dài, những hôm nóng nực, bà buộc thành một túm to sau gáy. Bà về làm
việc ở Đài ngay sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Tổng hợp. Suốt nhiều năm bà
làm phóng viên, đi đây đi đó rất xông xáo. Gần đây phần vì có tuổi, phần vì
không còn ai thích hợp hơn, bà được điều sang phụ trách phòng này. Tuy mới
thành lập nhưng công việc ở đây khá bận rộn. Ngày nào đến cơ quan, bà cũng thấy
có nhiều người đến xin đăng ký quảng cáo hàng hóa cho xí nghiệp mình, hoặc
quảng cáo các lớp ngoại ngữ, khiêu vũ, âm nhạc... Một phần không nhỏ trong số
họ đến nhờ bà giúp tìm trẻ lạc, tìm người tâm thần bỏ nhà lang thang, đặc biệt
là tìm lại những người thân bị lưu lạc nhiều năm về trước. Chính những người
này làm bà yêu thích công việc.
Hàng ngày đọc các tờ đăng ký, bà
cảm thấy như được đưa trở lại quá khứ đau buồn, nhiều khi đến mức không thể tin
nổi. Trước mắt bà hiện lên những đoàn người rách rưới, gầy còm, dắt díu nhau đi
xin ăn rồi ngã gục chết bên vệ đường, những cảnh cho con, vứt con, những cảnh
ra đi vì uất hận, vì miếng ăn và vì nhiều lý do khác. Tai họa như cơn bão khủng
khiếp ập xuống đầu những số phận đáng thương, dập vùi họ, đưa họ đi xa mỗi
người một nơi. Rồi hàng chục năm sau đó họ sống trong lo lắng, dằn vặt và
thương nhớ... Họ vất vả tìm đến nhau, muốn biết ai còn, ai mất, muốn được bộc
lộ lòng mình... nhưng không biết phải làm gì, nhờ ai. Nay bỗng xuất hiện cái
phòng của bà, thế là người ta bám lấy bà như người chết đuối bám cọng rơm nhỏ,
dù chẳng mấy hy vọng nhưng còn hơn không có gì để bám. Còn bà, không hiểu sao
bà thấy như mình cũng phần nào có lỗi trong những bi kịch ấy của quá khứ. Bà tự
cho mình có trách niệm phải giúp họ, phải góp phần hàn gắn những mảnh vỡ cuộc
đời họ. Một bé gái mười tuổi cầm đồng bạc duy nhất đi chợ đong gạo cho mười
miệng ăn trong gia đình, không may để mất tiền, sợ về nhà mẹ mắng, bố đánh, nên
em đã bỏ đi biệt tăm. Nếu còn sống, nay em đã gần sáu mươi. Em ở đâu? Các anh chị
và bà mẹ của em đang nhờ bà Bảo Châu tìm hộ.
Có hai ông già từ tỉnh xa đến gặp
bà, kể rằng vào năm 1945 không nỡ nhìn con chết đói, họ phải đem cho đứa bé
kháu nhất trong số bốn người con của mình. Nó là một cậu bé bốn tuổi, khôi ngô
(vì khôi ngô mới đem cho, xấu sẽ chẳng ai nhận). Hôm ấy nó được tắm rửa sạch
sẽ, được cả nhà nhường cho ăn một bữa thật no. Rồi ông bà đem ra chợ huyện, đặt
nó ngồi ngay trước cổng chợ, bên cạnh cắm tấm biển với dòng chữ "xin các
ông, các bà làm phúc nuôi hộ". Còn họ thì nấp trong bụi cây cách đó không
xa, kiên nhẫn chờ cho đến lúc có người mang nó đi mới ra về. Hai ông bà đứng
nhìn theo, nước mắt giàn giụa... Bây giờ họ đến Đài tìm bà Bảo Châu kể lại
những điều trên và nhờ bà tìm hộ. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm. Bà cho
phát qua Đài bảy lần, mỗi lần cách nhau ba ngày. Thật không ngờ, chưa đầy một
tháng sau có một trung tá không quân đến gặp bà, nói rằng ông chính là đứa bé
nọ. Thay mặt bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi, ông trịnh trọng tặng bà một bó hoa thật to
và hai gói kẹo, hai bao thuốc lá, một lạng chè tặng anh em trong phòng. Hôm ấy
là một ngày đáng ghi nhớ. Nhìn người sĩ quan cao to, đẹp đẽ và tràn đầy hạnh
phúc, có lẽ trong nhiều năm, đây là lần đầu bà cảm thấy mình làm được điều gì
đấy đích thực tốt đẹp và có ích cho đời.
Thỉnh thoảng bà cũng nhận được
thư từ các tỉnh xa, báo tin rằng nhờ Đài, họ đã tìm lại được người thân của
mình. Tuy nhiên, những trường hợp may mắn như thế không nhiều, nhưng đây là
công việc đáng làm và bà làm một cách say sưa...
Còn câu chuyện ông lái xe Nguyễn
Văn Biên này là thế nào?
Suốt buổi chiều hôm ấy và cả ngày
hôm sau, bà Bảo Châu luôn bị ông ta ám ảnh. Đây là trường hợp đặc biệt từ trước
tới nay chưa hề gặp, vì vậy bà muốn để lại suy nghĩ thêm trước khi cho phát.
Trước mắt bà lúc nào cũng hiện lên hình ảnh một cô gái mảnh mai, người sốt hầm
hập, đứng một mình dưới trời mưa tầm tã trong rừng giữa đêm khuya. Cô sắp ngất,
cô sợ chết, sợ ma, nhưng có một điều cô sợ hơn tất cả những điều ấy, là sự nhục
nhã. Cô không thể chấp nhận điều kiện của tên lái xe vô lại, nhưng chiếc ca-bin
khô ráo, ấm áp kia lại thuộc về hắn. Hắn là người duy nhất có thể cứu cô nhưng
hắn đòi trả công... Không! Cô thà chết không chịu làm theo lời hắn. Và cô gái
tiếp tục đứng dưới trời mưa, hai tay ôm mặt khóc. Sau đó... Sau đó cô đi bộ một
mình hàng chục cây số? Cô được chiếc xe khác mà người lái xe chưa mất hết tính
người cho đi nhờ đến thị xã? Hay sau đó do dầm mưa, cơn sốt nặng thêm và cô
chết, xác nằm còng queo bên đường?
Còn lái xe, cái gã Nguyễn Văn
Biên khốn nạn ấy thì sao? Ừ, mà anh ta là người thế nào nhỉ? Một người đang tâm
gây nên tội lỗi ghê gớm như thế lại biết hối hận ư? Đến mức suốt nhiều năm sau
đã bỏ công tìm kiếm cô gái kia như anh ta nói? Hay anh ta phịa để tự bào chữa
cho mình? Mà rồi nếu quả bị lương tâm cắn rứt, không lẽ sau ba mươi năm anh ta
không nguôi ngoai chút nào, để bỗng dưng bây giờ không ai bắt, tự mình phơi bày
sự đểu cáng của mình? Không phải với một, hai người mà với tất cả! Qua Đài! Một
việc làm nên gọi dũng cảm hay điên rồ?...
Bỗng nhiên bà Bảo Châu rất muốn
được gặp con người này. Để làm gì thì chính bà cũng không rõ.
Theo địa chỉ, bà tìm đến một ngôi
nhà xinh xắn có hàng rào gạch bao quanh. Ra mở cửa là một người đàn bà gầy quắt
có đôi mắt buồn và mái tóc điểm bạc.
- Thưa chị, đây có phải là nhà
anh Biên, anh Nguyễn Văn Biên lái xe không ạ?
- Vâng, - người đàn bà kia đáp,
ngạc nhiên nhìn khách.
Thấy thế, bà Bảo Châu vội nói
luôn:
- Tôi có chút việc muốn nói
chuyện với anh ấy...
Bà kia càng ngạc nhiên hơn, nhưng
do dự một chốc rồi đáp:
- Mời chị vào.
Căn phòng rộng và trống trải,
chắc chỉ dùng để tiếp khách vì không thấy có giường. Sát tường là chiếc bàn trà
thấp và bốn ghế xa-lông gỗ dán cáu bẩn. Bà Bảo Châu ngồi xuống một trong những
chiếc ghế ấy, yên lặng chờ chủ nhà sang phòng bên chuẩn bị nước mời khách.
Không hiểu sao bà cứ hình dung lái xe Biên bà sắp gặp là người to béo, có ria
mép, da ngăm đen và nhất thiết phải mặc áo phông sọc to. Bà định sẽ vào đề
luôn, rằng bà từ Đài đến, muốn hỏi thêm đôi điều trước khi cho phát cái tin ông
ta yêu cầu...
Bà chủ nhà quay ra, đặt khay nước
lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện, nhìn khách chờ đợi.
- Dạ, anh Biên đâu ạ? - bà Bảo
Châu ngạc nhiên hỏi vì mãi không thấy chủ nhà xuất hiện. - Tôi đến đây nhân cái
tin anh ấy xin phát qua đài...
Bà kia khẽ thốt lên:
- Thế ra cô là "cô ấy"?
- Bà mở to mắt chăm chăm nhìn bà Bảo Châu, nét mặt gần như hốt hoảng.
Bà Bảo Châu cũng lặng lẽ nhìn bà
hồi lâu.
- Không, tôi là người làm ở Đài
phát thanh. Tôi đến đây muốn biết thêm đôi điều trước khi cho phát tin ấy. Hôm
nay anh ấy không có nhà ạ?
Bà kia cúi đầu không nói gì, lúc
sau mới thở dài đáp:
- Nhà tôi không còn nữa. Anh ấy
chết đã được năm năm...
Giờ đến lượt bà Bảo Châu ngạc
nhiên:
- Còn cái tin kia? Hóa ra không
phải anh ấy đem nó đến Đài?
- Vâng. - Bà chủ nhà nói. - Tôi
đã đến chỗ chị... Số là trước khi chết, anh ấy nhờ tôi sau này, nếu có thể, tìm
gặp cô gái kia để thay mặt anh ấy xin lỗi hộ. Tôi đã hứa với anh ấy trong giờ
hấp hối, tuy không biết sẽ làm điều đó bằng cách nào. Gần đây có mục nhắn tin
qua đài, tôi mới nhờ chị. Nội dung cái tin ấy do tôi viết nhưng đúng sự thật và
như chồng tôi mong muốn... Không sao chứ ạ? – Chủ nhà nhìn khách lo lắng hỏi
thêm: - Không lẽ vì thế mà các chị không cho phát?
- Không, không vấn đề không phải
chỗ ấy, - bà Bảo Châu đáp. - Có điều từ trước tới nay quả chúng tôi chưa gặp
trường hợp nào như của anh chị.
- Tôi hiểu, chắc chị thấy khác
thường nên muốn xem hư thực thế nào. Chị yên tâm. Những điều tôi viết trong tin
đều đúng sự thật. Chồng tôi đã nhiều lần kể tôi nghe chuyện này ngay khi mới
xảy ra...
Bà khẽ thở dài, ngồi im một chốc
rồi nói tiếp:
- Nhà tôi là người thật lạ lùng.
Anh ấy vốn ngang tàng, sống bừa bãi và nói thật với chị, chuyện rượu chè, trai
gái có cả. Thế mà thật không ngờ, sau chuyện đó, anh ấy thành người khác hẳn.
Đến tôi là vợ mà cũng không hiểu nổi, nhưng quả đúng thế. Anh ấy bị một cú sốc
mạnh, trở nên ngơ ngác như người vừa ốm dậy. Anh ấy ít nói hẳn, chú ý nhiều hơn
tới vợ con, đặc biệt không bao giờ uống rượu nữa. Tôi biết anh ấy đang đau khổ,
hối hận và luôn nghĩ tới cô gái đáng thương nọ. Anh ấy sợ cô ta đã chết, chết
vì anh ấy. Tôi tìm cách an ủi, thậm chí có lần còn theo lên các nông trường
vùng Mộc Châu, Yên Châu tìm cô...
Bà chủ nhà đột ngột ngừng lời,
đưa chén nước mời khách. Bà cũng cầm một chén, nhấp nháp từng ngụm nhỏ.
- Chị nghĩ phát qua Đài thế này,
có hy vọng cô ấy sẽ lên tiếng không, tất nhiên nếu còn sống, - bà hỏi.
- Thỉnh thoảng chúng tôi có nhận
được tin báo lại rằng nhờ Đài, họ đã tìm được người cần tìm. - Bà Bảo Châu đáp
một cách chung chung.
- Tôi thì tôi không tin cô ấy sẽ
lên tiếng và tự tìm đến, nhưng dù sao vẫn nhờ chị phát hộ cho. Chả là nhà tôi
muốn thế, tôi đã hứa... Trước lúc chết, nhà tôi có để lại bức thư, dặn tôi nếu
gặp thì đưa cho cô ấy.
Bà lại bỏ vào buồng trong, lấy ra
một phong thư không dán.
- Nếu muốn, chị cứ đọc.
Rồi bà bước ra khỏi phòng để
khách được tự nhiên. Bức thư không dài, được viết bằng nét chữ nắn nót kiểu học
trò:
"Suốt nhiều năm nay tôi tìm
chị khắp nơi nhưng không thấy. Tôi đang bệnh nặng và chắc chỉ ít ngày nữa sẽ
chết. Trước khi chết tôi viết mấy dòng để nếu lúc nào đó, nhờ phép lạ, người
thân của tôi gặp được, sẽ đưa cho chị. Tôi biết tôi không đáng được tha thứ,
nhưng lúc này, đang hấp hối, tôi xin chị hãy tha thứ cho tôi. Nếu chị đã chết,
xin linh hồn chị tha thứ cho tôi. Tôi đã chịu quá nhiều đau khổ, đã bị trừng
phạt quá đủ cho hành động đểu cáng ấy của mình. Có lẽ trong đời ai cũng có
những giây phút đen tối, những giây phút vô thức dẫn tới một việc làm tội lỗi
để sau này phải luôn day dứt, ân hận vì nó.
Một lần nữa xin chị hãy tha thứ
cho tôi!"
Ba ngày sau, bà Bảo Châu cho phát
qua Đài tin lái xe Nguyễn Văn Biên, công ty X. cách đây 35 năm, vào một đêm
trời mưa to...
Buổi tối, đến phần thông tin xã
hội, bà lại gần chiếc đài, khoanh tay chăm chú ngồi nghe. Vô tình, bà với tay
vặn to đài. Bà chợt nảy ý muốn lạ lùng là tất cả đàn ông trong nước, trên toàn
thế giới, phải nghe tin này. Tất cả không trừ một ai, tất nhiên trong đó có
chồng bà, một người vẻ ngoài lịch sự, nhân hậu nhưng thực chất là kẻ ích kỷ,
thô lỗ mà bà phải chịu đựng bao năm nay.
Đang đọc báo ở chiếc ghế bên
cạnh, ông chồng bà chỉ lặng lẽ đứng dậy vặn bé chiếc đài, nhìn bà với vẻ khó
hiểu rồi lại ngồi xuống, chúi đầu vào tờ báo.
Hà
Nội, 1989
FUR ELISE
Chiếc xe buýt du lịch cao ngất ngưỡng
sơn màu sặc sỡ chậm chạp đi theo những con đường rải nhựa ngoằn ngoèo trong
công viên - vườn thú Safari ở ngoại ô Băng Cốc.
Nếu được phóng tầm mắt chút nữa,
người ta sẽ có cảm giác như đang đi trong các vườn quốc gia châu Phi hoặc trực
tiếp tham gia quay phim Thế giới Động vật cho chương trình Discovery. Thỉnh
thoảng chiếc xe dừng lại nhường đường cho một đàn hươu cao cổ. Một đàn chứ
không phải vài con. Những con vật vụng về tuyệt đẹp với chiếc cổ cao lêu đêu
ngật ngưỡng đi ngay bên cạnh. Có con còn dừng lại, chạm chiếc đầu bé một cách
mất cân đối vào lớp kính thành xe như tò mò muốn biết bên trong cái hộp biết đi
kỳ cục này có những gì. Xa hơn chút ít là bầy tê giác, loại một hoặc hai sừng,
con nằm con đứng, con trơ trẽn hít hít mông con khác. Mấy con hổ (hoặc sư tử,
gấu, tùy lúc ấy xe đi tới đâu) đang nằm phơi nắng trên ô đất cao bên khe nước.
Hình như mỗi loài có một khu riêng nhưng không thấy có gì ngăn cách. Lạ một
điều là các loài hiền lành như nai, dê sống cạnh những loài ăn thịt mà chẳng
thấy cảnh săn đuổi chết chóc.
Trên xe có khoảng bốn chục khách
du lịch người Việt, phần lớn gồm các ông, các bà đã có tuổi mới ra nước ngoài
lần đầu được cơ quan bao trọn gói cả tua du lịch năm ngày sang Thái Lan. Mỗi cơ
quan mấy người, gộp lại thành đoàn. Cũng có gia đình bỏ tiền túi đi riêng, nên
hầu hết đến đây mới gặp nhau lần đầu. Hai xe đi trước và sau họ cũng có thành
phần tương tự. Sau dịch SARS, theo số liệu của nước chủ nhà, khách du lịch từ
Việt nam tới Thái Lan chiếm số đông, thậm chí hơn cả từ Trung Quốc và Hồng Công
cộng lại.
Hướng dẫn cho đoàn suốt cả tua là
một Việt Kiều sang đây đã hai mươi năm, bốn mươi tuổi nhưng chưa vợ, người gầy,
da đen, hóm hỉnh và thích pha trò, tuy đôi khi không thật đúng chỗ. Ngoài ra
còn có một cô người Thái trẻ đẹp nói tiếng Anh khá sõi, thứ tiếng ít người biết
để trao đổi nên cô luôn im lặng với nụ cười thường trực trên môi.
Xe đang đi qua một khu có rất
nhiều chim. Anh hướng dẫn người Việt bỗng ngừng lời quảng cáo các trò giải trí
ở Băng Cốc, sôi nổi nói:
“Các vị hãy nhìn kia! Đây là loài
nổi tiếng chung thủy nhất trong các loài chim. Điều ấy có đáng biểu dương hay
không thì lại là chuyện khác, nhưng quả chúng bao giờ cũng sống có đôi, và khi
một con chết, con kia sẽ bay tít lên cao để lao đầu xuống chết theo!”
“Tuyệt nhỉ!” một bà thốt lên. Bà
mặc chiếc váy sọc to, người đẫy đà, mặt đỏ lự vì hay xúc động.
“Ngớ ngẩn. Thế là ngu!” ông ngồi
bên đáp. Ông này nhỏ con, mái tóc bạc gần hết, có vẻ phong trần nhưng giọng nhỏ
nhẹ chẳng tương xứng chút nào với câu thô lỗ ông vừa nói.
Bà kia cụt hứng, nhíu trán khó
chịu nhưng không nói gì.
Mọi người nhìn theo hướng được
chỉ. Trên một cành cây cụt có đôi chim gì đó to lớn đang đậu, màu sặc sỡ và
đuôi dài như chim công.
“Tôi dám chắc chỉ con cái lao
xuống chết chứ con đực thì không”, một ông khác lên tiếng.
Anh hướng dẫn do dự một chốc rồi
đáp:
“Rất tiếc rằng quả đúng như thế.
Chỉ con cái. Chỉ phái yếu mới biết hy sinh vì tình yêu. Do vậy, trong vấn đề
này họ cao hơn hẳn đàn ông chúng ta”.
“Và cả khi con cái của mình còn
sống,” ông đầu bạc nói, “con đực vẫn thường xuyên lăng nhăng với các con cái
khác?”
“Tôi không chắc lắm, nhưng có lẽ
điều ấy cũng có.”
“Vậy tôi nói ngu không đúng ư? Ấy
là tôi nói về những con chim cái kia, tất nhiên, chứ không phải các bà. Đơn
giản nhiều bà chưa được như thế.”
Bà váy sọc quay sang nhìn ông,
mặt đã đỏ càng đỏ hơn:
“Ông là người thô lỗ hiếm thấy!”
Xe dừng, vì lại có con rắn lớn
nằm chắn đường. Nhân dịp này anh Việt Kiều chuyển đề tài, nói rằng có loài rắn
thời gian giao cấu kéo dài những ba mươi tư tiếng đồng hồ. Mọi người có vẻ ngạc
nhiên nhưng không ai nói gì. Chỉ một bà khẽ thốt lên “Khiếp”, rồi không hiểu
sao cười khúc khích một mình.
Buổi trưa ăn xong, khi ngồi nghỉ
bên suối nước đầy những con cá to bằng bắp chân đủ màu để chờ buổi biểu diễn mô
phỏng một số cảnh trong phim Điệp viên 007, ông đầu bạc quay sang nói với bà
váy sọc:
“Bà đừng giận nữa. Tôi nói là nói
cho vui thế thôi. Nhưng chắc bà cũng phải đồng ý với tôi rằng trong tình yêu
quả có nhiều điều kỳ cục không giải thích nổi.”
Bà kia im lặng. Một người xen
vào:
“Có thế mới là tình yêu, chứ
không thì chán chết.”
“Năm ngoái ở phố tôi có người vợ
chết, buồn quá mà tự tử đấy. Ông bảo thế cũng ngớ ngẩn sao?” một người nữa hỏi.
“Đúng. Ngớ ngẩn! Chết chưa phải
là bằng chứng một tình yêu lớn.”
“Thế theo ông thì là gì?”
“Chỉ những người yếu đuối mới
chết vì tình. Sống để yêu mới khó!” Ai đó bình luận.
“Tôi thì cho là ngược lại.”
Thế là do rỗi việc, cả vì do
không có chuyện gì nữa để nói, người ta bắt đầu tranh luận về tình yêu, tuy
không mấy hăng hái, có người ngủ gật. Cuối cùng ông đầu bạc lên tiếng:
“Để tôi kể các vị nghe chuyện
này. Sau đó ai muốn kết luận thế nào thì tùy.”
*
Trong tình yêu quả có nhiều sự
lạ, mà chủ yếu từ phía phụ nữ. Tôi biết một người có thể nói tuyệt vời về mọi
mặt. Xinh đẹp, có học, gia đình êm ấm với một ông chồng trí thức và hai đứa con
rất ngoan. Ấy là tôi nói trước đây, khi câu chuyện mới xẩy ra mấy chục năm về
trước. Thế mà con người có học, thông minh và đang hạnh phúc ấy bỗng dưng bỏ
chồng con chạy theo một gã trai chẳng ra gì. Lúc ấy bà ta đã hơn ba mươi, còn
thằng kia mới hăm lăm, chưa vợ nhưng nổi tiếng chim gái nhất nhì thành phố. Các
vị muốn biết vì sao? Đơn giản vì một hôm ngẫu nhiên gặp nhau đâu đó và bà ta
được hắn (lúc ấy mới tốt nghiệp khoa pi-an-ô Nhạc Viện Hà Nội) chơi cho nghe
một bản nhạc ngắn. Vậy mà trời xui đất khiến thế nào, bà ta đem lòng si mê hắn,
ba hôm sau thì theo hắn đi chơi xa đúng một tuần. Lúc về cương quyết đòi li dị
chồng không được, bà ta liền khăn gói sang ở hẳn với người tình mới.
Chắc có vị bảo tôi phịa vì những
chuyện như thế chỉ bên Tây mới có chứ không phải ở ta, nhất là vào cái thời đói
khổ ấy. Bản thân tôi cũng không hiểu nhưng sự thật nó xẩy ra đúng như thế. Thì
đã bảo sự lạ mà. Tôi nghĩ trong bộ não con người, hay nói trái tim cũng được,
có một chỗ nào đấy rất mềm, rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương bởi những xúc động
mạnh, sau đó thì không sao lành lại được. Có thể trường hợp cái bà tôi đang kể
cũng vậy. Bản nhạc kia đã làm bà ta mất trí. Nếu không chẳng sao giải thích nổi
những việc bà ta làm sau này. Ở xóm tôi có một ông nhờ đọc sách Luận Ngữ của
Khổng Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử mà trở thành người khác hẳn đấy. Theo hướng
tốt hơn, tất nhiên. Tôi cũng đọc nhưng chẳng thay đổi gì. Nghĩa là tùy người,
tùy hoàn cảnh.
Đó là bản nhạc cổ điển Fur Elise
(Gửi nàng Elise), của ông nhạc sĩ người Đức Beethoven. Nó ngắn thôi, lại đơn
giản, nhưng phải nói rất hay và dễ gây xúc động, nhất là khi người nghe được kể
rằng ông nhạc sĩ thiên tài già điếc này gửi nó thay thư cho một nàng Elise nào
đó ông lặng lẽ yêu say đắm mà không được yêu lại. Chắc thằng kia vừa đàn vừa
phịa thêm cho câu chuyện tình lãng mạn đó nhiều chi tiết lâm ly để gây ảnh
hưởng với người hắn định tán. Và hắn đã thành công như ta thấy.
Tôi chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra
trong cái đầu thông minh mà ngu ngốc kia của bà ta. Bản nhạc làm bà mụ người,
đến mức có thể yêu, yêu si mê một người như hắn - mặt lưỡi cày, mắt ti hí, gầy
nhom như thằng nghiện, lại bản tính thô lỗ, lười nhác và ích kỷ nhất hạng. Sau
ba tháng sống với nhau như vợ chồng, hắn chán rồi thẳng tay đuổi người tình ra
khỏi nhà. Trong ba tháng ấy bà kiếm tiền nuôi hắn, cung phụng, tôn thờ hắn như
một con nô lệ, tất cả chỉ để được thỉnh thoảng hắn chơi cho nghe bản nhạc Gửi
nàng Elise kia! May bố mẹ giàu, mua cho ngôi nhà nhỏ trong ngõ chợ nên bà không
phải quay lại với chồng cũ, dù ông này đã tha thứ và cố thuyết phục nhưng bà
nhất định không nghe. Có thể vì tình yêu với hắn, cũng có thể bà xấu hổ với
chồng con nên quyết định đã đâm lao thì phải theo lao.
Vài tuần sau, quen được người
cung phụng, thằng kia mò đến tìm. Bà vội vã đi theo hắn như sợ bị thay đổi ý
kiến, không một lời căn vặn, trách móc. Có điều lần này hắn trở nên quá quắt,
thô lỗ hơn, và tất nhiên không thèm giữ ý tứ, tán tỉnh như trước. Hắn ngang
nhiên dẫn gái về nhà, cả khi bà đang có mặt. Thật kỳ lạ, bà vẫn nhẫn nhục chịu
đựng tất cả. Vì hắn. Vì cái bài Gửi nàng Elise của hắn! Tôi không là bác sĩ,
không biết gì về thuyết phân tâm của Freud, nhưng tôi cho rằng có thể đây là
một dạng bệnh tâm thần, đại khái như tâm thần tình yêu chẳng hạn.
Cuối cùng bố mẹ thằng kia bắt hắn
lấy vợ. Bà lại lủi thủi quay về với ngôi nhà trong ngõ chợ. Lủi thủi héo hon
chờ đợi mỗi tháng đôi lần hắn đến xin tiền. Bà nhịn ăn, ki cóp từng xu, có khi
phải đi vay để đưa cho hắn. Những lúc ấy mặt bà rạng rỡ hạnh phúc, nói năng ấp
úng vì xúc động. Có thể từ lâu bà nghĩ mình là nàng Elise và người tình là
Beethoven chăng? Thằng Beethoven này không thất tình đau khổ mà luôn khinh
khỉnh nhìn bà, và hễ có được tiền là tìm cách chuồn ngay.
Cứ thế kéo dài đúng hai mươi năm.
Các vị lại ngạc nhiên? Thế tôi mới nói là ngu, là ngớ ngẩn. Trong hai mươi năm
ấy bà có thể quay lại với chồng con bất kỳ lúc nào nhưng bà đã không làm thế.
Ông chồng đều đặn hàng tháng gửi tiền cho người vợ chưa li dị của mình - chẳng
hiểu vì tình yêu hay lòng thương hại. Sau này anh con lớn đi làm thỉnh thoảng
cho thêm. Tất nhiên bà đưa hết số tiền đó cho Beethoven của mình. Vì hắn, bà đã
bị đuổi việc từ lâu do tự ý nghỉ quá nhiều.
Suốt thời gian ấy bà sống lặng
lẽ, không có sự cố gì đặc biệt, trừ hai lần bị đẩy đến tột đỉnh của hạnh phúc
và sợ hãi. Chính xác là một hôm cuối năm 1978, để bà đồng ý kiếm cho một khoản
tiền không nhỏ, hắn đưa bà vào Nhà Hát Lớn nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sỹ
dương cầm người Nga. Trong chương trình có bản Fur Elise. Bà dành trọn ba ngày
chuẩn bị cho sự kiện trọng đại đó. Sự kiện thứ hai xẩy ra khoảng mấy năm sau.
Một sự kiện buồn. Bà bị vợ hắn tạt a-xit do ghen tuông. May không trúng mặt và
chỉ bị bỏng nhẹ ở bàn tay phải. Sau đấy vì lo sợ, bà ốm mất một tháng mới khỏi.
Bây giờ bà đã là một mụ già. Một
mụ già khốn khổ nhưng mãn nguyện vì đã mười năm nay được sống với người mình
yêu. Số là vợ thằng kia không chịu nổi chồng cuối cùng đã bỏ đi, để lại hắn một
mình không việc làm, không đồng xu dính túi, hơn thế lại mắc bệnh hen xuyễn và
xơ gan nặng vì rượu. Thời gian gần đây thì hắn hầu như nằm một chỗ, thậm chí có
muốn cũng không chơi nổi bài Fur Elise để gọi là trả công cho mọi lo toan vất
vả của mụ. Vì yếu và bất động, hắn không thể thô lỗ như trước, nhưng thỉnh
thoảng vẫn quát mụ bằng giọng khò khè the thé khi cần cái gì đó. Những lúc ấy
người đàn bà tội nghiệp này lại cuống lên lo chạy thỏa mãn yêu cầu của hắn,
miệng xuýt xoa đến cảm động...
*
“Đúng là một mụ điên!” Ai đó lên
tiếng khi người kể chuyện dừng lời.
“Dẫu sao cũng là một tình yêu
lớn. Người yêu được như thế ít lắm”. Một người khác nói, không hiểu sao thở dài
rõ to.
Bà váy sọc quay sang ông đầu bạc,
thái độ lúc này có vẻ thân thiện hơn:
“Ông không là nhà văn đấy chứ?
Ông phịa giỏi lắm. Phi lý nhưng nghe mùi mẫn. Hay ông đọc được đâu đó ?”
“Tin hay không hoặc nghĩ thế nào
tùy bà. Tôi đã nói trước rồi mà. Nhưng chuyện có thật đấy. Trăm phần trăm, dù
đúng là ngớ ngẩn và phi lý như bà nói. Nhưng rồi suy cho cùng, ở người đàn bà
nào cũng có chút ít chất ngớ ngẩn và phi lý ấy, đặc biệt khi chuyện liên quan
đến tình yêu. Vấn đề chỉ ở mức độ. Bà không tin, hôm nào về Hà Nội tôi dẫn đến
gặp người đàn bà ấy. Bà ta có quán nước trà ở Ngã Năm Lò Đúc. Để có tiền, bà ta
còn làm thêm bao nhiêu việc, từ giặt thuê, trông trẻ cho đến trông xe. Không ít
khi còn giở trò láu lỉnh tính gian tiền của khách. Bà cứ đến rồi khắc thấy. Vất
vả lắm, nhưng mãn nguyện ra mặt. Thậm chí người đã bắt đầu phát phì”.
“Thế còn ông chồng cũ?” một người
hỏi.
“Chẳng sao cả. Ông ấy không li dị
vợ mà cũng chẳng lấy vợ khác. Một người tốt như tôi nói và đến giờ vẫn đều đều
hàng tháng gửi tiền cho bà. Nghe nói ông còn tự học pianô để chơi bài Gửi nàng
Elise cho bà nghe. Nhưng tiếc tiếng đàn của ông không làm bà xúc động mà quay
lại”.
“Cũng lại một thằng ngốc nốt!”
“Có thể. Tình yêu cũng biến đàn
ông chúng ta thành những thằng ngốc. Ngu ngốc không phải độc quyền của riêng
phái nữ. Hơn thế chúng ta dường như không chỉ đau khổ mà còn lấy làm hạnh phúc
vì sự ngu ngốc ấy”.
“Tôi nghi không khéo ông chính là
chồng bà ta?”
Bà mặc váy sọc cười khúc khích,
nhưng ông đầu bạc không đáp, chỉ quay mặt hướng khác.
Đến giờ đi tham quan tiếp, không
khí chẳng mấy hứng khởi vì bữa ăn no đang gọi cơn buồn ngủ, có lẽ còn cả vì câu
chuyện vừa rồi. Không ai nhắc tới nó, nhưng chắc còn vương vấn suy nghĩ, chuyện
người khác và chuyện của mình. Thậm chí những con hươu cao cổ, tê giác, hổ báo
trước đó làm họ phấn khích đến thế bây giờ dường như cũng chỉ là những con vật
bình thường.
*
Buổi tối ở khách sạn, trước khi
đi dạo phố, ông đầu bạc ngồi xuống trước chiếc đàn pianô loại lớn bóng loáng
màu đen tại phòng ăn. Những ngón tay lóng ngóng của ông rón rén dạo trên các
phím đàn. Bản Fur Elise của Beethoven! Ông đàn hai lần, may đều lưu loát trừ
một chỗ vấp ở đoạn giữa. Tiếng đàn còn vụng về nhưng diễn cảm và đúng nhịp.
Mọi ngưòi quay sang nhìn. Đàn
xong, ông đặt tay lên đầu gối rồi nói với mấy bà đang đứng cạnh:
“Không ai si mê tôi à?”
Hà
Nội, 16. 9. 2003
BÔNG HỒNG CHƯA TẶNG
Tám giờ kém mười. Lần nữa chuông
rung dài phía trong Nhà Hát Lớn.
Mấy người đến muộn đang vội vã
leo lên các bậc đá lát để đi qua chiếc cửa sắt nhỏ có bà soát vé to béo đứng
cạnh, vừa xé vé vừa giục họ nhanh lên vì buổi diễn sắp bắt đầu. Đúng tám giờ,
chiếc cửa sắt bị khóa. Bà kia lui sang bên, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Cuối cùng, trước nhà hát chẳng
còn ai ngoài mấy người bán hàng rong, một thanh niên mặc quần áo bộ đội vẫn
ngồi trên yên xe đạp, chân chống xuống đất, một cô gái trẻ mặc áo khoác màu
sáng luôn nhìn đồng hồ, đi lại vẻ sốt ruột, và tôi.
Tôi không đi lại, không sốt ruột
vì chẳng chờ ai, chỉ buồn do không mua được vé vào nghe buổi hòa nhạc của một
nghệ sĩ pianô nổi tiếng người Nga mà tôi hâm mộ.
Đang cuối tháng Hai, mới Tết xong
và trời còn khá lạnh. Lại thêm chút mưa phùn lất phất, nhỏ thôi, và chỉ nhận
thấy qua ánh sáng vàng nhạt của mấy cột đèn gần đó.
Anh thanh niên đã đạp xe đi. Cô
gái vẫn nấn ná chờ người nhỡ hẹn. Tôi thì đứng ngay dưới cánh cửa sắt vì còn hy
vọng biết đâu ai đấy vào phút chót có thể thừa vé nhượng lại.
Cô gái không đội mũ. Mái tóc
phi-dê cắt ngắn xới phồng với những giọt nước li ti bám phía trên. Tôi ngạc
nhiên thấy chúng có màu khác nhau. Tế nhị không nhìn lâu, nhưng khi cô đi ngang
tôi cũng kịp nhận thấy một khuôn mặt rất xinh, hơi gầy và thanh thoát, có lẽ
nhờ chiếc mũi thẳng và đôi mắt sâu. Một vẻ đẹp cổ điển, sang trọng của người có
văn hóa. Mấy lần tôi định nhưng không dám hỏi mua lại một trong hai chiếc vé mà
tôi tin chắc nàng đang giữ trong chiếc ví đầm đeo bên hông.
Bất chợt nàng đi lại gần tôi và nói,
rất thản nhiên, giản dị:
“Anh có muốn đi dạo với em một
chốc không?”
Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi,
đã tập tãnh nghề văn và đang yêu. Tôi yêu một ca sĩ, nghiệp dư thôi nhưng đang
nổi, ít ra mấy lần đoạt giải các cuộc thi văn nghệ phong trào. Nàng cũng xinh
và chúng tôi yêu nhau thực sự. Có điều khác hẳn tôi, nàng không thích nhạc cổ
điển nên chẳng bao giờ chúng tôi cùng vào Nhà Hát Lớn, mặc dù chiều nàng, tôi
luôn có mặt ở những đêm ca nhạc tôi chẳng mấy thích thú.
Cô gái hơi lúng túng khi tôi, vì
bối rối chưa biết trả lời thế nào. Tuy nhiên chi mấy phút sau chúng tôi đã sóng
đôi đi dọc theo phố Tràng Tiền rồi vòng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm.
Thành phố ban đêm thật đẹp và yên
tĩnh. Ánh điện hắt lên mặt hồ thành từng vùng tròn như những chiếc trứng tráng
trong chảo. Phía nhà Thủy Tạ có mấy ngọn đèn xanh in ngược xuống nước thành
hình những chiếc cọc, tất nhiên cũng màu xanh và run rẩy như muốn gãy khuỵu
dưới sức nặng của chiếc quán hai tầng trên đó. Có tiếng kèn xắc-xô-phôn buồn
buồn vọng lại, xuyên qua lớp sương mù màu trắng ẩm ướt.
Chúng tôi lặng lẽ đi một đoạn dài
không ai nói gì. Cuối cùng tôi lên tiếng:
“Chị vừa chờ ai nhưng người ấy
không tới?”
“Em chờ chồng em”, nàng đáp, cũng
rất tự nhiên. “Nhưng không sao, em quen
với cảnh này rồi”.
“Và để trả thù chồng, chị mời
tôi, một người lạ đi dạo thế này?”
Nàng không đáp. Tôi cũng im, lấy
làm tiếc đã hỏi điều đáng lẽ không nên hỏi. Tôi thấy lạ trước cách cư xử của
nàng. Cứ như ở một nước phương Tây nào đó. Rõ ràng nàng không thuộc loại phụ nữ
dễ dãi, chưa hẳn đã thích phiêu lưu, vì ở nàng tôi thấy có cái gì đó sạch sẽ và
nghiêm túc. Thế thì sao nàng, một người có chồng như đã nói, lại chủ động mời
tôi đi dạo? Có ẩn ý gì chăng? Nàng là ai và cần gì ở tôi?
Vì lúc ấy còn trẻ và đang bị trí
tò mò kích thích, tôi chẳng băn khoăn nhiều với những câu hỏi như thế, chỉ thấy
sung sướng được đi dạo cùng người đẹp trong một đêm Hà Nội mơ mộng.
Chúng tôi vào Thủy Tạ ăn kem,
những hai suất. Nàng để tôi trả tiền không chút kiểu cách. Rồi chúng tôi thong
thả đi thêm một vòng quanh hồ, sau khi quành sang phố Nhà Thờ, phố Hàng Trống
và một đoạn phố Hàng Gai. Khi trở lại Nhà Hát Lớn thì vừa đúng mười giờ rưỡi,
cũng là lúc buổi diễn kết thúc và lác đác đã có vài người đi ra. Tôi đề nghị
được đưa nàng về nhà nhưng nàng lắc đầu.
Nàng chìa bàn tay nhỏ bé của mình
cho tôi. Bàn tay mềm và ấm, lần đầu tôi được chạm vào nó.
“Anh dễ thương thật đấy. Suốt mấy
tiếng đồng hồ không hỏi một câu ngốc nghếch nào. Em thích những người như vậy.
Em cũng thích anh. Nếu anh hay đến nhà hát này thì chắc ta còn nhiều dịp gặp
nhau. Tam biệt và cảm ơn!”
Rồi nàng bỏ đi, đến đứng chếch
phía bên phải nhà hát. Lát sau có chiếc ô tô màu đen đi tới đưa nàng đi. Một cô
gái kỳ lạ mà lúc ấy tôi chưa biết tên và cô cũng chưa biết tên tôi.
Không phải tôi không hỏi câu nào.
Theo yêu cầu của tôi, nàng nói chồng nàng là một quan chức quan trọng, hơn nàng
những hai mươi lăm tuổi. Và rằng nàng đồng ý lấy ông vì bố mẹ bắt thế chứ chẳng
vì tình yêu. Tuy nhiên đó không phải lý do để nàng không quí trọng ông hoặc cảm
thấy bất hạnh. Đơn giản nàng nghĩ một khi đã là vợ chồng thì phải cư xử theo
đúng đạo vợ chồng. Xuất thân từ gia đình gia giáo, nàng nghĩ cần phải thế. Chỉ
tiếc ông không hiểu và không coi trọng nghề nàng. Tôi hỏi nghề gì, nàng chỉ im
lặng mỉm cười. Phần tôi, tôi nói đang yêu và cũng được yêu lại. Một cách xã
giao và hơi kỳ cục, chúng tôi chúc nhau hạnh phúc. Ngoài ra không hỏi gì hơn về
đời tư mỗi người.
Nửa tháng sau tôi lại vào Nhà Hát
Lớn để xem vở ba-lê Giselle do một đạo diễn người Pháp giúp Việt Nam dàn dựng.
Và lại gặp nàng. Không phải trước nhà hát mà trên sàn diễn. Hơn thế, trong vai
chính, tức là nàng Giselle xinh đẹp phải chịu nhiều đau khổ trước khi tìm được
hạnh phúc của mình như ở phần kết hầu hết các vở ba-lê khác.
Xem tờ rơi giới thiệu nội dung,
tôi biết tên nàng là Lệ Trinh, một diễn viên trẻ đầy triển vọng của Nhà hát
Nhạc, Vũ kịch Trung ương, mới tốt nghiệp trường ba-lê danh tiếng nhất Liên Xô,
ở chính thành phố tôi từng học trước đó mấy năm. Với cảm giác ngạc nhiên và hơi
chút ít lâng lâng, suốt buổi diễn tôi chỉ ngắm nhìn một mình nàng trong bộ đồ
ba-lê trắng mỏng tinh khiết. Cả người nàng cũng trắng mỏng tinh khiết. Nàng
thoăn thoắt bước đi trên hai đầu ngón chân bé nhỏ, xen những cú nhảy nhẹ tưởng
như không trọng lượng. Nàng đẹp một cách lộng lẫy. Cái đẹp hoàn thiện, thoát
tục, đến mức trong tôi chỉ còn lại cảm giác ngưỡng mộ như khi người ta ngưỡng
mộ một nữ thần. Thật khó tin mới chỉ mấy ngày trước đó tôi được nữ thần ấy mời
đi dạo, thậm chí được chạm tay nàng.
Sau buổi diễn, đứng khuất phía xa
trước nhà hát, tôi nhìn thấy nàng, vẫn
chiếc áo khoác hôm nọ, đang cùng một người đàn ông cao to mặc com-lê đen
âu yếm dẫn nàng đến chiếc ô tô màu đen đợi sẵn. Chiếc ô tô chở nàng lần trước.
Trong vở diễn nàng được chàng hoàng tử nâng trên đôi tay khỏe mạnh của mình,
còn ngoài đời, nâng đỡ nàng là chiếc ô tô của chồng, chức vụ và có lẽ cả đôi
tay cũng rất khỏe của ông ta. Tôi thở dài, thầm mỉm cười với sự so sánh ngồ ngộ
ấy.
Tôi thờ thẩn bước đi giữa phố,
đúng lộ trình tôi và nàng đã đi lần trước. Lần này trời quang đãng và đầy sao.
Những ngôi sao khá lớn chen chúc trên mặt nước hồ Hoàn Kiếm. Tôi đứng hồi lâu
trên cầu Thê Húc, tay vịn vào thành cầu đẫm hơi sương nhưng không hiểu sao lám
nhám những hạt cát nhỏ. Tôi lờ mờ thấy mình đang yêu. Đúng, yêu nàng, nhưng là
thứ tình yêu khác hẳn với tình yêu đối với cô ca sĩ nghiệp dư đang nổi. Một
tình yêu trừu tượng, vô vọng và pha chút mặc cảm tội lỗi vì nàng đã có chồng.
Xưa nay ngoài sách, nhạc cổ điển
là đam mê lớn nhất của tôi, nên hầu như tôi không bỏ sót buổi hòa nhạc nào loại
này ở Hà Nội. Thậm chí thời sinh viên tôi từng mơ ước trở thành nhạc sĩ hoặc
chỉ huy dàn nhạc giao hưởng.
Mấy hôm sau tôi lại có mặt ở Nhà
Hát Lớn để nghe một chương trình nhạc Beethoven, gồm các bản giao hưởng số Một,
số Sáu và khúc dạo đầu (ouverture) Coriolant. Lần này may tôi mua được vé, tất
nhiên chỉ đi một mình.
Nàng xuất hiện đúng lúc tôi sắp
bước vào nhà hát, mặc quần jeans, đi giày da và khoác trên người chiếc áo len
rộng màu xanh nhạt. Tôi có cảm giác mặt nàng đỏ ửng, hơi thở gấp, có lẽ do
trước đó phải chạy một quãng.
“Chào Lệ Trinh,” tôi lên tiếng
trước, cố giấu vẻ hồi hộp. “Hôm nay chồng chị lại nhỡ hẹn nữa à?”
Nàng không ngạc nhiên khi tôi gọi
đúng tên.
“Không. Em đi một mình. Em đến
đây vì anh,” nàng đáp, cũng tự nhiên và giản dị như lần trước. “Anh có sẵn sàng
bỏ buổi hòa nhạc để đi dạo với em không?”
Chúng tôi lại đi theo các phố cũ,
có ghé vào Thủy Tạ nhưng không ăn kem mà uống cà phê, vừa uống vừa ngắm mặt hồ
ban đêm và ôn chuyện Liên Xô. Dường như đề tài này làm hai người tự nhiên, thân
mật hơn. Tịnh không một lời về đời riêng của nhau. Sau đó như lần trước, tôi
đưa nàng trở lại nhà hát chỉ mấy phút trước khi ông chồng đánh ô tô đến đón
nàng về.
Những tháng tiếp theo tôi còn mấy
lần được nàng rủ đi chơi như thế. Mấy lần thấy ông chồng cùng nàng vào nhà hát.
Tuy nhiên nàng chẳng tỏ ra thân mật hơn trước, ngoài việc tôi có thể giữ tay
nàng lâu hơn, thậm chí một lần còn nâng lên hôn mà không bị rút lại. Thỉnh
thoảng như vô tình, nàng hỏi chuyện tình yêu của tôi với cô kia, và tôi nói mọi
chuyện vẫn bình thường.
“Phải chăng nàng cũng yêu tôi,
hay chẳng qua đó chỉ là trò đùa của những người xinh đẹp, giàu có và rất hiểu
rõ địa vị mình?” Câu hỏi ấy cứ làm tôi băn khoăn mãi. Vốn hay mặc cảm và không
muốn rơi vào thế lố bịch, dẫu rất yêu, tôi vẫn luôn tỏ ra kiềm chế, vì dẫu sao
nàng cũng đã có chồng.
Một lần tôi còn chuẩn bị sẵn một
bông hồng giấu trong cặp định tặng nàng, nhưng khi gặp lại không đủ can đảm
trao nàng bông hồng ấy.
Sau đó, một thời gian rất lâu tôi
không thấy nàng xuất hiện, cả trên sàn diễn lẫn trước cửa Nhà Hát Lớn. Linh
tính báo có chuyện khác thường. Tôi nhờ người dò hỏi và được biết chồng nàng bị
bắt cách đấy không lâu (vì lý do gì không rõ), đang bị giam đâu đó tận Tây
Nguyên, và nàng đã bỏ hẳn vào đấy để chăm sóc ông.
*
Từ đó tôi chẳng biết gì thêm về Lệ Trinh. Rồi mọi cái cũng qua đi, kể cả
tình yêu của tôi với nàng, còn lại trong tôi chỉ là sự luyến tiếc mơ hồ như
luyến tiếc một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy vợ, có con, không phải lấy cô ca sĩ xinh
đẹp không yêu nhạc cổ điển, cũng không phải vài người nữa tôi yêu sau đó. Cuộc
đời dần dần đi vào nếp ổn định. Tôi lấy thế làm hài lòng và chẳng có gì phải
than phiền. Tôi vẫn đều đặn vào Nhà Hát Lớn nghe hòa nhạc hoặc xem ba-lê. Chỉ
những lúc ấy tôi mới nhớ đến Lệ Trinh, đặc biệt hôm đầu tiên thấy nàng trên sàn
diễn trong vai cô gái Giselle xinh đẹp, tinh khiết và dường như không trọng
lượng. Tôi cũng nhớ cả những đêm được đi dạo bên nàng hoặc phải lang thang một
mình giữa các phố Hà Nội cho đến tận sáng như mọi chàng trai si tình khác. Rồi
tôi thương cho nàng đáng lẽ được ông chồng to khỏe, đạo mạo, đầy chức quyền kia
nâng trên tay đi hết cuộc đời, thì lại phải vào tận chốn rừng núi hoang vu miền
Nam để nuôi ông, nâng cái cơ thể to khỏe kia của ông bằng chính đôi tay bé nhỏ
của nàng, trên đôi chân đi những bước nhỏ bằng ngón kiểu ba-lê của nàng. Bây
giờ nàng thế nào và đang ở đâu?
*
Một hôm, bất ngờ tôi nhận được
bức thư từ Mỹ. Thư của Lệ Trinh.
“Chắc anh không còn nhớ em và
đang ngạc nhiên? Em là Lệ Trinh, người cùng anh mấy lần đi dạo quanh hồ Hoàn
Kiếm cách đây đã nhiều năm.”
Nàng viết, vẫn bằng giọng tự
nhiên, chân thành như xưa.
“Bây
giờ, ở khoảng cách an toàn, rất xa cả về địa lý lẫn thời gian, em mới dám nói
với anh điều này. Em yêu anh! Em đã rất yêu anh những ngày được gặp và không
được gặp anh thời ấy. Anh không biết, hay đúng hơn, em không cho anh biết điều
đó, vì em đã có chồng, còn anh thì đang yêu người khác. Dẫu mãnh liệt, tình cảm
của em đối với anh đã không thắng được ý thức đạo nghĩa vợ chồng trong em. Vả
lại em cũng không thể cho phép mình cướp đi hạnh phúc của cô gái anh yêu và yêu
anh. Đối với em đó là những ngày hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Còn sau đó chỉ
là một sự tồn tại, thuần túy một sự tồn tại theo các khuôn phép đạo đức do xã
hội qui định.
Dù
không yêu, em đã hết lòng tận tụy với chồng cho đến khi ông ấy chết bệnh trong
tù. Sau đó em theo mấy người bạn vượt biên và hiện đang sống ở Mỹ. Em đã có
chồng, có con, dường như có tất cả, chỉ trừ tình yêu. Anh là tình yêu duy nhất
của em. Lẽ ra em đã có thể đến với anh nếu em đủ dũng cảm thoát khỏi những ràng
buộc của qui ước xã hội.
Viết
thư này, em không có mong muốn nào khác ngoài được bộc lộ với anh những suy
nghĩ thầm kín của mình. Em những muốn, và đã cố, không bao giờ nói ra, nhưng
không được.
Hãy
tha thứ cho em.
Lệ
Trinh.
PS.
Xin anh đừng viết thư cho em. Điều ấy không cần thiết. Hơn thế, nó chỉ làm em
thêm đau khổ.”
Bức thư đề ngày... tháng... năm
1989. Mười lăm năm kể từ đêm tôi nhìn thấy nàng lần cuối.
*
Tháng Năm năm 2000, trong lần đi
du lịch một tháng với vợ ở Mỹ, tôi tìm đến nhà nàng theo địa chỉ ghi trên bì
thư. Tất nhiên một mình. Tôi không có ý định gặp hay trò chuyện với nàng vì
nàng không muốn điều ấy. Đơn giản chỉ muốn được nhìn qua ngôi nhà nàng đang
sống. Đứng từ xa mà nhìn. Đó là một ngôi nhà nhỏ, bình thường như bao ngôi nhà
khác xung quanh ở ngoại ô thành phố Raleigh, tiểu bang North Carolina. Nhà đóng
cửa, chỉ hai ô cửa sổ là không, nhưng được che bằng những chiếc mành trắng
mỏng. Tôi thong thả đi hai lần qua ngôi nhà ấy, ngồi xuống cạnh gốc cây đối
diện, hút hết một điếu thuốc rồi trở về khách sạn.
Tháng trước, tôi lại nhận được
một bức thư nữa từ Mỹ. Bức thư chỉ mấy dòng, được viết bằng nét chữ đàn ông rắn
rỏi, gần như tô từng nét.
“Theo
yêu cầu của người đã khuất, tôi xin báo ông biết rằng vợ tôi, bà Lệ Trinh, đã
từ trần ngày...vì nhồi máu cơ tim. Vợ tôi cũng nhờ nói lại rằng bà ấy đã nhìn
thấy ông ngồi hút thuốc trước nhà chúng tôi cách đây hơn hai năm. John Nguyen
Van Bach.”
*
Đó là toàn bộ câu chuyện về Lệ
Trinh mà chắc tôi sẽ không bao giờ viết ra nếu không nhận được bức thư ngắn này
của chồng nàng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm, ngoài việc nếu có dịp tới Mỹ lần
nữa, nhất định tôi sẽ tìm đến mộ nàng để đặt lên đó bông hồng năm nào tôi định
tặng.
Hà
Nội, 2004
LE VIEILLARD ET LE PIANO
Không khí thật điền viên, ấm áp.
Như bà già trong bản sao khổ lớn bức tranh sơn dầu nổi tiếng "La jeune
fille au piano" của danh họa Paul Cézanne treo trên tường, bà lặng lẽ ngồi
đan trên chiếc ghế xa-lông da mềm và sâu. Con mèo mướp lười biếng nằm ngủ dưới
ghế, đầu gối lên đôi chân đi tất len dày của bà. Chốc chốc nó duỗi mình, vươn
thẳng tứ chi rồi lại khoanh tròn ngủ tiếp.
Đầu xuân, nhưng trời còn rét
ngọt. Dù ở nhà, như thường lệ, bà vẫn mặc chiếc áo dài vải the mầu xẫm kiểu cổ
thời trước cách mạng. Bà có khuôn mặt bình thản hình trái xoan, với chiếc mũi
thanh tú, đôi môi nhỏ và dày. Một nốt ruồi to bên cạnh, na ná nốt ruồi nổi
tiếng của ca sĩ nhạc pop Mađôna, càng tôn thêm cho bà cái duyên thầm rất ưa
nhìn. Cặp kính lão mắt tròn (cũng kiểu cổ) treo sệ xuống đầu mũi, và bà thường
nhìn trên kính chứ không qua mắt kính như người khác. Bất chấp những nếp nhăn
sâu trên mặt và mái tóc phi-dê ngắn bạc gần hết, người ta vẫn dễ dàng đoán biết
bà từng một thời là người xinh đẹp và xuất thân từ một gia đình rất nền nếp.
Nếu phải chọn ai đấy là dân Hà
Nội gốc, tiêu biểu cho lớp trí thức cũ vừa lịch sự vừa bảo thủ, thì có lẽ bà là
người thích hợp nhất. Có cảm giác như cuộc sống mới thực dụng và hiện đại một
cách xô bồ bên ngoài không mảy may ảnh hưởng đến con người bà và căn phòng nhỏ
bà đã sống suốt bảy mươi năm qua. Bản thân căn phòng cùng các đồ vật trong đó
cũng cổ kính và trầm lặng như chủ nhân chúng.
Bà là một trong số rất ít các
nghệ sĩ pianô ở lại với cách mạng sau ngày thủ đô giải phóng, là người thầy đầu
tiên bộ môn này ở Nhạc viện Hà Nội. Bà đã dìu dắt nhiều thế hệ nghệ sĩ trưởng
thành, có người dành được giải thưởng lớn trong các cuộc thi quốc tế. Bà nghỉ
hưu đã mấy năm nay, với danh hiệu "nhà giáo nhân dân" và "nghệ
sĩ ưu tú". Chồng bà là cán bộ cao cấp trong quân đội, một vị tướng chiến
trường, hy sinh trong chiến dịch Khe Sanh. Họ không có con. Bấy lâu nay bà sống
một mình với con mèo, với chiếc đàn pianô hiệu Bekker cũng già nua và quí phái
như bà.
Khách đến nhà bà không nhiều. Bà
thích thế. Mỗi tuần hai lần vào thứ ba và thứ bảy, bà dạy đàn cho đứa cháu gái
mười tuổi của bà em. Nó có khiếu, tiếp thu nhanh. Bà muốn và có thể dạy nó
thành nghệ sĩ pianô có tài. Nhưng nó lại không thích. Cái nó thích là nhai kẹo
cao su - vừa tập đàn vừa nhai - và nhạc xập xình chứ không phải nhạc Mozart hay
Schubert. Không nói ra nhưng bà buồn. Bà buồn cả việc nhiều học trò giỏi của bà
tối tối vào các khách sạn hoặc quán bar chơi đàn cho đám thực khách thô lỗ.
Khách của bà còn là những học trò cũ thỉnh thoảng đến thăm, nhất là vào ngày
mồng Tám tháng Ba và ngày Hai mươi tháng Mười Một. Và cuối cùng là ông già đang
ngồi chơi đàn trước mặt bà lúc này. Một vị khách không mời cũng đến, đều đặn
mỗi tháng một lần đúng ngày rằm. Vì sao lại ngày rằm? Cả ông lẫn bà đều không
biết. Đơn giản vì đến mấy lần vào ngày ấy rồi quen, sau cứ thế tiếp tục mãi đã
hàng chục năm nay.
Ông là thợ (có người gọi nghệ sĩ)
lên dây đàn pianô lâu năm nhất và cũng thuộc loại giỏi nhất ở Hà Nội. Ông đến
để lên dây đàn cho bà, mặc dù gần đây bà ít chơi đàn và do vậy dây đàn ít sai
để phải lên lại. Nhưng ông cứ đến và bà chẳng lấy thế làm khó chịu. Họ là bạn
của nhau từ thời còn trẻ. Chiếc pianô luôn là chiếc cầu nối giữa họ. Thường sau
mỗi lần chỉnh đi chỉnh lại những nốt đàn đã quá chính xác, ông thong thả cất bộ
đồ nghề vào hộp, rồi cũng thong thả như thế, ông trang trọng ngồi xuống trước
đàn, bắt đầu chơi bài "Fur Elise"(Gửi nàng Elise) của Beethoven, một
bản nhạc đượm buồn ai oán mà tương truyền nhạc sĩ thiên tài người Đức này đã
viết gửi một nàng Elise nào đó để bày tỏ mối tình vô vọng của mình. Tiếp đến là
một bản etude chậm của Chopin mà theo chất nhạc, người ta đặt thêm cho cái tên
là "Tristess" (nhạc buồn). Lần nào cũng chỉ hai bài ấy. Bà chẳng biết
vì sao nhưng không bao giờ hỏi. Xong, ông cẩn thận đậy nắp đàn, lấy giẻ lau
sạch bóng lần nữa, ngồi xuống cạnh bà, uống nước, trao đổi đôi ba câu vu vơ rồi
ra về, cúi đầu chào thật thấp, thậm chí còn ngả mũ nghiêng mình nếu lúc ấy là
mùa đông và ông đội chiếc mũ phớt dạ từ thời Pháp còn lại.
Tuy nhiên, hôm nay hình như ngoại
lệ. Sau hai bài bất di bất dịch kia, ông chơi thêm một bản nocturne (dạ khúc)
của Chopin, bản số 1, và hiện đang chơi bản sonnate "Les Adieux"
(Vĩnh biệt) số 26 của Beethoven.
Bà hơi ngạc nhiên nhưng vẫn lặng
lẽ ngồi nghe, không một lần ngước mắt khỏi que đan. Ông đàn không hay, không
phải ở mức a-ma-tơ nhưng cũng chưa hẳn chuyên nghiệp. Xuất thân từ một gia đình
tư sản sa sút, ngày xưa ông cùng học pianô một thời gian ở Paris với bà. Bà học giỏi, có tài, tiếp tục
tiến lên, còn ông thì sau nhiều thăng trầm, tự biết không bao giờ có khả năng
thành nghệ sĩ giỏi, cuối cùng tự chọn cho mình cái nghề lên dây đàn pianô, dẫu
nó, trước kia cũng như bây giờ, hiếm ai lao vào và chưa bao giờ mang lại cho
ông nhiều tiền. Đơn giản vì ông không thể sống thiếu cây đàn này. Không trực
tiếp biểu diễn thì ông chăm chút, chuẩn bị nó cho người khác. Và ông lấy thế
làm hài lòng. Bây giờ đến lượt ông đàn, lại một bài khó và dài như "Les Adieux",
ông không khỏi lúng túng, ngượng ngập. Chiếc Bekker già nua, loại Grand piano,
chiếm trọn nửa căn phòng, đang rên rỉ dưới những ngón tay cũng già nua không
kém của ông. Những phím đàn màu trắng ngả vàng ngà như nhảy múa một cách miễn
cưỡng. Tiếng của nó cũng không còn trong trẻo và sắc gọn như xưa.
Theo thói quen nghề nghiệp, thỉnh
thoảng bà ngừng tay, gõ mạnh que đan vào thành ghế rồi nói to như trước bà là
cậu học sinh chưa thuộc bài: "Forte! Forte!" (mạnh hơn, mạnh hơn nữa)
hoặc "Tình cảm vào! Chậm thôi, chậm thôi!" Ông ngoan ngoãn làm theo,
vấp một đôi lần rồi cuối cùng ngừng chơi, quay về phía người bạn già.
- Cây đàn của bà già lắm rồi, -
ông thở dài.
Đó là một chiếc đàn tốt bố mẹ mua
cho bà từ Pháp. Với tư cách là giảng viên lâu năm, sau này nhiều lần Nhạc Viện
đề nghị cấp đàn mới nhưng bà không nhận mà vẫn giữ nó như kỷ niệm một thời.
- Còn ông thì không? - bà đáp,
nửa châm chọc nửa trách móc như thể chiếc đàn bị chê một cách oan ức.
- Tôi cũng già rồi. Cả bà nữa.
Cái gì phải đến sẽ đến thôi. - Ông lại thở dài. - Bà nghỉ dạy đã mấy năm. Bây
giờ đến lượt tôi. Hôm nay là lần cuối cùng tôi lên dây đàn đấy. Tất nhiên cho
chiếc đàn của bà. Bà và tôi gắn bó với nó bao nhiêu năm rồi nhỉ?
- Gần năm mươi năm. - Bà đáp,
ngừng đan, ngạc nhiên hỏi: - Lần cuối cùng? Vì sao lại lần cuối cùng?
- Vì tai tôi hỏng rồi. Cũng đúng
thôi. Tuổi tác mà. Hình như nó hỏng đã lâu nhưng vì người ta thương tôi, nể tôi
nên không nói đấy thôi. Tháng trước Nhà Hát Lớn không nhờ tôi lên dây chiếc
Steinway cho một nghệ sĩ Hà Lan biểu diễn, tôi đã lờ mờ đoán có chuyện không
ổn. Chỉ hôm qua tình cờ tôi nghe có người nói bây giờ tai tôi không chính xác
nữa, lên sai dây đàn mà tự mình không biết. Hóa ra mấy lần trước người ta bí
mật nhờ cậu Hà chỉnh lại những chiếc đàn tôi đã lên dây ở Nhà Hát Lớn, Hội nhạc
sĩ, phòng thu Đài phát thanh và phòng hòa nhạc của Nhạc Viện. (Hà là một trong
những thợ học việc của ông, sau được gửi sang Tiệp luyện nghề hai năm, thời
gian gần đây đang thay ông chăm sóc mấy chục chiếc đàn ở Nhạc viện. Tuy nhiên
những chiếc đặc biệt dành cho các buổi biểu diễn quan trọng thì vẫn phải đích
thân ông trực tiếp chuẩn bị). Bà biết đấy, nghề tôi chỉ nhờ vào đôi tai. Nay nó
hỏng, coi như tôi mất nghề. Beethoven điếc vẫn viết nhạc được vì ông nghe thầm
trong đầu. Còn tôi, tôi cần nghe rõ những âm thanh có thật. Không khéo lần
trước tôi lên dây cho chiếc đàn này cũng sai, và như người khác, bà thương tôi
nên không nói. Có đúng thế không?
Bà im lặng hồi lâu mới khẽ đáp:
- Không. Tôi thấy nó vẫn chính
xác.
Bà ái ngại nhìn ông già, không đủ
can đảm nói lên cái sự thật bà biết không phải tháng trước mà từ lâu trước đó,
rằng đôi tai rất thính nhạy của ông đã bắt đầu không ổn. Tuy vậy bà vẫn không
muốn bất kỳ ai khác chạm vào chiếc đàn yêu quí của bà. Bà hiểu ông tự hào và yêu
nghề mình đến mức nào. Nó là hạnh phúc và cũng là ý nghĩa cuộc sống đối với
ông. Suốt năm mươi năm qua người ta đánh nhau, cày cấy hoặc đổ mồ hôi trong nhà
máy, hầm mỏ, còn ông thì luôn quanh quẩn bên những chiếc đàn pianô. Ngoài ra
ông không biết một nghề nào khác. Xã hội cũng cần ông như chính ông cần những
chiếc đàn pianô để sống, đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cũng suốt chừng ấy năm người ta
thấy ông lọm khọm đạp chiếc xe cà tàng tới Nhạc Viện ở Ô chợ Dừa, phòng tập
trường múa ở Mai Dịch và các phòng hòa nhạc, thu thanh khắp nơi trong thành
phố. Nhiều lần ông còn được ô tô, máy bay đưa đón đến một thành phố xa nào đó
chỉ để lên dây một chiếc đàn pianô. Thường sau khi xong việc, ông nán lại để
được tận hưởng thành quả lao động của mình, tự hào và lâng lâng hạnh phúc lắng
nghe các nghệ sĩ biểu diễn, hoặc ngắm nhìn những diễn viên ba-lê nhún nhẩy bước
đi trên đầu ngón chân theo tiếng nhạc chiếc đàn ông đã nâng tới mức hoàn thiện.
Ông thường giật mình cảm thấy như người có tội, dằn vặt mấy ngày liền nếu tình
cờ phát hiện có dây đàn nào đấy lên chưa chuẩn lắm. Công bằng mà nói, người
ngoài nghề it ai hiểu hết giá trị công việc ông làm. Các nghệ sĩ đích thực thì
khác. Họ kính trọng ông, thân mật tôn ông thành Maestro (sư phụ). Sau buổi biểu
diễn, nhiều danh cầm thế giới tự tìm đến bắt tay cảm ơn ông và tặng những món
quà nho nhỏ được ông tập hợp thành bộ sưu tập bày nơi trang trọng nhất trong
nhà mình.
Mươi năm gần đây đất nước mở cửa,
kéo theo sự mở cửa của vô số các quán bar và khách sạn đua nhau làm sang mua
pianô đắt tiền, thuê sinh viên Nhạc Viện biểu diễn để câu khách. Những chiếc
đàn ấy cũng cần được định kỳ lên dây và chăm sóc, tất nhiên. Cũng theo mốt,
người ta mời đích thân ông làm việc này nhưng thường ông bảo Hà và những người
như anh ta làm hộ, dù ở đấy tiền công cao hơn. Âu cũng là một sự lẩm cẩm nữa
của người già.
Ông cũng sống một mình. Hơn thế,
suốt đời sống một mình. Vì sao - không ai rõ mà ông cũng chẳng chịu nói với ai.
Nghe đồn ngày xưa ông yêu bà, yêu lắm, nhưng vì bà là người thành đạt, lại xinh
đẹp, con nhà giàu, còn ông thì... nên ông biết phận mình, chưa một lần dám thổ
lộ. Người ta hỏi cả hai có đúng thế không, nhưng lần nào họ cũng chỉ cười thay
cho câu trả lời. Bản thân họ chưa bao giờ đả động đến chuyện đó. Bao năm nay họ
quen đối xử với nhau như những người bạn và dường như cho thế là đủ.
- Bây giờ ông định thế nào? Không
lên dây đàn thì ông làm gì ? - Bà hỏi.
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Có lẽ
tôi không thể tiếp tục sống ở Hà Nội. Những chiếc đàn ở đây làm tôi buồn. Tôi
có người bà con ở vùng trung du Phú Thọ, định về sống nốt tuổi già ở đấy, vui
với mảnh vườn, bầy gà. Cũng được đấy nhỉ? Bà thấy thế nào?
- Tôi thấy ông lẩm cẩm. Không chỉ
tai hỏng mà đầu óc cũng không ổn. - Bà cười đáp, không ra nghiêm túc cũng chẳng
phải đùa. - Suốt đời ở thủ đô, nay ông tưởng về sống nông thôn dễ đấy à?
- Rồi bà xem.
- Tùy ông thôi. Nhưng có phải vì
thế mà vừa rồi ông chơi bản "Les Adieux" không?
- Bà đoán đúng.
- Nhưng ông chơi tồi và bỏ giở
giữa chừng...
- Đúng thế. - Ông buồn bã đáp. -
Tại lâu ngày không đàn, tôi quên. Tại nó khó quá...
- Bao giờ ông đi?
- Tuần tới. Mọi thứ thu xếp xong
rồi. Hôm nay tôi đến chia tay bà.
Hai người cùng ngồi im.
- Tôi muốn hỏi ông điều này. Tò
mò thôi. Vì sao trong bao nhiêu năm ở nhà tôi ông chỉ đàn hai bài, là "Fur
Elise" của Beethoven và "La Tristess" của Chopin?
- Bà chưa bao giờ thử đoán vì sao
à? - ông hỏi lại, giọng nhỏ nhẹ và không ngước nhìn bà.
- Chưa, - bà đáp. - Mà sao tôi
phải đoán. Ai muốn nói gì cứ nói thẳng ra chẳng hay hơn ư?
Họ lại im lặng, lần này còn lâu
hơn. Cuối cùng ông rụt rè lên tiếng:
- Bà có thể đàn tôi nghe một bài
được không? Bài gì cũng được. Chưa bao giờ bà đàn cho tôi, chỉ riêng một mình
tôi...
Bà liếc nhìn ông với cái nhìn như
muốn nói: "Ông có đòi hỏi nhiều quá không đấy?" Nhưng bà không nói
gì, chỉ lặng lẽ đứng dậy, đài các bước về phía chiếc đàn, và cũng đài các như
thế ngồi xuống ghế, như thể trước bà không phải ông bạn già mà cả nghìn khán
giả am hiểu ở Nhà Hát Lớn. Bà đặt hai bàn tay nhăn nheo nhưng thon mảnh lên mặt
phím đàn đã ngả màu vàng vì năm tháng, đầu hơi ngửa về phía sau một cách kiêu
hãnh. Chiếc đàn cổ lại rung lên vì những nốt nhạc mạnh và dứt khoát. Thật khó
tin một phụ nữ nhỏ bé, già nua như bà lại có thể tạo ra được những âm thanh
mạnh mẽ và kỳ diệu đến thế. Bà say sưa đàn, mắt lim dim, dường như quên hết mọi
thứ trên đời. Cả con người và tâm hồn bà đang hòa quyện vào tiếng nhạc lúc hùng
tráng, lúc du dương quyến rũ.
"Bản Prelude và Fuge số 29
của Bach!' - ông nhận ra ngay từ những nốt nhạc đầu tiên. Đây là tác phẩm phức điệu
khó biểu diễn cả về kỹ thuật lẫn thể hiện tình cảm. Chính vì nó mà ông bị đánh
trượt không tốt nghiệp Nhạc Viện Paris vào một ngày đông giá lạnh ở nước Pháp
năm nào. Những người sành nhạc đều yêu thích bản nhạc này. Ông thì coi nó là
đỉnh cao sáng tác không chỉ của Bach mà cả nền âm nhạc pianô toàn thế giới.
Bà chơi xong phần Prelude hùng
tráng, bây giờ đang chuyển sang phần Fuge trữ tình và theo ông là phần hay nhất
của tác phẩm. Các bè nhạc lúc đan quyện vào nhau, lúc đối đáp như lời tâm tình
không dứt. Những nốt nhạc tinh khiết, thần thánh làm ông lâng lâng. Tự lúc nào
không biết, đôi mắt ông ngấn đầy lệ. Ông giật mình, thầm mừng bà bận đàn nên
không thấy ông khóc.
*
Một tháng sau, đúng ngày rằm, từ
Phú Thọ ông lại về Hà Nội và đến nhà bà.
- Công việc của ông trên ấy thế
nào? - Bà hỏi, hình như không ngạc nhiên trước việc ông quay lại.
- Cũng bình thường. Ổn cả. Còn
bà?
- Tôi thì có gì thay đổi được
nữa. Ông không mang đồ nghề về à?
- Không. Tôi nhớ Hà Nội quá, nhớ
đàn quá. Ghé về chơi một hôm rồi lại lên trên ấy.
- Thế thì tiếc thật.
- Sao vậy? Đàn lại sai dây à? -
Ông hỏi rồi chợt thở dài. - Thật buồn rằng bây giờ tôi chẳng giúp được bà nữa.
Tai tôi hỏng rồi, bà biết đấy. Để tôi bảo cậu Hà...
- Không, tai ông vẫn thính lắm, -
bà ngắt lời. - Vả lại, cây đàn của tôi nó đã quen ông. Nó già yếu lắm rồi nên
cần được chăm sóc thường xuyên. Thiếu ông, dường như nó chẳng còn là chiếc đàn
như trước. Ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới điều ấy à?
Ông bối rối không biết đáp thế
nào. Bà bước thêm một bước về phía trước, nhìn thẳng vào mắt ông và nói với
giọng rất nghiêm túc:
- Tôi có một đề nghị thế này, ông
thấy được thì chấp nhận, không thì thôi, tùy ông. Chiếc đàn của tôi hiện cần
phải lên dây hàng ngày. Để đỡ vất vả, nếu muốn, ông có thể ở lại đây, ngay
trong nhà tôi để làm việc đó. Ý ông thế nào?
Ông hiểu, nhưng vì quá bất ngờ,
ông đứng lặng một lúc rồi ấp úng nói:
- Nhưng cả tôi và... chiếc đàn
của bà đã già. Làm thế, e nó thế nào ấy.
- Ông lại lẩm cẩm rồi. Tai ông
còn tốt, chỉ đầu óc ông có vấn đề mà thôi.
Để ông khỏi lúng túng, bà ngồi
xuống cạnh đàn, vẫn với vẻ đài các nghệ sĩ vốn có của mình.
- Bà vừa đàn bài gì lạ thế, hình
như tôi chưa nghe bao giờ, - ông hỏi khi
bà đàn xong.
- Đó là bản "Le Vieillard et
le Piano", khúc ngẫu hứng tôi viết riêng cho ông đấy. Lần đầu tiên tôi
viết nhạc. Nghiệp dư, và vì hoàn cảnh bắt buộc. "Le Vieillard" là
ông, một ông già lẩm cẩm đáng yêu. Còn "Le Piano" là ai thì tự ông
đoán lấy. "Le Vieillard et le Piano", một cái tên cũng hay đấy nhỉ?
Hà
Nội, 3. 1. 2001
MÙI SỮA
Tặng
Nguyễn Thơm
Người đàn ông, - một ông già sáu
mươi, khô gầy với mái tóc bạc gần hết và nét mặt căng thẳng - từ từ kéo dây
khóa chiếc áo len mỏng mịn của người đàn bà đang nằm trên giường, hai mắt nhắm
chờ đợi, trán lấm tấm mồ hôi dù lúc ấy đã cuối thu và trời khá lạnh.
Bên trong là chiếc sơ-mi lụa sẫm
màu với một dãy cúc dài bằng xà cừ lấp lánh. Tuy cố giữ bình tĩnh, những ngón
tay thon dài của ông vẫn run run khi lần mở chiếc cúc thứ nhất sát cổ rồi chiếc
thứ hai, thứ ba, để lộ dần làn da rất trắng và mịn. Các động tác của ông thong
thả, dịu dàng như khi người ta nhâm nhi tách trà ngon, dù bản năng đàn ông đang
rạo rực thôi thúc.
Bỗng một ý nghĩ ngồ ngộ xuất hiện
trong đầu. Ông có cảm giác việc ông đang cởi quần áo người đàn bà này cũng
giống như khi thận trọng mở hộp đàn vi-ô-lông. Đầu tiên là kéo khóa lớp vải
cứng bọc ngoài, rồi mở chiếc hộp gỗ bên trong lót nỉ, cuối cùng bỏ tấm nhung
mềm phủ kín chiếc đàn. Về hình dáng, không loại nhạc cụ nào đẹp bằng đàn
vi-ô-lông, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ luôn được bọc dưới nhiều lớp vải.
Phải mất mấy phút ông mới đưa
được chiếc đàn - người ra khỏi hộp quần áo của mình. Ông chợt sững sờ trước vẻ
đẹp cơ thể trần truồng của người đàn bà, một cô gái trẻ, còn rất trẻ. Về cơ
bản, nó có nhiều đường cong giống chiếc đàn, và chỉ vẻ đẹp của nó mới sánh
được.
Mấy phút trước đó, cô gái trẻ ấy
nói với ông:
“Sớm hoặc muộn con cũng thành đàn
bà. Con muốn điều ấy xẩy ra với thầy.”
Rồi cô lặng lẽ lên giường nằm
chờ, nhắm mắt để khỏi phải thấy ông phản
ứng thế nào. Có lẽ cả vì xấu hổ.
Ông đứng lặng, ngắm cô rất lâu.
Cô gái vẫn nằm bất động. Hình như đã
thiếp đi. Có thể ngủ được trong những trường hợp thế này ư?
Cô đã hai mươi hai tuổi nhưng
dường như cơ thể chưa phát triển hoàn toàn. Cặp vú nhỏ và nhọn, núm hồng hồng.
Túm lông dưới bụng thưa, ngắn và mềm. Người cô nhỏ nhưng không gầy, có thể nói
mũm mĩm, sự mũm mĩm của một đứa trẻ hơn một cô gái trưởng thành. Cả kiểu nằm
ngoẹo đầu một bên, môi chúm lại phụng phịu cũng giống một đứa trẻ. Ông cúi
xuống, giơ tay định chạm vào cái cơ thể trẻ con ấy nhưng bỗng bàn tay ông chững
lại, treo lơ lửng trên người cô. Bàn tay xương xương, lốm đốm những nốt đồi mồi
trở nên đen xạm, xấu xí trên nền trắng mịn của da thịt cô gái.
Ông là một giáo sư dạy vi-ô-lông.
Cô gái là học trò yêu của ông hơn mười năm qua, từ sơ cấp cho đến hết đại học.
Ngày mai cô đi Pari học cao học, có thể quay về mà cũng có thể không, cô bảo
thế. Và hôm nay cô đến từ biệt ông.
Cô luôn là một học trò giỏi,
thông minh, xinh đẹp và cũng rất cá tính. Con gái của người quen, một trí thức
nổi tiếng. Ông đặc biệt cảm tình với cô, coi như con và đoán cô cũng nghĩ thế
về ông. Khi còn nhỏ, đi đâu ông cũng đưa cô theo, có khi cả mấy ngày. Năm ngoái
ông đi nghỉ Đồ Sơn một mình, cô cũng đòi theo. Ông thấy bất tiện nên từ chối, cô
khóc xin, ông phải báo với bố mẹ cô và họ nhờ ông cho đi. Tất nhiên ông thuê
phòng riêng và hai người đối xử với nhau như bố con.
Từ bé cô luôn gọi thầy xưng con.
Ông cũng thế. Một mức thân mật hơn so với quan hệ thầy trò bình thường. Tuy
nhiên khi trở thành cô gái, mối quan hệ trong sáng ấy bắt đầu có ít thay đổi,
những thay đổi rất tinh tế và từ phía cô chứ không phải ông.
Cô trở nên hay rụt rè e thẹn. Đôi
khi ông chợt bắt gặp cô nhìn ông với cái nhìn khác hẳn. Mãi sau này mới đoán
hiểu cô yêu ông. Ông chỉ mỉm cười, tuy lúc đầu thoáng chút bối rối. Ông là
người có tài, đáng kính về mọi mặt, tế nhị và hay mặc cảm. Sự tế nhị, mặc cảm
ấy không cho phép ông vượt qua mức chênh lệch bốn mươi tuổi giữa hai người.
Nhưng dường như cô thì không. Cô ngưỡng mộ, yêu ông một cách bồng bột, bất chấp
tất cả, tất nhiên không bộc lộ ra ngoài. Chỉ do tinh tế ông mới nhận ra điều
ấy. Nhận ra mà vờ như không nhận ra để khỏi làm cô bối rối và cũng để tự kiềm
chế mình.
Hôm nay thì tự cô nói thẳng, lại
còn nảy ra cái ý định xin được ông cho thành đàn bà. Cô đang nằm kia, hoàn toàn
trần truồng, sau khi được ông cởi bỏ hết quần áo như cởi nhiều lần vải bọc
chiếc đàn vi-ô-lông.
Ông bị bất ngờ trước lời đề nghị
khác thường ấy. Tuy có tuổi nhưng còn là người đàn ông khỏe mạnh, sau chút ít
do dự, ông đã buông mình cho tình cảm lôi cuốn. Vả lại ông nghĩ nếu làm khác,
có thể cô sẽ thấy bị xúc phạm và đau khổ. Tất nhiên giữa hai người không thể có
cái tình yêu theo nghĩa thông thường, nhưng lẽ nào ông không thể vượt qua mặc
cảm để chiều cô và cũng là chiều mình một lần, chỉ một lần duy nhất trước khi
hai người chia tay, có thể chia tay mãi mãi?
Đúng thế, trên nền da trắng của
cô gái, bàn tay ông, vốn thon dài và đẹp như ở những nghệ sĩ vi-ô-lông khác,
bỗng trở nên xấu xí, đen đủi. Như tay phù thủy, ông nghĩ và thầm ngạc nhiên với
phát hiện mới của mình. Tuổi già. Chính tuổi già đã tạo nên sự tương phản ấy.
Giá ông trẻ hơn hai, ba mươi tuổi thì chẳng sao. Lúc ấy chắc mọi việc sẽ diễn
ra một cách tự nhiên, ông khỏi bị mặc cảm, bàn tay ông khỏi bị treo lơ lửng thế
này. Ông có cảm giác như nếu chạm vào, nó sẽ để lại những vết đen bẩn và làm ô
uế cơ thể thanh khiết của cô.
Cuối cùng, bàn tay ấy chỉ dám khẽ
chạm mái tóc cô, âu yếm ve vuốt, nhất là phía sau gáy. Cô gái dường như đã
thiếp đi thật. Cũng có thể còn thức nhưng cố tình nằm yên, mắt vẫn nhắm, hơi
thở đều đều.
Ông cúi xuống định hôn cô, vẫn
chưa quyết định sẽ hôn vào đâu - mắt, trán hay môi. Trước đây ông nhiều lần hôn
lên trán và mắt cô, nhưng môi thì chưa lần nào. Cũng từng chạm vào người, cố
tình chạm, vì điều đó mang cho ông một cảm giác thích thú khó tả. Thậm chí ông
có thể làm hơn nếu muốn, nhưng ông đã luôn kìm mình để không bước qua cái vạch
ngăn cách vô hình do ông đặt ra. Có thể lần này sẽ khác chăng?...
Khi cúi xuống sát mặt cô gái, lần
nữa bất chợt ông chựng lại. Có mùi gì như mùi sữa. Mùi sữa từ miệng những đứa
trẻ còn bú mẹ! Không hoi gắt, chỉ thoang thoảng dễ chịu, nhưng đúng là cái mùi
ấy. Thật kỳ cục, ông thầm nghĩ. Cô gái này đã hai mươi hai tuổi và chỉ có thể
uống sữa đặc, sữa tươi, sữa cốc-tây... Hay từ vú? Không, ở đấy chỉ có mùi thơm
mát của da thịt và mùi tuổi trẻ.
Vẫn mặc nguyên quần áo, ông lặng
lẽ nằm xuống cạnh cô gái. Sự ham muốn thôi thúc giảm nhiều từ khi không dám
chạm tay vào người cô, giờ bị cái mùi kia làm tan biến. Vì sao, ông không hiểu
và đang cố hiểu.
Mấy năm trước, trong một cuộc vui
với bạn bè, bị hoàn cảnh đưa đẩy, ông đã bỏ tiền mua tình yêu của một cô gái.
Ngậm vú cô, ông thấy trên lưỡi có cái gì ngòn ngọt. Khi được hỏi, cô kia bảo
mới sinh, cần tiền nuôi con nên phải làm nghề này. Ông mất hết hứng thú, đứng
dậy mặc quần áo, cho cô kia gấp đôi số tiền đã hứa rồi bỏ về nhà với cảm giác
gần như tội lỗi. Sau đấy ông không bao giờ tới những chỗ tương tự.
Ông có đứa cháu ngoại còn bé và
thường thích thú ẵm nó trên tay để ngửi mùi sữa mẹ thoang thoảng từ miệng nó.
Sao cũng chính một mùi trong ba trường hợp lại có cái gì đấy vừa giống lại vừa
khác hẳn nhau như vậy? Vô tình, ông liên tưởng cô gái đang trần truồng nằm bên
với đứa cháu mà không ít khi ông cũng bế trần truồng như thế.
Mà sao cô học trò của ông lại làm
thế nhỉ? Vì tình yêu? Hiến dâng vì ngưỡng mộ, biết ơn? Hay đơn giản chỉ là cơn
bột phát của tuổi trẻ? Thanh niên bây giờ hiện đại thật. Nhiều người già bây
giờ cũng hiện đại không kém. Họ tự cho phép mình những điều mà đáng lẽ vì tuổi
tác và địa vị, họ không được phép làm. Còn ông, ông hiện đại hay cổ hủ? Ông có
được phép cư xử với cô bé nằm bên như với một người đàn bà không? Có phải là sự
sa đọa đạo đức không, khi một người già như ông hăm hở chiếm đoạt một cơ thể
trẻ trung, trong trắng đến thế?
Ông quay người, dịu dàng luồn tay
vào mái tóc cô, đặt môi mình lên đôi mắt đang nhắm, hết mắt này đến mắt khác.
Có vị mằn mặn. Vẫn phảng phất mùi sữa...
Ông nhớ đã đọc đâu đấy cuốn sách
nói ở Nhật có những nhà nghỉ dành riêng cho các ông già bất lực. Ở đấy, họ vào
những căn phòng có các cô gái chờ sẵn, trần truồng và đang ngủ. Họ chỉ cần được
có cảm giác suốt đêm nằm cạnh một cô gái trẻ còn trinh tiết. Cô gái được cho
uống thuốc ngủ đặc biệt, không thể tỉnh dậy trước giờ đã định, nên khách không
bị mặc cảm về sự bất lực của mình. Các cô giúp họ sống lại những kỷ niệm thời
trẻ, vui cũng như buồn, và lần nữa chiêm nghiệm cả cuộc đời dài mình đã sống.
Cách giải trí này mang lại cho họ sự thư giãn lạ lùng. Nhiều người muốn được
chết với một cô gái như thế bên cạnh. Trong truyện có một ông ngẫu nhiên chết
thật, nhưng chủ nhà nghỉ kịp đưa ông ta đi nơi khác, còn cô gái thì, như những
cô gái khác, sáng dậy không hề biết ai đã qua đêm với mình, không biết có người
đã chết bên cô.
“Người Nhật lắm trò kỳ cục thật”,
ông thầm nghĩ và chợt nhớ trong cuốn truyện ấy cũng có một ông già giống ông
lúc này, chưa bất lực, suốt đêm nằm bên cô gái trinh tiết trần truồng mà không
dám chạm tay vào người cô, sợ làm ô uế tuổi trẻ trong trắng. Ông ta cũng ngửi
thấy mùi sữa từ hơi thở cô gái. Mùi hoi hoi sữa mẹ. Tiếc là đêm ấy, để được ngủ
say bên cô, ông ta uống thuốc ngủ quá liều, và trong mơ đã bóp cổ cô gái. Xác
chết bị đưa đi ngay, một cô khác được đem vào thế chỗ, và sáng ngủ dậy ông ta
không hề biết mình đã phạm tội giết người. Thậm chí không nhận thấy có gì khác
lạ.
Ông rùng mình khi nghĩ về chi
tiết kinh khủng ấy. “Đáng lẽ ông nhà văn kia không nên viết nó, cả khi có thật
những chuyện như thế.”
Cuối cùng ông nhỏm dậy, và lại
hôn lên mắt cô gái. Vẫn có vị mằn mặn.
“Con ngủ à?” ông hỏi.
Cô gái khẽ gật đầu.
“Con chưa bao giờ hôn người đàn
ông nào, và cũng chưa được hôn?”
Gật đầu.
Ông im lặng một lúc, vẻ bối rối:
“Thầy xin lỗi. Thầy mặc quần áo
cho con nhé?”
Cô gái lại gật đầu, mắt vẫn nhắm.
Ông bắt đầu mặc quần áo cho cô,
từng cái một, thong thả và thận trọng như khi mỗi lần biểu diễn xong ông cho
đàn vào hộp. Cô gái vẫn nằm yên, chỉ khẽ cử động những lúc cần giúp ông. Khi cơ
thể tuyệt đẹp của cô lại được bọc trong chiếc hộp quần áo, ông có cảm giác như
hẫng hụt điều gì.
Cô gái đứng dậy, nhìn ông với vẻ
ngơ ngác rồi bất chợt bỏ chạy ra ngoài. Hình như cô khóc.
Sáng hôm sau ông ra sân bay tiễn
cô. Đến lúc phải bước vào khu vực chỉ dành riêng cho hành khách, cô bỗng ôm
chầm lấy ông, nước mắt dàn dụa:
“Em yêu anh!... Chính vì vậy mà
em phải ra đi và sẽ không quay về nữa...”
Ông hôn nhẹ lên trán cô, định nói
“Thầy cũng yêu con”. Một câu nói lấp lửng có thể hiểu theo hai cách - tình yêu
giữa đàn ông đàn bà, và tình yêu giữa bậc cao tuổi với con cháu. Nhưng ông chỉ
đứng im, lần nữa đặt môi lên mái tóc cô. Thật lạ, cả mái tóc cũng phảng phất
mùi sữa.
Bất chợt, ông thấy mình như già
hơn thêm chục tuổi.
Hà
Nội, 2003
CÔ GÁI BÁN HOA
Thành phố đêm trăng. Đèn sáng rực
khắp nơi nhưng không át được thứ ánh sáng huyền ảo có màu vừa bàng bạc vừa xanh
lơ của trăng rằm tháng Sáu cao trên đầu. Trời không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ
phía sông Hồng thật dễ chịu. Thậm chí phảng phất mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng
hơn, có lẽ đó là mùi hạnh phúc.
Ông đang cảm thấy hạnh phúc, cái
hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi nhiều ở đời. Chỉ mong muốn cho,
nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành đến mức ngây thơ, do vậy nhiều khi
lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt thường dễ tổn thương.
Đứng dưới vành trăng tròn vằng
vặc ấy, ông thấy người lâng lâng như bay
lên được. Cảm giác này làm ông nhớ tới chuyện khoa học đã chứng minh rằng khi
đứng đúng dưới trăng tròn, trọng lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ hơn bao
nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún người,
nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh,
hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá khang trang, xe cộ bóng lộn nối
đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ rằng ông và cả dân tộc đã phải
chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để có được ngày hôm nay.
Khi hạnh phúc người ta dễ xúc
động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn lao, phi thường, thật tốt
cho người khác.
Nhân vật chính câu chuyện này của
chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện gót giày đi dạo dọc theo một
trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các bạn tò mò muốn biết người đó
là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong truyện “Say Nắng” năm ngoái.
Ông giáo sư thơ ngây, “mắc bệnh tim to” và độc thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm
trời nắng đẹp quyết định dạo phố, tự cho phép mình hút thuốc ba con năm, uống
rượu vang Pháp, vào hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi ông, vì “say nắng” để mình lọt
vào vòng tay một cô gái trẻ rồi bị đưa lên đồn công an... Ông là bạn thân của
tôi. Chuyện xẩy ra đúng như thế. Có điều ông không treo cổ tự tử khi bị báo nêu
đích danh, mặc dù có ý định ấy, may tôi và mấy người bạn nữa kịp can ngăn.
Thường vẫn thế, trong đời mọi việc không đơn giản và quyết liệt như trong
truyện. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì cái kết phịa nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy là giáo sư N., lần này ban
đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên đường phố thủ đô xinh đẹp. Có
nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm. Ánh trăng làm người ông mềm
ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn
vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người gầy nhom, lại giữa lúc thanh
bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp ông thực hiện được ý tưởng
đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến lúc bất chợt nhìn thấy một
cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía trước. Người, xe đi ngang qua
cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi, ban đêm ai mua hoa? Mà rồi
hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu hoa gì, chỉ thấy trăng trắng
một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm
thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt đẹp thế này, ở một thành phố
cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này mà bất hạnh?
Giáo sư N. như khựng lại, nhăn
trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô gái. Cơ hội thực hiện việc
làm “vĩ đại” đã đến.
Ông móc túi lấy hết số tiền mình
có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá), rồi cầm bó hoa héo lên tay.
Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ duy nhất của thủ đô đêm nay,
thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và hồn nhiên như đứa trẻ.
“Bác... Anh không mua hoa gì nữa
à?”
Ông không hiểu, đứng đờ ra hồi
lâu.
“Tôi già rồi. Cô gọi bác cho
tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô rồi đấy thôi.”
“Em bán cả hoa kia nữa.” Cô kia
ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa nào?”
Cô gái có vẻ lúng túng, chắc lần
đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải đành nói thật:
“Em là gái bán hoa... Nếu thích,
anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho em dăm chục nghìn. Ba chục
cũng được.”
Giờ thì ông giáo sư già hiểu. Có
cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô gái còn trẻ, chắc chưa đến
hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật thà chất phác kiểu nhà
quê.
“Bác từ quê lên à?” Cô gái hỏi,
chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy. Quê em Thái Bình. Bác ở
đâu?”
“Tôi người Hà Nội, sống ở đây sáu
mươi năm rồi.”
Ông đáp, vẫn chưa hết ngỡ ngàng.
Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao cháu không ở quê, lại lên
đây làm nghề này?”
“Ôi, sao đàn ông người nào cũng
hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói to, giọng khó chịu và thách
thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người ta tới xó xỉnh nào đó. Tại
sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người à? Hà Nội không cần những
đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi, không cần dài dòng. Có muốn
thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ cho cả hai loại hoa. Không
phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng, sòng phẳng như ai.”
Giờ thì giáo sư N., nhà vật lý lý
thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình trong căn hộ “hang chuột” ở một
nhà chung cư kiểu cũ hiểu cặn kẽ các hạt
vật chất và phi vật chất vô hình, đang bối rối thực sự không hiểu cô gái trẻ
con trước mặt đang nói gì, vì sao có thể nói như thế, và quan trọng hơn cả là
ông phải làm gì bây giờ. Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm
ngoái không giúp ông hiểu biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn
thế, những người quá chân thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho
mình.
Ông im lặng khá lâu, cho đến lúc
suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả quyết:
“Thế thì đi.”
“Đi đâu?”
“Về nhà tôi.”
“Không sợ sư tử Hà Đông à?”
“Tôi sống một mình.”
“Được đấy. Vậy ta đi. Nhưng nhà
anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời gian. Hôm nay chưa được
khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi nhắc lại: Đừng xưng anh em.
Bác cháu dễ nghe hơn.”
“Cũng được. Nhưng bác bác cháu
cháu rồi làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa làm vừa hỏi có sướng không
con. Kinh!”
“Sẽ không có chuyện ấy.”
“Không? Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác
chỉ mong điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay bác định đưa cháu về đồn
công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt một lần rồi...”
“Công an nào. Vớ vẩn. Thôi, không
nói nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên cao trăng vẫn sáng, thơ mộng
và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông không còn cái cảm giác lâng lâng
lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi kết luận về sự giảm trọng lượng do
sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người xe vẫn thế, nhưng bức tranh hạnh
phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó ông phát hiện thấy một vết ố
nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như mình có lỗi đã để nó xuất hiện.
Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu một kế hoạch xóa sạch vết ố ấy.
Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại” ông vẫn mong ước.
*
Bà hàng xóm to béo và tốt bụng
rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm khuya - lúc ấy mười rưỡi và bà
đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái được gửi từ quê ra nhờ nuôi hộ.
Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không quen biết ngủ tạm, ít nhất cũng
mấy tối.
“Người bà con bác à?”
“Không. Chỉ một cô gái bán hoa
tôi gặp ngoài phố.”
Là người từng trải, bà hiểu đúng
nghĩa của từ này.
“Trời! Lại còn dẫn về nhà? Nếu
quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà hiểu sai rồi, tôi chỉ đơn
giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp cách nào?”
“Tạm thời chưa rõ lắm, nhưng phải
giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở đấy không tiện. Vậy mới nhờ
đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai tôi nói hết mọi chuyện.”
Vậy là tối hôm ấy cô gái bán hoa
ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại quí ông giáo sư nên đã nhận
lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật kỹ. “Khi nào mòn hết nửa
bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái thì dọc đường đi trước đó
đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên tâm. Cô cũng kể nhiều về mình
và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả những người tốt bụng có lòng trắc
ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn không bao giờ thay đổi được sự cả tin
ấy.
Sau đó ông gọi điện cho tôi, bảo
phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn, tôi đồng ý mà không căn vặn
điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi có lòng, ông có tiền. Vậy ta
thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn tắt sự việc.
“Tôi cũng có lòng,” tôi đáp, hơi
chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính bốc đồng. Không khéo lại
chuốc vạ vào thân.”
“Thì đã sao? Suy cho cùng, những
gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, cũng như cả trăm
truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng cứu được một con người cụ thể
như cô gái này...”
“Có thể như vậy, nhưng Lỗ Tấn bỏ
nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một lúc giúp được nhiều người hơn.”
“Ông không ví mình với văn hào Lỗ
Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi đùa thôi. Công bằng mà nói,
truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta thấy yêu đời và còn muốn
sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc ác, tục tĩu, toàn một màu
đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông vẫn chỉ trên trang giấy,
còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt và đang chờ ta kéo ra
khỏi vũng bùn...”
“Nếu cô ta không muốn được kéo ra
thì sao?”
“Không thể có chuyện ấy. Không ai
muốn sống trong bùn nhớp nhúa”
“Nếu cô ta lừa ông, hoặc sau bao
nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì coi như tôi tính sai một con
số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài mà. Vả lại, có sai mới có
đúng.”
Tôi thấy đuối lý trước những lập
luận giản dị ấy.
Hai ngày sau, với tiền của tôi
(ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ đáng khâm phục của ông và cả
sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở trong căn phòng mười lăm mét
vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê ba trăm năm mươi nghìn đồng
một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho cô những vật dụng cần thiết
cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi cá kho lớn. Những thứ này
do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống mình, ông thuê cho cô một góc
cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy chục mét) thêm một triệu đồng làm
vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết bán hoa chứ không cái gì khác,
ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ lúc đầu. Bán hoa làm đẹp cho
đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và đáng yêu.
Mọi việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn
hở ra mặt. Tôi cũng vui lây với ông, một lần còn đi theo đến cửa hàng hoa và
căn phòng mới thuê. Cô gái có vẻ chí thú và cũng ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng
sau bỗng một thằng lẻo khẻo mặt đầy mụn và hay ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N.
làm ầm lên, như thể ông “cướp vợ” hắn. Bà hàng xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn
ra ngoài, nhưng cũng khối người trong chung cư nghi ông làm điều bất chính. Sau
đó vài tuần thì ông chủ nhà đem tiền đến trả không cho thuê nữa, với lý do nhà
ông bị biến thành nhà chứa, và rằng cô gái bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường
“bán hoa” ở chỗ cũ, bắt được khách lại dắt về phòng mình.
Giáo sư N. nhất quyết không tin,
đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế nào. Nể bạn, tôi phải đi theo.
Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước vào thì hai anh công an khu vực
đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu đó). Một anh nghiêm mặt nói:
“Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng này...” May ông chủ nhà kịp
đến thanh minh hộ.
Hôm sau thì cô gái bán hoa biến
mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem theo được.
*
Nhiều bạn đọc cứ hỏi những gì tôi
viết có đúng thật sự xẩy ra như thế không. Câu hỏi thật khó. Vừa đúng lại vừa
không. “Văn nói láo, báo nói phét,” người đời hay nói thế. Viết văn là hư cấu,
tất nhiên, nhưng không phải hoàn toàn. Muốn hay không, vẫn phải có một liều
lượng sự thật nhất rồi từ đấy thêm thắt, khái quát thành câu chuyện còn thật
hơn cả ngoài đời có thật. Không thì ai chẳng viết được văn, nếu đã học ngữ pháp
và ít nhiều biết cách kể chuyện. Cứ tin tôi đi, nếu ai đó viết giả dối hoặc
phịa hoàn toàn, sớm muộn người ta cũng phát hiện ra. Không một kỹ thuật nghề
nghiệp nào che giấu được điều ấy. Ở những nét cơ bản, câu chuyện tôi kể trên
đây là có thật, xẩy ra với ông bạn già của tôi là giáo sư N., và trong chừng
mực nào đó, cả với tôi nữa. Vốn lạc quan và luôn tin vào sự tốt đẹp ở đời, tôi
thích và thường viết những câu chuyện có hậu.
Thực tế cuộc sống còn có những
người như cô gái bán hoa kia. Tôi nghĩ ít thôi nhưng vẫn có. Hay đúng hơn, tôi
mong muốn nó ít. Vì vậy tôi đang vắt óc tìm một phần kết đẹp hơn cho truyện
ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ai đó trong bạn đọc gợi
ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý kiến cũng lắc đầu (Tôi có thói quen chuyện gì
cũng hỏi vợ, cả chuyện viết lách). Bà ấy chỉ phán một câu, với cái giọng châm
biếm không ác ý hàng ngày: “Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi không hỏi giáo sư N., thậm
chí giấu không cho biết tôi viết truyện này. Ông vừa ở nhà tôi về xong. Như cú
“say nắng” năm ngoái, lần “say trăng’ này cũng làm ông buồn. Vấn đề chẳng ở
tiền bạc và công sức. Ông buồn vì cô kia bỏ đi không một lời nhắn lại. Ông bảo
tôi chắc cô làm thế vì hoàn cảnh bắt buộc, và rằng nếu nói ra, có thể ông sẽ
giúp được. Tính ông dễ buồn, nhưng buồn không lâu, và rồi cuối cùng bao giờ cái
bản chất tin người, thương người cũng trội lên lấn át tất cả. Tôi dám chắc nay
mai ông sẽ lại bị “say” lần nữa, và lần nữa ông lại hăm hở lao vào một việc nào
đó “tốt và vĩ đại” để giúp người khác. Thì ông đã nói, nếu bị lừa, đó đơn giản
cũng chỉ là phép tính ông tính sai. Sai thì tính lại. Cuộc đời là cả triệu phép
tính, tính sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn tôi? Tôi cũng thừa giấy mực
và nghị lực. Trót viết sai một câu thì viết lại. No problem, như người Anh
thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi tính, tha hồ tẩy xóa, tha
hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi. Dẫu không được như Lỗ Tấn,
tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo trở nào đó mà buồn. Đời vẫn
đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô ta cũng chỉ là con số sai
trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề của tôi, một câu văn chưa
chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là cả giáo sư N., tôi, và
tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.
Hà
Nội, 29. 5. 2003
NGÀY ĐẸP TRỜI
Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt
trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó
ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Ông lão đã gần tám mươi. Con chó
nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già
như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó
là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn
giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút.
Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài
sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi
măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã
thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì
hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con
cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó
xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc.
Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...
Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh
phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân
lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai
đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì
nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con
mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt
dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi
ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có
được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và
tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó,
thì vẫn hơn.
Vậy là cả hai, con người và con
chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào
một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng
um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi
cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm
biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc
bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.
- Cái giống chó nhà mày ấy mà,
Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay
lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi
còn ở chung, vợ chồng con ông đặt cho
cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc
già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì
chết, chết đói thật đấy.
Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa
chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.
- Còn tao thì mày biết, tao đã kể
bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày
không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung,
tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày
hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi
xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông
phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ
nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê ấy mà, khối người về già bị
con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với
nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng
được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ
tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ
như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp
bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu
cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái
thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn
uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha
khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ
chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng
thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy
nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống
chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ
khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi
chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo
người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao
cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?
Con chó già không đáp vì nó đang
bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm nó.
- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn
đấy nhá!
Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh
chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là
một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn
ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó
già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự.
Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó
cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng,
nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.
Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì
đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc
này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách
nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm.
Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi
dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống
họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không
hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều
giống nhau.
- Mày làm sao thế, Vện? - ông lão
mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy.
Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng
trước rét thế. May đêm ngủ có mày, chứ
không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với
tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?
Lúc này con chó già đã bị kéo ra
tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ
cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá.
Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói
cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.
Bình thường, dẫu già con Vện vẫn
có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không
cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết nên hắn mới có thể làm mọi
việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm
trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp.
Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ
chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước,
mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì
có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?
- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có
chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. - Vện!
Vện! Mày đi đâu đấy?
- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm
ngừng sửa xe, nói vọng sang.
- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là
đi đâu?
- Là tới các quán thịt chó ở trên
ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.
- Nhưng sao con Vện lại đến đấy
và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.
- Không phải nó tự đến, mà bị bọn
trộm bắt...
- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu
để người khác bắt trộm?
Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của
bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng “trời” rồi ngồi im. Mãi
lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;
- Sao bác biết, không ra giữ nó
lại?
Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:
- Tôi bận chữa xe.
Rồi vô cớ, cho rú máy inh ỏi.
*
Trên đời có những người làm điều
ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không
coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này
là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà
nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc.
Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ
làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với
bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ
việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật
Tân.
Hắn có biết việc này là xấu
không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm
vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở
quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết. Hắn
chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục “hành nghề”, hết con này đến con khác,
hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách
móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới.
Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho
rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày
xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.
Câu chó và câu cá thì có khác gì
nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống.
Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng.
Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy
Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ
loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật.
Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội
nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh
dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi
họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn “đi làm”. Các chủ quán Nhật Tân thản
nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món
hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng
xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do “bận chữa xe máy”. Anh con trai
ông lão mù thản nhiên nói: “Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải
khổ sở đến thế.” Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc
còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những
chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.
*
Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì
không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không
thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành,
là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh
phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời,
nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.
Cho đến tận lúc này tôi vẫn có
cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn
thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn
tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái
ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và “hồn nhiên”
nhất. Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và
quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động
này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi
không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve
chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi
thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và
ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...
Vậy là tôi đã làm hỏng truyện
ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời
ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng “truyện ma”, tôi có
thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có
thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được
viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi
đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.
PS.
Ông lão mù mới chết tuần trước.
Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói,
không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông
hàng xóm “bận chữa xe” tiễn cụ tới tận nghĩa trang.
Chỉ tiếc không có con Vện.
Hà
Nội, 8. 10. 2002
ANH DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN
Ông Sêkhốp có một truyện, ngắn
thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh Gầy". Câu chuyện đang viết
đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được một cái tên vừa ý, vậy tôi xin
bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng Cảm và anh Hèn".
Xin được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có
một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp,
dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây
với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, cái bây giờ được gọi
là "hiện tượng tiêu cực", và rất tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức
nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm nản mà thôi. Nhưng anh thì không,
cương quyết không. Anh đã ba mươi lăm tuổi, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc
công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phép
phát huy sở trường đó.
Hóa ra ở đời làm người tử tế và
dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm ấy cũng không nhỏ. Từ chiến
trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy khen và bằng dũng sĩ, anh được
người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù
hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng chính "người ta" ấy đã
khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh biết đấy mà
không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ còn là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao
người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh
không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và
cũng vì quá dũng cảm.
Làm ruộng là một sở trường nữa
của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo
toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để
phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những
việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không phải lúc nào chúng cũng liên
quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào "đấu tranh", theo kiểu
"đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ,
trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết.
Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị
coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy
vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Một hôm vợ anh lên cơn hen nặng,
phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xẩy ra, ít thì một, nhiều có
khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và biết phải làm gì.
Giống mọi lần, người ta cho vợ
anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5 mg. Ba ống
thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng
bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được
vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được và nếu không có gì
nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là
vậy.
Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh.
Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ
sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ,
họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán
viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi
qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang xuống giá.
Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ
bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt
ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ thục bất thành văn nào đó), vẫn
thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những người ý thức rõ quyền lực và tầm
quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này và luôn nhắc mình kiềm chế không
"đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện cùng những "thiên thần áo
trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả và từng cứu sống
nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu
cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm người không cho phép lấy oán trả
ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện và theo lệ chung, người ta
làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác anh nhất định không bỏ qua. Tất
nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp
cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện
cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh
toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh hỏi người thu tiền:
- Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại
thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh viện giá bốn mươi nghìn đồng
một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn đồng một ống? Tức là một trăm
nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
- Tôi không biết. - Người kia khó
chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
- Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh
hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
- Tôi đã bảo không biết mà. Cứu
được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo,
rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình, một cách mềm mỏng và
lịch sự.
- Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp,
hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ. - Anh biết thế sao không ra
hiệu thuốc mà mua để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Đã tiếc tiền sao còn
đưa vợ đến đây cấp cứu?
Anh thấy nóng mặt tức giận vì
thái độ hỗn xược của cô nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
- Nhưng chính chị chỉ cho tôi
sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin
hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức qui định hay các chị tự đặt ra,
thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
Thấy giọng anh có vẻ cứng rắn,
lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ
thoáng chút bối rối nhưng cố nói át:
- Thời buổi thị trường, mỗi nơi
một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so đọ một vài chục nghìn. Tiếc
đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
- Vậy là các người thông đồng với
nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi là "giữa cái sống và cái
chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những bệnh nhân nghèo, chủ yếu là
những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt từng tiếng. Anh đã không
còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn nhắc mình khi vào bệnh
viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
- Anh nói sao? Anh dám bảo chúng
tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
- Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng,
cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại rằng cô, chính cô là một con ăn
cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn cắp hết ngày này sang ngày
khác, nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn
công an để giải quyết như với những con ăn cắp chuyên nghiệp khác. Đi, bây giờ
cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
- Ối làng nước ơi, cứu tôi với! -
Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng mất dạy đang làm nhục tôi.
- Câm mồm! Nếu mày không phải đàn
bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm!
Thấy động, mọi người nhanh chóng
kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng
ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ điều họ đang ấm ức.
- Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng
ai dám nói gì.
- Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm.
- Đồ mất dạy, phải trị cho chúng
một trận.
- Trả tiền lại cho người ta,
không nuốt được đâu.
- Nhưng mà cái ông kia cũng quá
đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
- Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra
việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất vả thì người ta đã trả hai
mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính xem, một người chúng ăn
chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng cấp cứu bao nhiêu người,
chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
- Đánh bỏ mẹ nó đi!
Một thanh niên mặc áo trắng hùng
hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm
chặt cổ tay.
- Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây
rối à?
- Câm mồm. Nó thì tao không đánh,
chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói, và bóp mạnh một cái vào vai hắn
bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói thêm được lời
nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp.
Rồi anh kéo cô bác sĩ, lúc này
đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
- Chúng tôi là công an đây. Anh cần
gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại gần, vừa nói.
- Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến
thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Anh vắn tắt kể lại những gì đã
xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật
pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không? Cần nhiều đấy, không phải một
đâu.
Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ
không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh lại nhao nhao
tiếng đồng tình của nhiều người.
- Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ
bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì
đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh kể
cũng hơi quá...
- Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng
lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền của người
ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực. Chưa nói đến tính
cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông dân.
- Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết
nói với anh thế nào được nhỉ?
- Các anh là người đại diện và
bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào. - Anh Dũng Cảm hạ giọng. -
Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh
định giải quyết thế nào?
Một chốc sau họ, gồm anh Dũng
Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
Ông giám đốc là một người nghiêm
khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong ngành. Ông chăm chú nghe anh
Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu,
mặt ửng đỏ, một bên má dật dật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát. Cô
bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất và vẫn còn khóc.
- Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh
viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ
trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý
với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, vì nói gì thì nói,
đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống, hàng ngày, trắng trợn và đểu giả
như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các
nhân viên tôi.
Liền sau đó, ông cho người gọi
trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang tiền chênh lệch trả lại cho
người bị hại.
- Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật
nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
- Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm
nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
- Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội
đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui định của bộ.
- Nhưng đây là hành vi ăn cắp như
chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo tôi biết, thì phải truy cứu hình
sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
Đến lượt ông giáo sư lúng túng.
- Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả
thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại
không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh, thậm chí bênh vực
anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng
có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất
niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người đang làm việc ở đây. Xin anh
cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
Anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng
ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh
đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, sự tức giận cũng
không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì hẫng hụt trong
lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả
bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ
hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã
lấy oán trả ân không? Nếu con bé ăn cắp
kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia
đình nó? Càng nghĩ anh càng thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với
những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được
tin báo của ông giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia,
nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
Đấy, chuyện anh Dũng Cảm là như
thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện anh Hèn thì sao?"
*
Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi
bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh
ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm dũng cảm đáng khen
của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay "phịa" như người ta vẫn nói.
Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
Cái sự thật đó là: Cách đây không
lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên
phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá của họ là
hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống
với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi
suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục
im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại
dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng
nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi
muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng
trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ
mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy
nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô
nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy ra thường xuyên, trước
đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn,
và có cớ xác đáng để hèn.
Chẳng ai đem cái hèn của mình ra
khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế
mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người "hễ thấy bất
công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất nhiên, cũng từng lãnh đủ,
nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách
suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người có lúc" như các cụ nói.
Bây giờ tôi đã già, an phận với
sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi
tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ như kéo tôi dính chặt vào
chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả
thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu
tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là người
thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không chịu đầu hàng, chừng nào
còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến
được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện
tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn
thế thôi.
Vì không muốn biến truyện ngắn
của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên
bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi
vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các bạn thấy, tôi còn đủ dũng cảm
để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.
Hà
Nội, 10. 3. 2001
ÔNG GIÁO LẬP DỊ
Ông Nguyễn Xuân Đoàn thuộc loại
người vô tư và biết hài lòng với mình, với đời. Mà đời ông thì sống ở nước
ngoài nhiều hơn trong nước. Ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, đã qua chức vụ
trưởng một vụ ở bộ, hai nhiệm kỳ đại sứ ở Bắc Âu. Ông mới về hưu đầu năm nay,
đúng tuổi sáu mươi, còn khỏe mạnh và tràn trề hạnh phúc. Sáng chơi ten-nít,
chiều uống bia, tối đọc sách hoặc thậm chí làm thơ. Chắc chắn ông cũng hài lòng
với những bài thơ ông viết.
Một hôm có ông bạn già ở trường
ngoại ngữ đến nhờ ông Đoàn dạy hộ một lớp tiếng Anh nâng cao mà ông mở riêng đã
mấy năm nay, giờ vợ chồng ra nước ngoài sống với con cháu.
“Bỏ thì tiếc, - ông nhà giáo nói.
- Mà tôi thì chỉ có thể tin bác được thôi. Chẳng vất vả gì đâu. Mỗi ngày hai
tiếng từ sáu đến tám giờ tối. Mọi việc cô Mai sẽ lo. Cô ấy tốt và tháo vát lắm.
Bác chỉ dạy”.
Thấy bạn có ý lưỡng lự, ông nói
thêm:
“Tôi biết với bác tiền không quan
trọng, mặc dù phải nói rằng thu nhập lớp này cũng khá. Cái chính là bác sẽ được
thay đổi không khí, sẽ cảm thấy hài lòng vì mình còn giúp được ít nhiều cho lớp
trẻ”.
Một tuần sau ông Đoàn lên lớp,
chủ yếu vì cái “thay đổi không khí” và “giúp thế hệ trẻ” ấy.
Lớp là một giảng đường đại học
thuê bao cả năm. Khi đến, ông ngạc nhiên thấy học viên ngồi kín gần hết, dễ đến
cả trăm người. Điều này chứng tỏ bạn ông phải là người rất giỏi và uy tín. Bản
thân ông cũng giỏi, nói và viết tiếng Anh thuộc loại nhất nhì bộ. Cách thức
tiến hành buổi học thì đã được bạn hướng dẫn kỹ. Cả con số một trăm người học
kia cũng chẳng thành vấn đề, vì là lớp dịch không phải giao tiếp với từng
người, không cần nói to vì cô Mai đã bố trí sẵn chiếc máy phóng thanh nhỏ trên
bàn. Ông có thể đi lại thoải mái mà giọng vẫn vang to khắp phòng.
Buổi dạy đầu tiên diễn ra suôn
sẻ. Các buổi sau cũng thế. Dường như người học cũng thích ông. Họ chủ yếu là
sinh viên các năm cuối và cán bộ cơ quan có nhu cầu nâng cao ngoại ngữ. Bằng
chứng là sĩ số không giảm mà còn tăng thêm. Không chú ý mấy đến việc cô Mai
chăm chỉ thu học phí, kiểm tra thẻ, lo chuyện phấn bảng, ông đến lớp đúng giờ
rồi hết giờ ra về, trang nghiêm và đạo mạo đúng kiểu một ông giáo có tuổi và
giỏi nghề như ông cần có. Công việc mới mẻ này làm ông thích, có thể nói còn
cuốn hút.
Cuối tháng cô Mai tìm đến nhà
ông. Cô trạc ba lăm, hai con, nhân viên phòng quản trị của trường nơi ông đang
dạy. Người cô đẫy đà, phúc hậu, tính cẩn thận, tháo vát và có vẻ đáng tin cậy
như ông bạn giới thiệu. Cô rút ra tờ giấy chi chít tên người và các con số.
“Dạ, đây là tiền học phí của lớp
tháng vừa rồi, sau khi trừ các khoản”. Cô lễ phép nói. “Mười ba triệu năm trăm
mười nghìn đồng”.
“Nhiều thế cơ à?” Ông Đoàn ngạc
nhiên hỏi.
“Cũng bình thường thôi ạ. Vào các
tháng sau Tết và đầu năm học thường nhiều hơn”.
“Xưa nay vẫn thế?”
“Vâng ạ”.
“Lớp nào, thầy nào cũng thế?”
“Không. Trường này còn ba lớp
tiếng Anh nữa, dạy thực hành, giáo viên trẻ, ít người học nên ít hơn nhiều. Còn
các lớp luyện thi toán lý hóa thì có thể
nhiều hơn”.
Ông Đoàn ngồi im không nói gì.
“Thế cô được bao nhiêu?” Lúc sau
ông hỏi.
“Dạ, sáu trăm nghìn như mọi khi.
Trong giấy này em có ghi”. Cô Mai đáp rồi lễ phép chào ông ra về.
“Mười mấy triệu đồng một tháng.
Mỗi ngày hai giờ dạy. Nhiều quá”. Ông
Đoàn nghĩ. “Hóa ra bao năm nay cái ông Năm nhà giáo này kiếm cũng khá.”
Đúng là ông không quan tâm đến
khía cạnh kinh tế của việc dạy học. Dạy cho vui như ông vẫn nghĩ. Nhà ông khá
giả, có thể nói giàu. Chỉ còn hai ông bà già sống với nhau, lương hưu cao. Hai
đứa con đã trưởng thành, cũng giàu. Anh con cả hiện đang làm cho một liên doanh
ở Sài Gòn, mấy năm trước còn biết đem tiền tiết kiệm của ông mua mảnh đất, vừa
rồi sốt đất, đem bán lãi hơn một tỉ. Số tiền này ông bà đang gửi tiết kiệm,
riêng lãi cũng thừa sống, nên khoản tiền mười mấy triệu một tháng kia càng trở
nên nhiều, thậm chí quá nhiều. Ông là người như vậy, luôn suy nghĩ như vậy,
chân thành và trong sáng.
Hôm sau học xong, ông bảo cô Mai
ở lại, đề nghị cho ông biết rõ tình hình học sinh, học phí. Nghe xong, ông
nói:
“Cô xem có thể giảm học phí cho
mọi người được không?”
Cô Mai ngơ ngác, đờ mặt nhìn ông
hồi lâu:
“Dạ, em không thật hiểu...”
“Tôi nói giảm học phí. Tức là có
thể hạ học phí từ mức mỗi người một tháng một trăm nghìn đồng xuống năm mươi
hay bảy mươi nghìn chẳng hạn. Cô biết rõ nên giảm bao nhiêu. Thực sự tôi không
cần nhiều như vậy. Tôi chắc trong số người học ở đây nhiều người cũng khó khăn,
đặc biệt các em từ nông thôn. Cô hiểu rồi chứ?”
“Dạ hiểu”, cô Mai ấp úng. “Nhưng
em thấy không thể làm thế được ạ”.
“Vì sao?”
“Vì... không thể được. Xưa nay
người ta chỉ tăng chứ không giảm học phí...”
“Nhưng đây là lớp tư. Của tôi. Và
tôi muốn giảm!” Ông Đoàn hơi cao giọng. Là nhà ngoại giao, ít khi ông cao
giọng.
“Nhưng làm thế sẽ ảnh hưởng đến
các lớp tiếng Anh khác. Có thể cả những lớp không phải tiếng Anh. Mọi người sẽ
không hiểu, sẽ bàn tán, dị nghị, sẽ cho rằng thầy...”
“Tôi không cần biết người ta nghĩ
gì về tôi. Đây là việc riêng, và tôi quyết định từ nay cô chỉ thu năm mươi
nghìn đồng một tháng! Không bàn nữa. Cứ thế mà làm!”
Ông Đoàn thậm chí giật mạnh chiếc
cặp trên bàn rồi bước ra khỏi phòng.
Tội nghiệp cô Mai. Cô bị sốc thật
sự. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đã mười năm nay cô làm thêm
nghệ quản lý các lớp dạy thêm, học thêm này, cho nhiều thầy, nhiều cô, nhưng
chưa bao giờ cô gặp trường hợp nào tương tự. Ngoài đức tính quí báu là mẫn cán
và trung thực, cô còn là người dễ xúc động và hay lo. Cô hình dung chuyện gì sẽ
xẩy ra khi cô thông báo cái quyết định kỳ cục ấy. Người ta sẽ bảo lớp cô “phá
giá” để chơi xỏ nhau, bảo ông thầy này điên, định tỏ ra này nọ. Người học chắc
chắn sẽ lấy làm ngạc nhiên, đoán non đoán già không biết vì sao lớp bỗng dưng
giảm học phí. Mà nào có ai kêu đâu. Lớp dạy chất lượng, so với nhiều nơi khác
là còn rẻ, lại được bảo lưu, học bù thoải mái. Rồi họ sẽ quay sang nghi ngờ cả
những chuyện kỳ cục nhất, như phải chăng ở đây đang có điều gì khuất tất? Hay
thầy trót phạm tội lỗi nào đó nay lương tâm cắn dứt? Được giảm tiền cũng thích,
tất nhiên, nhưng ý nghĩ học với một người tội lỗi thì chẳng thích thú gì. Rất
có thể vì thế mà nhiều người sẽ bỏ học. Nhất định phải có chuyện gì đó. Nếu
không ai bỗng dưng từ chối tiền, nhất là những đồng tiền chính đáng? Ừ, mà sao
ông ấy làm thế nhỉ? Không thể nói vì giàu. Xưa nay càng giàu người ta càng muốn
có thêm tiền để giàu hơn. Vậy thì vì cái gì? Cô Mai chịu không sao hiểu nổi.
Hay thật sự có điều gì khuất tất? Hay biết đâu ông ta nói thế là nhắc khéo mình
tăng chứ không phải giảm học phí?
Với những băn khoăn như thế, cô
quyết định tạm thời cứ chờ một thời gian xem sao. Biết đâu đây chỉ là ý nghĩ
bốc đồng thoáng qua và chẳng bao lâu nữa ông ấy sẽ thay đổi.
Những ngày tiếp theo ông Đoàn
không đả động gì đến chuyện này, vẫn đều đều lên lớp, trang nghiêm và đạo mạo
như trước, không mảy may chú ý tới cô Mai và những việc cô làm trong lớp.
Cuối tháng, cô lại đến gặp ông.
“Hóa ra cô không làm như tôi yêu
cầu?” ông Đoàn hỏi khi cô đưa cho ông gói tiền với tờ giấy đủ các khoản diễn
giải và con số gần mười lăm triệu đồng.
“Dạ vâng. Em xin lỗi”, cô ấp úng.
“Em nghĩ có thể vì mới đến thầy chưa biết. Việc này không đơn giản như thầy nghĩ.
Vả lại...”
“Thôi được rồi’, ông Đoàn ngắt
lời không chút ngoại giao. “Nếu thế thì cứ mặc tôi.”
Đêm hôm ấy cô Mai lại mất ngủ. Cô
thấy tiếc những năm làm việc đều đều không sự cố với thầy Năm, và cô lo lắng
nghĩ tới việc ngày mai ông Đoàn sẽ nói “điều ấy” với cả lớp, một việc đáng lẽ
cô làm nhưng ông không để cô làm. Tức là mọi người sẽ nghĩ có sự không ổn giữa
ông và cô.
Nhưng cô ngạc nhiên khi hôm sau
và mấy ngày tiếp điều cô lo vẫn không xẩy ra. Cô không biết rằng ông Đoàn đã
đích thân ra phòng thuế quận xin nộp thuế thu nhập cá nhân. Ý tưởng mới mẻ và
độc đáo này đến với ông khá bất ngờ, khi buổi sáng đi chơi ten-nít về, ông ngẫu
nhiên nhìn thấy câu khẩu hiệu viết bằng sơn đỏ đã phai màu trên một bức tường
vôi tróc loang lỗ: “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của công dân” Đúng! Mình
là công dân, công dân gương mẫu, có thu nhập cao, tại sao không tự nguyện khai
báo nộp thuế?
Ở phòng thuế, anh nhân viên trẻ
sau khi nghe khách trình bày ý định của mình, thấy có sự lạ, bèn lễ phép mời
ông sang phòng bên “gặp lãnh đạo”. “Lãnh đạo” là một ông già gầy đét đã ngồi
ghế trưởng phòng hơn hai mươi năm nay, có tên là Chẩm, vừa nghe vừa chăm chú
nhìn ông bằng đôi mắt nhà nghề đầy cảnh giác của một cán bộ ngành thuế dày dạn
kính nghiệm.
Ông Chẩm hoan nghênh ý thức công
dân cao của ông, mời ông uống nước, rồi thong thả nói:
“Vậy là bác đã về hưu, và chỉ dạy
thêm tiếng Anh ‘cho vui’ như bác nói?”
“Vâng, đúng thế”.
“Và đây là lớp dạy tư chứ không
phải trung tâm ngoại ngữ hành nghề có giấy phép và đăng ký với nhà chức trách?”
“Vâng”.
Ông Chẩm trầm ngâm suy nghĩ một
chốc rồi thở dài:
“Rất tiếc tạm thời chưa có luật
nào qui định những người như bác phải nộp thuế thu nhập từ các nguồn tương tự”.
“Nghĩa là cả khi muốn, tôi cũng
không được nộp?”
“Cái này để tôi hỏi ý kiến lãnh đạo.
Xin bác cho địa chỉ, sẽ có người đến báo bác sau”.
Khi khách ra khỏi phòng, ông Chẩm
thấy như hẫng hụt điều gì, thậm chí có cảm giác bị xúc phạm. Xưa nay người ta
chỉ đến gặp ông để kỳ kèo xin miễn giảm, hoặc tìm cách gian lận, thế mà bây giờ
bỗng xuất hiện cái ông kỳ cục này.
“Theo tớ đây là trường hợp đáng
ngờ,” ông quay sang bảo anh nhân viên nọ. “Nhất định phải có cái gì đấy mờ ám.
Cậu nghĩ thế nào?”
“Em cũng nghĩ đúng như thủ trưởng
ạ.” Anh kia hồ hởi đáp. “Có thể ông ta muốn tỏ ra mình lương thiện ở một việc
nhỏ để che dấu một hành vi bất chính khác lớn hơn, như kiểu bọn tội phạm tự
nguyện đầu thú tội ăn cắp vặt để trốn tội giết người ấy mà”.
“Vậy thì giao cho cậu điều tra vụ
này. Phải làm thật khéo và thật kỹ. Đừng quên tìm hiểu cả bệnh án của ông ta.
Biết đâu lại chẳng một lão già tâm thần làm mất thời gian cơ quan nhà nước.”
Một tuần sau ông Đoàn gọi điện
thoại đến phòng thuế. Đích thân ông Chẩm trưởng phòng nhấc máy.
“Thú thật với bác là chúng tôi
vẫn chưa tìm được mục nào trong các luật thuế hiện hành để có thể áp dụng cho
bác nộp thuế”, ông nói, thân mật hơn một chút so với giọng điệu vẫn dùng hàng
ngày. “Cái khó của trường hợp bác là ở chỗ bác đã nghỉ hưu, chỉ dạy tư tiếng
Anh, thứ ngôn ngữ đang được khuyến khích, lại chỉ một lớp và chẳng thuê mướn
ai. Nếu bác là một trung tâm đăng ký hẳn hoi thì lại là chuyện khác. Ừ mà sao
bác không thành lập một trung tâm như thế để hợp pháp hóa việc nộp thuế nhỉ?..
Vâng... vâng... Bác nói đúng. Tôi biết bác chỉ dạy cho vui chứ không nhằm mục
đích kinh doanh. Thế mới khó cho chúng tôi. Dẫu sao thì người tự giác như bác
hiện giờ có thể nói không nhiều. Vâng... Nhất định thế nào chúng tôi cũng tìm
được cách giúp bác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình. Xin bác
yên tâm chờ thêm một thời gian nữa. Không lâu đâu. Chào bác”.
“Không lâu đâu” là ý ông Chẩm
muốn nói tới kết quả điều tra của anh nhân viên trẻ. Suốt cả tuần vừa rồi ông
chẳng hề “báo cáo lãnh đạo”, cũng chẳng xem lại luật thuế như ông nói. Cú điện
thoại vừa rồi càng khẳng định thêm ý kiến của ông, rằng người này nhất định
phải có vấn đề. Nếu không đã chẳng hăng hái xin đóng thuế như vậy. Gần trọn đời
trong nghề, ông tin chắc điều ấy. Nhưng vấn đề gì? Cậu nhân viên vẫn chưa tìm
ra. Có lẽ phải nhờ đến công an. Ừ, phải báo công an biết và yêu cầu họ điều tra
giúp. Ông Chẩm nghĩ, thầm hài lòng với chính mình.
Trong khi đó, ông Đoàn, với bản
tính hồn nhiên trong sáng và lạc quan vốn có, vẫn tiếp tục cách sống ông yêu
thích - sáng ten-nit, chiều uống bia, tối đi dạy rồi về đọc sách báo, thỉnh
thoảng làm thơ. Thực ra ông chẳng cay cú lắm với cái việc tự nguyện làm giảm
tiền của mình mà không thành. Đơn giản ông thấy “dạy chơi” mà được chừng ấy là
quá nhiều, nên đề nghị hạ học phí hoặc xin đóng thuế. Dẫu vậy ông cũng chút ít
ngạc nhiên khi người ta không cho ông làm cái việc tốt đẹp đó.
Tháng sau, vẫn không thấy động
tĩnh gì, một hôm sau buổi học, ông tuyên bố trước cả lớp từ nay sẽ giảm một nửa
học phí. Cho tất cả mọi người. Rồi ông thong thả xách cặp bước ra khỏi phòng,
để cô Mai ở lại một mình giải thích thêm với đám học viên đang ngạc nhiên bàn
tán.
Mấy ngày tiếp theo mọi người nhìn
ông với con mắt tò mò, nghi kỵ, nhưng biết tính thầy nghiêm, không thích nói
chuyện lạc đề nên không ai dám hỏi. Còn cô Mai thì vốn rụt rè ít nói, bây giờ
hầu như chẳng bao giờ mở miệng. Không chủ ý, ông Đoàn vẫn nghe lõm bõm nhiều
câu bình luận sau lưng. Rồi ông nhận được mấy lá thư nặc danh với những lời lẽ
khiếm nhã đầy bóng gió. Kệ. Ông không quan tâm. Ông vẫn sống theo cách xưa nay
từng sống. Ông hài lòng với ý nghĩ đã phần nào giúp được ai đó vấn đề tài chính
mà ông chắc họ đang gặp khó khăn. Thậm chí ông ăn thấy ngon miệng hơn.
*
Mấy
lời nói thêm.
Tháng tiếp theo số người học
không tăng như ông Đoàn tưởng mà còn giảm. Giảm rõ rệt. Cô Mai khốn khổ thực sự
vì bị mấy ông phòng thuế và công an căn vặn về ông thầy “lập dị”. Người học
cũng chất vấn cô không ít, đến mức cuối cùng cô xin thôi lớp ông, sang làm giáo
vụ cho một trung tâm ngoại ngữ ở trường bên, dù lương ít hơn.
Thất vọng vì không phát hiện thấy
điều gì mờ ám liên quan đến nhân thân ông Đoàn, cuối cùng nhà chức trách đi đến
kết luận rằng việc mở lớp dạy tư thuê phòng của trường là vi phạm qui định quản
lý giáo dục và đào tạo, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của khu vực. Vậy là lớp
dịch tiếng Anh của thầy Đoàn bị đóng cửa. Cùng vạ lây theo nó là ba lớp tiếng
Anh thực hành và mười lớp luyện thi đại học. Tất nhiên không ai trong số các
nạn nhân cảm ơn ông điều này.
Còn ông thì sao? Ông vẫn thế, như
xưa. Vẫn hàng ngày làm những việc ông ưa thích - thể thao, bia, sách báo và làm
thơ. Bây giờ ông có thời gian nên làm nhiều hơn. Tuy nhiên, công bằng mà nói,
sự trong sáng của ông dường như cũng bị gợn đục chút ít. Bằng chứng là một lần
uống bia với nhau, giữa chừng ông trầm ngâm bảo tôi, cũng một người về hưu kiếm
thêm bằng nghề dạy học, rằng nếu không có lý do thúc bách thì dẫu sao cũng
không nên giảm tiền học phí hoặc tự nguyện xin nộp thuế. Tiếc là tâm lý xã hội
tạm thời chưa chấp nhận một điều xa xỉ như vậy.
Hà
Nội, 7. 2. 2003
CHỈ LÀ MỤ ĐÀN BÀ
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là
hoàn toàn có thật. Nó xẩy ra đã lâu, từ cái thời còn đánh nhau với Mỹ cách đây
những mấy chục năm. Một câu chuyện buồn và chứa đựng nhiều bí ẩn. Cả thời ấy
lẫn bây giờ không ai, trừ những người trực tiếp liên quan, biết được sự thật về
nó. Còn việc vì sao tôi biết thì lại là chuyện khác, thiết tưởng chẳng cần nói
ra.
*
Không ai biết chính xác lão từ
đâu tới và tên là gì, chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm
Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để
kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở
vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu
bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật cũng
chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị
lão, Mù hay Chột thì cũng vậy, không quan trọng.
Khác những người hát xẩm xưa nay
ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước da lão đen trũi, có
thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão
chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ “lão” ở đây rõ ràng không
vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.
Công bằng mà nói, từ ngày đến đây
lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó
chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị
người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão
chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ
cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này,
tức là việc lão không chịu “lạy ông lạy bà cho con xin...” cũng làm không ít
người ghét lão.
Lão Xẩm sống trong chiếc miếu
hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó,
một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ
dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng
vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng
phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân
chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là “nhà Lão Xẩm”.
Tối nay, như những buổi tối mùa
hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía
sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa
ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì
không cần, vì biết chẳng có ai nhìn. “Càng mát!” lão nghĩ, nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.
Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn
thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự
thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực
kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính nhờ
những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô
gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông
khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.
Việc này xẩy ra hầu như vào tất
cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm. “Bọn
này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng!” Khi nghe các cô cười bảo
nhau “Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ”, lão giận dữ
cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm: “Đây
không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác. Đứa nào giỏi, muốn
thử cứ lên đây". Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh
nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả
những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Để mặc
chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng
vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống,
dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca
dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh
ách dưới bụng.
Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh
tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói
hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ.
Tiếng chân người. Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc
ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực
ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại
người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình như tiếng bước chân đang
tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần
nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc
gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.
Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay
điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu lên nhưng cũng liền lúc
ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía
trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao
người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả
nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một rồi sau hai, tự do mân
mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn
nữa.
Như trong cơn mơ, lão ngây ngất
mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay
tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng
cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này và đã làm điều ấy không gặp chút
chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các
cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng
nói gì vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.
Xong, người kia vội vùng dậy bỏ
đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi
việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế
nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không
mặc quần và còn ươn ướt...
Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi
vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu
hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng
đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp.
Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng
cho lão.
Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại
vác nhị xuống chợ như mọi ngày.
Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại
đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của
lão ve vuốt khắp người và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình
tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi
sau đó người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.
Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ,
nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho
lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi
biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.
Việc này lặp đi lặp lại trong bốn
tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi,
vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối
cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời
gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy
để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu
nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.
Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn
mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí
còn hơn. Điều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ
theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy.
Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ
người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa, nhưng lão hy vọng và
vẫn chờ. Đêm nào lão cũng chờ...
Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi
ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên
đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Đoạn sông
ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng
bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy “cái ấy” của
mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa
thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy
hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác với mọi lần, lần này lão
phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút
bỏ. Đang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân
người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng
kêu thất thanh:
- Đừng! Chị Tâm! Đừng, đừng nhảy
xuống sông!
Đó là tiếng một cô gái, giọng còn
trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc
bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng
lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.
- Sao chị làm thế? Em van chị.
Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi
chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...
Có tiếng người khóc tấm tức.
- Em nói em biết, biết hết mọi
chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng
vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.
- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng
nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị
xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương
chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.
- Vì lão mù, không biết chị là
ai.
- Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại có tiếng khóc. Lần này to và
lâu hơn.
- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì
nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một
cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại
chửa hoang? Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao?
Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có
tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ,
chẳng điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà
trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà
không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng
lại được...
- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà.
Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng
xấu...
- Đúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ
không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em
cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi
anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là
chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con
quỉ tội lỗi trong người chị...
- Không. Không bao giờ! Chị phải
về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai
em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát
khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà
với em. Không lôi thôi gì nữa!
Im lặng một chốc, rồi có tiếng
dằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi.
Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng
dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai ngày sau, khi đang hát ngoài
chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên,
cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi
xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không
biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa.
NGƯỜI RÁCH BÓNG
Dạo ấy tôi trẻ và còn hăng lắm.
Chưa vấp váp, chưa khổ đau, cứ ngẩng cao
đầu bước đi giữa phố. Những bước đi tự tin không biết sợ và thường được nhấn
thêm bằng đế đôi giày da bóng lộn.
Một hôm tôi chững chạc bước như
thế trong công viên thành phố, còn thích thú di di gót giày sau mỗi bước đi.
Lúc ấy là xế chiều một ngày đầu đông nắng đẹp. Công viên ít người, gió từ hồ
Bẩy Mẫu thổi nhẹ, các luống hoa mới được tưới tươi rói, không tỏa mùi hương mà
mùi đất hăng nồng. Vâng, tôi bước đi như thế với cảm giác lâng lâng, yêu đời và
yêu mình.
“Ối!” bỗng ai đó kêu lên đau đớn.
Tôi giật mình đứng lại. Trên ghế
đá ngay bên cạnh có người đang ôm mặt nhăn nhó. Đó là một ông già khoảng sáu
mươi lăm, bảy mươi tuổi, tóc bạc gần hết, đeo kính mắt tròn gọng kim loại, mặc
bộ vét màu lông chuột đã cũ nhưng khá tươm tất, tuy hơi rộng so với thân hình
gầy yếu của ông. Chiếc cà vạt rất ngay ngắn trên cổ nhưng hơi nhàu. Chiếc mũ
phớt bằng vải dạ bóp lõm phía trước đã sờn bóng ở các mép gờ. Chiếc ba-toong
tựa bên ghế, hơi ngắn vì dùng nhiều đã mòn, tay cầm cong cong khảm bạc. Tóm
lại, vẻ ngoài của ông toát ra cái gì đấy cổ kính một cách lạc lõng, một trí
thức cũ không muốn hoặc không thể hòa nhập với cuộc sống mới.
Tôi nhìn đôi mắt sáng ươn ướt
chắc vì đau của ông già:
“Thưa bác, có chuyện gì thế ạ?”
Ông già ngước nhìn lên. Một khuôn
mặt nhân hậu đầy nếp nhăn và những nốt đồi mồi.
“Anh đang dẫm lên bóng tôi, anh
bạn trẻ ạ. - Ông nói bằng tiếng Pháp. - Xin làm ơn bước sang bên”.
“Dẫm lên bóng? - Tôi ngạc nhiên
thầm nghĩ. - Dẫm lên bóng mà lại đau, đến mức phải ôm mặt?” Chỉ lúc ấy tôi mới
để ý thấy chiếc bóng ông dưới chân mình. Mặt trời đã ngả về tây, không bị mây
che nên sáng rực, chiếc bóng vì vậy khá dài, dù ông ngồi trên ghế. Tôi dẫm đúng
vào vai chiếc bóng ấy.
“Vâng, xin làm ơn đứng xê ra hộ.
Nhanh lên”.
Tôi vội lùi lại. Thật kỳ lạ.
Chiếc bóng của ông bị kéo rê theo gót giày tôi như thể nó dính vào đấy. Trong
khi đó ông già cúi xuống, nhẹ nhàng làm động tác luồn hai tay nâng chiếc bóng
lên, kéo về phía mình. Rồi ông nhỏm dậy bảo tôi giơ chân để ông gỡ một góc
chiếc bóng khỏi đế giày. Thì ra nó bị vướng một chiếc đinh. Thời đó, để gót
giày không bị mòn vẹt, người ta thường đóng một lớp cao su bên dưới. Lớp cao su
của tôi bị sứt một góc, để lộ mấy chiếc đinh. Chắc vì thế nó mới làm ông già
đau.
“Anh xem này, nó bị thủng mấy
chỗ!” - ông già nói rồi giơ ngón tay chỉ, nhưng tôi không thấy gì.
Tôi nhìn ông nâng niu đỡ chiếc
bóng trên tay, ngạc nhiên đến mức không thốt nên lời. Trông nó như tấm vải lụa
thật mịn, mỏng và nhẹ, màu xanh thẫm chứ không hoàn toàn đen như thoạt tưởng.
“Lần sau xin anh nhẹ chân và cẩn
thận nhìn xuống lúc đi đường”. Ông già khẽ nói, vẫn bằng tiếng Pháp, thứ tiếng
Pháp của những năm bốn mươi thế kỷ trước.
Ông thận trọng trải chiếc bóng
xuống đất vào vị trí cũ.
Không phải không thoáng lo sợ,
tôi ấp úng xin lỗi rồi vội bỏ đi, vẫn chưa hết bàng hoàng với những gì mới xẩy
ra.
Nửa tháng sau tôi lại đi dạo
trong công viên, lại thấy ông già ấy ngồi sưởi nắng trên chiếc ghế đá quen
thuộc. Dưới chân ông là chiếc bóng đang lặng lẽ nằm yên. Tôi bước nhẹ chân, cố
không dẫm lên nó.
“Cảm ơn”, ông già nói khi nhận ra
tôi, mỉm cưòi yếu ớt.
Cảm ơn vì tôi đã tránh không dẫm
lên chiếc bóng! Thấy ông thân thiện, tôi nhìn xuống nửa ghế trống ra ý muốn
ngồi cùng. Ông gật đầu. Thực ra tôi chẳng hào hứng gì khi tiếp xúc với một
người kỳ dị như ông, nhưng sự tò mò không cho phép cưỡng lại.
Trông ông có vẻ ốm yếu hơn trước,
như người đang bệnh, lưng hơi còng, đôi mắt sáng có phần đờ đẫn.
“Không ngờ cú dẫm của anh hôm nọ
làm tôi đau đến thế. - Ông nói. - Nhưng tôi không trách vì anh chỉ vô tình.
Người trẻ thường hay vô tình”.
“Cháu xin lỗi, - tôi đáp. -
Thế... Thế cái bóng của bác lành lại chưa ạ?”
“Chưa. Tồi tệ hơn, vết thương còn
lây sang chỗ khác. Nên tôi mới thế này”.
Tôi do dự một chốc rồi rụt rè hỏi
điều cứ làm tôi băn khoăn mãi:
“Thú thật với bác, cháu không
hiểu vì sao ai đó có thể thấy đau khi bóng mình bị người khác dẫm lên”.
“Đơn giản vì anh bạn còn trẻ. Khi
người ta già, từng trải, nếm hết mọi cái vui, cái buồn của đời, người ta sẽ trở
nên nhạy cảm hơn với nỗi đau của mình và của người khác. Vì trẻ, anh chưa thấy
đau, thậm chí chưa bao giờ nghĩ nghiêm túc rằng cái bóng là một bộ phận không
thể tách rời của anh. Tôi dám chắc nhiều khi anh chẳng chút băn khoăn để bóng
anh rơi xuống chỗ bẩn?”
Tôi gật đầu một cách thành thật.
*
Lần sau vào công viên, từ xa tôi
thấy ông già đang ôm ngực, cúi người trên ghế đá. Chiếc bóng dưới chân không
còn dài, màu cũng trở nên nhợt nhạt hơn. Nghĩa là bệnh ông nặng hơn. Vết rách
trên chiếc bóng chắc rộng lắm, có thể đã lan khắp nơi, hoặc sưng tấy, mưng mủ
mà tôi không thấy. Tôi ái ngại nhìn ông,
lòng bứt rứt và không dám lại gần.
Lần sau nữa thì chẳng thấy ông
đâu. Có lẽ ông đã chết. Chết vì vết thương tôi vô ý gây nên.
Từ ấy đến nay đã nhiều năm trôi
qua, nhiều đến mức bản thân tôi cũng trở thành một ông già, thỉnh thoảng cũng
ra công viên ngồi sưởi nắng. Tôi vẫn thường nghĩ tới ông già có chiếc bóng rách
ấy với mặc cảm day dứt của người có lỗi.
Thỉnh thoảng cũng có người vô ý
dẫm lên bóng tôi, nhưng tôi chưa bao giờ thấy đau. Việc này, thú thật, có làm
tôi hơi buồn. Chẳng cắt nghĩa nổi vì sao, nhưng cứ buồn. Tôi không là người mê
tín, không tin vào phép lạ và các chuyện ma quỉ. Đến bây giờ tôi vẫn không hoàn
toàn tin chuyện đã xẩy ra với ông già kia mà tôi có phần can dự. Nhưng cũng
không hoàn toàn phủ nhận.
Chí ít thì sau cái chết của ông,
bao giờ tôi cũng nhắc mình cẩn thận không để bóng rơi vào chỗ bẩn, không dẫm
lên bóng người khác và cũng không để người khác dẫm lên bóng mình.
Hà
Nội, 2003
QUẢ BOM CHƯA NỔ
Sau lễ tân gia đúng ba ngày thì
ông Cần được biết rằng dưới ngôi nhà ông mới xây có quả bom chưa nổ. Mà bom to,
loại nghìn cân Anh.
Người
cho ông biết cái tin khủng khiếp này chính là bạn ông, đại tá pháo binh về hưu,
thời chiến tranh chỉ huy một khẩu đội pháo phòng không ở ngay trên nền đất nhà
ông.
“Tôi lấy làm lạ sao khi người ta
làm móng, nó không phát nổ”, ông đại tá về hưu nói.
Ông Cần cười mếu máo:
“Bác đùa. Chắc gì có mà nổ...”
“Không ai đùa những chuyện thế
này. Tôi còn lưu được cuốn sổ ghi chép trực ngày ấy. Bác muốn, tôi cho xem. Đó
là ngày 17 tháng Tám năm 1967, lúc bốn giờ ba mươi phút chiều. Hai chiếc F-105
từ biển bay vào. Một chiếc chúi xuống ném hai quả bom nhưng chỉ nghe một tiếng
nổ. Tôi còn ghi thêm vào sổ: “Nhớ báo trên cho công binh xuống phá”. May hôm
trước khẩu đội chúng tôi kịp dọn đi nơi khác, chỉ chừa lại trận địa giả. Khi
báo yên, tôi đến thì thấy có hố bom rất lớn và một vết lõm hun hút cách đấy
không xa, bằng chứng của một quả bom khác chưa nổ”.
“Cứ cho là như vậy, nhưng chắc gì
nó nằm ngay dưới nhà tôi?”
“Tôi cẩn thận đánh dấu chỗ bom
rơi, với mục đích báo người ta tháo gỡ như đã nói. Hướng đông cách cây si trên
đường hai trăm mét. Cách giếng làng một trăm năm mươi mét về hướng tây. Căn ra,
không đúng nhà bác là gì? Có thể không ngay dưới nhà mà ngoài sân. Nhưng với
quả bom nửa tấn thì điều ấy chẳng có gì khác nhau”.
“Có thể người ta đã tháo ngòi nổ
nó rồi?”
“Tiếc là chưa, vì sau đó chúng
tôi được lệnh chuyển ngay đi nơi khác. Tôi không có thời gian báo cấp trên việc
này. Rồi dân quân lấp hố bom, lấp luôn cả quả chưa nổ kia”.
“Có thể nó sẽ không bao giờ nổ,
một khi đã nằm im chừng ấy năm dưới đất.”
“Vâng. Với những quả bom loại này
thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Có thể suốt đời nằm im. Cũng có thể năm phút
nữa nó sẽ nổ. Cái nguy hiểm và khó chịu là ở chỗ ấy”.
Hai người im lặng hồi lâu. Cuối
cùng chủ nhà lên tiếng:
“Thế thì tôi phải làm gì bây
giờ?”
Ông đại tá về hưu không đáp, có
vẻ bứt rứt vì phải báo bạn một tin chẳng mấy dễ chịu.
Ông Cần quả lúng túng không biết
phải làm gì.
Đây là ngôi nhà mơ ước cả đời của
ông và gia đình. Ba tầng, mái giả ngói, thiết kế kiểu biệt thự Pháp, trên diện
tích đất hơn trăm mét vuông bên rìa thị xã và nhìn ra hồ. Hồ nước đục, nông
choèn, nhưng vẫn là hồ nên những ngôi nhà xung quanh trở nên có giá. Biết làm
sao bây giờ? Đập đi, thuê công binh đến phá bom rồi xây lại? Không ổn. Cứ tiếp
tục sống như không có gì xẩy ra? Cũng không ổn. Ông vốn yếu bóng vía, chắc gì
không phát điên lên với ý nghĩ đang ngủ trên một quả bom chưa nổ?
Mấy đêm liền ông thức trắng, ban
ngày vật vờ như bóng ma. Người ông gầy xọp, mặt mũi hốc hác. Vợ con hốt hoảng,
căn vặn mãi nhưng ông không chịu nói. Xưa nay khối người xây xong nhà là lăn
đùng ra chết!
Một hôm ông bắn tin bán nhà, bất
chấp sự phản đối kịch liệt của bà vợ. “Bà muốn tôi ở đây mà chết à?” Nghe thế,
vợ ông bán tín bán nghi, nhưng thôi không ngăn cản nữa, mặc dù không hiểu vì
sao chồng bà có thể chết khi được sống trong một ngôi nhà đẹp.
Ngôi nhà được bán một cách nhanh
chóng vì giá rẻ. Ông chọn mua một nhà khác nhỏ và xấu hơn, rất xa chỗ cũ. Ông
vội vã cho cả nhà dọn đi ngay trong ngày nhận đủ tiền. Đêm hôm ấy lần đầu tiên
ông ngủ ngon giấc, tuy không phải không có những giấc mơ toát mồ hôi lạnh.
Mọi việc dần dần rồi đâu cũng vào
đấy. Ông hết lo lắng và khỏe mạnh trở lại. Chuyện làm ăn, con cái đều tốt. Hơn
thế, khu nhà mới của ông đất bỗng tăng giá vùn vụt vì theo qui hoạch sẽ có một
đường phố lớn chạy qua. Thậm chí có ngày ông còn quên không nghĩ đến ngôi nhà
cùng quả bom chưa nổ mà ông đã khôn khéo đẩy sang cho người khác.
Tuy nhiên, chưa đầy hai tháng
sau, người mua nhà ông tìm đến nhờ viết lại giấy để ông ta bán nó cho người
khác. Chả là họ mới chỉ mua bán trao tay chứ chưa làm thủ tục pháp lý.
“Vì sao bác lại bán nó?” Ông Cần
giả bộ thản nhiên hỏi.
“Tôi muốn dọn về đâu đấy gần Cầu
Giẽ cho tiện việc đi làm”, ông kia đáp, cũng cố lấy vẻ tự nhiên, nhưng nét mặt
lo lắng và thái độ lúng túng cho thấy ông ta đang nói dối.
“Vậy là họ đã biết và đang tìm
cách ủn mối nguy hiểm ấy sang người khác. Như mình”. Ông Cần nghĩ bụng, thầm lo
bị vạch trần sự thật. Nhưng không, nhận được cái muốn có, ông kia vội vàng xin
phép ra về. Thậm chí còn nói rất tiếc phải bán ngôi nhà đẹp trên thế đất tốt
như vậy.
“Vâng, tôi cũng rất tiếc khi bán
nó cho ông”, ông Cần lơ đãng đáp.
Làm sao ông ta biết được nhỉ?
Nhất định không thể do ông bạn đại tá cho biết. Vậy chỉ có thể ai đó trong số
láng giềng. Điều này khó xẩy ra, vì bản thân láng giềng không dễ mà biết được.
Nhưng rõ ràng đã có người biết, và cố ý báo cho người mua nhà ông. Để làm gì?
Dụng ý tốt hay xấu?
Mấy hôm sau ông Cần phóng xe tới
đó, chọn quán nước đối diện ở khoảng cách khá xa và bắt đầu lặng lẽ quan sát.
Chủ mới là một đôi vợ chồng còn
trẻ với hai đứa con thật kháu khỉnh. Có vẻ giàu. Có vẻ trí thức. Cũng có cả vẻ
hài lòng với ngôi nhà mới mua. Chắc giá rẻ.
Bỗng ông Cần nhắm mắt, thầm hình
dung quả bom phát nổ, xé vụn cả ngôi nhà,
cả đôi vợ chồng trí thức, hai đứa trẻ thiên thần cùng cái vẻ hài lòng và
hạnh phúc ông vừa chứng kiến.
Từ đêm hôm đó ông lại mất ngủ,
với nỗi sợ mơ hồ luôn ám ảnh. Ông có cảm giác như chính ông đang nằm trên quả
bom chưa nổ ấy.
Không hiểu cái ông vừa đẩy được
nó cho anh chàng trí thức này có mất ngủ như mình không nhỉ?
Mấy tháng sau, ông Cần không chút
ngạc nhiên khi thấy anh trí thức kia đến nhờ ông giúp làm giấy bán nhà. Cứ như
ông đang chờ vậy. Cả anh này cũng có vẻ vội vã, khuất tất như ông lần trước.
Ông Cần không hỏi lý do bán nhà vì đã biết trước câu trả lời. “Anh này coi bộ
tử tế. Chắc sẽ không thảnh thơi lắm đâu. Tử tế mà hóa ra không tử tê. Như
mình”.
*
Đến nay, đúng hai năm mười tháng
sau khi ngôi nhà mơ ước ấy được xây xong, nó đã qua tay bốn người, và cả bốn
người đã đến nhờ ông Cần chữa lại giấy tờ để sang tên cho người khác. Chắc chắn
sẽ còn nhiều người nữa tìm đến ông. Ai cũng ra bộ luyến tiếc ngôi nhà, rằng bán
nó vì cực chẳng đã, vì những lý do rất xác đáng. Lý do ấy ông biết. Ai cũng biết
nhưng không muốn, không dám nói.
Quả bom vẫn chưa nổ. Có thể nó sẽ
không bao giờ nổ. Thậm chí có thể không hề có một quả bom như thế. Nhưng vì an
toàn, người ta cứ đùn đẩy nó cho người khác. Toàn những người tử tế đùn đẩy cho
nhau. Cũng vì tử tế mà sau đó họ trằn trọc hết đêm này đến đêm khác, mặt mũi
phờ phạc, lương tâm cắn dứt đến đổ bệnh. Họ khôn khéo thoát được quả bom nằm
tít đâu đó sâu dưới lòng đất mà chưa chắc đã có thật, để tạo ra thêm, hiện giờ
là bốn, nhưng sau này sẽ là bốn mươi, bốn trăm quả bom khác trong đầu mình,
hoàn toàn có thật, chưa nổ nhưng chắc chắn sẽ nổ.
Những quả bom hẹn giờ mà họ, chỉ
mình họ nghe được tiếng đồng hồ đếm ngược đang lạnh lùng kêu tích tắc.
Hà
Nội, 2003
LÀNG QUÊ YÊN Ả
Gần về đến làng thì có giông. Cơn
giông bất chợt đầu hè ngắn và ấm, thoảng mùi hăng con đường đất bị hun nóng lâu
ngày, mùi cỏ cháy và cả mùi gì đấy lẫn lộn, rất nông thôn và cũng rất đặc biệt.
Lác đác một vài tiếng sấm. Không
thấy chớp. Có thể có chớp nhưng vì mặt trời chiếu sáng nên không thấy. Những
đụn mây vần vo bay từ biển lên rồi dừng lại trên đỉnh Ba Chạc. Còn phía Tây
trời vẫn quang, nắng vàng rực rỡ.
Ông Bùi vào trú trong ngôi đình
bên hồ sen ngay đầu làng. Nó vốn là ngôi đình cổ nổi tiếng thiêng và đẹp nhưng
bị phá gần hết cuối những năm sáu mươi, không do máy bay Mỹ mà do chính dân
làng, theo lệnh của phòng văn hóa huyện khi rộ lên chủ trương “xây dựng đời
sống mới”. Nghe nói đã có kế hoạch trùng tu lại toàn bộ, nhưng tạm thời nó chỉ
còn lại khung nhà trống huếch, mái thủng ngói, đôi chỗ bằng chiếc mâm con. Thời
đó dù đã xa làng, ông ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh phá hủy ấy. Tổ chức lễ
hẳn hoi, có cờ trống và những bài phát biểu hùng hồn. Lễ phá đền chùa.
Bây giờ ông Bùi không nghĩ đến
chuyện đáng buồn đó. Ông đang vui vì lâu ngày được về thăm quê. Niềm vui ấy bắt
đầu từ khi bước xuống ô tô trên con đường nhựa phẳng lì cách làng không xa, khi
ông vừa thong thả đi bộ vừa lâng lâng ngắm đồng lúa xanh rờn, mấy đứa trẻ chăn
trâu đang chơi khăng trên Gò Chùa hệt như ông cách đây bốn, năm chục năm. Cảnh
làng quê yên ả làm ông cảm động. Lũy tre bao bọc quanh làng vẫn còn, bất chấp
những thay đổi to lớn của thời đại. Ông thích thú nghĩ bụng chỉ chốc nữa thôi
khi vào bên trong, ông sẽ được lũy tre làng ông che chở, không chỉ khỏi những
cơn gió mạnh từ biển mà cả những cơn gió độc của đời.
Cả cơn giông bất chợt này cũng
làm ông vui. Thậm chí ông còn nấn ná một lúc bên ngoài cho mưa rơi lên mặt và
làm ướt chút áo quần. Một niềm vui ngây thơ kiểu trẻ con, khiến ông bất giác
mỉm cười.
Chợt có mấy cô gái làng không
hiểu từ đâu chạy ùa vào cùng trú mưa bên ông, mang theo cả tiếng nói cười vui
vẻ và dường như cả cái lạnh. Những cô gái hồn nhiên, xinh đẹp ông không biết
tên nhưng chắc biết tên bố mẹ hoặc ông bà họ. Ông nhìn các cô, nhìn xuống ao
sen, và nghĩ:
Trời mưa lên mặt hồ sen
Những giọt to như
đồng tiền.
Mấy cô đầu trần
ướt hết,
Vừa chạy vừa run
vì rét.
Lại còn trêu nhau,
còn cười,
Áo ướt, dính chặt
vào người...
Các cô đội nón nhưng vẫn bị ướt,
làm những chiếc áo mỏng dính chặt vào người. Hết mưa, ông còn hồi lâu nhìn theo
những eo lưng thon thả dính áo ướt ấy. Không hiểu sao ông thở dài như nuối tiếc
điều gì.
Trong làng, ông Bùi không còn ai
thân thích. Ông ở nhờ nhà một người quen trước cùng học trường làng, nay làm
trưởng thôn. Suốt buổi chiều hôm ấy ông khoan khoái tận hưởng sự tĩnh mịch của
miền quê yên ả. Đang dịp làm cỏ đợt hai cho lúa, mọi người ra đồng hết. Trẻ con
hoặc bận chăn trâu, hoặc đang ở trường, thành ra ông đi một vòng quanh làng chỉ
gặp mấy người tuổi ông nhưng do cuộc sống vất vả trông già hơn nhiều. Nói
chuyện với họ thực ra chẳng mấy thú vị, có người phải quát vào tai mới nghe nổi
vì nghễnh ngãng, nhưng ông thích, vì nó gợi nhớ nhiều kỷ niệm, có cả kỷ niệm
buồn nhưng bây giờ ông thấy bình thường. Cũng có thể do ông đang trong trạng
thái lâng lâng của ngày đầu rời thành phố về làng, thấy cảnh làng vẫn điền
viên, thơ mộng như xưa dù cuộc sống đã thay đổi hẳn, theo hướng tốt lên, tất
nhiên.
Nhà ông trưởng thôn nhìn ra một
con kênh nhỏ được đào để dẫn nước tưới cho cả huyện Xuân Phú phía trên. Chủ nhà
đi họp trên xã. Chỉ cô con út ôn thi đại học ở nhà. Hiện cô đang giặt quần áo
dưới kênh. Cô ăn mặc, búi tóc kiểu nhà quê, và cũng kiểu nhà quê toát lên ở cô
sự khỏe mạnh, dung dị đến cảm động. Chốc chốc cô ngừng tay, đỏm dáng soi bóng
mình dưới nước. Ngồi hút thuốc trong sân, ông bâng quơ nhìn cô, rồi tự lúc nào
không biết mấy câu thơ vu vơ xuất hiện trong đầu. Ông là nhà thơ, còn khá nổi
tiếng một thời, thường viết thơ triết lý, nhưng về quê lần này ông toàn nghĩ
những chuyện đời thường dung dị.
Dưới ao, cô gái đang yêu
Giặt ít, ngắm mình
thì nhiều.
Tôi nghịch ném hòn
đá nhỏ,
Cô gái giật mình
xấu hổ.
Còn tôi, đứng nấp
trong nhà,
Nghĩ mình cũng
chưa thật già.
Ông mỉm cười với chính mình. Bài
thơ đến thật hồn nhiên, hợp người hợp cảnh, dù không ném đá trêu cô gái nhưng
ông hình dung đã làm điều đó. Ông cũng thấy như trẻ ra hàng chục tuổi.
Cũng trong tâm trạng phấn khích
như thế, buổi tối ăn cơm xong, bất chấp sự phản đối của chủ nhà, ông Bùi vác
cần câu ra Đầm Vạc. Ông chỉ muốn được sống lại những ngày còn trần truồng tắm ở
đó, những ngày vô tư và có lẽ hạnh phúc nhất của đời ông. Buổi chiều đi ngang,
thấy mấy bụi cây rậm rạp bên đầm, ông đã nghĩ tới chuyện tối đến đi câu.
Đêm trăng sáng, ngoài đồng vắng
còn sáng hơn. Cơn giông rửa sạch bầu trời, không khí ẩm ướt, ánh trăng trở nên
hữu hình, sền sệt như sữa loãng. Đầm Vạc khá rộng, nước trong, bao đời nay là
chỗ tắm công cộng của dân làng. Có thể vì thế mà người ta không biến nó thành
hồ nuôi cá. Thanh niên làng bên nhiều khi hứng chí vượt cả hai cánh đồng rộng
đến đây tắm nhờ. Mặt hồ không hiểu sao có màu đen sẫm chứ không ánh bạc như ông
tưởng, và chi chít hàng nghìn, vạn ngôi sao.
Không muốn ai nhìn thấy, ông Bùi
ngồi lên chạc ba thân cây nhãn mọc nghiêng trên mặt đầm, thong thả buông câu.
Ông tận hưởng sự tĩnh lặng của làng quê yên ả, hơn nữa, lại làng quê của chính
ông. Ông không nghĩ gì, hoặc cố không nghĩ gì. Người ông như mềm ra, có lúc
thiu thiu buồn ngủ. Ông thấy mình hạnh phúc có được một làng quê như thế để về
thăm, là điều thật tiếc, ông rất ít làm trong mấy chục năm qua. Biết đâu, không
ra thành phố, không thành nhà thơ, mà ở lại làng làm anh nông dân bình thường,
cuộc đời ông sẽ tốt hơn, thanh thản hơn?..
Cơn buồn ngủ và những ý nghĩ tản
mạn bị ngắt quãng bởi tiếng líu ríu của mấy cô gái đang chạy từ làng ra. Bốn
cô. Đến mấy bậc đá dẫn xuống đầm cách chỗ ông ngồi chỉ dăm mét, các cô nhất
loạt cởi hết áo quần rồi nhảy ùm xuống tắm, không kịp để ông lên tiếng nhắc
đang có người. Ông chỉ còn biết mỉm cười lắc đầu và ngồi im không dám động đậy.
Lại một bài thơ nữa tự đến.
Mấy cô thôn nữ hồn nhiên
Đêm khuya tắm dưới
ao sen,
Rúc rích nói cười,
không thấy
Có tôi ngồi câu
cạnh đấy,
Làm tôi lặng người
quay đầu,
Cá cắn mà không
giật câu...
Vậy là tình cờ, ông Bùi được
chứng kiến một bầy tiên đang tắm truồng ngay trước mặt mình. Không dám nhìn
nhưng ông biết các cô đẹp, với những đường nết trẻ trung, khêu gợi. Các nàng
tiên tắm, cười nói, té nước trêu nhau ồn ĩ như bầy trẻ.
Bỗng một nàng tư lự nói:
“Chúng mày ạ, cái Thơm nó rủ tao
lên thành phố bán trinh. Những hai triệu cơ đấy. Nó bảo tìm được mối rồi...”
“Khiếp! - một cô khác lên tiếng.
- Mày nói gì sợ thế!”
“Còn hơn cứ thế này sớm muộn bọn
mình cũng bị mấy thằng mất dạy trong làng cưỡng hiếp. Hai triệu chứ ít à? Đằng
nào chẳng mất. Có đứa nào đi với bọn tao không?”
“Mày nói có lý. Nhưng để tao nghĩ
đã”, một cô đáp.
“Đúng là trai làng mình thật láo.
Thanh niên làng khác đến bị chúng rình ném đá vỡ đầu, hoặc công khai kéo nhau
đến đánh. Tuần trước cái Lụa con bà Thảo bị hiếp đấy, chắc chúng mày đã biết.
Đi chợ huyện về thì bị hiếp ở Đồng Chùa vì lúc ấy đã tối, lại một mình. Nó
biết, tao biết, nhiều người nữa biết nhưng không ai muốn làm ầm lên. Để ế chồng
à? Mà chúng thì được thể chắc sẽ còn tiếp tục làm tới. Sợ lắm. Tao chỉ mong mau
mau thoát khỏi cái làng này!”
“Đúng đấy, phải lo mà chuồn nhanh
thôi, chúng mày ạ”.
Rồi các nàng tiên lại quay sang
đùa nghịch, cười nói vui vẻ như không hề mới bàn nhau cái chuyện bán trinh
khủng khiếp kia. Có lẽ các nàng đã quá quen với những chuyện như thế.
Ông Mùi lặng người, bây giờ không
chỉ vì sự hiện diện của ông trước sự lõa lồ của các cô gái. Ông thấy bàng
hoàng, chua xót như có cái gì đang vỡ ra bên trong.
Sáng hôm sau ông lên đường sớm,
quay lại cái thành phố ồn ào ông hăm hở muốn thoát khỏi ngày hôm trước.
Ngồi trên ô tô, ông thở dài ngoái
lại nhìn lũy tre um tùm bao quanh làng ông. Lũy tre, những thửa ruộng lúa sắp
lên đòng, những con trâu hiền lành gặm cỏ bên đường đã tạo cho nó cái vẻ điền
viên thơ mộng. Một làng quê yên ả. Làng quê của ông...
Hà Nội, 2003
GIAN LẬN VỚI TRỜI
Người đàn bà ôm bụng chửa, nhăn
nhó.
“Gì thế?”
Chồng bà ta, một gã mặt quắt, da
đen, vẻ lạnh lùng gian xảo ngồi bên, cau có hỏi.
“Nó đạp. Đau lắm”.
“Thì tôi bảo đi bệnh viện, sao
còn cãi. Tại nó muốn ra đấy”.
“Không, ngược lại. Nó không muốn
ra nên nhắc tôi cách ấy. Phải chín tháng mười ngày, các cụ nói. Mà nó mới tám
tháng tròn. Thiếu những một tháng mười ngày nữa...”
“Chờ đến lúc ấy thì nói làm đếch
gì. Tôi bảo hàng trăm lần rồi mà cô không chịu hiểu. Sáu mươi năm mới có một
lần. Mà chỉ cho con trai thôi. Nếu ra đời lúc này nó sẽ thành đạt, thành quan,
thành thủ tướng, thành tỉ phú. Muộn là hỏng. Hỏng hết. Thành thằng ăn mày,
thằng mất dạy. Nó ở trong bụng, biết gì. Vớ vẩn. Nó không chịu ra thì mổ bụng
lôi ra! Đủ rồi, không lôi thôi thêm nữa. Đi!”
Gã thô lỗ túm tay vợ kéo ra khỏi
phòng. Bên ngoài một chiếc ô tô loại xịn đang chờ. Người lái xe riêng vội vàng
mở cửa xe cho ông chủ, bà chủ.
“Chỉ sợ con nó chưa phát triển
hết, ngộ nhỡ thiếu cái gì đó thì sao. Chưa nói đẻ non thế có sống được
không...”
Người đàn bà lí nhí nói, nước mắt
lưng tròng. Nhưng lúc ấy xe đã nổ máy, gã chồng không nghe, mà có nghe chắc
cũng cộc lốc đáp:
“Kệ!”
Thế là hắn bắt vợ đến bệnh viện,
không phải để đẻ mà “mổ bụng lôi con ra” như hắn nói.
Bà chủ là người ít nói, nhút
nhát, luôn trong tâm trạng lo sợ mơ hồ, đối với chồng chỉ trên người ở và dưới
người tình. Trong nhà bà chẳng có chút quyền hành nào, cả quyền giữ tiền hộ
chồng. Đơn giản chỉ là cái bóng để làm vì. Một cái máy đẻ như gã chồng vẫn đùa
bảo bạn bè. Bà chẳng bao giờ dám trái ý hắn trừ lần này, khi bị lôi đi mổ bụng
lấy cái thai mới tám tháng.
Trong xe, gã chồng ngồi im không
nói gì, nhưng đang suy nghĩ lung lắm, và không phải không thoáng chút lo sợ.
Hắn có cảm giác như đang dính vào một vụ rất lớn. Một cú liều quan trọng. Đời
hắn đầy những cú liều quan trọng. Chính nhờ dám liều hắn mới được như ngày nay
- một người giàu, cực giàu nhờ buôn đồ cổ, nhờ gian lận và ăn cắp. Mới bốn lăm
tuổi hắn đã có năm con, hai thằng con trai đều nghiện ngập chích choác, coi như
bỏ đi. Ba đứa con gái bình thường, nhưng là con gái cũng coi như bỏ đi nốt. Mà
hắn thì đang cần một thằng con ra con. Năm Quí Mùi này nghe nói cực tốt, hơn
nửa thế kỷ mới có một lần. Thế là ngay từ đầu năm hắn bắt tay thực hiện kế
hoạch năm nay có con bằng được, bỏ bồ bịch tối tối về ngủ với vợ. Một cuộc chạy
đua lặng lẽ mà dữ dội. Hắn ra đường thấy toàn bà chửa mà thằng con hắn mong đợi
vẫn chẳng thấy đâu. Cuối cùng thì vợ hắn cũng có bầu, siêu âm thấy con trai,
nhưng bị muộn mất mấy tháng. Tính ra bình thường thì nó sẽ sinh đầu tháng Giêng
năm sau, thế mới chết. Hắn quyết định chơi canh bạc này, tức là phải có con
đúng lúc hắn muốn, bất chấp tự nhiên, bất chấp qui luật. Hắn phải chọn hoặc
thêm một thằng nghiện nữa, hoặc sẽ có một quí tử xứng đáng thừa kế gia tài hắn.
Nhưng để thành quí tử thì nó phải sinh ngay bây giờ. Chậm hơn là vứt! Vứt!
Trong đời, hắn từng nhiều lần
gian lận và ăn cắp. Toàn những vố lớn. Vậy mà lần này hắn thấy lo lo, dù chỉ
gian lận thời gian, bắt đứa bé ra đời sớm hơn một tháng mười ngày. Xưa nay hắn
mánh khóe với đời, với người, nay với trời, với tự nhiên, liệu có đi quá xa
không? Liệu con hắn có “thiếu cái gì đấy” như mụ vợ gở mồm vừa nói không? Hay
chí ít cũng thành ngớ ngẩn? Không, không thể thế được. Suốt đời hắn luôn liều và
luôn thắng, vậy lần này không thể thất bại. Cứ mổ bụng lôi nó ra!
Bên ngoài trời bỗng đổ mưa. Con
đường đất chẳng mấy chốc trở nên nhão nhoét, té bùn bẩn lên chiếc Mercedes mầu
đen bóng lộn. Qua tấm kính mờ nước, những bụi cây thấp ngả màu đen xỉn, lạnh
lẽo và có hình thù quái dị. Chốc chốc chớp lóe, tiếp đến là những tiếng sấm
giận dữ. Một điều hiếm vào dịp này trong năm. Nỗi sợ mơ hồ cứ ngọ ngoạy không
để hắn yên, dường như mỗi lúc một lớn thêm.
Đường vắng. Người đàn bà mặt tái
nhợt đầy tuyệt vọng, thỉnh thoảng lại ôm bụng nhăn nhó. Nếu can đảm, bà đã kêu
cứu, nhưng vì nhu nhược, bà chỉ biết ngồi im. Mà có kêu cũng chẳng ai nghe.
Tiếng đạp chân phản đối của đứa bé trong bụng lại càng khó được nghe hơn.
Chỉ còn một hy vọng là các bác sĩ
sẽ từ chối không làm điều bất nhân, trái tự nhiên này, nhưng bà không biết
thằng chồng đã đút tiền mua họ từ trước. Mọi âm mưu ăn cắp hoặc gian lận, cả
gian lận với trời, đều luôn có kẻ tòng phạm.
Tội nghiệp đứa bé. Thằng bố ăn
cắp của trời mà hóa ra lại ăn cắp của chính con hắn. Những một tháng mười ngày
trong vẻn vẹn chín tháng mười ngày được yên ổn nằm trong bụng mẹ.
Trời mưa nặng hạt hơn. Người đàn
bà khốn khổ đã không còn rên rỉ, nhăn nhó, hai mắt nhắm nghiền, có thể do khuất
phục số phận hoặc ngất đi. Phía trước đã nhìn thấy bệnh viện, một khối đen ảm
đạm đáng sợ như một lò mổ, nơi có những tên đồ tể đang đợi...
*
Hắn đã có được đứa con như mong
muốn. Con trai. Để đúng năm đẹp, ngày đẹp, giờ đẹp. Không chết yểu và cũng
không “thiếu cái gì” như mụ vợ ngu ngốc của hắn lo sợ. Còn thừa. Thừa một cái
đuôi nhỏ và lớp lông dày màu vàng trên da con hắn.
Chín tháng mười ngày trong bào
thai, con người trải qua toàn bộ lịch sử phát triển sự sống trên trái đất, từ
sinh vật đơn giản nhất rồi đến loài nhuyễn thế, loài cá, loài bò sát, sau thành
loài linh trưởng, nôm na là khỉ, giai đoạn cuối cùng trước khi phát triển thành
người. Vì bị vạch bụng mẹ lôi ra sớm, nên con hắn chưa kịp rụng đuôi và rụng
lông. Chỉ duy nhất một khiếm khuyết ấy, chứ mọi cái khác đều ổn. Thằng con khỉ
của hắn mạnh khỏe, mặt hiện rõ vẻ quí tướng và rất giống hắn.
Dẫu không toại nguyện hoàn toàn
nhưng hắn cũng mừng. Tháng sau đưa vào bệnh viện, cắt đuôi, cạo lông là xong.
Lo gì!
Hà
Nội, 2003
GIỌT NẮNG BÊN THỀM
Xe vừa vượt qua đèo thì chết máy.
Cậu lái xe bước xuống, hý hoáy một lúc rồi nói:
“Có vẻ hỏng nặng, thủ trưởng ạ.
Phải mất vài giờ mới chữa xong”.
“Có chắc chữa được không?”
“Chữa được. Em biết bệnh này rồi.
Có điều hơi lâu. Khoảng cây số nữa là đến thị trấn Xuân Yên. Thủ trưởng chịu
khó đi bộ tới đấy, nghỉ ngơi, ăn uống chờ em”.
Ông im lặng vẻ do dự.
“Thôi được. Ở lại đây cũng chẳng
ích gì. Tớ tới đấy trước vậy”.
Lúc ấy đang giữa trưa nhưng may
trời không nóng lắm vì hình như sắp có giông. Dịp này miền trung du hay có
giông, chóng đến và cũng chóng tan. Mây đen ùn ùn xuất hiện từ phía chân trời
sau ngọn đèo bây giờ đã ngả màu xanh
thẫm. Những đám mây thấp, bù xù bay nhanh theo gió. Tuy nhiên, rất cao phía
trên, bầu trời vẫn sáng, và qua các khe hở nắng vẫn chiếu xuống. Nghĩa là có
thể mưa mà cũng có thể không. Cậu lái xe sẽ không bị ướt. Ông hít thật sâu làn không khí mát lạnh rồi bước
tiếp theo con đường nhỏ rải nhựa nứt loang lỗ và vắng người.
Quang cảnh hai bên thật buồn.
Những ngọn đồi trọc không cây xanh liên tục gối vào nhau, thưa thớt vài đám cỏ
úa và chằng chịt những rãnh nước xói trơ đất đỏ. Phóng tầm mắt thật xa mới thấy
lác đác vài ngôi nhà mái ngói đen xỉn. Không thấy những con bò quen thuộc cùng
lũ trẻ chăn chúng. Lâu lắm ông mới có dịp thoát ra khỏi thành phố để nhởn nhơ
ngắm thiên nhiên, lại không may gặp cảnh ảm đạm thế này.
Ông là nhân vật quan trọng của
một bộ cũng rất quan trọng. Chiều nay có cuộc họp làm việc với lãnh đạo tỉnh sở
tại, kiểu này có lẽ không kịp. Tất nhiên người ta sẽ chờ, hoặc hoãn sang hôm
sau, nhưng việc giữa đường hỏng xe và ông phải cuốc bộ cả cây số thì quả làm
ông khó chịu. Có thể vì thế mà ông thấy vùng này tiêu điều? Tiêu điều đến mức
không gợi được chút cảm hứng nào trong tâm hồn thi sĩ bẩm sinh của ông. Vâng,
ông vốn trước là nhà thơ, hội viên Hội Nhà văn Trung ương hẳn hoi, thậm chí
từng nổi tiếng một thời với nhiều bài in trên báo. Rồi sau không hiểu sao ông
chuyên tâm chăm lo đường quan chức. Đến nay ông được đùa gọi là người làm quan
cao nhất trong giới thơ và ngược lại, nhà thơ có chức vụ cao nhất trong giới
quan.
Do không quen đi bộ nên khi tới
được thị trấn Xuân Yên đôi chân ông mỏi dừ, áo ướt đẫm mồ hôi. Ông bước vào cái
quán đầu tiên ông cho là tử tế và thích hợp. Đó là ngôi nhà hai tầng mới xây
lợp tôn xanh có bụi hoa giấy đỏ rực phía trước. Ông ngồi xuống chiếc ghế đá bên
cạnh, cởi một lúc hai cúc áo sơ mi cho mát. Ông biết chỉ chốc nữa sẽ có người
ra hỏi ông muốn ăn gì, uống gì. Quán nhỏ nhưng khá sạch sẽ với năm chiếc bàn
lúc ấy không có ai ngồi. Trên bàn ngoài cùng thậm chí có chiếc cốc thủy tinh
với mấy bông hồng còn tươi. Trước cửa có tấm bảng mi-ca khung nhôm in to hai
chữ Đặc Sản. Chẳng biết ở đây bán loại đặc sản gì.
Bất chợt ông nhớ mình từng tới
thị trấn Xuân Yên này. Hơn thế còn ở đây ba tháng thời sơ tán chiến tranh. Tất
nhiên bây giờ nó khác nhiều, đến mức không nhận ra nổi, trừ mấy ngọn núi xa xa
phía đông và chắc cả dòng suối nhỏ đâu đó sau những ngôi nhà tạo nên con phố
duy nhất của thị trấn. Ngoài ra ông không nhớ gì, mà thực sự cũng chẳng có gì
để nhớ.
Từ trong nhà bước ra là một phụ
nữ trạc năm mươi tuổi, dáng mảnh dẻ và còn giữ được những đường nét xinh đẹp,
thanh tú thời trẻ. Cách ăn mặc, điệu bộ cho thấy bà thuộc loại người có học và
lịch sự. Ông theo bà vào ngồi xuống chiếc bàn có lọ hoa. Khoảng mười lăm phút
sau bà bê ra chiếc mâm với những thứ ông yêu cầu, kèm theo chai rượu mơ ông yêu
thích. Chắc bà là chủ quán nhưng do ít khách nên tự mình làm mọi việc.
Ông thoáng ngạc nhiên khi thấy bà
ngồi xuống chiếc bàn cách đó không xa, vừa nhặt rau, vừa chốc chốc ngước nhìn
về phía khách. Những cái nhìn có gì đó khác thường.
Ăn xong, và cũng uống cạn gần nửa
chai rượu mơ pha đá, ông thấy người phấn chấn hẳn lên. Bên ngoài trời đã quang,
nghĩa là cơn giông không đến. Bây giờ chỉ mong cậu lái xe xong việc sớm để đi
tiếp, may còn kịp họp.
“Thị trấn Xuân Yên bây giờ đổi
khác nhiều quá bà nhỉ?” ông lên tiếng, giọng to và vui vẻ hơn thường ngày.
“Vâng”. Bà chủ quán đáp. “Từ bấy
đến nay đã ba mươi lăm năm rồi còn gì”.
“Từ bấy đến nay nghĩa là thế
nào?” ông ngạc nhiên hỏi.
“Tức là từ ngày ông sơ tán về đây
năm 1972 tránh máy bay Mỹ rải thảm Hà Nội. Ông quên rồi à, ông Minh?”
Lần đầu tiên họ nhìn thẳng vào
nhau. Nhìn lâu.
“Bà biết tên tôi?”
“Vâng, lúc ấy tôi là giáo viên
trường cấp một thị trấn. Ông và mấy người của báo ông ở nhà bên cạnh, gần đường
rẽ xuống suối cách đây hai trăm mét. Bây giờ ngôi nhà ấy người ta phá đi rồi.
Cả ngôi trường chúng tôi cũng không còn như trước. Mọi cái đều thay đổi. Tôi
thành bà chủ cái quán này. Còn ông là người như hôm nay. Chẳng dám trách ông
không nhớ vì chắc ông luôn bận nhiều việc nhà nước quan trọng. Thế mà có thời
ông đã yêu tôi đấy, ông Minh ạ. Tôi và ông yêu nhau. Say đắm nữa là khác. Rồi
ông bỏ rơi tôi về Hà Nội...”
Bà cúi đầu, mắt chớp chớp, tuy
giọng nói vẫn nhỏ nhẹ, bình thản.
Không tự cho mình có trí nhớ tốt,
ông thử nhớ mà mãi vẫn không nhớ nổi đã yêu ai đó ở cái thị trấn hẻo lánh này.
Yêu say đắm lại càng không. Nên ông chỉ biết ngồi yên, bối rối nhìn bà. Nhưng
đúng tên ông là Minh, đúng ông và mấy người nữa từng sơ tán về đây ba tháng
cuối năm 1972, ở cạnh một trường học không rõ cấp một hay cấp hai, nơi có nhiều
cô giáo trẻ mà ông và các bạn thường gặp. Lạ thật. Bà ta nhầm? Hay bịa chuyện
yêu đương có mục đích gì? Tuy nhiên, ông không cảm thấy có gì giả dối, khuất
tất ở người đàn bà nhỏ bé, đáng yêu này. Chắc ngày trước bà phải xinh đẹp lắm.
“Thời ấy ông thường làm thơ. Thơ
ông hay lắm”. Bà khẽ nói rồi bất chợt thở dài. “Vì thế mà tôi đem lòng yêu ông
ngay. Ông có nhớ bài thơ đầu tiên ông tặng tôi không? Người con gái nào chẳng
xiêu lòng khi được viết tặng những bài thơ như thế. Bài thơ về hoàng hôn, về
những giọt nắng bên thềm nào đó, mặc dù lúc ấy ông và tôi ngồi trong nhà vào
buổi trưa sau giờ dạy như thường lệ. Cũng có thể ông viết về chiều hôm trước
khi rủ tôi cùng đi dạo trên đồi. Trên đồi chứ không phải bên thềm. Nhưng thôi,
điều ấy không quan trọng. Cái chính là ông yêu tôi và đã viết nó để tặng tôi.
Tôi đọc lại ông nghe nhé?
Hoàng hôn. Giọt nắng bên thềm,
Anh nhặt cho vào tay em.
Giọt nắng lung linh như ngọc,
Em định cài lên mái tóc.
Nhưng Đêm bay đến, và Đêm
Mang đi giọt nắng của em.
Lúc ấy trời sắp tối, sương bắt
đầu rơi, tôi trùm khăn che đầu nên tất nhiên không có giọt nắng nào, mà nếu có
cũng không thể cài lên tóc. Nhưng đúng là một bài thơ hay. Con gái tỉnh lẻ
chúng tôi vốn dễ xúc động, dễ yêu vì được nịnh bằng thơ...”
Bất chợt bà ngừng lời, như để ông
có thời gian bới tìm trong trí nhớ những kỷ niệm cũ bị lãng quên.
Đúng là thơ của ông. Thời ấy ông
viết một loạt những bài thơ ngắn, chỉ sáu câu mỗi bài và không có đầu đề. Bài
thơ này thì ông nhớ, nhưng ông không nhớ đã từng đi dạo hay không trên đồi với
một trong những cô giáo trường bên, và từng viết nó để tặng người ấy. Những bài
thơ lãng mạn, pha chút ủy mị, sáo rỗng mãi gần đây ông mới cho in thành một
tuyển tập lớn năm trăm trang, với số bản rất ít như mọi tập thơ khác. Ông không
nghĩ người đàn bà luống tuổi ở một vùng trung du heo hút có thể biết tới nó để
mua, để đọc và thuộc một vài bài trong đó. Vậy là ông đã viết tặng bà mà không
nhớ? Nhưng làm sao người ta có thể không nhớ một mối tình với những chi tiết
đáng nhớ như thế? Trong đời ông, cả thời trẻ, đâu phải có quá nhiều mối tình.
“Kể cũng lạ”, cuối cùng ông lên
tiếng với giọng của người có lỗi. “Đúng là thơ tôi, nhưng thực tình tôi không
nhớ có lần cùng đi dạo với bà trên đồi...”
“Nhiều lần chứ không phải một”,
bà xen ngang.
“Vâng, có thể. Dẫu sao tôi cũng
đã có tuổi, trí nhớ không còn như xưa. Hay bà đọc nó trong tập thơ gần đây nhất
của tôi?”
“Không. Rất tiếc tôi chưa có được
tập thơ nào của ông, tuy thỉnh thoảng vẫn thấy ông trên ti vi. Hôm ấy ông đọc
tôi nghe và tôi nhớ đến tận bây giờ. Một lần nữa, chắc ông cũng quên rồi, cùng
nhau ngồi bên bờ suối cho đến lúc trên trời xuất hiện những ngôi sao đầu tiên,
ông bỗng cầm tay tôi âu yếm nói:
Ước gì xâu được sao đêm
Thành vòng đeo lên cổ em,
Và những giấc mơ đẹp nhất
Anh sẽ trải hồng dưới đất
Để em bước lên... ước gì
Em đừng vỗ cánh bay đi...
Thật buồn cười. Có ai định bay đi
đâu mà phải sợ. Tôi đang yêu và muốn ở bên ông mãi mãi. Tất nhiên đó chỉ là một
bài thơ nữa ông mới nghĩ trong đầu, về tôi và dành riêng cho tôi vì lúc đó hình
như ông cũng yêu tôi. Ông nhiều lần nói với tôi như thế. Yêu chân thành và bồng
bột như tôi yêu ông vậy. Chắc ông chỉ nhớ thơ chứ không nhớ đã cùng tôi ngồi
bên bờ suối, trên tảng đá lớn cạnh lối mòn đi xuống, nơi bọn con gái chúng tôi
và các ông thường đến tắm và lấy nước. Bây giờ con suối và tảng đá ấy vẫn còn,
nếu muốn ông có thể ra xem lại, nhưng phải vòng qua Bưu điện thị trấn mới tới
được, vì người ta đã xây nhà, bịt mất lối đi cũ...”
“Vâng, quả thật tôi không nhớ gì
cả. Bài thơ đã được in thành sách...”
“Còn tôi thì luôn giữ nó trong
tim. Sống với nó và nhờ nó mà sống”, bà nhẹ nhàng cắt ngang.
“Tôi nhớ thỉnh thoảng có ra suối
với các cô giáo, nhưng không nhớ có lần nào với bà không”, ông định nói, nhưng
lại thôi.
Bà đứng dậy đi vào phía trong,
lát sau quay ra với tờ giấy đã ố vàng.
“Đây là cái ông dúi vào tay tôi
khi tôi vừa bước ra khỏi cổng trường đúng hai tuần trước khi ông về Hà Nội. Một
bài thơ, và cũng là lời hẹn gặp”.
Ông đỡ lấy tờ giấy. Đúng nét chữ
của ông, được viết trên loại giấy sổ tay khổ nhỏ có kẻ hàng bằng mực tím bây
giờ đã ngả màu.
Hãy đến cùng anh đêm đêm.
Chắc không ai nhìn thấy em
Khi em men theo lối nhỏ
Của giấc mơ đầy hoa đỏ.
Hãy ở với anh thật lâu.
Anh không làm gì em đâu.
“Theo lời hẹn, tôi đã đến và ở
lại với ông thật lâu. Mãi đến gần sáng mới về. Không phải trong nhà ông mà trên
đồi. Nhưng ông đã không giữ lời hứa “không làm gì em đâu”. Tôi không cưỡng lại
được tình cảm của mình. Tôi yêu ông, tin ông và không nghĩ chỉ mấy ngày sau ông
bỏ rơi tôi. Tuy nhiên tôi chẳng oán trách ông điều ấy. Không người đàn bà nào
có thể oán trách người đàn ông đã tặng mình những “giọt nắng bên thềm” và những
ngôi sao đẹp đẽ được xâu thành vòng đeo lên cổ. Vì chúng, cũng không ai có thể
quên người đàn ông ấy để yêu người khác...”
Ông cảm thấy nghẹt thở, cay cay ở
mắt. Vậy là chính ông đã tặng bà bài thơ ấy. Tức là mọi chuyện có thật, chỉ do
ông không nhớ? Và bà đã yêu, đã chờ đợi ông suốt chừng ấy năm và “không yêu
người khác”? Có thể bà đã có con, con ông? Ông rất muốn hỏi để biết những điều
ấy mà không dám, không nói nên lời.
Đang lúc lúng túng không biết cư
xử thế nào thì bỗng có ba tiếng còi ô tô vang lên liên tục. Xe đã chữa xong và
đang gọi tìm ông. Ông vội đứng dậy, móc ví lấy tờ giấy bạc một trăm nghìn để
lên bàn. Nó bị chiếc quạt trần thổi bay xuống chân ghế.
Ông đi lại gần bà, húng hắng ho
rồi nói:
“Người ta đang gọi tôi. Câu
chuyện bà kể hôm nay nghe thật lạ. Tôi chẳng nhớ gì và cũng chẳng biết nói gì
bây giờ ngoài việc nếu quả tôi đã làm điều gì không tốt với bà thì mong bà hãy
tha lỗi cho tôi.”
Bà chủ quán im lặng. Ông đứng
thêm chút nữa rồi quay người bước đi, gần như chạy. Khi đã ngồi trên xe, ông
giục cậu kia cho xe chạy thật nhanh.
“Nhưng em còn chưa ăn trưa”.
“Chốc nữa đến nơi sẽ ăn”.
Đã hai giờ chiều. Trời không mưa
nhưng u ám. Không hoàng hôn. Không giọt nắng bên thềm. Không cả những vì sao và
giấc mơ hồng trải trên mặt đất. Không có gì ngoài những ngọn đồi nhấp nhô buồn
tẻ và sự trống rỗng xen thoáng lo sợ mơ hồ trong lòng.
Ông lơ đãng nhìn ra ngoài, thầm
điểm lại cuộc đời mình vốn được coi là thành đạt nhưng thực ra đầy bất hạnh,
nhất là chuyện gia đình, con cái. Bây giờ ông gần như tin hoàn toàn vào sự có
thật những điều bà nói.
Và thầm hình dung sẽ thế nào nếu
ông không hèn hạ bỏ rơi bà ngày ấy. Cũng có thể là bỏ rơi cả hạnh phúc của
chính ông cùng những giọt nắng và chuỗi sao đêm được ông hái xuống xâu thành
vòng lấp lánh.
Hà Nội, 2004
GIÓ LỠ THÌ
Vài năm một lần ông lại “đi công
tác xa”, tức là xuống vùng quê nào đó trong bán kính một trăm ki-lô-mét cách
trung tâm Hà Nội để, như ghi trong giấy giới thiệu, “sưu tầm văn hóa, văn học
dân gian, xin nhờ các tổ chức và cá nhân liên quan hết lòng giúp đỡ”. Với ông
đó là loại công việc dễ chịu, vì tiếng là đi công tác mà ông được tự do tuyệt
đối, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Tới nay ông đã sưu tầm được khối điều
thú vị trong lĩnh vực này, là đồng tác giả của mấy cuốn sách nghiên cứu về tục
ngữ ca dao và chuyện cổ tích, thậm chí cả dân ca quan họ, dù ông mù tịt về âm
nhạc.
Nhưng lần này thì ông lên đường
vì mục đích riêng tư và khác hẳn, tất nhiên khi đề nghị cơ quan cấp giấy công
tác thì ông vẫn là cán bộ sưu tầm vốn cổ dân tộc, vì ông không muốn chi tiền và
thời gian của riêng mình, là cái vốn chẳng bao giờ có nhiều.
Số là một hôm ngẫu nhiên ông được
đồng nghiệp đọc cho nghe bốn câu thơ của một nhà thơ nào đó mà cả ông lẫn đồng
nghiệp đều không biết. Bốn câu lục bát hiện đại giản dị và cô đọng, tinh tế như
ca dao cứ làm ông bâng quơ suy nghĩ mấy ngày liền, và cuối cùng đưa ông đến
quyết định ra đi, không phải “sưu tầm” như mọi lần mà “đi tìm hiểu thực tế”,
tìm hiểu cái gì gì và cách nào thì quả lúc ấy ông chưa rõ lắm. Bốn câu thơ ấy
thế này:
Chị đi kháng chiến trở về,
Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
Mưa qua đi, nắng qua đi,
Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Nghe xong, ông ngồi lặng người
một lúc rồi lên tiếng, không hiểu sao giọng buồn hẳn đi:
“Hay! Hay tuyệt! Chỉ mấy câu mà
nói hết, nói sâu sắc cái đau của một lớp người anh hùng bất hạnh. Tớ nghe mà
thấy rồn rộn trong người. Không hiểu bây giờ họ thế nào nhỉ, những con người
ấy, những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì ấy?”
“Ế chồng chứ còn sao nữa, - ông
đồng nghiệp nói, giọng cũng xa vời. - Mà họ đâu có một vài người, một vài trăm
người. Hàng vạn, hàng chục vạn cơ đấy. Cái đau không nói nên lời, “chỉ thoáng
nghe trong gió” như lời một bài hát của tay Bob Dylan người Mỹ, và bây giờ là
“ngọn gió quê” của anh nhà thơ này. “Gió lỡ thì”. Tự dưng chẳng lỗi của ai mà
mình như có lỗi. Cậu không thấy thế à?”
“Thấy”.
“Thấy mà chẳng làm gì được. Mà họ
sống ngay bên ta, những con người cụ thể bằng xương bằng thịt. Nghe nói có cả
những đội sản xuất, những làng toàn phụ nữ lỡ thì, những người một thời từng
xinh đẹp, trẻ trung, nhí nhảnh yêu đời. Thế mà...”
Ông đồng nghiệp nhắc tên một số
nơi những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì đang sống.
“Thế à?”
Ông ngước mắt, hỏi, và chỉ ít
phút sau quyết định đi đến với họ.
Ông thuộc loại người sởi lởi,
chân thành và cả tin. Nếu gọi những người có gia đình ba đời sống ở Hà Nội là
dân thủ đô thì ông đúng là dân thủ đô. Lịch sự và tế nhị. Nhưng có lẽ vì chính
sự lịch sự và tế nhị ấy mà trong mọi chuyện ông cũng cân nhắc, tính toán ra
phết. Li dị vợ đã năm năm nay và dù chưa đến năm mưoi, lại đẹp trai, hào hoa,
ông vẫn ngần ngại không đi bước nữa. Bạn bè bảo thế là khôn, vừa được tự do
chơi bời lại chẳng phải gắn bó với người nào. Chắc điều này cũng nằm trong tính
toán của ông. Kinh nghiệm chẳng mấy vui vẻ với bà vợ trước làm ông thấy sợ.
Những người phụ nữ ông quan hệ sau này chẳng tìm được cớ gì để trách ông, mặc
dù ước mơ (và đôi khi cả âm mưu) được làm vợ, ở chung với ông trong ngôi nhà
mặt tiền phố Hàng Mắm rút cục không thành. Cuối cùng thì họ đành chấp nhận “làm
bạn” cho đến khi ông chán họ rồi sau đó, dẫu ấm ức trong lòng, vẫn tiếp tục yêu
con người lẳng lơ đáng yêu ấy. Còn điều nữa là ông rất dễ xúc động. Nhiều khi
xem phim một mình ở nhà, ông thút thít khóc, và vì không có ai nên ông cứ để
nước mắt tự do lăn trên má. Phim “Những cô gái ngã ba Đồng Lộc” là một thí dụ.
Ông khóc suốt từ đầu chí cuối mà chẳng chút xấu hổ vì sự mau nước mắt của mình.
Tính ông nó vậy. Mấy câu thơ về các cô gái lỡ thì này cũng làm ông xúc động
chân thành, chưa đến mức chảy nước mắt nhưng rất xúc động. Thế là với chiếc túi
du lịch trên tay, ông ra đi, lòng xốn xang những ý nghĩ bâng quơ cao thượng, cứ
như ông đang đến giúp họ bằng cách cưới một trong những cô gái tội nghiệp ấy.
Nơi ông đến là một xã miền núi ở
tỉnh Hòa Bình. Xã mới được thành lập và toàn dân miền xuôi được bổ sung từ mấy
nông trường bên cạnh đã giải thể. Nó vẻn vẹn chỉ ba làng cách nhau không xa,
nằm lọt thỏm trong thung lũng giữa hai ngọn núi lớn trên đường từ quốc lộ sáu
rẽ vào Kim Bôi. Không thấy bóng chiếc nhà sàn nào, đàn ông, thậm chí trẻ con
cũng rất ít. Chỉ trâu bò là nhiều. Chúng nhởn nhơ gặm cỏ trên các mé đồi hoặc
hai bên đường. Mặt trời ngả về tây và đang sắp khuất sau núi. Nửa quả đồi xa xa
được nắng chiếu sáng có màu vàng rực như trong bức sơn mài “Chiều Tây Bắc” nổi
tiếng.
Ông chút ít cụt hứng khi thấy chủ
tịch xã, người bao giờ ông cũng tìm gặp đầu tiên khi tới công tác ở địa phương
nào đó, là phụ nữ, hơn thế còn khá trẻ, khoảng ba mươi lăm, cùng lắm chỉ bốn
mươi. Chị chủ tịch (hay cô chủ tịch? ông thầm hỏi và thấy ngồ ngộ) rót chén
nước chè đắng mời ông rồi cúi xuống chăm chú đọc tờ giấy giới thiệu công tác
của khách. Ông thì vừa nhấp nước vừa lén nhìn. Chị khá xinh, cái xinh khỏe
mạnh, đậm đà của người phụ nữ nông thôn giản dị và sạch sẽ ở cái tuổi ấy. Tóc
chị búi ngược, để lộ cái cổ tròn trĩnh với những sợi tóc mềm ươn ướt mồ hôi.
Cặp môi dày mọng có vẻ đa tình, nhưng cũng vừa có vẻ cương quyết, nhất là lúc
này, khi chị đang mím chặt, căng thẳng đọc tờ giấy. Giữa cánh mũi bên phải và
môi trên có một nốt ruồi kích thước vừa đủ, vị trì vừa đẹp và màu sắc vừa độ để
bất kỳ một ca sĩ đô thành nào cũng mong muốn có.
“Vậy cụ thể chúng tôi có thể làm
gì để giúp... - chị chủ tịch nhìn khách chọn cách xưng hô - để giúp anh?”
Ông lúng túng không biết nói thế
nào. Chẳng nhẽ bảo tôi lên đây tìm hiểu cuộc sống những cô gái thanh niên xung
phong lỡ thì?
“Chị biết đấy, - ông ngọ ngoạy
mãi trên ghế rồi đáp. - Chúng tôi là một cơ quan nghiên cứu ở Hà Nội. Chả là
người ta đang có chương trình nghiên cứu hậu quả chiến tranh, ý tôi nói về mặt
xã hội, con người chứ không phải kinh tế, và tôi được cử về địa phương ta đây
để... - Ông lại lúng túng. - Chị biết đấy, biết bao con người ưu tú, nhất là
các cô gái của chúng ta, xung phong ra chiến trường, vì độc lập, tự do của đất nước
đã hy sinh tuổi trẻ của mình... Vâng, đúng thế, đó là một bi kịch, bi kịch ghê
gớm của chiến tranh. Họ đã đem hạnh phúc riêng tư của mình trả giá cho sự
nghiệp chung...”
Cuối cùng thì chị chủ tịch xã
cũng hiểu, và ông lấy làm mừng rằng một người vừa phải đánh vần tờ giấy lúc nãy
lại tinh tế như vậy.
Chị nhìn ông bằng cái nhìn buồn
buồn pha chút diễu cợt:
“Vậy thì tôi nghĩ họ phải cử
người khác đi thay anh mới phải”.
“Có lẽ vậy. Nhưng cơ quan tôi ít
người, vả lại các bà ấy ngại đi xa”.
Cả buổi chiều hôm ấy ông được chị
chủ tịch xã kể cho nghe những gì ông muốn biết. Có thể trình độ văn hóa không
cao, nhưng chị diễn đạt lưu loát, không ít khi pha chút đùa hóm hỉnh khiến ông
khách mỗi lúc một thấy cảm tình. Ông ghi kín đặc ba trang giấy các con số và
tên người cùng những điều ông cho là đáng chú ý. Hóa ra cái xã Kim La này cũng
khá đặt biệt và đúng là địa chỉ ông cần tới. Nó trước là một phần của xã Kim
Anh kề bên. Cuối những năm tám mươi, cùng một lúc cả hai nông trường quốc doanh
trên địa bàn giải thể, đất nông trường chia cho công nhân làm nhà và canh tác.
Thế là thành xã mới. Đó cũng chuyện bình thường, điều đáng nói là công nhân hai
nông trường này chủ yếu là nữ, do được bê hầu như nguyên xi mấy đơn vị nữ thanh
niên xung phong từ miền Nam ra khi mới giải phóng. Cái việc ế chồng của họ một
thời được báo làm ầm ĩ, thậm chí người ta còn tổ chức hội thảo bàn cách giải
quyết nhưng rồi đâu lại vào đó, chẳng thêm cô nào kiếm được chồng mà nông
trường thành ra tai tiếng với cái tên “ế chồng” kèm theo. Địa phương cũng bị vạ
lây. Một dạo người ta khôn khéo làm lễ kết nghĩa với các đơn vị bộ đội và xí
nghiệp trong vùng, nhưng kết quả chẳng hơn gì, chỉ thêm nhiều đứa con hoang ra
đời.
“Sao sau chiến tranh các cô ấy
không về quê?” ông hỏi.
“Nhiều người về. Nhưng cả lúc ấy
họ cũng đã quá lứa. Vả lại được vào biên chế nhà nước là cám dỗ lớn”.
“Vậy là chịu, chẳng ai làm được
gì giúp họ?”
“Chuyện này thì giúp sao được. Mà
rồi cũng không đến nỗi như anh nghĩ đâu. Cuộc sống vẫn bình thường, năm nào xã
chúng tôi cũng đạt danh hiệu xã văn hóa. Sinh đẻ kế hoạch thì còn phải nói. Một
nửa chị em đã yên phận, tức là có chồng chính thức, làm lẽ, hoặc có con ngoài
giá thú. Ở đây cả hai điều này không bị phê bình mà còn được khuyến
khích”.
Ông do dự một chốc rồi hỏi:
“Chị cũng từng là thanh niên xung
phong?”
“Tất nhiên, 85% hộ gia đình trong
xã chúng tôi là thanh niên xung phong, trong đó nữ chiếm 70%. Nhưng đừng ái
ngại cho tôi. Tôi là người may mắn, tôi đã có chồng và gia đình hạnh phúc”.
Lúc ấy trời đã tối. Không còn
cách nào khác, bà chủ tịch xã mời khách về nhà mình, và cũng do không biết đi
đâu, khách nhận lời.
Bữa ăn tối có bốn người, tức là
thêm một bà cụ chắc phải hơn tám mươi tuổi nhưng còn minh mẫn, luôn miệng ăn
trầu sau khi đã nghiền kỹ trong chiếc cối nhỏ bằng đồng cầm trên tay, và một
đứa bé gái khoảng mười tuổi, hai mắt cứ mở to nhìn khách đến mức quên cả ăn. Nó
là cháu ở quê dưới xuôi, vất vả lắm mới được đồng ý cho đưa lên đây “ở cho
vui”. Trước đó, dọc đường đi, chị chủ nhà cho biết chồng chị là bộ đội đang ở
xa, và họ mới lấy nhau nên chưa có con.
Ở vùng núi đêm đến sớm, đen hơn,
và khác với người ta thường nghĩ, chẳng mát hơn chút nào. Ông xách ghế ra sân
ngồi, lơ đãng ngước nhìn bầu trời sao dày đặc như mạng nhện lúc ban mai của một
ngày sương mù. Lòng ông lại gợn lên nỗi bâng khuâng vu vơ, sự xúc động nhẹ
nhàng và cả thoáng buồn không tên như khi mới nghe bốn câu thơ kia. Chị đi
kháng chiến trở về/ Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì/ Mưa ra đi, nắng ra đi/
Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Căn nhà chị chủ tịch khá kiên cố,
mái bằng, tường gạch với hàng hiên một nửa nhô ra rộng, rất đặc trưng cho vùng
chiêm trũng Hà Bắc. Không có ngọn gió quê, lỡ thì lại càng không vì chị đã có
chồng. Cái buồn thì có, nhưng đó là cái buồn bình thường của nơi hoang vắng,
của sự nghèo đói chứ không thi vị như trong thơ. Không hiểu sao bỗng dưng ông
cũng thấy buồn buồn, mặc dù chuyến đi của ông thành công hơn dự định. Ông đã
biết những điều ông quan tâm, đã gặp “người thật việc thật”, mai chỉ còn đi tới
hai làng còn lại, vào một vài nhà, nói chuyện với dăm người nữa là coi như kết
thúc. Sau thì sao? Chẳng sao cả. Cơn xúc động bột phát sẽ qua đi, những ý tưởng
lãng mạn sẽ qua đi, thậm chí cả mấy câu thơ tuyệt diệu kia cũng dần dần bị lãng
quên. Nghĩa là tất cả sẽ qua đi như “mưa qua đi, nắng qua đi”, và với ông, thay
cho nỗi buồn là công việc và cuộc sống hàng ngày ở lại, gấp gáp mà đơn điệu, ồn
ĩ mà buồn chán.
Ông ngủ trên chiếc ghế dài bằng
gỗ trải đệm mút ở phòng khách, nhất định không chịu để chị chủ nhà nhường phòng
mình cho ông. Bà cụ và con bé ngủ ở phòng trong, gần như ngay sau bữa ăn tối.
Tưởng đi cả ngày mệt sẽ dễ ngủ, thế mà ông vẫn trằn trọc mãi. Có thể tại đêm
yên tĩnh quá. Rồi ông cũng thiếp đi, láng máng nghe tiếng chị chủ nhà trở mình
ở phòng bên. Ông mơ thấy cả một rừng các cô gái cởi bỏ áo lính chạy ào xuống
suối tắm. Các cô tắm lặng lẽ, không té nước đùa nghịch mà ôm mặt khóc, cũng
lặng lẽ. Sau đó đột nhiên cả rừng cô gái ấy tồng ngồng chạy vào rừng, vừa chạy
vừa cười sằng sặc và làm những động tác kỳ quặc của người điên. Họ chạy cả vào
căn nhà nhỏ của ông ở Hà Nội, túm quanh ông như van xin điều gì. Họ khóc. Ông
cũng khóc.
Ba giờ chiều hôm sau, khi chia
tay xong xuôi với mọi người, Ông được một cậu thành niên (do chị chủ tịch xã
yêu cầu) chở lên phố huyện để bắt xe về Hà Nội. Anh này vui tính và bạo mồm bạo
miệng, mặc chiếc áo thổ cẩm có khuy ngang bằng vải như của người Tày, nhưng
chắc là người miền xuôi, có thể quê Sơn Tây - Ba Vì, nếu căn cứ vào giọng nói.
“Cảm ơn ông bác đã đến xã em. -
Anh ta cười toe toét. - Chuyến này thì chắc xã em tăng nhân khẩu”.
“Cậu nói gì tớ không hiểu”, ông
hỏi lại.
“Thì đêm qua ông bác chẳng ngủ ở
nhà bà chủ tịch đấy sao?”
“Cái cậu này láo. Người ta có
chồng rồi, nhảm nhí!”
“Ai bảo ông bác thế?”
“Bà ấy chứ còn ai. Chồng người ta
đi bộ đội xa, thế mà cậu lại láo lếu nói bậy”.
“Thế thì thật tiếc cho ông bác. -
Anh kia cười, giữa chừng đột nhiên im lặng, giọng trầm hẳn xuống. - Tiếc cho cả
bà chủ tịch nữa. Bà ấy là người tuyệt vời đấy, vì tìm mãi không thấy người
thích hợp nên mới ở vậy. Bà ấy kiêu lắm. Nhưng gặp ông bác thì chắc là “đổ”
rồi. Chí ít cũng muốn xin đứa con Hà nội”.
Ông lại mắng anh ta, rồi từ đó
cho hết quãng đường còn lại ông im lặng, nghĩ quẩn quanh về cái tin mới được
nghe, trong khi anh kia vẫn không ngớt lời ca ngợi bà chủ tịch xã mình.
*
Chưa đầy một tháng sau ông lại
lên Kim La, vì việc riêng chứ chẳng liên quan gì đến “công trình nghiên cứu xã
hội” mới rồi, và tất nhiên ông không vào trụ sở ủy ban xã mà vào thẳng nhà chị
chủ tịch, tuy không phải không chút do dự.
Suốt cả tháng trước đó ông ở
trong tâm trạng kỳ cục, có thể nói lần đầu tiên trong đời ông gặp. Ông luôn
nghĩ tới người đàn bà trẻ hẩm hiu, bình dị và hấp dẫn này, một sự hấp dẫn ông
không lý giải nổi. Nhiều khi ông tự hỏi phải chăng mình đang yêu, ở lứa tuổi
gần năm mươi? Lại ông, một người thừa từng trải và không muốn gánh thêm gánh
nặng gia đình, đơn giản vì ích kỷ? Không, ông lắc đầu. Nếu vậy thì là cái gì?
Ông cũng lắc đầu không trả lời nổi. Nhưng rõ ràng đang có cái gì đó mới lạ xuất
hiện trong ông, và ông lấy làm sợ do không biết thế là tốt hay xấu. Sao không
thể yêu và lấy cô ấy làm vợ nhỉ? - đôi lúc ông nghĩ. Cô ấy còn trẻ, dễ nhìn,
thông minh và tế nhị, lại là một cựu thanh niên xung phong ai cũng ái ngại muốn
giúp mà bất lực. Mình có bất lực thật không? Cô ấy thuộc loại người mới lạ, là
cái chẳng phải mình luôn khao khát đó sao? Rồi ngay lúc ấy chính ông lại hoảng
sợ cái mới lạ ấy khi ông hình dung cô về sống ở Hà Nội, tại nhà ông ở phố Hàng
Mắm. Ông có thể giúp giảm bớt một ca bị ế vì chiến tranh, là điều đáng ca ngợi
và thực sự ông muốn làm. Nhưng bạn bè ông sẽ nghĩ thế nào, cô ấy sẽ sống thế
nào trong môi trường thành phố, trong giới cán bộ trí thức của ông, khi bản
thân cô hình như phải đánh vần mỗi lần đọc cái gì đó? Hay đơn giản coi như một dạng bồ bịch, nếu cô ấy chấp nhận, và nếu
muốn nữa thì cho một đứa con? Không, không được. Đây là trường hợp khác hẳn, cô
ấy là người khác hẳn nên không làm thế được. Vậy thì phải làm gì?
Đầu óc ông cứ quẩn quanh mãi
những ý nghĩ mâu thuẫn như vậy, trong khi trái tim dường như mỗi ngày một xích
lại gần hơn với chị. Cuối cùng thì ông quyết định quay lại tìm chị, dù không rõ
mình thực sự muốn gì.
Không biết lần ấy họ gặp nhau như
thế nào, nói với nhau những gì, chỉ biết sau đó, trong vòng nửa năm ông còn lên
Kim La bốn lần nữa, và bây giờ thì chính chị chủ tịch đang chuẩn bị về Hà Nội,
Để gặp ông, tất nhiên có kết hợp tí việc, nhưng chủ yếu vẫn để gặp ông, vì chị
đã hứa nhiều lần.
Cả tuần nay chị chuẩn bị cho
chuyến đi này. Dẫu chẳng lần đầu tới thành phố nhưng rõ ràng đây là chuyến đi
đặc biệt, và chị rất lo lắng. Chị chỉ ghé thăm ông một chốc, “cho biết nhà” rồi
về, thế thôi. Xưa nay chị luôn kính trọng, gần như ngưỡng mộ những người đàn
ông thành phố lịch sự, có học và sang trọng. Bây giờ một người như thế đến với
chị, người ấy đã li dị, sống một mình và, điều này mới quan trọng nhất, tôn
trọng và theo như chị cảm nhận, cũng thương yêu chị. Không nói thành lời nhưng
“anh ấy” đã tỏ ra thế, và trái tim trong trắng bốn mươi tuổi của chị nhận thấy
điều đó. Nó đập rộn mỗi lần nghĩ tới “anh ấy”. Chị đang sống trong hạnh phúc
pha chút lo sợ mơ hồ khi hình dung thấy mình có chồng, có con, lại được sống ở
thủ đô. Đứa con của chị thật đẹp, con trai, không hiểu sao chị nghĩ nhất định
sẽ là con trai. Nó giống “anh ấy” như đúc, dù chị cũng có nhiều nét đẹp nhưng
chị sẵn sàng để nó giống anh. Còn chị sẽ lặng lẽ chăm sóc anh từng ly từng tí
một cách trung thành mà không đòi hỏi chút gì cho mình. Có điều, nếu mỗi lần đi
làm về anh hôn vào má chị như trong phim, thì chị sẽ rất xấu hổ, thích nhưng
vẫn xấu hổ. Nhiều đêm chị không ngủ vì ngây ngất tình yêu, thứ tình yêu muộn
mằn mà bồng bột. Chị đã khóc vì sung sướng, tay vuốt vuốt bụng như nâng niu đứa
con tương lai. Vậy là chị sẽ có con như nhiều người khác, không phải “con xin”,
mà con hợp pháp, con có bố làm ở Hà Nội.
Sau rất nhiều cân nhắc, chị quyết
định mua tặng “anh ấy” ba mét vải thổ cẩm đặc sản của vùng chị, và sẽ tự tay
khâu cho anh một chiếc bao đựng kính cũng bằng thứ vải ấy. Vải không mua ở chợ
Lùng vì như thế sẽ thành thứ vải bình thường. Thay vào đó, chỉ bỏ công vào tận
bản Dóc cách hơn hai mươi cấy số, lùng sục từng nhà tìm bằng được thứ chị vừa
ý, lại còn bắt sửa chỗ này cắt chỗ kia, và lần đầu tiên chị mua bán mà không hề
mặc cả. Cầm tấm vải mịn mát lạnh trên tay (nhưng màu khá sặc sỡ) chị sung sướng
hình dung “anh ấy” sẽ cắt nó thành áo mặc diện ngoài phố mà không biết rằng đàn
ông Hà Nội tuổi anh chỉ thích mặc com-lê và áo sơ mi cô-tông nhã màu. Còn chíêc
bao đựng kính thì không vất vả lắm vì chị giỏi may vá thêu thùa do học được
những năm ở Trường Sơn. Mỗi bên chị thêu một bông hoa, hoa cúc, với những chiếc
lá bé tí màu xanh, còn hoa thì bông vàng bông trắng. Các đường thêu tỉ mẩn và
rất đẹp, có thể bố cục không hợp, nhưng thế cũng khá lắm rồi nếu so với đôi
chim bồ câu lồng cánh và hai chữ cái uốn éo lồng nhau của thời trước. Đêm ngủ,
chị đặt tấm vải và bao kính lên ngực rồi mỉm cười một mính trong bóng tối.
*
Ông ra tận bến xe đón chị. Chị
ngồi sau xe máy, chiếc nón bài thơ mới quang dầu bóng loáng có hình chìm những bông
hoa to và đôi chim bồ câu đang bay quanh trái tim hình con cơ lộn ngược, làm
chị và ông hơi vướng. Một bên chị xách chiếc lồng tre đựng hai con gà, bên kia,
đeo kè kè sát hông là chiếc túi đầm giả da thường thấy bán ở phố huyện. Tất cả
đều mới, thậm chí cả lồng gà. Cả chiếc quần bò và chiếc áo thun len cũng mới,
dù thường ngày chị thích mặc những thứ giản dị bằng vải mềm. Không hiểu sao chị
thấy sờ sợ, hai má đỏ ửng, nhất là khi đi qua chỗ đông người, một con gà bỗng
gáy to. Là người lịch sự, ông Huấn lờ đi như không nghe. Ông cố tình đèo chị
qua mấy phố có những tòa nhà cao, qua hồ Hoàn Kiếm, Nhà Hát Lớn rồi mới về nhà
mình. Ông muốn mà không dám giới thiệu các điểm nổi tiếng của thủ đô vì sợ chị
có cảm giác mình là dân nhà quê. Đến phố Cầu Gỗ, một vài người bạn đang uống
bia nhìn thấy họ, kêu to gọi ông nhưng ông không nhìn, không đáp.
Một buổi chiều trôi qua dễ chịu.
Chị xuống bếp làm gà, chuẩn bị bữa ăn, thầm sung sướng được dọn dẹp căn bếp dẫu
hiện đại, sạch sẽ nhưng vẫn bừa bộn theo cách của một người đàn ông sống độc
thân. Còn ông thì xăng xái bên cạnh xin được giúp đỡ. Chị chỉ cười, nói không
cần, nên cuối cùng ông ra ngồi hút thuốc trên chiếc xa lông bọc da êm ái ở
phòng khách, với sự hài lòng của một ông chủ gia đình đang được hưởng sự chăm
sóc cảm động của người vợ, hay cũng gần như thế. Cảm giác này làm ông xúc động,
và ông nghĩ sẽ không tồi nếu có được người vợ như chị. Lúc này thì tình cảm
chân thành và sự hào hiệp đang lấn át những lo lắng và tính toán thực dụng của
cuộc sống đời thường.
Ông mở một chai rượu ngoại màu đỏ
sẫm, rót ra hai chiếc cốc pha lê tay cầm
rất dài và mảnh:
“Uống đi em. Nhẹ thôi mà. Để kỷ
niệm ngày hôm nay. Nào, vì hạnh phúc của em, của anh. Của chúng ta!”
Như ông, chị uống một hơi hết cốc
rượu hạnh phúc ấy. Sau đấy chị còn uống thêm mấy cốc nữa. Mặt chị, thậm chí cả
chiếc cổ dài tròn trĩnh, bắt đầu đỏ ửng, vì rượu và cả vì hạnh phúc. Hơi chút
ngượng ngập, họ trao đổi những lời âu yếm, những câu hỏi đáp bâng quơ không ăn
nhập, chủ yếu làm phần đệm, làm nền cho những cái nhìn kéo dài cũng âu yếm
không kém. Chị cảm thấy như có dòng điện nhẹ chạy khắp người khi lần đâu ông
cầm tay mình. Bản năng mách chị muốn rút lại nhưng chị không làm nổi. Chị cũng
bất lực khi ông khẽ chạm môi mình vào môi chị rồi kéo nhẹ về phía chiếc giường.
Cơ thể khỏe mạnh, trinh trắng của chị run run khi tay ông lóng ngóng lần cởi
từng chiếc cúc áo của chị...
“Cái gì thế anh?” Chị giật mình,
khẽ hỏi khi ông lấy từ dưới gối chiếc bao cao su màu đỏ.
“Safe sex!”
“Tức là cái gì?”
“Là OK! Tình dục an toàn, em ạ”.
“Ồ không! Đừng anh! Em không
thích cái ấy! Đừng! Đừng dùng nó!”
Chị kêu lên rồi ôm mặt khóc. Ông
do dự một lúc rồi vứt chiếc bao xuống sàn nhà. Ông nằm ngửa, cũng trần truồng
như chị, mắt nhìn trân trân lên trần. Vào phút chót, ông lại bị những toan tính
thực tế và nỗi lo sợ mơ hồ chi phối. Chị nằm bên, quay mặt vào tường, và vẫn
khóc.
“Anh yêu em... Anh xin lỗi...”,
ông nói, tay âu yếm vuốt ve cơ thể bất động của chị.
Chị nằng nặc đòi ra về. Không giữ
được, ông lại đèo chị ra bến xe. Chiếc nón bài thơ vẫn vương vướng vào lưng ông
như trước. “Anh xin lỗi”, ông lại nói, nhưng chị không nghe thấy vì tiếng ồn
đường phố, và cả vì chị đang nghĩ về đứa con trai đáng lẽ chị đã có nhưng giờ
thì có lẽ sẽ không bao giờ có nữa. Một bên hông chị vẫn là chiếc túi đầm phố
huyện mới mua, đựng ba mét vải thổ cẩm và chiếc vỏ kính chưa tặng.
*
Ngay sáng hôm sau, với vẻ mặt phờ
phạc của người mất ngủ và lo nghĩ nhiều, ông lại lên Kim La. Chị chủ tịch không có nhà. Ông
chờ suốt cả buổi chiều, mãi đến tối mịt vẫn không thấy chị về. Con bé ê a học
bài trong nhà. Còn bà lão mẹ chị thì ngồi bất động nhìn không chớp cái gì đấy
ngoài vườn. Mãi đến bây giờ ông mới phát hiện thấy bà bị mù.
Chị đi kháng chiến trở về,
Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
Mưa qua đi, nắng qua đi,
Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Bốn câu thơ kia lại lởn vởn trong
đầu ông. Chúng thật buồn. Ngôi nhà ông đang ngồi đây cũng thật buồn. Không
thông thốc, nhưng hiện đang có gió, ngọn gió lạnh đầu đông ở vùng núi, và nó
cũng đượm buồn. Có thể chị không biết những câu thơ này, nhưng chắc không ít
lần phải chịu cái buồn được nói một cách tinh tế ấy trong thơ. Không chỉ mưa
nắng, mà một người đàn ông đến với chị, rồi người đó cũng ra đi, làm nỗi buồn
càng buồn hơn. Ông thấy thương chị, thương cho cả chính mình. Không, ông sẽ ở
lại. Ông rút thuốc hút, quyết tâm chờ tiếp, chờ hết đêm nay, chờ cả ngày mai,
ngày kia, chờ cho đến lúc chị về. Ông biết chị đang ở đâu đó rất gần và đang
theo dõi cái quyết tâm ấy của ông.
Hà
Nội, 26. 8. 2004
BÀN TAY
HÌNH CHIẾC LÁ
Con bé đứng giữa trời mưa. Nó bị
mù. Mưa bé thôi. Cơn mưa phùn dai dẳng thường có vào dịp cuối năm. Những giọt
nước li ti bám vào mặt, vào quần áo, lâu dần cũng đủ lớn chảy thành từng dòng.
May không lạnh lắm, nhưng sự ẩm ướt kéo dài, đường phố bẩn thỉu và bầu trời u
ám gây cảm giác nặng nề khó chịu.
Nó cũng hẵng còn bé. Nhìn bề
ngoài người ta chỉ đoán khoảng bảy, tám tuổi. Nhưng có thể nó đã mười, thậm chí
mười lăm. Những đứa trẻ ăn mày như nó khó đoán tuổi lắm, nhất là khi lại mù và
trông khá tiều tụy. Nó đứng đầu ngõ chợ, dưới gốc cây bàng chưa kịp ra lá, nên
mưa dù nhỏ, quần áo nó vẫn ướt sũng từ bao giờ. Tại sao nó không vào đứng dưới
hàng hiên hiệu thuốc bên cạnh? Có thể
chủ cửa hàng không cho. Có thể vì mù nó không biết. Cũng có thể cần cây bàng để
tựa, vì nó đứng chứ không ngồi, mà có lẽ đã đứng như thế từ lâu và sẽ còn lâu
nữa.
Ngồi làm việc ở phòng mình trên
tầng hai ngôi nhà đối diện, tôi lặng lẽ quan sát nó. Nó đứng yên hầu như bất
động, người co lại để chống đỡ với mưa gió. Nếu nó đứng trên chạng ba cây bàng
thì có thể nghĩ đó là một con cú đang thiu thiu ngủ. Hình như nó cũng đang thiu
thiu ngủ. Nó chìa bàn tay trái trước mặt. Một bàn tay nhỏ bé, khum khum màu
vàng nhợt vì bẩn và vì đau ốm, trông giống những chiếc lá bàng nửa xanh nửa
vàng rụng đầy dưới chân. Nó đeo cái bị hay cái túi gì đấy sau lưng. Bên dưới là
chiếc mủng tre với mấy tờ giấy bạc nhàu nát và một ít thức ăn được người ta vứt
cho từ bao giờ. Cả tiền và thức ăn đều ướt, cũng bẩn và lạnh như chính nó. Tôi
thấy nó luôn im lặng, khác hẳn những người ăn mày lắm lời ta thường gặp. Nó chỉ
đứng thế, bất động, trừ một lần có chiếc xích lô chở hàng cồng kềnh va vào làm
nó phải bám lấy thân cây mới không bị ngã. Sau đó nó trở lại tư thế cũ. Đôi mắt
mù trắng đục vô cảm nhìn phía trước, cùng hướng với bàn tay hình chiếc lá bàng
héo úa.
Vốn dễ xúc động và hay phân tán
tư tưởng, từ khi thấy nó tôi chẳng thể tập trung làm việc được nữa. Tôi đang
viết một truyện ngắn có hậu, có nắng ấm, cây xanh và nhiều khuôn mặt hạnh phúc.
Tôi hơi khó chịu vì nó làm hỏng một ngày làm việc của tôi, vô tình cứ bắt tôi
chú ý đến nó. Ngõ chợ luôn đông người ra vào, mà tôi chẳng thấy ai cho nó gì.
Nó cũng chẳng mở mồm xin ai cái gì. Chỉ chìa tay đứng thế. Và chiếc lá bàn tay
ấy chẳng nhận được gì ngoài những giọt mưa li ti nhão nhoẹt...
Bất chợt, thay cho truyện ngắn
đầy nắng ấm và hạnh phúc định viết, tự lúc nào không biết, trong đầu tôi đã
hình thành một bài thơ buồn. Bài thơ về nó, cái con bé ăn mày tội nghiệp ấy.
Trời mưa
phùn lất phất,
Gió lạnh
thổi suốt ngày.
Em bé mù
hành khất
Đứng bên
đường, chìa tay.
Bàn tay
em để ngỏ,
Suốt từ
sáng đến trưa
Chỉ xin
được ít gió,
Chỉ được
cho ít mưa.
Bàn tay
như chiếc lá
Bị gió
ngắt lìa cành,
Dù nhăn
nheo, tàn tạ,
Nhưng
hình như còn xanh.
Cuộc đời
này oan trái
Đã cướp
hết của em,
Chỉ trớ
trêu chừa lại
Bàn tay
chiếc lá mềm.
Mưa
phùn, mưa buồn bã.
Em trơ
trọi giữa đời.
Bàn tay
hình chiếc lá
Đầy
những giọt mưa rơi...
Cảnh đã buồn. Bài thơ ngẫu hứng
này càng làm tôi buồn thêm. Buồn vì sự bất lực của bản thân và sự vô bổ của cái
nghề văn chương trót cả đời đeo đuổi. Bài thơ có thể chân thành và xúc động,
nhưng không lẽ mang xuống đường đọc cho nó nghe để nó biết tôi thương nó thế nào?
Cả bài thơ và tình thương ấy của tôi có làm nó đỡ lạnh và no hơn không? Tôi
ngồi đây, trong căn phòng tiện nghi ấm áp, no đủ và hạnh phúc để viết về nó,
một đứa bé ăn mày mù cả hai mắt, trạc tuổi con tôi, đứa con mà tôi đang vất vả
bắt không được ăn những thứ béo bổ để khỏi phát phì. Cả tôi và vợ tôi cũng đang
phát phì vì ăn quá nhiều và quá ngon.
Vậy phải chăng tôi đã viết những
dòng chân thành mà giả dối? Thậm chí đạo đức giả? Không lẽ thực sự tôi không
thể làm được điều gì hơn để giúp nó, chính xác hơn là giúp mình thoát khỏi
những mặc cảm trên? Tất nhiên là có. Tôi có thể - và dự định chốc nữa sẽ làm
ngay - cho nó ít tiền, ít thức ăn như nhà tôi từng cho nhiều người cơ nhỡ khác.
Nhưng sau đấy thì sao? Những đứa khác như nó, mà chắc không ít ở cái thành phố
rộng lớn này, thì sao? Phải chăng với ít tiền, ít thức ăn ấy, tôi có thể mua
được sự thanh thản cho lòng mình để viết tiếp câu chuyện đầy nắng và hạnh phúc
kia của tôi?
Tôi cứ quẩn quanh mãi với những ý
nghĩ không mấy vui vẻ ấy. Trong khi đó con bé vẫn đứng yên bất động bên gốc
bàng với bàn tay nhỏ xíu đang chìa ra phía trước. Trên lòng bàn tay khum khum
như chiếc lá ấy vẫn chẳng có gì ngoài những giọt mưa nhỏ và lạnh.
Thành phố đã lên đèn. Thậm chí
ngõ chợ cũng bắt đầu thưa người. Người mù không phân biệt được ánh sáng và bóng
tối, nhưng nhờ một giác quan đặc biệt nào đó, họ biết rõ lúc nào là đêm và
ngày. Con bé này cũng vậy. Nó đang đi về nhà. Chẳng ai biết nó từ đâu tới và
bây giờ đang đi về đâu. Nhưng nó đang đi. Nghĩa là quả có một nơi nào đấy mà nó
có thể đến, có thể gọi là "nhà". Như những người mù khác, nó đi chậm
chạp, rờ rẫm, không có gậy, chỉ thỉnh thoảng quờ quờ tay trước mặt. Nó đã rẽ
qua mấy phố nhưng vẫn tiếp tục đi. Nghĩa là "nhà" của nó xa và nó
phải quen đường lắm mới không bị lạc.
Trên vỉa hè một đường phố nọ, nó
bỗng vấp phải cái gì mềm mềm. Nó đứng lại suy nghĩ một chốc rồi cúi xuống đưa
cả hai tay sờ sờ cái vật mềm mềm ấy. Đó là một bà già đang nằm sóng soài trên
mặt hè phố bẩn thỉu và ẩm ướt. Không biết bà lão nằm đây trong tư thế ấy tự bao
giờ, mái tóc bạc xõa tung, dính đầy bùn. Quần áo bà cũng ướt và dính đầy bùn.
Có lẽ con bé đoán hiểu được chuyện gì xẩy ra. Nó để ngón tay trỏ sát mũi bà
lão. Còn thở, nhưng rất yếu. Nó lắc lắc gọi mấy lần nhưng không thấy đáp lại.
Nó cố hết sức vực bà lão dậy, kéo lê mấy bước rồi cho tựa lưng vào bức tường
gần đó. Sau đó nó lấy mảnh giẻ trong bị lau mặt mũi, tay chân cho bà lão.
Chừng ấy việc đủ làm nó mệt, nên
nó cũng ngồi tựa vào tường để nghỉ. Nó lấy mấy mẩu bánh mì sũng nước nhét vào
miệng bà lão. Lúc đầu bà lão không ăn, nhưng nó vừa dỗ như dỗ em, vừa bón từng
mẩu nhỏ. Bà lão bắt đầu ăn và dần dần tỉnh lại. Sau đó nó rờ rẫm tìm đến vòi
nước công cộng để uống đỡ khát và mang về cho bà lão một cốc.
Đó là một bà lão ăn mày hơn bảy
mươi tuổi, mắt sáng nhưng rất yếu, lại mắc chứng suy tim nên thỉnh thoảng bỗng
ngất đi như vậy. Bà ngất, nằm đấy từ lúc mới xế chiều. Nghĩa là bà đã nằm trong
tư thế ấy, ngay trên mặt hè đông người qua lại hơn năm giờ đồng hồ. Thế mà
chẳng ai vấp phải bà. Vì ai cũng mắt sáng nên họ nhìn thấy và né sang bên.
Nhiều người quả có dừng lại, lắc đầu ái ngại. Nhiều người cũng tỏ ý thương bà,
nhưng họ nghĩ đây là việc của công an, của các tổ chức nhân đạo. Mà họ thì đang
bận, thương đấy, muốn giúp đấy, nhưng... Thế là họ đi tiếp dù trong lòng không
phải không gợn chút băn khoăn. Suy cho cùng cũng chẳng trách được họ. Chỉ tội
con bé mù. Vì nó mù nên đã vấp phải bà lão, phải vất vả dựng bà dậy, chăm sóc
và cho ăn uống.
Tối ấy con bé chẳng "về
nhà" nữa, mà cùng bà lão ăn mày ôm nhau nằm co quắp dưới mái hiên có bức
tường nơi hai người vừa tựa lưng nghỉ. May không bị ai đuổi.
Hôm sau và những ngày tiếp theo,
từ cửa sổ phòng mình tôi lại thấy con bé mù đứng chìa tay bên gốc cây bàng đầu
ngõ chợ như cũ. Vẫn bàn tay hình chiếc lá ấy. Vẫn cái dáng bất động, nhẫn nhục
và chiếc mủng tre ấy. Khác chăng bây giờ mưa đã tạnh và trời bắt đầu hửng nắng.
Khác nữa là bây giờ luôn ở bên em có bà lão ăn mày đã làm em vấp, được em cứu
sống và từ nay, với đôi mắt sáng của mình, sẽ cùng em dựa vào nhau để tồn tại
trong cuộc đời này, cuộc đời với hầu hết những con người khỏe mạnh, mắt sáng,
giàu lòng nhân ái nhưng quá bận, quá vội, thành ra đôi khi quá hờ hững với
người khác.
Còn
tôi, tôi vẫn không sao viết nổi truyện ngắn có hậu với nắng ấm và những khuôn
mặt hạnh phúc kia. Tôi cứ vấn vương mãi với những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu về
đủ mọi chuyện, về thiên chức nhà văn, về tình người, tình đời và về cả sự bất
lực của mình. Và trong tâm trạng buồn buồn day dứt như thế, tôi đã viết một bài
thơ như sau về bà lão ăn mày ấy.
Đêm, lất phất mưa phùn.
Một bà
già bé nhỏ
Quần áo
lấm đất bùn
Nằm
ngang trên hè phố.
Bà ngã
xuống ở đây
Phải
chăng vì đói, mệt?
Ốm? Một
giờ? Cả ngày?
Hay phải
chăng đã chết?
Phố đông
người, ồn ào
Hình như
ai cũng vội,
Thế mà
không người nào
Vấp phải
bà, dù tối.
Người
tiếp người đi qua,
Bà già
vẫn nằm đấy.
Không ai
vấp phải bà,
Cả chính
tôi cũng vậy.
Mãi lúc
sau, đang đi
Nơi sáng
đèn, đường vắng,
Tôi bỗng
vấp cái gì
Rất đau
và rất nặng.
Thì ra,
chính nỗi đau,
Lương
tâm và xấu hổ
Làm tôi
vấp... Cúi đầu,
Tôi bước
đi giữa phố...
Hà Nội, 15. 4. 2001
NẾU CÒN SỐNG, CHỊ Ở ĐÂU?
"Tôi
là Nguyễn Văn Biên, lái xe, thuộc công ty X. Bộ Lâm nghiệp. Cách đây hai mươi
ba năm, vào một đêm trời mưa to cuối tháng chín năm 1967, trên đường từ Châu
Yên tới Sơn La, có một cô gái vẫy tay xin đi nhờ xe. Lúc ấy trời đã khuya, rừng
núi vắng vẻ. Cô gái trạc hai mươi tuổi, đầu đội nón, tay xách chiếc túi nhỏ, quần
áo ướt sũng, nói đi nhỡ đường gặp mưa bị cảm. Tôi cho cô lên xe. Trên xe chỉ có
mình tôi. Đi được một quãng, tôi dừng xe định giở trò cưỡng đoạt cô gái. Cô
cương quyết chống đỡ. Tôi dọa nếu không chịu, sẽ đuổi xuống. Cô gái khóc, van
xin đừng làm thế vì cô đang ốm, có thể chết. Thấy tôi vẫn một mực không thay
đổi ý kiến, cô vùng ra được và nhảy xuống đường. Tôi ngồi trên xe, đoán cô
không dám ở lại một mình vì chỗ có người gần nhất cách đấy cũng hơn hai mươi
kilômét. Nhưng cô gái vẫn ôm mặt khóc dưới trời mưa tầm tã, người run lên vì
lạnh... Cuối cùng tôi cho xe chạy tiếp. Đêm ấy tới trạm, bình tĩnh trở lại, tôi
rất ân hận việc làm của mình, nhất là việc vì tôi cô có thể chết. Vì vậy tôi
quay xe lại tìm nhưng không thấy cô đâu. Sau này nhiều lần tôi đến các nông
trường và bản lân cận tìm cô, tuy nhiên, mọi cố gắng của tôi đều vô ích
Nay
cô ở đâu, nếu còn sống, xin báo cho tôi ở số nhà... phố Long Châu, Hà Nội, để
tôi tìm đến cô xin tha thứ cho việc làm tội lỗi kia của tôi.
Nguyễn Văn
Biên".
Bà Bảo Châu đặt tờ giấy xuống
bàn, ngả lưng vào chiếc ghế da rồi không hiểu sao ngồi thờ thẫn hồi lâu. Đang
giờ nghỉ trưa, mỗi người một nơi. Trong phòng chỉ còn lại Bích Phương, cô thư
ký xinh đẹp vừa ăn xong đang ngồi soi gương sau chiếc máy chữ.
Bà liếc qua những tờ tiếp của tập
giấy được xếp ngay ngắn trước mặt, rồi hỏi:
- Ý kiến mọi người thế nào về tin
của ông lái xe này?
Bích Phương còn bậm môi, dướn mắt
thêm lần nữa trước gương rồi mới ngẩng đầu đáp:
- Dạ thưa cô, anh em nói đây là
trường hợp khác thường nên chờ ý kiến cô xem có nên phát không, sau mới trình
lên Ban duyệt. Các tin khác không có gì đặc biệt, chú Đại đã ký thay cô.
Mấy ngày vừa rồi bà Bảo Châu đi
công tác xa nên đương nhiên ông Đại phó phòng thay bà quản lý phòng này, phòng
Thông tin kinh tế xã hội của Đài phát thanh. Im lặng một chốc, bỗng Bích Phương
quay sang bà, nói:
- Cái ông lái xe Biên này kể cũng
lạ, cô nhỉ? Giận mà cũng thương ông ta...
- Bề ngoài trông ông ta thế nào?
- Bà Bảo Châu hỏi. - Khi đến đưa tin, cô có gặp ông ta không?
- Dạ không, tin này được đăng ký
từ sáng hôm kia, lúc ấy cháu có việc đi vắng... Thế cô đồng ý cho phát chứ ạ?
- Để cô xem đã. - bà Bảo Châu lơ
đễnh đáp.
Rồi bà đứng dậy, thong thả đi
xuống căng-tin ăn trưa.
Bà Bảo Châu năm nay đã ngoài năm
mươi, không thể gọi là xinh nhưng có vẻ ngoài đẫy đà, phúc hậu. Tóc bà còn đen
và rất dài, những hôm nóng nực, bà buộc thành một túm to sau gáy. Bà về làm
việc ở Đài ngay sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Tổng hợp. Suốt nhiều năm bà
làm phóng viên, đi đây đi đó rất xông xáo. Gần đây phần vì có tuổi, phần vì
không còn ai thích hợp hơn, bà được điều sang phụ trách phòng này. Tuy mới
thành lập nhưng công việc ở đây khá bận rộn. Ngày nào đến cơ quan, bà cũng thấy
có nhiều người đến xin đăng ký quảng cáo hàng hóa cho xí nghiệp mình, hoặc
quảng cáo các lớp ngoại ngữ, khiêu vũ, âm nhạc... Một phần không nhỏ trong số
họ đến nhờ bà giúp tìm trẻ lạc, tìm người tâm thần bỏ nhà lang thang, đặc biệt
là tìm lại những người thân bị lưu lạc nhiều năm về trước. Chính những người
này làm bà yêu thích công việc.
Hàng ngày đọc các tờ đăng ký, bà
cảm thấy như được đưa trở lại quá khứ đau buồn, nhiều khi đến mức không thể tin
nổi. Trước mắt bà hiện lên những đoàn người rách rưới, gầy còm, dắt díu nhau đi
xin ăn rồi ngã gục chết bên vệ đường, những cảnh cho con, vứt con, những cảnh
ra đi vì uất hận, vì miếng ăn và vì nhiều lý do khác. Tai họa như cơn bão khủng
khiếp ập xuống đầu những số phận đáng thương, dập vùi họ, đưa họ đi xa mỗi
người một nơi. Rồi hàng chục năm sau đó họ sống trong lo lắng, dằn vặt và
thương nhớ... Họ vất vả tìm đến nhau, muốn biết ai còn, ai mất, muốn được bộc
lộ lòng mình... nhưng không biết phải làm gì, nhờ ai. Nay bỗng xuất hiện cái
phòng của bà, thế là người ta bám lấy bà như người chết đuối bám cọng rơm nhỏ,
dù chẳng mấy hy vọng nhưng còn hơn không có gì để bám. Còn bà, không hiểu sao
bà thấy như mình cũng phần nào có lỗi trong những bi kịch ấy của quá khứ. Bà tự
cho mình có trách niệm phải giúp họ, phải góp phần hàn gắn những mảnh vỡ cuộc
đời họ. Một bé gái mười tuổi cầm đồng bạc duy nhất đi chợ đong gạo cho mười
miệng ăn trong gia đình, không may để mất tiền, sợ về nhà mẹ mắng, bố đánh, nên
em đã bỏ đi biệt tăm. Nếu còn sống, nay em đã gần sáu mươi. Em ở đâu? Các anh chị
và bà mẹ của em đang nhờ bà Bảo Châu tìm hộ.
Có hai ông già từ tỉnh xa đến gặp
bà, kể rằng vào năm 1945 không nỡ nhìn con chết đói, họ phải đem cho đứa bé
kháu nhất trong số bốn người con của mình. Nó là một cậu bé bốn tuổi, khôi ngô
(vì khôi ngô mới đem cho, xấu sẽ chẳng ai nhận). Hôm ấy nó được tắm rửa sạch
sẽ, được cả nhà nhường cho ăn một bữa thật no. Rồi ông bà đem ra chợ huyện, đặt
nó ngồi ngay trước cổng chợ, bên cạnh cắm tấm biển với dòng chữ "xin các
ông, các bà làm phúc nuôi hộ". Còn họ thì nấp trong bụi cây cách đó không
xa, kiên nhẫn chờ cho đến lúc có người mang nó đi mới ra về. Hai ông bà đứng
nhìn theo, nước mắt giàn giụa... Bây giờ họ đến Đài tìm bà Bảo Châu kể lại
những điều trên và nhờ bà tìm hộ. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm. Bà cho
phát qua Đài bảy lần, mỗi lần cách nhau ba ngày. Thật không ngờ, chưa đầy một
tháng sau có một trung tá không quân đến gặp bà, nói rằng ông chính là đứa bé
nọ. Thay mặt bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi, ông trịnh trọng tặng bà một bó hoa thật to
và hai gói kẹo, hai bao thuốc lá, một lạng chè tặng anh em trong phòng. Hôm ấy
là một ngày đáng ghi nhớ. Nhìn người sĩ quan cao to, đẹp đẽ và tràn đầy hạnh
phúc, có lẽ trong nhiều năm, đây là lần đầu bà cảm thấy mình làm được điều gì
đấy đích thực tốt đẹp và có ích cho đời.
Thỉnh thoảng bà cũng nhận được
thư từ các tỉnh xa, báo tin rằng nhờ Đài, họ đã tìm lại được người thân của
mình. Tuy nhiên, những trường hợp may mắn như thế không nhiều, nhưng đây là
công việc đáng làm và bà làm một cách say sưa...
Còn câu chuyện ông lái xe Nguyễn
Văn Biên này là thế nào?
Suốt buổi chiều hôm ấy và cả ngày
hôm sau, bà Bảo Châu luôn bị ông ta ám ảnh. Đây là trường hợp đặc biệt từ trước
tới nay chưa hề gặp, vì vậy bà muốn để lại suy nghĩ thêm trước khi cho phát.
Trước mắt bà lúc nào cũng hiện lên hình ảnh một cô gái mảnh mai, người sốt hầm
hập, đứng một mình dưới trời mưa tầm tã trong rừng giữa đêm khuya. Cô sắp ngất,
cô sợ chết, sợ ma, nhưng có một điều cô sợ hơn tất cả những điều ấy, là sự nhục
nhã. Cô không thể chấp nhận điều kiện của tên lái xe vô lại, nhưng chiếc ca-bin
khô ráo, ấm áp kia lại thuộc về hắn. Hắn là người duy nhất có thể cứu cô nhưng
hắn đòi trả công... Không! Cô thà chết không chịu làm theo lời hắn. Và cô gái
tiếp tục đứng dưới trời mưa, hai tay ôm mặt khóc. Sau đó... Sau đó cô đi bộ một
mình hàng chục cây số? Cô được chiếc xe khác mà người lái xe chưa mất hết tính
người cho đi nhờ đến thị xã? Hay sau đó do dầm mưa, cơn sốt nặng thêm và cô
chết, xác nằm còng queo bên đường?
Còn lái xe, cái gã Nguyễn Văn
Biên khốn nạn ấy thì sao? Ừ, mà anh ta là người thế nào nhỉ? Một người đang tâm
gây nên tội lỗi ghê gớm như thế lại biết hối hận ư? Đến mức suốt nhiều năm sau
đã bỏ công tìm kiếm cô gái kia như anh ta nói? Hay anh ta phịa để tự bào chữa
cho mình? Mà rồi nếu quả bị lương tâm cắn rứt, không lẽ sau ba mươi năm anh ta
không nguôi ngoai chút nào, để bỗng dưng bây giờ không ai bắt, tự mình phơi bày
sự đểu cáng của mình? Không phải với một, hai người mà với tất cả! Qua Đài! Một
việc làm nên gọi dũng cảm hay điên rồ?...
Bỗng nhiên bà Bảo Châu rất muốn
được gặp con người này. Để làm gì thì chính bà cũng không rõ.
Theo địa chỉ, bà tìm đến một ngôi
nhà xinh xắn có hàng rào gạch bao quanh. Ra mở cửa là một người đàn bà gầy quắt
có đôi mắt buồn và mái tóc điểm bạc.
- Thưa chị, đây có phải là nhà
anh Biên, anh Nguyễn Văn Biên lái xe không ạ?
- Vâng, - người đàn bà kia đáp,
ngạc nhiên nhìn khách.
Thấy thế, bà Bảo Châu vội nói
luôn:
- Tôi có chút việc muốn nói
chuyện với anh ấy...
Bà kia càng ngạc nhiên hơn, nhưng
do dự một chốc rồi đáp:
- Mời chị vào.
Căn phòng rộng và trống trải,
chắc chỉ dùng để tiếp khách vì không thấy có giường. Sát tường là chiếc bàn trà
thấp và bốn ghế xa-lông gỗ dán cáu bẩn. Bà Bảo Châu ngồi xuống một trong những
chiếc ghế ấy, yên lặng chờ chủ nhà sang phòng bên chuẩn bị nước mời khách.
Không hiểu sao bà cứ hình dung lái xe Biên bà sắp gặp là người to béo, có ria
mép, da ngăm đen và nhất thiết phải mặc áo phông sọc to. Bà định sẽ vào đề
luôn, rằng bà từ Đài đến, muốn hỏi thêm đôi điều trước khi cho phát cái tin ông
ta yêu cầu...
Bà chủ nhà quay ra, đặt khay nước
lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện, nhìn khách chờ đợi.
- Dạ, anh Biên đâu ạ? - bà Bảo
Châu ngạc nhiên hỏi vì mãi không thấy chủ nhà xuất hiện. - Tôi đến đây nhân cái
tin anh ấy xin phát qua đài...
Bà kia khẽ thốt lên:
- Thế ra cô là "cô ấy"?
- Bà mở to mắt chăm chăm nhìn bà Bảo Châu, nét mặt gần như hốt hoảng.
Bà Bảo Châu cũng lặng lẽ nhìn bà
hồi lâu.
- Không, tôi là người làm ở Đài
phát thanh. Tôi đến đây muốn biết thêm đôi điều trước khi cho phát tin ấy. Hôm
nay anh ấy không có nhà ạ?
Bà kia cúi đầu không nói gì, lúc
sau mới thở dài đáp:
- Nhà tôi không còn nữa. Anh ấy
chết đã được năm năm...
Giờ đến lượt bà Bảo Châu ngạc
nhiên:
- Còn cái tin kia? Hóa ra không
phải anh ấy đem nó đến Đài?
- Vâng. - Bà chủ nhà nói. - Tôi
đã đến chỗ chị... Số là trước khi chết, anh ấy nhờ tôi sau này, nếu có thể, tìm
gặp cô gái kia để thay mặt anh ấy xin lỗi hộ. Tôi đã hứa với anh ấy trong giờ
hấp hối, tuy không biết sẽ làm điều đó bằng cách nào. Gần đây có mục nhắn tin
qua đài, tôi mới nhờ chị. Nội dung cái tin ấy do tôi viết nhưng đúng sự thật và
như chồng tôi mong muốn... Không sao chứ ạ? – Chủ nhà nhìn khách lo lắng hỏi
thêm: - Không lẽ vì thế mà các chị không cho phát?
- Không, không vấn đề không phải
chỗ ấy, - bà Bảo Châu đáp. - Có điều từ trước tới nay quả chúng tôi chưa gặp
trường hợp nào như của anh chị.
- Tôi hiểu, chắc chị thấy khác
thường nên muốn xem hư thực thế nào. Chị yên tâm. Những điều tôi viết trong tin
đều đúng sự thật. Chồng tôi đã nhiều lần kể tôi nghe chuyện này ngay khi mới
xảy ra...
Bà khẽ thở dài, ngồi im một chốc
rồi nói tiếp:
- Nhà tôi là người thật lạ lùng.
Anh ấy vốn ngang tàng, sống bừa bãi và nói thật với chị, chuyện rượu chè, trai
gái có cả. Thế mà thật không ngờ, sau chuyện đó, anh ấy thành người khác hẳn.
Đến tôi là vợ mà cũng không hiểu nổi, nhưng quả đúng thế. Anh ấy bị một cú sốc
mạnh, trở nên ngơ ngác như người vừa ốm dậy. Anh ấy ít nói hẳn, chú ý nhiều hơn
tới vợ con, đặc biệt không bao giờ uống rượu nữa. Tôi biết anh ấy đang đau khổ,
hối hận và luôn nghĩ tới cô gái đáng thương nọ. Anh ấy sợ cô ta đã chết, chết
vì anh ấy. Tôi tìm cách an ủi, thậm chí có lần còn theo lên các nông trường
vùng Mộc Châu, Yên Châu tìm cô...
Bà chủ nhà đột ngột ngừng lời,
đưa chén nước mời khách. Bà cũng cầm một chén, nhấp nháp từng ngụm nhỏ.
- Chị nghĩ phát qua Đài thế này,
có hy vọng cô ấy sẽ lên tiếng không, tất nhiên nếu còn sống, - bà hỏi.
- Thỉnh thoảng chúng tôi có nhận
được tin báo lại rằng nhờ Đài, họ đã tìm được người cần tìm. - Bà Bảo Châu đáp
một cách chung chung.
- Tôi thì tôi không tin cô ấy sẽ
lên tiếng và tự tìm đến, nhưng dù sao vẫn nhờ chị phát hộ cho. Chả là nhà tôi
muốn thế, tôi đã hứa... Trước lúc chết, nhà tôi có để lại bức thư, dặn tôi nếu
gặp thì đưa cho cô ấy.
Bà lại bỏ vào buồng trong, lấy ra
một phong thư không dán.
- Nếu muốn, chị cứ đọc.
Rồi bà bước ra khỏi phòng để
khách được tự nhiên. Bức thư không dài, được viết bằng nét chữ nắn nót kiểu học
trò:
"Suốt nhiều năm nay tôi tìm
chị khắp nơi nhưng không thấy. Tôi đang bệnh nặng và chắc chỉ ít ngày nữa sẽ
chết. Trước khi chết tôi viết mấy dòng để nếu lúc nào đó, nhờ phép lạ, người
thân của tôi gặp được, sẽ đưa cho chị. Tôi biết tôi không đáng được tha thứ,
nhưng lúc này, đang hấp hối, tôi xin chị hãy tha thứ cho tôi. Nếu chị đã chết,
xin linh hồn chị tha thứ cho tôi. Tôi đã chịu quá nhiều đau khổ, đã bị trừng
phạt quá đủ cho hành động đểu cáng ấy của mình. Có lẽ trong đời ai cũng có
những giây phút đen tối, những giây phút vô thức dẫn tới một việc làm tội lỗi
để sau này phải luôn day dứt, ân hận vì nó.
Một lần nữa xin chị hãy tha thứ
cho tôi!"
Ba ngày sau, bà Bảo Châu cho phát
qua Đài tin lái xe Nguyễn Văn Biên, công ty X. cách đây 35 năm, vào một đêm
trời mưa to...
Buổi tối, đến phần thông tin xã
hội, bà lại gần chiếc đài, khoanh tay chăm chú ngồi nghe. Vô tình, bà với tay
vặn to đài. Bà chợt nảy ý muốn lạ lùng là tất cả đàn ông trong nước, trên toàn
thế giới, phải nghe tin này. Tất cả không trừ một ai, tất nhiên trong đó có
chồng bà, một người vẻ ngoài lịch sự, nhân hậu nhưng thực chất là kẻ ích kỷ,
thô lỗ mà bà phải chịu đựng bao năm nay.
Đang đọc báo ở chiếc ghế bên
cạnh, ông chồng bà chỉ lặng lẽ đứng dậy vặn bé chiếc đài, nhìn bà với vẻ khó
hiểu rồi lại ngồi xuống, chúi đầu vào tờ báo.
Hà
Nội, 1989
FUR ELISE
Chiếc xe buýt du lịch cao ngất ngưỡng
sơn màu sặc sỡ chậm chạp đi theo những con đường rải nhựa ngoằn ngoèo trong
công viên - vườn thú Safari ở ngoại ô Băng Cốc.
Nếu được phóng tầm mắt chút nữa,
người ta sẽ có cảm giác như đang đi trong các vườn quốc gia châu Phi hoặc trực
tiếp tham gia quay phim Thế giới Động vật cho chương trình Discovery. Thỉnh
thoảng chiếc xe dừng lại nhường đường cho một đàn hươu cao cổ. Một đàn chứ
không phải vài con. Những con vật vụng về tuyệt đẹp với chiếc cổ cao lêu đêu
ngật ngưỡng đi ngay bên cạnh. Có con còn dừng lại, chạm chiếc đầu bé một cách
mất cân đối vào lớp kính thành xe như tò mò muốn biết bên trong cái hộp biết đi
kỳ cục này có những gì. Xa hơn chút ít là bầy tê giác, loại một hoặc hai sừng,
con nằm con đứng, con trơ trẽn hít hít mông con khác. Mấy con hổ (hoặc sư tử,
gấu, tùy lúc ấy xe đi tới đâu) đang nằm phơi nắng trên ô đất cao bên khe nước.
Hình như mỗi loài có một khu riêng nhưng không thấy có gì ngăn cách. Lạ một
điều là các loài hiền lành như nai, dê sống cạnh những loài ăn thịt mà chẳng
thấy cảnh săn đuổi chết chóc.
Trên xe có khoảng bốn chục khách
du lịch người Việt, phần lớn gồm các ông, các bà đã có tuổi mới ra nước ngoài
lần đầu được cơ quan bao trọn gói cả tua du lịch năm ngày sang Thái Lan. Mỗi cơ
quan mấy người, gộp lại thành đoàn. Cũng có gia đình bỏ tiền túi đi riêng, nên
hầu hết đến đây mới gặp nhau lần đầu. Hai xe đi trước và sau họ cũng có thành
phần tương tự. Sau dịch SARS, theo số liệu của nước chủ nhà, khách du lịch từ
Việt nam tới Thái Lan chiếm số đông, thậm chí hơn cả từ Trung Quốc và Hồng Công
cộng lại.
Hướng dẫn cho đoàn suốt cả tua là
một Việt Kiều sang đây đã hai mươi năm, bốn mươi tuổi nhưng chưa vợ, người gầy,
da đen, hóm hỉnh và thích pha trò, tuy đôi khi không thật đúng chỗ. Ngoài ra
còn có một cô người Thái trẻ đẹp nói tiếng Anh khá sõi, thứ tiếng ít người biết
để trao đổi nên cô luôn im lặng với nụ cười thường trực trên môi.
Xe đang đi qua một khu có rất
nhiều chim. Anh hướng dẫn người Việt bỗng ngừng lời quảng cáo các trò giải trí
ở Băng Cốc, sôi nổi nói:
“Các vị hãy nhìn kia! Đây là loài
nổi tiếng chung thủy nhất trong các loài chim. Điều ấy có đáng biểu dương hay
không thì lại là chuyện khác, nhưng quả chúng bao giờ cũng sống có đôi, và khi
một con chết, con kia sẽ bay tít lên cao để lao đầu xuống chết theo!”
“Tuyệt nhỉ!” một bà thốt lên. Bà
mặc chiếc váy sọc to, người đẫy đà, mặt đỏ lự vì hay xúc động.
“Ngớ ngẩn. Thế là ngu!” ông ngồi
bên đáp. Ông này nhỏ con, mái tóc bạc gần hết, có vẻ phong trần nhưng giọng nhỏ
nhẹ chẳng tương xứng chút nào với câu thô lỗ ông vừa nói.
Bà kia cụt hứng, nhíu trán khó
chịu nhưng không nói gì.
Mọi người nhìn theo hướng được
chỉ. Trên một cành cây cụt có đôi chim gì đó to lớn đang đậu, màu sặc sỡ và
đuôi dài như chim công.
“Tôi dám chắc chỉ con cái lao
xuống chết chứ con đực thì không”, một ông khác lên tiếng.
Anh hướng dẫn do dự một chốc rồi
đáp:
“Rất tiếc rằng quả đúng như thế.
Chỉ con cái. Chỉ phái yếu mới biết hy sinh vì tình yêu. Do vậy, trong vấn đề
này họ cao hơn hẳn đàn ông chúng ta”.
“Và cả khi con cái của mình còn
sống,” ông đầu bạc nói, “con đực vẫn thường xuyên lăng nhăng với các con cái
khác?”
“Tôi không chắc lắm, nhưng có lẽ
điều ấy cũng có.”
“Vậy tôi nói ngu không đúng ư? Ấy
là tôi nói về những con chim cái kia, tất nhiên, chứ không phải các bà. Đơn
giản nhiều bà chưa được như thế.”
Bà váy sọc quay sang nhìn ông,
mặt đã đỏ càng đỏ hơn:
“Ông là người thô lỗ hiếm thấy!”
Xe dừng, vì lại có con rắn lớn
nằm chắn đường. Nhân dịp này anh Việt Kiều chuyển đề tài, nói rằng có loài rắn
thời gian giao cấu kéo dài những ba mươi tư tiếng đồng hồ. Mọi người có vẻ ngạc
nhiên nhưng không ai nói gì. Chỉ một bà khẽ thốt lên “Khiếp”, rồi không hiểu
sao cười khúc khích một mình.
Buổi trưa ăn xong, khi ngồi nghỉ
bên suối nước đầy những con cá to bằng bắp chân đủ màu để chờ buổi biểu diễn mô
phỏng một số cảnh trong phim Điệp viên 007, ông đầu bạc quay sang nói với bà
váy sọc:
“Bà đừng giận nữa. Tôi nói là nói
cho vui thế thôi. Nhưng chắc bà cũng phải đồng ý với tôi rằng trong tình yêu
quả có nhiều điều kỳ cục không giải thích nổi.”
Bà kia im lặng. Một người xen
vào:
“Có thế mới là tình yêu, chứ
không thì chán chết.”
“Năm ngoái ở phố tôi có người vợ
chết, buồn quá mà tự tử đấy. Ông bảo thế cũng ngớ ngẩn sao?” một người nữa hỏi.
“Đúng. Ngớ ngẩn! Chết chưa phải
là bằng chứng một tình yêu lớn.”
“Thế theo ông thì là gì?”
“Chỉ những người yếu đuối mới
chết vì tình. Sống để yêu mới khó!” Ai đó bình luận.
“Tôi thì cho là ngược lại.”
Thế là do rỗi việc, cả vì do
không có chuyện gì nữa để nói, người ta bắt đầu tranh luận về tình yêu, tuy
không mấy hăng hái, có người ngủ gật. Cuối cùng ông đầu bạc lên tiếng:
“Để tôi kể các vị nghe chuyện
này. Sau đó ai muốn kết luận thế nào thì tùy.”
*
Trong tình yêu quả có nhiều sự
lạ, mà chủ yếu từ phía phụ nữ. Tôi biết một người có thể nói tuyệt vời về mọi
mặt. Xinh đẹp, có học, gia đình êm ấm với một ông chồng trí thức và hai đứa con
rất ngoan. Ấy là tôi nói trước đây, khi câu chuyện mới xẩy ra mấy chục năm về
trước. Thế mà con người có học, thông minh và đang hạnh phúc ấy bỗng dưng bỏ
chồng con chạy theo một gã trai chẳng ra gì. Lúc ấy bà ta đã hơn ba mươi, còn
thằng kia mới hăm lăm, chưa vợ nhưng nổi tiếng chim gái nhất nhì thành phố. Các
vị muốn biết vì sao? Đơn giản vì một hôm ngẫu nhiên gặp nhau đâu đó và bà ta
được hắn (lúc ấy mới tốt nghiệp khoa pi-an-ô Nhạc Viện Hà Nội) chơi cho nghe
một bản nhạc ngắn. Vậy mà trời xui đất khiến thế nào, bà ta đem lòng si mê hắn,
ba hôm sau thì theo hắn đi chơi xa đúng một tuần. Lúc về cương quyết đòi li dị
chồng không được, bà ta liền khăn gói sang ở hẳn với người tình mới.
Chắc có vị bảo tôi phịa vì những
chuyện như thế chỉ bên Tây mới có chứ không phải ở ta, nhất là vào cái thời đói
khổ ấy. Bản thân tôi cũng không hiểu nhưng sự thật nó xẩy ra đúng như thế. Thì
đã bảo sự lạ mà. Tôi nghĩ trong bộ não con người, hay nói trái tim cũng được,
có một chỗ nào đấy rất mềm, rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương bởi những xúc động
mạnh, sau đó thì không sao lành lại được. Có thể trường hợp cái bà tôi đang kể
cũng vậy. Bản nhạc kia đã làm bà ta mất trí. Nếu không chẳng sao giải thích nổi
những việc bà ta làm sau này. Ở xóm tôi có một ông nhờ đọc sách Luận Ngữ của
Khổng Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử mà trở thành người khác hẳn đấy. Theo hướng
tốt hơn, tất nhiên. Tôi cũng đọc nhưng chẳng thay đổi gì. Nghĩa là tùy người,
tùy hoàn cảnh.
Đó là bản nhạc cổ điển Fur Elise
(Gửi nàng Elise), của ông nhạc sĩ người Đức Beethoven. Nó ngắn thôi, lại đơn
giản, nhưng phải nói rất hay và dễ gây xúc động, nhất là khi người nghe được kể
rằng ông nhạc sĩ thiên tài già điếc này gửi nó thay thư cho một nàng Elise nào
đó ông lặng lẽ yêu say đắm mà không được yêu lại. Chắc thằng kia vừa đàn vừa
phịa thêm cho câu chuyện tình lãng mạn đó nhiều chi tiết lâm ly để gây ảnh
hưởng với người hắn định tán. Và hắn đã thành công như ta thấy.
Tôi chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra
trong cái đầu thông minh mà ngu ngốc kia của bà ta. Bản nhạc làm bà mụ người,
đến mức có thể yêu, yêu si mê một người như hắn - mặt lưỡi cày, mắt ti hí, gầy
nhom như thằng nghiện, lại bản tính thô lỗ, lười nhác và ích kỷ nhất hạng. Sau
ba tháng sống với nhau như vợ chồng, hắn chán rồi thẳng tay đuổi người tình ra
khỏi nhà. Trong ba tháng ấy bà kiếm tiền nuôi hắn, cung phụng, tôn thờ hắn như
một con nô lệ, tất cả chỉ để được thỉnh thoảng hắn chơi cho nghe bản nhạc Gửi
nàng Elise kia! May bố mẹ giàu, mua cho ngôi nhà nhỏ trong ngõ chợ nên bà không
phải quay lại với chồng cũ, dù ông này đã tha thứ và cố thuyết phục nhưng bà
nhất định không nghe. Có thể vì tình yêu với hắn, cũng có thể bà xấu hổ với
chồng con nên quyết định đã đâm lao thì phải theo lao.
Vài tuần sau, quen được người
cung phụng, thằng kia mò đến tìm. Bà vội vã đi theo hắn như sợ bị thay đổi ý
kiến, không một lời căn vặn, trách móc. Có điều lần này hắn trở nên quá quắt,
thô lỗ hơn, và tất nhiên không thèm giữ ý tứ, tán tỉnh như trước. Hắn ngang
nhiên dẫn gái về nhà, cả khi bà đang có mặt. Thật kỳ lạ, bà vẫn nhẫn nhục chịu
đựng tất cả. Vì hắn. Vì cái bài Gửi nàng Elise của hắn! Tôi không là bác sĩ,
không biết gì về thuyết phân tâm của Freud, nhưng tôi cho rằng có thể đây là
một dạng bệnh tâm thần, đại khái như tâm thần tình yêu chẳng hạn.
Cuối cùng bố mẹ thằng kia bắt hắn
lấy vợ. Bà lại lủi thủi quay về với ngôi nhà trong ngõ chợ. Lủi thủi héo hon
chờ đợi mỗi tháng đôi lần hắn đến xin tiền. Bà nhịn ăn, ki cóp từng xu, có khi
phải đi vay để đưa cho hắn. Những lúc ấy mặt bà rạng rỡ hạnh phúc, nói năng ấp
úng vì xúc động. Có thể từ lâu bà nghĩ mình là nàng Elise và người tình là
Beethoven chăng? Thằng Beethoven này không thất tình đau khổ mà luôn khinh
khỉnh nhìn bà, và hễ có được tiền là tìm cách chuồn ngay.
Cứ thế kéo dài đúng hai mươi năm.
Các vị lại ngạc nhiên? Thế tôi mới nói là ngu, là ngớ ngẩn. Trong hai mươi năm
ấy bà có thể quay lại với chồng con bất kỳ lúc nào nhưng bà đã không làm thế.
Ông chồng đều đặn hàng tháng gửi tiền cho người vợ chưa li dị của mình - chẳng
hiểu vì tình yêu hay lòng thương hại. Sau này anh con lớn đi làm thỉnh thoảng
cho thêm. Tất nhiên bà đưa hết số tiền đó cho Beethoven của mình. Vì hắn, bà đã
bị đuổi việc từ lâu do tự ý nghỉ quá nhiều.
Suốt thời gian ấy bà sống lặng
lẽ, không có sự cố gì đặc biệt, trừ hai lần bị đẩy đến tột đỉnh của hạnh phúc
và sợ hãi. Chính xác là một hôm cuối năm 1978, để bà đồng ý kiếm cho một khoản
tiền không nhỏ, hắn đưa bà vào Nhà Hát Lớn nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sỹ
dương cầm người Nga. Trong chương trình có bản Fur Elise. Bà dành trọn ba ngày
chuẩn bị cho sự kiện trọng đại đó. Sự kiện thứ hai xẩy ra khoảng mấy năm sau.
Một sự kiện buồn. Bà bị vợ hắn tạt a-xit do ghen tuông. May không trúng mặt và
chỉ bị bỏng nhẹ ở bàn tay phải. Sau đấy vì lo sợ, bà ốm mất một tháng mới khỏi.
Bây giờ bà đã là một mụ già. Một
mụ già khốn khổ nhưng mãn nguyện vì đã mười năm nay được sống với người mình
yêu. Số là vợ thằng kia không chịu nổi chồng cuối cùng đã bỏ đi, để lại hắn một
mình không việc làm, không đồng xu dính túi, hơn thế lại mắc bệnh hen xuyễn và
xơ gan nặng vì rượu. Thời gian gần đây thì hắn hầu như nằm một chỗ, thậm chí có
muốn cũng không chơi nổi bài Fur Elise để gọi là trả công cho mọi lo toan vất
vả của mụ. Vì yếu và bất động, hắn không thể thô lỗ như trước, nhưng thỉnh
thoảng vẫn quát mụ bằng giọng khò khè the thé khi cần cái gì đó. Những lúc ấy
người đàn bà tội nghiệp này lại cuống lên lo chạy thỏa mãn yêu cầu của hắn,
miệng xuýt xoa đến cảm động...
*
“Đúng là một mụ điên!” Ai đó lên
tiếng khi người kể chuyện dừng lời.
“Dẫu sao cũng là một tình yêu
lớn. Người yêu được như thế ít lắm”. Một người khác nói, không hiểu sao thở dài
rõ to.
Bà váy sọc quay sang ông đầu bạc,
thái độ lúc này có vẻ thân thiện hơn:
“Ông không là nhà văn đấy chứ?
Ông phịa giỏi lắm. Phi lý nhưng nghe mùi mẫn. Hay ông đọc được đâu đó ?”
“Tin hay không hoặc nghĩ thế nào
tùy bà. Tôi đã nói trước rồi mà. Nhưng chuyện có thật đấy. Trăm phần trăm, dù
đúng là ngớ ngẩn và phi lý như bà nói. Nhưng rồi suy cho cùng, ở người đàn bà
nào cũng có chút ít chất ngớ ngẩn và phi lý ấy, đặc biệt khi chuyện liên quan
đến tình yêu. Vấn đề chỉ ở mức độ. Bà không tin, hôm nào về Hà Nội tôi dẫn đến
gặp người đàn bà ấy. Bà ta có quán nước trà ở Ngã Năm Lò Đúc. Để có tiền, bà ta
còn làm thêm bao nhiêu việc, từ giặt thuê, trông trẻ cho đến trông xe. Không ít
khi còn giở trò láu lỉnh tính gian tiền của khách. Bà cứ đến rồi khắc thấy. Vất
vả lắm, nhưng mãn nguyện ra mặt. Thậm chí người đã bắt đầu phát phì”.
“Thế còn ông chồng cũ?” một người
hỏi.
“Chẳng sao cả. Ông ấy không li dị
vợ mà cũng chẳng lấy vợ khác. Một người tốt như tôi nói và đến giờ vẫn đều đều
hàng tháng gửi tiền cho bà. Nghe nói ông còn tự học pianô để chơi bài Gửi nàng
Elise cho bà nghe. Nhưng tiếc tiếng đàn của ông không làm bà xúc động mà quay
lại”.
“Cũng lại một thằng ngốc nốt!”
“Có thể. Tình yêu cũng biến đàn
ông chúng ta thành những thằng ngốc. Ngu ngốc không phải độc quyền của riêng
phái nữ. Hơn thế chúng ta dường như không chỉ đau khổ mà còn lấy làm hạnh phúc
vì sự ngu ngốc ấy”.
“Tôi nghi không khéo ông chính là
chồng bà ta?”
Bà mặc váy sọc cười khúc khích,
nhưng ông đầu bạc không đáp, chỉ quay mặt hướng khác.
Đến giờ đi tham quan tiếp, không
khí chẳng mấy hứng khởi vì bữa ăn no đang gọi cơn buồn ngủ, có lẽ còn cả vì câu
chuyện vừa rồi. Không ai nhắc tới nó, nhưng chắc còn vương vấn suy nghĩ, chuyện
người khác và chuyện của mình. Thậm chí những con hươu cao cổ, tê giác, hổ báo
trước đó làm họ phấn khích đến thế bây giờ dường như cũng chỉ là những con vật
bình thường.
*
Buổi tối ở khách sạn, trước khi
đi dạo phố, ông đầu bạc ngồi xuống trước chiếc đàn pianô loại lớn bóng loáng
màu đen tại phòng ăn. Những ngón tay lóng ngóng của ông rón rén dạo trên các
phím đàn. Bản Fur Elise của Beethoven! Ông đàn hai lần, may đều lưu loát trừ
một chỗ vấp ở đoạn giữa. Tiếng đàn còn vụng về nhưng diễn cảm và đúng nhịp.
Mọi ngưòi quay sang nhìn. Đàn
xong, ông đặt tay lên đầu gối rồi nói với mấy bà đang đứng cạnh:
“Không ai si mê tôi à?”
Hà
Nội, 16. 9. 2003
BÔNG HỒNG CHƯA TẶNG
Tám giờ kém mười. Lần nữa chuông
rung dài phía trong Nhà Hát Lớn.
Mấy người đến muộn đang vội vã
leo lên các bậc đá lát để đi qua chiếc cửa sắt nhỏ có bà soát vé to béo đứng
cạnh, vừa xé vé vừa giục họ nhanh lên vì buổi diễn sắp bắt đầu. Đúng tám giờ,
chiếc cửa sắt bị khóa. Bà kia lui sang bên, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Cuối cùng, trước nhà hát chẳng
còn ai ngoài mấy người bán hàng rong, một thanh niên mặc quần áo bộ đội vẫn
ngồi trên yên xe đạp, chân chống xuống đất, một cô gái trẻ mặc áo khoác màu
sáng luôn nhìn đồng hồ, đi lại vẻ sốt ruột, và tôi.
Tôi không đi lại, không sốt ruột
vì chẳng chờ ai, chỉ buồn do không mua được vé vào nghe buổi hòa nhạc của một
nghệ sĩ pianô nổi tiếng người Nga mà tôi hâm mộ.
Đang cuối tháng Hai, mới Tết xong
và trời còn khá lạnh. Lại thêm chút mưa phùn lất phất, nhỏ thôi, và chỉ nhận
thấy qua ánh sáng vàng nhạt của mấy cột đèn gần đó.
Anh thanh niên đã đạp xe đi. Cô
gái vẫn nấn ná chờ người nhỡ hẹn. Tôi thì đứng ngay dưới cánh cửa sắt vì còn hy
vọng biết đâu ai đấy vào phút chót có thể thừa vé nhượng lại.
Cô gái không đội mũ. Mái tóc
phi-dê cắt ngắn xới phồng với những giọt nước li ti bám phía trên. Tôi ngạc
nhiên thấy chúng có màu khác nhau. Tế nhị không nhìn lâu, nhưng khi cô đi ngang
tôi cũng kịp nhận thấy một khuôn mặt rất xinh, hơi gầy và thanh thoát, có lẽ
nhờ chiếc mũi thẳng và đôi mắt sâu. Một vẻ đẹp cổ điển, sang trọng của người có
văn hóa. Mấy lần tôi định nhưng không dám hỏi mua lại một trong hai chiếc vé mà
tôi tin chắc nàng đang giữ trong chiếc ví đầm đeo bên hông.
Bất chợt nàng đi lại gần tôi và nói,
rất thản nhiên, giản dị:
“Anh có muốn đi dạo với em một
chốc không?”
Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi,
đã tập tãnh nghề văn và đang yêu. Tôi yêu một ca sĩ, nghiệp dư thôi nhưng đang
nổi, ít ra mấy lần đoạt giải các cuộc thi văn nghệ phong trào. Nàng cũng xinh
và chúng tôi yêu nhau thực sự. Có điều khác hẳn tôi, nàng không thích nhạc cổ
điển nên chẳng bao giờ chúng tôi cùng vào Nhà Hát Lớn, mặc dù chiều nàng, tôi
luôn có mặt ở những đêm ca nhạc tôi chẳng mấy thích thú.
Cô gái hơi lúng túng khi tôi, vì
bối rối chưa biết trả lời thế nào. Tuy nhiên chi mấy phút sau chúng tôi đã sóng
đôi đi dọc theo phố Tràng Tiền rồi vòng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm.
Thành phố ban đêm thật đẹp và yên
tĩnh. Ánh điện hắt lên mặt hồ thành từng vùng tròn như những chiếc trứng tráng
trong chảo. Phía nhà Thủy Tạ có mấy ngọn đèn xanh in ngược xuống nước thành
hình những chiếc cọc, tất nhiên cũng màu xanh và run rẩy như muốn gãy khuỵu
dưới sức nặng của chiếc quán hai tầng trên đó. Có tiếng kèn xắc-xô-phôn buồn
buồn vọng lại, xuyên qua lớp sương mù màu trắng ẩm ướt.
Chúng tôi lặng lẽ đi một đoạn dài
không ai nói gì. Cuối cùng tôi lên tiếng:
“Chị vừa chờ ai nhưng người ấy
không tới?”
“Em chờ chồng em”, nàng đáp, cũng
rất tự nhiên. “Nhưng không sao, em quen
với cảnh này rồi”.
“Và để trả thù chồng, chị mời
tôi, một người lạ đi dạo thế này?”
Nàng không đáp. Tôi cũng im, lấy
làm tiếc đã hỏi điều đáng lẽ không nên hỏi. Tôi thấy lạ trước cách cư xử của
nàng. Cứ như ở một nước phương Tây nào đó. Rõ ràng nàng không thuộc loại phụ nữ
dễ dãi, chưa hẳn đã thích phiêu lưu, vì ở nàng tôi thấy có cái gì đó sạch sẽ và
nghiêm túc. Thế thì sao nàng, một người có chồng như đã nói, lại chủ động mời
tôi đi dạo? Có ẩn ý gì chăng? Nàng là ai và cần gì ở tôi?
Vì lúc ấy còn trẻ và đang bị trí
tò mò kích thích, tôi chẳng băn khoăn nhiều với những câu hỏi như thế, chỉ thấy
sung sướng được đi dạo cùng người đẹp trong một đêm Hà Nội mơ mộng.
Chúng tôi vào Thủy Tạ ăn kem,
những hai suất. Nàng để tôi trả tiền không chút kiểu cách. Rồi chúng tôi thong
thả đi thêm một vòng quanh hồ, sau khi quành sang phố Nhà Thờ, phố Hàng Trống
và một đoạn phố Hàng Gai. Khi trở lại Nhà Hát Lớn thì vừa đúng mười giờ rưỡi,
cũng là lúc buổi diễn kết thúc và lác đác đã có vài người đi ra. Tôi đề nghị
được đưa nàng về nhà nhưng nàng lắc đầu.
Nàng chìa bàn tay nhỏ bé của mình
cho tôi. Bàn tay mềm và ấm, lần đầu tôi được chạm vào nó.
“Anh dễ thương thật đấy. Suốt mấy
tiếng đồng hồ không hỏi một câu ngốc nghếch nào. Em thích những người như vậy.
Em cũng thích anh. Nếu anh hay đến nhà hát này thì chắc ta còn nhiều dịp gặp
nhau. Tam biệt và cảm ơn!”
Rồi nàng bỏ đi, đến đứng chếch
phía bên phải nhà hát. Lát sau có chiếc ô tô màu đen đi tới đưa nàng đi. Một cô
gái kỳ lạ mà lúc ấy tôi chưa biết tên và cô cũng chưa biết tên tôi.
Không phải tôi không hỏi câu nào.
Theo yêu cầu của tôi, nàng nói chồng nàng là một quan chức quan trọng, hơn nàng
những hai mươi lăm tuổi. Và rằng nàng đồng ý lấy ông vì bố mẹ bắt thế chứ chẳng
vì tình yêu. Tuy nhiên đó không phải lý do để nàng không quí trọng ông hoặc cảm
thấy bất hạnh. Đơn giản nàng nghĩ một khi đã là vợ chồng thì phải cư xử theo
đúng đạo vợ chồng. Xuất thân từ gia đình gia giáo, nàng nghĩ cần phải thế. Chỉ
tiếc ông không hiểu và không coi trọng nghề nàng. Tôi hỏi nghề gì, nàng chỉ im
lặng mỉm cười. Phần tôi, tôi nói đang yêu và cũng được yêu lại. Một cách xã
giao và hơi kỳ cục, chúng tôi chúc nhau hạnh phúc. Ngoài ra không hỏi gì hơn về
đời tư mỗi người.
Nửa tháng sau tôi lại vào Nhà Hát
Lớn để xem vở ba-lê Giselle do một đạo diễn người Pháp giúp Việt Nam dàn dựng.
Và lại gặp nàng. Không phải trước nhà hát mà trên sàn diễn. Hơn thế, trong vai
chính, tức là nàng Giselle xinh đẹp phải chịu nhiều đau khổ trước khi tìm được
hạnh phúc của mình như ở phần kết hầu hết các vở ba-lê khác.
Xem tờ rơi giới thiệu nội dung,
tôi biết tên nàng là Lệ Trinh, một diễn viên trẻ đầy triển vọng của Nhà hát
Nhạc, Vũ kịch Trung ương, mới tốt nghiệp trường ba-lê danh tiếng nhất Liên Xô,
ở chính thành phố tôi từng học trước đó mấy năm. Với cảm giác ngạc nhiên và hơi
chút ít lâng lâng, suốt buổi diễn tôi chỉ ngắm nhìn một mình nàng trong bộ đồ
ba-lê trắng mỏng tinh khiết. Cả người nàng cũng trắng mỏng tinh khiết. Nàng
thoăn thoắt bước đi trên hai đầu ngón chân bé nhỏ, xen những cú nhảy nhẹ tưởng
như không trọng lượng. Nàng đẹp một cách lộng lẫy. Cái đẹp hoàn thiện, thoát
tục, đến mức trong tôi chỉ còn lại cảm giác ngưỡng mộ như khi người ta ngưỡng
mộ một nữ thần. Thật khó tin mới chỉ mấy ngày trước đó tôi được nữ thần ấy mời
đi dạo, thậm chí được chạm tay nàng.
Sau buổi diễn, đứng khuất phía xa
trước nhà hát, tôi nhìn thấy nàng, vẫn
chiếc áo khoác hôm nọ, đang cùng một người đàn ông cao to mặc com-lê đen
âu yếm dẫn nàng đến chiếc ô tô màu đen đợi sẵn. Chiếc ô tô chở nàng lần trước.
Trong vở diễn nàng được chàng hoàng tử nâng trên đôi tay khỏe mạnh của mình,
còn ngoài đời, nâng đỡ nàng là chiếc ô tô của chồng, chức vụ và có lẽ cả đôi
tay cũng rất khỏe của ông ta. Tôi thở dài, thầm mỉm cười với sự so sánh ngồ ngộ
ấy.
Tôi thờ thẩn bước đi giữa phố,
đúng lộ trình tôi và nàng đã đi lần trước. Lần này trời quang đãng và đầy sao.
Những ngôi sao khá lớn chen chúc trên mặt nước hồ Hoàn Kiếm. Tôi đứng hồi lâu
trên cầu Thê Húc, tay vịn vào thành cầu đẫm hơi sương nhưng không hiểu sao lám
nhám những hạt cát nhỏ. Tôi lờ mờ thấy mình đang yêu. Đúng, yêu nàng, nhưng là
thứ tình yêu khác hẳn với tình yêu đối với cô ca sĩ nghiệp dư đang nổi. Một
tình yêu trừu tượng, vô vọng và pha chút mặc cảm tội lỗi vì nàng đã có chồng.
Xưa nay ngoài sách, nhạc cổ điển
là đam mê lớn nhất của tôi, nên hầu như tôi không bỏ sót buổi hòa nhạc nào loại
này ở Hà Nội. Thậm chí thời sinh viên tôi từng mơ ước trở thành nhạc sĩ hoặc
chỉ huy dàn nhạc giao hưởng.
Mấy hôm sau tôi lại có mặt ở Nhà
Hát Lớn để nghe một chương trình nhạc Beethoven, gồm các bản giao hưởng số Một,
số Sáu và khúc dạo đầu (ouverture) Coriolant. Lần này may tôi mua được vé, tất
nhiên chỉ đi một mình.
Nàng xuất hiện đúng lúc tôi sắp
bước vào nhà hát, mặc quần jeans, đi giày da và khoác trên người chiếc áo len
rộng màu xanh nhạt. Tôi có cảm giác mặt nàng đỏ ửng, hơi thở gấp, có lẽ do
trước đó phải chạy một quãng.
“Chào Lệ Trinh,” tôi lên tiếng
trước, cố giấu vẻ hồi hộp. “Hôm nay chồng chị lại nhỡ hẹn nữa à?”
Nàng không ngạc nhiên khi tôi gọi
đúng tên.
“Không. Em đi một mình. Em đến
đây vì anh,” nàng đáp, cũng tự nhiên và giản dị như lần trước. “Anh có sẵn sàng
bỏ buổi hòa nhạc để đi dạo với em không?”
Chúng tôi lại đi theo các phố cũ,
có ghé vào Thủy Tạ nhưng không ăn kem mà uống cà phê, vừa uống vừa ngắm mặt hồ
ban đêm và ôn chuyện Liên Xô. Dường như đề tài này làm hai người tự nhiên, thân
mật hơn. Tịnh không một lời về đời riêng của nhau. Sau đó như lần trước, tôi
đưa nàng trở lại nhà hát chỉ mấy phút trước khi ông chồng đánh ô tô đến đón
nàng về.
Những tháng tiếp theo tôi còn mấy
lần được nàng rủ đi chơi như thế. Mấy lần thấy ông chồng cùng nàng vào nhà hát.
Tuy nhiên nàng chẳng tỏ ra thân mật hơn trước, ngoài việc tôi có thể giữ tay
nàng lâu hơn, thậm chí một lần còn nâng lên hôn mà không bị rút lại. Thỉnh
thoảng như vô tình, nàng hỏi chuyện tình yêu của tôi với cô kia, và tôi nói mọi
chuyện vẫn bình thường.
“Phải chăng nàng cũng yêu tôi,
hay chẳng qua đó chỉ là trò đùa của những người xinh đẹp, giàu có và rất hiểu
rõ địa vị mình?” Câu hỏi ấy cứ làm tôi băn khoăn mãi. Vốn hay mặc cảm và không
muốn rơi vào thế lố bịch, dẫu rất yêu, tôi vẫn luôn tỏ ra kiềm chế, vì dẫu sao
nàng cũng đã có chồng.
Một lần tôi còn chuẩn bị sẵn một
bông hồng giấu trong cặp định tặng nàng, nhưng khi gặp lại không đủ can đảm
trao nàng bông hồng ấy.
Sau đó, một thời gian rất lâu tôi
không thấy nàng xuất hiện, cả trên sàn diễn lẫn trước cửa Nhà Hát Lớn. Linh
tính báo có chuyện khác thường. Tôi nhờ người dò hỏi và được biết chồng nàng bị
bắt cách đấy không lâu (vì lý do gì không rõ), đang bị giam đâu đó tận Tây
Nguyên, và nàng đã bỏ hẳn vào đấy để chăm sóc ông.
*
Từ đó tôi chẳng biết gì thêm về Lệ Trinh. Rồi mọi cái cũng qua đi, kể cả
tình yêu của tôi với nàng, còn lại trong tôi chỉ là sự luyến tiếc mơ hồ như
luyến tiếc một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy vợ, có con, không phải lấy cô ca sĩ xinh
đẹp không yêu nhạc cổ điển, cũng không phải vài người nữa tôi yêu sau đó. Cuộc
đời dần dần đi vào nếp ổn định. Tôi lấy thế làm hài lòng và chẳng có gì phải
than phiền. Tôi vẫn đều đặn vào Nhà Hát Lớn nghe hòa nhạc hoặc xem ba-lê. Chỉ
những lúc ấy tôi mới nhớ đến Lệ Trinh, đặc biệt hôm đầu tiên thấy nàng trên sàn
diễn trong vai cô gái Giselle xinh đẹp, tinh khiết và dường như không trọng
lượng. Tôi cũng nhớ cả những đêm được đi dạo bên nàng hoặc phải lang thang một
mình giữa các phố Hà Nội cho đến tận sáng như mọi chàng trai si tình khác. Rồi
tôi thương cho nàng đáng lẽ được ông chồng to khỏe, đạo mạo, đầy chức quyền kia
nâng trên tay đi hết cuộc đời, thì lại phải vào tận chốn rừng núi hoang vu miền
Nam để nuôi ông, nâng cái cơ thể to khỏe kia của ông bằng chính đôi tay bé nhỏ
của nàng, trên đôi chân đi những bước nhỏ bằng ngón kiểu ba-lê của nàng. Bây
giờ nàng thế nào và đang ở đâu?
*
Một hôm, bất ngờ tôi nhận được
bức thư từ Mỹ. Thư của Lệ Trinh.
“Chắc anh không còn nhớ em và
đang ngạc nhiên? Em là Lệ Trinh, người cùng anh mấy lần đi dạo quanh hồ Hoàn
Kiếm cách đây đã nhiều năm.”
Nàng viết, vẫn bằng giọng tự
nhiên, chân thành như xưa.
“Bây
giờ, ở khoảng cách an toàn, rất xa cả về địa lý lẫn thời gian, em mới dám nói
với anh điều này. Em yêu anh! Em đã rất yêu anh những ngày được gặp và không
được gặp anh thời ấy. Anh không biết, hay đúng hơn, em không cho anh biết điều
đó, vì em đã có chồng, còn anh thì đang yêu người khác. Dẫu mãnh liệt, tình cảm
của em đối với anh đã không thắng được ý thức đạo nghĩa vợ chồng trong em. Vả
lại em cũng không thể cho phép mình cướp đi hạnh phúc của cô gái anh yêu và yêu
anh. Đối với em đó là những ngày hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Còn sau đó chỉ
là một sự tồn tại, thuần túy một sự tồn tại theo các khuôn phép đạo đức do xã
hội qui định.
Dù
không yêu, em đã hết lòng tận tụy với chồng cho đến khi ông ấy chết bệnh trong
tù. Sau đó em theo mấy người bạn vượt biên và hiện đang sống ở Mỹ. Em đã có
chồng, có con, dường như có tất cả, chỉ trừ tình yêu. Anh là tình yêu duy nhất
của em. Lẽ ra em đã có thể đến với anh nếu em đủ dũng cảm thoát khỏi những ràng
buộc của qui ước xã hội.
Viết
thư này, em không có mong muốn nào khác ngoài được bộc lộ với anh những suy
nghĩ thầm kín của mình. Em những muốn, và đã cố, không bao giờ nói ra, nhưng
không được.
Hãy
tha thứ cho em.
Lệ
Trinh.
PS.
Xin anh đừng viết thư cho em. Điều ấy không cần thiết. Hơn thế, nó chỉ làm em
thêm đau khổ.”
Bức thư đề ngày... tháng... năm
1989. Mười lăm năm kể từ đêm tôi nhìn thấy nàng lần cuối.
*
Tháng Năm năm 2000, trong lần đi
du lịch một tháng với vợ ở Mỹ, tôi tìm đến nhà nàng theo địa chỉ ghi trên bì
thư. Tất nhiên một mình. Tôi không có ý định gặp hay trò chuyện với nàng vì
nàng không muốn điều ấy. Đơn giản chỉ muốn được nhìn qua ngôi nhà nàng đang
sống. Đứng từ xa mà nhìn. Đó là một ngôi nhà nhỏ, bình thường như bao ngôi nhà
khác xung quanh ở ngoại ô thành phố Raleigh, tiểu bang North Carolina. Nhà đóng
cửa, chỉ hai ô cửa sổ là không, nhưng được che bằng những chiếc mành trắng
mỏng. Tôi thong thả đi hai lần qua ngôi nhà ấy, ngồi xuống cạnh gốc cây đối
diện, hút hết một điếu thuốc rồi trở về khách sạn.
Tháng trước, tôi lại nhận được
một bức thư nữa từ Mỹ. Bức thư chỉ mấy dòng, được viết bằng nét chữ đàn ông rắn
rỏi, gần như tô từng nét.
“Theo
yêu cầu của người đã khuất, tôi xin báo ông biết rằng vợ tôi, bà Lệ Trinh, đã
từ trần ngày...vì nhồi máu cơ tim. Vợ tôi cũng nhờ nói lại rằng bà ấy đã nhìn
thấy ông ngồi hút thuốc trước nhà chúng tôi cách đây hơn hai năm. John Nguyen
Van Bach.”
*
Đó là toàn bộ câu chuyện về Lệ
Trinh mà chắc tôi sẽ không bao giờ viết ra nếu không nhận được bức thư ngắn này
của chồng nàng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm, ngoài việc nếu có dịp tới Mỹ lần
nữa, nhất định tôi sẽ tìm đến mộ nàng để đặt lên đó bông hồng năm nào tôi định
tặng.
Hà
Nội, 2004
LE VIEILLARD ET LE PIANO
Không khí thật điền viên, ấm áp.
Như bà già trong bản sao khổ lớn bức tranh sơn dầu nổi tiếng "La jeune
fille au piano" của danh họa Paul Cézanne treo trên tường, bà lặng lẽ ngồi
đan trên chiếc ghế xa-lông da mềm và sâu. Con mèo mướp lười biếng nằm ngủ dưới
ghế, đầu gối lên đôi chân đi tất len dày của bà. Chốc chốc nó duỗi mình, vươn
thẳng tứ chi rồi lại khoanh tròn ngủ tiếp.
Đầu xuân, nhưng trời còn rét
ngọt. Dù ở nhà, như thường lệ, bà vẫn mặc chiếc áo dài vải the mầu xẫm kiểu cổ
thời trước cách mạng. Bà có khuôn mặt bình thản hình trái xoan, với chiếc mũi
thanh tú, đôi môi nhỏ và dày. Một nốt ruồi to bên cạnh, na ná nốt ruồi nổi
tiếng của ca sĩ nhạc pop Mađôna, càng tôn thêm cho bà cái duyên thầm rất ưa
nhìn. Cặp kính lão mắt tròn (cũng kiểu cổ) treo sệ xuống đầu mũi, và bà thường
nhìn trên kính chứ không qua mắt kính như người khác. Bất chấp những nếp nhăn
sâu trên mặt và mái tóc phi-dê ngắn bạc gần hết, người ta vẫn dễ dàng đoán biết
bà từng một thời là người xinh đẹp và xuất thân từ một gia đình rất nền nếp.
Nếu phải chọn ai đấy là dân Hà
Nội gốc, tiêu biểu cho lớp trí thức cũ vừa lịch sự vừa bảo thủ, thì có lẽ bà là
người thích hợp nhất. Có cảm giác như cuộc sống mới thực dụng và hiện đại một
cách xô bồ bên ngoài không mảy may ảnh hưởng đến con người bà và căn phòng nhỏ
bà đã sống suốt bảy mươi năm qua. Bản thân căn phòng cùng các đồ vật trong đó
cũng cổ kính và trầm lặng như chủ nhân chúng.
Bà là một trong số rất ít các
nghệ sĩ pianô ở lại với cách mạng sau ngày thủ đô giải phóng, là người thầy đầu
tiên bộ môn này ở Nhạc viện Hà Nội. Bà đã dìu dắt nhiều thế hệ nghệ sĩ trưởng
thành, có người dành được giải thưởng lớn trong các cuộc thi quốc tế. Bà nghỉ
hưu đã mấy năm nay, với danh hiệu "nhà giáo nhân dân" và "nghệ
sĩ ưu tú". Chồng bà là cán bộ cao cấp trong quân đội, một vị tướng chiến
trường, hy sinh trong chiến dịch Khe Sanh. Họ không có con. Bấy lâu nay bà sống
một mình với con mèo, với chiếc đàn pianô hiệu Bekker cũng già nua và quí phái
như bà.
Khách đến nhà bà không nhiều. Bà
thích thế. Mỗi tuần hai lần vào thứ ba và thứ bảy, bà dạy đàn cho đứa cháu gái
mười tuổi của bà em. Nó có khiếu, tiếp thu nhanh. Bà muốn và có thể dạy nó
thành nghệ sĩ pianô có tài. Nhưng nó lại không thích. Cái nó thích là nhai kẹo
cao su - vừa tập đàn vừa nhai - và nhạc xập xình chứ không phải nhạc Mozart hay
Schubert. Không nói ra nhưng bà buồn. Bà buồn cả việc nhiều học trò giỏi của bà
tối tối vào các khách sạn hoặc quán bar chơi đàn cho đám thực khách thô lỗ.
Khách của bà còn là những học trò cũ thỉnh thoảng đến thăm, nhất là vào ngày
mồng Tám tháng Ba và ngày Hai mươi tháng Mười Một. Và cuối cùng là ông già đang
ngồi chơi đàn trước mặt bà lúc này. Một vị khách không mời cũng đến, đều đặn
mỗi tháng một lần đúng ngày rằm. Vì sao lại ngày rằm? Cả ông lẫn bà đều không
biết. Đơn giản vì đến mấy lần vào ngày ấy rồi quen, sau cứ thế tiếp tục mãi đã
hàng chục năm nay.
Ông là thợ (có người gọi nghệ sĩ)
lên dây đàn pianô lâu năm nhất và cũng thuộc loại giỏi nhất ở Hà Nội. Ông đến
để lên dây đàn cho bà, mặc dù gần đây bà ít chơi đàn và do vậy dây đàn ít sai
để phải lên lại. Nhưng ông cứ đến và bà chẳng lấy thế làm khó chịu. Họ là bạn
của nhau từ thời còn trẻ. Chiếc pianô luôn là chiếc cầu nối giữa họ. Thường sau
mỗi lần chỉnh đi chỉnh lại những nốt đàn đã quá chính xác, ông thong thả cất bộ
đồ nghề vào hộp, rồi cũng thong thả như thế, ông trang trọng ngồi xuống trước
đàn, bắt đầu chơi bài "Fur Elise"(Gửi nàng Elise) của Beethoven, một
bản nhạc đượm buồn ai oán mà tương truyền nhạc sĩ thiên tài người Đức này đã
viết gửi một nàng Elise nào đó để bày tỏ mối tình vô vọng của mình. Tiếp đến là
một bản etude chậm của Chopin mà theo chất nhạc, người ta đặt thêm cho cái tên
là "Tristess" (nhạc buồn). Lần nào cũng chỉ hai bài ấy. Bà chẳng biết
vì sao nhưng không bao giờ hỏi. Xong, ông cẩn thận đậy nắp đàn, lấy giẻ lau
sạch bóng lần nữa, ngồi xuống cạnh bà, uống nước, trao đổi đôi ba câu vu vơ rồi
ra về, cúi đầu chào thật thấp, thậm chí còn ngả mũ nghiêng mình nếu lúc ấy là
mùa đông và ông đội chiếc mũ phớt dạ từ thời Pháp còn lại.
Tuy nhiên, hôm nay hình như ngoại
lệ. Sau hai bài bất di bất dịch kia, ông chơi thêm một bản nocturne (dạ khúc)
của Chopin, bản số 1, và hiện đang chơi bản sonnate "Les Adieux"
(Vĩnh biệt) số 26 của Beethoven.
Bà hơi ngạc nhiên nhưng vẫn lặng
lẽ ngồi nghe, không một lần ngước mắt khỏi que đan. Ông đàn không hay, không
phải ở mức a-ma-tơ nhưng cũng chưa hẳn chuyên nghiệp. Xuất thân từ một gia đình
tư sản sa sút, ngày xưa ông cùng học pianô một thời gian ở Paris với bà. Bà học giỏi, có tài, tiếp tục
tiến lên, còn ông thì sau nhiều thăng trầm, tự biết không bao giờ có khả năng
thành nghệ sĩ giỏi, cuối cùng tự chọn cho mình cái nghề lên dây đàn pianô, dẫu
nó, trước kia cũng như bây giờ, hiếm ai lao vào và chưa bao giờ mang lại cho
ông nhiều tiền. Đơn giản vì ông không thể sống thiếu cây đàn này. Không trực
tiếp biểu diễn thì ông chăm chút, chuẩn bị nó cho người khác. Và ông lấy thế
làm hài lòng. Bây giờ đến lượt ông đàn, lại một bài khó và dài như "Les Adieux",
ông không khỏi lúng túng, ngượng ngập. Chiếc Bekker già nua, loại Grand piano,
chiếm trọn nửa căn phòng, đang rên rỉ dưới những ngón tay cũng già nua không
kém của ông. Những phím đàn màu trắng ngả vàng ngà như nhảy múa một cách miễn
cưỡng. Tiếng của nó cũng không còn trong trẻo và sắc gọn như xưa.
Theo thói quen nghề nghiệp, thỉnh
thoảng bà ngừng tay, gõ mạnh que đan vào thành ghế rồi nói to như trước bà là
cậu học sinh chưa thuộc bài: "Forte! Forte!" (mạnh hơn, mạnh hơn nữa)
hoặc "Tình cảm vào! Chậm thôi, chậm thôi!" Ông ngoan ngoãn làm theo,
vấp một đôi lần rồi cuối cùng ngừng chơi, quay về phía người bạn già.
- Cây đàn của bà già lắm rồi, -
ông thở dài.
Đó là một chiếc đàn tốt bố mẹ mua
cho bà từ Pháp. Với tư cách là giảng viên lâu năm, sau này nhiều lần Nhạc Viện
đề nghị cấp đàn mới nhưng bà không nhận mà vẫn giữ nó như kỷ niệm một thời.
- Còn ông thì không? - bà đáp,
nửa châm chọc nửa trách móc như thể chiếc đàn bị chê một cách oan ức.
- Tôi cũng già rồi. Cả bà nữa.
Cái gì phải đến sẽ đến thôi. - Ông lại thở dài. - Bà nghỉ dạy đã mấy năm. Bây
giờ đến lượt tôi. Hôm nay là lần cuối cùng tôi lên dây đàn đấy. Tất nhiên cho
chiếc đàn của bà. Bà và tôi gắn bó với nó bao nhiêu năm rồi nhỉ?
- Gần năm mươi năm. - Bà đáp,
ngừng đan, ngạc nhiên hỏi: - Lần cuối cùng? Vì sao lại lần cuối cùng?
- Vì tai tôi hỏng rồi. Cũng đúng
thôi. Tuổi tác mà. Hình như nó hỏng đã lâu nhưng vì người ta thương tôi, nể tôi
nên không nói đấy thôi. Tháng trước Nhà Hát Lớn không nhờ tôi lên dây chiếc
Steinway cho một nghệ sĩ Hà Lan biểu diễn, tôi đã lờ mờ đoán có chuyện không
ổn. Chỉ hôm qua tình cờ tôi nghe có người nói bây giờ tai tôi không chính xác
nữa, lên sai dây đàn mà tự mình không biết. Hóa ra mấy lần trước người ta bí
mật nhờ cậu Hà chỉnh lại những chiếc đàn tôi đã lên dây ở Nhà Hát Lớn, Hội nhạc
sĩ, phòng thu Đài phát thanh và phòng hòa nhạc của Nhạc Viện. (Hà là một trong
những thợ học việc của ông, sau được gửi sang Tiệp luyện nghề hai năm, thời
gian gần đây đang thay ông chăm sóc mấy chục chiếc đàn ở Nhạc viện. Tuy nhiên
những chiếc đặc biệt dành cho các buổi biểu diễn quan trọng thì vẫn phải đích
thân ông trực tiếp chuẩn bị). Bà biết đấy, nghề tôi chỉ nhờ vào đôi tai. Nay nó
hỏng, coi như tôi mất nghề. Beethoven điếc vẫn viết nhạc được vì ông nghe thầm
trong đầu. Còn tôi, tôi cần nghe rõ những âm thanh có thật. Không khéo lần
trước tôi lên dây cho chiếc đàn này cũng sai, và như người khác, bà thương tôi
nên không nói. Có đúng thế không?
Bà im lặng hồi lâu mới khẽ đáp:
- Không. Tôi thấy nó vẫn chính
xác.
Bà ái ngại nhìn ông già, không đủ
can đảm nói lên cái sự thật bà biết không phải tháng trước mà từ lâu trước đó,
rằng đôi tai rất thính nhạy của ông đã bắt đầu không ổn. Tuy vậy bà vẫn không
muốn bất kỳ ai khác chạm vào chiếc đàn yêu quí của bà. Bà hiểu ông tự hào và yêu
nghề mình đến mức nào. Nó là hạnh phúc và cũng là ý nghĩa cuộc sống đối với
ông. Suốt năm mươi năm qua người ta đánh nhau, cày cấy hoặc đổ mồ hôi trong nhà
máy, hầm mỏ, còn ông thì luôn quanh quẩn bên những chiếc đàn pianô. Ngoài ra
ông không biết một nghề nào khác. Xã hội cũng cần ông như chính ông cần những
chiếc đàn pianô để sống, đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cũng suốt chừng ấy năm người ta
thấy ông lọm khọm đạp chiếc xe cà tàng tới Nhạc Viện ở Ô chợ Dừa, phòng tập
trường múa ở Mai Dịch và các phòng hòa nhạc, thu thanh khắp nơi trong thành
phố. Nhiều lần ông còn được ô tô, máy bay đưa đón đến một thành phố xa nào đó
chỉ để lên dây một chiếc đàn pianô. Thường sau khi xong việc, ông nán lại để
được tận hưởng thành quả lao động của mình, tự hào và lâng lâng hạnh phúc lắng
nghe các nghệ sĩ biểu diễn, hoặc ngắm nhìn những diễn viên ba-lê nhún nhẩy bước
đi trên đầu ngón chân theo tiếng nhạc chiếc đàn ông đã nâng tới mức hoàn thiện.
Ông thường giật mình cảm thấy như người có tội, dằn vặt mấy ngày liền nếu tình
cờ phát hiện có dây đàn nào đấy lên chưa chuẩn lắm. Công bằng mà nói, người
ngoài nghề it ai hiểu hết giá trị công việc ông làm. Các nghệ sĩ đích thực thì
khác. Họ kính trọng ông, thân mật tôn ông thành Maestro (sư phụ). Sau buổi biểu
diễn, nhiều danh cầm thế giới tự tìm đến bắt tay cảm ơn ông và tặng những món
quà nho nhỏ được ông tập hợp thành bộ sưu tập bày nơi trang trọng nhất trong
nhà mình.
Mươi năm gần đây đất nước mở cửa,
kéo theo sự mở cửa của vô số các quán bar và khách sạn đua nhau làm sang mua
pianô đắt tiền, thuê sinh viên Nhạc Viện biểu diễn để câu khách. Những chiếc
đàn ấy cũng cần được định kỳ lên dây và chăm sóc, tất nhiên. Cũng theo mốt,
người ta mời đích thân ông làm việc này nhưng thường ông bảo Hà và những người
như anh ta làm hộ, dù ở đấy tiền công cao hơn. Âu cũng là một sự lẩm cẩm nữa
của người già.
Ông cũng sống một mình. Hơn thế,
suốt đời sống một mình. Vì sao - không ai rõ mà ông cũng chẳng chịu nói với ai.
Nghe đồn ngày xưa ông yêu bà, yêu lắm, nhưng vì bà là người thành đạt, lại xinh
đẹp, con nhà giàu, còn ông thì... nên ông biết phận mình, chưa một lần dám thổ
lộ. Người ta hỏi cả hai có đúng thế không, nhưng lần nào họ cũng chỉ cười thay
cho câu trả lời. Bản thân họ chưa bao giờ đả động đến chuyện đó. Bao năm nay họ
quen đối xử với nhau như những người bạn và dường như cho thế là đủ.
- Bây giờ ông định thế nào? Không
lên dây đàn thì ông làm gì ? - Bà hỏi.
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Có lẽ
tôi không thể tiếp tục sống ở Hà Nội. Những chiếc đàn ở đây làm tôi buồn. Tôi
có người bà con ở vùng trung du Phú Thọ, định về sống nốt tuổi già ở đấy, vui
với mảnh vườn, bầy gà. Cũng được đấy nhỉ? Bà thấy thế nào?
- Tôi thấy ông lẩm cẩm. Không chỉ
tai hỏng mà đầu óc cũng không ổn. - Bà cười đáp, không ra nghiêm túc cũng chẳng
phải đùa. - Suốt đời ở thủ đô, nay ông tưởng về sống nông thôn dễ đấy à?
- Rồi bà xem.
- Tùy ông thôi. Nhưng có phải vì
thế mà vừa rồi ông chơi bản "Les Adieux" không?
- Bà đoán đúng.
- Nhưng ông chơi tồi và bỏ giở
giữa chừng...
- Đúng thế. - Ông buồn bã đáp. -
Tại lâu ngày không đàn, tôi quên. Tại nó khó quá...
- Bao giờ ông đi?
- Tuần tới. Mọi thứ thu xếp xong
rồi. Hôm nay tôi đến chia tay bà.
Hai người cùng ngồi im.
- Tôi muốn hỏi ông điều này. Tò
mò thôi. Vì sao trong bao nhiêu năm ở nhà tôi ông chỉ đàn hai bài, là "Fur
Elise" của Beethoven và "La Tristess" của Chopin?
- Bà chưa bao giờ thử đoán vì sao
à? - ông hỏi lại, giọng nhỏ nhẹ và không ngước nhìn bà.
- Chưa, - bà đáp. - Mà sao tôi
phải đoán. Ai muốn nói gì cứ nói thẳng ra chẳng hay hơn ư?
Họ lại im lặng, lần này còn lâu
hơn. Cuối cùng ông rụt rè lên tiếng:
- Bà có thể đàn tôi nghe một bài
được không? Bài gì cũng được. Chưa bao giờ bà đàn cho tôi, chỉ riêng một mình
tôi...
Bà liếc nhìn ông với cái nhìn như
muốn nói: "Ông có đòi hỏi nhiều quá không đấy?" Nhưng bà không nói
gì, chỉ lặng lẽ đứng dậy, đài các bước về phía chiếc đàn, và cũng đài các như
thế ngồi xuống ghế, như thể trước bà không phải ông bạn già mà cả nghìn khán
giả am hiểu ở Nhà Hát Lớn. Bà đặt hai bàn tay nhăn nheo nhưng thon mảnh lên mặt
phím đàn đã ngả màu vàng vì năm tháng, đầu hơi ngửa về phía sau một cách kiêu
hãnh. Chiếc đàn cổ lại rung lên vì những nốt nhạc mạnh và dứt khoát. Thật khó
tin một phụ nữ nhỏ bé, già nua như bà lại có thể tạo ra được những âm thanh
mạnh mẽ và kỳ diệu đến thế. Bà say sưa đàn, mắt lim dim, dường như quên hết mọi
thứ trên đời. Cả con người và tâm hồn bà đang hòa quyện vào tiếng nhạc lúc hùng
tráng, lúc du dương quyến rũ.
"Bản Prelude và Fuge số 29
của Bach!' - ông nhận ra ngay từ những nốt nhạc đầu tiên. Đây là tác phẩm phức điệu
khó biểu diễn cả về kỹ thuật lẫn thể hiện tình cảm. Chính vì nó mà ông bị đánh
trượt không tốt nghiệp Nhạc Viện Paris vào một ngày đông giá lạnh ở nước Pháp
năm nào. Những người sành nhạc đều yêu thích bản nhạc này. Ông thì coi nó là
đỉnh cao sáng tác không chỉ của Bach mà cả nền âm nhạc pianô toàn thế giới.
Bà chơi xong phần Prelude hùng
tráng, bây giờ đang chuyển sang phần Fuge trữ tình và theo ông là phần hay nhất
của tác phẩm. Các bè nhạc lúc đan quyện vào nhau, lúc đối đáp như lời tâm tình
không dứt. Những nốt nhạc tinh khiết, thần thánh làm ông lâng lâng. Tự lúc nào
không biết, đôi mắt ông ngấn đầy lệ. Ông giật mình, thầm mừng bà bận đàn nên
không thấy ông khóc.
*
Một tháng sau, đúng ngày rằm, từ
Phú Thọ ông lại về Hà Nội và đến nhà bà.
- Công việc của ông trên ấy thế
nào? - Bà hỏi, hình như không ngạc nhiên trước việc ông quay lại.
- Cũng bình thường. Ổn cả. Còn
bà?
- Tôi thì có gì thay đổi được
nữa. Ông không mang đồ nghề về à?
- Không. Tôi nhớ Hà Nội quá, nhớ
đàn quá. Ghé về chơi một hôm rồi lại lên trên ấy.
- Thế thì tiếc thật.
- Sao vậy? Đàn lại sai dây à? -
Ông hỏi rồi chợt thở dài. - Thật buồn rằng bây giờ tôi chẳng giúp được bà nữa.
Tai tôi hỏng rồi, bà biết đấy. Để tôi bảo cậu Hà...
- Không, tai ông vẫn thính lắm, -
bà ngắt lời. - Vả lại, cây đàn của tôi nó đã quen ông. Nó già yếu lắm rồi nên
cần được chăm sóc thường xuyên. Thiếu ông, dường như nó chẳng còn là chiếc đàn
như trước. Ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới điều ấy à?
Ông bối rối không biết đáp thế
nào. Bà bước thêm một bước về phía trước, nhìn thẳng vào mắt ông và nói với
giọng rất nghiêm túc:
- Tôi có một đề nghị thế này, ông
thấy được thì chấp nhận, không thì thôi, tùy ông. Chiếc đàn của tôi hiện cần
phải lên dây hàng ngày. Để đỡ vất vả, nếu muốn, ông có thể ở lại đây, ngay
trong nhà tôi để làm việc đó. Ý ông thế nào?
Ông hiểu, nhưng vì quá bất ngờ,
ông đứng lặng một lúc rồi ấp úng nói:
- Nhưng cả tôi và... chiếc đàn
của bà đã già. Làm thế, e nó thế nào ấy.
- Ông lại lẩm cẩm rồi. Tai ông
còn tốt, chỉ đầu óc ông có vấn đề mà thôi.
Để ông khỏi lúng túng, bà ngồi
xuống cạnh đàn, vẫn với vẻ đài các nghệ sĩ vốn có của mình.
- Bà vừa đàn bài gì lạ thế, hình
như tôi chưa nghe bao giờ, - ông hỏi khi
bà đàn xong.
- Đó là bản "Le Vieillard et
le Piano", khúc ngẫu hứng tôi viết riêng cho ông đấy. Lần đầu tiên tôi
viết nhạc. Nghiệp dư, và vì hoàn cảnh bắt buộc. "Le Vieillard" là
ông, một ông già lẩm cẩm đáng yêu. Còn "Le Piano" là ai thì tự ông
đoán lấy. "Le Vieillard et le Piano", một cái tên cũng hay đấy nhỉ?
Hà
Nội, 3. 1. 2001
MÙI SỮA
Tặng
Nguyễn Thơm
Người đàn ông, - một ông già sáu
mươi, khô gầy với mái tóc bạc gần hết và nét mặt căng thẳng - từ từ kéo dây
khóa chiếc áo len mỏng mịn của người đàn bà đang nằm trên giường, hai mắt nhắm
chờ đợi, trán lấm tấm mồ hôi dù lúc ấy đã cuối thu và trời khá lạnh.
Bên trong là chiếc sơ-mi lụa sẫm
màu với một dãy cúc dài bằng xà cừ lấp lánh. Tuy cố giữ bình tĩnh, những ngón
tay thon dài của ông vẫn run run khi lần mở chiếc cúc thứ nhất sát cổ rồi chiếc
thứ hai, thứ ba, để lộ dần làn da rất trắng và mịn. Các động tác của ông thong
thả, dịu dàng như khi người ta nhâm nhi tách trà ngon, dù bản năng đàn ông đang
rạo rực thôi thúc.
Bỗng một ý nghĩ ngồ ngộ xuất hiện
trong đầu. Ông có cảm giác việc ông đang cởi quần áo người đàn bà này cũng
giống như khi thận trọng mở hộp đàn vi-ô-lông. Đầu tiên là kéo khóa lớp vải
cứng bọc ngoài, rồi mở chiếc hộp gỗ bên trong lót nỉ, cuối cùng bỏ tấm nhung
mềm phủ kín chiếc đàn. Về hình dáng, không loại nhạc cụ nào đẹp bằng đàn
vi-ô-lông, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ luôn được bọc dưới nhiều lớp vải.
Phải mất mấy phút ông mới đưa
được chiếc đàn - người ra khỏi hộp quần áo của mình. Ông chợt sững sờ trước vẻ
đẹp cơ thể trần truồng của người đàn bà, một cô gái trẻ, còn rất trẻ. Về cơ
bản, nó có nhiều đường cong giống chiếc đàn, và chỉ vẻ đẹp của nó mới sánh
được.
Mấy phút trước đó, cô gái trẻ ấy
nói với ông:
“Sớm hoặc muộn con cũng thành đàn
bà. Con muốn điều ấy xẩy ra với thầy.”
Rồi cô lặng lẽ lên giường nằm
chờ, nhắm mắt để khỏi phải thấy ông phản
ứng thế nào. Có lẽ cả vì xấu hổ.
Ông đứng lặng, ngắm cô rất lâu.
Cô gái vẫn nằm bất động. Hình như đã
thiếp đi. Có thể ngủ được trong những trường hợp thế này ư?
Cô đã hai mươi hai tuổi nhưng
dường như cơ thể chưa phát triển hoàn toàn. Cặp vú nhỏ và nhọn, núm hồng hồng.
Túm lông dưới bụng thưa, ngắn và mềm. Người cô nhỏ nhưng không gầy, có thể nói
mũm mĩm, sự mũm mĩm của một đứa trẻ hơn một cô gái trưởng thành. Cả kiểu nằm
ngoẹo đầu một bên, môi chúm lại phụng phịu cũng giống một đứa trẻ. Ông cúi
xuống, giơ tay định chạm vào cái cơ thể trẻ con ấy nhưng bỗng bàn tay ông chững
lại, treo lơ lửng trên người cô. Bàn tay xương xương, lốm đốm những nốt đồi mồi
trở nên đen xạm, xấu xí trên nền trắng mịn của da thịt cô gái.
Ông là một giáo sư dạy vi-ô-lông.
Cô gái là học trò yêu của ông hơn mười năm qua, từ sơ cấp cho đến hết đại học.
Ngày mai cô đi Pari học cao học, có thể quay về mà cũng có thể không, cô bảo
thế. Và hôm nay cô đến từ biệt ông.
Cô luôn là một học trò giỏi,
thông minh, xinh đẹp và cũng rất cá tính. Con gái của người quen, một trí thức
nổi tiếng. Ông đặc biệt cảm tình với cô, coi như con và đoán cô cũng nghĩ thế
về ông. Khi còn nhỏ, đi đâu ông cũng đưa cô theo, có khi cả mấy ngày. Năm ngoái
ông đi nghỉ Đồ Sơn một mình, cô cũng đòi theo. Ông thấy bất tiện nên từ chối, cô
khóc xin, ông phải báo với bố mẹ cô và họ nhờ ông cho đi. Tất nhiên ông thuê
phòng riêng và hai người đối xử với nhau như bố con.
Từ bé cô luôn gọi thầy xưng con.
Ông cũng thế. Một mức thân mật hơn so với quan hệ thầy trò bình thường. Tuy
nhiên khi trở thành cô gái, mối quan hệ trong sáng ấy bắt đầu có ít thay đổi,
những thay đổi rất tinh tế và từ phía cô chứ không phải ông.
Cô trở nên hay rụt rè e thẹn. Đôi
khi ông chợt bắt gặp cô nhìn ông với cái nhìn khác hẳn. Mãi sau này mới đoán
hiểu cô yêu ông. Ông chỉ mỉm cười, tuy lúc đầu thoáng chút bối rối. Ông là
người có tài, đáng kính về mọi mặt, tế nhị và hay mặc cảm. Sự tế nhị, mặc cảm
ấy không cho phép ông vượt qua mức chênh lệch bốn mươi tuổi giữa hai người.
Nhưng dường như cô thì không. Cô ngưỡng mộ, yêu ông một cách bồng bột, bất chấp
tất cả, tất nhiên không bộc lộ ra ngoài. Chỉ do tinh tế ông mới nhận ra điều
ấy. Nhận ra mà vờ như không nhận ra để khỏi làm cô bối rối và cũng để tự kiềm
chế mình.
Hôm nay thì tự cô nói thẳng, lại
còn nảy ra cái ý định xin được ông cho thành đàn bà. Cô đang nằm kia, hoàn toàn
trần truồng, sau khi được ông cởi bỏ hết quần áo như cởi nhiều lần vải bọc
chiếc đàn vi-ô-lông.
Ông bị bất ngờ trước lời đề nghị
khác thường ấy. Tuy có tuổi nhưng còn là người đàn ông khỏe mạnh, sau chút ít
do dự, ông đã buông mình cho tình cảm lôi cuốn. Vả lại ông nghĩ nếu làm khác,
có thể cô sẽ thấy bị xúc phạm và đau khổ. Tất nhiên giữa hai người không thể có
cái tình yêu theo nghĩa thông thường, nhưng lẽ nào ông không thể vượt qua mặc
cảm để chiều cô và cũng là chiều mình một lần, chỉ một lần duy nhất trước khi
hai người chia tay, có thể chia tay mãi mãi?
Đúng thế, trên nền da trắng của
cô gái, bàn tay ông, vốn thon dài và đẹp như ở những nghệ sĩ vi-ô-lông khác,
bỗng trở nên xấu xí, đen đủi. Như tay phù thủy, ông nghĩ và thầm ngạc nhiên với
phát hiện mới của mình. Tuổi già. Chính tuổi già đã tạo nên sự tương phản ấy.
Giá ông trẻ hơn hai, ba mươi tuổi thì chẳng sao. Lúc ấy chắc mọi việc sẽ diễn
ra một cách tự nhiên, ông khỏi bị mặc cảm, bàn tay ông khỏi bị treo lơ lửng thế
này. Ông có cảm giác như nếu chạm vào, nó sẽ để lại những vết đen bẩn và làm ô
uế cơ thể thanh khiết của cô.
Cuối cùng, bàn tay ấy chỉ dám khẽ
chạm mái tóc cô, âu yếm ve vuốt, nhất là phía sau gáy. Cô gái dường như đã
thiếp đi thật. Cũng có thể còn thức nhưng cố tình nằm yên, mắt vẫn nhắm, hơi
thở đều đều.
Ông cúi xuống định hôn cô, vẫn
chưa quyết định sẽ hôn vào đâu - mắt, trán hay môi. Trước đây ông nhiều lần hôn
lên trán và mắt cô, nhưng môi thì chưa lần nào. Cũng từng chạm vào người, cố
tình chạm, vì điều đó mang cho ông một cảm giác thích thú khó tả. Thậm chí ông
có thể làm hơn nếu muốn, nhưng ông đã luôn kìm mình để không bước qua cái vạch
ngăn cách vô hình do ông đặt ra. Có thể lần này sẽ khác chăng?...
Khi cúi xuống sát mặt cô gái, lần
nữa bất chợt ông chựng lại. Có mùi gì như mùi sữa. Mùi sữa từ miệng những đứa
trẻ còn bú mẹ! Không hoi gắt, chỉ thoang thoảng dễ chịu, nhưng đúng là cái mùi
ấy. Thật kỳ cục, ông thầm nghĩ. Cô gái này đã hai mươi hai tuổi và chỉ có thể
uống sữa đặc, sữa tươi, sữa cốc-tây... Hay từ vú? Không, ở đấy chỉ có mùi thơm
mát của da thịt và mùi tuổi trẻ.
Vẫn mặc nguyên quần áo, ông lặng
lẽ nằm xuống cạnh cô gái. Sự ham muốn thôi thúc giảm nhiều từ khi không dám
chạm tay vào người cô, giờ bị cái mùi kia làm tan biến. Vì sao, ông không hiểu
và đang cố hiểu.
Mấy năm trước, trong một cuộc vui
với bạn bè, bị hoàn cảnh đưa đẩy, ông đã bỏ tiền mua tình yêu của một cô gái.
Ngậm vú cô, ông thấy trên lưỡi có cái gì ngòn ngọt. Khi được hỏi, cô kia bảo
mới sinh, cần tiền nuôi con nên phải làm nghề này. Ông mất hết hứng thú, đứng
dậy mặc quần áo, cho cô kia gấp đôi số tiền đã hứa rồi bỏ về nhà với cảm giác
gần như tội lỗi. Sau đấy ông không bao giờ tới những chỗ tương tự.
Ông có đứa cháu ngoại còn bé và
thường thích thú ẵm nó trên tay để ngửi mùi sữa mẹ thoang thoảng từ miệng nó.
Sao cũng chính một mùi trong ba trường hợp lại có cái gì đấy vừa giống lại vừa
khác hẳn nhau như vậy? Vô tình, ông liên tưởng cô gái đang trần truồng nằm bên
với đứa cháu mà không ít khi ông cũng bế trần truồng như thế.
Mà sao cô học trò của ông lại làm
thế nhỉ? Vì tình yêu? Hiến dâng vì ngưỡng mộ, biết ơn? Hay đơn giản chỉ là cơn
bột phát của tuổi trẻ? Thanh niên bây giờ hiện đại thật. Nhiều người già bây
giờ cũng hiện đại không kém. Họ tự cho phép mình những điều mà đáng lẽ vì tuổi
tác và địa vị, họ không được phép làm. Còn ông, ông hiện đại hay cổ hủ? Ông có
được phép cư xử với cô bé nằm bên như với một người đàn bà không? Có phải là sự
sa đọa đạo đức không, khi một người già như ông hăm hở chiếm đoạt một cơ thể
trẻ trung, trong trắng đến thế?
Ông quay người, dịu dàng luồn tay
vào mái tóc cô, đặt môi mình lên đôi mắt đang nhắm, hết mắt này đến mắt khác.
Có vị mằn mặn. Vẫn phảng phất mùi sữa...
Ông nhớ đã đọc đâu đấy cuốn sách
nói ở Nhật có những nhà nghỉ dành riêng cho các ông già bất lực. Ở đấy, họ vào
những căn phòng có các cô gái chờ sẵn, trần truồng và đang ngủ. Họ chỉ cần được
có cảm giác suốt đêm nằm cạnh một cô gái trẻ còn trinh tiết. Cô gái được cho
uống thuốc ngủ đặc biệt, không thể tỉnh dậy trước giờ đã định, nên khách không
bị mặc cảm về sự bất lực của mình. Các cô giúp họ sống lại những kỷ niệm thời
trẻ, vui cũng như buồn, và lần nữa chiêm nghiệm cả cuộc đời dài mình đã sống.
Cách giải trí này mang lại cho họ sự thư giãn lạ lùng. Nhiều người muốn được
chết với một cô gái như thế bên cạnh. Trong truyện có một ông ngẫu nhiên chết
thật, nhưng chủ nhà nghỉ kịp đưa ông ta đi nơi khác, còn cô gái thì, như những
cô gái khác, sáng dậy không hề biết ai đã qua đêm với mình, không biết có người
đã chết bên cô.
“Người Nhật lắm trò kỳ cục thật”,
ông thầm nghĩ và chợt nhớ trong cuốn truyện ấy cũng có một ông già giống ông
lúc này, chưa bất lực, suốt đêm nằm bên cô gái trinh tiết trần truồng mà không
dám chạm tay vào người cô, sợ làm ô uế tuổi trẻ trong trắng. Ông ta cũng ngửi
thấy mùi sữa từ hơi thở cô gái. Mùi hoi hoi sữa mẹ. Tiếc là đêm ấy, để được ngủ
say bên cô, ông ta uống thuốc ngủ quá liều, và trong mơ đã bóp cổ cô gái. Xác
chết bị đưa đi ngay, một cô khác được đem vào thế chỗ, và sáng ngủ dậy ông ta
không hề biết mình đã phạm tội giết người. Thậm chí không nhận thấy có gì khác
lạ.
Ông rùng mình khi nghĩ về chi
tiết kinh khủng ấy. “Đáng lẽ ông nhà văn kia không nên viết nó, cả khi có thật
những chuyện như thế.”
Cuối cùng ông nhỏm dậy, và lại
hôn lên mắt cô gái. Vẫn có vị mằn mặn.
“Con ngủ à?” ông hỏi.
Cô gái khẽ gật đầu.
“Con chưa bao giờ hôn người đàn
ông nào, và cũng chưa được hôn?”
Gật đầu.
Ông im lặng một lúc, vẻ bối rối:
“Thầy xin lỗi. Thầy mặc quần áo
cho con nhé?”
Cô gái lại gật đầu, mắt vẫn nhắm.
Ông bắt đầu mặc quần áo cho cô,
từng cái một, thong thả và thận trọng như khi mỗi lần biểu diễn xong ông cho
đàn vào hộp. Cô gái vẫn nằm yên, chỉ khẽ cử động những lúc cần giúp ông. Khi cơ
thể tuyệt đẹp của cô lại được bọc trong chiếc hộp quần áo, ông có cảm giác như
hẫng hụt điều gì.
Cô gái đứng dậy, nhìn ông với vẻ
ngơ ngác rồi bất chợt bỏ chạy ra ngoài. Hình như cô khóc.
Sáng hôm sau ông ra sân bay tiễn
cô. Đến lúc phải bước vào khu vực chỉ dành riêng cho hành khách, cô bỗng ôm
chầm lấy ông, nước mắt dàn dụa:
“Em yêu anh!... Chính vì vậy mà
em phải ra đi và sẽ không quay về nữa...”
Ông hôn nhẹ lên trán cô, định nói
“Thầy cũng yêu con”. Một câu nói lấp lửng có thể hiểu theo hai cách - tình yêu
giữa đàn ông đàn bà, và tình yêu giữa bậc cao tuổi với con cháu. Nhưng ông chỉ
đứng im, lần nữa đặt môi lên mái tóc cô. Thật lạ, cả mái tóc cũng phảng phất
mùi sữa.
Bất chợt, ông thấy mình như già
hơn thêm chục tuổi.
Hà
Nội, 2003
CÔ GÁI BÁN HOA
Thành phố đêm trăng. Đèn sáng rực
khắp nơi nhưng không át được thứ ánh sáng huyền ảo có màu vừa bàng bạc vừa xanh
lơ của trăng rằm tháng Sáu cao trên đầu. Trời không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ
phía sông Hồng thật dễ chịu. Thậm chí phảng phất mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng
hơn, có lẽ đó là mùi hạnh phúc.
Ông đang cảm thấy hạnh phúc, cái
hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi nhiều ở đời. Chỉ mong muốn cho,
nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành đến mức ngây thơ, do vậy nhiều khi
lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt thường dễ tổn thương.
Đứng dưới vành trăng tròn vằng
vặc ấy, ông thấy người lâng lâng như bay
lên được. Cảm giác này làm ông nhớ tới chuyện khoa học đã chứng minh rằng khi
đứng đúng dưới trăng tròn, trọng lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ hơn bao
nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún người,
nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh,
hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá khang trang, xe cộ bóng lộn nối
đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ rằng ông và cả dân tộc đã phải
chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để có được ngày hôm nay.
Khi hạnh phúc người ta dễ xúc
động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn lao, phi thường, thật tốt
cho người khác.
Nhân vật chính câu chuyện này của
chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện gót giày đi dạo dọc theo một
trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các bạn tò mò muốn biết người đó
là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong truyện “Say Nắng” năm ngoái.
Ông giáo sư thơ ngây, “mắc bệnh tim to” và độc thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm
trời nắng đẹp quyết định dạo phố, tự cho phép mình hút thuốc ba con năm, uống
rượu vang Pháp, vào hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi ông, vì “say nắng” để mình lọt
vào vòng tay một cô gái trẻ rồi bị đưa lên đồn công an... Ông là bạn thân của
tôi. Chuyện xẩy ra đúng như thế. Có điều ông không treo cổ tự tử khi bị báo nêu
đích danh, mặc dù có ý định ấy, may tôi và mấy người bạn nữa kịp can ngăn.
Thường vẫn thế, trong đời mọi việc không đơn giản và quyết liệt như trong
truyện. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì cái kết phịa nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy là giáo sư N., lần này ban
đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên đường phố thủ đô xinh đẹp. Có
nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm. Ánh trăng làm người ông mềm
ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn
vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người gầy nhom, lại giữa lúc thanh
bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp ông thực hiện được ý tưởng
đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến lúc bất chợt nhìn thấy một
cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía trước. Người, xe đi ngang qua
cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi, ban đêm ai mua hoa? Mà rồi
hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu hoa gì, chỉ thấy trăng trắng
một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm
thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt đẹp thế này, ở một thành phố
cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này mà bất hạnh?
Giáo sư N. như khựng lại, nhăn
trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô gái. Cơ hội thực hiện việc
làm “vĩ đại” đã đến.
Ông móc túi lấy hết số tiền mình
có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá), rồi cầm bó hoa héo lên tay.
Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ duy nhất của thủ đô đêm nay,
thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và hồn nhiên như đứa trẻ.
“Bác... Anh không mua hoa gì nữa
à?”
Ông không hiểu, đứng đờ ra hồi
lâu.
“Tôi già rồi. Cô gọi bác cho
tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô rồi đấy thôi.”
“Em bán cả hoa kia nữa.” Cô kia
ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa nào?”
Cô gái có vẻ lúng túng, chắc lần
đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải đành nói thật:
“Em là gái bán hoa... Nếu thích,
anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho em dăm chục nghìn. Ba chục
cũng được.”
Giờ thì ông giáo sư già hiểu. Có
cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô gái còn trẻ, chắc chưa đến
hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật thà chất phác kiểu nhà
quê.
“Bác từ quê lên à?” Cô gái hỏi,
chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy. Quê em Thái Bình. Bác ở
đâu?”
“Tôi người Hà Nội, sống ở đây sáu
mươi năm rồi.”
Ông đáp, vẫn chưa hết ngỡ ngàng.
Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao cháu không ở quê, lại lên
đây làm nghề này?”
“Ôi, sao đàn ông người nào cũng
hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói to, giọng khó chịu và thách
thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người ta tới xó xỉnh nào đó. Tại
sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người à? Hà Nội không cần những
đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi, không cần dài dòng. Có muốn
thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ cho cả hai loại hoa. Không
phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng, sòng phẳng như ai.”
Giờ thì giáo sư N., nhà vật lý lý
thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình trong căn hộ “hang chuột” ở một
nhà chung cư kiểu cũ hiểu cặn kẽ các hạt
vật chất và phi vật chất vô hình, đang bối rối thực sự không hiểu cô gái trẻ
con trước mặt đang nói gì, vì sao có thể nói như thế, và quan trọng hơn cả là
ông phải làm gì bây giờ. Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm
ngoái không giúp ông hiểu biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn
thế, những người quá chân thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho
mình.
Ông im lặng khá lâu, cho đến lúc
suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả quyết:
“Thế thì đi.”
“Đi đâu?”
“Về nhà tôi.”
“Không sợ sư tử Hà Đông à?”
“Tôi sống một mình.”
“Được đấy. Vậy ta đi. Nhưng nhà
anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời gian. Hôm nay chưa được
khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi nhắc lại: Đừng xưng anh em.
Bác cháu dễ nghe hơn.”
“Cũng được. Nhưng bác bác cháu
cháu rồi làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa làm vừa hỏi có sướng không
con. Kinh!”
“Sẽ không có chuyện ấy.”
“Không? Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác
chỉ mong điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay bác định đưa cháu về đồn
công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt một lần rồi...”
“Công an nào. Vớ vẩn. Thôi, không
nói nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên cao trăng vẫn sáng, thơ mộng
và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông không còn cái cảm giác lâng lâng
lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi kết luận về sự giảm trọng lượng do
sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người xe vẫn thế, nhưng bức tranh hạnh
phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó ông phát hiện thấy một vết ố
nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như mình có lỗi đã để nó xuất hiện.
Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu một kế hoạch xóa sạch vết ố ấy.
Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại” ông vẫn mong ước.
*
Bà hàng xóm to béo và tốt bụng
rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm khuya - lúc ấy mười rưỡi và bà
đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái được gửi từ quê ra nhờ nuôi hộ.
Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không quen biết ngủ tạm, ít nhất cũng
mấy tối.
“Người bà con bác à?”
“Không. Chỉ một cô gái bán hoa
tôi gặp ngoài phố.”
Là người từng trải, bà hiểu đúng
nghĩa của từ này.
“Trời! Lại còn dẫn về nhà? Nếu
quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà hiểu sai rồi, tôi chỉ đơn
giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp cách nào?”
“Tạm thời chưa rõ lắm, nhưng phải
giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở đấy không tiện. Vậy mới nhờ
đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai tôi nói hết mọi chuyện.”
Vậy là tối hôm ấy cô gái bán hoa
ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại quí ông giáo sư nên đã nhận
lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật kỹ. “Khi nào mòn hết nửa
bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái thì dọc đường đi trước đó
đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên tâm. Cô cũng kể nhiều về mình
và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả những người tốt bụng có lòng trắc
ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn không bao giờ thay đổi được sự cả tin
ấy.
Sau đó ông gọi điện cho tôi, bảo
phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn, tôi đồng ý mà không căn vặn
điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi có lòng, ông có tiền. Vậy ta
thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn tắt sự việc.
“Tôi cũng có lòng,” tôi đáp, hơi
chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính bốc đồng. Không khéo lại
chuốc vạ vào thân.”
“Thì đã sao? Suy cho cùng, những
gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, cũng như cả trăm
truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng cứu được một con người cụ thể
như cô gái này...”
“Có thể như vậy, nhưng Lỗ Tấn bỏ
nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một lúc giúp được nhiều người hơn.”
“Ông không ví mình với văn hào Lỗ
Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi đùa thôi. Công bằng mà nói,
truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta thấy yêu đời và còn muốn
sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc ác, tục tĩu, toàn một màu
đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông vẫn chỉ trên trang giấy,
còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt và đang chờ ta kéo ra
khỏi vũng bùn...”
“Nếu cô ta không muốn được kéo ra
thì sao?”
“Không thể có chuyện ấy. Không ai
muốn sống trong bùn nhớp nhúa”
“Nếu cô ta lừa ông, hoặc sau bao
nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì coi như tôi tính sai một con
số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài mà. Vả lại, có sai mới có
đúng.”
Tôi thấy đuối lý trước những lập
luận giản dị ấy.
Hai ngày sau, với tiền của tôi
(ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ đáng khâm phục của ông và cả
sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở trong căn phòng mười lăm mét
vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê ba trăm năm mươi nghìn đồng
một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho cô những vật dụng cần thiết
cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi cá kho lớn. Những thứ này
do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống mình, ông thuê cho cô một góc
cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy chục mét) thêm một triệu đồng làm
vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết bán hoa chứ không cái gì khác,
ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ lúc đầu. Bán hoa làm đẹp cho
đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và đáng yêu.
Mọi việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn
hở ra mặt. Tôi cũng vui lây với ông, một lần còn đi theo đến cửa hàng hoa và
căn phòng mới thuê. Cô gái có vẻ chí thú và cũng ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng
sau bỗng một thằng lẻo khẻo mặt đầy mụn và hay ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N.
làm ầm lên, như thể ông “cướp vợ” hắn. Bà hàng xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn
ra ngoài, nhưng cũng khối người trong chung cư nghi ông làm điều bất chính. Sau
đó vài tuần thì ông chủ nhà đem tiền đến trả không cho thuê nữa, với lý do nhà
ông bị biến thành nhà chứa, và rằng cô gái bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường
“bán hoa” ở chỗ cũ, bắt được khách lại dắt về phòng mình.
Giáo sư N. nhất quyết không tin,
đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế nào. Nể bạn, tôi phải đi theo.
Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước vào thì hai anh công an khu vực
đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu đó). Một anh nghiêm mặt nói:
“Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng này...” May ông chủ nhà kịp
đến thanh minh hộ.
Hôm sau thì cô gái bán hoa biến
mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem theo được.
*
Nhiều bạn đọc cứ hỏi những gì tôi
viết có đúng thật sự xẩy ra như thế không. Câu hỏi thật khó. Vừa đúng lại vừa
không. “Văn nói láo, báo nói phét,” người đời hay nói thế. Viết văn là hư cấu,
tất nhiên, nhưng không phải hoàn toàn. Muốn hay không, vẫn phải có một liều
lượng sự thật nhất rồi từ đấy thêm thắt, khái quát thành câu chuyện còn thật
hơn cả ngoài đời có thật. Không thì ai chẳng viết được văn, nếu đã học ngữ pháp
và ít nhiều biết cách kể chuyện. Cứ tin tôi đi, nếu ai đó viết giả dối hoặc
phịa hoàn toàn, sớm muộn người ta cũng phát hiện ra. Không một kỹ thuật nghề
nghiệp nào che giấu được điều ấy. Ở những nét cơ bản, câu chuyện tôi kể trên
đây là có thật, xẩy ra với ông bạn già của tôi là giáo sư N., và trong chừng
mực nào đó, cả với tôi nữa. Vốn lạc quan và luôn tin vào sự tốt đẹp ở đời, tôi
thích và thường viết những câu chuyện có hậu.
Thực tế cuộc sống còn có những
người như cô gái bán hoa kia. Tôi nghĩ ít thôi nhưng vẫn có. Hay đúng hơn, tôi
mong muốn nó ít. Vì vậy tôi đang vắt óc tìm một phần kết đẹp hơn cho truyện
ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ai đó trong bạn đọc gợi
ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý kiến cũng lắc đầu (Tôi có thói quen chuyện gì
cũng hỏi vợ, cả chuyện viết lách). Bà ấy chỉ phán một câu, với cái giọng châm
biếm không ác ý hàng ngày: “Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi không hỏi giáo sư N., thậm
chí giấu không cho biết tôi viết truyện này. Ông vừa ở nhà tôi về xong. Như cú
“say nắng” năm ngoái, lần “say trăng’ này cũng làm ông buồn. Vấn đề chẳng ở
tiền bạc và công sức. Ông buồn vì cô kia bỏ đi không một lời nhắn lại. Ông bảo
tôi chắc cô làm thế vì hoàn cảnh bắt buộc, và rằng nếu nói ra, có thể ông sẽ
giúp được. Tính ông dễ buồn, nhưng buồn không lâu, và rồi cuối cùng bao giờ cái
bản chất tin người, thương người cũng trội lên lấn át tất cả. Tôi dám chắc nay
mai ông sẽ lại bị “say” lần nữa, và lần nữa ông lại hăm hở lao vào một việc nào
đó “tốt và vĩ đại” để giúp người khác. Thì ông đã nói, nếu bị lừa, đó đơn giản
cũng chỉ là phép tính ông tính sai. Sai thì tính lại. Cuộc đời là cả triệu phép
tính, tính sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn tôi? Tôi cũng thừa giấy mực
và nghị lực. Trót viết sai một câu thì viết lại. No problem, như người Anh
thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi tính, tha hồ tẩy xóa, tha
hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi. Dẫu không được như Lỗ Tấn,
tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo trở nào đó mà buồn. Đời vẫn
đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô ta cũng chỉ là con số sai
trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề của tôi, một câu văn chưa
chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là cả giáo sư N., tôi, và
tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.
Hà
Nội, 29. 5. 2003
NGÀY ĐẸP TRỜI
Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt
trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó
ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Ông lão đã gần tám mươi. Con chó
nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già
như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó
là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn
giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút.
Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài
sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi
măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã
thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì
hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con
cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó
xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc.
Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...
Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh
phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân
lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai
đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì
nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con
mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt
dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi
ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có
được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và
tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó,
thì vẫn hơn.
Vậy là cả hai, con người và con
chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào
một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng
um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi
cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm
biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc
bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.
- Cái giống chó nhà mày ấy mà,
Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay
lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi
còn ở chung, vợ chồng con ông đặt cho
cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc
già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì
chết, chết đói thật đấy.
Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa
chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.
- Còn tao thì mày biết, tao đã kể
bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày
không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung,
tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày
hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi
xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông
phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ
nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê ấy mà, khối người về già bị
con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với
nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng
được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ
tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ
như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp
bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu
cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái
thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn
uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha
khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ
chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng
thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy
nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống
chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ
khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi
chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo
người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao
cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?
Con chó già không đáp vì nó đang
bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm nó.
- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn
đấy nhá!
Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh
chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là
một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn
ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó
già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự.
Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó
cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng,
nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.
Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì
đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc
này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách
nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm.
Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi
dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống
họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không
hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều
giống nhau.
- Mày làm sao thế, Vện? - ông lão
mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy.
Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng
trước rét thế. May đêm ngủ có mày, chứ
không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với
tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?
Lúc này con chó già đã bị kéo ra
tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ
cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá.
Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói
cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.
Bình thường, dẫu già con Vện vẫn
có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không
cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết nên hắn mới có thể làm mọi
việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm
trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp.
Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ
chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước,
mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì
có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?
- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có
chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. - Vện!
Vện! Mày đi đâu đấy?
- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm
ngừng sửa xe, nói vọng sang.
- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là
đi đâu?
- Là tới các quán thịt chó ở trên
ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.
- Nhưng sao con Vện lại đến đấy
và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.
- Không phải nó tự đến, mà bị bọn
trộm bắt...
- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu
để người khác bắt trộm?
Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của
bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng “trời” rồi ngồi im. Mãi
lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;
- Sao bác biết, không ra giữ nó
lại?
Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:
- Tôi bận chữa xe.
Rồi vô cớ, cho rú máy inh ỏi.
*
Trên đời có những người làm điều
ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không
coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này
là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà
nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc.
Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ
làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với
bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ
việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật
Tân.
Hắn có biết việc này là xấu
không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm
vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở
quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết. Hắn
chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục “hành nghề”, hết con này đến con khác,
hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách
móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới.
Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho
rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày
xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.
Câu chó và câu cá thì có khác gì
nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống.
Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng.
Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy
Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ
loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật.
Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội
nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh
dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi
họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn “đi làm”. Các chủ quán Nhật Tân thản
nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món
hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng
xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do “bận chữa xe máy”. Anh con trai
ông lão mù thản nhiên nói: “Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải
khổ sở đến thế.” Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc
còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những
chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.
*
Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì
không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không
thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành,
là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh
phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời,
nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.
Cho đến tận lúc này tôi vẫn có
cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn
thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn
tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái
ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và “hồn nhiên”
nhất. Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và
quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động
này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi
không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve
chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi
thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và
ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...
Vậy là tôi đã làm hỏng truyện
ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời
ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng “truyện ma”, tôi có
thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có
thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được
viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi
đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.
PS.
Ông lão mù mới chết tuần trước.
Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói,
không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông
hàng xóm “bận chữa xe” tiễn cụ tới tận nghĩa trang.
Chỉ tiếc không có con Vện.
Hà
Nội, 8. 10. 2002
ANH DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN
Ông Sêkhốp có một truyện, ngắn
thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh Gầy". Câu chuyện đang viết
đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được một cái tên vừa ý, vậy tôi xin
bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng Cảm và anh Hèn".
Xin được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có
một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp,
dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây
với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, cái bây giờ được gọi
là "hiện tượng tiêu cực", và rất tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức
nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm nản mà thôi. Nhưng anh thì không,
cương quyết không. Anh đã ba mươi lăm tuổi, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc
công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phép
phát huy sở trường đó.
Hóa ra ở đời làm người tử tế và
dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm ấy cũng không nhỏ. Từ chiến
trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy khen và bằng dũng sĩ, anh được
người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù
hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng chính "người ta" ấy đã
khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh biết đấy mà
không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ còn là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao
người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh
không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và
cũng vì quá dũng cảm.
Làm ruộng là một sở trường nữa
của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo
toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để
phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những
việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không phải lúc nào chúng cũng liên
quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào "đấu tranh", theo kiểu
"đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ,
trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết.
Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị
coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy
vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Một hôm vợ anh lên cơn hen nặng,
phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xẩy ra, ít thì một, nhiều có
khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và biết phải làm gì.
Giống mọi lần, người ta cho vợ
anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5 mg. Ba ống
thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng
bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được
vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được và nếu không có gì
nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là
vậy.
Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh.
Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ
sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ,
họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán
viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi
qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang xuống giá.
Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ
bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt
ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ thục bất thành văn nào đó), vẫn
thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những người ý thức rõ quyền lực và tầm
quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này và luôn nhắc mình kiềm chế không
"đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện cùng những "thiên thần áo
trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả và từng cứu sống
nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu
cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm người không cho phép lấy oán trả
ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện và theo lệ chung, người ta
làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác anh nhất định không bỏ qua. Tất
nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp
cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện
cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh
toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh hỏi người thu tiền:
- Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại
thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh viện giá bốn mươi nghìn đồng
một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn đồng một ống? Tức là một trăm
nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
- Tôi không biết. - Người kia khó
chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
- Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh
hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
- Tôi đã bảo không biết mà. Cứu
được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo,
rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình, một cách mềm mỏng và
lịch sự.
- Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp,
hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ. - Anh biết thế sao không ra
hiệu thuốc mà mua để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Đã tiếc tiền sao còn
đưa vợ đến đây cấp cứu?
Anh thấy nóng mặt tức giận vì
thái độ hỗn xược của cô nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
- Nhưng chính chị chỉ cho tôi
sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin
hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức qui định hay các chị tự đặt ra,
thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
Thấy giọng anh có vẻ cứng rắn,
lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ
thoáng chút bối rối nhưng cố nói át:
- Thời buổi thị trường, mỗi nơi
một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so đọ một vài chục nghìn. Tiếc
đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
- Vậy là các người thông đồng với
nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi là "giữa cái sống và cái
chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những bệnh nhân nghèo, chủ yếu là
những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt từng tiếng. Anh đã không
còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn nhắc mình khi vào bệnh
viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
- Anh nói sao? Anh dám bảo chúng
tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
- Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng,
cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại rằng cô, chính cô là một con ăn
cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn cắp hết ngày này sang ngày
khác, nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn
công an để giải quyết như với những con ăn cắp chuyên nghiệp khác. Đi, bây giờ
cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
- Ối làng nước ơi, cứu tôi với! -
Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng mất dạy đang làm nhục tôi.
- Câm mồm! Nếu mày không phải đàn
bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm!
Thấy động, mọi người nhanh chóng
kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng
ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ điều họ đang ấm ức.
- Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng
ai dám nói gì.
- Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm.
- Đồ mất dạy, phải trị cho chúng
một trận.
- Trả tiền lại cho người ta,
không nuốt được đâu.
- Nhưng mà cái ông kia cũng quá
đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
- Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra
việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất vả thì người ta đã trả hai
mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính xem, một người chúng ăn
chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng cấp cứu bao nhiêu người,
chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
- Đánh bỏ mẹ nó đi!
Một thanh niên mặc áo trắng hùng
hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm
chặt cổ tay.
- Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây
rối à?
- Câm mồm. Nó thì tao không đánh,
chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói, và bóp mạnh một cái vào vai hắn
bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói thêm được lời
nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp.
Rồi anh kéo cô bác sĩ, lúc này
đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
- Chúng tôi là công an đây. Anh cần
gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại gần, vừa nói.
- Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến
thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Anh vắn tắt kể lại những gì đã
xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật
pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không? Cần nhiều đấy, không phải một
đâu.
Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ
không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh lại nhao nhao
tiếng đồng tình của nhiều người.
- Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ
bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì
đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh kể
cũng hơi quá...
- Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng
lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền của người
ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực. Chưa nói đến tính
cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông dân.
- Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết
nói với anh thế nào được nhỉ?
- Các anh là người đại diện và
bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào. - Anh Dũng Cảm hạ giọng. -
Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh
định giải quyết thế nào?
Một chốc sau họ, gồm anh Dũng
Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
Ông giám đốc là một người nghiêm
khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong ngành. Ông chăm chú nghe anh
Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu,
mặt ửng đỏ, một bên má dật dật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát. Cô
bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất và vẫn còn khóc.
- Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh
viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ
trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý
với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, vì nói gì thì nói,
đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống, hàng ngày, trắng trợn và đểu giả
như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các
nhân viên tôi.
Liền sau đó, ông cho người gọi
trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang tiền chênh lệch trả lại cho
người bị hại.
- Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật
nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
- Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm
nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
- Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội
đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui định của bộ.
- Nhưng đây là hành vi ăn cắp như
chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo tôi biết, thì phải truy cứu hình
sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
Đến lượt ông giáo sư lúng túng.
- Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả
thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại
không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh, thậm chí bênh vực
anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng
có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất
niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người đang làm việc ở đây. Xin anh
cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
Anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng
ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh
đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, sự tức giận cũng
không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì hẫng hụt trong
lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả
bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ
hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã
lấy oán trả ân không? Nếu con bé ăn cắp
kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia
đình nó? Càng nghĩ anh càng thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với
những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được
tin báo của ông giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia,
nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
Đấy, chuyện anh Dũng Cảm là như
thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện anh Hèn thì sao?"
*
Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi
bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh
ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm dũng cảm đáng khen
của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay "phịa" như người ta vẫn nói.
Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
Cái sự thật đó là: Cách đây không
lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên
phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá của họ là
hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống
với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi
suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục
im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại
dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng
nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi
muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng
trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ
mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy
nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô
nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy ra thường xuyên, trước
đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn,
và có cớ xác đáng để hèn.
Chẳng ai đem cái hèn của mình ra
khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế
mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người "hễ thấy bất
công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất nhiên, cũng từng lãnh đủ,
nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách
suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người có lúc" như các cụ nói.
Bây giờ tôi đã già, an phận với
sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi
tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ như kéo tôi dính chặt vào
chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả
thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu
tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là người
thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không chịu đầu hàng, chừng nào
còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến
được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện
tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn
thế thôi.
Vì không muốn biến truyện ngắn
của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên
bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi
vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các bạn thấy, tôi còn đủ dũng cảm
để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.
Hà
Nội, 10. 3. 2001
ÔNG GIÁO LẬP DỊ
Ông Nguyễn Xuân Đoàn thuộc loại
người vô tư và biết hài lòng với mình, với đời. Mà đời ông thì sống ở nước
ngoài nhiều hơn trong nước. Ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, đã qua chức vụ
trưởng một vụ ở bộ, hai nhiệm kỳ đại sứ ở Bắc Âu. Ông mới về hưu đầu năm nay,
đúng tuổi sáu mươi, còn khỏe mạnh và tràn trề hạnh phúc. Sáng chơi ten-nít,
chiều uống bia, tối đọc sách hoặc thậm chí làm thơ. Chắc chắn ông cũng hài lòng
với những bài thơ ông viết.
Một hôm có ông bạn già ở trường
ngoại ngữ đến nhờ ông Đoàn dạy hộ một lớp tiếng Anh nâng cao mà ông mở riêng đã
mấy năm nay, giờ vợ chồng ra nước ngoài sống với con cháu.
“Bỏ thì tiếc, - ông nhà giáo nói.
- Mà tôi thì chỉ có thể tin bác được thôi. Chẳng vất vả gì đâu. Mỗi ngày hai
tiếng từ sáu đến tám giờ tối. Mọi việc cô Mai sẽ lo. Cô ấy tốt và tháo vát lắm.
Bác chỉ dạy”.
Thấy bạn có ý lưỡng lự, ông nói
thêm:
“Tôi biết với bác tiền không quan
trọng, mặc dù phải nói rằng thu nhập lớp này cũng khá. Cái chính là bác sẽ được
thay đổi không khí, sẽ cảm thấy hài lòng vì mình còn giúp được ít nhiều cho lớp
trẻ”.
Một tuần sau ông Đoàn lên lớp,
chủ yếu vì cái “thay đổi không khí” và “giúp thế hệ trẻ” ấy.
Lớp là một giảng đường đại học
thuê bao cả năm. Khi đến, ông ngạc nhiên thấy học viên ngồi kín gần hết, dễ đến
cả trăm người. Điều này chứng tỏ bạn ông phải là người rất giỏi và uy tín. Bản
thân ông cũng giỏi, nói và viết tiếng Anh thuộc loại nhất nhì bộ. Cách thức
tiến hành buổi học thì đã được bạn hướng dẫn kỹ. Cả con số một trăm người học
kia cũng chẳng thành vấn đề, vì là lớp dịch không phải giao tiếp với từng
người, không cần nói to vì cô Mai đã bố trí sẵn chiếc máy phóng thanh nhỏ trên
bàn. Ông có thể đi lại thoải mái mà giọng vẫn vang to khắp phòng.
Buổi dạy đầu tiên diễn ra suôn
sẻ. Các buổi sau cũng thế. Dường như người học cũng thích ông. Họ chủ yếu là
sinh viên các năm cuối và cán bộ cơ quan có nhu cầu nâng cao ngoại ngữ. Bằng
chứng là sĩ số không giảm mà còn tăng thêm. Không chú ý mấy đến việc cô Mai
chăm chỉ thu học phí, kiểm tra thẻ, lo chuyện phấn bảng, ông đến lớp đúng giờ
rồi hết giờ ra về, trang nghiêm và đạo mạo đúng kiểu một ông giáo có tuổi và
giỏi nghề như ông cần có. Công việc mới mẻ này làm ông thích, có thể nói còn
cuốn hút.
Cuối tháng cô Mai tìm đến nhà
ông. Cô trạc ba lăm, hai con, nhân viên phòng quản trị của trường nơi ông đang
dạy. Người cô đẫy đà, phúc hậu, tính cẩn thận, tháo vát và có vẻ đáng tin cậy
như ông bạn giới thiệu. Cô rút ra tờ giấy chi chít tên người và các con số.
“Dạ, đây là tiền học phí của lớp
tháng vừa rồi, sau khi trừ các khoản”. Cô lễ phép nói. “Mười ba triệu năm trăm
mười nghìn đồng”.
“Nhiều thế cơ à?” Ông Đoàn ngạc
nhiên hỏi.
“Cũng bình thường thôi ạ. Vào các
tháng sau Tết và đầu năm học thường nhiều hơn”.
“Xưa nay vẫn thế?”
“Vâng ạ”.
“Lớp nào, thầy nào cũng thế?”
“Không. Trường này còn ba lớp
tiếng Anh nữa, dạy thực hành, giáo viên trẻ, ít người học nên ít hơn nhiều. Còn
các lớp luyện thi toán lý hóa thì có thể
nhiều hơn”.
Ông Đoàn ngồi im không nói gì.
“Thế cô được bao nhiêu?” Lúc sau
ông hỏi.
“Dạ, sáu trăm nghìn như mọi khi.
Trong giấy này em có ghi”. Cô Mai đáp rồi lễ phép chào ông ra về.
“Mười mấy triệu đồng một tháng.
Mỗi ngày hai giờ dạy. Nhiều quá”. Ông
Đoàn nghĩ. “Hóa ra bao năm nay cái ông Năm nhà giáo này kiếm cũng khá.”
Đúng là ông không quan tâm đến
khía cạnh kinh tế của việc dạy học. Dạy cho vui như ông vẫn nghĩ. Nhà ông khá
giả, có thể nói giàu. Chỉ còn hai ông bà già sống với nhau, lương hưu cao. Hai
đứa con đã trưởng thành, cũng giàu. Anh con cả hiện đang làm cho một liên doanh
ở Sài Gòn, mấy năm trước còn biết đem tiền tiết kiệm của ông mua mảnh đất, vừa
rồi sốt đất, đem bán lãi hơn một tỉ. Số tiền này ông bà đang gửi tiết kiệm,
riêng lãi cũng thừa sống, nên khoản tiền mười mấy triệu một tháng kia càng trở
nên nhiều, thậm chí quá nhiều. Ông là người như vậy, luôn suy nghĩ như vậy,
chân thành và trong sáng.
Hôm sau học xong, ông bảo cô Mai
ở lại, đề nghị cho ông biết rõ tình hình học sinh, học phí. Nghe xong, ông
nói:
“Cô xem có thể giảm học phí cho
mọi người được không?”
Cô Mai ngơ ngác, đờ mặt nhìn ông
hồi lâu:
“Dạ, em không thật hiểu...”
“Tôi nói giảm học phí. Tức là có
thể hạ học phí từ mức mỗi người một tháng một trăm nghìn đồng xuống năm mươi
hay bảy mươi nghìn chẳng hạn. Cô biết rõ nên giảm bao nhiêu. Thực sự tôi không
cần nhiều như vậy. Tôi chắc trong số người học ở đây nhiều người cũng khó khăn,
đặc biệt các em từ nông thôn. Cô hiểu rồi chứ?”
“Dạ hiểu”, cô Mai ấp úng. “Nhưng
em thấy không thể làm thế được ạ”.
“Vì sao?”
“Vì... không thể được. Xưa nay
người ta chỉ tăng chứ không giảm học phí...”
“Nhưng đây là lớp tư. Của tôi. Và
tôi muốn giảm!” Ông Đoàn hơi cao giọng. Là nhà ngoại giao, ít khi ông cao
giọng.
“Nhưng làm thế sẽ ảnh hưởng đến
các lớp tiếng Anh khác. Có thể cả những lớp không phải tiếng Anh. Mọi người sẽ
không hiểu, sẽ bàn tán, dị nghị, sẽ cho rằng thầy...”
“Tôi không cần biết người ta nghĩ
gì về tôi. Đây là việc riêng, và tôi quyết định từ nay cô chỉ thu năm mươi
nghìn đồng một tháng! Không bàn nữa. Cứ thế mà làm!”
Ông Đoàn thậm chí giật mạnh chiếc
cặp trên bàn rồi bước ra khỏi phòng.
Tội nghiệp cô Mai. Cô bị sốc thật
sự. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đã mười năm nay cô làm thêm
nghệ quản lý các lớp dạy thêm, học thêm này, cho nhiều thầy, nhiều cô, nhưng
chưa bao giờ cô gặp trường hợp nào tương tự. Ngoài đức tính quí báu là mẫn cán
và trung thực, cô còn là người dễ xúc động và hay lo. Cô hình dung chuyện gì sẽ
xẩy ra khi cô thông báo cái quyết định kỳ cục ấy. Người ta sẽ bảo lớp cô “phá
giá” để chơi xỏ nhau, bảo ông thầy này điên, định tỏ ra này nọ. Người học chắc
chắn sẽ lấy làm ngạc nhiên, đoán non đoán già không biết vì sao lớp bỗng dưng
giảm học phí. Mà nào có ai kêu đâu. Lớp dạy chất lượng, so với nhiều nơi khác
là còn rẻ, lại được bảo lưu, học bù thoải mái. Rồi họ sẽ quay sang nghi ngờ cả
những chuyện kỳ cục nhất, như phải chăng ở đây đang có điều gì khuất tất? Hay
thầy trót phạm tội lỗi nào đó nay lương tâm cắn dứt? Được giảm tiền cũng thích,
tất nhiên, nhưng ý nghĩ học với một người tội lỗi thì chẳng thích thú gì. Rất
có thể vì thế mà nhiều người sẽ bỏ học. Nhất định phải có chuyện gì đó. Nếu
không ai bỗng dưng từ chối tiền, nhất là những đồng tiền chính đáng? Ừ, mà sao
ông ấy làm thế nhỉ? Không thể nói vì giàu. Xưa nay càng giàu người ta càng muốn
có thêm tiền để giàu hơn. Vậy thì vì cái gì? Cô Mai chịu không sao hiểu nổi.
Hay thật sự có điều gì khuất tất? Hay biết đâu ông ta nói thế là nhắc khéo mình
tăng chứ không phải giảm học phí?
Với những băn khoăn như thế, cô
quyết định tạm thời cứ chờ một thời gian xem sao. Biết đâu đây chỉ là ý nghĩ
bốc đồng thoáng qua và chẳng bao lâu nữa ông ấy sẽ thay đổi.
Những ngày tiếp theo ông Đoàn
không đả động gì đến chuyện này, vẫn đều đều lên lớp, trang nghiêm và đạo mạo
như trước, không mảy may chú ý tới cô Mai và những việc cô làm trong lớp.
Cuối tháng, cô lại đến gặp ông.
“Hóa ra cô không làm như tôi yêu
cầu?” ông Đoàn hỏi khi cô đưa cho ông gói tiền với tờ giấy đủ các khoản diễn
giải và con số gần mười lăm triệu đồng.
“Dạ vâng. Em xin lỗi”, cô ấp úng.
“Em nghĩ có thể vì mới đến thầy chưa biết. Việc này không đơn giản như thầy nghĩ.
Vả lại...”
“Thôi được rồi’, ông Đoàn ngắt
lời không chút ngoại giao. “Nếu thế thì cứ mặc tôi.”
Đêm hôm ấy cô Mai lại mất ngủ. Cô
thấy tiếc những năm làm việc đều đều không sự cố với thầy Năm, và cô lo lắng
nghĩ tới việc ngày mai ông Đoàn sẽ nói “điều ấy” với cả lớp, một việc đáng lẽ
cô làm nhưng ông không để cô làm. Tức là mọi người sẽ nghĩ có sự không ổn giữa
ông và cô.
Nhưng cô ngạc nhiên khi hôm sau
và mấy ngày tiếp điều cô lo vẫn không xẩy ra. Cô không biết rằng ông Đoàn đã
đích thân ra phòng thuế quận xin nộp thuế thu nhập cá nhân. Ý tưởng mới mẻ và
độc đáo này đến với ông khá bất ngờ, khi buổi sáng đi chơi ten-nít về, ông ngẫu
nhiên nhìn thấy câu khẩu hiệu viết bằng sơn đỏ đã phai màu trên một bức tường
vôi tróc loang lỗ: “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của công dân” Đúng! Mình
là công dân, công dân gương mẫu, có thu nhập cao, tại sao không tự nguyện khai
báo nộp thuế?
Ở phòng thuế, anh nhân viên trẻ
sau khi nghe khách trình bày ý định của mình, thấy có sự lạ, bèn lễ phép mời
ông sang phòng bên “gặp lãnh đạo”. “Lãnh đạo” là một ông già gầy đét đã ngồi
ghế trưởng phòng hơn hai mươi năm nay, có tên là Chẩm, vừa nghe vừa chăm chú
nhìn ông bằng đôi mắt nhà nghề đầy cảnh giác của một cán bộ ngành thuế dày dạn
kính nghiệm.
Ông Chẩm hoan nghênh ý thức công
dân cao của ông, mời ông uống nước, rồi thong thả nói:
“Vậy là bác đã về hưu, và chỉ dạy
thêm tiếng Anh ‘cho vui’ như bác nói?”
“Vâng, đúng thế”.
“Và đây là lớp dạy tư chứ không
phải trung tâm ngoại ngữ hành nghề có giấy phép và đăng ký với nhà chức trách?”
“Vâng”.
Ông Chẩm trầm ngâm suy nghĩ một
chốc rồi thở dài:
“Rất tiếc tạm thời chưa có luật
nào qui định những người như bác phải nộp thuế thu nhập từ các nguồn tương tự”.
“Nghĩa là cả khi muốn, tôi cũng
không được nộp?”
“Cái này để tôi hỏi ý kiến lãnh đạo.
Xin bác cho địa chỉ, sẽ có người đến báo bác sau”.
Khi khách ra khỏi phòng, ông Chẩm
thấy như hẫng hụt điều gì, thậm chí có cảm giác bị xúc phạm. Xưa nay người ta
chỉ đến gặp ông để kỳ kèo xin miễn giảm, hoặc tìm cách gian lận, thế mà bây giờ
bỗng xuất hiện cái ông kỳ cục này.
“Theo tớ đây là trường hợp đáng
ngờ,” ông quay sang bảo anh nhân viên nọ. “Nhất định phải có cái gì đấy mờ ám.
Cậu nghĩ thế nào?”
“Em cũng nghĩ đúng như thủ trưởng
ạ.” Anh kia hồ hởi đáp. “Có thể ông ta muốn tỏ ra mình lương thiện ở một việc
nhỏ để che dấu một hành vi bất chính khác lớn hơn, như kiểu bọn tội phạm tự
nguyện đầu thú tội ăn cắp vặt để trốn tội giết người ấy mà”.
“Vậy thì giao cho cậu điều tra vụ
này. Phải làm thật khéo và thật kỹ. Đừng quên tìm hiểu cả bệnh án của ông ta.
Biết đâu lại chẳng một lão già tâm thần làm mất thời gian cơ quan nhà nước.”
Một tuần sau ông Đoàn gọi điện
thoại đến phòng thuế. Đích thân ông Chẩm trưởng phòng nhấc máy.
“Thú thật với bác là chúng tôi
vẫn chưa tìm được mục nào trong các luật thuế hiện hành để có thể áp dụng cho
bác nộp thuế”, ông nói, thân mật hơn một chút so với giọng điệu vẫn dùng hàng
ngày. “Cái khó của trường hợp bác là ở chỗ bác đã nghỉ hưu, chỉ dạy tư tiếng
Anh, thứ ngôn ngữ đang được khuyến khích, lại chỉ một lớp và chẳng thuê mướn
ai. Nếu bác là một trung tâm đăng ký hẳn hoi thì lại là chuyện khác. Ừ mà sao
bác không thành lập một trung tâm như thế để hợp pháp hóa việc nộp thuế nhỉ?..
Vâng... vâng... Bác nói đúng. Tôi biết bác chỉ dạy cho vui chứ không nhằm mục
đích kinh doanh. Thế mới khó cho chúng tôi. Dẫu sao thì người tự giác như bác
hiện giờ có thể nói không nhiều. Vâng... Nhất định thế nào chúng tôi cũng tìm
được cách giúp bác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình. Xin bác
yên tâm chờ thêm một thời gian nữa. Không lâu đâu. Chào bác”.
“Không lâu đâu” là ý ông Chẩm
muốn nói tới kết quả điều tra của anh nhân viên trẻ. Suốt cả tuần vừa rồi ông
chẳng hề “báo cáo lãnh đạo”, cũng chẳng xem lại luật thuế như ông nói. Cú điện
thoại vừa rồi càng khẳng định thêm ý kiến của ông, rằng người này nhất định
phải có vấn đề. Nếu không đã chẳng hăng hái xin đóng thuế như vậy. Gần trọn đời
trong nghề, ông tin chắc điều ấy. Nhưng vấn đề gì? Cậu nhân viên vẫn chưa tìm
ra. Có lẽ phải nhờ đến công an. Ừ, phải báo công an biết và yêu cầu họ điều tra
giúp. Ông Chẩm nghĩ, thầm hài lòng với chính mình.
Trong khi đó, ông Đoàn, với bản
tính hồn nhiên trong sáng và lạc quan vốn có, vẫn tiếp tục cách sống ông yêu
thích - sáng ten-nit, chiều uống bia, tối đi dạy rồi về đọc sách báo, thỉnh
thoảng làm thơ. Thực ra ông chẳng cay cú lắm với cái việc tự nguyện làm giảm
tiền của mình mà không thành. Đơn giản ông thấy “dạy chơi” mà được chừng ấy là
quá nhiều, nên đề nghị hạ học phí hoặc xin đóng thuế. Dẫu vậy ông cũng chút ít
ngạc nhiên khi người ta không cho ông làm cái việc tốt đẹp đó.
Tháng sau, vẫn không thấy động
tĩnh gì, một hôm sau buổi học, ông tuyên bố trước cả lớp từ nay sẽ giảm một nửa
học phí. Cho tất cả mọi người. Rồi ông thong thả xách cặp bước ra khỏi phòng,
để cô Mai ở lại một mình giải thích thêm với đám học viên đang ngạc nhiên bàn
tán.
Mấy ngày tiếp theo mọi người nhìn
ông với con mắt tò mò, nghi kỵ, nhưng biết tính thầy nghiêm, không thích nói
chuyện lạc đề nên không ai dám hỏi. Còn cô Mai thì vốn rụt rè ít nói, bây giờ
hầu như chẳng bao giờ mở miệng. Không chủ ý, ông Đoàn vẫn nghe lõm bõm nhiều
câu bình luận sau lưng. Rồi ông nhận được mấy lá thư nặc danh với những lời lẽ
khiếm nhã đầy bóng gió. Kệ. Ông không quan tâm. Ông vẫn sống theo cách xưa nay
từng sống. Ông hài lòng với ý nghĩ đã phần nào giúp được ai đó vấn đề tài chính
mà ông chắc họ đang gặp khó khăn. Thậm chí ông ăn thấy ngon miệng hơn.
*
Mấy
lời nói thêm.
Tháng tiếp theo số người học
không tăng như ông Đoàn tưởng mà còn giảm. Giảm rõ rệt. Cô Mai khốn khổ thực sự
vì bị mấy ông phòng thuế và công an căn vặn về ông thầy “lập dị”. Người học
cũng chất vấn cô không ít, đến mức cuối cùng cô xin thôi lớp ông, sang làm giáo
vụ cho một trung tâm ngoại ngữ ở trường bên, dù lương ít hơn.
Thất vọng vì không phát hiện thấy
điều gì mờ ám liên quan đến nhân thân ông Đoàn, cuối cùng nhà chức trách đi đến
kết luận rằng việc mở lớp dạy tư thuê phòng của trường là vi phạm qui định quản
lý giáo dục và đào tạo, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của khu vực. Vậy là lớp
dịch tiếng Anh của thầy Đoàn bị đóng cửa. Cùng vạ lây theo nó là ba lớp tiếng
Anh thực hành và mười lớp luyện thi đại học. Tất nhiên không ai trong số các
nạn nhân cảm ơn ông điều này.
Còn ông thì sao? Ông vẫn thế, như
xưa. Vẫn hàng ngày làm những việc ông ưa thích - thể thao, bia, sách báo và làm
thơ. Bây giờ ông có thời gian nên làm nhiều hơn. Tuy nhiên, công bằng mà nói,
sự trong sáng của ông dường như cũng bị gợn đục chút ít. Bằng chứng là một lần
uống bia với nhau, giữa chừng ông trầm ngâm bảo tôi, cũng một người về hưu kiếm
thêm bằng nghề dạy học, rằng nếu không có lý do thúc bách thì dẫu sao cũng
không nên giảm tiền học phí hoặc tự nguyện xin nộp thuế. Tiếc là tâm lý xã hội
tạm thời chưa chấp nhận một điều xa xỉ như vậy.
Hà
Nội, 7. 2. 2003
CHỈ LÀ MỤ ĐÀN BÀ
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là
hoàn toàn có thật. Nó xẩy ra đã lâu, từ cái thời còn đánh nhau với Mỹ cách đây
những mấy chục năm. Một câu chuyện buồn và chứa đựng nhiều bí ẩn. Cả thời ấy
lẫn bây giờ không ai, trừ những người trực tiếp liên quan, biết được sự thật về
nó. Còn việc vì sao tôi biết thì lại là chuyện khác, thiết tưởng chẳng cần nói
ra.
*
Không ai biết chính xác lão từ
đâu tới và tên là gì, chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm
Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để
kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở
vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu
bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật cũng
chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị
lão, Mù hay Chột thì cũng vậy, không quan trọng.
Khác những người hát xẩm xưa nay
ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước da lão đen trũi, có
thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão
chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ “lão” ở đây rõ ràng không
vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.
Công bằng mà nói, từ ngày đến đây
lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó
chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị
người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão
chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ
cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này,
tức là việc lão không chịu “lạy ông lạy bà cho con xin...” cũng làm không ít
người ghét lão.
Lão Xẩm sống trong chiếc miếu
hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó,
một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ
dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng
vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng
phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân
chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là “nhà Lão Xẩm”.
Tối nay, như những buổi tối mùa
hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía
sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa
ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì
không cần, vì biết chẳng có ai nhìn. “Càng mát!” lão nghĩ, nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.
Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn
thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự
thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực
kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính nhờ
những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô
gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông
khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.
Việc này xẩy ra hầu như vào tất
cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm. “Bọn
này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng!” Khi nghe các cô cười bảo
nhau “Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ”, lão giận dữ
cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm: “Đây
không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác. Đứa nào giỏi, muốn
thử cứ lên đây". Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh
nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả
những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Để mặc
chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng
vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống,
dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca
dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh
ách dưới bụng.
Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh
tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói
hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ.
Tiếng chân người. Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc
ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực
ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại
người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình như tiếng bước chân đang
tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần
nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc
gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.
Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay
điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu lên nhưng cũng liền lúc
ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía
trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao
người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả
nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một rồi sau hai, tự do mân
mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn
nữa.
Như trong cơn mơ, lão ngây ngất
mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay
tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng
cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này và đã làm điều ấy không gặp chút
chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các
cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng
nói gì vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.
Xong, người kia vội vùng dậy bỏ
đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi
việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế
nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không
mặc quần và còn ươn ướt...
Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi
vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu
hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng
đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp.
Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng
cho lão.
Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại
vác nhị xuống chợ như mọi ngày.
Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại
đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của
lão ve vuốt khắp người và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình
tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi
sau đó người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.
Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ,
nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho
lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi
biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.
Việc này lặp đi lặp lại trong bốn
tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi,
vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối
cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời
gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy
để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu
nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.
Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn
mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí
còn hơn. Điều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ
theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy.
Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ
người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa, nhưng lão hy vọng và
vẫn chờ. Đêm nào lão cũng chờ...
Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi
ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên
đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Đoạn sông
ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng
bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy “cái ấy” của
mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa
thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy
hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác với mọi lần, lần này lão
phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút
bỏ. Đang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân
người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng
kêu thất thanh:
- Đừng! Chị Tâm! Đừng, đừng nhảy
xuống sông!
Đó là tiếng một cô gái, giọng còn
trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc
bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng
lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.
- Sao chị làm thế? Em van chị.
Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi
chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...
Có tiếng người khóc tấm tức.
- Em nói em biết, biết hết mọi
chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng
vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.
- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng
nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị
xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương
chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.
- Vì lão mù, không biết chị là
ai.
- Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại có tiếng khóc. Lần này to và
lâu hơn.
- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì
nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một
cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại
chửa hoang? Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao?
Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có
tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ,
chẳng điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà
trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà
không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng
lại được...
- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà.
Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng
xấu...
- Đúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ
không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em
cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi
anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là
chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con
quỉ tội lỗi trong người chị...
- Không. Không bao giờ! Chị phải
về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai
em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát
khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà
với em. Không lôi thôi gì nữa!
Im lặng một chốc, rồi có tiếng
dằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi.
Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng
dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai ngày sau, khi đang hát ngoài
chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên,
cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi
xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không
biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa.
NHỮNG CÔ GÁI ÁO TRẮNG
Truyện
ngắn. Thái Bá
Tân
1
N.V. ngày 20 tháng 11 năm 197...
Rét! Rét quá!
Ba đứa một giường ôm nhau, mình nằm giữa, hai chăn trùm kín đầu và chân mà mãi
không sao ngủ được. Có lẽ do trong hang ẩm và nước nhỉ bám đầy tường đá mới rét
thế. Đêm nay ra bến phà gió mạnh, không biết còn rét đến đâu.
Không ngủ được,
nằm suy nghĩ vẩn vơ mãi cũng chán, đành dậy viết nhật ký. Xưa nay mình ít viết
nhật ký, lại viết dở nên rất ngại, cả viết thư cũng thế. Nhưng lúc này... Biết
làm gì cho hết thời gian lúc này?
Điều đầu tiên
mình muốn viết là - nhớ nhà. Nhớ và thương mẹ quá. Mẹ bây giờ đang làm gì nhỉ?
Chắc buồn và giận mình lắm. Hãy tha lỗi cho con mẹ nhé, vì con bỏ mẹ ở nhà một
mình, già yếu không ai giúp đỡ. Hôm được tin con ghi tên đi thanh niên xung
phong, mẹ không nói gì, còn cố gượng cười để con yên tâm nhưng con biết trong
lòng mẹ rất buồn và có thể còn trách con không hỏi ý kiến mẹ trước. Mẹ ơi, con
hiểu lòng mẹ. Bản thân con, con cũng chẳng dễ gì khi phải xa mẹ, xa ngôi nhà
tranh bé nhỏ thân yêu của ta. Nhưng việc con ra đi là cần. Rất cần mẹ ạ. Con
tin mẹ hiểu điều đó...
Có nên cho mẹ
biết sự thật về điều kiện sống và làm việc ở đây không nhỉ? Không! Chỉ làm mẹ thêm lo nghĩ. Vả lại, chắc
gì mình ở lâu một chỗ? Mới tuần trước còn làm đường ở Trường Sơn, bây giờ đã ở
đây, cao điểm phà sông L, cách biển chưa đầy hai chục cây số. Không hiểu nay
mai còn đi những đâu nữa.
Nhớ cái Hòa và
bọn bạn cùng đơn vị. Không được đi với mình lần này, chắc nó buồn lắm. Hai đứa
cùng làng, cùng đi một ngày, cùng ở với nhau chừng ấy thời gian, thế mà... Biết
làm thế nào được. Cả đội xung phong, người ta chỉ lấy năm. Năm người để dẫn
đường cho ô tô qua sông ở bến phà này, thay cho cả tổ, cũng nữ và đều là thanh
niên xung phong, vừa hy sinh ba ngày trước đó. Những người được chọn là Vân,
Yến, Lộc, mình và Út. Mỗi đứa một tính, một kiểu người nhưng đều rất trẻ và
chưa chồng, chưa cả người yêu, trừ cái Yến, già nhất, hai mươi hai tuổi, nghe
nói đã có "chàng" nào đấy. Cũng nghe nói thôi chứ chưa bao giờ thấy
cô nàng nhận thư hoặc nói gì về anh ấy. Nó kín lắm. Lại nghiêm khắc nữa. Tổ
trưởng mà. Từ nãy đến giờ đã hai lần nhắc mình ngủ, đêm còn đi làm. Cả cái Út
nữa (nó cũng là em út của tổ), nó đã mấy lần cấu mình, bắt nằm xuống để ôm nó
cho ấm. Cứ như con nít...
21 tháng 11.
Ngày cũng như
đêm, không lúc nào ngớt tiếng máy bay. Thỉnh thoảng còn pháo từ biển câu lên.
Tổ mình ở phía
Bắc bến phà. Cả năm đứa đứng rải trên một đoạn đường dài, từ mặt nước tính lùi
lại, mỗi đứa cách nhau hai trăm mét. Tổ trưởng Yến phân công Út đứng trên cùng
vì nó nhỏ nhất, lại mới ra chiến trường. Tiếp đến là Vân rồi Lộc. Chặng cuối
cùng phải hai người, là mình và Yến.
Đây là một
trong những trọng điểm ác liệt nhất của mạch máu giao thông Bắc Nam. Cách sông
còn những mấy cây số mà mặt đường đã bị bom và rốc-két địch cày tung, ô tô
không thể tự đi một mình nếu không có người xi-nhan. Nhiệm vụ bọn mình là đi
trước, dẫn xe men theo những miệng hố bom mới lấp sơ sài, tránh chỗ đánh dấu có
dấu bom nổ chậm, cho tới tận mép nước. Ở đấy sẽ có người xếp xe lên phà. Vì đêm
không được đốt đèn, bọn mình đứa nào cũng phải mặc áo trắng để từ ca-bin, lái
xe thấy mà đi theo. Những lúc có máy bay - ấy là nói khi chúng thả pháo sáng
hoặc lao xuống bắn phá, chứ bay ngang hay vần lượn thì kệ - ai ở trên có thể
chạy lánh xa khu vực bến phà, còn người phía dưới thì ở nguyên tại chỗ, trú
trong các hầm cá nhân được đào sẵn bên cạnh. Có lúc chúng bắn mặc chúng, phà cứ
chạy, ô tô cứ đi, tất nhiên con người cứ tiếp tục làm việc. Càng sáng. Càng
không phải dò dẫm như trước.
Ban ngày bến
phà thật yên tĩnh, nhưng chỉ là cái yên tĩnh tương đối của chiến tranh. Không
tiếng phà, không tiếng ô tô, không có gì ngoài một dải đất nham nhở màu sắc lẫn
lộn, lổng chổng những xác xe bị lật hoặc bị bắn cháy chưa kịp thu dọn. Bên
cạnh, giấu hết mọi sự khốc liệt của chiến tranh vào lòng, con sông vẫn không
ngừng chảy, bình thản và hiền từ như nghìn năm nay. Thật khó tin rằng chỉ chốc
nữa, khi mặt trời vừa lặn, là hàng đoàn ô tô, hàng đoàn người sẽ từ đâu đó chui
ra. Cả bến phà sẽ bừng tỉnh dậy để bắt đầu một "ngày" mới, một cuộc
chiến đấu mới...
25 tháng 11.
Hôm nay cả hai
phà cùng trúng bom một lúc. Gần mười chiếc xe
được dẫn xuống tận sông phải đứng trơ trọi dưới ánh sáng chói rực của
đèn dù, dưới làn bom và rốc-két máy bay địch.
Phòng không ta
bắn rất dữ.
Tổn thất...
Mình có sợ chết
không? Biết nói thế nào được nhỉ? Có. Sợ, nhất là những lúc thế này, khi suốt
ngày nằm dài trong hang yên tĩnh và có quá nhiều thời gian để suy nghĩ. Ừ, có
lẽ nói sợ cũng chưa thật đúng. Mình chỉ tiếc. Bây giờ mà phải chết thì tiếc lắm.
Lại thương nữa. Thương mẹ ở nhà. Thương bọn bạn phải buồn, phải gánh thêm một
phần việc.
Không hiểu sau
khi chết thế nào nhỉ? Không lẽ mình sẽ chẳng còn biết gì nữa? Chẳng biết cả
việc một ngày nào đó chiến tranh kết thúc, mọi người sẽ tìm gặp lại nhau, sẽ đi
học, làm việc, hay chỉ đơn giản sẽ được sống hòa bình? Ôi, hòa bình!... Chết
chắc phải đau lắm. Hẳn thế. Không đau sao được khi cơ thể bị xé ra từng mảnh?
Người khác nghĩ thế nào về cái chết? Cái Lộc và cái Vân, cái Út hay cái Yến
chẳng hạn? Chúng có sợ như mình không? Chắc có, nhưng chúng không bao giờ để lộ
điều ấy ra ngoài. Chúng vẫn lặng lẽ làm việc, các tốp thanh niên xung phong
chữa đường cũng thế. Anh em lái xe, lái phà cũng thế. Mình cũng thế.
27 tháng 11.
Đọc mấy trang
vừa rồi, thấy buồn cười. Toàn chuyện vẩn vơ không đâu. Lúc nãy tò mò, mình hỏi
Ùt:
- Này Út, em có
sợ chết không?
Út tư lự một
lúc, rồi thay cho câu trả lời, nó hỏi lại:
- Em hỏi chị,
chị phải nói thật nhé, chị Liên. Đã bao giờ có người con trai nào hôn chị chưa?
- Chưa... Sao em
hỏi thế?
- Em cũng chưa.
Con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế nào ấy, chị nhỉ? - nó nói, giọng mơ
màng và hơi buồn, rồi lại rúc vào chăn, ôm mình đến nghẹt thở. Con bé rõ đến
lạ.
1 tháng 12.
Cả bọn được một
phen hú vía. Chiều qua một thằng "Con Ma" bất chợt phóng liền mấy quả
tên lửa vào đúng cửa hang. May không ai việc gì. Lý do là trước đó mấy đứa tắm
xong, bao nhiêu đồ lót, đồ vệ sinh phơi tuốt cả một dây ngoài nắng. Tuy biết
làm thế có thể nguy hiểm, nhưng kệ. Cứ trêu thằng Mỹ, xem hắn tồi đến mức nào.
Và thằng Mỹ đã cho biết hắn tồi đến mức nào. "Cứ thấy xu-chiêng đàn bà là
mò đến!" một đứa châm chọc.
Sau đó họp tổ,
cái Yến cấm từ nay không được ai phơi bất cứ cái gì trắng ngoài cửa hang, thậm
chí cả khăn mù- xoa. Nhưng ác thay trong hang luôn ẩm ướt, không có gió nên
phơi bao lâu vẫn không khô. Mặc vào người thật khó chịu.
5 tháng 12.
Nhớ nhà quá!
Thèm bữa canh
rau mồng tơi. Hay rau ngót, rau bầu cũng được. Ở đây không chợ, không vườn, cái
cần và khó kiếm hơn cả là rau xanh vì miền Trung đất cát, quanh năm nắng nóng
chẳng tìm đâu ra những thứ ấy. Khắp nơi đất bị cày tung, có hôm đi suốt buổi
chỉ nhặt được nhúm rau má già hoặc rau sam chua loét. Da cứ sùi lên như bị
hủi...
6 tháng 12.
Cái Lộc có thư.
Nét chữ trên phong bì nắn nót, lại không ghi tên người gửi. Cả bọn đoán thư
người yêu nên hồi lâu bắt nó phải khai thật hết mọi chuyện mới cho nhận. Cái
Lộc nói ngay là chẳng có gì để khai, bảo cứ bóc tại chỗ, đọc to mọi người cùng
nghe. Thì ra đó là thư một người bà con xa ở Hà Nội, nội dung khô khan và chỉ
những lời thăm hỏi bình thường. Không hiểu sao nghe xong, đứa nào cũng có vẻ
như bị hẫng và hơi buồn, vì cứ tưởng và muốn đó là một bức thư loại khác, thư
tình với những lời âu yếm dè dặt và kín đáo, dù những lời ấy không dành cho
mình.
Lát sau nằm trong
chăn, lại cái Út cấu vào tay:
- Chị Liên này,
chị có người yêu chưa?
- Chị cũng
không biết. Có lẽ chưa.
- Sao lại có
lẽ? Có hay không thì chị phải biết chứ?
- Chuyện không
đơn giản như thế... Mà thôi, Út ngủ đi.
Nhưng cái Út
không chịu thôi. Tính nó thế, muốn biết cái gì là phải hỏi bằng được.
- Anh ấy là ai?
ở đâu?
Mình buộc phải
trả lời nó:
- Xa lắm. Anh
ấy đang học ở nước ngoài. Nhưng từ ngày xa nhau, chị chưa bao giờ nhận được thư
anh ấy. Còn chị thì không biết địa chỉ, mà có biết cũng không gửi. Chị và anh
ấy cùng làng.
- Thế anh ấy có
yêu chị không ?
- Chị không
biết. Chắc anh ấy quên chị rồi.
- Còn chị?
- Đừng hỏi nữa.
Ngủ đi. Mà rồi giữa anh ấy và chị chưa có gì đặc biệt. Chỉ thế thôi.
Cái Út nằm im
một lúc rồi bỗng nói, giọng hờn dỗi:
- Em là em chúa
ghét những anh đi nước ngoài. Cứ tưởng mình ghê lắm, mặt vênh lên nhìn người
khác bằng nửa con mắt...
- Ấy, em đừng
nói thế. Không phải ai cũng như em nghĩ đâu.
Cái Út không
nói gì thêm, nhưng chắc còn lâu nó mới ngủ được. Nó trong trắng, vô tư quá. Hôm
nọ nó nói gì nhỉ? Ừ, "con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế nào ấy..."
Ngộ thật.
2
- Cái này mãi
gần hai năm sau khi nó hy sinh tôi mới nhận được. - Bà Nghĩa vừa nói, vừa hất
đầu chỉ cuốn nhật ký tôi đang đọc dở. - Cùng ít quần áo và tư trang của nó. Tôi
nhờ thằng lớn nhà Cả Chung bên cạnh đọc cho nghe. Tội nghiệp con bé. Tôi chỉ có
mình nó, nhiều khi nghĩ mà đứt ruột. Cậu xem, tôi già yếu thế này, vậy mà trời
bắt phải sống lâu hơn con, sống để nghe những lời kia của nó...
Rồi bà thở dài,
cúi xuống sàng nốt mẻ gạo mới giã.
Nhà bà Nghĩa và
nhà tôi chỉ cách nhau mấy con ngõ. Chồng chết sớm, bà chưa quá năm mươi mà
trông như cụ già.
Năm nay tôi
dành trọn cả mười ngày phép về thăm quê. Theo lời khuyên của mẹ tôi, tôi đi một
vòng gọi là "thăm xã giao" các nhà trong xóm, một việc những lần
trước phần vì bận, phần vì ngài ngại, tôi vẫn chưa làm được. Tôi đến nhà bà
Nghĩa và bà đã cho xem cuốn nhật ký của Liên, con gái bà, để lại.
Bà Nghĩa có
đoán ra tôi là "anh ấy" mà Liên đã nhắc trong nhật ký không? Có thể
lắm. Vì vậy bà cho tôi xem để trách khéo việc tôi để con gái bà đau khổ chăng?
Cũng có thể bà không biết gì. Xưa nay bà là người tốt bụng, chất phác, không
quen suy xét sâu sắc kiểu ấy. Vả lại, trong xóm tôi không là người duy nhất đi
học nước ngoài những năm chiến tranh.
Còn tôi, tôi và
Liên thì thế nào?
Không ngờ Liên
tình cảm và sâu sắc đến thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy lúc đó quả tôi là một cậu bé ngờ nghệch,
vô tư đến tàn nhẫn. Chúng tôi là bạn thân, học cùng trường, tôi hơn một lớp.
Trường xa, chúng tôi cùng đi cùng về mà nào có bao giờ nói chuyện với nhau,
hoặc giả có nói, cũng chỉ toàn chuyện bông đùa, trêu chọc như phần lớn những
đứa khác vào tuổi ấy. Tất nhiên tôi không thể không nhận thấy Liên là một cô bé
(trong ký ức tôi, bao giờ Liên cũng là cô bé) tốt, lại xinh. Nhưng lúc ấy về
tâm, sinh lý tôi chưa phát triển đến tình cảm yêu đương, và tất nhiên không
biết có thể Liên đã chú ý, hay thậm chí còn thầm yêu tôi.
Đêm trước hôm
tôi đi, cùng một số bạn gái khác, Liên đến chia tay, uống nước chè xanh, ăn kẹo
lạc và hát những bài ca cách mạng. Suốt buổi Liên im lặng. Rồi tình cờ hai đứa
ngồi cạnh nhau. Cũng im lặng. Có thể lúc ấy tôi lờ mờ đoán được tình cảm của
Liên với tôi, nhưng Liên không dám nói. Còn tôi, không hiểu tôi có nói điều gì
không để Liên hiểu theo cách mình và hy vọng, dù không đâu, mong manh, nhưng
vẫn cứ là hy vọng?
Tôi xa nhà bảy
năm. Có thể nói suốt thời gian ấy tôi quên hẳn Liên, không hỏi thăm hoặc viết
cho Liên một bức thư nào. Khi Liên hy sinh, tôi được bố mẹ báo cho biết. Tôi
buồn và thương Liên, hẳn thế, nhưng vẫn là cái buồn thương chung chung như khi
nghe tin ai đấy trong làng từ chiến trường
không trở lại. Có lẽ tôi sẽ còn tiếp tục nghĩ như thế về Liên, nếu hôm
nay vô tình không được đọc cuốn nhật ký này.
Bà Nghĩa đã bỏ
ra sân thái rau cho lợn. Tôi ngồi lại một mình bên chiếc bàn học của Liên ngày
nào, xúc động lật tiếp những trang chữ li ti đã ngả màu cùng năm tháng...
3
10 tháng 12.
Mỗi đứa được
phát hai mét vải trắng. pô-pơ-lin pha ni-lông hẳn hỏi, để may áo thay những
chiếc đã ố màu, lái xe kêu họ cứ lẫn với màu trắng của đất.
Cả hang sôi nổi
hẳn lên. Đi làm về, vừa chợp mắt một chốc đã vùng dậy, đứa nào cũng hý hoáy may
may cắt cắt.
Bỗng cái Vân
ngừng tay, ngồi thừ một lúc rồi nói:
- Kể cũng buồn
cười thật đấy, chúng màỵ ạ. Bọn mình thì tỉ mẩn may móc từng mũi nhỏ, nhỡ một
tý đã xuýt xoa như may áo cưới không bằng, lại còn kiểu này, kiểu nọ nữa. Nhưng
thử hỏi để làm gì? Ban ngày không dám mặc, mà cũng chẳng biết mặc cho ai, còn đêm,
đêm thì thế nào chẳng được. Tớ ấy à, tớ thì muốn cứ để cả tấm mà khoác. Càng
rõ. Càng khỏe. Còn hơn phải vất vả thế này để làm duyên... làm duyên với những
chiếc ô-tô mù!
Mắt cái Vân ươn
ướt như muốn khóc. Nó nói là nói thế thôi, chứ cả tổ, nó vẫn là đứa ưa diện
nhất, kỹ tính nhất trong chuyện ăn mặc, chắc chắn lần này áo của nó cũng được
may cẩn thận và đẹp nhất.
- Cánh lái xe
là chúa tếu đấy nhé. - Một chốc sau Lộc lên tiếng, có lẽ để xua đi sự im lặng
bất tiện. - Một hôm có chàng bảo mình thế này, chúng mày nghe có được không?
"Này, đồng chí áo trắng ơi, đồng chí có xinh không đấy?". "Không
đến mức khó coi như anh tưởng đâu", mình đáp. “Vì sao anh hỏi thế?".
"Là vì cái xe của tôi ấy mà, không hiểu sao từ khi gặp cô, nó không chịu
nghe theo tay lái của tôi nữa. Cô đi, nó đi, cô đứng, nó đứng. Tự nó quyết
định. Còn tôi, tôi chỉ ngồi khoanh tay mà nghĩ rằng chắc cô phải xinh lắm nên
mới thôi miên được nó như vậy. Tôi lo chốc nữa nó sẽ tự theo về lán của cô mất.
Tôi không có lỗi đâu nhé. À mà lán các cô ở đâu nhỉ?” Mình cũng không vừa, mình
nói: "Nhà em ở kia, ở phía cái hang kia kìa. Hôm nào từ chiến trường quay
ra, cứ để cái xe khó bảo của anh rẽ vào, chồng em sẽ cho nó một trận!..."
- Giỏi lắm! Rồi
anh chàng đáp sao? - một đứa hỏi.
- Anh chàng im,
nhưng chắc hiểu mình đùa. Anh ta thấy màu trắng áo mình. Còn mình thì chẳng
thấy gì. Chỉ nghe giọng nói. Ấy thế mà buồn cười lắm, chúng mày ạ. Xe đi rồi mà
không hiểu sao mình cứ thấy bâng khuâng thế nào ấy... - Cái Lộc ngồi im một lúc
rồi đột ngột hỏi: - Chúng mày có nghĩ
một ngày nào đó anh ta sẽ vào đây không?
12 tháng 12.
Ngày đầu tiên
cả năm đứa diện áo mới đi làm. Mỗi đứa mỗi kiểu, vuốt, gấp cẩn thận rồi đặt
dưới lưng nằm suốt đêm cho thật phẳng, thành nếp hẳn hoi như được là kỹ. Ngay
từ chiều, đứa nào cũng mặc áo mới, soi gương ngắm nghía, rồi cởi ra, rồi lại
mặc vào, đổi áo, ướm thử áo nhau mãi. Khi không còn việc gì nữa để làm, cả bọn
cứ mặc áo mới ngồi chờ đêm xuống để ra khỏi hang, bồn chồn và sung sương như
chờ cái gì đấy thật hệ trọng.
Không biết hôm
nay các chàng lái xe có nhận thấy sự kiện mới lạ này không ?
15 tháng 12.
Mấy ngày nay
thằng Mỹ hoạt động đặc biệt ác liệt. Nó quyết phá. Ta quyết giữ. Máy bay bay
suốt đêm. Pháo từ biển câu vào không còn theo giờ như trước. Nhưng dòng xe
không vì thế mà bị dừng lại. Bến phà phải đổi chỗ nhiều lần. Kể ra, gọi là chỗ
vượt sông thì đúng hơn. Nhiều chỗ vượt sông như thế. Có cả chỗ để nghi binh.
Thiếu người, tổ phải chia ra làm việc ở ba nơi.
Nhớ nhà quá.
Nhớ mẹ quá.
Anh ấy có lúc
nào nghĩ về mình không nhỉ?
16 tháng 12.
Út hy sinh! Ba
giờ sáng hôm nay. Nó làm một chỗ với Vân. Một thằng lao xuống phóng rốc-két,
như hàng trăm thằng trước đấy từng lao xuống phóng rốc-két. Tiếng nổ bình
thường, trận đánh phá cũng bình thường, nghĩa là tất cả giống hệt mọi ngày, thế
mà sau đó Út không còn nữa. Một mảnh đạn cắm đúng tim nó. Một mảnh khác cắt đứt
phần trên vú trái. Một tiếng sau khi nó chết, mình mới biết. Biết mà chẳng đến
được vì còn phải làm việc. Khi gặp Út thì trời đã sáng. Yến đã lau sạch máu và
bụi bẩn trên người nó. Một đứa nào đó trong tổ cởi chiếc áo trắng mới còn
nguyên lành của mình mặc cho út. Khuôn mặt Út thật thanh thản. Đôi mắt vuốt mãi
không chịu nhắm như đang mơ màng nhìn một điểm nào đó trước mặt. Nó chỉ ngạc
nhiên, hơi buồn vì phải chết sớm và vô lý như vậy. Một bên miệng của nó hơi
nhếch, thơ ngây, bẽn lẽn như hôm nào nó hỏi: "Con gái chết mà chưa được
hôn, kể cũng buồn, chị Liên nhỉ?".
Mình cúi xuống,
lặng lẽ hôn lên đôi môi của Út.
17 tháng 12.
Hôm nay đi làm
về, thương Út, cả bốn đứa ngồi ôm nhau khóc.
20 tháng 12.
Vẫn ác liệt như
trước. Xe vẫn thông.
24 tháng 12.
Thế là đã ở bến
phà N.V. này hơn một tháng. Một tháng cộng với hai năm nay đây mai đó theo các
con đường của khu Bốn khói lửa. Chỉ mấy ngày nữa là năm mới. Năm mới... mọi
người sẽ già thêm một tuổi. Mình cũng thế.
Liệu mình phải
già thêm bao nhiêu tuổi nữa trước khi chiến tranh kết thúc? Còn Út thì vĩnh
viễn ở lại với cái tuổi mà bây giờ nó có, chiến tranh hay không chiến tranh
cũng thế. Vĩnh viễn yên nghỉ với cảm giác thanh thản của người đã cống hiến cho
người khác cái quý nhất mình có. Đúng, thanh thản, nếu không kể nỗi sợ rất con
gái kia mà nó vẫn cảm thấy đâu đó sâu trong lòng cho tới khi xuống mộ. Tội
nghiệp con bé...
27 tháng 12.
Xe vào nhiều
quá, có lẽ sắp đánh lớn. Ban ngày ít được ngủ hơn vì thường đi chữa đường giúp
các đội thanh niên xung phong.
Hàng ngày bốn
đứa vẫn mặc áo từ chiều, những chiếc áo được may đẹp, gấp vuốt phẳng phiu, ngắm
nghía, sửa sang cho nhau để tối đến, như cái Lộc một lần chua xót nói, “làm
duyên với những chiếc xe mù”. Kể cũng buồn cười, biết người khác không thấy mặt
mình và mình không thấy người khác, chỉ những cuộc gặp gỡ thoáng qua mấy phút,
lại trong hoàn cảnh ác liệt như hiện nay, thế mà cả tổ trước khi đi đứa nào
cũng chăm chút vẻ ngoài như sắp làm dâu không bằng. Một bản năng rất con gái,
có lẽ cũng chỉ con gái mới hiểu nổi. Chao, ước gì hoà bình! Ước gì được mặc
những chiếc áo trắng này tự do đi lại giữa ban ngày...
28 tháng 12.
Hôm nay Yến hy
sinh!...
Còn lại ba
người: Vân, Lộc và mình. Mình được cử làm tổ trưởng.
Yến ơi, thương
mày quá. Mày là đứa duy nhất có người yêu chờ đợi, thế mà mày hy sinh... Mày
quá kín đáo, mày chẳng cho chúng tao biết người yêu của mày là ai, ở đâu, để
chúng tao báo cho anh ấy biết mày là người thế nào.
31 tháng 12.
Hầu như đêm nào
cũng có xe đổ và người chết. Mỗi lần ra phà, đâu đó sâu trong tim, một ý nghĩ
nhỏ thôi, nhanh thôi nhưng sắc như mũi dao lại nhói lên - ý nghĩ rằng hôm nay
sẽ đến lượt ai đây? - mình, cái Vân, cái Lộc, hay thậm chí cả ba?
Trước khi bước
ra khỏi hang, ba đứa nhìn nhau im lặng, nhưng rất hiểu...
Xe vẫn thông...
4
Nhật ký của
Liên ghi đến đây thì dừng. Bất giác tôi ngước lên nhìn tấm bằng liệt sĩ lồng
kính treo trang trọng trên tường. Thì ra Liên hy sinh đúng vào ngày 31 tháng 12
năm 197..., ngày cuối cùng ghi trong nhật ký. Cũng là ngày cuối cùng trong năm.
Tôi nhẩm tính - Liên đã không gắng sống thêm được mấy giờ nữa để bước sang năm
thứ hai mươi đẹp đẽ của đời mình.
Từ trên tường,
qua lớp kính phủ nhẹ một màng bụi mỏng, một cô bé tóc tết đuôi sam, khuôn mặt
còn trẻ con với đôi mắt thơ ngây mở to đang nhìn tôi. Đó là Liên. Chắc đây là
bức ảnh duy nhất của con gái bà Nghĩa còn giữ được, chụp vào dịp Liên tốt
nghiệp lớp mười. Tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt ấy; không dám nhìn cả vào
đôi môi đang hé mở, đôi môi chưa một lần trong đời được biết cảm giác của cái
hôn âu yếm.
Tôi lặng lẽ trả
lại cuốn nhật ký cho bà Nghĩa, lơ đãng trao đổi thêm ít câu rồi ra về.
Sáng hôm sau,
trước sự ngạc nhiên của mọi người, tôi thu gói đồ đạc lên đường, nhưng không
phải đi Hà Nội mà ngược lại, vào Vinh mua vé ô-tô đi Quảng Bình, tới bến phà
N.V. mà Liên nói đến trong nhật ký.
5
Ở trụ sở ủy ban
xã S. nơi có bến phà N.V. ngày nọ, sau khi nghe tôi tự giới thiệu và nói rõ mục
đích chuyến đi của mình, người ta chỉ cho tôi đến gặp ông Nam, phó chủ tịch xã.
Ông Nam là
người vui tính và cởi mở. Ông nhìn qua một lượt suốt người tôi và hỏi:
- Anh là bà con
cô Liên à? - Nhưng không chờ tôi trả lời, ông nói luôn: - Chính tôi là người
tìm thấy và đọc cuốn nhật ký đó. Tội nghiệp các cô gái. Hồi ấy tôi là trung đội
trưởng dân quân xã. Tôi được lệnh điều các cô dân quân của tôi dẫn xe ở đoạn
trên, còn ba cô thanh xung phong thì làm ngay sát bến phà. Vào cái đêm cuối năm
đáng nhớ ấy, hình như độ mười giờ thì phải, bất ngờ một chiếc "Thần
Sấm" từ đâu lao đến ném một loạt bom, không lượn vòng nào, cũng chẳng thèm
bắn pháo sáng, thế mà trúng phà, trúng luôn cả ba cô gái. Anh xem có đau không
... - Ông Nam dừng lại, ngồi im một chốc như cố nhớ điều gì, rồi nói tiếp, giọng
trầm hẳn xuống: - Thậm chí đêm ấy, bận việc thông xe, chúng tôi chẳng kịp nhặt
hết các mẩu xác bị bom chặt đứt vung vãi khắp nơi. Mãi chiều hôm sau mới tìm
được hết, xác định cái gì là của ai rồi làm lễ chôn cất. Sau này, chiến tranh
kết thúc, khi người ta định đưa các cô - cả năm cô - vào nghĩa trang liệt sĩ
xã, tôi đem chuyện nhật ký cô Liên ra kể và đề nghị xây riêng mộ cho các cô ở
cạnh bến phà cũ. Ý kiến của tôi được chấp nhận. Bây giờ ta ra đấy chứ?
Nói rồi, ông
phó chủ tịch xã hăm hở đi trước, tắt qua một cánh đồng lúa vừa trổ bông thoang
thoảng hương thơm, về phía dòng sông L. đang trải rộng, trắng lóa dưới ánh mặt
trời tháng Tư. Tôi lặng lẽ bước theo với cảm giác hồi hộp như sắp được chứng
kiến một cái gì đấy linh thiêng và trọng đại.
Trên đỉnh một
ngọn đồi xanh vươn sâu tận mép sông, người ta xây mộ năm cô gái thanh niên xung
phong thành năm cánh của một bông hoa, đầu chụm vào nhau. Một bông hoa màu
trắng, vì mộ được quét vôi trắng. Các bia đứng kề sát nhau, tạo thành một hình
tròn có trồng những bông hồng và cúc lẫn lộn, tức là làm nhị của bông hoa xi
măng trắng vĩ đại. Trên những tấm bia ấy tôi đọc thấy tên cô Yến tổ trưởng
nghiêm khắc; tên cô Vân ưa diện; tên cô Lộc mơ hồ chờ đợi một chàng lái xe mà
cô chỉ mới trò chuyện một lần nhưng không thấy mặt; tên cô Út bé nhất tổ chỉ sợ
duy nhất một điều là chết mà chưa được hôn. Và tất nhiên tôi thấy cả tên của
Liên, cô hàng xóm, cô bạn cùng trường của tôi, người con gái đưa tôi vượt hàng
trăm cây số đến đây, và quan trọng hơn là đã giúp tôi tự nhìn nhận lại mình, tự
đánh giá nghiêm khắc những gì tôi đã, đang và sẽ làm trong đời.
- Nghĩ mà
thương các cô gái, - vừa bật lửa châm hương, ông Nam vừa khe khẽ nói. -
Đang tuổi ăn diện mà đến cái áo trắng
cũng không được mặc ban ngày. Còn bây giờ thì...- ông ngập ngừng chốc lát rồi
quay sang bảo tôi: - Những ngôi mộ này, anh ạ, cứ đều đặn nửa năm một lần tôi
cho quét vôi mới. Cũng có người kêu lãng phí, nhưng tôi thì tôi cứ cương
quyết...
Ông Nam còn nói
thêm điều gì nữa nhưng tôi không nghe rõ, vì lúc ấy tôi đã bỏ đi xa, tìm nhặt
những bông hoa bướm, hoa mua mọc nhiều quanh đấy. Một chốc sau, tôi quay lại
với một bó lớn trong tay. Tôi chia đều thành năm phần, nhẹ nhàng đặt lên năm
cánh trắng của bông hoa xi măng. Rồi vô tình như hẹn trước, cả tôi và ông Nam
cùng cúi đầu đứng lặng mấy giây.
- Liên ơi, hãy
tha lỗi cho tôi Liên nhé!
6
Sáng hôm sau,
tôi lên đường ra Hà Nội. Từ ô tô, tôi thò đầu qua cửa sổ, ngoái nhìn mãi những
ngôi mộ màu trắng được xếp thành hình một bông hoa trên ngọn đồi xanh, trông xa
như chiếc nơ trên đầu một cô gái. Suốt
đường đi, những ý nghĩ đượm buồn cứ quanh quẩn trong đầu tôi, ý nghĩ
rằng ngày xưa đã từng một thời có nhiều cô gái chỉ thèm được một lần mặc áo
trắng tự do đi giữa ban ngày, thế mà các cô chỉ được mặc vào ban đêm để làm
nhiệm vụ, để "làm duyên với những chiếc xe mù". Và rồi các cô hy
sinh, lặng lẽ mang theo xuống đất cùng tuổi trẻ là cái ước mơ tưởng vô cùng đơn
giản ấy, cũng như các cô đã lặng lẽ lập chiến công, lặng lẽ yêu và lặng lẽ ra
đi để một ngày nọ, như trong câu chuyện cổ tích, lặng lẽ biến thành những cánh
hoa màu trắng, cái màu trắng phải đổi bằng màu của máu...
Đà Lạt tháng 4, 1982.
Hà Nội, tháng 2, 1984.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét