BA LẦN CHIẾN THẮNG GIẶC NGUYÊN MÔNG
Nước du mục Mông Cổ,
Đầu thế kỷ Mười Ba
Thành một đế quốc mạnh,
Diện tích rộng bao la.
Với quân đội hùng mạnh
Và thiện chiến, nước này
Xâm lược các nước khác
Khắp từ Đông sang Tây,
Gồm châu Âu, Tây Á,
Rồi như cơn cuồng phong,
Chúng đánh nhà Tây Hạ,
Xuống phía Nam, phía Đông.
Giặc Mông Cổ hiếu chiến.
Hễ chúng đi đến đâu
Là gieo rắc tàn phá,
Chết chóc và buồn đau.
Năm Một Hai Năm Bảy
Vua Mông Cổ liền sai
Một dũng tướng tài giỏi
Là Ngột Lương Hợp Thai
Đem ba vạn binh sĩ
Quyết tâm chiếm nước ta,
Tạo gọng kìm xâm lược
Nước Nam
Tống Trung Hoa.
Để đạt mục đích ấy,
Thì việc làm đầu tiên
Là phải thắng Đại Việt
Để từ dưới đánh lên.
Tướng giặc cậy thế mạnh,
Trước khi cho xuất quân,
Sai sứ mang thư dọa
Và dụ hàng vua Trần.
Các vua Trần từ chối,
Còn nhốt sứ trong nhà.
Năm Một Hai Năm Tám,
Chúng đem quân đánh ta.
Hơn ba vạn binh sĩ,
Từ Vân Nam
tràn sang.
Chúng làm cỏ mọi thứ,
Đồng ruộng và xóm làng.
Theo sông Thao, đường thủy,
Chúng đánh xuống Việt Trì.
Đến Vĩnh Phúc, quân giặc
Bị ta cản đường đi.
Hai vua của Đại Việt
Là Thái Tông, Thánh Tông
Dẫn quân ra nghênh chiến,
Nhưng do địch quá đông,
Trận ấy ở Vĩnh Phúc,
Quân Đại Việt thua to,
Thua cả trận Phù Lỗ
Ở bên sông Cà Lồ.
Các vua Trần quyết định
Rút khỏi thành Thăng Long,
Làm “nhà không vườn trống”,
Gây khó cho quân Mông.
Nhưng mười ngày sau đó,
Hai vua Trần cùng nhau
Đánh bại quân Mông Cổ
Trong trận Đông Bộ Đầu,
Giờ thuộc đất Hà Nội,
Quận Ba Đình ngày nay.
Năm Một Hai năm Tám,
Giặc rút, hướng Bắc - Tây.
Chỉ trong vòng nửa tháng
Cuộc chiến tranh xẩy ra
Và nhanh chóng kết thúc,
Phần thắng thuộc về ta.
*
Hăm bảy năm sau đó,
Tức Một Hai Tám Năm
Quân Nguyên Mông lần nữa
Đánh ta từ phía Nam.
Năm mươi vạn phía Bắc,
Mười vạn phía Chiêm Thành,
Chúng đưa quân ồ ạt,
Hòng đánh nhanh, thắng nhanh.
Biết trước dã tâm giặc,
Năm Một Hai Tám Hai,
Tức là ba năm trước,
Vua và các tướng tài
Gặp nhau ở Hội nghị
Có tên là Bình Than
Để bàn mưu giữ nước,
Chống bọn giặc hung tàn.
Hai năm sau, sứ Việt
Do Trần Phủ cầm đầu
Sang, tìm kế hoãn chiến,
Nhưng chẳng đi đến đâu.
Biết không thể hòa hoãn,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông
Bèn cho mở Hội nghị
Ở cung điện Diên Hồng.
Khách mời dự Hội nghị
Là các bậc cao niên
Gồm già làng, trưởng lão
Đến từ khắp mọi miền.
Vua mở yến chiêu đãi,
Rồi nói họa Nguyên Mông,
Xin các cụ cho biết:
Ta nên đánh hay không?
Vốn quanh năm chân đất,
Nay được vào hoàng cung,
Được vua ân cần tiếp,
Các cụ vui vô cùng.
Rồi trăm người như một,
Hô to cùng đức vua:
“Đánh! Sát thát! Sát thát!
Đánh đến khi giặc thua!”
Sau Hội nghị, các cụ
Về làng bản của mình
Khích lệ các con cháu
Cùng tham gia việc binh.
Hội nghị Diên Hồng ấy
Thể hiện được lòng dân,
Thề quyết tâm giữ nước
Cùng các vị vua Trần.
Vua Trần có thể quyết
Chủ chiến hay chủ hòa,
Nhưng tôn trọng dân chúng
Hỏi đại sự quốc gia.
Quân và dân như một,
Nhờ thế đã đồng lòng,
Ý chí cả dân tộc
Thắng được họa Nguyên Mông.
Một tấm gương trị nước
Giá trị đến ngày nay.
Muốn bảo vệ Tổ quốc,
Phải nhớ bài học này.
*
Như lần xâm lược trước,
Lần này quân Nguyên Mông
Thắng trận ở Vạn Kiếp,
Lạng Sơn và sông Hồng.
Sau khi vượt biên giới,
Chưa đầy hai mươi ngày,
Thăng Long bị chúng chiếm.
Tình thế quả rất gay.
Các vua Trần tạm rút
Về Nam
Định, Ninh Bình,
Rồi sau theo đường biển,
Lên chốt vùng Quảng Ninh.
Ở phía Nam, quân giặc
Đánh ra từ Chiêm Thành,
Liên tiếp giành thắng lợi
Ở xứ Nghệ, xứ Thanh.
Đây cũng là vùng đất
Mà vua tôi nhà Trần
Đã rút về chốt giữ,
Đợi thời và yên dân.
Cũng giống như lần trước,
Quân Nguyên gặp khó khăn,
Vì “tiêu thổ kháng chiến”,
Người và ngựa thiếu ăn.
Tinh thần binh sĩ xuống,
Chỉ huy thì nản lòng.
Từ Thanh Hóa lúc ấy
Quân Đại Việt phản công,
Liên tiếp giành thắng lợi
Ở Hàm Tử, Chương Dương.
Thành Thăng Long giải phóng,
Chặn hết các ngả đường.
Quân Nguyên Mông tháo chạy.
Bị chặn ở sông Cầu.
Cánh phía Nam
bị diệt
Ở Tây Kết, Khoái Châu.
Thế là một lần nữa,
Giặc Nguyên Mông lại thua.
Nhưng như cha ông nói:
“Đánh chết, nết không chừa”.
*
Quân Nguyên Mông đại bại,
Lo quân lương, chiến xa,
Đóng thêm nhiều tàu chiến,
Đánh Đại Việt lần ba.
Chúng chia làm ba cánh,
Từ Vân Nam,
Quảng Tây
Và Quảng Đông - đường biển -
Hành quân gấp đêm ngày.
Đó là năm Tám Bảy,
Cuộc chiến cũng không lâu,
Từ tháng Chạp năm ấy
Đến tháng Tư năm sau.
Quân giặc năm mươi vạn,
Quân Trần chỉ hai mươi,
Nhưng ta hơn “địa lợi”
Và hơn cả “nhân thời”.
Lại giống hai lần trước,
Chúng chiếm được Thăng Long,
Nhưng thiếu lương, quân đói,
Binh lính lại nản lòng.
Hơn thế, vì bão biển,
Vì thuyền đi lạc đường,
Trần Khánh Dư lại đánh,
Nên mất hết quân lương.
Quân ta do thế yếu,
Về chốt ở Hải Phòng,
Thường tập kích Vạn Kiếp,
Đánh quân thủy trên sông.
Bị đói, bị chia cắt,
Giặc rút khỏi Thăng Long,
Co cụm ở Vạn Kiếp.
Quân Trần chưa tấn công,
Chúng đã chủ động rút,
Đi qua ngả Cao Bằng.
Còn toàn bộ quân thủy
Bỏ mạng trận Bạch Đằng.
Quân giặc lại thất bại,
Cả ba lần, vua Nguyên,
Thế tổ Hốt Tất Liệt,
Vẫn còn chưa chịu yên.
Hắn muốn đánh Đại Việt,
Chờ thời, chờ binh tình.
Có lần đã xuất phát,
Tướng chết mà hoãn binh
Năm Một Hai Chín Bốn,
Định xuất quân, bất ngờ
Hốt Tất Liệt ốm chết,
Mang mộng ấy xuống mồ.
Một trang sử chói lọi.
Ba lần thắng Nguyên Mông,
Một đế quốc tự mãn
Luôn thắng Tây, thắng Đông.
Đây là thắng lợi lớn
Của binh sĩ, nhân dân,
Của đức Trần Hưng Đạo
Và của các vua Trần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét