NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
(1830 - 1871)
Ông là người theo Đạo.
Quê Nghệ An, Xã Đoài.
Bố học nhiều, biết rộng,
Một thầy thuốc có tài.
Ông học bố từ bé.
Vốn thông minh hơn người,
Nên rất giỏi chữ Hán.
Từng vang bóng một thời.
Là vì theo Công Giáo,
Ông không được đi thi.
Người đời gọi Trạng Tộ,
Dẫu không bằng cấp gì.
Năm ông hăm bảy tuổi,
Giám mục Gauthier
Mời vào tòa giám mục
Trong nhà thờ gần quê.
Ông dạy Cha chữ Hán.
Cha dạy ông tiếng Tây.
Chẳng bao lâu sau đó
Thông thạo thứ tiếng này.
Ngoài tiếng, Cha còn dạy
Cả văn minh, thơ ca.
Cả kiến thức khoa học,
Xa lạ với nước ta.
Năm Một Tám Năm Tám,
Giám mục Gauthier
Đưa ông sang Pháp học.
Ba năm sau mới về.
Trong thời gian ở Pháp,
Ông có đến Roma,
Cùng giám mục yết kiến
Đức Giáo Hoàng cao xa.
Về nước, đúng vào lúc
Pháp xâm chiếm Nam Kỳ.
Ông thành người thông dịch,
Dẫu không thích thú gì.
Vì vậy, xin giám mục
Cho phép được về quê.
Giúp dân chúng canh tác
Và đào Kênh Nhà Lê.
Sau đó ông thiết kế
Và chỉ đạo việc xây
Một công trình kiến trúc
Tồn tại đến này nay.
Đó là tòa Tu Viện
Của Dòng Thánh Phao-lồ.
Số Bốn Tôn Đức Thắng,
Quận Bến Nghé bây giờ.
Suốt đời ông tâm nguyện
Phụng sự nước và dân.
Thông qua những đề nghị
Về chấn hưng, canh tân.
Gần sáu chục văn bản
Ông gửi lên triều đình.
Khẩn cấp và thiết thực.
Chí nghĩa và chí tình.
Tiếc là triều Nhà Nguyễn
Đã không nghe lời ông,
Để đất nước lạc hậu.
Ngẫm mà thấy dau lòng.
Năm Một Tám Bảy Một,
Ông lặng lẽ qua đời.
Thọ chỉ bốn mốt tuổi.
Uổng phí một cuộc đời.
PHAN CHU TRINH
(1872 - 1926)
Là chí sĩ yêu nước,
Học rộng, tầm nhìn xa,
Suốt đời ông trăn trở
Với vận mệnh nước nhà.
Ông học hỏi cái mới
Từ Phương Tây văn minh.
Học Nhật Bản mở của
Để đổi mới chính mình.
Ông tìm đường cứu nước.
Hình như đã tìm ra.
Tiếc, không ai thực hiện.
Ừ tiếc cho nước nhà.
*
Vào năm hăm tám tuổi
Ông thi đỗ cử nhân.
Năm sau, đỗ phó bảng
Tiếng vang nức xa gần.
Sau đó, triều Nhà Nguyễn
Cho ông một chức quan,
Là Thừa Biện, Bộ Lễ.
Chức quan nhỏ và nhàn.
Hai năm sau, chán nản,
Ông từ quan về quê.
Đọc sách và suy ngẫm
Và kết giao bạn bè.
Ông vào Nam, ra Bắc,
Gặp gỡ rất nhiều người.
Cùng lý tưởng, chí hướng,
Để cứu mình, giúp đời.
Năm Một Chín Không Sáu
Ông trốn sang Quảng Châu
Gặp được người bạn lớn
Là Cụ Phan Bội Châu.
Rồi hai Cụ sau đó
Sang Nhật Bản, ở đây
Họ nghiên cứu, học hỏi
Cải cách của nước này.
Năm Một Chín Không Tám
Ông tham gia phong trào
Chống sưu thuế, bị bắt
Và tống vào nhà lao.
Năm Một Chín Một Một,
Ông được tha, một phần
Nhờ Hội Nhân Quyền Pháp
Và phản ứng của dân.
Ông lên tàu sang Pháp,
Vất vả một chuyến đi.
Viết Đông Dương Chính Trị
Và Dân Biến Trung Kỳ.
Ông lên án mạnh mẽ
Chuyện sưu thuế nhiễu nhương
Và chính sách cai trị
Của Pháp ở Đông Dương.
Cùng bốn nhân sĩ khác,
Năm Một Chín Hai Mươi,
Ông thành lập tại Pháp
Nhóm Ngũ Long, năm người.
Ba năm sau, về nước
Chí sĩ Phan Chu Trinh
Được đồng bào quốc nội
Chào đón rất nhiệt tình.
Ông viết thư, khẩn thiết
Gửi Toàn Quyền, yêu cầu
Hủy bản án quá nặng
Cho Cụ Phan Bội Châu.
Tháng Mười Một năm ấy,
Liên tiếp trong mấy ngày
Ông đăng đàn diễn thuyết
Về Luân Lý Đông Tây.
Về Chủ Nghĩa Quân Trị
Và Dân Chủ Cộng Hòa
Tại Sài Gòn - Chợ Lớn.
Nức lòng người gần xa.
Tháng Ba, năm Hai Sáu,
Ông lâm bệnh, từ trần.
Để lại niềm thương tiếc
Sâu sắc trong lòng dân.
*
Ông là nhà cách mạng
Nhưng chủ trương ôn hòa.
Tạm thời chưa lật Pháp
Để độc lập quốc gia.
Mà phải, KHAI DÂN TRÍ.
Bỏ phong kiến hủ Nho.
Mở trường dạy Quốc Ngữ,
Dân chủ và tự do.
Rồi đến CHẤN DÂN KHÍ.
Để tự lực, tự thân.
Qua văn minh, văn hóa,
Giác ngộ cho người dân.
Tiếp nữa, về kinh tế,
Đó là HẬU DÂN SINH.
Khai hoang rồi lập hội,
Lo sản xuất, mưu sinh.
Đó là những chính sách
Ít nhiều giống Duy Tân
Ở xứ sở Nhật Bản.
Khả thi và thực cần.
Ông phản đối bạo động.
Chống xu hướng cải lương.
Quan trọng là Dân Trí,
Dân Khí và Tự Cường.
Nhờ Duy Tân, nước Nhật
Mới được như ngày nay.
Những chủ trương của Cụ,
Dẫu đúng đắn, tiếc thay,
Không trở thành hiện thực,
Làm ta, kẻ hậu sinh,
Chỉ biết tiếc, có lỗi
Trước Cụ Phan Chu Trinh.
PHAN BỘI CHÂU
(1867 - 1940)
Phan Bội Châu ngày bé
Gọi là Phan Văn San,
Cha là Phan Văn Phố.
Mẹ là Nguyễn Thị Nhàn.
Ông là người Xứ Nghệ.
Làng Đan Nhiễm, Nam Hòa,
Huyện Nam Đàn, nổi tiếng
Đất của nhiều Nho gia.
Khi mới lên sáu tuổi,
Sáng dạ và thông minh.
Trong ba ngày đọc thuộc
Hết cuốn Tam Tự Kinh.
Bảy tuổi, ông đọc hiểu,
Thậm chí thuộc nhiều chương,
Luận Ngữ của Khổng Tử.
Quả đúng là phi thường.
Mười ba tuổi, thi huyện,
Ông đỗ đầu, đỗ ngay.
Mười bảy tuổi đã viết
Hịch Thu Bắc Bình Tây.
Ông viết và dán nó
Lên cổng làng, gốc si
Để ủng hộ khởi nghĩa
Chống Pháp ở Bắc Kỳ.
Mười chín tuổi, thành lập,
Cùng bạn Trần Văn Lương,
Đội nghĩa quân chống Pháp,
Gọi là Đội Cần Vương.
Đến lúc ông thi Hội,
Thì phạm tội “tày trời”,
Là “hoài hiệp văn tự”,
Tức giấu bài trong người.
Vì thế ông bị phạt
“Chung thân bất ứng thi”.
Tức suốt đời bị cấm
Không được vào trường thi.
Năm Một Tám Chín Sáu
Ông bỏ vào Phú Xuân,
Nay là thành phố Huế,
Để dạy học kiếm ăn.
Nghe tiếng ông học giỏi,
Các quan lớn tức thì
Tâu, xin vua Thành Thái
Tha ông tội cấm thi.
Ngay mùa thi năm ấy
Ông thi đậu Giải Nguyên.
Bài xuất sắc, vượt trội.
Tiếng tăm càng lưu truyền.
Trong năm năm sau đó
Ông ngược xuôi khắp nơi
Tìm người cùng chí hướng
Và tìm được nhiều người.
Đó là Huỳnh Thúc kháng,
Nguyễn Hàm, Nguyễn Thượng Hiền,
Lê Huân, Ngô Đức Kế,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền...
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để,
Thuộc dòng dõi đế vương,
Được ông chọn lãnh đạo
Phong Trào mới, Cần Vương.
Năm Một Chín Không Bốn,
Sau trì hoãn nhiều lần,
Cùng hai mươi người khác,
Ông lập Hội Duy Tân.
Rồi cùng Tăng Bạt Hổ,
Ông đi Nhật, đi Tàu
Xin hỗ trợ tài chính
Cho Hội, buổi ban đầu.
Ở Tàu, ông đã gặp
Lãnh tụ Lương Khải Siêu.
Ông này tiếp trọng thị
Và gợi ý nhiều điều.
Trong đó có cả việc
Dùng văn hóa, thơ văn
Để thức tỉnh ý thức
Và nghĩa vụ người dân.
Ông nghe theo, đã viết
Cuốn Huyết Lệ Tân Thư,
Việt Nam Vong Quốc Sử
Và cuốn Ngục Trung Thư...
Những cuốn sách khích lệ
Nhiều thanh niên nước ta.
Đúng lúc Nhật đại thắng
Trong chiến tranh với Nga.
Nhiều người trẻ yêu nước
Nghe theo lời của ông
Sang nước Nhật học hỏi,
Mỗi ngày một thêm đông.
Phong trào ấy được gọi
Là Đông Du - thanh niên
Học để về chống Pháp,
Đưa đất nước tiến lên.
Ngày Ba Mươi tháng Sáu
Năm Một Chín Hai Lăm
Ông bị Pháp bắt cóc,
Di lý về Việt Nam.
Tòa đại hình tuyên phạt
Án khổ sai chung thân.
Nhưng trước sự phản đối
Mạnh mẽ của nhân dân,
Cuối cùng án được dổi
Thành quản thúc tại gia.
Thi hành án ở Huế
Cho đến lúc về già.
Từ Một Chín Hai Sáu
Đến Một Chín Bốn Mươi
Ông sống ở Bến Ngự,
Rồi lặng lẽ qua đời.