Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2020

Truyện ngắn



LÀNG QUÊ YÊN Ả

Gần về đến làng thì có giông. Cơn giông bất chợt đầu hè ngắn và ấm, thoảng mùi hăng con đường đất bị hun nóng lâu ngày, mùi cỏ cháy và cả mùi gì đấy lẫn lộn, rất nông thôn và cũng rất đặc biệt.
Lác đác một vài tiếng sấm. Không thấy chớp. Có thể có chớp nhưng vì mặt trời chiếu sáng nên không thấy. Những đụn mây vần vo bay từ biển lên rồi dừng lại trên đỉnh Ba Chạc. Còn phía Tây trời vẫn quang, nắng vàng rực rỡ.
Ông Bùi vào trú trong ngôi đình bên hồ sen ngay đầu làng. Nó vốn là ngôi đình cổ nổi tiếng thiêng và đẹp nhưng bị phá gần hết cuối những năm sáu mươi, không do máy bay Mỹ mà do chính dân làng, theo lệnh của phòng văn hóa huyện khi rộ lên chủ trương “xây dựng đời sống mới”. Nghe nói đã có kế hoạch trùng tu lại toàn bộ, nhưng tạm thời nó chỉ còn lại khung nhà trống huếch, mái thủng ngói, đôi chỗ bằng chiếc mâm con. Thời đó dù đã xa làng, ông ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh phá hủy ấy. Tổ chức lễ hẳn hoi, có cờ trống và những bài phát biểu hùng hồn. Lễ phá đền chùa.
Bây giờ ông Bùi không nghĩ đến chuyện đáng buồn đó. Ông đang vui vì lâu ngày được về thăm quê. Niềm vui ấy bắt đầu từ khi bước xuống ô tô trên con đường nhựa phẳng lì cách làng không xa, khi ông vừa thong thả đi bộ vừa lâng lâng ngắm đồng lúa xanh rờn, mấy đứa trẻ chăn trâu đang chơi khăng trên Gò Chùa hệt như ông cách đây bốn, năm chục năm. Cảnh làng quê yên ả làm ông cảm động. Lũy tre bao bọc quanh làng vẫn còn, bất chấp những thay đổi to lớn của thời đại. Ông thích thú nghĩ bụng chỉ chốc nữa thôi khi vào bên trong, ông sẽ được lũy tre làng ông che chở, không chỉ khỏi những cơn gió mạnh từ biển mà cả những cơn gió độc của đời.
Cả cơn giông bất chợt này cũng làm ông vui. Thậm chí ông còn nấn ná một lúc bên ngoài cho mưa rơi lên mặt và làm ướt chút áo quần. Một niềm vui ngây thơ kiểu trẻ con, khiến ông bất giác mỉm cười.
Chợt có mấy cô gái làng không hiểu từ đâu chạy ùa vào cùng trú mưa bên ông, mang theo cả tiếng nói cười vui vẻ và dường như cả cái lạnh. Những cô gái hồn nhiên, xinh đẹp ông không biết tên nhưng chắc biết tên bố mẹ hoặc ông bà họ. Ông nhìn các cô, nhìn xuống ao sen, và nghĩ:

                              Trời mưa lên mặt hồ sen
                              Những giọt to như đồng tiền.

                              Mấy cô đầu trần ướt hết,
                              Vừa chạy vừa run vì rét.

                              Lại còn trêu nhau, còn cười,
                              Áo ướt, dính chặt vào người...

Các cô đội nón nhưng vẫn bị ướt, làm những chiếc áo mỏng dính chặt vào người. Hết mưa, ông còn hồi lâu nhìn theo những eo lưng thon thả dính áo ướt ấy. Không hiểu sao ông thở dài như nuối tiếc điều gì.
Trong làng, ông Bùi không còn ai thân thích. Ông ở nhờ nhà một người quen trước cùng học trường làng, nay làm trưởng thôn. Suốt buổi chiều hôm ấy ông khoan khoái tận hưởng sự tĩnh mịch của miền quê yên ả. Đang dịp làm cỏ đợt hai cho lúa, mọi người ra đồng hết. Trẻ con hoặc bận chăn trâu, hoặc đang ở trường, thành ra ông đi một vòng quanh làng chỉ gặp mấy người tuổi ông nhưng do cuộc sống vất vả trông già hơn nhiều. Nói chuyện với họ thực ra chẳng mấy thú vị, có người phải quát vào tai mới nghe nổi vì nghễnh ngãng, nhưng ông thích, vì nó gợi nhớ nhiều kỷ niệm, có cả kỷ niệm buồn nhưng bây giờ ông thấy bình thường. Cũng có thể do ông đang trong trạng thái lâng lâng của ngày đầu rời thành phố về làng, thấy cảnh làng vẫn điền viên, thơ mộng như xưa dù cuộc sống đã thay đổi hẳn, theo hướng tốt lên, tất nhiên.
Nhà ông trưởng thôn nhìn ra một con kênh nhỏ được đào để dẫn nước tưới cho cả huyện Xuân Phú phía trên. Chủ nhà đi họp trên xã. Chỉ cô con út ôn thi đại học ở nhà. Hiện cô đang giặt quần áo dưới kênh. Cô ăn mặc, búi tóc kiểu nhà quê, và cũng kiểu nhà quê toát lên ở cô sự khỏe mạnh, dung dị đến cảm động. Chốc chốc cô ngừng tay, đỏm dáng soi bóng mình dưới nước. Ngồi hút thuốc trong sân, ông bâng quơ nhìn cô, rồi tự lúc nào không biết mấy câu thơ vu vơ xuất hiện trong đầu. Ông là nhà thơ, còn khá nổi tiếng một thời, thường viết thơ triết lý, nhưng về quê lần này ông toàn nghĩ những chuyện đời thường dung dị.
                              Dưới ao, cô gái đang yêu
                              Giặt ít, ngắm mình thì nhiều.

                              Tôi nghịch ném hòn đá nhỏ,
                              Cô gái giật mình xấu hổ.

                              Còn tôi, đứng nấp trong nhà,
                              Nghĩ mình cũng chưa thật già.

Ông mỉm cười với chính mình. Bài thơ đến thật hồn nhiên, hợp người hợp cảnh, dù không ném đá trêu cô gái nhưng ông hình dung đã làm điều đó. Ông cũng thấy như trẻ ra hàng chục tuổi.
Cũng trong tâm trạng phấn khích như thế, buổi tối ăn cơm xong, bất chấp sự phản đối của chủ nhà, ông Bùi vác cần câu ra Đầm Vạc. Ông chỉ muốn được sống lại những ngày còn trần truồng tắm ở đó, những ngày vô tư và có lẽ hạnh phúc nhất của đời ông. Buổi chiều đi ngang, thấy mấy bụi cây rậm rạp bên đầm, ông đã nghĩ tới chuyện tối đến đi câu.
Đêm trăng sáng, ngoài đồng vắng còn sáng hơn. Cơn giông rửa sạch bầu trời, không khí ẩm ướt, ánh trăng trở nên hữu hình, sền sệt như sữa loãng. Đầm Vạc khá rộng, nước trong, bao đời nay là chỗ tắm công cộng của dân làng. Có thể vì thế mà người ta không biến nó thành hồ nuôi cá. Thanh niên làng bên nhiều khi hứng chí vượt cả hai cánh đồng rộng đến đây tắm nhờ. Mặt hồ không hiểu sao có màu đen sẫm chứ không ánh bạc như ông tưởng, và chi chít hàng nghìn, vạn ngôi sao.
Không muốn ai nhìn thấy, ông Bùi ngồi lên chạc ba thân cây nhãn mọc nghiêng trên mặt đầm, thong thả buông câu. Ông tận hưởng sự tĩnh lặng của làng quê yên ả, hơn nữa, lại làng quê của chính ông. Ông không nghĩ gì, hoặc cố không nghĩ gì. Người ông như mềm ra, có lúc thiu thiu buồn ngủ. Ông thấy mình hạnh phúc có được một làng quê như thế để về thăm, là điều thật tiếc, ông rất ít làm trong mấy chục năm qua. Biết đâu, không ra thành phố, không thành nhà thơ, mà ở lại làng làm anh nông dân bình thường, cuộc đời ông sẽ tốt hơn, thanh thản hơn?..
Cơn buồn ngủ và những ý nghĩ tản mạn bị ngắt quãng bởi tiếng líu ríu của mấy cô gái đang chạy từ làng ra. Bốn cô. Đến mấy bậc đá dẫn xuống đầm cách chỗ ông ngồi chỉ dăm mét, các cô nhất loạt cởi hết áo quần rồi nhảy ùm xuống tắm, không kịp để ông lên tiếng nhắc đang có người. Ông chỉ còn biết mỉm cười lắc đầu và ngồi im không dám động đậy. Lại một bài thơ nữa tự đến.

                              Mấy cô thôn nữ hồn nhiên
                              Đêm khuya tắm dưới ao sen,

                              Rúc rích nói cười, không thấy
                              Có tôi ngồi câu cạnh đấy,

                              Làm tôi lặng người quay đầu,
                              Cá cắn mà không giật câu...

Vậy là tình cờ, ông Bùi được chứng kiến một bầy tiên đang tắm truồng ngay trước mặt mình. Không dám nhìn nhưng ông biết các cô đẹp, với những đường nết trẻ trung, khêu gợi. Các nàng tiên tắm, cười nói, té nước trêu nhau ồn ĩ như bầy trẻ.
Bỗng một nàng tư lự nói:
“Chúng mày ạ, cái Thơm nó rủ tao lên thành phố bán trinh. Những hai triệu cơ đấy. Nó bảo tìm được mối rồi...”
“Khiếp! - một cô khác lên tiếng. - Mày nói gì sợ thế!”
“Còn hơn cứ thế này sớm muộn bọn mình cũng bị mấy thằng mất dạy trong làng cưỡng hiếp. Hai triệu chứ ít à? Đằng nào chẳng mất. Có đứa nào đi với bọn tao không?”
“Mày nói có lý. Nhưng để tao nghĩ đã”, một cô đáp.
“Đúng là trai làng mình thật láo. Thanh niên làng khác đến bị chúng rình ném đá vỡ đầu, hoặc công khai kéo nhau đến đánh. Tuần trước cái Lụa con bà Thảo bị hiếp đấy, chắc chúng mày đã biết. Đi chợ huyện về thì bị hiếp ở Đồng Chùa vì lúc ấy đã tối, lại một mình. Nó biết, tao biết, nhiều người nữa biết nhưng không ai muốn làm ầm lên. Để ế chồng à? Mà chúng thì được thể chắc sẽ còn tiếp tục làm tới. Sợ lắm. Tao chỉ mong mau mau thoát khỏi cái làng này!”
“Đúng đấy, phải lo mà chuồn nhanh thôi, chúng mày ạ”.
Rồi các nàng tiên lại quay sang đùa nghịch, cười nói vui vẻ như không hề mới bàn nhau cái chuyện bán trinh khủng khiếp kia. Có lẽ các nàng đã quá quen với những chuyện như thế.
Ông Mùi lặng người, bây giờ không chỉ vì sự hiện diện của ông trước sự lõa lồ của các cô gái. Ông thấy bàng hoàng, chua xót như có cái gì đang vỡ ra bên trong.
Sáng hôm sau ông lên đường sớm, quay lại cái thành phố ồn ào ông hăm hở muốn thoát khỏi ngày hôm trước.
Ngồi trên ô tô, ông thở dài ngoái lại nhìn lũy tre um tùm bao quanh làng ông. Lũy tre, những thửa ruộng lúa sắp lên đòng, những con trâu hiền lành gặm cỏ bên đường đã tạo cho nó cái vẻ điền viên thơ mộng. Một làng quê yên ả. Làng quê của ông...      
Hà Nội, 2003


GIAN LẬN VỚI TRỜI

Người đàn bà ôm bụng chửa, nhăn nhó.
“Gì thế?”
Chồng bà ta, một gã mặt quắt, da đen, vẻ lạnh lùng gian xảo ngồi bên, cau có hỏi.
“Nó đạp. Đau lắm”.
“Thì tôi bảo đi bệnh viện, sao còn cãi. Tại nó muốn ra đấy”.
“Không, ngược lại. Nó không muốn ra nên nhắc tôi cách ấy. Phải chín tháng mười ngày, các cụ nói. Mà nó mới tám tháng tròn. Thiếu những một tháng mười ngày nữa...”
“Chờ đến lúc ấy thì nói làm đếch gì. Tôi bảo hàng trăm lần rồi mà cô không chịu hiểu. Sáu mươi năm mới có một lần. Mà chỉ cho con trai thôi. Nếu ra đời lúc này nó sẽ thành đạt, thành quan, thành thủ tướng, thành tỉ phú. Muộn là hỏng. Hỏng hết. Thành thằng ăn mày, thằng mất dạy. Nó ở trong bụng, biết gì. Vớ vẩn. Nó không chịu ra thì mổ bụng lôi ra! Đủ rồi, không lôi thôi thêm nữa. Đi!”
Gã thô lỗ túm tay vợ kéo ra khỏi phòng. Bên ngoài một chiếc ô tô loại xịn đang chờ. Người lái xe riêng vội vàng mở cửa xe cho ông chủ, bà chủ.
“Chỉ sợ con nó chưa phát triển hết, ngộ nhỡ thiếu cái gì đó thì sao. Chưa nói đẻ non thế có sống được không...”
Người đàn bà lí nhí nói, nước mắt lưng tròng. Nhưng lúc ấy xe đã nổ máy, gã chồng không nghe, mà có nghe chắc cũng cộc lốc đáp:
“Kệ!”
Thế là hắn bắt vợ đến bệnh viện, không phải để đẻ mà “mổ bụng lôi con ra” như hắn nói.
Bà chủ là người ít nói, nhút nhát, luôn trong tâm trạng lo sợ mơ hồ, đối với chồng chỉ trên người ở và dưới người tình. Trong nhà bà chẳng có chút quyền hành nào, cả quyền giữ tiền hộ chồng. Đơn giản chỉ là cái bóng để làm vì. Một cái máy đẻ như gã chồng vẫn đùa bảo bạn bè. Bà chẳng bao giờ dám trái ý hắn trừ lần này, khi bị lôi đi mổ bụng lấy cái thai mới tám tháng.
Trong xe, gã chồng ngồi im không nói gì, nhưng đang suy nghĩ lung lắm, và không phải không thoáng chút lo sợ. Hắn có cảm giác như đang dính vào một vụ rất lớn. Một cú liều quan trọng. Đời hắn đầy những cú liều quan trọng. Chính nhờ dám liều hắn mới được như ngày nay - một người giàu, cực giàu nhờ buôn đồ cổ, nhờ gian lận và ăn cắp. Mới bốn lăm tuổi hắn đã có năm con, hai thằng con trai đều nghiện ngập chích choác, coi như bỏ đi. Ba đứa con gái bình thường, nhưng là con gái cũng coi như bỏ đi nốt. Mà hắn thì đang cần một thằng con ra con. Năm Quí Mùi này nghe nói cực tốt, hơn nửa thế kỷ mới có một lần. Thế là ngay từ đầu năm hắn bắt tay thực hiện kế hoạch năm nay có con bằng được, bỏ bồ bịch tối tối về ngủ với vợ. Một cuộc chạy đua lặng lẽ mà dữ dội. Hắn ra đường thấy toàn bà chửa mà thằng con hắn mong đợi vẫn chẳng thấy đâu. Cuối cùng thì vợ hắn cũng có bầu, siêu âm thấy con trai, nhưng bị muộn mất mấy tháng. Tính ra bình thường thì nó sẽ sinh đầu tháng Giêng năm sau, thế mới chết. Hắn quyết định chơi canh bạc này, tức là phải có con đúng lúc hắn muốn, bất chấp tự nhiên, bất chấp qui luật. Hắn phải chọn hoặc thêm một thằng nghiện nữa, hoặc sẽ có một quí tử xứng đáng thừa kế gia tài hắn. Nhưng để thành quí tử thì nó phải sinh ngay bây giờ. Chậm hơn là vứt! Vứt!
Trong đời, hắn từng nhiều lần gian lận và ăn cắp. Toàn những vố lớn. Vậy mà lần này hắn thấy lo lo, dù chỉ gian lận thời gian, bắt đứa bé ra đời sớm hơn một tháng mười ngày. Xưa nay hắn mánh khóe với đời, với người, nay với trời, với tự nhiên, liệu có đi quá xa không? Liệu con hắn có “thiếu cái gì đấy” như mụ vợ gở mồm vừa nói không? Hay chí ít cũng thành ngớ ngẩn? Không, không thể thế được. Suốt đời hắn luôn liều và luôn thắng, vậy lần này không thể thất bại. Cứ mổ bụng lôi nó ra!
Bên ngoài trời bỗng đổ mưa. Con đường đất chẳng mấy chốc trở nên nhão nhoét, té bùn bẩn lên chiếc Mercedes mầu đen bóng lộn. Qua tấm kính mờ nước, những bụi cây thấp ngả màu đen xỉn, lạnh lẽo và có hình thù quái dị. Chốc chốc chớp lóe, tiếp đến là những tiếng sấm giận dữ. Một điều hiếm vào dịp này trong năm. Nỗi sợ mơ hồ cứ ngọ ngoạy không để hắn yên, dường như mỗi lúc một lớn thêm.
Đường vắng. Người đàn bà mặt tái nhợt đầy tuyệt vọng, thỉnh thoảng lại ôm bụng nhăn nhó. Nếu can đảm, bà đã kêu cứu, nhưng vì nhu nhược, bà chỉ biết ngồi im. Mà có kêu cũng chẳng ai nghe. Tiếng đạp chân phản đối của đứa bé trong bụng lại càng khó được nghe hơn.
Chỉ còn một hy vọng là các bác sĩ sẽ từ chối không làm điều bất nhân, trái tự nhiên này, nhưng bà không biết thằng chồng đã đút tiền mua họ từ trước. Mọi âm mưu ăn cắp hoặc gian lận, cả gian lận với trời, đều luôn có kẻ tòng phạm.
Tội nghiệp đứa bé. Thằng bố ăn cắp của trời mà hóa ra lại ăn cắp của chính con hắn. Những một tháng mười ngày trong vẻn vẹn chín tháng mười ngày được yên ổn nằm trong bụng mẹ.
Trời mưa nặng hạt hơn. Người đàn bà khốn khổ đã không còn rên rỉ, nhăn nhó, hai mắt nhắm nghiền, có thể do khuất phục số phận hoặc ngất đi. Phía trước đã nhìn thấy bệnh viện, một khối đen ảm đạm đáng sợ như một lò mổ, nơi có những tên đồ tể đang đợi...

                                                  *
Hắn đã có được đứa con như mong muốn. Con trai. Để đúng năm đẹp, ngày đẹp, giờ đẹp. Không chết yểu và cũng không “thiếu cái gì” như mụ vợ ngu ngốc của hắn lo sợ. Còn thừa. Thừa một cái đuôi nhỏ và lớp lông dày màu vàng trên da con hắn.
Chín tháng mười ngày trong bào thai, con người trải qua toàn bộ lịch sử phát triển sự sống trên trái đất, từ sinh vật đơn giản nhất rồi đến loài nhuyễn thế, loài cá, loài bò sát, sau thành loài linh trưởng, nôm na là khỉ, giai đoạn cuối cùng trước khi phát triển thành người. Vì bị vạch bụng mẹ lôi ra sớm, nên con hắn chưa kịp rụng đuôi và rụng lông. Chỉ duy nhất một khiếm khuyết ấy, chứ mọi cái khác đều ổn. Thằng con khỉ của hắn mạnh khỏe, mặt hiện rõ vẻ quí tướng và rất giống hắn.
Dẫu không toại nguyện hoàn toàn nhưng hắn cũng mừng. Tháng sau đưa vào bệnh viện, cắt đuôi, cạo lông là xong. Lo gì!
Hà Nội, 2003


GIỌT NẮNG BÊN THỀM

Xe vừa vượt qua đèo thì chết máy. Cậu lái xe bước xuống, hý hoáy một lúc rồi nói:
“Có vẻ hỏng nặng, thủ trưởng ạ. Phải mất vài giờ mới chữa xong”.
“Có chắc chữa được không?”
“Chữa được. Em biết bệnh này rồi. Có điều hơi lâu. Khoảng cây số nữa là đến thị trấn Xuân Yên. Thủ trưởng chịu khó đi bộ tới đấy, nghỉ ngơi, ăn uống chờ em”.
Ông im lặng vẻ do dự.
“Thôi được. Ở lại đây cũng chẳng ích gì. Tớ tới đấy trước vậy”.
Lúc ấy đang giữa trưa nhưng may trời không nóng lắm vì hình như sắp có giông. Dịp này miền trung du hay có giông, chóng đến và cũng chóng tan. Mây đen ùn ùn xuất hiện từ phía chân trời sau ngọn đèo bây giờ đã ngả  màu xanh thẫm. Những đám mây thấp, bù xù bay nhanh theo gió. Tuy nhiên, rất cao phía trên, bầu trời vẫn sáng, và qua các khe hở nắng vẫn chiếu xuống. Nghĩa là có thể mưa mà cũng có thể không. Cậu lái xe sẽ không bị ướt. Ông  hít thật sâu làn không khí mát lạnh rồi bước tiếp theo con đường nhỏ rải nhựa nứt loang lỗ và vắng người.
Quang cảnh hai bên thật buồn. Những ngọn đồi trọc không cây xanh liên tục gối vào nhau, thưa thớt vài đám cỏ úa và chằng chịt những rãnh nước xói trơ đất đỏ. Phóng tầm mắt thật xa mới thấy lác đác vài ngôi nhà mái ngói đen xỉn. Không thấy những con bò quen thuộc cùng lũ trẻ chăn chúng. Lâu lắm ông mới có dịp thoát ra khỏi thành phố để nhởn nhơ ngắm thiên nhiên, lại không may gặp cảnh ảm đạm thế này.
Ông là nhân vật quan trọng của một bộ cũng rất quan trọng. Chiều nay có cuộc họp làm việc với lãnh đạo tỉnh sở tại, kiểu này có lẽ không kịp. Tất nhiên người ta sẽ chờ, hoặc hoãn sang hôm sau, nhưng việc giữa đường hỏng xe và ông phải cuốc bộ cả cây số thì quả làm ông khó chịu. Có thể vì thế mà ông thấy vùng này tiêu điều? Tiêu điều đến mức không gợi được chút cảm hứng nào trong tâm hồn thi sĩ bẩm sinh của ông. Vâng, ông vốn trước là nhà thơ, hội viên Hội Nhà văn Trung ương hẳn hoi, thậm chí từng nổi tiếng một thời với nhiều bài in trên báo. Rồi sau không hiểu sao ông chuyên tâm chăm lo đường quan chức. Đến nay ông được đùa gọi là người làm quan cao nhất trong giới thơ và ngược lại, nhà thơ có chức vụ cao nhất trong giới quan.
Do không quen đi bộ nên khi tới được thị trấn Xuân Yên đôi chân ông mỏi dừ, áo ướt đẫm mồ hôi. Ông bước vào cái quán đầu tiên ông cho là tử tế và thích hợp. Đó là ngôi nhà hai tầng mới xây lợp tôn xanh có bụi hoa giấy đỏ rực phía trước. Ông ngồi xuống chiếc ghế đá bên cạnh, cởi một lúc hai cúc áo sơ mi cho mát. Ông biết chỉ chốc nữa sẽ có người ra hỏi ông muốn ăn gì, uống gì. Quán nhỏ nhưng khá sạch sẽ với năm chiếc bàn lúc ấy không có ai ngồi. Trên bàn ngoài cùng thậm chí có chiếc cốc thủy tinh với mấy bông hồng còn tươi. Trước cửa có tấm bảng mi-ca khung nhôm in to hai chữ Đặc Sản. Chẳng biết ở đây bán loại đặc sản gì.
Bất chợt ông nhớ mình từng tới thị trấn Xuân Yên này. Hơn thế còn ở đây ba tháng thời sơ tán chiến tranh. Tất nhiên bây giờ nó khác nhiều, đến mức không nhận ra nổi, trừ mấy ngọn núi xa xa phía đông và chắc cả dòng suối nhỏ đâu đó sau những ngôi nhà tạo nên con phố duy nhất của thị trấn. Ngoài ra ông không nhớ gì, mà thực sự cũng chẳng có gì để nhớ.
Từ trong nhà bước ra là một phụ nữ trạc năm mươi tuổi, dáng mảnh dẻ và còn giữ được những đường nét xinh đẹp, thanh tú thời trẻ. Cách ăn mặc, điệu bộ cho thấy bà thuộc loại người có học và lịch sự. Ông theo bà vào ngồi xuống chiếc bàn có lọ hoa. Khoảng mười lăm phút sau bà bê ra chiếc mâm với những thứ ông yêu cầu, kèm theo chai rượu mơ ông yêu thích. Chắc bà là chủ quán nhưng do ít khách nên tự mình làm mọi việc.
Ông thoáng ngạc nhiên khi thấy bà ngồi xuống chiếc bàn cách đó không xa, vừa nhặt rau, vừa chốc chốc ngước nhìn về phía khách. Những cái nhìn có gì đó khác thường.
Ăn xong, và cũng uống cạn gần nửa chai rượu mơ pha đá, ông thấy người phấn chấn hẳn lên. Bên ngoài trời đã quang, nghĩa là cơn giông không đến. Bây giờ chỉ mong cậu lái xe xong việc sớm để đi tiếp, may còn kịp họp.
“Thị trấn Xuân Yên bây giờ đổi khác nhiều quá bà nhỉ?” ông lên tiếng, giọng to và vui vẻ hơn thường ngày.
“Vâng”. Bà chủ quán đáp. “Từ bấy đến nay đã ba mươi lăm năm rồi còn gì”.
“Từ bấy đến nay nghĩa là thế nào?” ông ngạc nhiên hỏi.
“Tức là từ ngày ông sơ tán về đây năm 1972 tránh máy bay Mỹ rải thảm Hà Nội. Ông quên rồi à, ông Minh?”
Lần đầu tiên họ nhìn thẳng vào nhau. Nhìn lâu.
“Bà biết tên tôi?”
“Vâng, lúc ấy tôi là giáo viên trường cấp một thị trấn. Ông và mấy người của báo ông ở nhà bên cạnh, gần đường rẽ xuống suối cách đây hai trăm mét. Bây giờ ngôi nhà ấy người ta phá đi rồi. Cả ngôi trường chúng tôi cũng không còn như trước. Mọi cái đều thay đổi. Tôi thành bà chủ cái quán này. Còn ông là người như hôm nay. Chẳng dám trách ông không nhớ vì chắc ông luôn bận nhiều việc nhà nước quan trọng. Thế mà có thời ông đã yêu tôi đấy, ông Minh ạ. Tôi và ông yêu nhau. Say đắm nữa là khác. Rồi ông bỏ rơi tôi về Hà Nội...”
Bà cúi đầu, mắt chớp chớp, tuy giọng nói vẫn nhỏ nhẹ, bình thản.
Không tự cho mình có trí nhớ tốt, ông thử nhớ mà mãi vẫn không nhớ nổi đã yêu ai đó ở cái thị trấn hẻo lánh này. Yêu say đắm lại càng không. Nên ông chỉ biết ngồi yên, bối rối nhìn bà. Nhưng đúng tên ông là Minh, đúng ông và mấy người nữa từng sơ tán về đây ba tháng cuối năm 1972, ở cạnh một trường học không rõ cấp một hay cấp hai, nơi có nhiều cô giáo trẻ mà ông và các bạn thường gặp. Lạ thật. Bà ta nhầm? Hay bịa chuyện yêu đương có mục đích gì? Tuy nhiên, ông không cảm thấy có gì giả dối, khuất tất ở người đàn bà nhỏ bé, đáng yêu này. Chắc ngày trước bà phải xinh đẹp lắm.
“Thời ấy ông thường làm thơ. Thơ ông hay lắm”. Bà khẽ nói rồi bất chợt thở dài. “Vì thế mà tôi đem lòng yêu ông ngay. Ông có nhớ bài thơ đầu tiên ông tặng tôi không? Người con gái nào chẳng xiêu lòng khi được viết tặng những bài thơ như thế. Bài thơ về hoàng hôn, về những giọt nắng bên thềm nào đó, mặc dù lúc ấy ông và tôi ngồi trong nhà vào buổi trưa sau giờ dạy như thường lệ. Cũng có thể ông viết về chiều hôm trước khi rủ tôi cùng đi dạo trên đồi. Trên đồi chứ không phải bên thềm. Nhưng thôi, điều ấy không quan trọng. Cái chính là ông yêu tôi và đã viết nó để tặng tôi. Tôi đọc lại ông nghe nhé?           
          Hoàng hôn. Giọt nắng bên thềm,
          Anh nhặt cho vào tay em.

          Giọt nắng lung linh như ngọc,
          Em định cài lên mái tóc.

          Nhưng Đêm bay đến, và Đêm
          Mang đi giọt nắng của em.

Lúc ấy trời sắp tối, sương bắt đầu rơi, tôi trùm khăn che đầu nên tất nhiên không có giọt nắng nào, mà nếu có cũng không thể cài lên tóc. Nhưng đúng là một bài thơ hay. Con gái tỉnh lẻ chúng tôi vốn dễ xúc động, dễ yêu vì được nịnh bằng thơ...”
Bất chợt bà ngừng lời, như để ông có thời gian bới tìm trong trí nhớ những kỷ niệm cũ bị lãng quên.
Đúng là thơ của ông. Thời ấy ông viết một loạt những bài thơ ngắn, chỉ sáu câu mỗi bài và không có đầu đề. Bài thơ này thì ông nhớ, nhưng ông không nhớ đã từng đi dạo hay không trên đồi với một trong những cô giáo trường bên, và từng viết nó để tặng người ấy. Những bài thơ lãng mạn, pha chút ủy mị, sáo rỗng mãi gần đây ông mới cho in thành một tuyển tập lớn năm trăm trang, với số bản rất ít như mọi tập thơ khác. Ông không nghĩ người đàn bà luống tuổi ở một vùng trung du heo hút có thể biết tới nó để mua, để đọc và thuộc một vài bài trong đó. Vậy là ông đã viết tặng bà mà không nhớ? Nhưng làm sao người ta có thể không nhớ một mối tình với những chi tiết đáng nhớ như thế? Trong đời ông, cả thời trẻ, đâu phải có quá nhiều mối tình.
“Kể cũng lạ”, cuối cùng ông lên tiếng với giọng của người có lỗi. “Đúng là thơ tôi, nhưng thực tình tôi không nhớ có lần cùng đi dạo với bà trên đồi...”
“Nhiều lần chứ không phải một”, bà xen ngang.
“Vâng, có thể. Dẫu sao tôi cũng đã có tuổi, trí nhớ không còn như xưa. Hay bà đọc nó trong tập thơ gần đây nhất của tôi?”
“Không. Rất tiếc tôi chưa có được tập thơ nào của ông, tuy thỉnh thoảng vẫn thấy ông trên ti vi. Hôm ấy ông đọc tôi nghe và tôi nhớ đến tận bây giờ. Một lần nữa, chắc ông cũng quên rồi, cùng nhau ngồi bên bờ suối cho đến lúc trên trời xuất hiện những ngôi sao đầu tiên, ông bỗng cầm tay tôi âu yếm nói:

          Ước gì xâu được sao đêm
          Thành vòng đeo lên cổ em,

          Và những giấc mơ đẹp nhất
          Anh sẽ trải hồng dưới đất

          Để em bước lên... ước gì
          Em đừng vỗ cánh bay đi...

Thật buồn cười. Có ai định bay đi đâu mà phải sợ. Tôi đang yêu và muốn ở bên ông mãi mãi. Tất nhiên đó chỉ là một bài thơ nữa ông mới nghĩ trong đầu, về tôi và dành riêng cho tôi vì lúc đó hình như ông cũng yêu tôi. Ông nhiều lần nói với tôi như thế. Yêu chân thành và bồng bột như tôi yêu ông vậy. Chắc ông chỉ nhớ thơ chứ không nhớ đã cùng tôi ngồi bên bờ suối, trên tảng đá lớn cạnh lối mòn đi xuống, nơi bọn con gái chúng tôi và các ông thường đến tắm và lấy nước. Bây giờ con suối và tảng đá ấy vẫn còn, nếu muốn ông có thể ra xem lại, nhưng phải vòng qua Bưu điện thị trấn mới tới được, vì người ta đã xây nhà, bịt mất lối đi cũ...”
“Vâng, quả thật tôi không nhớ gì cả. Bài thơ đã được in thành sách...”
“Còn tôi thì luôn giữ nó trong tim. Sống với nó và nhờ nó mà sống”, bà nhẹ nhàng cắt ngang.
“Tôi nhớ thỉnh thoảng có ra suối với các cô giáo, nhưng không nhớ có lần nào với bà không”, ông định nói, nhưng lại thôi.
Bà đứng dậy đi vào phía trong, lát sau quay ra với tờ giấy đã ố vàng.
“Đây là cái ông dúi vào tay tôi khi tôi vừa bước ra khỏi cổng trường đúng hai tuần trước khi ông về Hà Nội. Một bài thơ, và cũng là lời hẹn gặp”.
Ông đỡ lấy tờ giấy. Đúng nét chữ của ông, được viết trên loại giấy sổ tay khổ nhỏ có kẻ hàng bằng mực tím bây giờ đã ngả màu.

          Hãy đến cùng anh đêm đêm.
          Chắc không ai nhìn thấy em

          Khi em men theo lối nhỏ
          Của giấc mơ đầy hoa đỏ.

          Hãy ở với anh thật lâu.
          Anh không làm gì em đâu.

“Theo lời hẹn, tôi đã đến và ở lại với ông thật lâu. Mãi đến gần sáng mới về. Không phải trong nhà ông mà trên đồi. Nhưng ông đã không giữ lời hứa “không làm gì em đâu”. Tôi không cưỡng lại được tình cảm của mình. Tôi yêu ông, tin ông và không nghĩ chỉ mấy ngày sau ông bỏ rơi tôi. Tuy nhiên tôi chẳng oán trách ông điều ấy. Không người đàn bà nào có thể oán trách người đàn ông đã tặng mình những “giọt nắng bên thềm” và những ngôi sao đẹp đẽ được xâu thành vòng đeo lên cổ. Vì chúng, cũng không ai có thể quên người đàn ông ấy để yêu người khác...”
Ông cảm thấy nghẹt thở, cay cay ở mắt. Vậy là chính ông đã tặng bà bài thơ ấy. Tức là mọi chuyện có thật, chỉ do ông không nhớ? Và bà đã yêu, đã chờ đợi ông suốt chừng ấy năm và “không yêu người khác”? Có thể bà đã có con, con ông? Ông rất muốn hỏi để biết những điều ấy mà không dám, không nói nên lời.
Đang lúc lúng túng không biết cư xử thế nào thì bỗng có ba tiếng còi ô tô vang lên liên tục. Xe đã chữa xong và đang gọi tìm ông. Ông vội đứng dậy, móc ví lấy tờ giấy bạc một trăm nghìn để lên bàn. Nó bị chiếc quạt trần thổi bay xuống chân ghế.
Ông đi lại gần bà, húng hắng ho rồi nói:
“Người ta đang gọi tôi. Câu chuyện bà kể hôm nay nghe thật lạ. Tôi chẳng nhớ gì và cũng chẳng biết nói gì bây giờ ngoài việc nếu quả tôi đã làm điều gì không tốt với bà thì mong bà hãy tha lỗi cho tôi.”
Bà chủ quán im lặng. Ông đứng thêm chút nữa rồi quay người bước đi, gần như chạy. Khi đã ngồi trên xe, ông giục cậu kia cho xe chạy thật nhanh.
“Nhưng em còn chưa ăn trưa”.
“Chốc nữa đến nơi sẽ ăn”.
Đã hai giờ chiều. Trời không mưa nhưng u ám. Không hoàng hôn. Không giọt nắng bên thềm. Không cả những vì sao và giấc mơ hồng trải trên mặt đất. Không có gì ngoài những ngọn đồi nhấp nhô buồn tẻ và sự trống rỗng xen thoáng lo sợ mơ hồ trong lòng.
Ông lơ đãng nhìn ra ngoài, thầm điểm lại cuộc đời mình vốn được coi là thành đạt nhưng thực ra đầy bất hạnh, nhất là chuyện gia đình, con cái. Bây giờ ông gần như tin hoàn toàn vào sự có thật những điều bà nói.
Và thầm hình dung sẽ thế nào nếu ông không hèn hạ bỏ rơi bà ngày ấy. Cũng có thể là bỏ rơi cả hạnh phúc của chính ông cùng những giọt nắng và chuỗi sao đêm được ông hái xuống xâu thành vòng lấp lánh.
          Hà Nội, 2004                                                                                                           

GIÓ LỠ THÌ

Vài năm một lần ông lại “đi công tác xa”, tức là xuống vùng quê nào đó trong bán kính một trăm ki-lô-mét cách trung tâm Hà Nội để, như ghi trong giấy giới thiệu, “sưu tầm văn hóa, văn học dân gian, xin nhờ các tổ chức và cá nhân liên quan hết lòng giúp đỡ”. Với ông đó là loại công việc dễ chịu, vì tiếng là đi công tác mà ông được tự do tuyệt đối, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Tới nay ông đã sưu tầm được khối điều thú vị trong lĩnh vực này, là đồng tác giả của mấy cuốn sách nghiên cứu về tục ngữ ca dao và chuyện cổ tích, thậm chí cả dân ca quan họ, dù ông mù tịt về âm nhạc.
Nhưng lần này thì ông lên đường vì mục đích riêng tư và khác hẳn, tất nhiên khi đề nghị cơ quan cấp giấy công tác thì ông vẫn là cán bộ sưu tầm vốn cổ dân tộc, vì ông không muốn chi tiền và thời gian của riêng mình, là cái vốn chẳng bao giờ có nhiều.
Số là một hôm ngẫu nhiên ông được đồng nghiệp đọc cho nghe bốn câu thơ của một nhà thơ nào đó mà cả ông lẫn đồng nghiệp đều không biết. Bốn câu lục bát hiện đại giản dị và cô đọng, tinh tế như ca dao cứ làm ông bâng quơ suy nghĩ mấy ngày liền, và cuối cùng đưa ông đến quyết định ra đi, không phải “sưu tầm” như mọi lần mà “đi tìm hiểu thực tế”, tìm hiểu cái gì gì và cách nào thì quả lúc ấy ông chưa rõ lắm. Bốn câu thơ ấy thế này:

          Chị đi kháng chiến trở về,
    Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
          Mưa qua đi, nắng qua đi,
    Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...

Nghe xong, ông ngồi lặng người một lúc rồi lên tiếng, không hiểu sao giọng buồn hẳn đi:
“Hay! Hay tuyệt! Chỉ mấy câu mà nói hết, nói sâu sắc cái đau của một lớp người anh hùng bất hạnh. Tớ nghe mà thấy rồn rộn trong người. Không hiểu bây giờ họ thế nào nhỉ, những con người ấy, những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì ấy?”
“Ế chồng chứ còn sao nữa, - ông đồng nghiệp nói, giọng cũng xa vời. - Mà họ đâu có một vài người, một vài trăm người. Hàng vạn, hàng chục vạn cơ đấy. Cái đau không nói nên lời, “chỉ thoáng nghe trong gió” như lời một bài hát của tay Bob Dylan người Mỹ, và bây giờ là “ngọn gió quê” của anh nhà thơ này. “Gió lỡ thì”. Tự dưng chẳng lỗi của ai mà mình như có lỗi. Cậu không thấy thế à?”
“Thấy”.
“Thấy mà chẳng làm gì được. Mà họ sống ngay bên ta, những con người cụ thể bằng xương bằng thịt. Nghe nói có cả những đội sản xuất, những làng toàn phụ nữ lỡ thì, những người một thời từng xinh đẹp, trẻ trung, nhí nhảnh yêu đời. Thế mà...”
Ông đồng nghiệp nhắc tên một số nơi những cô gái thanh niên xung phong nhỡ thì đang sống.
“Thế à?”
Ông ngước mắt, hỏi, và chỉ ít phút sau quyết định đi đến với họ.
Ông thuộc loại người sởi lởi, chân thành và cả tin. Nếu gọi những người có gia đình ba đời sống ở Hà Nội là dân thủ đô thì ông đúng là dân thủ đô. Lịch sự và tế nhị. Nhưng có lẽ vì chính sự lịch sự và tế nhị ấy mà trong mọi chuyện ông cũng cân nhắc, tính toán ra phết. Li dị vợ đã năm năm nay và dù chưa đến năm mưoi, lại đẹp trai, hào hoa, ông vẫn ngần ngại không đi bước nữa. Bạn bè bảo thế là khôn, vừa được tự do chơi bời lại chẳng phải gắn bó với người nào. Chắc điều này cũng nằm trong tính toán của ông. Kinh nghiệm chẳng mấy vui vẻ với bà vợ trước làm ông thấy sợ. Những người phụ nữ ông quan hệ sau này chẳng tìm được cớ gì để trách ông, mặc dù ước mơ (và đôi khi cả âm mưu) được làm vợ, ở chung với ông trong ngôi nhà mặt tiền phố Hàng Mắm rút cục không thành. Cuối cùng thì họ đành chấp nhận “làm bạn” cho đến khi ông chán họ rồi sau đó, dẫu ấm ức trong lòng, vẫn tiếp tục yêu con người lẳng lơ đáng yêu ấy. Còn điều nữa là ông rất dễ xúc động. Nhiều khi xem phim một mình ở nhà, ông thút thít khóc, và vì không có ai nên ông cứ để nước mắt tự do lăn trên má. Phim “Những cô gái ngã ba Đồng Lộc” là một thí dụ. Ông khóc suốt từ đầu chí cuối mà chẳng chút xấu hổ vì sự mau nước mắt của mình. Tính ông nó vậy. Mấy câu thơ về các cô gái lỡ thì này cũng làm ông xúc động chân thành, chưa đến mức chảy nước mắt nhưng rất xúc động. Thế là với chiếc túi du lịch trên tay, ông ra đi, lòng xốn xang những ý nghĩ bâng quơ cao thượng, cứ như ông đang đến giúp họ bằng cách cưới một trong những cô gái tội nghiệp ấy.
Nơi ông đến là một xã miền núi ở tỉnh Hòa Bình. Xã mới được thành lập và toàn dân miền xuôi được bổ sung từ mấy nông trường bên cạnh đã giải thể. Nó vẻn vẹn chỉ ba làng cách nhau không xa, nằm lọt thỏm trong thung lũng giữa hai ngọn núi lớn trên đường từ quốc lộ sáu rẽ vào Kim Bôi. Không thấy bóng chiếc nhà sàn nào, đàn ông, thậm chí trẻ con cũng rất ít. Chỉ trâu bò là nhiều. Chúng nhởn nhơ gặm cỏ trên các mé đồi hoặc hai bên đường. Mặt trời ngả về tây và đang sắp khuất sau núi. Nửa quả đồi xa xa được nắng chiếu sáng có màu vàng rực như trong bức sơn mài “Chiều Tây Bắc” nổi tiếng.
Ông chút ít cụt hứng khi thấy chủ tịch xã, người bao giờ ông cũng tìm gặp đầu tiên khi tới công tác ở địa phương nào đó, là phụ nữ, hơn thế còn khá trẻ, khoảng ba mươi lăm, cùng lắm chỉ bốn mươi. Chị chủ tịch (hay cô chủ tịch? ông thầm hỏi và thấy ngồ ngộ) rót chén nước chè đắng mời ông rồi cúi xuống chăm chú đọc tờ giấy giới thiệu công tác của khách. Ông thì vừa nhấp nước vừa lén nhìn. Chị khá xinh, cái xinh khỏe mạnh, đậm đà của người phụ nữ nông thôn giản dị và sạch sẽ ở cái tuổi ấy. Tóc chị búi ngược, để lộ cái cổ tròn trĩnh với những sợi tóc mềm ươn ướt mồ hôi. Cặp môi dày mọng có vẻ đa tình, nhưng cũng vừa có vẻ cương quyết, nhất là lúc này, khi chị đang mím chặt, căng thẳng đọc tờ giấy. Giữa cánh mũi bên phải và môi trên có một nốt ruồi kích thước vừa đủ, vị trì vừa đẹp và màu sắc vừa độ để bất kỳ một ca sĩ đô thành nào cũng mong muốn có.
“Vậy cụ thể chúng tôi có thể làm gì để giúp... - chị chủ tịch nhìn khách chọn cách xưng hô - để giúp anh?”
Ông lúng túng không biết nói thế nào. Chẳng nhẽ bảo tôi lên đây tìm hiểu cuộc sống những cô gái thanh niên xung phong lỡ thì?
“Chị biết đấy, - ông ngọ ngoạy mãi trên ghế rồi đáp. - Chúng tôi là một cơ quan nghiên cứu ở Hà Nội. Chả là người ta đang có chương trình nghiên cứu hậu quả chiến tranh, ý tôi nói về mặt xã hội, con người chứ không phải kinh tế, và tôi được cử về địa phương ta đây để... - Ông lại lúng túng. - Chị biết đấy, biết bao con người ưu tú, nhất là các cô gái của chúng ta, xung phong ra chiến trường, vì độc lập, tự do của đất nước đã hy sinh tuổi trẻ của mình... Vâng, đúng thế, đó là một bi kịch, bi kịch ghê gớm của chiến tranh. Họ đã đem hạnh phúc riêng tư của mình trả giá cho sự nghiệp chung...”
Cuối cùng thì chị chủ tịch xã cũng hiểu, và ông lấy làm mừng rằng một người vừa phải đánh vần tờ giấy lúc nãy lại tinh tế như vậy.
Chị nhìn ông bằng cái nhìn buồn buồn pha chút diễu cợt:
“Vậy thì tôi nghĩ họ phải cử người khác đi thay anh mới phải”.
“Có lẽ vậy. Nhưng cơ quan tôi ít người, vả lại các bà ấy ngại đi xa”.
Cả buổi chiều hôm ấy ông được chị chủ tịch xã kể cho nghe những gì ông muốn biết. Có thể trình độ văn hóa không cao, nhưng chị diễn đạt lưu loát, không ít khi pha chút đùa hóm hỉnh khiến ông khách mỗi lúc một thấy cảm tình. Ông ghi kín đặc ba trang giấy các con số và tên người cùng những điều ông cho là đáng chú ý. Hóa ra cái xã Kim La này cũng khá đặt biệt và đúng là địa chỉ ông cần tới. Nó trước là một phần của xã Kim Anh kề bên. Cuối những năm tám mươi, cùng một lúc cả hai nông trường quốc doanh trên địa bàn giải thể, đất nông trường chia cho công nhân làm nhà và canh tác. Thế là thành xã mới. Đó cũng chuyện bình thường, điều đáng nói là công nhân hai nông trường này chủ yếu là nữ, do được bê hầu như nguyên xi mấy đơn vị nữ thanh niên xung phong từ miền Nam ra khi mới giải phóng. Cái việc ế chồng của họ một thời được báo làm ầm ĩ, thậm chí người ta còn tổ chức hội thảo bàn cách giải quyết nhưng rồi đâu lại vào đó, chẳng thêm cô nào kiếm được chồng mà nông trường thành ra tai tiếng với cái tên “ế chồng” kèm theo. Địa phương cũng bị vạ lây. Một dạo người ta khôn khéo làm lễ kết nghĩa với các đơn vị bộ đội và xí nghiệp trong vùng, nhưng kết quả chẳng hơn gì, chỉ thêm nhiều đứa con hoang ra đời.
“Sao sau chiến tranh các cô ấy không về quê?” ông hỏi.
“Nhiều người về. Nhưng cả lúc ấy họ cũng đã quá lứa. Vả lại được vào biên chế nhà nước là cám dỗ lớn”.
“Vậy là chịu, chẳng ai làm được gì giúp họ?”
“Chuyện này thì giúp sao được. Mà rồi cũng không đến nỗi như anh nghĩ đâu. Cuộc sống vẫn bình thường, năm nào xã chúng tôi cũng đạt danh hiệu xã văn hóa. Sinh đẻ kế hoạch thì còn phải nói. Một nửa chị em đã yên phận, tức là có chồng chính thức, làm lẽ, hoặc có con ngoài giá thú. Ở đây cả hai điều này không bị phê bình mà còn được khuyến khích”. 
Ông do dự một chốc rồi hỏi:
“Chị cũng từng là thanh niên xung phong?”
“Tất nhiên, 85% hộ gia đình trong xã chúng tôi là thanh niên xung phong, trong đó nữ chiếm 70%. Nhưng đừng ái ngại cho tôi. Tôi là người may mắn, tôi đã có chồng và gia đình hạnh phúc”.
Lúc ấy trời đã tối. Không còn cách nào khác, bà chủ tịch xã mời khách về nhà mình, và cũng do không biết đi đâu, khách nhận lời.
Bữa ăn tối có bốn người, tức là thêm một bà cụ chắc phải hơn tám mươi tuổi nhưng còn minh mẫn, luôn miệng ăn trầu sau khi đã nghiền kỹ trong chiếc cối nhỏ bằng đồng cầm trên tay, và một đứa bé gái khoảng mười tuổi, hai mắt cứ mở to nhìn khách đến mức quên cả ăn. Nó là cháu ở quê dưới xuôi, vất vả lắm mới được đồng ý cho đưa lên đây “ở cho vui”. Trước đó, dọc đường đi, chị chủ nhà cho biết chồng chị là bộ đội đang ở xa, và họ mới lấy nhau nên chưa có con.
Ở vùng núi đêm đến sớm, đen hơn, và khác với người ta thường nghĩ, chẳng mát hơn chút nào. Ông xách ghế ra sân ngồi, lơ đãng ngước nhìn bầu trời sao dày đặc như mạng nhện lúc ban mai của một ngày sương mù. Lòng ông lại gợn lên nỗi bâng khuâng vu vơ, sự xúc động nhẹ nhàng và cả thoáng buồn không tên như khi mới nghe bốn câu thơ kia. Chị đi kháng chiến trở về/ Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì/ Mưa ra đi, nắng ra đi/ Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...
Căn nhà chị chủ tịch khá kiên cố, mái bằng, tường gạch với hàng hiên một nửa nhô ra rộng, rất đặc trưng cho vùng chiêm trũng Hà Bắc. Không có ngọn gió quê, lỡ thì lại càng không vì chị đã có chồng. Cái buồn thì có, nhưng đó là cái buồn bình thường của nơi hoang vắng, của sự nghèo đói chứ không thi vị như trong thơ. Không hiểu sao bỗng dưng ông cũng thấy buồn buồn, mặc dù chuyến đi của ông thành công hơn dự định. Ông đã biết những điều ông quan tâm, đã gặp “người thật việc thật”, mai chỉ còn đi tới hai làng còn lại, vào một vài nhà, nói chuyện với dăm người nữa là coi như kết thúc. Sau thì sao? Chẳng sao cả. Cơn xúc động bột phát sẽ qua đi, những ý tưởng lãng mạn sẽ qua đi, thậm chí cả mấy câu thơ tuyệt diệu kia cũng dần dần bị lãng quên. Nghĩa là tất cả sẽ qua đi như “mưa qua đi, nắng qua đi”, và với ông, thay cho nỗi buồn là công việc và cuộc sống hàng ngày ở lại, gấp gáp mà đơn điệu, ồn ĩ mà buồn chán.
Ông ngủ trên chiếc ghế dài bằng gỗ trải đệm mút ở phòng khách, nhất định không chịu để chị chủ nhà nhường phòng mình cho ông. Bà cụ và con bé ngủ ở phòng trong, gần như ngay sau bữa ăn tối. Tưởng đi cả ngày mệt sẽ dễ ngủ, thế mà ông vẫn trằn trọc mãi. Có thể tại đêm yên tĩnh quá. Rồi ông cũng thiếp đi, láng máng nghe tiếng chị chủ nhà trở mình ở phòng bên. Ông mơ thấy cả một rừng các cô gái cởi bỏ áo lính chạy ào xuống suối tắm. Các cô tắm lặng lẽ, không té nước đùa nghịch mà ôm mặt khóc, cũng lặng lẽ. Sau đó đột nhiên cả rừng cô gái ấy tồng ngồng chạy vào rừng, vừa chạy vừa cười sằng sặc và làm những động tác kỳ quặc của người điên. Họ chạy cả vào căn nhà nhỏ của ông ở Hà Nội, túm quanh ông như van xin điều gì. Họ khóc. Ông cũng khóc.
Ba giờ chiều hôm sau, khi chia tay xong xuôi với mọi người, Ông được một cậu thành niên (do chị chủ tịch xã yêu cầu) chở lên phố huyện để bắt xe về Hà Nội. Anh này vui tính và bạo mồm bạo miệng, mặc chiếc áo thổ cẩm có khuy ngang bằng vải như của người Tày, nhưng chắc là người miền xuôi, có thể quê Sơn Tây - Ba Vì, nếu căn cứ vào giọng nói.
“Cảm ơn ông bác đã đến xã em. - Anh ta cười toe toét. - Chuyến này thì chắc xã em tăng nhân khẩu”.
“Cậu nói gì tớ không hiểu”, ông hỏi lại.
“Thì đêm qua ông bác chẳng ngủ ở nhà bà chủ tịch đấy sao?”
“Cái cậu này láo. Người ta có chồng rồi, nhảm nhí!”
“Ai bảo ông bác thế?”
“Bà ấy chứ còn ai. Chồng người ta đi bộ đội xa, thế mà cậu lại láo lếu nói bậy”.
“Thế thì thật tiếc cho ông bác. - Anh kia cười, giữa chừng đột nhiên im lặng, giọng trầm hẳn xuống. - Tiếc cho cả bà chủ tịch nữa. Bà ấy là người tuyệt vời đấy, vì tìm mãi không thấy người thích hợp nên mới ở vậy. Bà ấy kiêu lắm. Nhưng gặp ông bác thì chắc là “đổ” rồi. Chí ít cũng muốn xin đứa con Hà nội”.
Ông lại mắng anh ta, rồi từ đó cho hết quãng đường còn lại ông im lặng, nghĩ quẩn quanh về cái tin mới được nghe, trong khi anh kia vẫn không ngớt lời ca ngợi bà chủ tịch xã mình.
                                                  *
Chưa đầy một tháng sau ông lại lên Kim La, vì việc riêng chứ chẳng liên quan gì đến “công trình nghiên cứu xã hội” mới rồi, và tất nhiên ông không vào trụ sở ủy ban xã mà vào thẳng nhà chị chủ tịch, tuy không phải không chút do dự.
Suốt cả tháng trước đó ông ở trong tâm trạng kỳ cục, có thể nói lần đầu tiên trong đời ông gặp. Ông luôn nghĩ tới người đàn bà trẻ hẩm hiu, bình dị và hấp dẫn này, một sự hấp dẫn ông không lý giải nổi. Nhiều khi ông tự hỏi phải chăng mình đang yêu, ở lứa tuổi gần năm mươi? Lại ông, một người thừa từng trải và không muốn gánh thêm gánh nặng gia đình, đơn giản vì ích kỷ? Không, ông lắc đầu. Nếu vậy thì là cái gì? Ông cũng lắc đầu không trả lời nổi. Nhưng rõ ràng đang có cái gì đó mới lạ xuất hiện trong ông, và ông lấy làm sợ do không biết thế là tốt hay xấu. Sao không thể yêu và lấy cô ấy làm vợ nhỉ? - đôi lúc ông nghĩ. Cô ấy còn trẻ, dễ nhìn, thông minh và tế nhị, lại là một cựu thanh niên xung phong ai cũng ái ngại muốn giúp mà bất lực. Mình có bất lực thật không? Cô ấy thuộc loại người mới lạ, là cái chẳng phải mình luôn khao khát đó sao? Rồi ngay lúc ấy chính ông lại hoảng sợ cái mới lạ ấy khi ông hình dung cô về sống ở Hà Nội, tại nhà ông ở phố Hàng Mắm. Ông có thể giúp giảm bớt một ca bị ế vì chiến tranh, là điều đáng ca ngợi và thực sự ông muốn làm. Nhưng bạn bè ông sẽ nghĩ thế nào, cô ấy sẽ sống thế nào trong môi trường thành phố, trong giới cán bộ trí thức của ông, khi bản thân cô hình như phải đánh vần mỗi lần đọc cái gì đó? Hay đơn giản coi như  một dạng bồ bịch, nếu cô ấy chấp nhận, và nếu muốn nữa thì cho một đứa con? Không, không được. Đây là trường hợp khác hẳn, cô ấy là người khác hẳn nên không làm thế được. Vậy thì phải làm gì?
Đầu óc ông cứ quẩn quanh mãi những ý nghĩ mâu thuẫn như vậy, trong khi trái tim dường như mỗi ngày một xích lại gần hơn với chị. Cuối cùng thì ông quyết định quay lại tìm chị, dù không rõ mình thực sự muốn gì.
Không biết lần ấy họ gặp nhau như thế nào, nói với nhau những gì, chỉ biết sau đó, trong vòng nửa năm ông còn lên Kim La bốn lần nữa, và bây giờ thì chính chị chủ tịch đang chuẩn bị về Hà Nội, Để gặp ông, tất nhiên có kết hợp tí việc, nhưng chủ yếu vẫn để gặp ông, vì chị đã hứa nhiều lần.
Cả tuần nay chị chuẩn bị cho chuyến đi này. Dẫu chẳng lần đầu tới thành phố nhưng rõ ràng đây là chuyến đi đặc biệt, và chị rất lo lắng. Chị chỉ ghé thăm ông một chốc, “cho biết nhà” rồi về, thế thôi. Xưa nay chị luôn kính trọng, gần như ngưỡng mộ những người đàn ông thành phố lịch sự, có học và sang trọng. Bây giờ một người như thế đến với chị, người ấy đã li dị, sống một mình và, điều này mới quan trọng nhất, tôn trọng và theo như chị cảm nhận, cũng thương yêu chị. Không nói thành lời nhưng “anh ấy” đã tỏ ra thế, và trái tim trong trắng bốn mươi tuổi của chị nhận thấy điều đó. Nó đập rộn mỗi lần nghĩ tới “anh ấy”. Chị đang sống trong hạnh phúc pha chút lo sợ mơ hồ khi hình dung thấy mình có chồng, có con, lại được sống ở thủ đô. Đứa con của chị thật đẹp, con trai, không hiểu sao chị nghĩ nhất định sẽ là con trai. Nó giống “anh ấy” như đúc, dù chị cũng có nhiều nét đẹp nhưng chị sẵn sàng để nó giống anh. Còn chị sẽ lặng lẽ chăm sóc anh từng ly từng tí một cách trung thành mà không đòi hỏi chút gì cho mình. Có điều, nếu mỗi lần đi làm về anh hôn vào má chị như trong phim, thì chị sẽ rất xấu hổ, thích nhưng vẫn xấu hổ. Nhiều đêm chị không ngủ vì ngây ngất tình yêu, thứ tình yêu muộn mằn mà bồng bột. Chị đã khóc vì sung sướng, tay vuốt vuốt bụng như nâng niu đứa con tương lai. Vậy là chị sẽ có con như nhiều người khác, không phải “con xin”, mà con hợp pháp, con có bố làm ở Hà Nội.
Sau rất nhiều cân nhắc, chị quyết định mua tặng “anh ấy” ba mét vải thổ cẩm đặc sản của vùng chị, và sẽ tự tay khâu cho anh một chiếc bao đựng kính cũng bằng thứ vải ấy. Vải không mua ở chợ Lùng vì như thế sẽ thành thứ vải bình thường. Thay vào đó, chỉ bỏ công vào tận bản Dóc cách hơn hai mươi cấy số, lùng sục từng nhà tìm bằng được thứ chị vừa ý, lại còn bắt sửa chỗ này cắt chỗ kia, và lần đầu tiên chị mua bán mà không hề mặc cả. Cầm tấm vải mịn mát lạnh trên tay (nhưng màu khá sặc sỡ) chị sung sướng hình dung “anh ấy” sẽ cắt nó thành áo mặc diện ngoài phố mà không biết rằng đàn ông Hà Nội tuổi anh chỉ thích mặc com-lê và áo sơ mi cô-tông nhã màu. Còn chíêc bao đựng kính thì không vất vả lắm vì chị giỏi may vá thêu thùa do học được những năm ở Trường Sơn. Mỗi bên chị thêu một bông hoa, hoa cúc, với những chiếc lá bé tí màu xanh, còn hoa thì bông vàng bông trắng. Các đường thêu tỉ mẩn và rất đẹp, có thể bố cục không hợp, nhưng thế cũng khá lắm rồi nếu so với đôi chim bồ câu lồng cánh và hai chữ cái uốn éo lồng nhau của thời trước. Đêm ngủ, chị đặt tấm vải và bao kính lên ngực rồi mỉm cười một mính trong bóng tối.
                                                  *
Ông ra tận bến xe đón chị. Chị ngồi sau xe máy, chiếc nón bài thơ mới quang dầu bóng loáng có hình chìm những bông hoa to và đôi chim bồ câu đang bay quanh trái tim hình con cơ lộn ngược, làm chị và ông hơi vướng. Một bên chị xách chiếc lồng tre đựng hai con gà, bên kia, đeo kè kè sát hông là chiếc túi đầm giả da thường thấy bán ở phố huyện. Tất cả đều mới, thậm chí cả lồng gà. Cả chiếc quần bò và chiếc áo thun len cũng mới, dù thường ngày chị thích mặc những thứ giản dị bằng vải mềm. Không hiểu sao chị thấy sờ sợ, hai má đỏ ửng, nhất là khi đi qua chỗ đông người, một con gà bỗng gáy to. Là người lịch sự, ông Huấn lờ đi như không nghe. Ông cố tình đèo chị qua mấy phố có những tòa nhà cao, qua hồ Hoàn Kiếm, Nhà Hát Lớn rồi mới về nhà mình. Ông muốn mà không dám giới thiệu các điểm nổi tiếng của thủ đô vì sợ chị có cảm giác mình là dân nhà quê. Đến phố Cầu Gỗ, một vài người bạn đang uống bia nhìn thấy họ, kêu to gọi ông nhưng ông không nhìn, không đáp.
Một buổi chiều trôi qua dễ chịu. Chị xuống bếp làm gà, chuẩn bị bữa ăn, thầm sung sướng được dọn dẹp căn bếp dẫu hiện đại, sạch sẽ nhưng vẫn bừa bộn theo cách của một người đàn ông sống độc thân. Còn ông thì xăng xái bên cạnh xin được giúp đỡ. Chị chỉ cười, nói không cần, nên cuối cùng ông ra ngồi hút thuốc trên chiếc xa lông bọc da êm ái ở phòng khách, với sự hài lòng của một ông chủ gia đình đang được hưởng sự chăm sóc cảm động của người vợ, hay cũng gần như thế. Cảm giác này làm ông xúc động, và ông nghĩ sẽ không tồi nếu có được người vợ như chị. Lúc này thì tình cảm chân thành và sự hào hiệp đang lấn át những lo lắng và tính toán thực dụng của cuộc sống đời thường.
Ông mở một chai rượu ngoại màu đỏ sẫm, rót ra hai chiếc cốc pha lê  tay cầm rất dài và mảnh:
“Uống đi em. Nhẹ thôi mà. Để kỷ niệm ngày hôm nay. Nào, vì hạnh phúc của em, của anh. Của chúng ta!”
Như ông, chị uống một hơi hết cốc rượu hạnh phúc ấy. Sau đấy chị còn uống thêm mấy cốc nữa. Mặt chị, thậm chí cả chiếc cổ dài tròn trĩnh, bắt đầu đỏ ửng, vì rượu và cả vì hạnh phúc. Hơi chút ngượng ngập, họ trao đổi những lời âu yếm, những câu hỏi đáp bâng quơ không ăn nhập, chủ yếu làm phần đệm, làm nền cho những cái nhìn kéo dài cũng âu yếm không kém. Chị cảm thấy như có dòng điện nhẹ chạy khắp người khi lần đâu ông cầm tay mình. Bản năng mách chị muốn rút lại nhưng chị không làm nổi. Chị cũng bất lực khi ông khẽ chạm môi mình vào môi chị rồi kéo nhẹ về phía chiếc giường. Cơ thể khỏe mạnh, trinh trắng của chị run run khi tay ông lóng ngóng lần cởi từng chiếc cúc áo của chị...
“Cái gì thế anh?” Chị giật mình, khẽ hỏi khi ông lấy từ dưới gối chiếc bao cao su màu đỏ.
“Safe sex!”
“Tức là cái gì?”
“Là OK! Tình dục an toàn, em ạ”.
“Ồ không! Đừng anh! Em không thích cái ấy! Đừng! Đừng dùng nó!”
Chị kêu lên rồi ôm mặt khóc. Ông do dự một lúc rồi vứt chiếc bao xuống sàn nhà. Ông nằm ngửa, cũng trần truồng như chị, mắt nhìn trân trân lên trần. Vào phút chót, ông lại bị những toan tính thực tế và nỗi lo sợ mơ hồ chi phối. Chị nằm bên, quay mặt vào tường, và vẫn khóc.
“Anh yêu em... Anh xin lỗi...”, ông nói, tay âu yếm vuốt ve cơ thể bất động của chị.
Chị nằng nặc đòi ra về. Không giữ được, ông lại đèo chị ra bến xe. Chiếc nón bài thơ vẫn vương vướng vào lưng ông như trước. “Anh xin lỗi”, ông lại nói, nhưng chị không nghe thấy vì tiếng ồn đường phố, và cả vì chị đang nghĩ về đứa con trai đáng lẽ chị đã có nhưng giờ thì có lẽ sẽ không bao giờ có nữa. Một bên hông chị vẫn là chiếc túi đầm phố huyện mới mua, đựng ba mét vải thổ cẩm và chiếc vỏ kính chưa tặng.
                                                  *
Ngay sáng hôm sau, với vẻ mặt phờ phạc của người mất ngủ và lo nghĩ nhiều, ông lại lên Kim La. Chị chủ tịch không có nhà. Ông chờ suốt cả buổi chiều, mãi đến tối mịt vẫn không thấy chị về. Con bé ê a học bài trong nhà. Còn bà lão mẹ chị thì ngồi bất động nhìn không chớp cái gì đấy ngoài vườn. Mãi đến bây giờ ông mới phát hiện thấy bà bị mù.
          Chị đi kháng chiến trở về,
   Nhà thông thốc ngọn gió quê lỡ thì.
          Mưa qua đi, nắng qua đi,
  Nỗi buồn ở lại thầm thì sớm hôm...

Bốn câu thơ kia lại lởn vởn trong đầu ông. Chúng thật buồn. Ngôi nhà ông đang ngồi đây cũng thật buồn. Không thông thốc, nhưng hiện đang có gió, ngọn gió lạnh đầu đông ở vùng núi, và nó cũng đượm buồn. Có thể chị không biết những câu thơ này, nhưng chắc không ít lần phải chịu cái buồn được nói một cách tinh tế ấy trong thơ. Không chỉ mưa nắng, mà một người đàn ông đến với chị, rồi người đó cũng ra đi, làm nỗi buồn càng buồn hơn. Ông thấy thương chị, thương cho cả chính mình. Không, ông sẽ ở lại. Ông rút thuốc hút, quyết tâm chờ tiếp, chờ hết đêm nay, chờ cả ngày mai, ngày kia, chờ cho đến lúc chị về. Ông biết chị đang ở đâu đó rất gần và đang theo dõi cái quyết tâm ấy của ông.
Hà Nội, 26. 8. 2004

                                                           
BÀN TAY HÌNH CHIẾC LÁ
                                                           
Con bé đứng giữa trời mưa. Nó bị mù. Mưa bé thôi. Cơn mưa phùn dai dẳng thường có vào dịp cuối năm. Những giọt nước li ti bám vào mặt, vào quần áo, lâu dần cũng đủ lớn chảy thành từng dòng. May không lạnh lắm, nhưng sự ẩm ướt kéo dài, đường phố bẩn thỉu và bầu trời u ám gây cảm giác nặng nề khó chịu.
Nó cũng hẵng còn bé. Nhìn bề ngoài người ta chỉ đoán khoảng bảy, tám tuổi. Nhưng có thể nó đã mười, thậm chí mười lăm. Những đứa trẻ ăn mày như nó khó đoán tuổi lắm, nhất là khi lại mù và trông khá tiều tụy. Nó đứng đầu ngõ chợ, dưới gốc cây bàng chưa kịp ra lá, nên mưa dù nhỏ, quần áo nó vẫn ướt sũng từ bao giờ. Tại sao nó không vào đứng dưới hàng hiên  hiệu thuốc bên cạnh? Có thể chủ cửa hàng không cho. Có thể vì mù nó không biết. Cũng có thể cần cây bàng để tựa, vì nó đứng chứ không ngồi, mà có lẽ đã đứng như thế từ lâu và sẽ còn lâu nữa.
Ngồi làm việc ở phòng mình trên tầng hai ngôi nhà đối diện, tôi lặng lẽ quan sát nó. Nó đứng yên hầu như bất động, người co lại để chống đỡ với mưa gió. Nếu nó đứng trên chạng ba cây bàng thì có thể nghĩ đó là một con cú đang thiu thiu ngủ. Hình như nó cũng đang thiu thiu ngủ. Nó chìa bàn tay trái trước mặt. Một bàn tay nhỏ bé, khum khum màu vàng nhợt vì bẩn và vì đau ốm, trông giống những chiếc lá bàng nửa xanh nửa vàng rụng đầy dưới chân. Nó đeo cái bị hay cái túi gì đấy sau lưng. Bên dưới là chiếc mủng tre với mấy tờ giấy bạc nhàu nát và một ít thức ăn được người ta vứt cho từ bao giờ. Cả tiền và thức ăn đều ướt, cũng bẩn và lạnh như chính nó. Tôi thấy nó luôn im lặng, khác hẳn những người ăn mày lắm lời ta thường gặp. Nó chỉ đứng thế, bất động, trừ một lần có chiếc xích lô chở hàng cồng kềnh va vào làm nó phải bám lấy thân cây mới không bị ngã. Sau đó nó trở lại tư thế cũ. Đôi mắt mù trắng đục vô cảm nhìn phía trước, cùng hướng với bàn tay hình chiếc lá bàng héo úa.
Vốn dễ xúc động và hay phân tán tư tưởng, từ khi thấy nó tôi chẳng thể tập trung làm việc được nữa. Tôi đang viết một truyện ngắn có hậu, có nắng ấm, cây xanh và nhiều khuôn mặt hạnh phúc. Tôi hơi khó chịu vì nó làm hỏng một ngày làm việc của tôi, vô tình cứ bắt tôi chú ý đến nó. Ngõ chợ luôn đông người ra vào, mà tôi chẳng thấy ai cho nó gì. Nó cũng chẳng mở mồm xin ai cái gì. Chỉ chìa tay đứng thế. Và chiếc lá bàn tay ấy chẳng nhận được gì ngoài những giọt mưa li ti nhão nhoẹt...
Bất chợt, thay cho truyện ngắn đầy nắng ấm và hạnh phúc định viết, tự lúc nào không biết, trong đầu tôi đã hình thành một bài thơ buồn. Bài thơ về nó, cái con bé ăn mày tội nghiệp ấy.
                             
                                        Trời mưa phùn lất phất,
                                        Gió lạnh thổi suốt ngày.
                                        Em bé mù hành khất
                                        Đứng bên đường, chìa tay.

                                        Bàn tay em để ngỏ,
                                        Suốt từ sáng đến trưa
                                        Chỉ xin được ít gió,
                                        Chỉ được cho ít mưa.

                                        Bàn tay như chiếc lá
                                        Bị gió ngắt lìa cành,
                                        Dù nhăn nheo, tàn tạ,
                                        Nhưng hình như còn xanh.

                                        Cuộc đời này oan trái
                                        Đã cướp hết của em,
                                        Chỉ trớ trêu chừa lại
                                        Bàn tay chiếc lá mềm.

                                        Mưa phùn, mưa buồn bã.
                                        Em trơ trọi giữa đời.
                                        Bàn tay hình chiếc lá
                                        Đầy những giọt mưa rơi...

Cảnh đã buồn. Bài thơ ngẫu hứng này càng làm tôi buồn thêm. Buồn vì sự bất lực của bản thân và sự vô bổ của cái nghề văn chương trót cả đời đeo đuổi. Bài thơ có thể chân thành và xúc động, nhưng không lẽ mang xuống đường đọc cho nó nghe để nó biết tôi thương nó thế nào? Cả bài thơ và tình thương ấy của tôi có làm nó đỡ lạnh và no hơn không? Tôi ngồi đây, trong căn phòng tiện nghi ấm áp, no đủ và hạnh phúc để viết về nó, một đứa bé ăn mày mù cả hai mắt, trạc tuổi con tôi, đứa con mà tôi đang vất vả bắt không được ăn những thứ béo bổ để khỏi phát phì. Cả tôi và vợ tôi cũng đang phát phì vì ăn quá nhiều và quá ngon.
Vậy phải chăng tôi đã viết những dòng chân thành mà giả dối? Thậm chí đạo đức giả? Không lẽ thực sự tôi không thể làm được điều gì hơn để giúp nó, chính xác hơn là giúp mình thoát khỏi những mặc cảm trên? Tất nhiên là có. Tôi có thể - và dự định chốc nữa sẽ làm ngay - cho nó ít tiền, ít thức ăn như nhà tôi từng cho nhiều người cơ nhỡ khác. Nhưng sau đấy thì sao? Những đứa khác như nó, mà chắc không ít ở cái thành phố rộng lớn này, thì sao? Phải chăng với ít tiền, ít thức ăn ấy, tôi có thể mua được sự thanh thản cho lòng mình để viết tiếp câu chuyện đầy nắng và hạnh phúc kia của tôi?
Tôi cứ quẩn quanh mãi với những ý nghĩ không mấy vui vẻ ấy. Trong khi đó con bé vẫn đứng yên bất động bên gốc bàng với bàn tay nhỏ xíu đang chìa ra phía trước. Trên lòng bàn tay khum khum như chiếc lá ấy vẫn chẳng có gì ngoài những giọt mưa nhỏ và lạnh.
Thành phố đã lên đèn. Thậm chí ngõ chợ cũng bắt đầu thưa người. Người mù không phân biệt được ánh sáng và bóng tối, nhưng nhờ một giác quan đặc biệt nào đó, họ biết rõ lúc nào là đêm và ngày. Con bé này cũng vậy. Nó đang đi về nhà. Chẳng ai biết nó từ đâu tới và bây giờ đang đi về đâu. Nhưng nó đang đi. Nghĩa là quả có một nơi nào đấy mà nó có thể đến, có thể gọi là "nhà". Như những người mù khác, nó đi chậm chạp, rờ rẫm, không có gậy, chỉ thỉnh thoảng quờ quờ tay trước mặt. Nó đã rẽ qua mấy phố nhưng vẫn tiếp tục đi. Nghĩa là "nhà" của nó xa và nó phải quen đường lắm mới không bị lạc.
Trên vỉa hè một đường phố nọ, nó bỗng vấp phải cái gì mềm mềm. Nó đứng lại suy nghĩ một chốc rồi cúi xuống đưa cả hai tay sờ sờ cái vật mềm mềm ấy. Đó là một bà già đang nằm sóng soài trên mặt hè phố bẩn thỉu và ẩm ướt. Không biết bà lão nằm đây trong tư thế ấy tự bao giờ, mái tóc bạc xõa tung, dính đầy bùn. Quần áo bà cũng ướt và dính đầy bùn. Có lẽ con bé đoán hiểu được chuyện gì xẩy ra. Nó để ngón tay trỏ sát mũi bà lão. Còn thở, nhưng rất yếu. Nó lắc lắc gọi mấy lần nhưng không thấy đáp lại. Nó cố hết sức vực bà lão dậy, kéo lê mấy bước rồi cho tựa lưng vào bức tường gần đó. Sau đó nó lấy mảnh giẻ trong bị lau mặt mũi, tay chân cho bà lão.
Chừng ấy việc đủ làm nó mệt, nên nó cũng ngồi tựa vào tường để nghỉ. Nó lấy mấy mẩu bánh mì sũng nước nhét vào miệng bà lão. Lúc đầu bà lão không ăn, nhưng nó vừa dỗ như dỗ em, vừa bón từng mẩu nhỏ. Bà lão bắt đầu ăn và dần dần tỉnh lại. Sau đó nó rờ rẫm tìm đến vòi nước công cộng để uống đỡ khát và mang về cho bà lão một cốc.
Đó là một bà lão ăn mày hơn bảy mươi tuổi, mắt sáng nhưng rất yếu, lại mắc chứng suy tim nên thỉnh thoảng bỗng ngất đi như vậy. Bà ngất, nằm đấy từ lúc mới xế chiều. Nghĩa là bà đã nằm trong tư thế ấy, ngay trên mặt hè đông người qua lại hơn năm giờ đồng hồ. Thế mà chẳng ai vấp phải bà. Vì ai cũng mắt sáng nên họ nhìn thấy và né sang bên. Nhiều người quả có dừng lại, lắc đầu ái ngại. Nhiều người cũng tỏ ý thương bà, nhưng họ nghĩ đây là việc của công an, của các tổ chức nhân đạo. Mà họ thì đang bận, thương đấy, muốn giúp đấy, nhưng... Thế là họ đi tiếp dù trong lòng không phải không gợn chút băn khoăn. Suy cho cùng cũng chẳng trách được họ. Chỉ tội con bé mù. Vì nó mù nên đã vấp phải bà lão, phải vất vả dựng bà dậy, chăm sóc và cho ăn uống.
Tối ấy con bé chẳng "về nhà" nữa, mà cùng bà lão ăn mày ôm nhau nằm co quắp dưới mái hiên có bức tường nơi hai người vừa tựa lưng nghỉ. May không bị ai đuổi.
Hôm sau và những ngày tiếp theo, từ cửa sổ phòng mình tôi lại thấy con bé mù đứng chìa tay bên gốc cây bàng đầu ngõ chợ như cũ. Vẫn bàn tay hình chiếc lá ấy. Vẫn cái dáng bất động, nhẫn nhục và chiếc mủng tre ấy. Khác chăng bây giờ mưa đã tạnh và trời bắt đầu hửng nắng. Khác nữa là bây giờ luôn ở bên em có bà lão ăn mày đã làm em vấp, được em cứu sống và từ nay, với đôi mắt sáng của mình, sẽ cùng em dựa vào nhau để tồn tại trong cuộc đời này, cuộc đời với hầu hết những con người khỏe mạnh, mắt sáng, giàu lòng nhân ái nhưng quá bận, quá vội, thành ra đôi khi quá hờ hững với người khác.
          Còn tôi, tôi vẫn không sao viết nổi truyện ngắn có hậu với nắng ấm và những khuôn mặt hạnh phúc kia. Tôi cứ vấn vương mãi với những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu về đủ mọi chuyện, về thiên chức nhà văn, về tình người, tình đời và về cả sự bất lực của mình. Và trong tâm trạng buồn buồn day dứt như thế, tôi đã viết một bài thơ như sau về bà lão ăn mày ấy.
                                                 
                                        Đêm, lất phất mưa phùn.
                                        Một bà già bé nhỏ
                                        Quần áo lấm đất bùn
                                        Nằm ngang trên hè phố.

                                        Bà ngã xuống ở đây
                                        Phải chăng vì đói, mệt?
                                        Ốm? Một giờ? Cả ngày?
                                        Hay phải chăng đã chết?

                                        Phố đông người, ồn ào
                                        Hình như ai cũng vội,
                                        Thế mà không người nào
                                        Vấp phải bà, dù tối.

                                        Người tiếp người đi qua,
                                        Bà già vẫn nằm đấy.
                                        Không ai vấp phải bà,
                                        Cả chính tôi cũng vậy.

                                        Mãi lúc sau, đang đi
                                        Nơi sáng đèn, đường vắng,
                                        Tôi bỗng vấp cái gì
                                        Rất đau và rất nặng.

                                        Thì ra, chính nỗi đau,
                                        Lương tâm và xấu hổ
                                        Làm tôi vấp... Cúi đầu,
                                        Tôi bước đi giữa phố...

Hà Nội, 15. 4. 2001


NẾU CÒN SỐNG, CHỊ Ở ĐÂU?

"Tôi là Nguyễn Văn Biên, lái xe, thuộc công ty X. Bộ Lâm nghiệp. Cách đây hai mươi ba năm, vào một đêm trời mưa to cuối tháng chín năm 1967, trên đường từ Châu Yên tới Sơn La, có một cô gái vẫy tay xin đi nhờ xe. Lúc ấy trời đã khuya, rừng núi vắng vẻ. Cô gái trạc hai mươi tuổi, đầu đội nón, tay xách chiếc túi nhỏ, quần áo ướt sũng, nói đi nhỡ đường gặp mưa bị cảm. Tôi cho cô lên xe. Trên xe chỉ có mình tôi. Đi được một quãng, tôi dừng xe định giở trò cưỡng đoạt cô gái. Cô cương quyết chống đỡ. Tôi dọa nếu không chịu, sẽ đuổi xuống. Cô gái khóc, van xin đừng làm thế vì cô đang ốm, có thể chết. Thấy tôi vẫn một mực không thay đổi ý kiến, cô vùng ra được và nhảy xuống đường. Tôi ngồi trên xe, đoán cô không dám ở lại một mình vì chỗ có người gần nhất cách đấy cũng hơn hai mươi kilômét. Nhưng cô gái vẫn ôm mặt khóc dưới trời mưa tầm tã, người run lên vì lạnh... Cuối cùng tôi cho xe chạy tiếp. Đêm ấy tới trạm, bình tĩnh trở lại, tôi rất ân hận việc làm của mình, nhất là việc vì tôi cô có thể chết. Vì vậy tôi quay xe lại tìm nhưng không thấy cô đâu. Sau này nhiều lần tôi đến các nông trường và bản lân cận tìm cô, tuy nhiên, mọi cố gắng của tôi đều vô ích
Nay cô ở đâu, nếu còn sống, xin báo cho tôi ở số nhà... phố Long Châu, Hà Nội, để tôi tìm đến cô xin tha thứ cho việc làm tội lỗi kia của tôi.
                                                               Nguyễn Văn Biên".
Bà Bảo Châu đặt tờ giấy xuống bàn, ngả lưng vào chiếc ghế da rồi không hiểu sao ngồi thờ thẫn hồi lâu. Đang giờ nghỉ trưa, mỗi người một nơi. Trong phòng chỉ còn lại Bích Phương, cô thư ký xinh đẹp vừa ăn xong đang ngồi soi gương sau chiếc máy chữ.
Bà liếc qua những tờ tiếp của tập giấy được xếp ngay ngắn trước mặt, rồi hỏi:
- Ý kiến mọi người thế nào về tin của ông lái xe này?
Bích Phương còn bậm môi, dướn mắt thêm lần nữa trước gương rồi mới ngẩng đầu đáp:
- Dạ thưa cô, anh em nói đây là trường hợp khác thường nên chờ ý kiến cô xem có nên phát không, sau mới trình lên Ban duyệt. Các tin khác không có gì đặc biệt, chú Đại đã ký thay cô.
Mấy ngày vừa rồi bà Bảo Châu đi công tác xa nên đương nhiên ông Đại phó phòng thay bà quản lý phòng này, phòng Thông tin kinh tế xã hội của Đài phát thanh. Im lặng một chốc, bỗng Bích Phương quay sang bà, nói:
- Cái ông lái xe Biên này kể cũng lạ, cô nhỉ? Giận mà cũng thương ông ta...
- Bề ngoài trông ông ta thế nào? - Bà Bảo Châu hỏi. - Khi đến đưa tin, cô có gặp ông ta không?
- Dạ không, tin này được đăng ký từ sáng hôm kia, lúc ấy cháu có việc đi vắng... Thế cô đồng ý cho phát chứ ạ?
- Để cô xem đã. - bà Bảo Châu lơ đễnh đáp.
Rồi bà đứng dậy, thong thả đi xuống căng-tin ăn trưa.
Bà Bảo Châu năm nay đã ngoài năm mươi, không thể gọi là xinh nhưng có vẻ ngoài đẫy đà, phúc hậu. Tóc bà còn đen và rất dài, những hôm nóng nực, bà buộc thành một túm to sau gáy. Bà về làm việc ở Đài ngay sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Tổng hợp. Suốt nhiều năm bà làm phóng viên, đi đây đi đó rất xông xáo. Gần đây phần vì có tuổi, phần vì không còn ai thích hợp hơn, bà được điều sang phụ trách phòng này. Tuy mới thành lập nhưng công việc ở đây khá bận rộn. Ngày nào đến cơ quan, bà cũng thấy có nhiều người đến xin đăng ký quảng cáo hàng hóa cho xí nghiệp mình, hoặc quảng cáo các lớp ngoại ngữ, khiêu vũ, âm nhạc... Một phần không nhỏ trong số họ đến nhờ bà giúp tìm trẻ lạc, tìm người tâm thần bỏ nhà lang thang, đặc biệt là tìm lại những người thân bị lưu lạc nhiều năm về trước. Chính những người này làm bà yêu thích công việc.
Hàng ngày đọc các tờ đăng ký, bà cảm thấy như được đưa trở lại quá khứ đau buồn, nhiều khi đến mức không thể tin nổi. Trước mắt bà hiện lên những đoàn người rách rưới, gầy còm, dắt díu nhau đi xin ăn rồi ngã gục chết bên vệ đường, những cảnh cho con, vứt con, những cảnh ra đi vì uất hận, vì miếng ăn và vì nhiều lý do khác. Tai họa như cơn bão khủng khiếp ập xuống đầu những số phận đáng thương, dập vùi họ, đưa họ đi xa mỗi người một nơi. Rồi hàng chục năm sau đó họ sống trong lo lắng, dằn vặt và thương nhớ... Họ vất vả tìm đến nhau, muốn biết ai còn, ai mất, muốn được bộc lộ lòng mình... nhưng không biết phải làm gì, nhờ ai. Nay bỗng xuất hiện cái phòng của bà, thế là người ta bám lấy bà như người chết đuối bám cọng rơm nhỏ, dù chẳng mấy hy vọng nhưng còn hơn không có gì để bám. Còn bà, không hiểu sao bà thấy như mình cũng phần nào có lỗi trong những bi kịch ấy của quá khứ. Bà tự cho mình có trách niệm phải giúp họ, phải góp phần hàn gắn những mảnh vỡ cuộc đời họ. Một bé gái mười tuổi cầm đồng bạc duy nhất đi chợ đong gạo cho mười miệng ăn trong gia đình, không may để mất tiền, sợ về nhà mẹ mắng, bố đánh, nên em đã bỏ đi biệt tăm. Nếu còn sống, nay em đã gần sáu mươi. Em ở đâu? Các anh chị và bà mẹ của em đang nhờ bà Bảo Châu tìm hộ.
Có hai ông già từ tỉnh xa đến gặp bà, kể rằng vào năm 1945 không nỡ nhìn con chết đói, họ phải đem cho đứa bé kháu nhất trong số bốn người con của mình. Nó là một cậu bé bốn tuổi, khôi ngô (vì khôi ngô mới đem cho, xấu sẽ chẳng ai nhận). Hôm ấy nó được tắm rửa sạch sẽ, được cả nhà nhường cho ăn một bữa thật no. Rồi ông bà đem ra chợ huyện, đặt nó ngồi ngay trước cổng chợ, bên cạnh cắm tấm biển với dòng chữ "xin các ông, các bà làm phúc nuôi hộ". Còn họ thì nấp trong bụi cây cách đó không xa, kiên nhẫn chờ cho đến lúc có người mang nó đi mới ra về. Hai ông bà đứng nhìn theo, nước mắt giàn giụa... Bây giờ họ đến Đài tìm bà Bảo Châu kể lại những điều trên và nhờ bà tìm hộ. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm. Bà cho phát qua Đài bảy lần, mỗi lần cách nhau ba ngày. Thật không ngờ, chưa đầy một tháng sau có một trung tá không quân đến gặp bà, nói rằng ông chính là đứa bé nọ. Thay mặt bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi, ông trịnh trọng tặng bà một bó hoa thật to và hai gói kẹo, hai bao thuốc lá, một lạng chè tặng anh em trong phòng. Hôm ấy là một ngày đáng ghi nhớ. Nhìn người sĩ quan cao to, đẹp đẽ và tràn đầy hạnh phúc, có lẽ trong nhiều năm, đây là lần đầu bà cảm thấy mình làm được điều gì đấy đích thực tốt đẹp và có ích cho đời.
Thỉnh thoảng bà cũng nhận được thư từ các tỉnh xa, báo tin rằng nhờ Đài, họ đã tìm lại được người thân của mình. Tuy nhiên, những trường hợp may mắn như thế không nhiều, nhưng đây là công việc đáng làm và bà làm một cách say sưa...
Còn câu chuyện ông lái xe Nguyễn Văn Biên này là thế nào?
Suốt buổi chiều hôm ấy và cả ngày hôm sau, bà Bảo Châu luôn bị ông ta ám ảnh. Đây là trường hợp đặc biệt từ trước tới nay chưa hề gặp, vì vậy bà muốn để lại suy nghĩ thêm trước khi cho phát. Trước mắt bà lúc nào cũng hiện lên hình ảnh một cô gái mảnh mai, người sốt hầm hập, đứng một mình dưới trời mưa tầm tã trong rừng giữa đêm khuya. Cô sắp ngất, cô sợ chết, sợ ma, nhưng có một điều cô sợ hơn tất cả những điều ấy, là sự nhục nhã. Cô không thể chấp nhận điều kiện của tên lái xe vô lại, nhưng chiếc ca-bin khô ráo, ấm áp kia lại thuộc về hắn. Hắn là người duy nhất có thể cứu cô nhưng hắn đòi trả công... Không! Cô thà chết không chịu làm theo lời hắn. Và cô gái tiếp tục đứng dưới trời mưa, hai tay ôm mặt khóc. Sau đó... Sau đó cô đi bộ một mình hàng chục cây số? Cô được chiếc xe khác mà người lái xe chưa mất hết tính người cho đi nhờ đến thị xã? Hay sau đó do dầm mưa, cơn sốt nặng thêm và cô chết, xác nằm còng queo bên đường?
Còn lái xe, cái gã Nguyễn Văn Biên khốn nạn ấy thì sao? Ừ, mà anh ta là người thế nào nhỉ? Một người đang tâm gây nên tội lỗi ghê gớm như thế lại biết hối hận ư? Đến mức suốt nhiều năm sau đã bỏ công tìm kiếm cô gái kia như anh ta nói? Hay anh ta phịa để tự bào chữa cho mình? Mà rồi nếu quả bị lương tâm cắn rứt, không lẽ sau ba mươi năm anh ta không nguôi ngoai chút nào, để bỗng dưng bây giờ không ai bắt, tự mình phơi bày sự đểu cáng của mình? Không phải với một, hai người mà với tất cả! Qua Đài! Một việc làm nên gọi dũng cảm hay điên rồ?...
Bỗng nhiên bà Bảo Châu rất muốn được gặp con người này. Để làm gì thì chính bà cũng không rõ.
Theo địa chỉ, bà tìm đến một ngôi nhà xinh xắn có hàng rào gạch bao quanh. Ra mở cửa là một người đàn bà gầy quắt có đôi mắt buồn và mái tóc điểm bạc.
- Thưa chị, đây có phải là nhà anh Biên, anh Nguyễn Văn Biên lái xe không ạ?
- Vâng, - người đàn bà kia đáp, ngạc nhiên nhìn khách.
Thấy thế, bà Bảo Châu vội nói luôn:
- Tôi có chút việc muốn nói chuyện với anh ấy...
Bà kia càng ngạc nhiên hơn, nhưng do dự một chốc rồi đáp:
- Mời chị vào.
Căn phòng rộng và trống trải, chắc chỉ dùng để tiếp khách vì không thấy có giường. Sát tường là chiếc bàn trà thấp và bốn ghế xa-lông gỗ dán cáu bẩn. Bà Bảo Châu ngồi xuống một trong những chiếc ghế ấy, yên lặng chờ chủ nhà sang phòng bên chuẩn bị nước mời khách. Không hiểu sao bà cứ hình dung lái xe Biên bà sắp gặp là người to béo, có ria mép, da ngăm đen và nhất thiết phải mặc áo phông sọc to. Bà định sẽ vào đề luôn, rằng bà từ Đài đến, muốn hỏi thêm đôi điều trước khi cho phát cái tin ông ta yêu cầu...
Bà chủ nhà quay ra, đặt khay nước lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện, nhìn khách chờ đợi.
- Dạ, anh Biên đâu ạ? - bà Bảo Châu ngạc nhiên hỏi vì mãi không thấy chủ nhà xuất hiện. - Tôi đến đây nhân cái tin anh ấy xin phát qua đài...
Bà kia khẽ thốt lên:
- Thế ra cô là "cô ấy"? - Bà mở to mắt chăm chăm nhìn bà Bảo Châu, nét mặt gần như hốt hoảng.
Bà Bảo Châu cũng lặng lẽ nhìn bà hồi lâu.
- Không, tôi là người làm ở Đài phát thanh. Tôi đến đây muốn biết thêm đôi điều trước khi cho phát tin ấy. Hôm nay anh ấy không có nhà ạ?
Bà kia cúi đầu không nói gì, lúc sau mới thở dài đáp:
- Nhà tôi không còn nữa. Anh ấy chết đã được năm năm...
Giờ đến lượt bà Bảo Châu ngạc nhiên:
- Còn cái tin kia? Hóa ra không phải anh ấy đem nó đến Đài?
- Vâng. - Bà chủ nhà nói. - Tôi đã đến chỗ chị... Số là trước khi chết, anh ấy nhờ tôi sau này, nếu có thể, tìm gặp cô gái kia để thay mặt anh ấy xin lỗi hộ. Tôi đã hứa với anh ấy trong giờ hấp hối, tuy không biết sẽ làm điều đó bằng cách nào. Gần đây có mục nhắn tin qua đài, tôi mới nhờ chị. Nội dung cái tin ấy do tôi viết nhưng đúng sự thật và như chồng tôi mong muốn... Không sao chứ ạ? – Chủ nhà nhìn khách lo lắng hỏi thêm: - Không lẽ vì thế mà các chị không cho phát?
- Không, không vấn đề không phải chỗ ấy, - bà Bảo Châu đáp. - Có điều từ trước tới nay quả chúng tôi chưa gặp trường hợp nào như của anh chị.
- Tôi hiểu, chắc chị thấy khác thường nên muốn xem hư thực thế nào. Chị yên tâm. Những điều tôi viết trong tin đều đúng sự thật. Chồng tôi đã nhiều lần kể tôi nghe chuyện này ngay khi mới xảy ra...
Bà khẽ thở dài, ngồi im một chốc rồi nói tiếp:
- Nhà tôi là người thật lạ lùng. Anh ấy vốn ngang tàng, sống bừa bãi và nói thật với chị, chuyện rượu chè, trai gái có cả. Thế mà thật không ngờ, sau chuyện đó, anh ấy thành người khác hẳn. Đến tôi là vợ mà cũng không hiểu nổi, nhưng quả đúng thế. Anh ấy bị một cú sốc mạnh, trở nên ngơ ngác như người vừa ốm dậy. Anh ấy ít nói hẳn, chú ý nhiều hơn tới vợ con, đặc biệt không bao giờ uống rượu nữa. Tôi biết anh ấy đang đau khổ, hối hận và luôn nghĩ tới cô gái đáng thương nọ. Anh ấy sợ cô ta đã chết, chết vì anh ấy. Tôi tìm cách an ủi, thậm chí có lần còn theo lên các nông trường vùng Mộc Châu, Yên Châu tìm cô...
Bà chủ nhà đột ngột ngừng lời, đưa chén nước mời khách. Bà cũng cầm một chén, nhấp nháp từng ngụm nhỏ.
- Chị nghĩ phát qua Đài thế này, có hy vọng cô ấy sẽ lên tiếng không, tất nhiên nếu còn sống, - bà  hỏi.
- Thỉnh thoảng chúng tôi có nhận được tin báo lại rằng nhờ Đài, họ đã tìm được người cần tìm. - Bà Bảo Châu đáp một cách chung chung.
- Tôi thì tôi không tin cô ấy sẽ lên tiếng và tự tìm đến, nhưng dù sao vẫn nhờ chị phát hộ cho. Chả là nhà tôi muốn thế, tôi đã hứa... Trước lúc chết, nhà tôi có để lại bức thư, dặn tôi nếu gặp thì đưa cho cô ấy.
Bà lại bỏ vào buồng trong, lấy ra một phong thư không dán.
- Nếu muốn, chị cứ đọc.
Rồi bà bước ra khỏi phòng để khách được tự nhiên. Bức thư không dài, được viết bằng nét chữ nắn nót kiểu học trò:
"Suốt nhiều năm nay tôi tìm chị khắp nơi nhưng không thấy. Tôi đang bệnh nặng và chắc chỉ ít ngày nữa sẽ chết. Trước khi chết tôi viết mấy dòng để nếu lúc nào đó, nhờ phép lạ, người thân của tôi gặp được, sẽ đưa cho chị. Tôi biết tôi không đáng được tha thứ, nhưng lúc này, đang hấp hối, tôi xin chị hãy tha thứ cho tôi. Nếu chị đã chết, xin linh hồn chị tha thứ cho tôi. Tôi đã chịu quá nhiều đau khổ, đã bị trừng phạt quá đủ cho hành động đểu cáng ấy của mình. Có lẽ trong đời ai cũng có những giây phút đen tối, những giây phút vô thức dẫn tới một việc làm tội lỗi để sau này phải luôn day dứt, ân hận vì nó.
Một lần nữa xin chị hãy tha thứ cho tôi!"
Ba ngày sau, bà Bảo Châu cho phát qua Đài tin lái xe Nguyễn Văn Biên, công ty X. cách đây 35 năm, vào một đêm trời mưa to...
Buổi tối, đến phần thông tin xã hội, bà lại gần chiếc đài, khoanh tay chăm chú ngồi nghe. Vô tình, bà với tay vặn to đài. Bà chợt nảy ý muốn lạ lùng là tất cả đàn ông trong nước, trên toàn thế giới, phải nghe tin này. Tất cả không trừ một ai, tất nhiên trong đó có chồng bà, một người vẻ ngoài lịch sự, nhân hậu nhưng thực chất là kẻ ích kỷ, thô lỗ mà bà phải chịu đựng bao năm nay.
Đang đọc báo ở chiếc ghế bên cạnh, ông chồng bà chỉ lặng lẽ đứng dậy vặn bé chiếc đài, nhìn bà với vẻ khó hiểu rồi lại ngồi xuống, chúi đầu vào tờ báo.
Hà Nội, 1989


FUR ELISE

Chiếc xe buýt du lịch cao ngất ngưỡng sơn màu sặc sỡ chậm chạp đi theo những con đường rải nhựa ngoằn ngoèo trong công viên - vườn thú Safari ở ngoại ô Băng Cốc.
Nếu được phóng tầm mắt chút nữa, người ta sẽ có cảm giác như đang đi trong các vườn quốc gia châu Phi hoặc trực tiếp tham gia quay phim Thế giới Động vật cho chương trình Discovery. Thỉnh thoảng chiếc xe dừng lại nhường đường cho một đàn hươu cao cổ. Một đàn chứ không phải vài con. Những con vật vụng về tuyệt đẹp với chiếc cổ cao lêu đêu ngật ngưỡng đi ngay bên cạnh. Có con còn dừng lại, chạm chiếc đầu bé một cách mất cân đối vào lớp kính thành xe như tò mò muốn biết bên trong cái hộp biết đi kỳ cục này có những gì. Xa hơn chút ít là bầy tê giác, loại một hoặc hai sừng, con nằm con đứng, con trơ trẽn hít hít mông con khác. Mấy con hổ (hoặc sư tử, gấu, tùy lúc ấy xe đi tới đâu) đang nằm phơi nắng trên ô đất cao bên khe nước. Hình như mỗi loài có một khu riêng nhưng không thấy có gì ngăn cách. Lạ một điều là các loài hiền lành như nai, dê sống cạnh những loài ăn thịt mà chẳng thấy cảnh săn đuổi chết chóc.
Trên xe có khoảng bốn chục khách du lịch người Việt, phần lớn gồm các ông, các bà đã có tuổi mới ra nước ngoài lần đầu được cơ quan bao trọn gói cả tua du lịch năm ngày sang Thái Lan. Mỗi cơ quan mấy người, gộp lại thành đoàn. Cũng có gia đình bỏ tiền túi đi riêng, nên hầu hết đến đây mới gặp nhau lần đầu. Hai xe đi trước và sau họ cũng có thành phần tương tự. Sau dịch SARS, theo số liệu của nước chủ nhà, khách du lịch từ Việt nam tới Thái Lan chiếm số đông, thậm chí hơn cả từ Trung Quốc và Hồng Công cộng lại.
Hướng dẫn cho đoàn suốt cả tua là một Việt Kiều sang đây đã hai mươi năm, bốn mươi tuổi nhưng chưa vợ, người gầy, da đen, hóm hỉnh và thích pha trò, tuy đôi khi không thật đúng chỗ. Ngoài ra còn có một cô người Thái trẻ đẹp nói tiếng Anh khá sõi, thứ tiếng ít người biết để trao đổi nên cô luôn im lặng với nụ cười thường trực trên môi.
Xe đang đi qua một khu có rất nhiều chim. Anh hướng dẫn người Việt bỗng ngừng lời quảng cáo các trò giải trí ở Băng Cốc, sôi nổi nói:
“Các vị hãy nhìn kia! Đây là loài nổi tiếng chung thủy nhất trong các loài chim. Điều ấy có đáng biểu dương hay không thì lại là chuyện khác, nhưng quả chúng bao giờ cũng sống có đôi, và khi một con chết, con kia sẽ bay tít lên cao để lao đầu xuống chết theo!”
“Tuyệt nhỉ!” một bà thốt lên. Bà mặc chiếc váy sọc to, người đẫy đà, mặt đỏ lự vì hay xúc động.
“Ngớ ngẩn. Thế là ngu!” ông ngồi bên đáp. Ông này nhỏ con, mái tóc bạc gần hết, có vẻ phong trần nhưng giọng nhỏ nhẹ chẳng tương xứng chút nào với câu thô lỗ ông vừa nói.
Bà kia cụt hứng, nhíu trán khó chịu nhưng không nói gì.
Mọi người nhìn theo hướng được chỉ. Trên một cành cây cụt có đôi chim gì đó to lớn đang đậu, màu sặc sỡ và đuôi dài như chim công.
“Tôi dám chắc chỉ con cái lao xuống chết chứ con đực thì không”, một ông khác lên tiếng.
Anh hướng dẫn do dự một chốc rồi đáp:
“Rất tiếc rằng quả đúng như thế. Chỉ con cái. Chỉ phái yếu mới biết hy sinh vì tình yêu. Do vậy, trong vấn đề này họ cao hơn hẳn đàn ông chúng ta”.
“Và cả khi con cái của mình còn sống,” ông đầu bạc nói, “con đực vẫn thường xuyên lăng nhăng với các con cái khác?”
“Tôi không chắc lắm, nhưng có lẽ điều ấy cũng có.”
“Vậy tôi nói ngu không đúng ư? Ấy là tôi nói về những con chim cái kia, tất nhiên, chứ không phải các bà. Đơn giản nhiều bà chưa được như thế.”
Bà váy sọc quay sang nhìn ông, mặt đã đỏ càng đỏ hơn:
“Ông là người thô lỗ hiếm thấy!”
Xe dừng, vì lại có con rắn lớn nằm chắn đường. Nhân dịp này anh Việt Kiều chuyển đề tài, nói rằng có loài rắn thời gian giao cấu kéo dài những ba mươi tư tiếng đồng hồ. Mọi người có vẻ ngạc nhiên nhưng không ai nói gì. Chỉ một bà khẽ thốt lên “Khiếp”, rồi không hiểu sao cười khúc khích một mình.
Buổi trưa ăn xong, khi ngồi nghỉ bên suối nước đầy những con cá to bằng bắp chân đủ màu để chờ buổi biểu diễn mô phỏng một số cảnh trong phim Điệp viên 007, ông đầu bạc quay sang nói với bà váy sọc:
“Bà đừng giận nữa. Tôi nói là nói cho vui thế thôi. Nhưng chắc bà cũng phải đồng ý với tôi rằng trong tình yêu quả có nhiều điều kỳ cục không giải thích nổi.”
Bà kia im lặng. Một người xen vào:
“Có thế mới là tình yêu, chứ không thì chán chết.”
“Năm ngoái ở phố tôi có người vợ chết, buồn quá mà tự tử đấy. Ông bảo thế cũng ngớ ngẩn sao?” một người nữa hỏi.
“Đúng. Ngớ ngẩn! Chết chưa phải là bằng chứng một tình yêu lớn.”
“Thế theo ông thì là gì?”
“Chỉ những người yếu đuối mới chết vì tình. Sống để yêu mới khó!” Ai đó bình luận.
“Tôi thì cho là ngược lại.”
Thế là do rỗi việc, cả vì do không có chuyện gì nữa để nói, người ta bắt đầu tranh luận về tình yêu, tuy không mấy hăng hái, có người ngủ gật. Cuối cùng ông đầu bạc lên tiếng:
“Để tôi kể các vị nghe chuyện này. Sau đó ai muốn kết luận thế nào thì tùy.”
                                                  *
Trong tình yêu quả có nhiều sự lạ, mà chủ yếu từ phía phụ nữ. Tôi biết một người có thể nói tuyệt vời về mọi mặt. Xinh đẹp, có học, gia đình êm ấm với một ông chồng trí thức và hai đứa con rất ngoan. Ấy là tôi nói trước đây, khi câu chuyện mới xẩy ra mấy chục năm về trước. Thế mà con người có học, thông minh và đang hạnh phúc ấy bỗng dưng bỏ chồng con chạy theo một gã trai chẳng ra gì. Lúc ấy bà ta đã hơn ba mươi, còn thằng kia mới hăm lăm, chưa vợ nhưng nổi tiếng chim gái nhất nhì thành phố. Các vị muốn biết vì sao? Đơn giản vì một hôm ngẫu nhiên gặp nhau đâu đó và bà ta được hắn (lúc ấy mới tốt nghiệp khoa pi-an-ô Nhạc Viện Hà Nội) chơi cho nghe một bản nhạc ngắn. Vậy mà trời xui đất khiến thế nào, bà ta đem lòng si mê hắn, ba hôm sau thì theo hắn đi chơi xa đúng một tuần. Lúc về cương quyết đòi li dị chồng không được, bà ta liền khăn gói sang ở hẳn với người tình mới.
Chắc có vị bảo tôi phịa vì những chuyện như thế chỉ bên Tây mới có chứ không phải ở ta, nhất là vào cái thời đói khổ ấy. Bản thân tôi cũng không hiểu nhưng sự thật nó xẩy ra đúng như thế. Thì đã bảo sự lạ mà. Tôi nghĩ trong bộ não con người, hay nói trái tim cũng được, có một chỗ nào đấy rất mềm, rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương bởi những xúc động mạnh, sau đó thì không sao lành lại được. Có thể trường hợp cái bà tôi đang kể cũng vậy. Bản nhạc kia đã làm bà ta mất trí. Nếu không chẳng sao giải thích nổi những việc bà ta làm sau này. Ở xóm tôi có một ông nhờ đọc sách Luận Ngữ của Khổng Tử và Đạo Đức Kinh của Lão Tử mà trở thành người khác hẳn đấy. Theo hướng tốt hơn, tất nhiên. Tôi cũng đọc nhưng chẳng thay đổi gì. Nghĩa là tùy người, tùy hoàn cảnh.
Đó là bản nhạc cổ điển Fur Elise (Gửi nàng Elise), của ông nhạc sĩ người Đức Beethoven. Nó ngắn thôi, lại đơn giản, nhưng phải nói rất hay và dễ gây xúc động, nhất là khi người nghe được kể rằng ông nhạc sĩ thiên tài già điếc này gửi nó thay thư cho một nàng Elise nào đó ông lặng lẽ yêu say đắm mà không được yêu lại. Chắc thằng kia vừa đàn vừa phịa thêm cho câu chuyện tình lãng mạn đó nhiều chi tiết lâm ly để gây ảnh hưởng với người hắn định tán. Và hắn đã thành công như ta thấy.
Tôi chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra trong cái đầu thông minh mà ngu ngốc kia của bà ta. Bản nhạc làm bà mụ người, đến mức có thể yêu, yêu si mê một người như hắn - mặt lưỡi cày, mắt ti hí, gầy nhom như thằng nghiện, lại bản tính thô lỗ, lười nhác và ích kỷ nhất hạng. Sau ba tháng sống với nhau như vợ chồng, hắn chán rồi thẳng tay đuổi người tình ra khỏi nhà. Trong ba tháng ấy bà kiếm tiền nuôi hắn, cung phụng, tôn thờ hắn như một con nô lệ, tất cả chỉ để được thỉnh thoảng hắn chơi cho nghe bản nhạc Gửi nàng Elise kia! May bố mẹ giàu, mua cho ngôi nhà nhỏ trong ngõ chợ nên bà không phải quay lại với chồng cũ, dù ông này đã tha thứ và cố thuyết phục nhưng bà nhất định không nghe. Có thể vì tình yêu với hắn, cũng có thể bà xấu hổ với chồng con nên quyết định đã đâm lao thì phải theo lao.
Vài tuần sau, quen được người cung phụng, thằng kia mò đến tìm. Bà vội vã đi theo hắn như sợ bị thay đổi ý kiến, không một lời căn vặn, trách móc. Có điều lần này hắn trở nên quá quắt, thô lỗ hơn, và tất nhiên không thèm giữ ý tứ, tán tỉnh như trước. Hắn ngang nhiên dẫn gái về nhà, cả khi bà đang có mặt. Thật kỳ lạ, bà vẫn nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Vì hắn. Vì cái bài Gửi nàng Elise của hắn! Tôi không là bác sĩ, không biết gì về thuyết phân tâm của Freud, nhưng tôi cho rằng có thể đây là một dạng bệnh tâm thần, đại khái như tâm thần tình yêu chẳng hạn.
Cuối cùng bố mẹ thằng kia bắt hắn lấy vợ. Bà lại lủi thủi quay về với ngôi nhà trong ngõ chợ. Lủi thủi héo hon chờ đợi mỗi tháng đôi lần hắn đến xin tiền. Bà nhịn ăn, ki cóp từng xu, có khi phải đi vay để đưa cho hắn. Những lúc ấy mặt bà rạng rỡ hạnh phúc, nói năng ấp úng vì xúc động. Có thể từ lâu bà nghĩ mình là nàng Elise và người tình là Beethoven chăng? Thằng Beethoven này không thất tình đau khổ mà luôn khinh khỉnh nhìn bà, và hễ có được tiền là tìm cách chuồn ngay.
Cứ thế kéo dài đúng hai mươi năm. Các vị lại ngạc nhiên? Thế tôi mới nói là ngu, là ngớ ngẩn. Trong hai mươi năm ấy bà có thể quay lại với chồng con bất kỳ lúc nào nhưng bà đã không làm thế. Ông chồng đều đặn hàng tháng gửi tiền cho người vợ chưa li dị của mình - chẳng hiểu vì tình yêu hay lòng thương hại. Sau này anh con lớn đi làm thỉnh thoảng cho thêm. Tất nhiên bà đưa hết số tiền đó cho Beethoven của mình. Vì hắn, bà đã bị đuổi việc từ lâu do tự ý nghỉ quá nhiều.
Suốt thời gian ấy bà sống lặng lẽ, không có sự cố gì đặc biệt, trừ hai lần bị đẩy đến tột đỉnh của hạnh phúc và sợ hãi. Chính xác là một hôm cuối năm 1978, để bà đồng ý kiếm cho một khoản tiền không nhỏ, hắn đưa bà vào Nhà Hát Lớn nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sỹ dương cầm người Nga. Trong chương trình có bản Fur Elise. Bà dành trọn ba ngày chuẩn bị cho sự kiện trọng đại đó. Sự kiện thứ hai xẩy ra khoảng mấy năm sau. Một sự kiện buồn. Bà bị vợ hắn tạt a-xit do ghen tuông. May không trúng mặt và chỉ bị bỏng nhẹ ở bàn tay phải. Sau đấy vì lo sợ, bà ốm mất một tháng mới khỏi.
Bây giờ bà đã là một mụ già. Một mụ già khốn khổ nhưng mãn nguyện vì đã mười năm nay được sống với người mình yêu. Số là vợ thằng kia không chịu nổi chồng cuối cùng đã bỏ đi, để lại hắn một mình không việc làm, không đồng xu dính túi, hơn thế lại mắc bệnh hen xuyễn và xơ gan nặng vì rượu. Thời gian gần đây thì hắn hầu như nằm một chỗ, thậm chí có muốn cũng không chơi nổi bài Fur Elise để gọi là trả công cho mọi lo toan vất vả của mụ. Vì yếu và bất động, hắn không thể thô lỗ như trước, nhưng thỉnh thoảng vẫn quát mụ bằng giọng khò khè the thé khi cần cái gì đó. Những lúc ấy người đàn bà tội nghiệp này lại cuống lên lo chạy thỏa mãn yêu cầu của hắn, miệng xuýt xoa đến cảm động...
                                                  *
“Đúng là một mụ điên!” Ai đó lên tiếng khi người kể chuyện dừng lời.
“Dẫu sao cũng là một tình yêu lớn. Người yêu được như thế ít lắm”. Một người khác nói, không hiểu sao thở dài rõ to.
Bà váy sọc quay sang ông đầu bạc, thái độ lúc này có vẻ thân thiện hơn:
“Ông không là nhà văn đấy chứ? Ông phịa giỏi lắm. Phi lý nhưng nghe mùi mẫn. Hay ông đọc được đâu đó ?”
“Tin hay không hoặc nghĩ thế nào tùy bà. Tôi đã nói trước rồi mà. Nhưng chuyện có thật đấy. Trăm phần trăm, dù đúng là ngớ ngẩn và phi lý như bà nói. Nhưng rồi suy cho cùng, ở người đàn bà nào cũng có chút ít chất ngớ ngẩn và phi lý ấy, đặc biệt khi chuyện liên quan đến tình yêu. Vấn đề chỉ ở mức độ. Bà không tin, hôm nào về Hà Nội tôi dẫn đến gặp người đàn bà ấy. Bà ta có quán nước trà ở Ngã Năm Lò Đúc. Để có tiền, bà ta còn làm thêm bao nhiêu việc, từ giặt thuê, trông trẻ cho đến trông xe. Không ít khi còn giở trò láu lỉnh tính gian tiền của khách. Bà cứ đến rồi khắc thấy. Vất vả lắm, nhưng mãn nguyện ra mặt. Thậm chí người đã bắt đầu phát phì”.
“Thế còn ông chồng cũ?” một người hỏi.
“Chẳng sao cả. Ông ấy không li dị vợ mà cũng chẳng lấy vợ khác. Một người tốt như tôi nói và đến giờ vẫn đều đều hàng tháng gửi tiền cho bà. Nghe nói ông còn tự học pianô để chơi bài Gửi nàng Elise cho bà nghe. Nhưng tiếc tiếng đàn của ông không làm bà xúc động mà quay lại”.
“Cũng lại một thằng ngốc nốt!”
“Có thể. Tình yêu cũng biến đàn ông chúng ta thành những thằng ngốc. Ngu ngốc không phải độc quyền của riêng phái nữ. Hơn thế chúng ta dường như không chỉ đau khổ mà còn lấy làm hạnh phúc vì sự ngu ngốc ấy”.
“Tôi nghi không khéo ông chính là chồng bà ta?”
Bà mặc váy sọc cười khúc khích, nhưng ông đầu bạc không đáp, chỉ quay mặt hướng khác.
Đến giờ đi tham quan tiếp, không khí chẳng mấy hứng khởi vì bữa ăn no đang gọi cơn buồn ngủ, có lẽ còn cả vì câu chuyện vừa rồi. Không ai nhắc tới nó, nhưng chắc còn vương vấn suy nghĩ, chuyện người khác và chuyện của mình. Thậm chí những con hươu cao cổ, tê giác, hổ báo trước đó làm họ phấn khích đến thế bây giờ dường như cũng chỉ là những con vật bình thường.

                                                  *
Buổi tối ở khách sạn, trước khi đi dạo phố, ông đầu bạc ngồi xuống trước chiếc đàn pianô loại lớn bóng loáng màu đen tại phòng ăn. Những ngón tay lóng ngóng của ông rón rén dạo trên các phím đàn. Bản Fur Elise của Beethoven! Ông đàn hai lần, may đều lưu loát trừ một chỗ vấp ở đoạn giữa. Tiếng đàn còn vụng về nhưng diễn cảm và đúng nhịp.
Mọi ngưòi quay sang nhìn. Đàn xong, ông đặt tay lên đầu gối rồi nói với mấy bà đang đứng cạnh:
“Không ai si mê tôi à?”
Hà Nội, 16. 9. 2003
                   

BÔNG HỒNG CHƯA TẶNG

Tám giờ kém mười. Lần nữa chuông rung dài phía trong Nhà Hát Lớn.
Mấy người đến muộn đang vội vã leo lên các bậc đá lát để đi qua chiếc cửa sắt nhỏ có bà soát vé to béo đứng cạnh, vừa xé vé vừa giục họ nhanh lên vì buổi diễn sắp bắt đầu. Đúng tám giờ, chiếc cửa sắt bị khóa. Bà kia lui sang bên, lơ đãng nhìn ra ngoài.
Cuối cùng, trước nhà hát chẳng còn ai ngoài mấy người bán hàng rong, một thanh niên mặc quần áo bộ đội vẫn ngồi trên yên xe đạp, chân chống xuống đất, một cô gái trẻ mặc áo khoác màu sáng luôn nhìn đồng hồ, đi lại vẻ sốt ruột, và tôi.
Tôi không đi lại, không sốt ruột vì chẳng chờ ai, chỉ buồn do không mua được vé vào nghe buổi hòa nhạc của một nghệ sĩ pianô nổi tiếng người Nga mà tôi hâm mộ.
Đang cuối tháng Hai, mới Tết xong và trời còn khá lạnh. Lại thêm chút mưa phùn lất phất, nhỏ thôi, và chỉ nhận thấy qua ánh sáng vàng nhạt của mấy cột đèn gần đó.
Anh thanh niên đã đạp xe đi. Cô gái vẫn nấn ná chờ người nhỡ hẹn. Tôi thì đứng ngay dưới cánh cửa sắt vì còn hy vọng biết đâu ai đấy vào phút chót có thể thừa vé nhượng lại.
Cô gái không đội mũ. Mái tóc phi-dê cắt ngắn xới phồng với những giọt nước li ti bám phía trên. Tôi ngạc nhiên thấy chúng có màu khác nhau. Tế nhị không nhìn lâu, nhưng khi cô đi ngang tôi cũng kịp nhận thấy một khuôn mặt rất xinh, hơi gầy và thanh thoát, có lẽ nhờ chiếc mũi thẳng và đôi mắt sâu. Một vẻ đẹp cổ điển, sang trọng của người có văn hóa. Mấy lần tôi định nhưng không dám hỏi mua lại một trong hai chiếc vé mà tôi tin chắc nàng đang giữ trong chiếc ví đầm đeo bên hông.
Bất chợt nàng đi lại gần tôi và nói, rất thản nhiên, giản dị:
“Anh có muốn đi dạo với em một chốc không?”
Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, đã tập tãnh nghề văn và đang yêu. Tôi yêu một ca sĩ, nghiệp dư thôi nhưng đang nổi, ít ra mấy lần đoạt giải các cuộc thi văn nghệ phong trào. Nàng cũng xinh và chúng tôi yêu nhau thực sự. Có điều khác hẳn tôi, nàng không thích nhạc cổ điển nên chẳng bao giờ chúng tôi cùng vào Nhà Hát Lớn, mặc dù chiều nàng, tôi luôn có mặt ở những đêm ca nhạc tôi chẳng mấy thích thú.
Cô gái hơi lúng túng khi tôi, vì bối rối chưa biết trả lời thế nào. Tuy nhiên chi mấy phút sau chúng tôi đã sóng đôi đi dọc theo phố Tràng Tiền rồi vòng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm.
Thành phố ban đêm thật đẹp và yên tĩnh. Ánh điện hắt lên mặt hồ thành từng vùng tròn như những chiếc trứng tráng trong chảo. Phía nhà Thủy Tạ có mấy ngọn đèn xanh in ngược xuống nước thành hình những chiếc cọc, tất nhiên cũng màu xanh và run rẩy như muốn gãy khuỵu dưới sức nặng của chiếc quán hai tầng trên đó. Có tiếng kèn xắc-xô-phôn buồn buồn vọng lại, xuyên qua lớp sương mù màu trắng ẩm ướt.
Chúng tôi lặng lẽ đi một đoạn dài không ai nói gì. Cuối cùng tôi lên tiếng:
“Chị vừa chờ ai nhưng người ấy không tới?” 
“Em chờ chồng em”, nàng đáp, cũng rất tự nhiên. “Nhưng không sao,  em quen với cảnh này rồi”.
“Và để trả thù chồng, chị mời tôi, một người lạ đi dạo thế này?”
Nàng không đáp. Tôi cũng im, lấy làm tiếc đã hỏi điều đáng lẽ không nên hỏi. Tôi thấy lạ trước cách cư xử của nàng. Cứ như ở một nước phương Tây nào đó. Rõ ràng nàng không thuộc loại phụ nữ dễ dãi, chưa hẳn đã thích phiêu lưu, vì ở nàng tôi thấy có cái gì đó sạch sẽ và nghiêm túc. Thế thì sao nàng, một người có chồng như đã nói, lại chủ động mời tôi đi dạo? Có ẩn ý gì chăng? Nàng là ai và cần gì ở tôi?
Vì lúc ấy còn trẻ và đang bị trí tò mò kích thích, tôi chẳng băn khoăn nhiều với những câu hỏi như thế, chỉ thấy sung sướng được đi dạo cùng người đẹp trong một đêm Hà Nội mơ mộng.
Chúng tôi vào Thủy Tạ ăn kem, những hai suất. Nàng để tôi trả tiền không chút kiểu cách. Rồi chúng tôi thong thả đi thêm một vòng quanh hồ, sau khi quành sang phố Nhà Thờ, phố Hàng Trống và một đoạn phố Hàng Gai. Khi trở lại Nhà Hát Lớn thì vừa đúng mười giờ rưỡi, cũng là lúc buổi diễn kết thúc và lác đác đã có vài người đi ra. Tôi đề nghị được đưa nàng về nhà nhưng nàng lắc đầu.
Nàng chìa bàn tay nhỏ bé của mình cho tôi. Bàn tay mềm và ấm, lần đầu tôi được chạm vào nó.
“Anh dễ thương thật đấy. Suốt mấy tiếng đồng hồ không hỏi một câu ngốc nghếch nào. Em thích những người như vậy. Em cũng thích anh. Nếu anh hay đến nhà hát này thì chắc ta còn nhiều dịp gặp nhau. Tam biệt và cảm ơn!”
Rồi nàng bỏ đi, đến đứng chếch phía bên phải nhà hát. Lát sau có chiếc ô tô màu đen đi tới đưa nàng đi. Một cô gái kỳ lạ mà lúc ấy tôi chưa biết tên và cô cũng chưa biết tên tôi.
Không phải tôi không hỏi câu nào. Theo yêu cầu của tôi, nàng nói chồng nàng là một quan chức quan trọng, hơn nàng những hai mươi lăm tuổi. Và rằng nàng đồng ý lấy ông vì bố mẹ bắt thế chứ chẳng vì tình yêu. Tuy nhiên đó không phải lý do để nàng không quí trọng ông hoặc cảm thấy bất hạnh. Đơn giản nàng nghĩ một khi đã là vợ chồng thì phải cư xử theo đúng đạo vợ chồng. Xuất thân từ gia đình gia giáo, nàng nghĩ cần phải thế. Chỉ tiếc ông không hiểu và không coi trọng nghề nàng. Tôi hỏi nghề gì, nàng chỉ im lặng mỉm cười. Phần tôi, tôi nói đang yêu và cũng được yêu lại. Một cách xã giao và hơi kỳ cục, chúng tôi chúc nhau hạnh phúc. Ngoài ra không hỏi gì hơn về đời tư mỗi người.
Nửa tháng sau tôi lại vào Nhà Hát Lớn để xem vở ba-lê Giselle do một đạo diễn người Pháp giúp Việt Nam dàn dựng. Và lại gặp nàng. Không phải trước nhà hát mà trên sàn diễn. Hơn thế, trong vai chính, tức là nàng Giselle xinh đẹp phải chịu nhiều đau khổ trước khi tìm được hạnh phúc của mình như ở phần kết hầu hết các vở ba-lê khác.
Xem tờ rơi giới thiệu nội dung, tôi biết tên nàng là Lệ Trinh, một diễn viên trẻ đầy triển vọng của Nhà hát Nhạc, Vũ kịch Trung ương, mới tốt nghiệp trường ba-lê danh tiếng nhất Liên Xô, ở chính thành phố tôi từng học trước đó mấy năm. Với cảm giác ngạc nhiên và hơi chút ít lâng lâng, suốt buổi diễn tôi chỉ ngắm nhìn một mình nàng trong bộ đồ ba-lê trắng mỏng tinh khiết. Cả người nàng cũng trắng mỏng tinh khiết. Nàng thoăn thoắt bước đi trên hai đầu ngón chân bé nhỏ, xen những cú nhảy nhẹ tưởng như không trọng lượng. Nàng đẹp một cách lộng lẫy. Cái đẹp hoàn thiện, thoát tục, đến mức trong tôi chỉ còn lại cảm giác ngưỡng mộ như khi người ta ngưỡng mộ một nữ thần. Thật khó tin mới chỉ mấy ngày trước đó tôi được nữ thần ấy mời đi dạo, thậm chí được chạm tay nàng.
Sau buổi diễn, đứng khuất phía xa trước nhà hát, tôi nhìn thấy nàng, vẫn  chiếc áo khoác hôm nọ, đang cùng một người đàn ông cao to mặc com-lê đen âu yếm dẫn nàng đến chiếc ô tô màu đen đợi sẵn. Chiếc ô tô chở nàng lần trước. Trong vở diễn nàng được chàng hoàng tử nâng trên đôi tay khỏe mạnh của mình, còn ngoài đời, nâng đỡ nàng là chiếc ô tô của chồng, chức vụ và có lẽ cả đôi tay cũng rất khỏe của ông ta. Tôi thở dài, thầm mỉm cười với sự so sánh ngồ ngộ ấy.
Tôi thờ thẩn bước đi giữa phố, đúng lộ trình tôi và nàng đã đi lần trước. Lần này trời quang đãng và đầy sao. Những ngôi sao khá lớn chen chúc trên mặt nước hồ Hoàn Kiếm. Tôi đứng hồi lâu trên cầu Thê Húc, tay vịn vào thành cầu đẫm hơi sương nhưng không hiểu sao lám nhám những hạt cát nhỏ. Tôi lờ mờ thấy mình đang yêu. Đúng, yêu nàng, nhưng là thứ tình yêu khác hẳn với tình yêu đối với cô ca sĩ nghiệp dư đang nổi. Một tình yêu trừu tượng, vô vọng và pha chút mặc cảm tội lỗi vì nàng đã có chồng.
Xưa nay ngoài sách, nhạc cổ điển là đam mê lớn nhất của tôi, nên hầu như tôi không bỏ sót buổi hòa nhạc nào loại này ở Hà Nội. Thậm chí thời sinh viên tôi từng mơ ước trở thành nhạc sĩ hoặc chỉ huy dàn nhạc giao hưởng.
Mấy hôm sau tôi lại có mặt ở Nhà Hát Lớn để nghe một chương trình nhạc Beethoven, gồm các bản giao hưởng số Một, số Sáu và khúc dạo đầu (ouverture) Coriolant. Lần này may tôi mua được vé, tất nhiên chỉ đi một mình.
Nàng xuất hiện đúng lúc tôi sắp bước vào nhà hát, mặc quần jeans, đi giày da và khoác trên người chiếc áo len rộng màu xanh nhạt. Tôi có cảm giác mặt nàng đỏ ửng, hơi thở gấp, có lẽ do trước đó phải chạy một quãng.
“Chào Lệ Trinh,” tôi lên tiếng trước, cố giấu vẻ hồi hộp. “Hôm nay chồng chị lại nhỡ hẹn nữa à?”
Nàng không ngạc nhiên khi tôi gọi đúng tên.
“Không. Em đi một mình. Em đến đây vì anh,” nàng đáp, cũng tự nhiên và giản dị như lần trước. “Anh có sẵn sàng bỏ buổi hòa nhạc để đi dạo với em không?”
Chúng tôi lại đi theo các phố cũ, có ghé vào Thủy Tạ nhưng không ăn kem mà uống cà phê, vừa uống vừa ngắm mặt hồ ban đêm và ôn chuyện Liên Xô. Dường như đề tài này làm hai người tự nhiên, thân mật hơn. Tịnh không một lời về đời riêng của nhau. Sau đó như lần trước, tôi đưa nàng trở lại nhà hát chỉ mấy phút trước khi ông chồng đánh ô tô đến đón nàng về.
Những tháng tiếp theo tôi còn mấy lần được nàng rủ đi chơi như thế. Mấy lần thấy ông chồng cùng nàng vào nhà hát. Tuy nhiên nàng chẳng tỏ ra thân mật hơn trước, ngoài việc tôi có thể giữ tay nàng lâu hơn, thậm chí một lần còn nâng lên hôn mà không bị rút lại. Thỉnh thoảng như vô tình, nàng hỏi chuyện tình yêu của tôi với cô kia, và tôi nói mọi chuyện vẫn bình thường. 
“Phải chăng nàng cũng yêu tôi, hay chẳng qua đó chỉ là trò đùa của những người xinh đẹp, giàu có và rất hiểu rõ địa vị mình?” Câu hỏi ấy cứ làm tôi băn khoăn mãi. Vốn hay mặc cảm và không muốn rơi vào thế lố bịch, dẫu rất yêu, tôi vẫn luôn tỏ ra kiềm chế, vì dẫu sao nàng cũng đã có chồng.
Một lần tôi còn chuẩn bị sẵn một bông hồng giấu trong cặp định tặng nàng, nhưng khi gặp lại không đủ can đảm trao nàng bông hồng ấy.
Sau đó, một thời gian rất lâu tôi không thấy nàng xuất hiện, cả trên sàn diễn lẫn trước cửa Nhà Hát Lớn. Linh tính báo có chuyện khác thường. Tôi nhờ người dò hỏi và được biết chồng nàng bị bắt cách đấy không lâu (vì lý do gì không rõ), đang bị giam đâu đó tận Tây Nguyên, và nàng đã bỏ hẳn vào đấy để chăm sóc ông.
                                                           *  
   Từ đó tôi chẳng biết gì thêm về Lệ Trinh. Rồi mọi cái cũng qua đi, kể cả tình yêu của tôi với nàng, còn lại trong tôi chỉ là sự luyến tiếc mơ hồ như luyến tiếc một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy vợ, có con, không phải lấy cô ca sĩ xinh đẹp không yêu nhạc cổ điển, cũng không phải vài người nữa tôi yêu sau đó. Cuộc đời dần dần đi vào nếp ổn định. Tôi lấy thế làm hài lòng và chẳng có gì phải than phiền. Tôi vẫn đều đặn vào Nhà Hát Lớn nghe hòa nhạc hoặc xem ba-lê. Chỉ những lúc ấy tôi mới nhớ đến Lệ Trinh, đặc biệt hôm đầu tiên thấy nàng trên sàn diễn trong vai cô gái Giselle xinh đẹp, tinh khiết và dường như không trọng lượng. Tôi cũng nhớ cả những đêm được đi dạo bên nàng hoặc phải lang thang một mình giữa các phố Hà Nội cho đến tận sáng như mọi chàng trai si tình khác. Rồi tôi thương cho nàng đáng lẽ được ông chồng to khỏe, đạo mạo, đầy chức quyền kia nâng trên tay đi hết cuộc đời, thì lại phải vào tận chốn rừng núi hoang vu miền Nam để nuôi ông, nâng cái cơ thể to khỏe kia của ông bằng chính đôi tay bé nhỏ của nàng, trên đôi chân đi những bước nhỏ bằng ngón kiểu ba-lê của nàng. Bây giờ nàng thế nào và đang ở đâu?                                               
  *
Một hôm, bất ngờ tôi nhận được bức thư từ Mỹ. Thư của Lệ Trinh.
“Chắc anh không còn nhớ em và đang ngạc nhiên? Em là Lệ Trinh, người cùng anh mấy lần đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm cách đây đã nhiều năm.”
Nàng viết, vẫn bằng giọng tự nhiên, chân thành như xưa.
“Bây giờ, ở khoảng cách an toàn, rất xa cả về địa lý lẫn thời gian, em mới dám nói với anh điều này. Em yêu anh! Em đã rất yêu anh những ngày được gặp và không được gặp anh thời ấy. Anh không biết, hay đúng hơn, em không cho anh biết điều đó, vì em đã có chồng, còn anh thì đang yêu người khác. Dẫu mãnh liệt, tình cảm của em đối với anh đã không thắng được ý thức đạo nghĩa vợ chồng trong em. Vả lại em cũng không thể cho phép mình cướp đi hạnh phúc của cô gái anh yêu và yêu anh. Đối với em đó là những ngày hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Còn sau đó chỉ là một sự tồn tại, thuần túy một sự tồn tại theo các khuôn phép đạo đức do xã hội qui định.
Dù không yêu, em đã hết lòng tận tụy với chồng cho đến khi ông ấy chết bệnh trong tù. Sau đó em theo mấy người bạn vượt biên và hiện đang sống ở Mỹ. Em đã có chồng, có con, dường như có tất cả, chỉ trừ tình yêu. Anh là tình yêu duy nhất của em. Lẽ ra em đã có thể đến với anh nếu em đủ dũng cảm thoát khỏi những ràng buộc của qui ước xã hội.
Viết thư này, em không có mong muốn nào khác ngoài được bộc lộ với anh những suy nghĩ thầm kín của mình. Em những muốn, và đã cố, không bao giờ nói ra, nhưng không được.
Hãy tha thứ cho em.
Lệ Trinh.
PS. Xin anh đừng viết thư cho em. Điều ấy không cần thiết. Hơn thế, nó chỉ làm em thêm đau khổ.”
Bức thư đề ngày... tháng... năm 1989. Mười lăm năm kể từ đêm tôi nhìn thấy nàng lần cuối.
                                                         *     
Tháng Năm năm 2000, trong lần đi du lịch một tháng với vợ ở Mỹ, tôi tìm đến nhà nàng theo địa chỉ ghi trên bì thư. Tất nhiên một mình. Tôi không có ý định gặp hay trò chuyện với nàng vì nàng không muốn điều ấy. Đơn giản chỉ muốn được nhìn qua ngôi nhà nàng đang sống. Đứng từ xa mà nhìn. Đó là một ngôi nhà nhỏ, bình thường như bao ngôi nhà khác xung quanh ở ngoại ô thành phố Raleigh, tiểu bang North Carolina. Nhà đóng cửa, chỉ hai ô cửa sổ là không, nhưng được che bằng những chiếc mành trắng mỏng. Tôi thong thả đi hai lần qua ngôi nhà ấy, ngồi xuống cạnh gốc cây đối diện, hút hết một điếu thuốc rồi trở về khách sạn.
Tháng trước, tôi lại nhận được một bức thư nữa từ Mỹ. Bức thư chỉ mấy dòng, được viết bằng nét chữ đàn ông rắn rỏi, gần như tô từng nét.
“Theo yêu cầu của người đã khuất, tôi xin báo ông biết rằng vợ tôi, bà Lệ Trinh, đã từ trần ngày...vì nhồi máu cơ tim. Vợ tôi cũng nhờ nói lại rằng bà ấy đã nhìn thấy ông ngồi hút thuốc trước nhà chúng tôi cách đây hơn hai năm. John Nguyen Van Bach.”
                                                  *               
Đó là toàn bộ câu chuyện về Lệ Trinh mà chắc tôi sẽ không bao giờ viết ra nếu không nhận được bức thư ngắn này của chồng nàng. Tôi chẳng còn gì để nói thêm, ngoài việc nếu có dịp tới Mỹ lần nữa, nhất định tôi sẽ tìm đến mộ nàng để đặt lên đó bông hồng năm nào tôi định tặng.
Hà Nội, 2004
                                                                     
           
LE VIEILLARD ET LE PIANO

Không khí thật điền viên, ấm áp. Như bà già trong bản sao khổ lớn bức tranh sơn dầu nổi tiếng "La jeune fille au piano" của danh họa Paul Cézanne treo trên tường, bà lặng lẽ ngồi đan trên chiếc ghế xa-lông da mềm và sâu. Con mèo mướp lười biếng nằm ngủ dưới ghế, đầu gối lên đôi chân đi tất len dày của bà. Chốc chốc nó duỗi mình, vươn thẳng tứ chi rồi lại khoanh tròn ngủ tiếp.
Đầu xuân, nhưng trời còn rét ngọt. Dù ở nhà, như thường lệ, bà vẫn mặc chiếc áo dài vải the mầu xẫm kiểu cổ thời trước cách mạng. Bà có khuôn mặt bình thản hình trái xoan, với chiếc mũi thanh tú, đôi môi nhỏ và dày. Một nốt ruồi to bên cạnh, na ná nốt ruồi nổi tiếng của ca sĩ nhạc pop Mađôna, càng tôn thêm cho bà cái duyên thầm rất ưa nhìn. Cặp kính lão mắt tròn (cũng kiểu cổ) treo sệ xuống đầu mũi, và bà thường nhìn trên kính chứ không qua mắt kính như người khác. Bất chấp những nếp nhăn sâu trên mặt và mái tóc phi-dê ngắn bạc gần hết, người ta vẫn dễ dàng đoán biết bà từng một thời là người xinh đẹp và xuất thân từ một gia đình rất nền nếp.
Nếu phải chọn ai đấy là dân Hà Nội gốc, tiêu biểu cho lớp trí thức cũ vừa lịch sự vừa bảo thủ, thì có lẽ bà là người thích hợp nhất. Có cảm giác như cuộc sống mới thực dụng và hiện đại một cách xô bồ bên ngoài không mảy may ảnh hưởng đến con người bà và căn phòng nhỏ bà đã sống suốt bảy mươi năm qua. Bản thân căn phòng cùng các đồ vật trong đó cũng cổ kính và trầm lặng như chủ nhân chúng.
Bà là một trong số rất ít các nghệ sĩ pianô ở lại với cách mạng sau ngày thủ đô giải phóng, là người thầy đầu tiên bộ môn này ở Nhạc viện Hà Nội. Bà đã dìu dắt nhiều thế hệ nghệ sĩ trưởng thành, có người dành được giải thưởng lớn trong các cuộc thi quốc tế. Bà nghỉ hưu đã mấy năm nay, với danh hiệu "nhà giáo nhân dân" và "nghệ sĩ ưu tú". Chồng bà là cán bộ cao cấp trong quân đội, một vị tướng chiến trường, hy sinh trong chiến dịch Khe Sanh. Họ không có con. Bấy lâu nay bà sống một mình với con mèo, với chiếc đàn pianô hiệu Bekker cũng già nua và quí phái như bà.
Khách đến nhà bà không nhiều. Bà thích thế. Mỗi tuần hai lần vào thứ ba và thứ bảy, bà dạy đàn cho đứa cháu gái mười tuổi của bà em. Nó có khiếu, tiếp thu nhanh. Bà muốn và có thể dạy nó thành nghệ sĩ pianô có tài. Nhưng nó lại không thích. Cái nó thích là nhai kẹo cao su - vừa tập đàn vừa nhai - và nhạc xập xình chứ không phải nhạc Mozart hay Schubert. Không nói ra nhưng bà buồn. Bà buồn cả việc nhiều học trò giỏi của bà tối tối vào các khách sạn hoặc quán bar chơi đàn cho đám thực khách thô lỗ. Khách của bà còn là những học trò cũ thỉnh thoảng đến thăm, nhất là vào ngày mồng Tám tháng Ba và ngày Hai mươi tháng Mười Một. Và cuối cùng là ông già đang ngồi chơi đàn trước mặt bà lúc này. Một vị khách không mời cũng đến, đều đặn mỗi tháng một lần đúng ngày rằm. Vì sao lại ngày rằm? Cả ông lẫn bà đều không biết. Đơn giản vì đến mấy lần vào ngày ấy rồi quen, sau cứ thế tiếp tục mãi đã hàng chục năm nay.
Ông là thợ (có người gọi nghệ sĩ) lên dây đàn pianô lâu năm nhất và cũng thuộc loại giỏi nhất ở Hà Nội. Ông đến để lên dây đàn cho bà, mặc dù gần đây bà ít chơi đàn và do vậy dây đàn ít sai để phải lên lại. Nhưng ông cứ đến và bà chẳng lấy thế làm khó chịu. Họ là bạn của nhau từ thời còn trẻ. Chiếc pianô luôn là chiếc cầu nối giữa họ. Thường sau mỗi lần chỉnh đi chỉnh lại những nốt đàn đã quá chính xác, ông thong thả cất bộ đồ nghề vào hộp, rồi cũng thong thả như thế, ông trang trọng ngồi xuống trước đàn, bắt đầu chơi bài "Fur Elise"(Gửi nàng Elise) của Beethoven, một bản nhạc đượm buồn ai oán mà tương truyền nhạc sĩ thiên tài người Đức này đã viết gửi một nàng Elise nào đó để bày tỏ mối tình vô vọng của mình. Tiếp đến là một bản etude chậm của Chopin mà theo chất nhạc, người ta đặt thêm cho cái tên là "Tristess" (nhạc buồn). Lần nào cũng chỉ hai bài ấy. Bà chẳng biết vì sao nhưng không bao giờ hỏi. Xong, ông cẩn thận đậy nắp đàn, lấy giẻ lau sạch bóng lần nữa, ngồi xuống cạnh bà, uống nước, trao đổi đôi ba câu vu vơ rồi ra về, cúi đầu chào thật thấp, thậm chí còn ngả mũ nghiêng mình nếu lúc ấy là mùa đông và ông đội chiếc mũ phớt dạ từ thời Pháp còn lại.
Tuy nhiên, hôm nay hình như ngoại lệ. Sau hai bài bất di bất dịch kia, ông chơi thêm một bản nocturne (dạ khúc) của Chopin, bản số 1, và hiện đang chơi bản sonnate "Les Adieux" (Vĩnh biệt) số 26 của Beethoven.
Bà hơi ngạc nhiên nhưng vẫn lặng lẽ ngồi nghe, không một lần ngước mắt khỏi que đan. Ông đàn không hay, không phải ở mức a-ma-tơ nhưng cũng chưa hẳn chuyên nghiệp. Xuất thân từ một gia đình tư sản sa sút, ngày xưa ông cùng học pianô một thời gian ở Paris với bà. Bà học giỏi, có tài, tiếp tục tiến lên, còn ông thì sau nhiều thăng trầm, tự biết không bao giờ có khả năng thành nghệ sĩ giỏi, cuối cùng tự chọn cho mình cái nghề lên dây đàn pianô, dẫu nó, trước kia cũng như bây giờ, hiếm ai lao vào và chưa bao giờ mang lại cho ông nhiều tiền. Đơn giản vì ông không thể sống thiếu cây đàn này. Không trực tiếp biểu diễn thì ông chăm chút, chuẩn bị nó cho người khác. Và ông lấy thế làm hài lòng. Bây giờ đến lượt ông đàn, lại một bài khó và dài như "Les Adieux", ông không khỏi lúng túng, ngượng ngập. Chiếc Bekker già nua, loại Grand piano, chiếm trọn nửa căn phòng, đang rên rỉ dưới những ngón tay cũng già nua không kém của ông. Những phím đàn màu trắng ngả vàng ngà như nhảy múa một cách miễn cưỡng. Tiếng của nó cũng không còn trong trẻo và sắc gọn như xưa.
Theo thói quen nghề nghiệp, thỉnh thoảng bà ngừng tay, gõ mạnh que đan vào thành ghế rồi nói to như trước bà là cậu học sinh chưa thuộc bài: "Forte! Forte!" (mạnh hơn, mạnh hơn nữa) hoặc "Tình cảm vào! Chậm thôi, chậm thôi!" Ông ngoan ngoãn làm theo, vấp một đôi lần rồi cuối cùng ngừng chơi, quay về phía người bạn già.
- Cây đàn của bà già lắm rồi, - ông thở dài.
Đó là một chiếc đàn tốt bố mẹ mua cho bà từ Pháp. Với tư cách là giảng viên lâu năm, sau này nhiều lần Nhạc Viện đề nghị cấp đàn mới nhưng bà không nhận mà vẫn giữ nó như kỷ niệm một thời.
- Còn ông thì không? - bà đáp, nửa châm chọc nửa trách móc như thể chiếc đàn bị chê một cách oan ức.
- Tôi cũng già rồi. Cả bà nữa. Cái gì phải đến sẽ đến thôi. - Ông lại thở dài. - Bà nghỉ dạy đã mấy năm. Bây giờ đến lượt tôi. Hôm nay là lần cuối cùng tôi lên dây đàn đấy. Tất nhiên cho chiếc đàn của bà. Bà và tôi gắn bó với nó bao nhiêu năm rồi nhỉ?
- Gần năm mươi năm. - Bà đáp, ngừng đan, ngạc nhiên hỏi: - Lần cuối cùng? Vì sao lại lần cuối cùng?
- Vì tai tôi hỏng rồi. Cũng đúng thôi. Tuổi tác mà. Hình như nó hỏng đã lâu nhưng vì người ta thương tôi, nể tôi nên không nói đấy thôi. Tháng trước Nhà Hát Lớn không nhờ tôi lên dây chiếc Steinway cho một nghệ sĩ Hà Lan biểu diễn, tôi đã lờ mờ đoán có chuyện không ổn. Chỉ hôm qua tình cờ tôi nghe có người nói bây giờ tai tôi không chính xác nữa, lên sai dây đàn mà tự mình không biết. Hóa ra mấy lần trước người ta bí mật nhờ cậu Hà chỉnh lại những chiếc đàn tôi đã lên dây ở Nhà Hát Lớn, Hội nhạc sĩ, phòng thu Đài phát thanh và phòng hòa nhạc của Nhạc Viện. (Hà là một trong những thợ học việc của ông, sau được gửi sang Tiệp luyện nghề hai năm, thời gian gần đây đang thay ông chăm sóc mấy chục chiếc đàn ở Nhạc viện. Tuy nhiên những chiếc đặc biệt dành cho các buổi biểu diễn quan trọng thì vẫn phải đích thân ông trực tiếp chuẩn bị). Bà biết đấy, nghề tôi chỉ nhờ vào đôi tai. Nay nó hỏng, coi như tôi mất nghề. Beethoven điếc vẫn viết nhạc được vì ông nghe thầm trong đầu. Còn tôi, tôi cần nghe rõ những âm thanh có thật. Không khéo lần trước tôi lên dây cho chiếc đàn này cũng sai, và như người khác, bà thương tôi nên không nói. Có đúng thế không?
Bà im lặng hồi lâu mới khẽ đáp:
- Không. Tôi thấy nó vẫn chính xác.
Bà ái ngại nhìn ông già, không đủ can đảm nói lên cái sự thật bà biết không phải tháng trước mà từ lâu trước đó, rằng đôi tai rất thính nhạy của ông đã bắt đầu không ổn. Tuy vậy bà vẫn không muốn bất kỳ ai khác chạm vào chiếc đàn yêu quí của bà. Bà hiểu ông tự hào và yêu nghề mình đến mức nào. Nó là hạnh phúc và cũng là ý nghĩa cuộc sống đối với ông. Suốt năm mươi năm qua người ta đánh nhau, cày cấy hoặc đổ mồ hôi trong nhà máy, hầm mỏ, còn ông thì luôn quanh quẩn bên những chiếc đàn pianô. Ngoài ra ông không biết một nghề nào khác. Xã hội cũng cần ông như chính ông cần những chiếc đàn pianô để sống, đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cũng suốt chừng ấy năm người ta thấy ông lọm khọm đạp chiếc xe cà tàng tới Nhạc Viện ở Ô chợ Dừa, phòng tập trường múa ở Mai Dịch và các phòng hòa nhạc, thu thanh khắp nơi trong thành phố. Nhiều lần ông còn được ô tô, máy bay đưa đón đến một thành phố xa nào đó chỉ để lên dây một chiếc đàn pianô. Thường sau khi xong việc, ông nán lại để được tận hưởng thành quả lao động của mình, tự hào và lâng lâng hạnh phúc lắng nghe các nghệ sĩ biểu diễn, hoặc ngắm nhìn những diễn viên ba-lê nhún nhẩy bước đi trên đầu ngón chân theo tiếng nhạc chiếc đàn ông đã nâng tới mức hoàn thiện. Ông thường giật mình cảm thấy như người có tội, dằn vặt mấy ngày liền nếu tình cờ phát hiện có dây đàn nào đấy lên chưa chuẩn lắm. Công bằng mà nói, người ngoài nghề it ai hiểu hết giá trị công việc ông làm. Các nghệ sĩ đích thực thì khác. Họ kính trọng ông, thân mật tôn ông thành Maestro (sư phụ). Sau buổi biểu diễn, nhiều danh cầm thế giới tự tìm đến bắt tay cảm ơn ông và tặng những món quà nho nhỏ được ông tập hợp thành bộ sưu tập bày nơi trang trọng nhất trong nhà mình.
Mươi năm gần đây đất nước mở cửa, kéo theo sự mở cửa của vô số các quán bar và khách sạn đua nhau làm sang mua pianô đắt tiền, thuê sinh viên Nhạc Viện biểu diễn để câu khách. Những chiếc đàn ấy cũng cần được định kỳ lên dây và chăm sóc, tất nhiên. Cũng theo mốt, người ta mời đích thân ông làm việc này nhưng thường ông bảo Hà và những người như anh ta làm hộ, dù ở đấy tiền công cao hơn. Âu cũng là một sự lẩm cẩm nữa của người già.
Ông cũng sống một mình. Hơn thế, suốt đời sống một mình. Vì sao - không ai rõ mà ông cũng chẳng chịu nói với ai. Nghe đồn ngày xưa ông yêu bà, yêu lắm, nhưng vì bà là người thành đạt, lại xinh đẹp, con nhà giàu, còn ông thì... nên ông biết phận mình, chưa một lần dám thổ lộ. Người ta hỏi cả hai có đúng thế không, nhưng lần nào họ cũng chỉ cười thay cho câu trả lời. Bản thân họ chưa bao giờ đả động đến chuyện đó. Bao năm nay họ quen đối xử với nhau như những người bạn và dường như cho thế là đủ.
- Bây giờ ông định thế nào? Không lên dây đàn thì ông làm gì ? - Bà hỏi.
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Có lẽ tôi không thể tiếp tục sống ở Hà Nội. Những chiếc đàn ở đây làm tôi buồn. Tôi có người bà con ở vùng trung du Phú Thọ, định về sống nốt tuổi già ở đấy, vui với mảnh vườn, bầy gà. Cũng được đấy nhỉ? Bà thấy thế nào?
- Tôi thấy ông lẩm cẩm. Không chỉ tai hỏng mà đầu óc cũng không ổn. - Bà cười đáp, không ra nghiêm túc cũng chẳng phải đùa. - Suốt đời ở thủ đô, nay ông tưởng về sống nông thôn dễ đấy à?
- Rồi bà xem.
- Tùy ông thôi. Nhưng có phải vì thế mà vừa rồi ông chơi bản "Les Adieux" không?
- Bà đoán đúng.
- Nhưng ông chơi tồi và bỏ giở giữa chừng...
- Đúng thế. - Ông buồn bã đáp. - Tại lâu ngày không đàn, tôi quên. Tại nó khó quá...
- Bao giờ ông đi?
- Tuần tới. Mọi thứ thu xếp xong rồi. Hôm nay tôi đến chia tay bà.
Hai người cùng ngồi im.
- Tôi muốn hỏi ông điều này. Tò mò thôi. Vì sao trong bao nhiêu năm ở nhà tôi ông chỉ đàn hai bài, là "Fur Elise" của Beethoven và "La Tristess" của Chopin?
- Bà chưa bao giờ thử đoán vì sao à? - ông hỏi lại, giọng nhỏ nhẹ và không ngước nhìn bà.
- Chưa, - bà đáp. - Mà sao tôi phải đoán. Ai muốn nói gì cứ nói thẳng ra chẳng hay hơn ư?
Họ lại im lặng, lần này còn lâu hơn. Cuối cùng ông rụt rè lên tiếng:
- Bà có thể đàn tôi nghe một bài được không? Bài gì cũng được. Chưa bao giờ bà đàn cho tôi, chỉ riêng một mình tôi...
Bà liếc nhìn ông với cái nhìn như muốn nói: "Ông có đòi hỏi nhiều quá không đấy?" Nhưng bà không nói gì, chỉ lặng lẽ đứng dậy, đài các bước về phía chiếc đàn, và cũng đài các như thế ngồi xuống ghế, như thể trước bà không phải ông bạn già mà cả nghìn khán giả am hiểu ở Nhà Hát Lớn. Bà đặt hai bàn tay nhăn nheo nhưng thon mảnh lên mặt phím đàn đã ngả màu vàng vì năm tháng, đầu hơi ngửa về phía sau một cách kiêu hãnh. Chiếc đàn cổ lại rung lên vì những nốt nhạc mạnh và dứt khoát. Thật khó tin một phụ nữ nhỏ bé, già nua như bà lại có thể tạo ra được những âm thanh mạnh mẽ và kỳ diệu đến thế. Bà say sưa đàn, mắt lim dim, dường như quên hết mọi thứ trên đời. Cả con người và tâm hồn bà đang hòa quyện vào tiếng nhạc lúc hùng tráng, lúc du dương quyến rũ.
"Bản Prelude và Fuge số 29 của Bach!' - ông nhận ra ngay từ những nốt nhạc đầu tiên. Đây là tác phẩm phức điệu khó biểu diễn cả về kỹ thuật lẫn thể hiện tình cảm. Chính vì nó mà ông bị đánh trượt không tốt nghiệp Nhạc Viện Paris vào một ngày đông giá lạnh ở nước Pháp năm nào. Những người sành nhạc đều yêu thích bản nhạc này. Ông thì coi nó là đỉnh cao sáng tác không chỉ của Bach mà cả nền âm nhạc pianô toàn thế giới.
Bà chơi xong phần Prelude hùng tráng, bây giờ đang chuyển sang phần Fuge trữ tình và theo ông là phần hay nhất của tác phẩm. Các bè nhạc lúc đan quyện vào nhau, lúc đối đáp như lời tâm tình không dứt. Những nốt nhạc tinh khiết, thần thánh làm ông lâng lâng. Tự lúc nào không biết, đôi mắt ông ngấn đầy lệ. Ông giật mình, thầm mừng bà bận đàn nên không thấy ông khóc.

                                                  *
Một tháng sau, đúng ngày rằm, từ Phú Thọ ông lại về Hà Nội và đến nhà bà.
- Công việc của ông trên ấy thế nào? - Bà hỏi, hình như không ngạc nhiên trước việc ông quay lại.
- Cũng bình thường. Ổn cả. Còn bà?
- Tôi thì có gì thay đổi được nữa. Ông không mang đồ nghề về à?
- Không. Tôi nhớ Hà Nội quá, nhớ đàn quá. Ghé về chơi một hôm rồi lại lên trên ấy.
- Thế thì tiếc thật.
- Sao vậy? Đàn lại sai dây à? - Ông hỏi rồi chợt thở dài. - Thật buồn rằng bây giờ tôi chẳng giúp được bà nữa. Tai tôi hỏng rồi, bà biết đấy. Để tôi bảo cậu Hà...
- Không, tai ông vẫn thính lắm, - bà ngắt lời. - Vả lại, cây đàn của tôi nó đã quen ông. Nó già yếu lắm rồi nên cần được chăm sóc thường xuyên. Thiếu ông, dường như nó chẳng còn là chiếc đàn như trước. Ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới điều ấy à?
Ông bối rối không biết đáp thế nào. Bà bước thêm một bước về phía trước, nhìn thẳng vào mắt ông và nói với giọng rất nghiêm túc:
- Tôi có một đề nghị thế này, ông thấy được thì chấp nhận, không thì thôi, tùy ông. Chiếc đàn của tôi hiện cần phải lên dây hàng ngày. Để đỡ vất vả, nếu muốn, ông có thể ở lại đây, ngay trong nhà tôi để làm việc đó. Ý ông thế nào?
Ông hiểu, nhưng vì quá bất ngờ, ông đứng lặng một lúc rồi ấp úng nói:
- Nhưng cả tôi và... chiếc đàn của bà đã già. Làm thế, e  nó thế nào ấy.
- Ông lại lẩm cẩm rồi. Tai ông còn tốt, chỉ đầu óc ông có vấn đề mà thôi.
Để ông khỏi lúng túng, bà ngồi xuống cạnh đàn, vẫn với vẻ đài các nghệ sĩ vốn có của mình.
- Bà vừa đàn bài gì lạ thế, hình như  tôi chưa nghe bao giờ, - ông hỏi khi bà đàn xong.
- Đó là bản "Le Vieillard et le Piano", khúc ngẫu hứng tôi viết riêng cho ông đấy. Lần đầu tiên tôi viết nhạc. Nghiệp dư, và vì hoàn cảnh bắt buộc. "Le Vieillard" là ông, một ông già lẩm cẩm đáng yêu. Còn "Le Piano" là ai thì tự ông đoán lấy. "Le Vieillard et le Piano", một cái tên cũng hay đấy nhỉ?
Hà Nội, 3. 1. 2001


MÙI SỮA
Tặng Nguyễn Thơm
                                                 
Người đàn ông, - một ông già sáu mươi, khô gầy với mái tóc bạc gần hết và nét mặt căng thẳng - từ từ kéo dây khóa chiếc áo len mỏng mịn của người đàn bà đang nằm trên giường, hai mắt nhắm chờ đợi, trán lấm tấm mồ hôi dù lúc ấy đã cuối thu và trời khá lạnh.
Bên trong là chiếc sơ-mi lụa sẫm màu với một dãy cúc dài bằng xà cừ lấp lánh. Tuy cố giữ bình tĩnh, những ngón tay thon dài của ông vẫn run run khi lần mở chiếc cúc thứ nhất sát cổ rồi chiếc thứ hai, thứ ba, để lộ dần làn da rất trắng và mịn. Các động tác của ông thong thả, dịu dàng như khi người ta nhâm nhi tách trà ngon, dù bản năng đàn ông đang rạo rực thôi thúc.
Bỗng một ý nghĩ ngồ ngộ xuất hiện trong đầu. Ông có cảm giác việc ông đang cởi quần áo người đàn bà này cũng giống như khi thận trọng mở hộp đàn vi-ô-lông. Đầu tiên là kéo khóa lớp vải cứng bọc ngoài, rồi mở chiếc hộp gỗ bên trong lót nỉ, cuối cùng bỏ tấm nhung mềm phủ kín chiếc đàn. Về hình dáng, không loại nhạc cụ nào đẹp bằng đàn vi-ô-lông, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ luôn được bọc dưới nhiều lớp vải.
Phải mất mấy phút ông mới đưa được chiếc đàn - người ra khỏi hộp quần áo của mình. Ông chợt sững sờ trước vẻ đẹp cơ thể trần truồng của người đàn bà, một cô gái trẻ, còn rất trẻ. Về cơ bản, nó có nhiều đường cong giống chiếc đàn, và chỉ vẻ đẹp của nó mới sánh được.
Mấy phút trước đó, cô gái trẻ ấy nói với ông:
“Sớm hoặc muộn con cũng thành đàn bà. Con muốn điều ấy xẩy ra với thầy.”
Rồi cô lặng lẽ lên giường nằm chờ, nhắm mắt để khỏi phải thấy ông  phản ứng thế nào. Có lẽ cả vì xấu hổ.
Ông đứng lặng, ngắm cô rất lâu. Cô gái vẫn nằm bất động. Hình như  đã thiếp đi. Có thể ngủ được trong những trường hợp thế này ư?
Cô đã hai mươi hai tuổi nhưng dường như cơ thể chưa phát triển hoàn toàn. Cặp vú nhỏ và nhọn, núm hồng hồng. Túm lông dưới bụng thưa, ngắn và mềm. Người cô nhỏ nhưng không gầy, có thể nói mũm mĩm, sự mũm mĩm của một đứa trẻ hơn một cô gái trưởng thành. Cả kiểu nằm ngoẹo đầu một bên, môi chúm lại phụng phịu cũng giống một đứa trẻ. Ông cúi xuống, giơ tay định chạm vào cái cơ thể trẻ con ấy nhưng bỗng bàn tay ông chững lại, treo lơ lửng trên người cô. Bàn tay xương xương, lốm đốm những nốt đồi mồi trở nên đen xạm, xấu xí trên nền trắng mịn của da thịt cô gái.
Ông là một giáo sư dạy vi-ô-lông. Cô gái là học trò yêu của ông hơn mười năm qua, từ sơ cấp cho đến hết đại học. Ngày mai cô đi Pari học cao học, có thể quay về mà cũng có thể không, cô bảo thế. Và hôm nay cô đến từ biệt ông.
Cô luôn là một học trò giỏi, thông minh, xinh đẹp và cũng rất cá tính. Con gái của người quen, một trí thức nổi tiếng. Ông đặc biệt cảm tình với cô, coi như con và đoán cô cũng nghĩ thế về ông. Khi còn nhỏ, đi đâu ông cũng đưa cô theo, có khi cả mấy ngày. Năm ngoái ông đi nghỉ Đồ Sơn một mình, cô cũng đòi theo. Ông thấy bất tiện nên từ chối, cô khóc xin, ông phải báo với bố mẹ cô và họ nhờ ông cho đi. Tất nhiên ông thuê phòng riêng và hai người đối xử với nhau như bố con.
Từ bé cô luôn gọi thầy xưng con. Ông cũng thế. Một mức thân mật hơn so với quan hệ thầy trò bình thường. Tuy nhiên khi trở thành cô gái, mối quan hệ trong sáng ấy bắt đầu có ít thay đổi, những thay đổi rất tinh tế và từ phía cô chứ không phải ông.
Cô trở nên hay rụt rè e thẹn. Đôi khi ông chợt bắt gặp cô nhìn ông với cái nhìn khác hẳn. Mãi sau này mới đoán hiểu cô yêu ông. Ông chỉ mỉm cười, tuy lúc đầu thoáng chút bối rối. Ông là người có tài, đáng kính về mọi mặt, tế nhị và hay mặc cảm. Sự tế nhị, mặc cảm ấy không cho phép ông vượt qua mức chênh lệch bốn mươi tuổi giữa hai người. Nhưng dường như cô thì không. Cô ngưỡng mộ, yêu ông một cách bồng bột, bất chấp tất cả, tất nhiên không bộc lộ ra ngoài. Chỉ do tinh tế ông mới nhận ra điều ấy. Nhận ra mà vờ như không nhận ra để khỏi làm cô bối rối và cũng để tự kiềm chế mình.
Hôm nay thì tự cô nói thẳng, lại còn nảy ra cái ý định xin được ông cho thành đàn bà. Cô đang nằm kia, hoàn toàn trần truồng, sau khi được ông cởi bỏ hết quần áo như cởi nhiều lần vải bọc chiếc đàn vi-ô-lông.
Ông bị bất ngờ trước lời đề nghị khác thường ấy. Tuy có tuổi nhưng còn là người đàn ông khỏe mạnh, sau chút ít do dự, ông đã buông mình cho tình cảm lôi cuốn. Vả lại ông nghĩ nếu làm khác, có thể cô sẽ thấy bị xúc phạm và đau khổ. Tất nhiên giữa hai người không thể có cái tình yêu theo nghĩa thông thường, nhưng lẽ nào ông không thể vượt qua mặc cảm để chiều cô và cũng là chiều mình một lần, chỉ một lần duy nhất trước khi hai người chia tay, có thể chia tay mãi mãi?
Đúng thế, trên nền da trắng của cô gái, bàn tay ông, vốn thon dài và đẹp như ở những nghệ sĩ vi-ô-lông khác, bỗng trở nên xấu xí, đen đủi. Như tay phù thủy, ông nghĩ và thầm ngạc nhiên với phát hiện mới của mình. Tuổi già. Chính tuổi già đã tạo nên sự tương phản ấy. Giá ông trẻ hơn hai, ba mươi tuổi thì chẳng sao. Lúc ấy chắc mọi việc sẽ diễn ra một cách tự nhiên, ông khỏi bị mặc cảm, bàn tay ông khỏi bị treo lơ lửng thế này. Ông có cảm giác như nếu chạm vào, nó sẽ để lại những vết đen bẩn và làm ô uế cơ thể thanh khiết của cô.
Cuối cùng, bàn tay ấy chỉ dám khẽ chạm mái tóc cô, âu yếm ve vuốt, nhất là phía sau gáy. Cô gái dường như đã thiếp đi thật. Cũng có thể còn thức nhưng cố tình nằm yên, mắt vẫn nhắm, hơi thở đều đều.
Ông cúi xuống định hôn cô, vẫn chưa quyết định sẽ hôn vào đâu - mắt, trán hay môi. Trước đây ông nhiều lần hôn lên trán và mắt cô, nhưng môi thì chưa lần nào. Cũng từng chạm vào người, cố tình chạm, vì điều đó mang cho ông một cảm giác thích thú khó tả. Thậm chí ông có thể làm hơn nếu muốn, nhưng ông đã luôn kìm mình để không bước qua cái vạch ngăn cách vô hình do ông đặt ra. Có thể lần này sẽ khác chăng?...
Khi cúi xuống sát mặt cô gái, lần nữa bất chợt ông chựng lại. Có mùi gì như mùi sữa. Mùi sữa từ miệng những đứa trẻ còn bú mẹ! Không hoi gắt, chỉ thoang thoảng dễ chịu, nhưng đúng là cái mùi ấy. Thật kỳ cục, ông thầm nghĩ. Cô gái này đã hai mươi hai tuổi và chỉ có thể uống sữa đặc, sữa tươi, sữa cốc-tây... Hay từ vú? Không, ở đấy chỉ có mùi thơm mát của da thịt và mùi tuổi trẻ.
Vẫn mặc nguyên quần áo, ông lặng lẽ nằm xuống cạnh cô gái. Sự ham muốn thôi thúc giảm nhiều từ khi không dám chạm tay vào người cô, giờ bị cái mùi kia làm tan biến. Vì sao, ông không hiểu và đang cố hiểu.
Mấy năm trước, trong một cuộc vui với bạn bè, bị hoàn cảnh đưa đẩy, ông đã bỏ tiền mua tình yêu của một cô gái. Ngậm vú cô, ông thấy trên lưỡi có cái gì ngòn ngọt. Khi được hỏi, cô kia bảo mới sinh, cần tiền nuôi con nên phải làm nghề này. Ông mất hết hứng thú, đứng dậy mặc quần áo, cho cô kia gấp đôi số tiền đã hứa rồi bỏ về nhà với cảm giác gần như tội lỗi. Sau đấy ông không bao giờ tới những chỗ tương tự.
Ông có đứa cháu ngoại còn bé và thường thích thú ẵm nó trên tay để ngửi mùi sữa mẹ thoang thoảng từ miệng nó. Sao cũng chính một mùi trong ba trường hợp lại có cái gì đấy vừa giống lại vừa khác hẳn nhau như vậy? Vô tình, ông liên tưởng cô gái đang trần truồng nằm bên với đứa cháu mà không ít khi ông cũng bế trần truồng như thế.
Mà sao cô học trò của ông lại làm thế nhỉ? Vì tình yêu? Hiến dâng vì ngưỡng mộ, biết ơn? Hay đơn giản chỉ là cơn bột phát của tuổi trẻ? Thanh niên bây giờ hiện đại thật. Nhiều người già bây giờ cũng hiện đại không kém. Họ tự cho phép mình những điều mà đáng lẽ vì tuổi tác và địa vị, họ không được phép làm. Còn ông, ông hiện đại hay cổ hủ? Ông có được phép cư xử với cô bé nằm bên như với một người đàn bà không? Có phải là sự sa đọa đạo đức không, khi một người già như ông hăm hở chiếm đoạt một cơ thể trẻ trung, trong trắng đến thế? 
Ông quay người, dịu dàng luồn tay vào mái tóc cô, đặt môi mình lên đôi mắt đang nhắm, hết mắt này đến mắt khác. Có vị mằn mặn. Vẫn phảng phất mùi sữa...
Ông nhớ đã đọc đâu đấy cuốn sách nói ở Nhật có những nhà nghỉ dành riêng cho các ông già bất lực. Ở đấy, họ vào những căn phòng có các cô gái chờ sẵn, trần truồng và đang ngủ. Họ chỉ cần được có cảm giác suốt đêm nằm cạnh một cô gái trẻ còn trinh tiết. Cô gái được cho uống thuốc ngủ đặc biệt, không thể tỉnh dậy trước giờ đã định, nên khách không bị mặc cảm về sự bất lực của mình. Các cô giúp họ sống lại những kỷ niệm thời trẻ, vui cũng như buồn, và lần nữa chiêm nghiệm cả cuộc đời dài mình đã sống. Cách giải trí này mang lại cho họ sự thư giãn lạ lùng. Nhiều người muốn được chết với một cô gái như thế bên cạnh. Trong truyện có một ông ngẫu nhiên chết thật, nhưng chủ nhà nghỉ kịp đưa ông ta đi nơi khác, còn cô gái thì, như những cô gái khác, sáng dậy không hề biết ai đã qua đêm với mình, không biết có người đã chết bên cô.
“Người Nhật lắm trò kỳ cục thật”, ông thầm nghĩ và chợt nhớ trong cuốn truyện ấy cũng có một ông già giống ông lúc này, chưa bất lực, suốt đêm nằm bên cô gái trinh tiết trần truồng mà không dám chạm tay vào người cô, sợ làm ô uế tuổi trẻ trong trắng. Ông ta cũng ngửi thấy mùi sữa từ hơi thở cô gái. Mùi hoi hoi sữa mẹ. Tiếc là đêm ấy, để được ngủ say bên cô, ông ta uống thuốc ngủ quá liều, và trong mơ đã bóp cổ cô gái. Xác chết bị đưa đi ngay, một cô khác được đem vào thế chỗ, và sáng ngủ dậy ông ta không hề biết mình đã phạm tội giết người. Thậm chí không nhận thấy có gì khác lạ.
Ông rùng mình khi nghĩ về chi tiết kinh khủng ấy. “Đáng lẽ ông nhà văn kia không nên viết nó, cả khi có thật những chuyện như thế.”
Cuối cùng ông nhỏm dậy, và lại hôn lên mắt cô gái. Vẫn có vị mằn mặn.
“Con ngủ à?” ông hỏi.
Cô gái khẽ gật đầu.
“Con chưa bao giờ hôn người đàn ông nào, và cũng chưa được hôn?”
Gật đầu.
Ông im lặng một lúc, vẻ bối rối:
“Thầy xin lỗi. Thầy mặc quần áo cho con nhé?”
Cô gái lại gật đầu, mắt vẫn nhắm.   
Ông bắt đầu mặc quần áo cho cô, từng cái một, thong thả và thận trọng như khi mỗi lần biểu diễn xong ông cho đàn vào hộp. Cô gái vẫn nằm yên, chỉ khẽ cử động những lúc cần giúp ông. Khi cơ thể tuyệt đẹp của cô lại được bọc trong chiếc hộp quần áo, ông có cảm giác như hẫng hụt điều gì.
Cô gái đứng dậy, nhìn ông với vẻ ngơ ngác rồi bất chợt bỏ chạy ra ngoài. Hình như cô khóc.
Sáng hôm sau ông ra sân bay tiễn cô. Đến lúc phải bước vào khu vực chỉ dành riêng cho hành khách, cô bỗng ôm chầm lấy ông, nước mắt dàn dụa:
“Em yêu anh!... Chính vì vậy mà em phải ra đi và sẽ không quay về nữa...”
Ông hôn nhẹ lên trán cô, định nói “Thầy cũng yêu con”. Một câu nói lấp lửng có thể hiểu theo hai cách - tình yêu giữa đàn ông đàn bà, và tình yêu giữa bậc cao tuổi với con cháu. Nhưng ông chỉ đứng im, lần nữa đặt môi lên mái tóc cô. Thật lạ, cả mái tóc cũng phảng phất mùi sữa.
Bất chợt, ông thấy mình như già hơn thêm chục tuổi.
Hà Nội, 2003

    
CÔ GÁI BÁN HOA

Thành phố đêm trăng. Đèn sáng rực khắp nơi nhưng không át được thứ ánh sáng huyền ảo có màu vừa bàng bạc vừa xanh lơ của trăng rằm tháng Sáu cao trên đầu. Trời không mây. Gió ấm thổi nhẹ từ phía sông Hồng thật dễ chịu. Thậm chí phảng phất mùi gì đấy như mùi trăng. Đúng hơn, có lẽ đó là mùi hạnh phúc.
Ông đang cảm thấy hạnh phúc, cái hạnh phúc bình dị của một người không đòi hỏi nhiều ở đời. Chỉ mong muốn cho, nếu có cái để cho. Một người tốt, chân thành đến mức ngây thơ, do vậy nhiều khi lạc lõng và dễ bị tổn thương. Người tốt thường dễ tổn thương.
Đứng dưới vành trăng tròn vằng vặc ấy, ông thấy người lâng lâng  như bay lên được. Cảm giác này làm ông nhớ tới chuyện khoa học đã chứng minh rằng khi đứng đúng dưới trăng tròn, trọng lượng ta sẽ nhẹ hơn chút ít. Nhẹ hơn bao nhiêu? Ông không biết, nhưng quả người ông đang rất nhẹ. Ông còn nhún người, nhảy lên một cái như trẻ con.
Ông mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh, hài lòng thấy ai cũng no đủ, ăn mặc đẹp, phố xá khang trang, xe cộ bóng lộn nối đuôi nhau nườm nượp. Ông hạnh phúc với ý nghĩ rằng ông và cả dân tộc đã phải chịu vất vả, hy sinh mấy mươi năm không uổng để có được ngày hôm nay.
Khi hạnh phúc người ta dễ xúc động, dễ nẩy ra ý định làm một việc gì đấy thật lớn lao, phi thường, thật tốt cho người khác.
Nhân vật chính câu chuyện này của chúng ta đang ở tâm trạng đúng như thế khi ông nện gót giày đi dạo dọc theo một trong những đường phố đẹp nhất của Hà Nội.
Các bạn tò mò muốn biết người đó là ai? Chính là giáo sư N. xấu số tôi viết trong truyện “Say Nắng” năm ngoái. Ông giáo sư thơ ngây, “mắc bệnh tim to” và độc thân đã nghỉ hưu ấy, một hôm trời nắng đẹp quyết định dạo phố, tự cho phép mình hút thuốc ba con năm, uống rượu vang Pháp, vào hiệu “gội đầu máy lạnh”, nơi ông, vì “say nắng” để mình lọt vào vòng tay một cô gái trẻ rồi bị đưa lên đồn công an... Ông là bạn thân của tôi. Chuyện xẩy ra đúng như thế. Có điều ông không treo cổ tự tử khi bị báo nêu đích danh, mặc dù có ý định ấy, may tôi và mấy người bạn nữa kịp can ngăn. Thường vẫn thế, trong đời mọi việc không đơn giản và quyết liệt như trong truyện. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì cái kết phịa nhưng theo tôi hợp lô-gich ấy.
Vậy là giáo sư N., lần này ban đêm, dưới ánh trăng, lại lâng lâng bước đi trên đường phố thủ đô xinh đẹp. Có nói ông bị “say trăng” cũng chẳng sai nhiều lắm. Ánh trăng làm người ông mềm ra, hơi hơi mệt một cách dễ chịu. Ý tưởng về việc làm “tốt”, “vĩ đại” vẫn lởn vởn trong đầu. Tiếc rằng ông không còn trẻ, người gầy nhom, lại giữa lúc thanh bình hạnh phúc thế này, chắc có ít điều kiện giúp ông thực hiện được ý tưởng đáng khen ấy. Nên ông cứ thong thả bước đi, cho đến lúc bất chợt nhìn thấy một cô gái đứng bên góc phố, tay cầm bó hoa chìa phía trước. Người, xe đi ngang qua cô rất đông nhưng chẳng ai để ý. Cũng đúng thôi, ban đêm ai mua hoa? Mà rồi hình như hoa đã héo, chẳng đẹp tí nào. Không hiểu hoa gì, chỉ thấy trăng trắng một cục. Còn cô gái thì rõ ràng đang tuyệt vọng vì ế ẩm. Chắc cô ta buồn và cảm thấy bất hạnh... Bất hạnh? Giữa đêm trăng tuyệt đẹp thế này, ở một thành phố cũng tuyệt đẹp với bao con người hạnh phúc thế này mà bất hạnh?
Giáo sư N. như khựng lại, nhăn trán với vẻ khó hiểu rồi ông hăng hái đi lại gần cô gái. Cơ hội thực hiện việc làm “vĩ đại” đã đến.
Ông móc túi lấy hết số tiền mình có đưa cho cô (không nhiều, nhưng cũng kha khá), rồi cầm bó hoa héo lên tay. Vậy là ông đã biến được con người bất hạnh, có lẽ duy nhất của thủ đô đêm nay, thành người hạnh phúc. Ông mỉm cười, sung sướng và hồn nhiên như đứa trẻ.
“Bác... Anh không mua hoa gì nữa à?”
Ông không hiểu, đứng đờ ra hồi lâu.
“Tôi già rồi. Cô gọi bác cho tiện.” Cuối cùng ông nói. “Tôi đã mua hết hoa của cô rồi đấy thôi.”
“Em bán cả hoa kia nữa.” Cô kia ấp úng nói, phớt lờ yêu cầu thay đổi cách xưng hô.
“Hoa nào?”
Cô gái có vẻ lúng túng, chắc lần đầu gặp phải ông khách chậm hiểu thế này. Cô phải đành nói thật:
“Em là gái bán hoa... Nếu thích, anh đưa em đi đâu đó, làm gì thì làm. Chỉ cần cho em dăm chục nghìn. Ba chục cũng được.”
Giờ thì ông giáo sư già hiểu. Có cái gì nhoi nhói trong ngực. Nhìn kỹ, ông thấy cô gái còn trẻ, chắc chưa đến hai mươi, không xinh đẹp nhưng ưa nhìn và có vẻ thật thà chất phác kiểu nhà quê.
“Bác từ quê lên à?” Cô gái hỏi, chuyển sang bác, xưng em. “Em cũng từ quê lên đấy. Quê em Thái Bình. Bác ở đâu?”
“Tôi người Hà Nội, sống ở đây sáu mươi năm rồi.” 
Ông đáp, vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Nó hẵng còn là một con bé. Một con bé ngốc nghếch!
“Sao cháu không ở quê, lại lên đây làm nghề này?”
“Ôi, sao đàn ông người nào cũng hỏi em câu ấy nhỉ? Nhất là các ông già.” Cô gái nói to, giọng khó chịu và thách thức. “Hỏi ra vẻ thương lắm, rồi sau lôi con người ta tới xó xỉnh nào đó. Tại sao không được lên đây? Hà Nội của riêng các người à? Hà Nội không cần những đứa nhà quê như em à? Chỉ giỏi đạo đức giả. Thôi, không cần dài dòng. Có muốn thì ta đi. À mà lúc nãy đưa nhiều tiền rồi đấy. Đủ cho cả hai loại hoa. Không phải trả thêm nữa đâu. Dân quê bọn em cũng tự trọng, sòng phẳng như ai.”
Giờ thì giáo sư N., nhà vật lý lý thuyết đã đọc hàng núi sách về chuyên môn mình trong căn hộ “hang chuột” ở một nhà chung cư kiểu cũ  hiểu cặn kẽ các hạt vật chất và phi vật chất vô hình, đang bối rối thực sự không hiểu cô gái trẻ con trước mặt đang nói gì, vì sao có thể nói như thế, và quan trọng hơn cả là ông phải làm gì bây giờ. Hình như vụ gội đầu thư giãn ở quán Minh Hồng năm ngoái không giúp ông hiểu biết thêm nhiều về cuộc sống hiện đại. Thường vẫn thế, những người quá chân thành, cả tin chẳng bao giờ rút được bài học nào cho mình.
Ông im lặng khá lâu, cho đến lúc suýt bị cô kia đuổi đi thì bỗng nói, giọng quả quyết:
“Thế thì đi.”
“Đi đâu?”
“Về nhà tôi.”
“Không sợ sư tử Hà Đông à?”
“Tôi sống một mình.”
“Được đấy. Vậy ta đi. Nhưng nhà anh có xa không? Em không muốn đi bộ lâu, mất thời gian. Hôm nay chưa được khách nào. Anh không còn tiền thuê xe à?”
Ông nhìn cô, nghiêm giọng nói:
“Tôi nhắc lại: Đừng xưng anh em. Bác cháu dễ nghe hơn.”
“Cũng được. Nhưng bác bác cháu cháu rồi làm chuyện ấy ngượng lắm. Có người còn vừa làm vừa hỏi có sướng không con. Kinh!”
“Sẽ không có chuyện ấy.”
“Không? Vậy về nhà làm gì?”
“Rồi cháu sẽ biết. Yên tâm. Bác chỉ mong điều tốt cho cháu thôi.”
“Hay bác định đưa cháu về đồn công an? Đừng, đừng! Cháu van bác. Sợ lắm. Cháu bị bắt một lần rồi...”
“Công an nào. Vớ vẩn. Thôi, không nói nhiều nữa. Nào ta đi!”
Rồi ông cầm tay cô gái dắt đi.
Trên cao trăng vẫn sáng, thơ mộng và quyến rũ. Vẫn ngay trên đỉnh đầu, nhưng ông không còn cái cảm giác lâng lâng lúc nãy. Có thể các nhà khoa học đã sai khi kết luận về sự giảm trọng lượng do sức hút mặt trăng. Quang cảnh phố xá, người xe vẫn thế, nhưng bức tranh hạnh phúc bây giờ đã không còn trọn vẹn, vì trên nó ông phát hiện thấy một vết ố nhỏ, là cô bé này. Không hiểu sao ông thấy như mình có lỗi đã để nó xuất hiện. Đột ngột và nhanh chóng, ông phác qua trong đầu một kế hoạch xóa sạch vết ố ấy. Làm được, đó mới chính là việc “tốt, vĩ đại” ông vẫn mong ước.
                                                  *
Bà hàng xóm to béo và tốt bụng rất ngạc nhiên khi bị giáo sư N. gõ cửa vào đêm khuya - lúc ấy mười rưỡi và bà đã đi ngủ. Bà sống một mình với đứa cháu gái được gửi từ quê ra nhờ nuôi hộ. Hơn thế, ông còn xin bà cho một cô gái không quen biết ngủ tạm, ít nhất cũng mấy tối.
“Người bà con bác à?”
“Không. Chỉ một cô gái bán hoa tôi gặp ngoài phố.”
Là người từng trải, bà hiểu đúng nghĩa của từ này.
“Trời! Lại còn dẫn về nhà? Nếu quả bác cần thì sao không đưa về phòng mình?”
“Bà hiểu sai rồi, tôi chỉ đơn giản muốn giúp cô ấy đổi nghề.”
“Giúp cách nào?”
“Tạm thời chưa rõ lắm, nhưng phải giúp và chắc giúp được. Nhà tôi rộng nhưng cho ở đấy không tiện. Vậy mới nhờ đến bà. Có thể cô ấy đói, bà có gì cho ăn hộ. Mai tôi nói hết mọi chuyện.”
Vậy là tối hôm ấy cô gái bán hoa ngủ lại nhà bà hàng xóm. Bà này thương người, lại quí ông giáo sư nên đã nhận lời. Bà không chỉ cho cô ăn mà còn bắt tắm rửa thật kỹ. “Khi nào mòn hết nửa bánh xà phòng này mới thôi,” bà dặn thế. Còn cô gái thì dọc đường đi trước đó đã được nghe nói về kế hoạch của ông nên cũng yên tâm. Cô cũng kể nhiều về mình và được ông tin một cách tuyệt đối như tất cả những người tốt bụng có lòng trắc ẩn khác. Dẫu có bị lừa nhiều lần, họ vẫn không bao giờ thay đổi được sự cả tin ấy.
Sau đó ông gọi điện cho tôi, bảo phải đến ngay có chuyện quan trọng. Hiểu tính bạn, tôi đồng ý mà không căn vặn điều gì, dù đã mười một giờ đêm.
“Tôi có lòng, ông có tiền. Vậy ta thử giúp con bé!” Ông nói sau khi kể tôi nghe vắn tắt sự việc.
“Tôi cũng có lòng,” tôi đáp, hơi chút tự ái. “Ông mãi vẫn không chừa được cái tính bốc đồng. Không khéo lại chuốc vạ vào thân.”
“Thì đã sao? Suy cho cùng, những gì tôi làm mấy mươi năm qua trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, cũng như cả trăm truyện ngắn nhân đạo, dạy đời của ông, không bằng cứu được một con người cụ thể như cô gái này...”
“Có thể như vậy, nhưng Lỗ Tấn bỏ nghề y chuyển sang viết văn với ý nghĩ cùng một lúc giúp được nhiều người hơn.”
“Ông không ví mình với văn hào Lỗ Tấn đấy chứ?” Giáo sư N. nhìn tôi châm chọc. “Tôi đùa thôi. Công bằng mà nói, truyện ông không đến nỗi, ít ra đọc xong người ta thấy yêu đời và còn muốn sống. Chứ như nhiều vị bây giờ viết gì mà khiếp - độc ác, tục tĩu, toàn một màu đen xịt. Tuy nhiên cái tốt, cái thương người của ông vẫn chỉ trên trang giấy, còn đây là một cô gái tội nghiệp, bằng xương bằng thịt và đang chờ ta kéo ra khỏi vũng bùn...”
“Nếu cô ta không muốn được kéo ra thì sao?”
“Không thể có chuyện ấy. Không ai muốn sống trong bùn nhớp nhúa” 
“Nếu cô ta lừa ông, hoặc sau bao nhiêu vất vả, đâu lại vào đấy?”
“Thì coi như tôi tính sai một con số, ông viết một câu văn sai ngữ pháp. Đời còn dài mà. Vả lại, có sai mới có đúng.”
Tôi thấy đuối lý trước những lập luận giản dị ấy.
Hai ngày sau, với tiền của tôi (ông bảo mượn, sau con gửi về sẽ trả), sự năng nổ đáng khâm phục của ông và cả sự giúp đỡ của bà hàng xóm, cô gái bán hoa được ở trong căn phòng mười lăm mét vuông tầng bốn một ngôi nhà chung cư với giá thuê ba trăm năm mươi nghìn đồng một tháng, trả trước ba tháng. Ông bỏ tiền sắm cho cô những vật dụng cần thiết cùng năm mươi cân gạo, hai chai nước mắm và một nồi cá kho lớn. Những thứ này do bà hàng xóm gợi ý và lo liệu. Để tự nuôi sống mình, ông thuê cho cô một góc cửa hàng (chỉ cách nơi ông gặp cô lần đầu mấy chục mét) thêm một triệu đồng làm vốn để cô mua hoa về bán. Tôi hỏi sao nhất thiết bán hoa chứ không cái gì khác, ông nói để cô vẫn là cô gái bán hoa như ông nghĩ lúc đầu. Bán hoa làm đẹp cho đời chứ không ngược lại. Một ý tưởng độc đáo và đáng yêu.
Mọi việc có vẻ suôn sẻ. Ông hớn hở ra mặt. Tôi cũng vui lây với ông, một lần còn đi theo đến cửa hàng hoa và căn phòng mới thuê. Cô gái có vẻ chí thú và cũng ngoan. Tuy nhiên, độ một tháng sau bỗng một thằng lẻo khẻo mặt đầy mụn và hay ngáp vặt tìm đến nhà giáo sư N. làm ầm lên, như thể ông “cướp vợ” hắn. Bà hàng xóm phải nhờ anh bảo vệ tống hắn ra ngoài, nhưng cũng khối người trong chung cư nghi ông làm điều bất chính. Sau đó vài tuần thì ông chủ nhà đem tiền đến trả không cho thuê nữa, với lý do nhà ông bị biến thành nhà chứa, và rằng cô gái bán hoa vẫn đêm đêm ra đứng đường “bán hoa” ở chỗ cũ, bắt được khách lại dắt về phòng mình.
Giáo sư N. nhất quyết không tin, đang đêm bắt tôi cùng tới đó để xem thực hư thế nào. Nể bạn, tôi phải đi theo. Cô gái tối ấy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa bước vào thì hai anh công an khu vực đột ngột xuất hiện (chắc rình sẵn từ trước đâu đó). Một anh nghiêm mặt nói: “Đáng lẽ các cụ nên làm gương cho con cháu, đằng này...” May ông chủ nhà kịp đến thanh minh hộ.
Hôm sau thì cô gái bán hoa biến mất, tất nhiên đem theo tất cả những gì có thể đem theo được.
                                                  *
Nhiều bạn đọc cứ hỏi những gì tôi viết có đúng thật sự xẩy ra như thế không. Câu hỏi thật khó. Vừa đúng lại vừa không. “Văn nói láo, báo nói phét,” người đời hay nói thế. Viết văn là hư cấu, tất nhiên, nhưng không phải hoàn toàn. Muốn hay không, vẫn phải có một liều lượng sự thật nhất rồi từ đấy thêm thắt, khái quát thành câu chuyện còn thật hơn cả ngoài đời có thật. Không thì ai chẳng viết được văn, nếu đã học ngữ pháp và ít nhiều biết cách kể chuyện. Cứ tin tôi đi, nếu ai đó viết giả dối hoặc phịa hoàn toàn, sớm muộn người ta cũng phát hiện ra. Không một kỹ thuật nghề nghiệp nào che giấu được điều ấy. Ở những nét cơ bản, câu chuyện tôi kể trên đây là có thật, xẩy ra với ông bạn già của tôi là giáo sư N., và trong chừng mực nào đó, cả với tôi nữa. Vốn lạc quan và luôn tin vào sự tốt đẹp ở đời, tôi thích và thường viết những câu chuyện có hậu.
Thực tế cuộc sống còn có những người như cô gái bán hoa kia. Tôi nghĩ ít thôi nhưng vẫn có. Hay đúng hơn, tôi mong muốn nó ít. Vì vậy tôi đang vắt óc tìm một phần kết đẹp hơn cho truyện ngắn này. Tạm thời chưa tìm ra. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ai đó trong bạn đọc gợi ý hộ. Cả bà vợ được tôi hỏi ý kiến cũng lắc đầu (Tôi có thói quen chuyện gì cũng hỏi vợ, cả chuyện viết lách). Bà ấy chỉ phán một câu, với cái giọng châm biếm không ác ý hàng ngày: “Rõ mấy ông già lẩm cẩm!”
Tôi không hỏi giáo sư N., thậm chí giấu không cho biết tôi viết truyện này. Ông vừa ở nhà tôi về xong. Như cú “say nắng” năm ngoái, lần “say trăng’ này cũng làm ông buồn. Vấn đề chẳng ở tiền bạc và công sức. Ông buồn vì cô kia bỏ đi không một lời nhắn lại. Ông bảo tôi chắc cô làm thế vì hoàn cảnh bắt buộc, và rằng nếu nói ra, có thể ông sẽ giúp được. Tính ông dễ buồn, nhưng buồn không lâu, và rồi cuối cùng bao giờ cái bản chất tin người, thương người cũng trội lên lấn át tất cả. Tôi dám chắc nay mai ông sẽ lại bị “say” lần nữa, và lần nữa ông lại hăm hở lao vào một việc nào đó “tốt và vĩ đại” để giúp người khác. Thì ông đã nói, nếu bị lừa, đó đơn giản cũng chỉ là phép tính ông tính sai. Sai thì tính lại. Cuộc đời là cả triệu phép tính, tính sai một phép cũng chẳng hề gì.
Còn tôi? Tôi cũng thừa giấy mực và nghị lực. Trót viết sai một câu thì viết lại. No problem, như người Anh thường nói. Hơn thế, bây giờ tôi sáng tác trên máy vi tính, tha hồ tẩy xóa, tha hồ viết, cho đến khi tìm được cái cần tìm mới thôi. Dẫu không được như Lỗ Tấn, tôi cũng mong bạn đọc không vì một cô bán hoa tráo trở nào đó mà buồn. Đời vẫn đẹp. Suy cho cùng, theo cách nói của giáo sư N., cô ta cũng chỉ là con số sai trong cả triệu con số đúng của cuộc đời. Trong nghề của tôi, một câu văn chưa chuẩn không thể làm hỏng một truyện ngắn hay. Miễn là cả giáo sư N., tôi, và tất cả chúng ta còn “có lòng” với đời.
Hà Nội, 29. 5. 2003


NGÀY ĐẸP TRỜI

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mặt trời đầu xuân ấm áp vừa nhô lên khỏi hàng cây trước nhà. Ông lão mù và con chó ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Ông lão đã gần tám mươi. Con chó nằm cạnh sắp bước sang tuổi mười lăm. Nghĩa là qui ra tuổi người, nó cũng già như chủ, đến mức đi đứng không vững, nhìn không rõ, có thể nói gần như mù. Nó là con chó ta lai bẹc-giê, to cao, màu vàng nhạt, ở cái tuổi đáng kính ấy vẫn giữ được dáng vẻ của thời hoàng kim cách đây cả chục năm. Chỉ gầy đi đôi chút. Tất nhiên chậm chạp hơn và hiền chứ không hung dữ như xưa. Suốt ngày nó ở ngoài sân, thích thú tận hưởng cái ấm của mặt trời, lười biếng nằm bẹp xuống nền xi măng, có khi duỗi cả tứ chi ở cái thế chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Từ lâu nó đã thôi không thèm sủa. Họa hoằn lắm, có kẻ gian, nếu đôi mắt mờ nhìn thấy, nó chỉ  gầm gừ hăm dọa. Hăm dọa thôi chứ chẳng gì hơn. Qua rồi cái thời nó phải làm cái công việc trông coi nhà cửa như lũ con cháu. Con cháu nó chắc cũng nhiều, dù bây giờ không biết ở đâu. Như ông chủ, nó xứng đáng được hưởng những ngày còn lại của cuộc đời trong thanh thản và hạnh phúc. Dường như nó đang hạnh phúc, cái hạnh phúc đơn sơ theo kiểu chó...
Còn ông lão? Thì ông cũng hạnh phúc. Cũng theo cách của riêng ông, tất nhiên. Ông vốn nông dân, suốt đời chân lấm tay bùn, đến năm bảy mươi tuổi bị mù vì bệnh thiên đầu thống, được con trai đưa ra thành phố, cơm bê nước rót, đi đâu có con chó này dắt, bây giờ nó mù thì nhu cầu đi lại của ông cũng chẳng còn. Cách đây mấy năm, do vợ khó dễ, anh con mua cho ông ngôi nhà nhỏ này ở ngoại thành, thuê bà hàng xóm lo cơm nước, giặt dũ, còn mình thì mỗi tháng một lần đến thăm, trừ những tháng quên. Thế thì hỏi ông còn cần gì thêm? Đúng là chẳng cần gì. Ông vốn dễ tính. Tuy nhiên, nếu có được sự ấm áp gia đình thay cho ánh nắng vốn không phải ngày nào cũng có, và tiếng líu lo của những đứa cháu bụ bẫm chứ không phải tiếng gầm gừ của con chó, thì vẫn hơn.
Vậy là cả hai, con người và con chó, đang hài lòng và cùng sưởi nắng bên nhau, không bị ai quấy rầy. Lại vào một ngày nắng đẹp. Nhà bên, cách mảnh vườn nhỏ trồng mấy cây khế còn thấp nhưng um tùm lá, là ông hàng xóm đang lúi húi chữa xe máy. Ông ta, một người tóc húi cua, da đen, thấp mập, khoảng năm mươi, nghe nói về hưu non, không hiểu do giảm biên chế hay bị kỷ luật, hình như cũng vui vì luôn miệng huýt sáo, cả những lúc bất ngờ dấn ga rồ máy nghe đến sợ.
- Cái giống chó nhà mày ấy mà, Vện ạ, đúng là chẳng có chút tình nghĩa nào. - Ông lão lên tiếng, đập đập tay lên đầu con chó, sợ nó ngủ quên không nghe. Ông luôn gọi nó là Vện mặc dù hồi còn ở chung, vợ chồng con  ông đặt cho cái tên tây là Micky. - Nghĩ mà xem, mày con đàn cháu đống như thế mà đến lúc già lại chẳng có đứa nào bên cạnh. May còn được tao thương cho ăn, không thì chết, chết đói thật đấy.
Con Vện khẽ gừ một tiếng rồi đưa chiếc lưỡi màu đỏ nhạt liếm tay chủ.
- Còn tao thì mày biết, tao đã kể bao nhiêu lần rồi. Tao chỉ có hai đứa con trai. Một nuôi mẹ, một nuôi bố. Mày không thấy thằng Khánh ăn ở với tao có hiếu à? Mấy năm trước, khi còn ở chung, tao được nó cho ở riêng một mình một tầng nhé. Tầng bốn, tầng cao nhất, mày hiểu chưa? Nó chẳng bắt làm gì, chẳng bao giờ quấy rầy. Chỉ đến giờ ăn thì gọi xuống. Hôm nào có khách còn bê lên cho ăn một mình. Nó dặn mấy đứa con gặp ông phải chào. Chỉ tội chúng hay quên. Con nít mà. Lại còn nhắc vợ phải ăn nói nhẹ nhàng với tao nữa. Mày thấy tao sướng chưa? Ở quê ấy mà, khối người về già bị con bỏ rơi đấy. Tao thì không. Tiếc là hai thằng con không thỏa thuận được với nhau để tao và bà lão nhà tao sống chung một thời gian. Mấy ngày thôi cũng được. Bà lão nhà tao ấy mà, ngu thì ngu thật, nhưng hiền lành và biết điều. Chỉ tội mau nước mắt. Nói mày đừng cười, bà ấy bảo nhớ tao đấy. Cứ như còn trẻ. Cứ như người thành phố không bằng. Tao thì tao chẳng nhớ, nhưng thương. Tội nghiệp bà ấy, chừng ấy tuổi mà còn phải thui thủi một mình. Chả là thằng kia không chịu cho lên thành phố vì chê hay nhổ nước trầu bậy bạ. Mụ nhà quê nào chả mắc cái thói xấu ấy. Nó chỉ gửi tiền về. Nghe nói cũng khá. Nhưng bà ấy ngu lắm cơ, ăn uống chẳng dám, được đồng nào cứ tích góp cho vào cạp quần, khi thành món kha khá thì vợ chồng nó về hỏi vay. Tức là lại cho chúng. Thế mà đã năm năm nay vợ chồng tao chưa gặp nhau đấy. Chả đứa nào chịu đưa đi. Chúng bận làm ăn. Đúng thôi. Già chết đến nơi rồi còn gặp gỡ làm gì. Nhưng kể thỉnh thoảng được thấy nhau, nói với nhau đôi lời cũng hay. Mày nghĩ sao, Vện? Giống người khác giống chó ở chỗ sống có đôi. Chứ như chúng mày thì chỉ bầy đàn, để đến lúc già trơ khấc một mình. Khổ chưa? May mà mày còn có tao. Rồi chết chắc chỉ mình tao đi chôn mày. Ấy là nói nếu mày chết trước. Còn nếu tao chết trước, mày có theo người ta ra mộ tao không? Công bằng mà nói, mày là con chó tốt, và có mày tao cũng đỡ buồn hơn nhiều... Ờ mà sao mày chẳng nói gì cả? Vện, Vện, mày đâu rồi?
Con chó già không đáp vì nó đang bận. Ông lão đưa tay quờ quạng tìm  nó.
- Đi ị hả? Nhớ ra tận góc vườn đấy nhá!
Không, lúc ấy con Vện đứng cạnh chủ, chỉ ngoài tầm với một tí. Nó đang chăm chú nhìn miếng mồi trước mặt. Đó là một miếng thịt khá to, nướng sém, dù đã nguội nhưng cái mũi thính của nó vẫn ngửi thấy mùi thơm. Vốn khôn ngoan, lại dày dạn kinh nghiệm của một con chó già, nó cảm thấy có gì đấy bất thường trong miếng mồi này. Nó đang lưỡng lự. Tuy nhiên sự hấp dẫn của miếng thịt, lại khi đang đói, cuối cùng đã thắng. Nó cúi xuống, thè lưỡi liếm liếm, dè dặt liếc nhìn ông lão rồi ngoạm vào miệng, nuốt chửng. Giống chó có thói xấu là ăn không nhai, chỉ nuốt.
Bỗng con Vện khựng lại. Có cái gì đấy vương vướng trong miệng. Một sợi dây. Sợi dây cước màu trắng mãi đến lúc này nó mới thấy. Không phải một đoạn mà cả sợi dài. Đúng lúc nó định tìm cách nhả ra thì sợi dây bị kéo căng, và nó thấy đau buốt trong cuống họng. Đau lắm. Như có cái gì sắc nhọn móc bên trong. Nó há to mồm, cố khạc ra. Không được. Sợi dây bị kéo căng, làm nó càng đau hơn. Vì đau, vì miếng thịt mắc ngay ở cuống họng, nó không sủa được, chỉ rên ư ử và đi theo hướng sợi dây đang kéo, không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tiếng ư ử của chó, cho dù vì vui hay buồn, đều giống nhau.
- Mày làm sao thế, Vện? - ông lão mù hỏi. - Sướng quá hóa rồ lại hát à? Nhưng mày hát gì mà nghe như khóc ấy. Không sao, thích thì cứ hát. Đời đẹp mà. Hôm nay ngày cũng đẹp. Gớm, tháng trước rét thế. May đêm ngủ  có mày, chứ không tao cũng chết rét... Mà thôi, đừng rên thế nữa. Lại đây, lại đây ngồi với tao nào. Vện! Vện!.. Mày đâu rồi?
Lúc này con chó già đã bị kéo ra tới đường làng. Ở đó, khuất sau bụi dâm bụt là một thằng đàn ông còn trẻ đội mũ cối, mặc quần áo màu rêu bộ đội, chân đi dép nhựa, mặt quắt và đầy trứng cá. Hắn nhanh nhẹn túm lấy cổ con Vện, úp vào mõm nó chiếc rọ đã chuẩn bị sẵn, trói cả bốn chân lại rồi vứt vào chiếc giỏ sắt lớn sau yên chiếc xe đạp dựng cạnh.
Bình thường, dẫu già con Vện vẫn có thể quật ngã hai tên như hắn, nhưng lúc này nó đang đau, không sủa, không cắn được, dẫy đạp mạnh cũng không. Thằng kia biết nên hắn mới có thể làm mọi việc bình tĩnh và trót lọt như vậy. Chưa nói đến kinh nghiệm, mà kinh nghiêm trong việc này thì hắn có thừa, vì hắn là một thằng câu chó chuyên nghiệp. Vâng, câu chứ không phải bắt trộm. Như người ta câu cá. Nhử cho chó ăn mồi, chờ chiếc lưỡi câu lớn ba cạnh móc vào họng rồi kéo dây. Sợi dây cũng bằng cước, mảnh thôi, chỉ nhỉnh hơn dây câu cá một chút, nhưng thử hỏi khi đã mắc mồi thì có con chó nào, dù to khỏe đến đâu, còn dám chống cự mà sợ đứt?
- Vện ơi, Vện! Mày đâu rồi? Có chuyện gì xẩy ra thế? - Ông lão lại gọi, lần này to hơn và đầy lo lắng. - Vện! Vện! Mày đi đâu đấy?
- Đi Nhật Tân rồi. - ông hàng xóm ngừng sửa xe, nói vọng sang.
- Nhật Tân là gì? Đi Nhật Tân là đi đâu?
- Là tới các quán thịt chó ở trên ấy chứ đi đâu nữa. Cụ lạc hậu quá.
- Nhưng sao con Vện lại đến đấy và đến thế nào được? - ông lão vẫn chưa hiểu.
- Không phải nó tự đến, mà bị bọn trộm bắt...
- Bắt trộm? Con Vện này mà chịu để người khác bắt trộm?
Ông hàng xóm kể rõ thủ đoạn của bọn câu chó. Ông lão nghe xong chỉ khẽ kêu một tiếng “trời” rồi ngồi im. Mãi lúc sau ông mới lên tiếng, giọng run run;
- Sao bác biết, không ra giữ nó lại?
Ông kia suy nghĩ một chốc, đáp:
- Tôi bận chữa xe.
Rồi vô cớ, cho rú máy inh ỏi.
                                                    * 
Trên đời có những người làm điều ác, những điều ác kinh khủng mà chính họ nhận thức rất lờ mờ, thậm chí không coi là điều ác. Do vậy sự khinh khủng càng tăng thêm gấp bội. Thằng câu chó này là một thí dụ. Hắn vốn xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường. Nhà nghèo, chỉ học hết lớp ba. Hắn chẳng có thói xấu nào. Không rượu chè, cờ bạc. Gây gỗ cũng không, và chưa từng một lần có vấn đề với pháp luật. Hắn chăm chỉ làm ruộng nuôi vợ con, không mẫu mực nhưng cũng chẳng đáng trách. Quan hệ với bố mẹ, xóm giềng cũng bình thường. Tóm lại, hắn là người không đến nỗi nào, trừ việc lúc rỗi đạp xe đi khắp vùng ăn trộm chó để bán cho các cửa hàng ở Nhật Tân.
Hắn có biết việc này là xấu không? Có lẽ có. Đã ăn trộm là xấu rồi. Nhưng hắn không nghĩ đó là tội ác. Trộm vặt thôi mà. Nhất là trộm chó, cái giống gây bệnh dại mà cách đây không lâu ở quê hắn còn bị cấm nuôi, dân quân thi nhau đi từng nhà đánh chết bằng hết. Hắn chỉ có thể nghĩ đến thế, nên cứ tiếp tục “hành nghề”, hết con này đến con khác, hết năm này đến năm khác. Còn về sự man rợ của việc hắn ăn trộm chó bằng cách móc lưỡi câu ba mũi vào họng chúng mà kéo thì quả chưa một lần hắn nghĩ tới. Đầu óc ngu dốt, tăm tối và thơ ngây một cách đáng sợ của hắn đơn giản không cho rằng đó là điều man rợ. Hệt những kẻ ăn thịt người ở các bộ tộc mông muội ngày xưa không chút lương tâm cắn rứt khi xơi thịt đồng loại.
Câu chó và câu cá thì có khác gì nhau? - Có thể hắn nghĩ vậy. Nhưng con cá bị câu, thả xuống nước có thể sống. Còn con chó thì không thể gỡ lưỡi câu ra được, trừ phi sau khi thui bị mố họng. Đấy là chưa nói tới việc không thể ví chó với cá. Gần đây báo đưa tin ở Thụy Điển có anh hàng cá bị phạt tiền vì tội bán cá còn sống, tức là tội hành hạ loài vật. Ở các nước phương tây ăn thịt chó là vi phạm luật bảo vệ động vật. Còn đây, hắn thản nhiên hàng ngày móc lưỡi câu vào họng những con chó tội nghiệp rồi kéo đi. Chưa có luật nào trừng trị hắn tội ấy. Mọi người xung quanh dường như cũng không lên án hắn. Vợ con hắn thản nhiên sống bằng đồng tiền moi họng chó ấy. Dân làng thản nhiên nhìn hắn “đi làm”. Các chủ quán Nhật Tân thản nhiên mặc cả giá những con chó với lưỡi câu ba ngạnh trong họng như mọi món hàng bình thường. Thực khách thản nhiên ăn chúng một cách ngon lành. Ông hàng xóm thản nhiên nhìn hắn bắt con Vện với lý do “bận chữa xe máy”. Anh con trai ông lão mù thản nhiên nói: “Mất con này thì mua con khác, thiếu gì mà bố phải khổ sở đến thế.” Còn chú công an khu vực trẻ măng khi được thông báo vụ việc còn có ý ngạc nhiên sao người ta có thể làm phiền nhà chức trách bằng những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Chuyện một con chó bị câu trộm.                                                 
*
Bạn đọc thân mến, nhưng tôi thì không sao thản nhiên nổi khi viết câu chuyện này. Hy vọng các bạn cũng không thản nhiên đọc nó. Một câu chuyện có thật, vừa xẩy ra ở cái huyện ngoại thành, là nơi, theo cách riêng của mình, vợ chồng tôi đang sống thanh thản và hạnh phúc như ông lão mù cùng con chó gần mù của ông. Hôm ấy đúng là ngày đẹp trời, nhưng với tôi lại là một trong những ngày u ám nhất.
Cho đến tận lúc này tôi vẫn có cảm giác như cổ họng mình đang vướng lưỡi câu ba ngạnh kia. Một sự công phẫn thôi thúc muốn thét to mà không biết thét vào ai, thét rằng trên đời vẫn tồn tại một sự dã man đến thế và người ta vẫn có thể thản nhiên với nó đến thế. Cái ác đang tồn tại khắp nơi dưới nhiều dạng, cả những dạng nhỏ nhặt và “hồn nhiên” nhất. Chúng ta, kể cả tôi, chúng ta vin đủ cớ để không nhìn thẳng vào chúng, và quan trọng hơn cả là không làm gì để chống lại chúng. Bản thân thái độ thụ động này cũng là một cái ác. Sự ngu dốt không nhận ra cái ác cũng là cái ác. Tôi không bao giờ trộm chó, cả ăn thịt chúng cũng không, vì hàng ngày tôi vuốt ve chúng, mỗi lần đi làm về chúng vẫy đuôi mừng tôi. Nhưng không vì thế mà tôi thấy mình không phần nào có lỗi trong việc con Vện bị giết một cách dã man và ông lão mù bị tước đi người bạn thân thiết duy nhất...
Vậy là tôi đã làm hỏng truyện ngắn này của tôi, bằng cách vô tình biến nó thành một bài tùy bút với những lời ủy mị không hợp mốt. Là nhà văn, lại đang trong cơn hứng “truyện ma”, tôi có thể hư cấu những chi tiết ly kỳ làm phần kết cho nó. Nhưng đây là chuyện có thật về một vấn đề nghiêm túc và khẩn thiết, tôi không thể cho phép mình được viết gì khác ngoài sự thật trần trụi và những ý nghĩ thật trong đầu tôi. Khi đọc truyện này, mong các bạn hiểu theo hướng đó.
PS.
Ông lão mù mới chết tuần trước. Tôi hỏi ông con thì được báo là cụ bỗng nhiên cảm thấy khó thở, không nói, không ăn mấy ngày rồi chết. Cũng đúng vào hôm đẹp trời. Vợ chồng tôi và cả ông hàng xóm “bận chữa xe” tiễn cụ tới tận nghĩa trang.
Chỉ tiếc không có con Vện.
Hà Nội, 8. 10. 2002
                                                 
 
ANH DŨNG CẢM VÀ ANH HÈN

Ông Sêkhốp có một truyện, ngắn thôi nhưng khá độc đáo, là "Anh Béo và anh Gầy". Câu chuyện đang viết đây, vốn bị hoãn nhiều lần chỉ vì không tìm được một cái tên vừa ý, vậy tôi xin bắt chước ông, tạm gọi là "Anh Dũng Cảm và anh Hèn".
Xin được bắt đầu bằng Dũng Cảm.
Ở huyện ngoại thành Hà Nội nọ có một người nổi tiếng dũng cảm, không phải chuyện chiến trường hoặc săn bắt cướp, dù cả hai việc này anh từng trải qua và chắc không là thằng hèn. Dũng cảm ở đây với nghĩa đấu tranh chống những điều chướng tai gai mắt, cái bây giờ được gọi là "hiện tượng tiêu cực", và rất tiếc đang đầy rẫy khắp nơi, đến mức nhiều người khác cũng dũng cảm như anh đâm nản mà thôi. Nhưng anh thì không, cương quyết không. Anh đã ba mươi lăm tuổi, to con, khỏe mạnh, từng là lính đặc công nên nghe đồn giỏi võ lắm. Tiếc là trong cuộc chiến này anh không được phép phát huy sở trường đó.
Hóa ra ở đời làm người tử tế và dũng cảm thật khó. Cái giá phải trả cho sự dũng cảm ấy cũng không nhỏ. Từ chiến trường trở về với đủ loại huân huy chương, giấy khen và bằng dũng sĩ, anh được người ta hồ hởi chào đón rồi bố trí một chân trong chính quyền địa phương, phù hợp với công trạng. Nhưng rồi dần dần, cũng chính "người ta" ấy đã khéo léo gạt anh ra ngoài, trù dập anh một cách tinh tế, khiến anh biết đấy mà không bắt bẻ vào đâu được. Cuối cùng anh chỉ còn  là một tay lực điền cày sâu cuốc bẫm như bao người khác, để nuôi cô vợ hay đau ốm và ba đứa con còn nhỏ. Tất cả chỉ vì anh không giống các cán bộ khác - quá thẳng thắn, quá thật thà, quá yêu công lý và cũng vì quá dũng cảm.
Làm ruộng là một sở trường nữa của anh, vì anh vốn từ đồng ruộng mà lớn lên rồi ra trận. Anh tháo vát, biết lo toan, lại chịu khó nên nói chung cuộc sống không đến nỗi. Anh chẳng có gì để phàn nàn. Cái làm anh khó chịu là những chuyện bất công xung quanh, "những việc đâu đâu" như vợ anh nói. Mặc dù không phải lúc nào chúng cũng liên quan đến anh, nhưng hễ thấy là anh cứ lao vào "đấu tranh", theo kiểu "đâu có giặc là ta cứ đi" của ngày trước. Mà anh đấu tranh mạnh mẽ, trực diện, không chút khoan nhượng, đôi lúc thiếu mất sự tế nhị cần thiết. Nhiều khi anh làm quá, không chỉ không mang lại hiệu quả mà còn bị hiểu lầm, bị coi là hâm gàn và không hiểu thời cuộc. Một kiểu Đông Kisốt mà người ta thấy vừa đáng yêu vừa tội nghiệp.
Một hôm vợ anh lên cơn hen nặng, phải đi bệnh viện cấp cứu. Việc này năm nào cũng xẩy ra, ít thì một, nhiều có khi ba bốn lần, nên anh có chút kinh nghiệm và biết phải làm gì.
Giống mọi lần, người ta cho vợ anh hít thở qua một loại máy đặc biệt ba ống Ventolin Nebule, loại 5 mg. Ba ống thuốc này được một cô bác sĩ trẻ viết lên tờ giấy rồi chỉ cho anh sang phòng bên mua. Ngồi trong phòng cấp cứu, dẫu lo lắng và thương vợ, anh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Anh biết chốc nữa vợ anh sẽ tỉnh lại, thở được và nếu không có gì nghiêm trọng thì sau mấy tiếng họ có thể về nhà tự điều trị tiếp. Bệnh hen là vậy.
Anh lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh. Vẫn những cảnh quen thuộc. Phần lớn bệnh nhân là dân quê, với vẻ ngơ ngác sợ sệt thường trực trên mặt và sự khúm núm trong thái độ. Lo cho bệnh tình đã khổ, họ còn bị ám ảnh bởi một cái khổ khác còn ghê gớm hơn, là tờ phiếu thanh toán viện phí và thuốc men đang đợi. Tờ phiếu với những con số đáng sợ, nhất là khi qui ra thóc, thứ hàng duy nhất họ có mà lại đang xuống giá.
Các nhân viên y tế thì vẫn cái vẻ bình tĩnh nghề nghiệp ấy, (bình tĩnh đến mức người nhà bệnh nhân cảm thấy sốt ruột và nghĩ hay vì mình chưa làm những thủ thục bất thành văn nào đó), vẫn thái độ ít nhiều mang tính ban ơn ấy của những người ý thức rõ quyền lực và tầm quan trọng của mình. Anh quá quen với cảnh này và luôn nhắc mình kiềm chế không "đấu tranh vì lẽ phải" ở bệnh viện cùng những "thiên thần áo trắng" ở đó. Họ có chuyên môn, cũng phải làm việc vất vả và từng cứu sống nhiều người, trong đó có vợ anh. Đây là lĩnh vực tế nhị, anh thầm nghĩ, có tiêu cực chút ít cũng không nên cố chấp. Đạo làm người không cho phép lấy oán trả ân. Xưa nay anh chưa bao giờ to tiếng ở bệnh viện và theo lệ chung, người ta làm gì anh làm nấy, cả những việc mà ở nơi khác anh nhất định không bỏ qua. Tất nhiên anh cũng cảm thấy chút ít bứt rứt, khó chịu.
Ba tiếng sau, cũng tại phòng cấp cứu, anh được yêu cầu thanh toán để xuất viện. Anh bình tĩnh, lặng lẽ thực hiện cái yêu cầu chính đáng đó. Nhưng anh bỗng nhíu mày hồi lâu nhìn tờ giấy thanh toán. Suy nghĩ một lúc như đắn đo điều gì, anh hỏi người thu tiền:
- Xin lỗi chị, cho tôi hỏi. Loại thuốc Ventolin Nebule này ngoài quầy thuốc bệnh viện giá bốn mươi nghìn đồng một vỉ năm ống, sao ở đây thấy ghi hai mươi nghìn đồng một ống? Tức là một trăm nghìn đồng một vỉ, đắt hơn sáu mươi nghìn...
- Tôi không biết. - Người kia khó chịu đáp. - Tôi chỉ thu tiền.
- Vậy ai biết? - Anh bình tĩnh hỏi lại, cố lấy giọng nhẹ nhàng.
- Tôi đã bảo không biết mà. Cứu được người rồi không lo mà về, còn thắc mắc rách việc.
Anh lại đứng suy nghĩ, đắn đo, rồi đi tìm cô bác sĩ trẻ. Anh nhắc lại thắc mắc của mình, một cách mềm mỏng và lịch sự.
- Anh này hay nhỉ, - cô ta đáp, hình như cố tình to tiếng để làm anh phải xấu hổ. - Anh biết thế sao không ra hiệu thuốc mà mua để bây giờ khỏi mè nheo vì tiếc tiền. Đã tiếc tiền sao còn đưa vợ đến đây cấp cứu?
Anh thấy nóng mặt tức giận vì thái độ hỗn xược của cô nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh.
- Nhưng chính chị chỉ cho tôi sang phòng kia mua, chứ không ra quầy thuốc chỉ cách đây vài chục bước. Tôi xin hỏi chị: Cái giá này do bệnh viện chính thức qui định hay các chị tự đặt ra, thích bao nhiêu thì bán bấy nhiêu?
Thấy giọng anh có vẻ cứng rắn, lập luận chắc chắn, khác hẳn cách nói của những ông bà nông dân khác, cô bác sĩ thoáng chút bối rối nhưng cố nói át:
- Thời buổi thị trường, mỗi nơi một giá. Giữa cái sống và cái chết mà anh còn so đọ một vài chục nghìn. Tiếc đắt thì lần sau tự chữa lấy ở nhà, đừng đến đây nữa.
- Vậy là các người thông đồng với nhau, lợi dụng chính cái điều mà các người gọi là "giữa cái sống và cái chết" ấy để bắt chẹt, ăn chặn, ăn cướp những bệnh nhân nghèo, chủ yếu là những người nhà quê như tôi. - Anh nói to, rành rọt từng tiếng. Anh đã không còn giữ được bình tĩnh và quên hẳn sự kiềm chế vẫn luôn nhắc mình khi vào bệnh viện. - Các người là một lũ ăn cắp!
- Anh nói sao? Anh dám bảo chúng tôi ăn cắp? - Cô kia lu loa.
- Vâng, đúng thế, - anh hạ giọng, cúi sát mặt cô ta. - Tôi đã nói và xin nhắc lại rằng cô, chính cô là một con ăn cắp, công khai, trắng trợn và vô liêm sỉ. Cô ăn cắp hết ngày này sang ngày khác, nhưng hôm nay tôi bắt cô quả tang. Và theo luật, tôi phải đưa cô đến đồn công an để giải quyết như với những con ăn cắp chuyên nghiệp khác. Đi, bây giờ cô phải đi theo tôi. - Anh túm chặt tay cô ta, định lôi đi.
- Ối làng nước ơi, cứu tôi với! - Cô kia la lên. - Có một thằng điên, một thằng mất dạy đang làm nhục tôi.
- Câm mồm! Nếu mày không phải đàn bà thì tao đánh vỡ mặt. Ăn cắp còn già mồm!
Thấy động, mọi người nhanh chóng kéo lại. Khi biết chuyện, nhiều bệnh nhân và người nhà tỏ ý đồng tình. Họ mừng ra mặt vì bỗng dưng có được anh chàng lập dị nói hộ điều họ đang ấm ức.
- Xưa nay họ vẫn thế đấy mà chẳng ai dám nói gì.
- Lương y như từ mẫu. Đẹp gớm.
- Đồ mất dạy, phải trị cho chúng một trận.
- Trả tiền lại cho người ta, không nuốt được đâu.
- Nhưng mà cái ông kia cũng quá đáng. Phải cho người ta sống với chứ. Làm vất vả, lương ít. Có mấy đồng bạc...
- Bà nói chán bỏ mẹ. Việc gì ra việc ấy. Lương ít thì đòi nhà nước tăng. Làm vất vả thì người ta đã trả hai mươi lăm nghìn đồng tiền cấp cứu rồi còn gì. Bà tính xem, một người chúng ăn chẹt mấy chục nghìn như thế, trong khi mỗi ngày chúng cấp cứu bao nhiêu người, chia nhau mỗi đứa bao nhiêu?
- Đánh bỏ mẹ nó đi!
Một thanh niên mặc áo trắng hùng hổ đi lại, xô mạnh vào ngực người Dũng Cảm, định gỡ cô bác sĩ vẫn bị anh túm chặt cổ tay.
- Bỏ ra. Bỏ ra ngay! Anh định gây rối à?
- Câm mồm. Nó thì tao không đánh, chứ mày thì tao đánh đấy. - Anh quắc mắt nói, và bóp mạnh một cái vào vai hắn bằng bàn tay còn lại, khiến hắn đứng đờ ra bất động, chẳng nói thêm được lời nào nữa. - Nào, bây giờ thì mày phải theo tao ra đồn công an, con ăn cắp.
Rồi anh kéo cô bác sĩ, lúc này đang khóc và đã bắt đầu hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
- Chúng tôi là công an đây. Anh cần gì? Có chuyện gì vậy? - Hai anh công an vừa vội vã bước lại gần, vừa nói.
- Ồ, thế thì hay quá. Các anh đến thật đúng lúc. - Anh Dũng Cảm sung sướng nói. Anh vắn tắt kể lại những gì đã xẩy ra. - Bây giờ nhờ các anh đưa hộ con ăn cắp này về đồn xử lý theo đúng luật pháp nhà nước. Các anh có mang còng theo không? Cần nhiều đấy, không phải một đâu.
Hai anh kia tỏ vẻ lúng túng. Họ không thể không nhận thấy anh Dũng Cảm nói có lý. Xung quanh lại nhao nhao tiếng đồng tình của nhiều người.
- Chúng tôi chỉ là công an bảo vệ bệnh viện, - một người nói. - Vả lại, theo tôi, gọi đây là hành vi tiêu cực thì đúng hơn, chứ bảo là ăn cắp như anh  kể cũng hơi quá...
- Ăn cắp, theo tôi, là lợi dụng lúc người khác không để ý hoặc cả tin, không hiểu biết để lấy tiền của người ta. Vậy đây đúng là hành vi ăn cắp chứ không phải tiêu cực. Chưa nói đến tính cao quí của ngành y và sự nghèo đói của người nông dân.
- Đành thế, nhưng dẫu sao... Biết nói với anh thế nào được nhỉ?
- Các anh là người đại diện và bảo vệ pháp luật. Hẳn các anh biết xử lý thế nào. - Anh Dũng Cảm hạ giọng. - Tôi đã bắt quả tang. Giấy thanh toán đây, thuốc đây, giá đây. Bây giờ các anh định giải quyết thế nào?
Một chốc sau họ, gồm anh Dũng Cảm, hai nhân viên công an và cô bác sĩ, cùng lên phòng giám đốc bệnh viện.
Ông giám đốc là một người nghiêm khắc, một giáo sư nổi tiếng và đáng kính trong ngành. Ông chăm chú nghe anh Dũng Cảm, chốc chốc lại gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Nghe xong, ông ngồi im lúc lâu, mặt ửng đỏ, một bên má dật dật. Cuối cùng ông nói, thong thả và dứt khoát. Cô bác sĩ - ăn cắp cúi nhìn xuống đất và vẫn còn khóc.
- Thứ nhất, thay mặt toàn bệnh viện, tôi thành thật xin lỗi anh và những người như anh. Với tư cách là thủ trưởng cơ quan, tôi cũng có lỗi, và vì vậy tôi xin lỗi anh. Thứ hai, tôi đồng ý với anh khi gọi việc làm đáng xấu hổ này là hành vi ăn cắp, vì nói gì thì nói, đây quả đúng là ăn cắp. Một cách có hệ thống, hàng ngày, trắng trợn và đểu giả như anh nói. Tôi thực sự lấy làm đau lòng và xấu hổ vì việc làm này của các nhân viên tôi.
Liền sau đó, ông cho người gọi trưởng khoa cấp cứu đến, bắt ngay lập tức phải mang tiền chênh lệch trả lại cho người bị hại.
- Tôi hứa với anh sẽ kỷ luật nghiêm khắc những người có lỗi, và sẽ không để lặp lại hiện tượng này.
- Cảm ơn giáo sư, - anh Dũng Cảm nói. - Xin giáo sư cho biết bệnh viện sẽ kỷ luật như thế nào?
- Chúng tôi sẽ đem vụ này ra Hội đồng kỷ luật của bệnh viện và xử lý theo qui định của bộ.
- Nhưng đây là hành vi ăn cắp như chính giáo sư đã thừa nhận. Mà tội ăn cắp, theo tôi biết, thì phải truy cứu hình sự, tức là phải xử ở tòa án chứ không giải quyết nội bộ qua Hội đồng kỷ luật.
Đến lượt ông giáo sư lúng túng.
- Vâng, có lẽ anh nói đúng. Quả thật đây là lần đầu tôi gặp người nhìn nhận sự việc theo hướng này. Mà tôi lại không am hiểu lắm về luật pháp. Tôi sẽ nêu ý kiến của anh, thậm chí bênh vực anh trước Hội đồng kỷ luật và các cơ quan chức năng. Anh biết đấy, ở đâu cũng có người tốt, người xấu. Tôi rất mong và hy vọng không vì việc này mà anh mất niềm tin vào bệnh viện chúng tôi và những người đang làm việc ở đây. Xin anh cho biết địa chỉ. Tôi sẽ đích thân thông báo kết quả xử lý vụ này cho anh.
Anh Dũng Cảm, nhân vật của chúng ta, đưa vợ về nhà. Dọc đường đi, không hiểu sao anh bỗng thấy thật buồn. Anh đạt được cái công lý anh muốn, vợ anh đã qua cơn nguy hiểm, sự tức giận cũng không còn nữa. Ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy buồn, như có cái gì hẫng hụt trong lòng. Anh không hiểu và không thể xác định rõ đó là cái gì. Anh căm ghét tất cả bọn ăn cắp, nhất là bọn ăn cắp mặc áo blu trắng. Nhưng chính cái bọn ăn cắp thứ hai ấy lại vừa cứu vợ anh thoát chết. Anh có làm quá không, có thực sự anh đã lấy oán trả ân không?  Nếu con bé ăn cắp kia bị đuổi việc, bị tù tội thật thì sao? Chuyện gì sẽ xẩy ra với nó và gia đình nó? Càng nghĩ anh càng thấy rối. Suốt đêm ấy anh cứ quẩn quanh mãi với những suy nghĩ chẳng mấy vui vẻ này. Cuối cùng, anh quyết định khi nhận được tin báo của ông giáo sư giám đốc bệnh viện, anh sẽ tự mình xin tha cho cô kia, nếu mức độ trừng phạt quá nặng.
Đấy, chuyện anh Dũng Cảm là như thế. Bây giờ chắc các bạn sẽ hỏi: "Còn chuyện anh Hèn thì sao?"
                                                               *
Anh Hèn là tôi. Tôi phải xin lỗi bạn đọc rằng chẳng hề có anh Dũng Cảm nào cả. Cũng như không hề có chuyện anh ta sống ở ngoại thành, đưa vợ cấp cứu cùng những việc làm dũng cảm đáng khen của anh. Tất cả đều do tôi hư cấu, hay "phịa" như người ta vẫn nói. Tôi là nhà văn mà. Phịa, nhưng trên cơ sở những chuyện có thật.
Cái sự thật đó là: Cách đây không lâu tôi phải đưa vợ tôi vào bệnh viện cấp cứu. Cũng bệnh hen, cũng bị nhân viên phòng cấp cứu thông đồng nhau bắt mua mỗi ống Ventolin Nebule với giá của họ là hai mươi nghìn đồng, trong khi chính quầy thuốc bệnh viện ấy bán mỗi vỉ năm ống với giá bốn mươi nghìn. Tôi cũng ngạc nhiên và bất bình không kém. Thậm chí tôi suýt làm ầm lên, tất nhiên không ở mức như anh Dũng Cảm. Nhưng tôi đã nhẫn nhục im lặng chẳng nói gì. Thứ nhất vì vợ tôi không cho làm. Bà ấy đang ốm nặng, lại dễ xúc động, làm sao tôi có thể hy sinh mạng sống vợ vì cái công lý trừu tượng nào đó? Sau nữa, mà đây mới là lý do quan trọng nhất, vì tôi hèn.
Trong ý nghĩ, tôi hình dung, tôi muốn tôi phải là anh Dũng Cảm kia, phải làm đúng những việc anh đã làm. Nhưng trong thực tế rất tiếc tôi không có được sự dũng cảm ấy. Tôi sợ làm vợ buồn, sợ mất thời gian, sợ căng thẳng thần kinh, sợ người khác cười chê vì tiếc mấy nghìn bạc mà làm ầm ĩ, sợ mình có nói cũng chẳng giải quyết được gì. Chính cô nhân viên quầy thuốc bệnh viện bảo tôi việc ấy vẫn xẩy ra thường xuyên, trước đây cũng như bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Đâu cũng thế. Tóm lại là tôi hèn, và có cớ xác đáng để hèn.
Chẳng ai đem cái hèn của mình ra khoe. Tôi cũng vậy. Nhưng sự thật thế nào thì phải công nhận đúng thế ấy. Thế mà trước đây, các bạn biết không, tôi cũng thuộc loại người "hễ thấy bất công ở đâu là xông vào đánh" cơ đấy. Và tất nhiên, cũng từng lãnh đủ, nhưng tôi chưa một lần hối tiếc về việc mình làm. Chẳng qua mỗi tuổi một cách suy nghĩ, hành động, hay "sông có khúc, người có lúc" như các cụ nói.
Bây giờ tôi đã già, an phận với sự yếm thế của người về hưu. Tôi viết văn, suốt ngày gõ gõ bên chiếc máy vi tính. Cái trọng lượng cơ thể hơn tám mươi kilô cứ như kéo tôi dính chặt vào chiếc ghế, không cho bay vút lên cao như ngày nào. Các hoài bão, ham muốn, cả thể xác lẫn tinh thần, cứ teo dần, teo dần, và cùng với nó là cái quyết tâm đấu tranh vì công lý và lẽ phải. Nghĩa là trong chừng mực nào đó, tôi đã là người thoái hóa. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn cố cưỡng lại không chịu đầu hàng, chừng nào còn có thể. Truyện ngắn này tôi viết cũng nhằm mục đích ấy. Tôi hy vọng nó đến được tay những người cần đến. Biết đâu họ sẽ làm cái gì đó để ngăn chặn hiện tượng tiêu cực trên. Đã biết phận mình hèn thì chỉ dám đặt mục tiêu khiêm tốn thế thôi.
Vì không muốn biến truyện ngắn của mình thành bài phóng sự, tôi xin phép không nêu đích danh tên người, tên bệnh viện cùng ngày giờ xẩy ra những việc có thật ở đó. Tuy nhiên, dẫu hèn, tôi vẫn không có ý định giấu tên mình, người, như các bạn thấy, tôi còn đủ dũng cảm để viết và ký tên mình dưới câu chuyện này.
Hà Nội, 10. 3. 2001

                                                           
ÔNG GIÁO LẬP DỊ
                                                                   
Ông Nguyễn Xuân Đoàn thuộc loại người vô tư và biết hài lòng với mình, với đời. Mà đời ông thì sống ở nước ngoài nhiều hơn trong nước. Ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, đã qua chức vụ trưởng một vụ ở bộ, hai nhiệm kỳ đại sứ ở Bắc Âu. Ông mới về hưu đầu năm nay, đúng tuổi sáu mươi, còn khỏe mạnh và tràn trề hạnh phúc. Sáng chơi ten-nít, chiều uống bia, tối đọc sách hoặc thậm chí làm thơ. Chắc chắn ông cũng hài lòng với những bài thơ ông viết.
Một hôm có ông bạn già ở trường ngoại ngữ đến nhờ ông Đoàn dạy hộ một lớp tiếng Anh nâng cao mà ông mở riêng đã mấy năm nay, giờ vợ chồng ra nước ngoài sống với con cháu.
“Bỏ thì tiếc, - ông nhà giáo nói. - Mà tôi thì chỉ có thể tin bác được thôi. Chẳng vất vả gì đâu. Mỗi ngày hai tiếng từ sáu đến tám giờ tối. Mọi việc cô Mai sẽ lo. Cô ấy tốt và tháo vát lắm. Bác chỉ dạy”.
Thấy bạn có ý lưỡng lự, ông nói thêm:
“Tôi biết với bác tiền không quan trọng, mặc dù phải nói rằng thu nhập lớp này cũng khá. Cái chính là bác sẽ được thay đổi không khí, sẽ cảm thấy hài lòng vì mình còn giúp được ít nhiều cho lớp trẻ”.
Một tuần sau ông Đoàn lên lớp, chủ yếu vì cái “thay đổi không khí” và “giúp thế hệ trẻ” ấy.
Lớp là một giảng đường đại học thuê bao cả năm. Khi đến, ông ngạc nhiên thấy học viên ngồi kín gần hết, dễ đến cả trăm người. Điều này chứng tỏ bạn ông phải là người rất giỏi và uy tín. Bản thân ông cũng giỏi, nói và viết tiếng Anh thuộc loại nhất nhì bộ. Cách thức tiến hành buổi học thì đã được bạn hướng dẫn kỹ. Cả con số một trăm người học kia cũng chẳng thành vấn đề, vì là lớp dịch không phải giao tiếp với từng người, không cần nói to vì cô Mai đã bố trí sẵn chiếc máy phóng thanh nhỏ trên bàn. Ông có thể đi lại thoải mái mà giọng vẫn vang to khắp phòng.
Buổi dạy đầu tiên diễn ra suôn sẻ. Các buổi sau cũng thế. Dường như người học cũng thích ông. Họ chủ yếu là sinh viên các năm cuối và cán bộ cơ quan có nhu cầu nâng cao ngoại ngữ. Bằng chứng là sĩ số không giảm mà còn tăng thêm. Không chú ý mấy đến việc cô Mai chăm chỉ thu học phí, kiểm tra thẻ, lo chuyện phấn bảng, ông đến lớp đúng giờ rồi hết giờ ra về, trang nghiêm và đạo mạo đúng kiểu một ông giáo có tuổi và giỏi nghề như ông cần có. Công việc mới mẻ này làm ông thích, có thể nói còn cuốn hút.
Cuối tháng cô Mai tìm đến nhà ông. Cô trạc ba lăm, hai con, nhân viên phòng quản trị của trường nơi ông đang dạy. Người cô đẫy đà, phúc hậu, tính cẩn thận, tháo vát và có vẻ đáng tin cậy như ông bạn giới thiệu. Cô rút ra tờ giấy chi chít tên người và các con số.
“Dạ, đây là tiền học phí của lớp tháng vừa rồi, sau khi trừ các khoản”. Cô lễ phép nói. “Mười ba triệu năm trăm mười nghìn đồng”.
“Nhiều thế cơ à?” Ông Đoàn ngạc nhiên hỏi.
“Cũng bình thường thôi ạ. Vào các tháng sau Tết và đầu năm học thường nhiều hơn”.
“Xưa nay vẫn thế?”
“Vâng ạ”.
“Lớp nào, thầy nào cũng thế?”
“Không. Trường này còn ba lớp tiếng Anh nữa, dạy thực hành, giáo viên trẻ, ít người học nên ít hơn nhiều. Còn các lớp luyện thi toán lý hóa thì có thể  nhiều hơn”.
Ông Đoàn ngồi im không nói gì.
“Thế cô được bao nhiêu?” Lúc sau ông hỏi.
“Dạ, sáu trăm nghìn như mọi khi. Trong giấy này em có ghi”. Cô Mai đáp rồi lễ phép chào ông ra về.
“Mười mấy triệu đồng một tháng. Mỗi ngày hai giờ dạy. Nhiều quá”.  Ông Đoàn nghĩ. “Hóa ra bao năm nay cái ông Năm nhà giáo này kiếm cũng khá.”
Đúng là ông không quan tâm đến khía cạnh kinh tế của việc dạy học. Dạy cho vui như ông vẫn nghĩ. Nhà ông khá giả, có thể nói giàu. Chỉ còn hai ông bà già sống với nhau, lương hưu cao. Hai đứa con đã trưởng thành, cũng giàu. Anh con cả hiện đang làm cho một liên doanh ở Sài Gòn, mấy năm trước còn biết đem tiền tiết kiệm của ông mua mảnh đất, vừa rồi sốt đất, đem bán lãi hơn một tỉ. Số tiền này ông bà đang gửi tiết kiệm, riêng lãi cũng thừa sống, nên khoản tiền mười mấy triệu một tháng kia càng trở nên nhiều, thậm chí quá nhiều. Ông là người như vậy, luôn suy nghĩ như vậy, chân thành và trong sáng.
Hôm sau học xong, ông bảo cô Mai ở lại, đề nghị cho ông biết rõ tình hình học sinh, học phí. Nghe xong, ông nói: 
“Cô xem có thể giảm học phí cho mọi người được không?”
Cô Mai ngơ ngác, đờ mặt nhìn ông hồi lâu:
“Dạ, em không thật hiểu...”
“Tôi nói giảm học phí. Tức là có thể hạ học phí từ mức mỗi người một tháng một trăm nghìn đồng xuống năm mươi hay bảy mươi nghìn chẳng hạn. Cô biết rõ nên giảm bao nhiêu. Thực sự tôi không cần nhiều như vậy. Tôi chắc trong số người học ở đây nhiều người cũng khó khăn, đặc biệt các em từ nông thôn. Cô hiểu rồi chứ?”
“Dạ hiểu”, cô Mai ấp úng. “Nhưng em thấy không thể làm thế được ạ”.
“Vì sao?”
“Vì... không thể được. Xưa nay người ta chỉ tăng chứ không giảm học phí...”
“Nhưng đây là lớp tư. Của tôi. Và tôi muốn giảm!” Ông Đoàn hơi cao giọng. Là nhà ngoại giao, ít khi ông cao giọng.
“Nhưng làm thế sẽ ảnh hưởng đến các lớp tiếng Anh khác. Có thể cả những lớp không phải tiếng Anh. Mọi người sẽ không hiểu, sẽ bàn tán, dị nghị, sẽ cho rằng thầy...”
“Tôi không cần biết người ta nghĩ gì về tôi. Đây là việc riêng, và tôi quyết định từ nay cô chỉ thu năm mươi nghìn đồng một tháng! Không bàn nữa. Cứ thế mà làm!”
Ông Đoàn thậm chí giật mạnh chiếc cặp trên bàn rồi bước ra khỏi phòng.
Tội nghiệp cô Mai. Cô bị sốc thật sự. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đã mười năm nay cô làm thêm nghệ quản lý các lớp dạy thêm, học thêm này, cho nhiều thầy, nhiều cô, nhưng chưa bao giờ cô gặp trường hợp nào tương tự. Ngoài đức tính quí báu là mẫn cán và trung thực, cô còn là người dễ xúc động và hay lo. Cô hình dung chuyện gì sẽ xẩy ra khi cô thông báo cái quyết định kỳ cục ấy. Người ta sẽ bảo lớp cô “phá giá” để chơi xỏ nhau, bảo ông thầy này điên, định tỏ ra này nọ. Người học chắc chắn sẽ lấy làm ngạc nhiên, đoán non đoán già không biết vì sao lớp bỗng dưng giảm học phí. Mà nào có ai kêu đâu. Lớp dạy chất lượng, so với nhiều nơi khác là còn rẻ, lại được bảo lưu, học bù thoải mái. Rồi họ sẽ quay sang nghi ngờ cả những chuyện kỳ cục nhất, như phải chăng ở đây đang có điều gì khuất tất? Hay thầy trót phạm tội lỗi nào đó nay lương tâm cắn dứt? Được giảm tiền cũng thích, tất nhiên, nhưng ý nghĩ học với một người tội lỗi thì chẳng thích thú gì. Rất có thể vì thế mà nhiều người sẽ bỏ học. Nhất định phải có chuyện gì đó. Nếu không ai bỗng dưng từ chối tiền, nhất là những đồng tiền chính đáng? Ừ, mà sao ông ấy làm thế nhỉ? Không thể nói vì giàu. Xưa nay càng giàu người ta càng muốn có thêm tiền để giàu hơn. Vậy thì vì cái gì? Cô Mai chịu không sao hiểu nổi. Hay thật sự có điều gì khuất tất? Hay biết đâu ông ta nói thế là nhắc khéo mình tăng chứ không phải giảm học phí?
Với những băn khoăn như thế, cô quyết định tạm thời cứ chờ một thời gian xem sao. Biết đâu đây chỉ là ý nghĩ bốc đồng thoáng qua và chẳng bao lâu nữa ông ấy sẽ thay đổi.
Những ngày tiếp theo ông Đoàn không đả động gì đến chuyện này, vẫn đều đều lên lớp, trang nghiêm và đạo mạo như trước, không mảy may chú ý tới cô Mai và những việc cô làm trong lớp.
Cuối tháng, cô lại đến gặp ông.
“Hóa ra cô không làm như tôi yêu cầu?” ông Đoàn hỏi khi cô đưa cho ông gói tiền với tờ giấy đủ các khoản diễn giải và con số gần mười lăm triệu đồng.
“Dạ vâng. Em xin lỗi”, cô ấp úng. “Em nghĩ có thể vì mới đến thầy chưa biết. Việc này không đơn giản như thầy nghĩ. Vả lại...”
“Thôi được rồi’, ông Đoàn ngắt lời không chút ngoại giao. “Nếu thế thì cứ mặc tôi.”
Đêm hôm ấy cô Mai lại mất ngủ. Cô thấy tiếc những năm làm việc đều đều không sự cố với thầy Năm, và cô lo lắng nghĩ tới việc ngày mai ông Đoàn sẽ nói “điều ấy” với cả lớp, một việc đáng lẽ cô làm nhưng ông không để cô làm. Tức là mọi người sẽ nghĩ có sự không ổn giữa ông và cô.
Nhưng cô ngạc nhiên khi hôm sau và mấy ngày tiếp điều cô lo vẫn không xẩy ra. Cô không biết rằng ông Đoàn đã đích thân ra phòng thuế quận xin nộp thuế thu nhập cá nhân. Ý tưởng mới mẻ và độc đáo này đến với ông khá bất ngờ, khi buổi sáng đi chơi ten-nít về, ông ngẫu nhiên nhìn thấy câu khẩu hiệu viết bằng sơn đỏ đã phai màu trên một bức tường vôi tróc loang lỗ: “Nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của công dân” Đúng! Mình là công dân, công dân gương mẫu, có thu nhập cao, tại sao không tự nguyện khai báo nộp thuế?
Ở phòng thuế, anh nhân viên trẻ sau khi nghe khách trình bày ý định của mình, thấy có sự lạ, bèn lễ phép mời ông sang phòng bên “gặp lãnh đạo”. “Lãnh đạo” là một ông già gầy đét đã ngồi ghế trưởng phòng hơn hai mươi năm nay, có tên là Chẩm, vừa nghe vừa chăm chú nhìn ông bằng đôi mắt nhà nghề đầy cảnh giác của một cán bộ ngành thuế dày dạn kính nghiệm.
Ông Chẩm hoan nghênh ý thức công dân cao của ông, mời ông uống nước, rồi thong thả nói:
“Vậy là bác đã về hưu, và chỉ dạy thêm tiếng Anh ‘cho vui’ như bác nói?”
“Vâng, đúng thế”.
“Và đây là lớp dạy tư chứ không phải trung tâm ngoại ngữ hành nghề có giấy phép và đăng ký với nhà chức trách?”
“Vâng”.
Ông Chẩm trầm ngâm suy nghĩ một chốc rồi thở dài:
“Rất tiếc tạm thời chưa có luật nào qui định những người như bác phải nộp thuế thu nhập từ các nguồn tương tự”.
“Nghĩa là cả khi muốn, tôi cũng không được nộp?”
“Cái này để tôi hỏi ý kiến lãnh đạo. Xin bác cho địa chỉ, sẽ có người đến báo bác sau”.
Khi khách ra khỏi phòng, ông Chẩm thấy như hẫng hụt điều gì, thậm chí có cảm giác bị xúc phạm. Xưa nay người ta chỉ đến gặp ông để kỳ kèo xin miễn giảm, hoặc tìm cách gian lận, thế mà bây giờ bỗng xuất hiện cái ông kỳ cục này.
“Theo tớ đây là trường hợp đáng ngờ,” ông quay sang bảo anh nhân viên nọ. “Nhất định phải có cái gì đấy mờ ám. Cậu nghĩ thế nào?”
“Em cũng nghĩ đúng như thủ trưởng ạ.” Anh kia hồ hởi đáp. “Có thể ông ta muốn tỏ ra mình lương thiện ở một việc nhỏ để che dấu một hành vi bất chính khác lớn hơn, như kiểu bọn tội phạm tự nguyện đầu thú tội ăn cắp vặt để trốn tội giết người ấy mà”.
“Vậy thì giao cho cậu điều tra vụ này. Phải làm thật khéo và thật kỹ. Đừng quên tìm hiểu cả bệnh án của ông ta. Biết đâu lại chẳng một lão già tâm thần làm mất thời gian cơ quan nhà nước.”
Một tuần sau ông Đoàn gọi điện thoại đến phòng thuế. Đích thân ông Chẩm trưởng phòng nhấc máy.
“Thú thật với bác là chúng tôi vẫn chưa tìm được mục nào trong các luật thuế hiện hành để có thể áp dụng cho bác nộp thuế”, ông nói, thân mật hơn một chút so với giọng điệu vẫn dùng hàng ngày. “Cái khó của trường hợp bác là ở chỗ bác đã nghỉ hưu, chỉ dạy tư tiếng Anh, thứ ngôn ngữ đang được khuyến khích, lại chỉ một lớp và chẳng thuê mướn ai. Nếu bác là một trung tâm đăng ký hẳn hoi thì lại là chuyện khác. Ừ mà sao bác không thành lập một trung tâm như thế để hợp pháp hóa việc nộp thuế nhỉ?.. Vâng... vâng... Bác nói đúng. Tôi biết bác chỉ dạy cho vui chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Thế mới khó cho chúng tôi. Dẫu sao thì người tự giác như bác hiện giờ có thể nói không nhiều. Vâng... Nhất định thế nào chúng tôi cũng tìm được cách giúp bác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi công dân của mình. Xin bác yên tâm chờ thêm một thời gian nữa. Không lâu đâu. Chào bác”.
“Không lâu đâu” là ý ông Chẩm muốn nói tới kết quả điều tra của anh nhân viên trẻ. Suốt cả tuần vừa rồi ông chẳng hề “báo cáo lãnh đạo”, cũng chẳng xem lại luật thuế như ông nói. Cú điện thoại vừa rồi càng khẳng định thêm ý kiến của ông, rằng người này nhất định phải có vấn đề. Nếu không đã chẳng hăng hái xin đóng thuế như vậy. Gần trọn đời trong nghề, ông tin chắc điều ấy. Nhưng vấn đề gì? Cậu nhân viên vẫn chưa tìm ra. Có lẽ phải nhờ đến công an. Ừ, phải báo công an biết và yêu cầu họ điều tra giúp. Ông Chẩm nghĩ, thầm hài lòng với chính mình.
Trong khi đó, ông Đoàn, với bản tính hồn nhiên trong sáng và lạc quan vốn có, vẫn tiếp tục cách sống ông yêu thích - sáng ten-nit, chiều uống bia, tối đi dạy rồi về đọc sách báo, thỉnh thoảng làm thơ. Thực ra ông chẳng cay cú lắm với cái việc tự nguyện làm giảm tiền của mình mà không thành. Đơn giản ông thấy “dạy chơi” mà được chừng ấy là quá nhiều, nên đề nghị hạ học phí hoặc xin đóng thuế. Dẫu vậy ông cũng chút ít ngạc nhiên khi người ta không cho ông làm cái việc tốt đẹp đó.
Tháng sau, vẫn không thấy động tĩnh gì, một hôm sau buổi học, ông tuyên bố trước cả lớp từ nay sẽ giảm một nửa học phí. Cho tất cả mọi người. Rồi ông thong thả xách cặp bước ra khỏi phòng, để cô Mai ở lại một mình giải thích thêm với đám học viên đang ngạc nhiên bàn tán.
Mấy ngày tiếp theo mọi người nhìn ông với con mắt tò mò, nghi kỵ, nhưng biết tính thầy nghiêm, không thích nói chuyện lạc đề nên không ai dám hỏi. Còn cô Mai thì vốn rụt rè ít nói, bây giờ hầu như chẳng bao giờ mở miệng. Không chủ ý, ông Đoàn vẫn nghe lõm bõm nhiều câu bình luận sau lưng. Rồi ông nhận được mấy lá thư nặc danh với những lời lẽ khiếm nhã đầy bóng gió. Kệ. Ông không quan tâm. Ông vẫn sống theo cách xưa nay từng sống. Ông hài lòng với ý nghĩ đã phần nào giúp được ai đó vấn đề tài chính mà ông chắc họ đang gặp khó khăn. Thậm chí ông ăn thấy ngon miệng hơn.

                                                                   *
Mấy lời nói thêm.
Tháng tiếp theo số người học không tăng như ông Đoàn tưởng mà còn giảm. Giảm rõ rệt. Cô Mai khốn khổ thực sự vì bị mấy ông phòng thuế và công an căn vặn về ông thầy “lập dị”. Người học cũng chất vấn cô không ít, đến mức cuối cùng cô xin thôi lớp ông, sang làm giáo vụ cho một trung tâm ngoại ngữ ở trường bên, dù lương ít hơn.
Thất vọng vì không phát hiện thấy điều gì mờ ám liên quan đến nhân thân ông Đoàn, cuối cùng nhà chức trách đi đến kết luận rằng việc mở lớp dạy tư thuê phòng của trường là vi phạm qui định quản lý giáo dục và đào tạo, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của khu vực. Vậy là lớp dịch tiếng Anh của thầy Đoàn bị đóng cửa. Cùng vạ lây theo nó là ba lớp tiếng Anh thực hành và mười lớp luyện thi đại học. Tất nhiên không ai trong số các nạn nhân cảm ơn ông điều này.
Còn ông thì sao? Ông vẫn thế, như xưa. Vẫn hàng ngày làm những việc ông ưa thích - thể thao, bia, sách báo và làm thơ. Bây giờ ông có thời gian nên làm nhiều hơn. Tuy nhiên, công bằng mà nói, sự trong sáng của ông dường như cũng bị gợn đục chút ít. Bằng chứng là một lần uống bia với nhau, giữa chừng ông trầm ngâm bảo tôi, cũng một người về hưu kiếm thêm bằng nghề dạy học, rằng nếu không có lý do thúc bách thì dẫu sao cũng không nên giảm tiền học phí hoặc tự nguyện xin nộp thuế. Tiếc là tâm lý xã hội tạm thời chưa chấp nhận một điều xa xỉ như vậy.
Hà Nội, 7. 2. 2003
                                                 

CHỈ LÀ MỤ ĐÀN BÀ
                                                 
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây là hoàn toàn có thật. Nó xẩy ra đã lâu, từ cái thời còn đánh nhau với Mỹ cách đây những mấy chục năm. Một câu chuyện buồn và chứa đựng nhiều bí ẩn. Cả thời ấy lẫn bây giờ không ai, trừ những người trực tiếp liên quan, biết được sự thật về nó. Còn việc vì sao tôi biết thì lại là chuyện khác, thiết tưởng chẳng cần nói ra.
                                                 
*
Không ai biết chính xác lão từ đâu tới và tên là gì, chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật cũng chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị lão, Mù hay Chột thì cũng vậy, không quan trọng.
Khác những người hát xẩm xưa nay ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước da lão đen trũi, có thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ “lão” ở đây rõ ràng không vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.
Công bằng mà nói, từ ngày đến đây lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này, tức là việc lão không chịu “lạy ông lạy bà cho con xin...” cũng làm không ít người ghét lão.
Lão Xẩm sống trong chiếc miếu hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó, một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là “nhà Lão Xẩm”.
Tối nay, như những buổi tối mùa hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì không cần, vì biết chẳng có ai nhìn. “Càng mát!” lão nghĩ,  nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.
Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính  nhờ những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.
Việc này xẩy ra hầu như vào tất cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm. “Bọn này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng!” Khi nghe các cô cười bảo nhau “Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ”, lão giận dữ cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm: “Đây không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác. Đứa nào giỏi, muốn thử cứ lên đây". Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Để mặc chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".
Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống, dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh ách dưới bụng.
Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai  nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.
Hình như tiếng bước chân đang tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.
Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu lên nhưng cũng liền lúc ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một rồi sau hai, tự do mân mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn nữa.
Như trong cơn mơ, lão ngây ngất mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này và đã làm điều ấy không gặp chút chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng nói gì vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.
Xong, người kia vội vùng dậy bỏ đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không mặc quần và còn ươn ướt...
Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp. Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng cho lão.
Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại vác nhị xuống chợ như mọi ngày.
Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của lão ve vuốt khắp người và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi sau đó người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.
Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ, nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi  biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.
Việc này lặp đi lặp lại trong bốn tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi, vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.
Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí còn hơn. Điều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy. Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa, nhưng lão hy vọng và vẫn chờ. Đêm nào lão cũng chờ...
Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Đoạn sông ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy “cái ấy” của mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.
Khác với mọi lần, lần này lão phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút bỏ. Đang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng kêu thất thanh:
- Đừng! Chị Tâm! Đừng, đừng nhảy xuống sông!
Đó là tiếng một cô gái, giọng còn trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.
- Sao chị làm thế? Em van chị. Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...
Có tiếng người khóc tấm tức. 
- Em nói em biết, biết hết mọi chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.
- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.
- Vì lão mù, không biết chị là ai.
- Nhưng sao chị cứ phải chết?
Lại có tiếng khóc. Lần này to và lâu hơn.
- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại chửa hoang? Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao? Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ, chẳng điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng lại được...
- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà. Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng xấu...
- Đúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con quỉ tội lỗi trong người chị...
- Không. Không bao giờ! Chị phải về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà với em. Không lôi thôi gì nữa!
Im lặng một chốc, rồi có tiếng dằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi. Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.
Hai ngày sau, khi đang hát ngoài chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên, cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa. 

NGƯỜI RÁCH BÓNG

Dạo ấy tôi trẻ và còn hăng lắm. Chưa vấp váp, chưa khổ đau, cứ  ngẩng cao đầu bước đi giữa phố. Những bước đi tự tin không biết sợ và thường được nhấn thêm bằng đế đôi giày da bóng lộn.
Một hôm tôi chững chạc bước như thế trong công viên thành phố, còn thích thú di di gót giày sau mỗi bước đi. Lúc ấy là xế chiều một ngày đầu đông nắng đẹp. Công viên ít người, gió từ hồ Bẩy Mẫu thổi nhẹ, các luống hoa mới được tưới tươi rói, không tỏa mùi hương mà mùi đất hăng nồng. Vâng, tôi bước đi như thế với cảm giác lâng lâng, yêu đời và yêu mình.
“Ối!” bỗng ai đó kêu lên đau đớn.
Tôi giật mình đứng lại. Trên ghế đá ngay bên cạnh có người đang ôm mặt nhăn nhó. Đó là một ông già khoảng sáu mươi lăm, bảy mươi tuổi, tóc bạc gần hết, đeo kính mắt tròn gọng kim loại, mặc bộ vét màu lông chuột đã cũ nhưng khá tươm tất, tuy hơi rộng so với thân hình gầy yếu của ông. Chiếc cà vạt rất ngay ngắn trên cổ nhưng hơi nhàu. Chiếc mũ phớt bằng vải dạ bóp lõm phía trước đã sờn bóng ở các mép gờ. Chiếc ba-toong tựa bên ghế, hơi ngắn vì dùng nhiều đã mòn, tay cầm cong cong khảm bạc. Tóm lại, vẻ ngoài của ông toát ra cái gì đấy cổ kính một cách lạc lõng, một trí thức cũ không muốn hoặc không thể hòa nhập với cuộc sống mới.
Tôi nhìn đôi mắt sáng ươn ướt chắc vì đau của ông già:
“Thưa bác, có chuyện gì thế ạ?”
Ông già ngước nhìn lên. Một khuôn mặt nhân hậu đầy nếp nhăn và những nốt đồi mồi.
“Anh đang dẫm lên bóng tôi, anh bạn trẻ ạ. - Ông nói bằng tiếng Pháp. - Xin làm ơn bước sang bên”.
“Dẫm lên bóng? - Tôi ngạc nhiên thầm nghĩ. - Dẫm lên bóng mà lại đau, đến mức phải ôm mặt?” Chỉ lúc ấy tôi mới để ý thấy chiếc bóng ông dưới chân mình. Mặt trời đã ngả về tây, không bị mây che nên sáng rực, chiếc bóng vì vậy khá dài, dù ông ngồi trên ghế. Tôi dẫm đúng vào vai chiếc bóng ấy.
“Vâng, xin làm ơn đứng xê ra hộ. Nhanh lên”.
Tôi vội lùi lại. Thật kỳ lạ. Chiếc bóng của ông bị kéo rê theo gót giày tôi như thể nó dính vào đấy. Trong khi đó ông già cúi xuống, nhẹ nhàng làm động tác luồn hai tay nâng chiếc bóng lên, kéo về phía mình. Rồi ông nhỏm dậy bảo tôi giơ chân để ông gỡ một góc chiếc bóng khỏi đế giày. Thì ra nó bị vướng một chiếc đinh. Thời đó, để gót giày không bị mòn vẹt, người ta thường đóng một lớp cao su bên dưới. Lớp cao su của tôi bị sứt một góc, để lộ mấy chiếc đinh. Chắc vì thế nó mới làm ông già đau.
“Anh xem này, nó bị thủng mấy chỗ!” - ông già nói rồi giơ ngón tay chỉ, nhưng tôi không thấy gì.
Tôi nhìn ông nâng niu đỡ chiếc bóng trên tay, ngạc nhiên đến mức không thốt nên lời. Trông nó như tấm vải lụa thật mịn, mỏng và nhẹ, màu xanh thẫm chứ không hoàn toàn đen như thoạt tưởng.
“Lần sau xin anh nhẹ chân và cẩn thận nhìn xuống lúc đi đường”. Ông già khẽ nói, vẫn bằng tiếng Pháp, thứ tiếng Pháp của những năm bốn mươi thế kỷ trước.
Ông thận trọng trải chiếc bóng xuống đất vào vị trí cũ.
Không phải không thoáng lo sợ, tôi ấp úng xin lỗi rồi vội bỏ đi, vẫn chưa hết bàng hoàng với những gì mới xẩy ra.
Nửa tháng sau tôi lại đi dạo trong công viên, lại thấy ông già ấy ngồi sưởi nắng trên chiếc ghế đá quen thuộc. Dưới chân ông là chiếc bóng đang lặng lẽ nằm yên. Tôi bước nhẹ chân, cố không dẫm lên nó.
“Cảm ơn”, ông già nói khi nhận ra tôi, mỉm cưòi yếu ớt.
Cảm ơn vì tôi đã tránh không dẫm lên chiếc bóng! Thấy ông thân thiện, tôi nhìn xuống nửa ghế trống ra ý muốn ngồi cùng. Ông gật đầu. Thực ra tôi chẳng hào hứng gì khi tiếp xúc với một người kỳ dị như ông, nhưng sự tò mò không cho phép cưỡng lại.
Trông ông có vẻ ốm yếu hơn trước, như người đang bệnh, lưng hơi còng, đôi mắt sáng có phần đờ đẫn.
“Không ngờ cú dẫm của anh hôm nọ làm tôi đau đến thế. - Ông nói. - Nhưng tôi không trách vì anh chỉ vô tình. Người trẻ thường hay vô tình”.
“Cháu xin lỗi, - tôi đáp. - Thế... Thế cái bóng của bác lành lại chưa ạ?”
“Chưa. Tồi tệ hơn, vết thương còn lây sang chỗ khác. Nên tôi mới thế này”.
Tôi do dự một chốc rồi rụt rè hỏi điều cứ làm tôi băn khoăn mãi:
“Thú thật với bác, cháu không hiểu vì sao ai đó có thể thấy đau khi bóng mình bị người khác dẫm lên”.
“Đơn giản vì anh bạn còn trẻ. Khi người ta già, từng trải, nếm hết mọi cái vui, cái buồn của đời, người ta sẽ trở nên nhạy cảm hơn với nỗi đau của mình và của người khác. Vì trẻ, anh chưa thấy đau, thậm chí chưa bao giờ nghĩ nghiêm túc rằng cái bóng là một bộ phận không thể tách rời của anh. Tôi dám chắc nhiều khi anh chẳng chút băn khoăn để bóng anh rơi xuống chỗ bẩn?”
Tôi gật đầu một cách thành thật.

                                                  *
Lần sau vào công viên, từ xa tôi thấy ông già đang ôm ngực, cúi người trên ghế đá. Chiếc bóng dưới chân không còn dài, màu cũng trở nên nhợt nhạt hơn. Nghĩa là bệnh ông nặng hơn. Vết rách trên chiếc bóng chắc rộng lắm, có thể đã lan khắp nơi, hoặc sưng tấy, mưng mủ mà tôi không  thấy. Tôi ái ngại nhìn ông, lòng bứt rứt và không dám lại gần.
Lần sau nữa thì chẳng thấy ông đâu. Có lẽ ông đã chết. Chết vì vết thương tôi vô ý gây nên.
Từ ấy đến nay đã nhiều năm trôi qua, nhiều đến mức bản thân tôi cũng trở thành một ông già, thỉnh thoảng cũng ra công viên ngồi sưởi nắng. Tôi vẫn thường nghĩ tới ông già có chiếc bóng rách ấy với mặc cảm day dứt của người có lỗi.
Thỉnh thoảng cũng có người vô ý dẫm lên bóng tôi, nhưng tôi chưa bao giờ thấy đau. Việc này, thú thật, có làm tôi hơi buồn. Chẳng cắt nghĩa nổi vì sao, nhưng cứ buồn. Tôi không là người mê tín, không tin vào phép lạ và các chuyện ma quỉ. Đến bây giờ tôi vẫn không hoàn toàn tin chuyện đã xẩy ra với ông già kia mà tôi có phần can dự. Nhưng cũng không hoàn toàn phủ nhận.
Chí ít thì sau cái chết của ông, bao giờ tôi cũng nhắc mình cẩn thận không để bóng rơi vào chỗ bẩn, không dẫm lên bóng người khác và cũng không để người khác dẫm lên bóng mình.
Hà Nội, 2003
                                                 
QUẢ BOM CHƯA NỔ

Sau lễ tân gia đúng ba ngày thì ông Cần được biết rằng dưới ngôi nhà ông mới xây có quả bom chưa nổ. Mà bom to, loại nghìn cân Anh.
          Người cho ông biết cái tin khủng khiếp này chính là bạn ông, đại tá pháo binh về hưu, thời chiến tranh chỉ huy một khẩu đội pháo phòng không ở ngay trên nền đất nhà ông.
“Tôi lấy làm lạ sao khi người ta làm móng, nó không phát nổ”, ông đại tá về hưu nói.
Ông Cần cười mếu máo:
“Bác đùa. Chắc gì có mà nổ...”
“Không ai đùa những chuyện thế này. Tôi còn lưu được cuốn sổ ghi chép trực ngày ấy. Bác muốn, tôi cho xem. Đó là ngày 17 tháng Tám năm 1967, lúc bốn giờ ba mươi phút chiều. Hai chiếc F-105 từ biển bay vào. Một chiếc chúi xuống ném hai quả bom nhưng chỉ nghe một tiếng nổ. Tôi còn ghi thêm vào sổ: “Nhớ báo trên cho công binh xuống phá”. May hôm trước khẩu đội chúng tôi kịp dọn đi nơi khác, chỉ chừa lại trận địa giả. Khi báo yên, tôi đến thì thấy có hố bom rất lớn và một vết lõm hun hút cách đấy không xa, bằng chứng của một quả bom khác chưa nổ”.
“Cứ cho là như vậy, nhưng chắc gì nó nằm ngay dưới nhà tôi?”
“Tôi cẩn thận đánh dấu chỗ bom rơi, với mục đích báo người ta tháo gỡ như đã nói. Hướng đông cách cây si trên đường hai trăm mét. Cách giếng làng một trăm năm mươi mét về hướng tây. Căn ra, không đúng nhà bác là gì? Có thể không ngay dưới nhà mà ngoài sân. Nhưng với quả bom nửa tấn thì điều ấy chẳng có gì khác nhau”.
“Có thể người ta đã tháo ngòi nổ nó rồi?”
“Tiếc là chưa, vì sau đó chúng tôi được lệnh chuyển ngay đi nơi khác. Tôi không có thời gian báo cấp trên việc này. Rồi dân quân lấp hố bom, lấp luôn cả quả chưa nổ kia”.
“Có thể nó sẽ không bao giờ nổ, một khi đã nằm im chừng ấy năm dưới đất.”
“Vâng. Với những quả bom loại này thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Có thể suốt đời nằm im. Cũng có thể năm phút nữa nó sẽ nổ. Cái nguy hiểm và khó chịu là ở chỗ ấy”.
Hai người im lặng hồi lâu. Cuối cùng chủ nhà lên tiếng:
“Thế thì tôi phải làm gì bây giờ?”
Ông đại tá về hưu không đáp, có vẻ bứt rứt vì phải báo bạn một tin chẳng mấy dễ chịu.
Ông Cần quả lúng túng không biết phải làm gì.
Đây là ngôi nhà mơ ước cả đời của ông và gia đình. Ba tầng, mái giả ngói, thiết kế kiểu biệt thự Pháp, trên diện tích đất hơn trăm mét vuông bên rìa thị xã và nhìn ra hồ. Hồ nước đục, nông choèn, nhưng vẫn là hồ nên những ngôi nhà xung quanh trở nên có giá. Biết làm sao bây giờ? Đập đi, thuê công binh đến phá bom rồi xây lại? Không ổn. Cứ tiếp tục sống như không có gì xẩy ra? Cũng không ổn. Ông vốn yếu bóng vía, chắc gì không phát điên lên với ý nghĩ đang ngủ trên một quả bom chưa nổ?
Mấy đêm liền ông thức trắng, ban ngày vật vờ như bóng ma. Người ông gầy xọp, mặt mũi hốc hác. Vợ con hốt hoảng, căn vặn mãi nhưng ông không chịu nói. Xưa nay khối người xây xong nhà là lăn đùng ra chết!
Một hôm ông bắn tin bán nhà, bất chấp sự phản đối kịch liệt của bà vợ. “Bà muốn tôi ở đây mà chết à?” Nghe thế, vợ ông bán tín bán nghi, nhưng thôi không ngăn cản nữa, mặc dù không hiểu vì sao chồng bà có thể chết khi được sống trong một ngôi nhà đẹp.
Ngôi nhà được bán một cách nhanh chóng vì giá rẻ. Ông chọn mua một nhà khác nhỏ và xấu hơn, rất xa chỗ cũ. Ông vội vã cho cả nhà dọn đi ngay trong ngày nhận đủ tiền. Đêm hôm ấy lần đầu tiên ông ngủ ngon giấc, tuy không phải không có những giấc mơ toát mồ hôi lạnh.
Mọi việc dần dần rồi đâu cũng vào đấy. Ông hết lo lắng và khỏe mạnh trở lại. Chuyện làm ăn, con cái đều tốt. Hơn thế, khu nhà mới của ông đất bỗng tăng giá vùn vụt vì theo qui hoạch sẽ có một đường phố lớn chạy qua. Thậm chí có ngày ông còn quên không nghĩ đến ngôi nhà cùng quả bom chưa nổ mà ông đã khôn khéo đẩy sang cho người khác.
Tuy nhiên, chưa đầy hai tháng sau, người mua nhà ông tìm đến nhờ viết lại giấy để ông ta bán nó cho người khác. Chả là họ mới chỉ mua bán trao tay chứ chưa làm thủ tục pháp lý.
“Vì sao bác lại bán nó?” Ông Cần giả bộ thản nhiên hỏi.
“Tôi muốn dọn về đâu đấy gần Cầu Giẽ cho tiện việc đi làm”, ông kia đáp, cũng cố lấy vẻ tự nhiên, nhưng nét mặt lo lắng và thái độ lúng túng cho thấy ông ta đang nói dối.
“Vậy là họ đã biết và đang tìm cách ủn mối nguy hiểm ấy sang người khác. Như mình”. Ông Cần nghĩ bụng, thầm lo bị vạch trần sự thật. Nhưng không, nhận được cái muốn có, ông kia vội vàng xin phép ra về. Thậm chí còn nói rất tiếc phải bán ngôi nhà đẹp trên thế đất tốt như vậy.
“Vâng, tôi cũng rất tiếc khi bán nó cho ông”, ông Cần lơ đãng đáp.
Làm sao ông ta biết được nhỉ? Nhất định không thể do ông bạn đại tá cho biết. Vậy chỉ có thể ai đó trong số láng giềng. Điều này khó xẩy ra, vì bản thân láng giềng không dễ mà biết được. Nhưng rõ ràng đã có người biết, và cố ý báo cho người mua nhà ông. Để làm gì? Dụng ý tốt hay xấu?
Mấy hôm sau ông Cần phóng xe tới đó, chọn quán nước đối diện ở khoảng cách khá xa và bắt đầu lặng lẽ quan sát.
Chủ mới là một đôi vợ chồng còn trẻ với hai đứa con thật kháu khỉnh. Có vẻ giàu. Có vẻ trí thức. Cũng có cả vẻ hài lòng với ngôi nhà mới mua. Chắc giá rẻ.
Bỗng ông Cần nhắm mắt, thầm hình dung quả bom phát nổ, xé vụn cả ngôi nhà,  cả đôi vợ chồng trí thức, hai đứa trẻ thiên thần cùng cái vẻ hài lòng và hạnh phúc ông vừa chứng kiến.
Từ đêm hôm đó ông lại mất ngủ, với nỗi sợ mơ hồ luôn ám ảnh. Ông có cảm giác như chính ông đang nằm trên quả bom chưa nổ ấy.
Không hiểu cái ông vừa đẩy được nó cho anh chàng trí thức này có mất ngủ như mình không nhỉ?
Mấy tháng sau, ông Cần không chút ngạc nhiên khi thấy anh trí thức kia đến nhờ ông giúp làm giấy bán nhà. Cứ như ông đang chờ vậy. Cả anh này cũng có vẻ vội vã, khuất tất như ông lần trước. Ông Cần không hỏi lý do bán nhà vì đã biết trước câu trả lời. “Anh này coi bộ tử tế. Chắc sẽ không thảnh thơi lắm đâu. Tử tế mà hóa ra không tử tê. Như mình”.
                                                            *
Đến nay, đúng hai năm mười tháng sau khi ngôi nhà mơ ước ấy được xây xong, nó đã qua tay bốn người, và cả bốn người đã đến nhờ ông Cần chữa lại giấy tờ để sang tên cho người khác. Chắc chắn sẽ còn nhiều người nữa tìm đến ông. Ai cũng ra bộ luyến tiếc ngôi nhà, rằng bán nó vì cực chẳng đã, vì những lý do rất xác đáng. Lý do ấy ông biết. Ai cũng biết nhưng không muốn, không dám nói.
Quả bom vẫn chưa nổ. Có thể nó sẽ không bao giờ nổ. Thậm chí có thể không hề có một quả bom như thế. Nhưng vì an toàn, người ta cứ đùn đẩy nó cho người khác. Toàn những người tử tế đùn đẩy cho nhau. Cũng vì tử tế mà sau đó họ trằn trọc hết đêm này đến đêm khác, mặt mũi phờ phạc, lương tâm cắn dứt đến đổ bệnh. Họ khôn khéo thoát được quả bom nằm tít đâu đó sâu dưới lòng đất mà chưa chắc đã có thật, để tạo ra thêm, hiện giờ là bốn, nhưng sau này sẽ là bốn mươi, bốn trăm quả bom khác trong đầu mình, hoàn toàn có thật, chưa nổ nhưng chắc chắn sẽ nổ.
Những quả bom hẹn giờ mà họ, chỉ mình họ nghe được tiếng đồng hồ đếm ngược đang lạnh lùng kêu tích tắc.
Hà Nội, 2003



NHỮNG CÔ GÁI ÁO TRẮNG

Truyện ngắn. Thái Bá Tân
1
N.V. ngày 20 tháng 11 năm 197...
Rét! Rét quá! Ba đứa một giường ôm nhau, mình nằm giữa, hai chăn trùm kín đầu và chân mà mãi không sao ngủ được. Có lẽ do trong hang ẩm và nước nhỉ bám đầy tường đá mới rét thế. Đêm nay ra bến phà gió mạnh, không biết còn rét đến đâu.
Không ngủ được, nằm suy nghĩ vẩn vơ mãi cũng chán, đành dậy viết nhật ký. Xưa nay mình ít viết nhật ký, lại viết dở nên rất ngại, cả viết thư cũng thế. Nhưng lúc này... Biết làm gì cho hết thời gian lúc này?
Điều đầu tiên mình muốn viết là - nhớ nhà. Nhớ và thương mẹ quá. Mẹ bây giờ đang làm gì nhỉ? Chắc buồn và giận mình lắm. Hãy tha lỗi cho con mẹ nhé, vì con bỏ mẹ ở nhà một mình, già yếu không ai giúp đỡ. Hôm được tin con ghi tên đi thanh niên xung phong, mẹ không nói gì, còn cố gượng cười để con yên tâm nhưng con biết trong lòng mẹ rất buồn và có thể còn trách con không hỏi ý kiến mẹ trước. Mẹ ơi, con hiểu lòng mẹ. Bản thân con, con cũng chẳng dễ gì khi phải xa mẹ, xa ngôi nhà tranh bé nhỏ thân yêu của ta. Nhưng việc con ra đi là cần. Rất cần mẹ ạ. Con tin mẹ hiểu điều đó...
Có nên cho mẹ biết sự thật về điều kiện sống và làm việc ở đây không nhỉ?  Không! Chỉ làm mẹ thêm lo nghĩ. Vả lại, chắc gì mình ở lâu một chỗ? Mới tuần trước còn làm đường ở Trường Sơn, bây giờ đã ở đây, cao điểm phà sông L, cách biển chưa đầy hai chục cây số. Không hiểu nay mai còn đi những đâu nữa.
Nhớ cái Hòa và bọn bạn cùng đơn vị. Không được đi với mình lần này, chắc nó buồn lắm. Hai đứa cùng làng, cùng đi một ngày, cùng ở với nhau chừng ấy thời gian, thế mà... Biết làm thế nào được. Cả đội xung phong, người ta chỉ lấy năm. Năm người để dẫn đường cho ô tô qua sông ở bến phà này, thay cho cả tổ, cũng nữ và đều là thanh niên xung phong, vừa hy sinh ba ngày trước đó. Những người được chọn là Vân, Yến, Lộc, mình và Út. Mỗi đứa một tính, một kiểu người nhưng đều rất trẻ và chưa chồng, chưa cả người yêu, trừ cái Yến, già nhất, hai mươi hai tuổi, nghe nói đã có "chàng" nào đấy. Cũng nghe nói thôi chứ chưa bao giờ thấy cô nàng nhận thư hoặc nói gì về anh ấy. Nó kín lắm. Lại nghiêm khắc nữa. Tổ trưởng mà. Từ nãy đến giờ đã hai lần nhắc mình ngủ, đêm còn đi làm. Cả cái Út nữa (nó cũng là em út của tổ), nó đã mấy lần cấu mình, bắt nằm xuống để ôm nó cho ấm. Cứ như con nít...
21 tháng 11.
Ngày cũng như đêm, không lúc nào ngớt tiếng máy bay. Thỉnh thoảng còn pháo từ biển câu lên.
Tổ mình ở phía Bắc bến phà. Cả năm đứa đứng rải trên một đoạn đường dài, từ mặt nước tính lùi lại, mỗi đứa cách nhau hai trăm mét. Tổ trưởng Yến phân công Út đứng trên cùng vì nó nhỏ nhất, lại mới ra chiến trường. Tiếp đến là Vân rồi Lộc. Chặng cuối cùng phải hai người, là mình và Yến.
Đây là một trong những trọng điểm ác liệt nhất của mạch máu giao thông Bắc Nam. Cách sông còn những mấy cây số mà mặt đường đã bị bom và rốc-két địch cày tung, ô tô không thể tự đi một mình nếu không có người xi-nhan. Nhiệm vụ bọn mình là đi trước, dẫn xe men theo những miệng hố bom mới lấp sơ sài, tránh chỗ đánh dấu có dấu bom nổ chậm, cho tới tận mép nước. Ở đấy sẽ có người xếp xe lên phà. Vì đêm không được đốt đèn, bọn mình đứa nào cũng phải mặc áo trắng để từ ca-bin, lái xe thấy mà đi theo. Những lúc có máy bay - ấy là nói khi chúng thả pháo sáng hoặc lao xuống bắn phá, chứ bay ngang hay vần lượn thì kệ - ai ở trên có thể chạy lánh xa khu vực bến phà, còn người phía dưới thì ở nguyên tại chỗ, trú trong các hầm cá nhân được đào sẵn bên cạnh. Có lúc chúng bắn mặc chúng, phà cứ chạy, ô tô cứ đi, tất nhiên con người cứ tiếp tục làm việc. Càng sáng. Càng không phải dò dẫm như trước.
Ban ngày bến phà thật yên tĩnh, nhưng chỉ là cái yên tĩnh tương đối của chiến tranh. Không tiếng phà, không tiếng ô tô, không có gì ngoài một dải đất nham nhở màu sắc lẫn lộn, lổng chổng những xác xe bị lật hoặc bị bắn cháy chưa kịp thu dọn. Bên cạnh, giấu hết mọi sự khốc liệt của chiến tranh vào lòng, con sông vẫn không ngừng chảy, bình thản và hiền từ như nghìn năm nay. Thật khó tin rằng chỉ chốc nữa, khi mặt trời vừa lặn, là hàng đoàn ô tô, hàng đoàn người sẽ từ đâu đó chui ra. Cả bến phà sẽ bừng tỉnh dậy để bắt đầu một "ngày" mới, một cuộc chiến đấu mới...
25 tháng 11.
Hôm nay cả hai phà cùng trúng bom một lúc. Gần mười chiếc xe  được dẫn xuống tận sông phải đứng trơ trọi dưới ánh sáng chói rực của đèn dù, dưới làn bom và rốc-két máy bay địch.
Phòng không ta bắn rất dữ.
Tổn thất...
Mình có sợ chết không? Biết nói thế nào được nhỉ? Có. Sợ, nhất là những lúc thế này, khi suốt ngày nằm dài trong hang yên tĩnh và có quá nhiều thời gian để suy nghĩ. Ừ, có lẽ nói sợ cũng chưa thật đúng. Mình chỉ tiếc. Bây giờ mà phải chết thì tiếc lắm. Lại thương nữa. Thương mẹ ở nhà. Thương bọn bạn phải buồn, phải gánh thêm một phần việc.
Không hiểu sau khi chết thế nào nhỉ? Không lẽ mình sẽ chẳng còn biết gì nữa? Chẳng biết cả việc một ngày nào đó chiến tranh kết thúc, mọi người sẽ tìm gặp lại nhau, sẽ đi học, làm việc, hay chỉ đơn giản sẽ được sống hòa bình? Ôi, hòa bình!... Chết chắc phải đau lắm. Hẳn thế. Không đau sao được khi cơ thể bị xé ra từng mảnh? Người khác nghĩ thế nào về cái chết? Cái Lộc và cái Vân, cái Út hay cái Yến chẳng hạn? Chúng có sợ như mình không? Chắc có, nhưng chúng không bao giờ để lộ điều ấy ra ngoài. Chúng vẫn lặng lẽ làm việc, các tốp thanh niên xung phong chữa đường cũng thế. Anh em lái xe, lái phà cũng thế. Mình cũng thế.
27 tháng 11.
Đọc mấy trang vừa rồi, thấy buồn cười. Toàn chuyện vẩn vơ không đâu. Lúc nãy tò mò, mình hỏi Ùt:
- Này Út, em có sợ chết không?
Út tư lự một lúc, rồi thay cho câu trả lời, nó hỏi lại:
- Em hỏi chị, chị phải nói thật nhé, chị Liên. Đã bao giờ có người con trai nào hôn chị chưa?
- Chưa... Sao em hỏi thế?
- Em cũng chưa. Con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế nào ấy, chị nhỉ? - nó nói, giọng mơ màng và hơi buồn, rồi lại rúc vào chăn, ôm mình đến nghẹt thở. Con bé rõ đến lạ.
1 tháng 12.
Cả bọn được một phen hú vía. Chiều qua một thằng "Con Ma" bất chợt phóng liền mấy quả tên lửa vào đúng cửa hang. May không ai việc gì. Lý do là trước đó mấy đứa tắm xong, bao nhiêu đồ lót, đồ vệ sinh phơi tuốt cả một dây ngoài nắng. Tuy biết làm thế có thể nguy hiểm, nhưng kệ. Cứ trêu thằng Mỹ, xem hắn tồi đến mức nào. Và thằng Mỹ đã cho biết hắn tồi đến mức nào. "Cứ thấy xu-chiêng đàn bà là mò đến!" một đứa châm chọc.
Sau đó họp tổ, cái Yến cấm từ nay không được ai phơi bất cứ cái gì trắng ngoài cửa hang, thậm chí cả khăn mù- xoa. Nhưng ác thay trong hang luôn ẩm ướt, không có gió nên phơi bao lâu vẫn không khô. Mặc vào người thật khó chịu.
5 tháng 12.
Nhớ nhà quá!
Thèm bữa canh rau mồng tơi. Hay rau ngót, rau bầu cũng được. Ở đây không chợ, không vườn, cái cần và khó kiếm hơn cả là rau xanh vì miền Trung đất cát, quanh năm nắng nóng chẳng tìm đâu ra những thứ ấy. Khắp nơi đất bị cày tung, có hôm đi suốt buổi chỉ nhặt được nhúm rau má già hoặc rau sam chua loét. Da cứ sùi lên như bị hủi...
6 tháng 12.
Cái Lộc có thư. Nét chữ trên phong bì nắn nót, lại không ghi tên người gửi. Cả bọn đoán thư người yêu nên hồi lâu bắt nó phải khai thật hết mọi chuyện mới cho nhận. Cái Lộc nói ngay là chẳng có gì để khai, bảo cứ bóc tại chỗ, đọc to mọi người cùng nghe. Thì ra đó là thư một người bà con xa ở Hà Nội, nội dung khô khan và chỉ những lời thăm hỏi bình thường. Không hiểu sao nghe xong, đứa nào cũng có vẻ như bị hẫng và hơi buồn, vì cứ tưởng và muốn đó là một bức thư loại khác, thư tình với những lời âu yếm dè dặt và kín đáo, dù những lời ấy không dành cho mình.
Lát sau nằm trong chăn, lại cái Út cấu vào tay:
- Chị Liên này, chị có người yêu chưa?
- Chị cũng không biết. Có lẽ chưa.
- Sao lại có lẽ? Có hay không thì chị phải biết chứ?
- Chuyện không đơn giản như thế... Mà thôi, Út ngủ đi.
Nhưng cái Út không chịu thôi. Tính nó thế, muốn biết cái gì là phải hỏi bằng được.
- Anh ấy là ai? ở đâu?
Mình buộc phải trả lời nó:
- Xa lắm. Anh ấy đang học ở nước ngoài. Nhưng từ ngày xa nhau, chị chưa bao giờ nhận được thư anh ấy. Còn chị thì không biết địa chỉ, mà có biết cũng không gửi. Chị và anh ấy cùng làng.
- Thế anh ấy có yêu chị không ?
- Chị không biết. Chắc anh ấy quên chị rồi.
- Còn chị?
- Đừng hỏi nữa. Ngủ đi. Mà rồi giữa anh ấy và chị chưa có gì đặc biệt. Chỉ thế thôi.
Cái Út nằm im một lúc rồi bỗng nói, giọng hờn dỗi:
- Em là em chúa ghét những anh đi nước ngoài. Cứ tưởng mình ghê lắm, mặt vênh lên nhìn người khác bằng nửa con mắt...
- Ấy, em đừng nói thế. Không phải ai cũng như em nghĩ đâu.
Cái Út không nói gì thêm, nhưng chắc còn lâu nó mới ngủ được. Nó trong trắng, vô tư quá. Hôm nọ nó nói gì nhỉ? Ừ, "con gái chết mà chưa được hôn kể cũng thế nào ấy..." Ngộ thật.
2
- Cái này mãi gần hai năm sau khi nó hy sinh tôi mới nhận được. - Bà Nghĩa vừa nói, vừa hất đầu chỉ cuốn nhật ký tôi đang đọc dở. - Cùng ít quần áo và tư trang của nó. Tôi nhờ thằng lớn nhà Cả Chung bên cạnh đọc cho nghe. Tội nghiệp con bé. Tôi chỉ có mình nó, nhiều khi nghĩ mà đứt ruột. Cậu xem, tôi già yếu thế này, vậy mà trời bắt phải sống lâu hơn con, sống để nghe những lời kia của nó...
Rồi bà thở dài, cúi xuống sàng nốt mẻ gạo mới giã.
Nhà bà Nghĩa và nhà tôi chỉ cách nhau mấy con ngõ. Chồng chết sớm, bà chưa quá năm mươi mà trông như cụ già.
Năm nay tôi dành trọn cả mười ngày phép về thăm quê. Theo lời khuyên của mẹ tôi, tôi đi một vòng gọi là "thăm xã giao" các nhà trong xóm, một việc những lần trước phần vì bận, phần vì ngài ngại, tôi vẫn chưa làm được. Tôi đến nhà bà Nghĩa và bà đã cho xem cuốn nhật ký của Liên, con gái bà, để lại.
Bà Nghĩa có đoán ra tôi là "anh ấy" mà Liên đã nhắc trong nhật ký không? Có thể lắm. Vì vậy bà cho tôi xem để trách khéo việc tôi để con gái bà đau khổ chăng? Cũng có thể bà không biết gì. Xưa nay bà là người tốt bụng, chất phác, không quen suy xét sâu sắc kiểu ấy. Vả lại, trong xóm tôi không là người duy nhất đi học nước ngoài những năm chiến tranh.
Còn tôi, tôi và Liên thì thế nào?
Không ngờ Liên tình cảm và sâu sắc đến thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi  thấy lúc đó quả tôi là một cậu bé ngờ nghệch, vô tư đến tàn nhẫn. Chúng tôi là bạn thân, học cùng trường, tôi hơn một lớp. Trường xa, chúng tôi cùng đi cùng về mà nào có bao giờ nói chuyện với nhau, hoặc giả có nói, cũng chỉ toàn chuyện bông đùa, trêu chọc như phần lớn những đứa khác vào tuổi ấy. Tất nhiên tôi không thể không nhận thấy Liên là một cô bé (trong ký ức tôi, bao giờ Liên cũng là cô bé) tốt, lại xinh. Nhưng lúc ấy về tâm, sinh lý tôi chưa phát triển đến tình cảm yêu đương, và tất nhiên không biết có thể Liên đã chú ý, hay thậm chí còn thầm yêu tôi.
Đêm trước hôm tôi đi, cùng một số bạn gái khác, Liên đến chia tay, uống nước chè xanh, ăn kẹo lạc và hát những bài ca cách mạng. Suốt buổi Liên im lặng. Rồi tình cờ hai đứa ngồi cạnh nhau. Cũng im lặng. Có thể lúc ấy tôi lờ mờ đoán được tình cảm của Liên với tôi, nhưng Liên không dám nói. Còn tôi, không hiểu tôi có nói điều gì không để Liên hiểu theo cách mình và hy vọng, dù không đâu, mong manh, nhưng vẫn cứ là hy vọng?
Tôi xa nhà bảy năm. Có thể nói suốt thời gian ấy tôi quên hẳn Liên, không hỏi thăm hoặc viết cho Liên một bức thư nào. Khi Liên hy sinh, tôi được bố mẹ báo cho biết. Tôi buồn và thương Liên, hẳn thế, nhưng vẫn là cái buồn thương chung chung như khi nghe tin ai đấy trong làng từ chiến trường  không trở lại. Có lẽ tôi sẽ còn tiếp tục nghĩ như thế về Liên, nếu hôm nay vô tình không được đọc cuốn nhật ký này.
Bà Nghĩa đã bỏ ra sân thái rau cho lợn. Tôi ngồi lại một mình bên chiếc bàn học của Liên ngày nào, xúc động lật tiếp những trang chữ li ti đã ngả màu cùng năm tháng...
 3
10 tháng 12.
Mỗi đứa được phát hai mét vải trắng. pô-pơ-lin pha ni-lông hẳn hỏi, để may áo thay những chiếc đã ố màu, lái xe kêu họ cứ lẫn với màu trắng của đất.
Cả hang sôi nổi hẳn lên. Đi làm về, vừa chợp mắt một chốc đã vùng dậy, đứa nào cũng hý hoáy may may cắt cắt.
Bỗng cái Vân ngừng tay, ngồi thừ một lúc rồi nói:
- Kể cũng buồn cười thật đấy, chúng màỵ ạ. Bọn mình thì tỉ mẩn may móc từng mũi nhỏ, nhỡ một tý đã xuýt xoa như may áo cưới không bằng, lại còn kiểu này, kiểu nọ nữa. Nhưng thử hỏi để làm gì? Ban ngày không dám mặc, mà cũng chẳng biết mặc cho ai, còn đêm, đêm thì thế nào chẳng được. Tớ ấy à, tớ thì muốn cứ để cả tấm mà khoác. Càng rõ. Càng khỏe. Còn hơn phải vất vả thế này để làm duyên... làm duyên với những chiếc ô-tô mù!
Mắt cái Vân ươn ướt như muốn khóc. Nó nói là nói thế thôi, chứ cả tổ, nó vẫn là đứa ưa diện nhất, kỹ tính nhất trong chuyện ăn mặc, chắc chắn lần này áo của nó cũng được may cẩn thận và đẹp nhất.
- Cánh lái xe là chúa tếu đấy nhé. - Một chốc sau Lộc lên tiếng, có lẽ để xua đi sự im lặng bất tiện. - Một hôm có chàng bảo mình thế này, chúng mày nghe có được không? "Này, đồng chí áo trắng ơi, đồng chí có xinh không đấy?". "Không đến mức khó coi như anh tưởng đâu", mình đáp. “Vì sao anh hỏi thế?". "Là vì cái xe của tôi ấy mà, không hiểu sao từ khi gặp cô, nó không chịu nghe theo tay lái của tôi nữa. Cô đi, nó đi, cô đứng, nó đứng. Tự nó quyết định. Còn tôi, tôi chỉ ngồi khoanh tay mà nghĩ rằng chắc cô phải xinh lắm nên mới thôi miên được nó như vậy. Tôi lo chốc nữa nó sẽ tự theo về lán của cô mất. Tôi không có lỗi đâu nhé. À mà lán các cô ở đâu nhỉ?” Mình cũng không vừa, mình nói: "Nhà em ở kia, ở phía cái hang kia kìa. Hôm nào từ chiến trường quay ra, cứ để cái xe khó bảo của anh rẽ vào, chồng em sẽ cho nó một trận!..."
- Giỏi lắm! Rồi anh chàng đáp sao? - một đứa hỏi.
- Anh chàng im, nhưng chắc hiểu mình đùa. Anh ta thấy màu trắng áo mình. Còn mình thì chẳng thấy gì. Chỉ nghe giọng nói. Ấy thế mà buồn cười lắm, chúng mày ạ. Xe đi rồi mà không hiểu sao mình cứ thấy bâng khuâng thế nào ấy... - Cái Lộc ngồi im một lúc rồi đột ngột hỏi: - Chúng mày có nghĩ  một ngày nào đó anh ta sẽ vào đây không?
12 tháng 12.
Ngày đầu tiên cả năm đứa diện áo mới đi làm. Mỗi đứa mỗi kiểu, vuốt, gấp cẩn thận rồi đặt dưới lưng nằm suốt đêm cho thật phẳng, thành nếp hẳn hoi như được là kỹ. Ngay từ chiều, đứa nào cũng mặc áo mới, soi gương ngắm nghía, rồi cởi ra, rồi lại mặc vào, đổi áo, ướm thử áo nhau mãi. Khi không còn việc gì nữa để làm, cả bọn cứ mặc áo mới ngồi chờ đêm xuống để ra khỏi hang, bồn chồn và sung sương như chờ cái gì đấy thật hệ trọng.
Không biết hôm nay các chàng lái xe có nhận thấy sự kiện mới lạ này không ?
15 tháng 12.
Mấy ngày nay thằng Mỹ hoạt động đặc biệt ác liệt. Nó quyết phá. Ta quyết giữ. Máy bay bay suốt đêm. Pháo từ biển câu vào không còn theo giờ như trước. Nhưng dòng xe không vì thế mà bị dừng lại. Bến phà phải đổi chỗ nhiều lần. Kể ra, gọi là chỗ vượt sông thì đúng hơn. Nhiều chỗ vượt sông như thế. Có cả chỗ để nghi binh. Thiếu người, tổ phải chia ra làm việc ở ba nơi.
Nhớ nhà quá. Nhớ mẹ quá.
Anh ấy có lúc nào nghĩ về mình không nhỉ?
16 tháng 12.
Út hy sinh! Ba giờ sáng hôm nay. Nó làm một chỗ với Vân. Một thằng lao xuống phóng rốc-két, như hàng trăm thằng trước đấy từng lao xuống phóng rốc-két. Tiếng nổ bình thường, trận đánh phá cũng bình thường, nghĩa là tất cả giống hệt mọi ngày, thế mà sau đó Út không còn nữa. Một mảnh đạn cắm đúng tim nó. Một mảnh khác cắt đứt phần trên vú trái. Một tiếng sau khi nó chết, mình mới biết. Biết mà chẳng đến được vì còn phải làm việc. Khi gặp Út thì trời đã sáng. Yến đã lau sạch máu và bụi bẩn trên người nó. Một đứa nào đó trong tổ cởi chiếc áo trắng mới còn nguyên lành của mình mặc cho út. Khuôn mặt Út thật thanh thản. Đôi mắt vuốt mãi không chịu nhắm như đang mơ màng nhìn một điểm nào đó trước mặt. Nó chỉ ngạc nhiên, hơi buồn vì phải chết sớm và vô lý như vậy. Một bên miệng của nó hơi nhếch, thơ ngây, bẽn lẽn như hôm nào nó hỏi: "Con gái chết mà chưa được hôn, kể cũng buồn, chị Liên nhỉ?".
Mình cúi xuống, lặng lẽ hôn lên đôi môi của Út.
17 tháng 12.
Hôm nay đi làm về, thương Út, cả bốn đứa ngồi ôm nhau khóc.
20 tháng 12.
Vẫn ác liệt như trước. Xe vẫn thông.
24 tháng 12.
Thế là đã ở bến phà N.V. này hơn một tháng. Một tháng cộng với hai năm nay đây mai đó theo các con đường của khu Bốn khói lửa. Chỉ mấy ngày nữa là năm mới. Năm mới... mọi người sẽ già thêm một tuổi. Mình cũng thế.
Liệu mình phải già thêm bao nhiêu tuổi nữa trước khi chiến tranh kết thúc? Còn Út thì vĩnh viễn ở lại với cái tuổi mà bây giờ nó có, chiến tranh hay không chiến tranh cũng thế. Vĩnh viễn yên nghỉ với cảm giác thanh thản của người đã cống hiến cho người khác cái quý nhất mình có. Đúng, thanh thản, nếu không kể nỗi sợ rất con gái kia mà nó vẫn cảm thấy đâu đó sâu trong lòng cho tới khi xuống mộ. Tội nghiệp con bé...
27 tháng 12.
Xe vào nhiều quá, có lẽ sắp đánh lớn. Ban ngày ít được ngủ hơn vì thường đi chữa đường giúp các đội thanh niên xung phong.
Hàng ngày bốn đứa vẫn mặc áo từ chiều, những chiếc áo được may đẹp, gấp vuốt phẳng phiu, ngắm nghía, sửa sang cho nhau để tối đến, như cái Lộc một lần chua xót nói, “làm duyên với những chiếc xe mù”. Kể cũng buồn cười, biết người khác không thấy mặt mình và mình không thấy người khác, chỉ những cuộc gặp gỡ thoáng qua mấy phút, lại trong hoàn cảnh ác liệt như hiện nay, thế mà cả tổ trước khi đi đứa nào cũng chăm chút vẻ ngoài như sắp làm dâu không bằng. Một bản năng rất con gái, có lẽ cũng chỉ con gái mới hiểu nổi. Chao, ước gì hoà bình! Ước gì được mặc những chiếc áo trắng này tự do đi lại giữa ban ngày...
28 tháng 12.
Hôm nay Yến hy sinh!...
Còn lại ba người: Vân, Lộc và mình. Mình được cử làm tổ trưởng.
Yến ơi, thương mày quá. Mày là đứa duy nhất có người yêu chờ đợi, thế mà mày hy sinh... Mày quá kín đáo, mày chẳng cho chúng tao biết người yêu của mày là ai, ở đâu, để chúng tao báo cho anh ấy biết mày là người thế nào.
31 tháng 12.
Hầu như đêm nào cũng có xe đổ và người chết. Mỗi lần ra phà, đâu đó sâu trong tim, một ý nghĩ nhỏ thôi, nhanh thôi nhưng sắc như mũi dao lại nhói lên - ý nghĩ rằng hôm nay sẽ đến lượt ai đây? - mình, cái Vân, cái Lộc, hay thậm chí cả ba?
Trước khi bước ra khỏi hang, ba đứa nhìn nhau im lặng, nhưng rất hiểu...
Xe vẫn thông...
                                               
4
Nhật ký của Liên ghi đến đây thì dừng. Bất giác tôi ngước lên nhìn tấm bằng liệt sĩ lồng kính treo trang trọng trên tường. Thì ra Liên hy sinh đúng vào ngày 31 tháng 12 năm 197..., ngày cuối cùng ghi trong nhật ký. Cũng là ngày cuối cùng trong năm. Tôi nhẩm tính - Liên đã không gắng sống thêm được mấy giờ nữa để bước sang năm thứ hai mươi đẹp đẽ của đời mình.
Từ trên tường, qua lớp kính phủ nhẹ một màng bụi mỏng, một cô bé tóc tết đuôi sam, khuôn mặt còn trẻ con với đôi mắt thơ ngây mở to đang nhìn tôi. Đó là Liên. Chắc đây là bức ảnh duy nhất của con gái bà Nghĩa còn giữ được, chụp vào dịp Liên tốt nghiệp lớp mười. Tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt ấy; không dám nhìn cả vào đôi môi đang hé mở, đôi môi chưa một lần trong đời được biết cảm giác của cái hôn âu yếm.
Tôi lặng lẽ trả lại cuốn nhật ký cho bà Nghĩa, lơ đãng trao đổi thêm ít câu rồi ra về.
Sáng hôm sau, trước sự ngạc nhiên của mọi người, tôi thu gói đồ đạc lên đường, nhưng không phải đi Hà Nội mà ngược lại, vào Vinh mua vé ô-tô đi Quảng Bình, tới bến phà N.V. mà Liên nói đến trong nhật ký.
5
Ở trụ sở ủy ban xã S. nơi có bến phà N.V. ngày nọ, sau khi nghe tôi tự giới thiệu và nói rõ mục đích chuyến đi của mình, người ta chỉ cho tôi đến gặp ông Nam, phó chủ tịch xã.
Ông Nam là người vui tính và cởi mở. Ông nhìn qua một lượt suốt người tôi và hỏi:
- Anh là bà con cô Liên à? - Nhưng không chờ tôi trả lời, ông nói luôn: - Chính tôi là người tìm thấy và đọc cuốn nhật ký đó. Tội nghiệp các cô gái. Hồi ấy tôi là trung đội trưởng dân quân xã. Tôi được lệnh điều các cô dân quân của tôi dẫn xe ở đoạn trên, còn ba cô thanh xung phong thì làm ngay sát bến phà. Vào cái đêm cuối năm đáng nhớ ấy, hình như độ mười giờ thì phải, bất ngờ một chiếc "Thần Sấm" từ đâu lao đến ném một loạt bom, không lượn vòng nào, cũng chẳng thèm bắn pháo sáng, thế mà trúng phà, trúng luôn cả ba cô gái. Anh xem có đau không ... - Ông Nam dừng lại, ngồi im một chốc như cố nhớ điều gì, rồi nói tiếp, giọng trầm hẳn xuống: - Thậm chí đêm ấy, bận việc thông xe, chúng tôi chẳng kịp nhặt hết các mẩu xác bị bom chặt đứt vung vãi khắp nơi. Mãi chiều hôm sau mới tìm được hết, xác định cái gì là của ai rồi làm lễ chôn cất. Sau này, chiến tranh kết thúc, khi người ta định đưa các cô - cả năm cô - vào nghĩa trang liệt sĩ xã, tôi đem chuyện nhật ký cô Liên ra kể và đề nghị xây riêng mộ cho các cô ở cạnh bến phà cũ. Ý kiến của tôi được chấp nhận. Bây giờ ta ra đấy chứ?
Nói rồi, ông phó chủ tịch xã hăm hở đi trước, tắt qua một cánh đồng lúa vừa trổ bông thoang thoảng hương thơm, về phía dòng sông L. đang trải rộng, trắng lóa dưới ánh mặt trời tháng Tư. Tôi lặng lẽ bước theo với cảm giác hồi hộp như sắp được chứng kiến một cái gì đấy linh thiêng và trọng đại.
Trên đỉnh một ngọn đồi xanh vươn sâu tận mép sông, người ta xây mộ năm cô gái thanh niên xung phong thành năm cánh của một bông hoa, đầu chụm vào nhau. Một bông hoa màu trắng, vì mộ được quét vôi trắng. Các bia đứng kề sát nhau, tạo thành một hình tròn có trồng những bông hồng và cúc lẫn lộn, tức là làm nhị của bông hoa xi măng trắng vĩ đại. Trên những tấm bia ấy tôi đọc thấy tên cô Yến tổ trưởng nghiêm khắc; tên cô Vân ưa diện; tên cô Lộc mơ hồ chờ đợi một chàng lái xe mà cô chỉ mới trò chuyện một lần nhưng không thấy mặt; tên cô Út bé nhất tổ chỉ sợ duy nhất một điều là chết mà chưa được hôn. Và tất nhiên tôi thấy cả tên của Liên, cô hàng xóm, cô bạn cùng trường của tôi, người con gái đưa tôi vượt hàng trăm cây số đến đây, và quan trọng hơn là đã giúp tôi tự nhìn nhận lại mình, tự đánh giá nghiêm khắc những gì tôi đã, đang và sẽ làm trong đời.
- Nghĩ mà thương các cô gái, - vừa bật lửa châm hương, ông Nam vừa khe khẽ nói. - Đang  tuổi ăn diện mà đến cái áo trắng cũng không được mặc ban ngày. Còn bây giờ thì...- ông ngập ngừng chốc lát rồi quay sang bảo tôi: - Những ngôi mộ này, anh ạ, cứ đều đặn nửa năm một lần tôi cho quét vôi mới. Cũng có người kêu lãng phí, nhưng tôi thì tôi cứ cương quyết...
Ông Nam còn nói thêm điều gì nữa nhưng tôi không nghe rõ, vì lúc ấy tôi đã bỏ đi xa, tìm nhặt những bông hoa bướm, hoa mua mọc nhiều quanh đấy. Một chốc sau, tôi quay lại với một bó lớn trong tay. Tôi chia đều thành năm phần, nhẹ nhàng đặt lên năm cánh trắng của bông hoa xi măng. Rồi vô tình như hẹn trước, cả tôi và ông Nam cùng cúi đầu đứng lặng mấy giây.
- Liên ơi, hãy tha lỗi cho tôi Liên nhé!
6
Sáng hôm sau, tôi lên đường ra Hà Nội. Từ ô tô, tôi thò đầu qua cửa sổ, ngoái nhìn mãi những ngôi mộ màu trắng được xếp thành hình một bông hoa trên ngọn đồi xanh, trông xa như chiếc nơ trên đầu một cô gái. Suốt  đường đi, những ý nghĩ đượm buồn cứ quanh quẩn trong đầu tôi, ý nghĩ rằng ngày xưa đã từng một thời có nhiều cô gái chỉ thèm được một lần mặc áo trắng tự do đi giữa ban ngày, thế mà các cô chỉ được mặc vào ban đêm để làm nhiệm vụ, để "làm duyên với những chiếc xe mù". Và rồi các cô hy sinh, lặng lẽ mang theo xuống đất cùng tuổi trẻ là cái ước mơ tưởng vô cùng đơn giản ấy, cũng như các cô đã lặng lẽ lập chiến công, lặng lẽ yêu và lặng lẽ ra đi để một ngày nọ, như trong câu chuyện cổ tích, lặng lẽ biến thành những cánh hoa màu trắng, cái màu trắng phải đổi bằng màu của máu...
Đà Lạt tháng 4, 1982.
Hà Nội, tháng 2, 1984.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét