CHÍN PHẦN VÀ MỘT PHẦN
Không quan trọng, giàu có,
Anh mua dược vi-la.
Thậm chí vi-la khủng,
Lộng lẫy và xa hoa.
Quan trọng - trong nhà ấy,
Trong ngôi nhà của anh
Vợ chồng luôn hòa thuận,
Con ngoan, chăm học hành.
Không quan trọng, tài giỏi,
Anh kiếm tiền, kiếm nhiều.
Quan trọng - làm việc thiện,
Anh cho đi bao nhiêu.
Không quan trọng cả việc
Anh có tỉ tỉ đồng.
Quan trọng - anh có thấy
Lòng mình thanh thản không.
Quan trọng - biết chơi nhạc
Và thông thạo tiếng anh.
Yêu thiên nhiên, đọc sách.
Đặc biệt, có tâm lành.
Để làm nên hạnh phúc,
Cứ cho là mười phần,
Thì chín phần trong đó
Phụ thuộc vào tinh thần.
Ai cũng biết điều ấy.
Ai cũng nói rất hay.
Nhưng ít người thực sự
Hiểu, làm được điều này.
ĐẦU NĂM, NÓI CHUYỆN ĐẠO
Một - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
Phật Giáo được du nhập
Vào Việt Nam nước ta
Trực tiếp từ Ấn Độ,
Khoảng thế kỷ thứ ba (trước CN).
Từ Buddha, tiếng Phạn -
Bậc Giác Ngộ Tối Cao,
Lúc ấy dịch thành Bụt,
Trong cổ tích, đồng dao.
Do ảnh hưởng Trung Quốc,
Về sau từ Buddha
Gọi là Phật, Đức Phật,
Phật Đồ hoặc Phật Đà.
Tương truyền Chử Đồng Tử
Học đạo nhiều năm liền
Một nhà sư Ấn Độ
Thời kỳ đầu Công Nguyên.
Thủ phủ quận Giao Chỉ
Ngày ấy là Luy Lâu,
Thành trung tâm Phật Giáo,
Ở Bắc Ninh, Chùa Dâu.
Chùa còn lưu truyền thuyết
Về sư Khâu Đà La,
Về Man Nương Phật Mẫu
Và Thạch Quang Phật Đà.
Đạo Phật được phổ biến,
Gần như khắp toàn dân
Vào thời điểm cực thịnh,
Đời nhà Lý, nhà Trần.
Nhưng sau đó Nho Giáo
Lại lấn lướt mọi bề.
Phật Giáo bị o ép,
Suy thoái thời Hậu Lê.
Cuối thế kỷ mười chín
Phật Giáo mới bắt đầu
Được chấn hưng trở lại
Từ trung tâm Chùa Dâu.
Theo số liệu chính thức,
Hiện có bảy triệu người
Là tín đồ Phật Giáo,
Sống nửa đạo nửa đời.
Hai - THIỀN TÔNG
Đầu thế kỷ thứ sáu,
Sư Bồ Đề Đạt Ma,
Vốn gốc người Ấn Độ,
Thành lập ở Trung Hoa
Một tông phái Phật Giáo
Được gọi là phái Thiền
Thiền là Tâm tĩnh tại.
Tiếng Hán gọi là Zen.
Theo Thiền Tông, Phật tử
Phải dành nhiều thời gian
Ngồi định thiền, bất động
Để chứng Phật Niết Bàn.
Cuối thế kỷ thứ sáu,
Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
Nhà sư gốc Ấn Độ
Đến làm sư trụ trì
Một chùa ở Giao Chỉ,
Là Chùa Dâu hiện nay.
Chính ông đã thành lập
Thiền Tông Việt ở đây.
Dòng Thiền Tông thứ nhất
Vậy là đã ra đời,
Hình thành và phát triển
Liên tục mười chín đời.
Đầu thế kỷ thứ chín,
Thiền sư Võ Ngôn Thông,
Cũng là người Trung Quốc,
Lập thêm một Thiền Tông.
Trung tâm tông phái ấy
Vốn là chùa Kiến Sơ
Trên đất xã Phù Đổng,
Huyện Gia Lâm bây giờ.
Dòng Thiền Tông kế tiếp,
Tức là dòng thứ ba,
Do một người Trung Quốc
Là Thảo Đường lập ra.
Thảo Đường vốn là tướng
Bị bắt ở Chăm-pa,
Được vua Trần giải cứu
Nhưng không về Trung Hoa,
Mà xin được ở lại
Để khất thực hàng ngày,
Rồi trụ trì, truyền đạo,
Chùa Trấn Quốc, Hồ Tây.
Năm Một Hai Chín Chín,
Đức vua Trần Nhân Tông,
Cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ,
Đã từ bỏ ngai rồng
Lên tu núi Yên Tử,
Và chỉ trong mấy năm
Tập hợp các Thiền Phái,
Lập Thiền Phái Trúc Lâm.
Thiền Phái Trúc Lâm ấy
Đánh dấu một mốc vàng
Trong Phật Giáo dân tộc,
Với vua là Phật Hoàng.
Ba - TỊNH ĐỘ TÔNG
Tịnh Độ Tông là phái
Thịnh hành ở nước ta,
Tu dựa trên tha lực
Của Phật A-di-đà.
Có một nơi tách biệt,
Xa thế giới con người,
Là Thế Giới Cực Lạc,
Bất tử và chói ngời.
Đây là chốn thanh tịnh,
Phong cảnh đẹp bốn mùa.
Mọi người tích đức phước
Bằng hành lễ nhà chùa.
Vì là nơi cực lạc,
Không ai phải khổ đau
Vì luân hồi, chuyển kiếp,
Hạnh phúc sống bên nhau.
Để đến được nơi ấy,
Đầy ánh sáng và hoa
Phật tử luôn tụng niệm
Nam Mô A-di-đà.
Bốn - ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
Đại Thừa, âm Hán - Việt
Là Ma Ha Diễn Na,
Bắt nguồn từ tiếng Phạn
Ma-ha-y-a-na.
Đại, ta biết, là lớn.
Thừa nghĩa là bánh xe.
Tức là Bánh Xe Lớn
Chở Đạo Phật đi về.
Tiểu Thừa, theo tiếng Phạn,
Hy-na-y-a-na,
Tức là Bánh Xe Nhỏ,
Truyền thừa đạo Thích ca.
Cả hai, Đại và Tiểu,
Đều có chung một nguồn
Từ người khởi xướng Đạo,
Là Phật, Đức Thế Tôn.
Sự khác nhau chủ yếu
Chỉ ở cách thực hành
Các giáo pháp Đạo Phật
Và ở cách xưng danh.
Nhật, Việt Nam, Trung Quốc
Thuộc về dòng Đại Thừa.
Miến Điện, Miên, Lào, Thái
Lại theo dòng Tiểu Thừa.
Chùa Đại Thừa mái ngói,
Luôn cổ kính, rêu phong.
Chùa Tiểu Thừa mái nhọn
Thường được mạ vàng ròng.
Áo vàng và khất thực
Chỉ là sư Tiểu thừa.
Áo nâu, không khất thực
Thường là sư Đại thừa.
Đáng tiếc, vẫn âm ỉ
Mối bất hòa từ xưa
Giữa hai phái Đạo Phật,
Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Cái tên Đại và Tiểu
Dễ hiểu lầm, mất lòng
Nên người ta còn gọi
Là Bắc Tông, Nam Tông.
Năm - QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát - là viết tắt
Phát âm sang tiếng ta,
Chữ Bồ Đề Tát Đóa.
Gốc - Bodhisatva.
Bồ Tát là những bậc
Trí huệ và từ bi,
Giúp chúng sinh giác ngộ,
Thoát vòng Tham Sân Si.
*
Quán Thế Âm Bồ Tát,
Avalokitesvara,
Một vị Đại Bồ Tát,
Chỉ sau Phật Thích Ca.
Quán thế âm, tiếng Hán,
Là thấu mọi âm thanh,
Để nghe, hiểu, an ủi
Và cứu độ chúng sinh.
Ở Việt Nam, Trung Quốc,
Cũng có thể do nhầm,
Ngài được gọi cách khác,
Ngắn gọn là Quan Âm.
Ngài là vị Bồ Tát
Của tấm lòng vị tha,
Với trăm tay nghìn mắt,
Ngự ở cõi Ta Bà.
Ngài linh hiển, xuất hiện
Dưới dạng một Phật Bà
Ở thế đứng, nhìn xuống,
Hoặc ngự trên đóa hoa.
Tay trái Ngài đôi lúc
Cầm lọ nước Cam Lồ
Để rót xuống cõi thế
Giúp loài người ấm no.
Sáu - MƯỜI HAI LỜI NGUYỆN CỦA
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
1
Quán Thế Âm Bồ Tát
Là ta, từ hôm nay,
Ta nguyện nghe, thấu hiểu
Cứu giúp cõi đời này.
2
Ta nguyện phát tâm thiện,
Có mặt ở Biển Đông,
Cứu giúp người đi biển
Trong bão táp, mưa dông.
3
Chúng sinh đang chìm đắm
Trong đau khổ triền miên.
Ta nguyện, nghe tiếng họ,
Sẽ hạ giới, ngồi bên.
4
Đời còn nhiều yêu quái,
Gây lắm trò nhiễu nhương.
Ta nguyện giác ngộ chúng,
Không làm hại dân thường.
5
Ta nguyện sẽ thấu hiểu
Để tưới nước Cam Lồ
Cho chúng sinh, vạn vật
Tươi mát và ấm no.
6
Ta nguyện không ngưng nghỉ
Phát Tâm Bồ Đề Thiền
Để thương yêu tất cả,
Không phân biệt sang hèn.
7
Dưới chín tầng địa ngục
Bị đầy đọa nhiều người.
Ta nguyện sẽ cứu họ
Sớm trở lại cõi đời.
8
Nhiều người bị giam giữ,
Tù gông, chết mỏi mòn.
Ta nguyện sẽ cứu họ,
Cả thể xác, tâm hồn.
9
Phép tu hành vất vả,
Thuyền Bát Nhã gian nan,
Ta nguyện giúp Phật Tử
Cập được bến Niết Bàn.
10
Ta nguyện đưa Phật Tử
Trong tiếng nhạc và hoa
Tới Tây Phương Cực Lạc
Của Phật A Di Đà.
11
Ta nguyện nhắc Phật Tử
Muốn đến được Tây Phương
Phải tinh tấn tụng niệm
Trong cuộc sống đời thường.
12
Mười hai lời Đại Nguyện
Được phát từ tâm ta.
Ta nguyện sẽ thực hiện
Ở cõi đời Ta Bà.
Bảy - ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Địa Tạng Vương Bồ Tát
Là vị Bồ Tát Vương
Được tôn thờ chủ yếu
Ở Phật Giáo Đông Phương.
Ngài, theo các Kinh Phật
Chính là Mục Kiền Liên,
Một “Thập Đại Đệ Tử”
Của Thích Ca Đại Thiền.
Ngài đã từng phát nguyện
Cứu độ các chúng sinh
Bị đày dưới Địa Ngục,
Còn gọi chốn U Minh.
Hơn thế, Ngài còn nguyện
Không đắc đạo một khi
Còn người bị đày đọa
Dưới Địa Ngục, âm ty.
Trong văn hóa Nhật Bản,
Bồ Tát Địa Tạng Vương
Còn là thần bảo trợ
Những đứa trẻ đáng thương
Bị đau ốm, bệnh tật,
Hoặc chết trong bào thai.
Tất cả trẻ, lớn nhỏ,
Bình an trong tay Ngài.
Ngài thường được miêu tả
Dưới dạng một nhà sư
Đầu trọc có vầng sáng,
Khuôn mặt đẹp, nhân từ.
Một tay cầm tích trượng
Để mở cửa cõi âm.
Tay kia - Ngọc Như Ý
Phát sáng, xua tối tăm.
Tám - SỰ TÍCH LỄ VU LAN
Theo truyền thuyết nhà Phật,
Bà mẹ Mục Kiền Liên
Là người không mộ đạo,
Báng bổ cả người hiền.
Bà không tin Đức Phật,
Không tin cả Pháp, Tăng.
Tam Bảo và Ngũ Giới,
Bà cho là nhố nhăng.
Nên bà, sau khi chết,
Vì tội lỗi của mình,
Bị đày xuống địa ngục,
Chịu bao nỗi cực hình.
Về sau thành La Hán,
Tôn giả Mục Kiền Liên,
Đạt lục thông, ngũ nhãn,
Nhìn thấu hết mọi miền.
Ông thấy mẹ đang đói
Dưới địa ngục âm u,
Bát cơm ăn chẳng có,
Bị đói khát, cầm tù.
Ngay lập tức tôn giả
Liền mở phép thần thông,
Lần xuống đáy địa ngục,
Đưa cơm cho mẹ ông.
Bà này khi còn sống
Từng tranh ăn với con,
Bây giờ xuống địa ngục
Thói xấu ấy vẫn còn.
Bà vội lấy vạt áo
Che bát cơm to đầy,
Định lẻn đi ăn mảnh
Một mình sau gốc cây.
Nhưng vừa đưa lên miệng,
Bát cơm ấy, than ôi
Đã biến thành cục lửa,
Cháy hết răng và môi.
Vốn là người hiếu thảo,
Lại đệ nhất thần thông,
Mà tôn giả bất lực,
Không giúp được mẹ ông.
Ông quay về Tịnh Xá
Tìm gặp Phật Thích Ca,
Nhờ Ngài chỉ giùm cách
Cứu giúp bà mẹ già.
Đức Phật nghe rồi đáp:
“Mẹ ngươi quá lỗi lầm,
Nên ngươi không thể cứu.
Chờ tháng Bảy, ngày Rằm,
Ngày chư Phật hoan hỷ,
Hãy làm lễ Vu Lan.
Mời chư tăng đến dự,
Mâm cỗ phải đầy bàn.
Trước hết cúng Tam Bảo,
Rồi sau mời mọi người.
Họ ăn xong, hy vọng
Sẽ cứu được mẹ ngươi.”
Ngay lập tức tôn giả
Đúng theo lời Thích Ca,
Làm lễ Vu Lan lớn,
Cứu được người mẹ già.
Và mọi người từ đấy,
Vào ngày này hàng năm,
Tổ chức lễ xá tội
Cho tổ tiên lỗi lầm.
Về sau, chính tôn giả
Đã tự nguyện thành người
Trông coi chuyện âm phủ
Đầy oan trái sự đời.
Khi làm lễ xá tội
Cho tổ tiên lầm đường,
Người ta cúng tôn giả
Và Bồ Tát Địa Vương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét